1. Kim Âu

  2. Mapquest

  3. Thời Thế

  4. Chính Nghĩa Là Của Chúng Ta

  5. Nợ Núi Sông

  6. Ta Về Giữa Độ Tàn Thu

  7. Nửa Đêm Nghe Hồn Sử Gọi

  8. Tiếng Nói Công Lư

  9. Vietnamese Commandos

  10. History of Viet Commandos

  11. Compensation Commission

  12. President Unit Citation

  13. Son Tay Raid

  14. Gian Đảng Phở Ḅ

  15. Băng Đảng Việt Tân

  16. Thiên Cổ Tội Nhân

  17. Vàng Rơi Không Tiếc

  18. Câu Chuyện Về Một Đứa Trẻ

  19. Chiến Khu Ma

  20. Đỗ Hùng

  21. Đỗ Văn Phúc

  22. Đinh Lâm Thanh

  23. Nguyễn Mạnh Trinh

  24. Phùng Ngọc Sa

  25. Nguyễn văn Chức

  26. Nam Nhân

  27. Hoàng Đạo Thế Kiệt

  28. Nguyễn Đạt Thịnh

  29. Phạm Thanh Phương

  30. Trương Minh Ḥa

  31. Tân Dân

  32. Trần Thanh

  33. Hoàng Duy Hùng

  34. Dương Như Nguyện

  35. Đinh Thạch Bích

  36. Hoàng Hải Thủy

  37. Trần Kiêm Đoàn

  38. Đỗ Hoàng Gia

  39. Trúc Đông Quân

  40. Nguyễn Mạnh Quang

  41. Nửa Ngày Lao Tù

  42. Đọc "Tôi Phải Sống"

  43. Kiêm Ái

  44. Lăo Móc

  45. Trần Xuân Ninh, Houston

  46. Nguyễn Đ́nh Sài Tố Cáo

  47. Hồng Y Sepe

  48. Liên  Minh Thần Thánh

  49. Quan Niệm Chính Thống

  50. Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn

  51. Khái Niệm Về Số Trong Dịch

  52. Con Người Vô Dụng

  53. State of Denial

 

 

 

TẠP GHI VĂN NGHỆ

Khi thi ca thành tôn giáo:

Phạm Công Thiện.

 

 

 

 

Nguyễn Mạnh Trinh.

 

 

 

 

 

Phạm Công thiện , ông là ai? Có nhiều người đă hỏi như thế. Triết gia?Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời?

Vào những năm thập niên 60 ở Sài g̣n, Phạm Công Thiện xuất hiện như một hiện tượng. Sách vở của ông đă được đón đọc nồng nhiệt và trong giới sinh viên học sinh đọc sách của ông là một thời thượng. Họ thích nói về “ Ư thức mới trong văn nghệ & triết học” . Họ tán thưởng “ Ngày sinh của rắn” . Có người thú nhận thích đọc ông dù chẳng hiểu bao nhiêu . Và trong cái gọi là “họ” ấy có tôi. Một cậu sinh viên mê sách vở và tràn ứ mơ mộng lăng mạn.

Lúc đó, tôi đă nghĩ Phạm Công Thiện là một người viết phê b́nh như viết tùy bút và viết tùy bút như viết bằng thơ. Tóm lại, với tôi, ông là một thi sĩ dù ông làm thơ không nhiều lắm.

Đọc lại những bài viết về những nhà thơ của ông , tôi thấy điều đó tới bây giờ vẫn c̣n chính xác. Oạng viết về thơ với cả tâm hồn ḿnh.và với những thi sĩ, ông cũng đồng cảm trong cái chia sẻ không cùng của những sợi đàn rung cộng hưởng v́ chung tần số.

Tôi đọc thử một đoạn viết về Cung Trầm Tưởng để dẫn tới thơ t́nh yêu của Appollinaire . Những trang sách cũ đă ố vàng của “Ư thức mới trong văn nghệ và triết học”.

“ .. Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung Trầm Tưởng là ai mà làm thơ tài hoa vậy. Tôi mơ màng. Tôi h́nh dung những chiếc lá rơi. Tôi nh́n thấy ḍng sông Seine lững lờ trôi chảy. Kia là tả ngạn River Gauche. Kia là đường phố Aumont- Thieville và L’ Avenue des Ternesà Kia là những quán cà phê và những kẻ tứ chiếng giang hồ.. Kia là cầu Mirabeauà Kia là mùa thu mưa rơi, kia là Pont Neuf. Ôi. Oparis. Souvenir. Souvenir.Remember to remember.

Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire. Ừ, chỉ có Appollinaire mới có những ḍng thơ bất tuyệt để làm sống lại Paris. Nói đến Paris là nói đến Kỷ Niệm, là nói đến Nghệ sĩ, là nói đến t́nh yêu và tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ chiếng giang hồ, của những clochards, của những femmes de joie, của những Henry Miller, những Hemingway, những Gertrude Stein, những Picasso , những Appollinaire.

Mùa thu nơi đâu

Người em mắt nâu

Tóc vàng sợi nhỏ

Mong em chín đỏ trái sầu.

Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire:

‘J’ai cueilli ce brin de bruyère

L’Automne est morte souviens t’en

Nous ne nons verrons plus sur terre

Ordeur du temps brin de bruyère

Et souviens-toique fe attends..

Cũng vào mùa thu, Cung Trầm Tưởng ngóng chờ người yêu” kiên khổ phút giờ” và “chín đỏ trái sầu” ngóng chờ mong đợi như Appollinaire đă ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi lá cỏ

Ordeur du temps brin de bruyère

Et souviens-toi que je attends

Trời đă tối hẳn rồi.Tôi bước vào giường nằm ngủ, mắt nhắm lại, những ḍng thơ của Hàn, của Cung, của Appollinaire chan ḥa thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên..

Viết về thơ, theo như Phạm Công Thiện không phải là phê b́nh xếp loại mà phải là ca tung khen ngợi thơ. Ông khẳng định” Nói đến Thơ không khác ǵ nói đến Thượng Đế. Phê b́nh Thơ là làm việc phạm thánh là blasphème.

Những thi sĩ không phải là loài người họ là những Thiên Thần, những thánh hoặc những quỉ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được th́ ta phải im lặng; c̣n nếu chấp nhận họ th́ ta phải ca tụng cho hết lời. Ta không được quyền có thái độ của học giả hoặc giáo sư hoặc nhà phê b́nh. Phải giết hết những nhà phê b́nh để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xanh.

Anh không thể cảm thơ của người ta th́ anh hăy im lặng; c̣n nếu cảm được th́ anh hăy thiết tha ca ngợi, đừng e dè giữ ǵn ǵ cả. Không nên có những nhà phê b́nh thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai cả. Phê b́nh văn nghệ ư? Buồn lắm”

Thi sĩ ca tụng thi sĩ? Đúng quá rồi. Và trong cái bí nhiệm như của một tôn giáo, thi ca đă làm cho chúng ta luôn luôn mơ mộng và suy tư.

Như khi nh́n những con sông cạn cợt của quận Cam.

Không hiểu sao mỗi lần lái xe đi ngang qua những con sông cạn ở thành phố Westminster hay Santa Ana tôi lại thấy bồi hồi. Có một liên tưởng nào từ ḷng sông tráng xi măng ở giữa chơ vơ một ḍng nước chảy nhỏ nhoi cạn cợt. Cái cảm giác của thiên nhiên bị khuất phục ấy của một ḍng nước mùa nắng nhắc tôi tới nguồn nước ào ào sục sôi sau những cơn mưa. Một thi sĩ đă viết :

“ Ừ , ta bây giờ như sông cạn

Nước vũng làm sao thành biển khơi

Chí lớn dưng không thành chuyện văn

Mỉm cười c̣n mất chuyện muôn đờià”

Có hay không, cái tượng h́nh của Dịch Kinh, hà trung vô thủy ? Sông mà không có nước, có phải là sông không? Hay chỉ là gợi ư tới những đi mà không đến. Một câu thơ của Seamus Heaney, thi sĩ giải Nobel văn chương năm 1995 trong thi tập The Haw Lantern , chỉ có hai câu :

“ The riverbed, dried up, half full of leaves.

Us, listening to a river in the trees.

(Ḷng sông, cạn khô, một nửa phủ đầy những chiếc lá

Cho chúng ta, đang lắng nghe một ḍng sông chảy trong cây)

Thi sĩ Phạm Công Thiện đă viết như sau về h́nh ảnh sông cạn rất thơ mộng này mà chúng ta nhiều khi ít quan tâm khi ngang qua trong nhịp đời hối hả mỗi ngày :

“Tiếng nói của thơ là ḍng nước tuôn chảy bất tận, dù ḷng sông có cạn khô chăng nữa th́ hồn sông vẫn chảy măi trên cao. Sông đang chảy trên cây và trong cây lá, và sự lắng nghe ở đây đă nhập lưu (sơ ư văn trung/nhập lưu vong sở) , không phải chúng ta lắng nghe ḍng sông mà chính ḍng sông đă chảy vào trong thi nhân, ḷng sông khô cạn ở dưới đă nhập vào con sông chảy trên cây;ḷng sông khô cạn nửa đầy những chiếc lá thả hồn rào rạt với sông lá trên cao( Hồ Dzếnh:” có một ngh́n cây rũ rượi buồn/ Một ngh́n sông rét vạn hoàng hôn. Vũ hoàng Chương “ Đáy sông bừng dựng Lầu Thơ? Giấc mơ Hồ Điệp chẳng mơ cũng thành” Tại sao phải làm thơ ? Tại sao phải lắng nghe một lần như chưa từng biết nghe trọn đời? Tại sao phải nh́n thấy được một lần duy nhất như chưa từng biết thấy bao giờ ? Thi nhân đă một lần nh́n thấy; c̣n chúng ta th́ hăy lắng nghe một ḍng sông chảy bất tận trong rặng cây rào rạt chiều hôm nay“

Phạm công Thiện khi viết về kỷ niệm với nhà văn Vơ Hồng, trong tập thơ Ngày Sinh Của Rắn có hai câu thơ, tả cảnh mà tả t́nh, đẹp một cách đơn giản như phong vị của những câu Hai-Ku:

“ Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn

Cây khế đồi cao trổ hết bông”

Và, h́nh như từ hai câu thơ này, Vơ Hồng đă viết truyện ngắn” Hoa khế lưng đồi” như một cách thế đáp tạ người tri kỷ.

Trong một lá thư gửi cho tác giả “ Hoài Cố Nhân”, thiền sư thi sĩ họ Phạm viết:

..” Anh V.H. ạ , anh có cần ǵ phải thuyết giảng philo? Tất cả những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.

Và một Triệu trang giấy Triết Học cũng không đáng giá bằng một tiếng đập của con tim. Anh có nghe rơ chưa? Tôi muốn hét to lên như vậy.

Anh có nghe tim con người đập trong những trang “Xuất hành năm mới”, trong “ Trận đ̣n ḥa giải”? “ Xuất hành năm mới” c̣n cảm động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất!Những đứa nhỏ Hằng, Hào , và Thủy trong “ Xuất hành năm mới” và “ Trận đ̣n ḥa giải” là những h́nh ảnh đau thương nhất trên đời, là những h́nh ảnh tượng trưng cho tất cả những đứa trẻ ở trần gian này”.

Phạm Công Thiện tâm sự như thế , dù trong ngôn ngữ của ông có một chút ǵ hơi phấn khích nhưng cũng khá thành thật.

Phạm Công Thiện là một khuôn dáng văn chương rất có ảnh hưởng với những lớp sinh viên học sinh ở miền Nam của thập niên 70, 80. Thời gian ấy, những cuốn sách như “Ư Thức Mới trong Văn Nghệ và Triết Học”, “ Hố Thẳm của Tư Tưởng “, “ Ngày Sanh của Rắn “ là những cuốn sách cầm tay của giới trẻ. Từ tác phẩm của ông, mở ra nhiều những cánh cửa. Trước hết , ông là một người sáng tạo nhiều suy tư về cái Mới , về những ngă đường có thể khá lạ lùng đến khi kỳ dị nhưng hấp dẫn. Văn học sẽ phải có những thay đổi , nhất là trong hoàn cảnh một đất nước chiến tranh như Việt nam. Ngay cả khi làm thơ, thi sĩ như người của hành tinh lạ lạc đến , với ngôn từ khá lạ lùng như đoạn VI của tập “ Ngày Sanh của Rắn”

“ tôi chấp chới

đắng giọng

giữa tháng ngày mơ mộng

nốt ruồi của hương

hay nốt ruồi của rigvéda

tôi mửa máu đen

trên nửa đêm paris

tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng

tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người

cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ

mặt trời có thai!

Mặt trời có thai!

Sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt “

Nếu bảo giải thích từng câu từng chữ th́ có lẽ chính cả tác giả cũng lúng túng. Thơ là những h́nh ảnh rải rác, thoạt tưởng không liên quan với nhau nhưng trong tŕnh tự cảm nhận lại có một ư nghỉa nào len vào bất chợt những liên tưởng . Có người cho rằng những từ ngữ như thủ dâm thương đế, giao cấu mặt trời, mặt trời có thai,,, tạo ra cảm giác tức th́ với h́nh tượng có hơi dung tục ấy. Đó là một cảm nhận . Nhưng, ngay ở thời điểm bây giờ, đọc lại câu thơ, chúng ta vẫn có thể bắt gặp được nét khai phá một cách rơ ràng. Thơ là một cái ǵ, khác thường lắm, có lúc rất gần cận cuộc sống mà có lúc lại xa ngh́n trùng.

Tôi nhớ có lần nhà thơ Phạm Công Thiện nói chuyện với tôi về kinh nghiệm đọc thơ của ông. Lúc ấy, đêm đă khuya và ông có ngôn ngữ của một Lưu Linh đang trong cơn đồng thiếp. Ông đọc thơ Pháp , thơ Anh , thơ La tinh , thơ Việt Nam tiền chiến và hiện đại.Đọc xong rồi b́nh, h́nh như văn chương đă lôi ông vào một cơn mộng.

Nói về kinh nghiệm để có thể tiếp cận với thơ ông đọc một bài thơ thật nhiều lần và sau mỗi lần đọc như thế đều t́m ra những cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy bắt nguồn từ giây phút rất thiêng liêng để con người bắt gặp được những sáng ngời lộng lẫy . Sự kiện ấy James Joyce đă gọi là “ a sudden spiritual manifestation” ( biểu hiện tâm linh bất ngờ) hay “ epiphany”( sự linh hiện ). Tương tự , như Xuân Diệu : “ phất phơ hồn của bông hường/trong hơi phiêu bạc c̣n vương máu hồng/ nghe chừng gió thoáng qua song.. “ đó , chính là hồn của thơ, của những giây phút linh hiện mà chỉ có những người tài tử cảm nhận được.

Ở Phạm công Thiện,cái chất thơ đă thành nét đặc thù tinh tế cho văn chương ông. Viết khảo luận, ông mang cái kiến thức rộng lớn tích tụ từ sách vở cùng với hồn thơ để thành những bước đi lăng mạn vượt qua những khô khan câu thúc. Là một triết gia, cái nhận thức để thành những trang giấy cũng có chút thi ca bồng bềnh vào để thành một triết gia thi sĩ. Cái chất lăng tử trong văn chương là một nét thấy rơ. Phạm Công Thiện viết :

“tất cả đời sống văn xuôi tẻ nhạt, những công thức, những danh vọng, những khuôn ṃn lối cũ, những địa vị xă hội, những mẫu mực khuôn xếp đă thụt lùi ra đằng sau, chỉ c̣n lại nước chảy của ḍng sông và mây chiều của đại dương: mây ở trên cao trôi dưới ḍng nước rong rêu của khe biển nhỏ.Thi nhân từ bỏ tất cả lại đằng sau lưng và bước tới trước băng qua cây cầu gỗ mong manh”

Viết về thơ Seamus Heaney, nhưng trong ḍng chữ có cảm khái riêng của một người mà thi ca đă thành máu xương da thịt cho đời sống. Viết những cuốn sách triết học giữa hồn thơ lai láng, cũng giống như viết những trang tùy bút mà chữ nghĩa đă thành những trân trọng nâng niu nhất. cầm cây bút trong trạng thái tuy phong trần từng trải nhưng vẫn c̣n sót nét ngây thơ của một người tin tưởng vào những điều nghĩ rằng cần phải t́m kiếm được bằng suy tưởng. Với đời thường, ông sống như lạc lơng bất kể. Nhưng với văn chương, ông là người tinh tế và có can đảm rủ bỏ tất cả để đi lại những bước khởi đầu.

Nhà thơ Nguyên Sa đă có bài thơ vẽ lại chân dung của một nhà thơ tiêu biểu cho một phong cách sống đặc biệt của một người cũng đặc biệt trong một thời kỳ văn học mà sự khao khát những phương trời mới những vóc dáng mới đă thành động lực mạnh mẽ cho sáng tạo. Bài thơ “ Nói chuyện phải quấy với Phạm Công Thiện:

“ Người vào tịnh thất sống ba năm

cất tiếng không lời để nói năng

buổi sáng thinh không chiều tới chậm

tiền kiếp chen vô cạnh chỗ nằm

Ta muốn cùng người một tối nay

Đầu sông uống rượu cuối sông say

Người từ trên núi ta từ biển

Từ giấc mơ nào đă tới đây

Dưới bóng tường im, giữa nhạc không

Đời như phía trước bỗng mông lung

Thơ như hữu thể mà vô thể

Có cũng xong mà không cũng xong

Sáng dậy ta nh́n tục lụy ta.

Những đi không tới đến không ngờ

Xóa luôn th́ dứt nhưng tâm thức

Kinh Pháp Hoa nào dậy cách xa?

Trong chín ngàn âm có hải triều

C̣n thêm một kiếp nữa phiêu lưu

Này người bỏ sóng sang thuyền tĩnh

Nhớ đứng chờ ta ở cơi siêu”

Nhưng không phải tất cả thơ ông chỉ chuyên chở ư tưởng. Mà, c̣n chuyên chở cảm giác nữa.Thơ để mang tới những giây phút linh hiện, để người đọc thơ và làm thơ một giây phút t́nh cờ nào đó gặp nhau trong giao thoa cảm xúc. Có một bài thơ trong tập thơ mỏng về số trang nhưng dầy về ư tưởng , Ngày sanh của rắn, VIII, có những h́nh ảnh nối liền nhau để thành một chuỗi sinh động liên tưởng luôn biến dịch.Gió , như một cuộc hành tŕnh đi qua đồi tây, đồi đông, đi qua những chặng thời gian tưởng ngắn như một sát na nhưng dài vô tận. Thế mà , trong cái lăng đăng tâm thức ấy, ngôn ngữ nhẹ nhàng như một hồi tưởng để níu kéo cảm nhận của người đọc trong một cảnh giới mơ hồ :

“ Mười năm qua gió thổi đồi tây

tôi long đong theo bóng chim gầy

một sớm em về ru giấc ngủ

bông trời bay trắng cả rừng cây

Gió thổi đồi tây hay đồi đông

Hiu hắt quê hương bến cỏ bồng

Trong mơ em vẫn c̣n bên cửa

Tôi đứng trên đồi mây trổ bông

Gió thổi đồi thu qua đồi thông

Mưa hạ ly hương nước ngược ḍng

Tôi đau trong tiếng gà xơ xác

Một sớm bông hồng nở cửa đông”

Với suy nghĩ của tôi , Phạm công Thiện là một thi sĩ nghệ sĩ. Không phải là cung cách một phù thủy chữ nghĩa hoa tay bùa chú vào hư vô để thành một văn phong khúc mắc khó hiểu. Mà, là một người ôm tất cả những rộng khắp vào ḷng và đi ṿng quanh để t́m chân lư. Cái tâm thức vốn tịch lặng của một người thâm cứu Phật Giáo pha trộn vào ư thức muốn nổi loạn phá bỏ cung cách cũ khiến văn chương trở thành một hành tŕnh của một người luôn xông tới đằng trước và không dừng lại. Trong đời sống, phong cách du tử , làm những điều ḿnh thích khiến ông thành một người luôn thấy đêm ngày là hoang vu ..

Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “ Tác Giả Tác Phẩm “,xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:

“ Sinh ngày 1-6-1941 tại Mỹ Tho. Trong gia đ́nh, Thiện là người anh cả “ Ngưới anh không giúp ích ǵ được cho gia đ́nh nh́n thấy mọi người cha mẹ em út đang lâm vào cảnh sa sút túng bấn. Mà ḿnh th́ lận đận lao đao chẳng giúp ích được ǵ.”

Đó cũng là một lư do, khiến có lúc Thiện bỏ đi tu ngoài Nha Trang. Thiện đă có lần cùng chúng tôi đem bán từng va ly “ Anh Ngữ Tinh Âm” của anh soạn để lấy tiền ăn bánh ḿ trong những lúc đói rách nhất. Mặc dầu lúc đó báo Phổ thông và Dân ta của Nguyễn Vy bán chạy, lương của Thiện trên mười lăm ngàn( bằng khoảng 150 ngàn đồng bây giờ mỗi tháng) tiền lănh ra, Thiện đem uống rượu say rồi gọi tất cả đám trẻ nít đánh giày lại, các bọn bán báo nghèo đói phân phát tất cả cho chúng trong một khắc đă hết sạch. Qua ngày hôm sau, kiếm lại vài chục uống cà phê là sự thường.”

Có người cho ông là thần đồng, soạn “ Anh Ngữ Tinh Âm“ lúc 16 tuổi. Có người cho ông là một triết gia, tư tưởng gia luôn luôn vật vă với suy tư. Có người cho ông có hiểu biết rộng thông hiểu nhiều ngoại ngữ. Có người cho ông là một người đọc sách chuyên cần với óc thông minh và nhớ lâu không quên. Cũng như có người gọi ông là lăng tử , là một người thích ǵ làm nấy và luôn miệt mài trên con đường độc hành t́m kiếm những điều bất khả trong cuộc sống.

Với tôi , ông là một thi sĩ và là người viết về thi ca mà tôi yêu thích. Dù , ông “ đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất” để t́m “ ư thức mới trong văn nghệ và triết học “ qua “ hố thẳm của tư tưởng “ để “ im lặng hố thẳm “ và, cứ thế hành tŕnh.

 
6/08. 7/08. 8/08. 9/08. 10/08. 11/08. 12/08