Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
Bùi Vĩnh Phúc
Tô Thùy Yên: thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người
Biểu dương - hăy biểu dương cùng tận
Vinh dự lầm than của kiếp người
Hy hữu một lần trên trái đất
Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai.
(Tô Thùy Yên)
Tô Thùy Yên là một giọng thơ đặc thù, có một, và vô cùng u hiển của nền thi ca
Việt Nam trong ḍng văn học miền Nam kể từ Sáng Tạo.
Từ cuối thập niên năm mươi cho đến thời điểm bị cắt đứt 1975, ḍng thi ca miền
Nam Việt Nam không phải là không thấy nổi bật lên những khuôn mặt khôi ngô của
thơ, những tiếng nói mới lạ của t́nh cảm, của cảm xúc, của trí tuệ; không phải
là nó không thấy rạo rực lên trong chính thân xác và tâm hồn ḿnh cái thiết tha
và sự sống của thời đại. Mà không phải chỉ ở Việt Nam, nơi các luồng ư thức hệ
trái chiều đă dùng làm địa bàn để thử nghiệm những con toán suy tư của ḿnh, nơi
những con sóng của các triều nước lư trí, dâng lên từ phương Tây và từ châu Mỹ,
thỉnh thoảng hắt lên trên mặt đất này những lượng nước cuối mùa từ cái ḍng trào
của nó, con người nói chung, ở Việt Nam cũng như ở khắp nơi trên thế giới, nơi
ánh sáng của văn minh nhân loại vẫn c̣n có cơ hội soi rọi đến, trong những thập
niên 50, 60 và 70, đều đă t́m thấy cho ḿnh một hơi thở mới, một tiếng nói mới,
một cái nh́n mới về đời sống. Hơi thở ấy đẩy người ta đi vào cuộc sống mỗi ngày
với một thái độ dấn thân và tha thiết hơn. Cái nh́n ấy đem vào nhăn giới con
người những ǵ đă trượt ra khỏi tầm nh́n của nó ở những thế hệ trước, v́ lư do
này hay lư do khác. Và tiếng nói mới mà con người t́m được trong thời đại này đă
giúp cho nó t́m xuống những chiều sâu mới của chính tâm hồn ḿnh, dẫn nó đi qua
những bậc đá trắng và lạnh của ngôi đền thâm u, kỳ bí, có khi in đậm h́nh bóng
rêu rong của kinh hoàng, khủng khiếp, nhưng cũng có khi ứ đầy và chói sáng ánh
mặt trời khiết bạch. Ngôi đền này chính là trái tim con người. Trái tim ấy bóp
và đập, bóp và đập, nhưng trong từng giây phút, qua chính những nhịp bóp và đập
ấy, nó để nở vào đời sống muôn vàn đoá hoa bí nhiệm làm nên cuộc đời của mỗi con
người. Và làm nên cuộc sống của nhân loại.
Nhà thơ là người nh́n vào được trái tim của những đoá hoa bí nhiệm ấy.
Thơ, chẳng phải chỉ là những cửa ngơ để nh́n vào trái tim, mà thường khi, nó
chính là trái tim. Nó là ngôi đền thâm u kia. Và nó cũng chính là những đoá hoa
bí nhiệm của đời sống.
Tô Thùy Yên là một nhà thơ Việt Nam lớn lên trong cái bối cảnh tinh thần ấy của
con người thế kỷ. Ông đă nhận chịu và đă kế thừa cái gia sản chung của nhân loại
trong suy nghĩ và trong tiếng nói của ḿnh. Nhưng trong tiến tŕnh sống và phát
triển, trong khi học hỏi và chia sẻ những kinh nghiệm chung của nhân loại, ông
c̣n có được những kinh nghiệm riêng của chính ḿnh. Những kinh nghiệm riêng này
của Tô Thùy Yên là những kinh nghiệm của một con người nói riêng, mang cá tính
độc nhất như bất cứ một con người nào trên thế gian; đồng thời, chúng c̣n là
những kinh nghiệm của một nhà thơ, và của một nhà thơ Việt Nam, trong bối cảnh
lịch sử Việt Nam lồng vào khung cảnh lịch sử của thế giới trong một giai đoạn
nhất định của lịch sử con người. Bởi thế, những kinh nghiệm ấy trở nên hết sức
đặc thù đến nỗi chúng gần như được chọn lựa để trao ban.
Sự trao ban ấy thật là kinh khủng. Bởi lẽ, kẻ nhận chịu sự trao ban ấy sẽ phải
sống những kinh nghiệm của hắn. Sống không, chưa đủ. Phải viết lên, phải nói ra,
phải tàn rụng đi v́ những đau khổ và phải tái sinh để tiếp tục sống những đau
khổ ấy. Và chứng minh rằng đau khổ xác định và bừng hoá những giá trị con người.
Tô Thùy Yên là kẻ được chọn. Cũng là kẻ được trao ban. Và như một con người Việt
Nam, ông đă sống vượt lên và vượt qua, trong một nghĩa nào đó, những kinh
nghiệm, những cảm xúc và những suy tư của con người thời đại nói chung. Những
giọt nước của trí tuệ và cảm xúc, hắt lên phần đất Việt Nam, nơi những con sóng
dâng lên từ Tây Phương và Âu Mỹ kia, ông có tiếp nhận. Ông trải nghiệm được cái
sức sống và hơi mát trong sự tiếp nhận ấy. Nhưng cuộc đời của một con người Việt
Nam, đặc biệt của một nhà thơ Việt Nam, như Tô Thùy Yên, đă đẩy ông chạm mặt với
sự đau khổ và cô đơn ngay trong t́nh yêu, chạm mặt với chiến tranh, với cái
chết, với cái bao la rờn rợn mang mang của vũ trụ đang đè lên kiếp sống mỏng
manh, heo hắt, chỉ chợt loé tàn của kiếp người. Cái siêu h́nh ấy chụp bắt lấy
nhà thơ và đẩy hắn trở về đối mặt với chính nó trong cơi con người. Ở đó, hắn
lớn lên. Hắn trở thành lớn lao. Nhưng khốn khổ. Ta lớn lao và ta cô đơn.
Phong cách của Tô Thùy Yên qua ngôn ngữ và h́nh ảnh
Để hiểu được thế giới thơ của Tô Thùy Yên, có lẽ trước hết ta phải nói về cái
tính chất độc đáo và kỳ lạ, ẩn chứa sôi sục như chỉ muốn lớn lên, tràn ra, trào
ra, thoát ra, nơi những h́nh ảnh và cảm xúc của Tô Thùy Yên. Đây là một thứ ngôn
ngữ đầy chất u hiển. Nó sáng, nó cháy, nó lập ḷe như lân tinh trong những đêm
tối quỷ ma nào đó của trần gian, hay trong những mộ địa âm u nào đó nơi những
vùng nước sâu, ngầm ngầm, thuỷ tận. Nó hô hấp và nó triển sinh trong cô đơn và
đau khổ. Nó lập loè và thấp thoáng trong cơi siêu h́nh. Nó nghi ngút như những
đợt khói mỏng manh bay dài suốt cơi thời gian trắng vô âm. Và nó hiển lộng giữa
chúng ta, rạo rực, như một mùa hè. Mùa hè cọ xát điên kim loại.
Tại sao lại có một thứ ngôn ngữ kỳ lạ đến như thế?
Để trả lời cho câu hỏi này, ta phải nói qua một chút về đặc tính của ngôn ngữ
con người. Ngôn ngữ của con người, trên căn bản, là một hệ thống kư hiệu được
dùng với mục đích chính là để trao truyền và gởi đến nhau những lượng thông tin
nào đó, giúp cho con người giao tiếp, tồn tại và phát triển. Theo Roman
Jakobson, hai thao tác chính trong sự nói năng của con người là chọn lựa và kết
hợp. Thao tác chọn lựa căn cứ trên một khả năng của ngôn ngữ: các đơn vị ngôn
ngữ có thể được dùng thay thế cho nhau nhờ vào tính chất giống nhau hay tương
đương, tương đồng của chúng. C̣n thao tác kết hợp th́ lại dựa trên một khả năng
khác của ngôn ngữ con người: các yếu tố ngôn ngữ có thể đặt bên cạnh nhau nhờ
vào mối quan hệt gần gũi hoặc giáp cận giữa chúng. Tùy vào những ngữ cảnh khác
nhau, sự kết hợp sẽ trở nên biến hoá không ngừng để cho câu nói hay lời phát
biểu được trở nên thích hợp với hoàn cảnh của lời nói và của những con người
tham dự vào hoạt động nói năng.
Để làm rơ tính chất của thao tác chọn lựa, ta có thể lấy ví dụ sau đây để phân
tích. Trong câu nói b́nh thường “Tôi đi đây” th́ từ đi có một loạt các yếu tố
tương đương của nó như lên đường, vù, dọt, chuồn, chẩu, tếch, de, tẩu, thăng...
Mỗi từ tương đương này mang trong nó một giá trị biểu cảm khác biệt. Mặc dù
chúng chia sẻ với nhau một điểm chung là ư ra đi, những yếu tố này khác
nhau ở những khiá cạnh như: trang trọng/không trang trọng, thân mật/không thân
mật, nghịch ngợm/không nghịch ngợm, tiếng lóng/không phải tiếng lóng... Ta có
thể thay thế được yếu tố này với yếu tố kia, nhưng, như một con người lớn lên
trong một khung cảnh văn hóa nhất định, chúng ta sử dụng thao tác chọn lựa này
một cách rất nhuần nhuyễn và gần như nó chỉ xuất hiện ở tầng tiềm thức hay hạ ư
thức của ta. Khi nói năng bằng ngôn ngữ Việt Nam, chúng ta không phải chăm chăm
lo lắng trong cách chọn lựa, sử dụng những từ, những yếu tố giống nhau trong
những sinh hoạt b́nh thường. Ta lái chiếc xe ngôn ngữ một cách thoải mái mà
không cần phải chăm chăm nắm lấy “ghi đông” (tay lái), không cần phải lúc nào
cũng sẵn sàng bóp thắng, hoặc phải để ư đến bàn đạp, đến sự thăng bằng của chiếc
xe.
Trước khi ta chọn lựa để nói đi (hay nói vù, chuồn, thăng, dọt...),
trong đầu ta nằm tản mạn và im ĺm những con chữ, những con ư niệm tương cận,
như ta vừa thử liệt kê ở trên. Nhưng khi ngôn ngữ đến lúc cần phải được nói ra,
một từ thức dậy sẽ lôi cuốn theo nó một loạt những từ khác. Những con chữ, những
con ư niệm bây giờ lăng xăng chạy nhảy, đ̣i được cất lên tiếng nói. Cái đầu,
trung tâm ban phát lệnh lên đường của tư tưởng và chữ nghĩa, lúc ấy, sẽ làm
nhiệm vụ chọn lựa. Rất nhanh và tích tắc. Như là sự chọn lựa không hề từng xảy
ra.
Nhưng ngoài công việc chọn lựa trên, ta c̣n phải thực hiện công việc kết hợp.
Chính những ḥan cảnh nói năng (ngữ cảnh) sẽ bắt ta làm công việc này. Thưa
chuyện với các bậc trưởng thượng, phụ mẫu để xin phép ra đi, ta sẽ nói đại khái,
“Thưa bác (thưa bố, thưa mẹ), mai con xin phép lên đường”. Chắc không ai lại
nói, “Thưa bác, mai con xin phép thăng (chẩu, chuồn, dọt, tếch, tẩu, de,
vù...)”. Cũng không ai nghiêm trang nói, “Thưa bác mai con xin phép lên đường
(và xin được chú thích cẩn thận với bác là “lên đường” ở đây có nghĩa trang
trọng, kính cẩn, không thân mật lắm mà cũng không thời đại, không nghịch ngợm,
không slang không hip... Xin bác lưu ư là cách dùng chữ “lên
đường” của cháu ở đây là cẩn thận và đúng trong vị trí của cháu để thưa chuyện
với bác, vân vân và vân vân...)”. Tất cả mọi người tham dự vào những hoạt động
nói năng, tùy theo ngữ cảnh (context), sẽ hiểu được ư tứ của nhau. Không ai lại
phải làm cái công việc phân giải và chú thích lằng nhằng như thế.
Hai người bạn già đầy chất nho phong chúc nhau lên đường b́nh an có thể nói,
“Chúc bác thượng lộ b́nh an”. Dù thượng lộ có những yếu tố tương
đương, ở những mức độ khác nhau của chúng, với vù, chẩu, de, thăng, tẩu,
chuồn, dọt, tếch..., một nhà nho nghiêm cẩn, tiễn bạn, chẳng thể nào lại có
thể nói, “Chúc bác de (hay vù, chẩu, thăng, chuồn, dọt, tếch...)
b́nh an”. Chính sự kết hợp của các từ ngữ trong một câu văn làm cho ta hiểu được
ngữ cảnh, cái không khí bao trùm nó. Và ngược lại, cái ngữ cảnh, cái không khí
bao trùm hành động nói năng lại qui định sự chọn lựa và kết hợp các từ đứng bên
nhau. Trong thí dụ ở đoạn trên, các từ thưa, bác, và con qui định
sự chọn lựa và kết hợp của từ lên đường (một từ thích hợp trong ngữ cảnh)
trong chuỗi ngữ lưu của câu nói này. Một người thạo ăn nói hay một độc giả thạo
đọc văn có thể tiến lui thoải mái với kinh nghiệm giao tiếp và đọc sách của
ḿnh. Ngôn ngữ là một hệ thống dùng âm thanh như những kư hiệu để giao tiếp.
Muốn cho hệ thống này hoạt động hữu hiệu, những âm thanh phải có ư nghĩa. Nhưng
âm thanh, tự chúng, khốn nỗi, lại chẳng có ư nghĩa ǵ. T́nh trạng này đă được
con người khắc phục một cách hết sức độc đáo bằng cách sử dụng hai thao tác chọn
lựa và kết hợp mà ta đă thử xét ở trên, sau khi đă, một cách chấp định, gán ghép
ư nghĩa cho những từ trong các hệ thống ngôn ngữ mà nó có. Con người, như
Jakobson nh́n ra, trong cái chiến thắng vẻ vang và kỳ diệu của nó, đă dùng âm
thanh để cấp phát ư nghĩa ngay cho chính âm thanh. Đây là một sự khắc phục hết
sức kỳ diệu của con người.
[1]
Từ chiến thắng này của con người nói chung, ta trở lại với Tô Thùy Yên. Để thấy
rằng người thi sĩ này đă t́m đến sự vinh thắng qua những tác phẩm của ḿnh, h́nh
như, bằng một con đường ngược lại.
*
Nói rằng Tô Thùy Yên đă làm cho thơ của ông trở nên độc đáo bằng cách sử dụng
một con đường ngược lại với con đường đưa đến sự chiến thắng của nhân loại nói
chung trong việc sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ những t́nh ư của ḿnh, thoạt tiên,
nghe ra có vẻ hồ đồ và nghịch lư. Là một nhà thơ lớn, ông hẳn phải hiểu rơ giá
trị của ngôn ngữ và cách sử dụng nó. Dĩ nhiên, ông hiểu là ông sẽ phải kế thừa
cái di sản về khả năng sử dụng ngôn ngữ của con người nói chung, cái di sản phần
lớn đă giúp cho con người, sau khi đứng thẳng dậy như một homo erectus,
trở nên một homo sapiens, từ đó, giúp nó chinh phục trái đất. Cái di sản
này được để lại trong chữ nghĩa và trong cái cách để sử dụng nó.
Tô Thùy Yên đă trân trọng và hănh diện nhận lănh cái di sản đó nơi nhân loại,
nói chung, và nơi tổ tiên của chúng ta, nói riêng. Ông nhận, ông kế thừa, và ông
đi thêm một bước mới. Những thi sĩ có tài của thế giới cũng đă đi theo con đường
đó. Họ nhận lănh và họ đóng góp. Vậy, cái đóng góp của Tô Thùy Yên, cái đóng góp
mà tôi cho rằng đă đi ngược lại với con đường dẫn đến chiến thắng của con người
trong việc khắc phục và làm chủ ngôn ngữ đó là ǵ?
Câu trả lời của tôi là: một trong những đặc sắc của ngôn ngữ thơ Tô Thùy Yên, và
là điểm nổi bật nhất, tạo nên phong cách một nhà thơ lớn nơi ông, chính là cách
ông sử dụng hai thao tác chọn lựa và kết hợp của chữ nghĩa. Sự chọn lựa và kết
hợp này của Tô Thùy Yên không những làm cho chữ nghĩa, lời thơ của thi sĩ trở
nên đặc biệt, kỳ lạ và kỳ diệu, tách thoát khỏi ngôn ngữ thơ - tức là một thứ
ngôn ngữ đă được nghiền ngẫm, nung cất, ngâm tẩm, hong phơi - của những nhà thơ
trước và sau ông, mà c̣n làm cho nó trở nên lấp lánh đầy h́nh ảnh. Những h́nh
ảnh kỳ lạ, bất ngờ và đầy tính sáng tạo.
Nói như thế không có nghĩa là bảo thơ Tô Thùy Yên không có “tư tưởng” mà chỉ có
sự sắp xếp, sự kết hợp khác lạ của một số từ ngữ. Thật ra thơ Tô Thùy Yên cũng
đầy chất tư tưởng. Ta sẽ xét đến những điều ấy ở những đoạn sau của bài tiểu
luận này. Nhưng, điều mà tôi muốn nói, trước hết, ở đây, v́ tính chất bao trùm
và v́ ảnh hưởng mănh liệt của nó lên toàn bộ sự nghiệp thi ca của Tô Thùy Yên,
khiến nó là cái chỉ có một, và khiến nó mở ra một cửa ngơ mới cho thi ca nói
chung, là phong cách chọn lựa từ, ngữ nơi ông, và từ sự chọn lựa đó, Tô Thùy Yên
kết hợp chúng lại với nhau theo một phong cách của riêng ông. Và trong sự nhận
xét của tôi, cả hai sự chọn lựa và kết hợp này của Tô Thùy Yên đều rất khác với
những nhà thơ Việt Nam trước và sau ông.
[2] Từ phong cách đó, thơ Tô
Thùy Yên chứa đầy những h́nh ảnh và ngôn ngữ mới lạ, cấp cho chúng ta một cái
nh́n mới mẻ, bất ngờ và hết sức phong phú về đời sống, về ngoại giới, về vũ trụ,
về nhân sinh, và về nội giới của chính con người nhà thơ.
*
Khuôn mặt em
th́ để khóc. Khóc đi em.
(“Phương’’)
Khi khuôn mặt không là để được nh́n ngắm, chiêm ngưỡng, khi nó được sử
dụng như một đồ vật, một dụng cụ, để làm một cái ǵ đó, có tính cách thực tiễn,
ích lợi, như chiếc búa dùng để đóng đinh, cái súng dùng để bắn, cái áo mưa dùng
để mặc khi trời mưa, cái ô dùng để che đầu... th́ không phải chỉ khuôn mặt của
một người con gái tên Phương trong bài thơ bị bóp méo và bị vặn tách ra khỏi cái
toàn thể hữu cơ b́nh thường và đáng trân trọng là nhân dáng nơi một con người -
nói chung, nơi một người con gái - nói riêng, mà cả nhân loại bị tổn thương, bị
xúc phạm từ một sự đau khổ, xót xa riêng biệt của thân phận một con người tên
Phương.
Khuôn mặt là một danh từ, nhưng nó là một từ nằm trong một phạm trù khác
biệt hẳn với những danh từ như búa, ḱm, đục, phễu, súng, áo, quần, ch́a
khóa, nhà, cửa, bàn, ghế... Những từ như vừa kể có thể được dùng cho một mục
đích cụ thể nào đó, như ch́a khóa (dùng) để mở cửa, ghế để ngồi... Khi nói
“khuôn mặt em th́ để khóc”, nhà thơ đă cố t́nh chọn lựa một sự kết hợp sai về
mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp để diễn tả sự xót xa, đau khổ của ḿnh trước đối tượng
đáng thương xót được diễn tả là người con gái. Ngoài ra, c̣n có sự cay đắng và
chia sẻ ở đây. Cay đắng với những hoàn cảnh đời và chia sẻ sự khổ đau với những
con người yếu đuối, khốn cùng, khốn khổ.
Trong Việt ngữ, những mệnh đề như ghế để ngồi, nhà để ở, v.v... được dùng
như những câu đơn hoàn chỉnh. Để, ở đây, được dùng như một động từ [như
is (used) trong The chair is (used) to sit on]
[3] . Ngồi, nếu có thể so sánh
được với một số ngôn ngữ Ấn-Âu, được dùng như một cụm từ, một ngữ đoạn (phrase)
để chỉ cách thế mà con người sử dụng cái ghế. [To sit on có thể được xem
như một infinitive phrase, dùng như một trạng từ (adverbial phrase), để
chỉ cái cách dùng chiếc ghế]. Bởi thế, chưa xét đến mặt nghịch lư của phạm trù
danh từ được sử dụng mà ta đă thử phân tích, ngữ pháp Việt b́nh thường chỉ
khuyến khích ta nói Khuôn mặt em để khóc (không cần động từ th́
chen vào). Khi Tô Thùy Yên thốt lên: “Khuôn mặt em th́ để khóc. Khóc đi em.”, ta
thấy ngay được sự nhấn mạnh đến nét nghịch lư của đời sống, đến sự cay đắng, xót
xa, đau khổ của Tô Thùy Yên dành cho người con gái, đến sự bất lực và chảy máu
của chính thi sĩ, đến cái thân phận khốn khổ chung của con người.
Bài Phương mở đầu bằng Khuôn mặt em th́ để khóc. Khóc đi em và kết
bằng những câu đau khổ và thiết tha này: Có thể nào em lành bệnh, lấy chồng và
hạnh phúc không em? Có thể nào guồng máy xưởng cưa ngừng lại? Anh mời em ngày
đám cưới anh đến dự cùng chồng và cháu bé, về sau kết nghĩa sui gia, đau khổ
nhân lên. Cuộc đời, cuộc đời bis, bis. Khóc đi em.
Đó là cách nói của nhà thơ. Cách nói nghịch lư ấy đưa đến phong cách Tô Thùy
Yên.
Nói đến phong cách, là nói đến các kiểu lựa chọn, kết hợp và giá trị biểu cảm
của các kiểu lựa chọn và kết hợp ấy. Về mặt văn học, phong cách là độ lệch giữa
chữ nghĩa của văn chương và lối nói thông thường, thực dụng hằng ngày. Nó là một
thông báo thừa hoặc nghịch dị. Thừa phần t́nh cảm, và nghịch dị trong cung cách
được chọn lựa hoặc sử dụng. Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các
kiểu lựa chọn từ ngữ tiêu biểu, có một giá trị đặc thù, giúp cho ta nhận diện
một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả.
Chúng ta không thể lộn được thơ Tô Thùy Yên với thơ của bất cứ một người nào
khác.
Trong bài „Em nhỏ, làm chi chim biển bắc“, Tô Thùy Yên viết:
Cửa thần phù dựng Trường Sơn sóng
Mỗi ngọn xô ch́m một giấc mơ
Trong câu đầu, h́nh ảnh mà nhà thơ muốn gửi tới chúng ta là một cửa biển (cửa
biển của tâm hồn, của đời sống, của cuộc lữ này?) dựng sóng cao ngất như ngọn
(dăy) Trường Sơn. Nhưng khi chọn kết hợp dựng Trường Sơn sóng thay cho
dựng sóng Trường Sơn, Tô Thùy Yên cho đẩy vào nhăn trường của người đọc một
cận ảnh của Trường Sơn làm bằng sóng nước trập trùng, trùm lấp lấy
chúng ta, và xô ch́m đi những giấc mơ bé nhỏ và thiểu năo nhưng hết sức thiết
tha của con người. C̣n cách nào nói được hơn thế?
Trường Sơn, một danh từ được dùng như tính từ, đứng trước và chỉ định một
danh từ khác, ở đây là sóng, là một lối nói đặc biệt, không Việt Nam
[4] . Chính v́ ư thức được tính
cách không mấy quen thuộc và không ṃn nhẵn ấy (chứ không phải v́ tinh thần
ngoại lai) của một loại ngữ pháp giống như ngữ pháp của tiếng Hán hay Âu Mỹ này
mà Tô Thùy Yên đă đưa nó vào thế giới thơ của ḿnh và tạo nên được những tác
dụng thẩm mỹ rơ rệt. Cách dùng này có thể được t́m thấy khá nhiều trong thơ ông.
Ta có thể kể:
Những người thuở trước như là mộng
Diễm tuyệt dung nhan thảo mộc sầu
(„Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai’’)
Lờn rờn bóng lá đong đưa nắng
Thảm thiết dây leo quấn quít cây
(„Tưởng tượng ta về nơi bản Trạch’’)
Trường Sa! Trường Sa đảo chuếnh choáng
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
(„Trường Sa hành’’)
Mặt trời chiều ră rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
(„Trường Sa hành’’)
Tung ra khắp băi thời gian rộng
Lượn lượn ưu tư khốc liệt rền
(„Ṃn gót chân sương nắng tháng năm’’)
Trời cao mỏi mắt, cḥm mây bạc
Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh
(„Vườn hạ’’)
Nằm đây phủ sáng hằng hà sao
Nghe thủy triều lui bậc bậc sầu
Nghe tiếng mơ chùa khô khốc khóc
U minh ngày tháng bóng lao đao
(„Vườn hạ’’)
Một trong những biện pháp làm cho thơ Tô Thùy Yên nổi bật lên, và làm cho h́nh
ảnh thơ ông dính măi vào tâm trí chúng ta như một ám ảnh đeo đuổi đời đời, là
cung cách sử dụng tính từ (hay danh từ dùng làm tính từ) và trạng từ của ông.
Cách sử dụng những tính từ và trạng từ này, trong lời nói, trong cách suy nghĩ
hằng ngày, người ta không thể chấp nhận [v́ nói như thế cũng như nói “Thưa bác,
con thăng” (hay de, chuồn, tẩu...)]. Nhưng Tô Thùy Yên đă chọn lựa và kết
hợp chúng lại với nhau một cách tài t́nh, sắc nét và mạnh mẽ. Ta thử xét các câu
sau:
Biển Bắc tuyệt mù con nhạn lạc
Thời gian mất trí trắng vô âm
(„Ṃn gót chân sương tháng năm’’)
Đ̣ nghẹn đoàn quân xa tiếp viện
Mưa lâu trời mốc buồn hôi xưa
(„Qua sông’’)
Hừng đông hùng vĩ và thanh thản
Sương hứa nguyên ngày nắng rực say
Ta dậy khi gà truyền nhiễm gáy
Chân mây rách đỏ vết thương dài
(„Hề, ta trở lại gian nhà cỏ’’)
Ḍng sông u hiển trôi vô lượng
Ḍng sông hiền triết chảy vô tâm
Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ
Mà ta thân thiết tựa tri âm
(„Hề, ta trở lại gian nhà cỏ’’)
C̣n lại chăng chút u hoài mốc
Pha cùng rượu uống đến say thua
(„Hề, ta trở lại gian nhà cỏ’’)
San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng măn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm NgườI
(„Trường Sa hành’’)
Những thí dụ vừa kể chỉ là một số những biện pháp mà Tô Thùy Yên đă sử dụng để
bật sáng ngôn ngữ của ḿnh và ban cho cái ngôn ngữ ấy một chất sáng lung linh
lấp lánh của một loại lân tinh trong những búi cỏ của ngôn ngữ trần gian. Tuy
nhiên, một hiện tượng đều khắp, toả rộng trên diện tích đất đai của tư tưởng và
ngôn ngữ thơ Tô Thùy Yên, chính là phương pháp chọn lựa, sử dụng và kết hợp
những h́nh ảnh, những tư tưởng và những ư niệm thường không nằm cạnh nhau trong
những quan hệ ngữ nghĩa và ngữ pháp của đời thường. Tô Thùy Yên ban phép hôn
phối và chúc lành cho chúng. Từ đó, những cặp uyên ương của chữ nghĩa và tư
tưởng này, tưởng là không bao giờ được gần gũi nhau, đă dong buồm ra khơi. Những
cánh buồm kỳ diệu ấy, từ đó, cứ lấp lánh, rạo rực măi trong đáy ḷng ta như
những cánh chim muốn cất tiếng hát lên trời. Hăy thử nh́n lại những cánh buồm và
những tiếng chim kỳ ảo lạ lùng kia:
Em đắp mặt anh mười ngón tay nhánh huệ
...Khuôn mặt ủ ê em bật trận mưa dầm
(„Vie Posthume’’)
Ra đi như một b́nh minh lạ
... Ra đi như một âm thanh sáng
... B́nh minh như một làn da phỏng
Ta dạo men bờ sóng tuyệt mù
Cảm phục bồi hồi biển nhẫn nại
Bắt đầu măi măi lượn thiên thu
(„Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai’’)
Nên ta phó mặc cho trời đất
Trời đất vô ngôn lại bất nhân
Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
Trong lăng quên xanh hút thời gian...
(„Hề, ta trở lại gian nhà cỏ’’)
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi t́m một tối vui
Trăng sáng in hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
(„Vô đề’’)
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Gió đưa nhớ rải khắp trần gian
...
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Đóa hoa buông cánh khi tàn hương
Tiếng rụng tuyệt âm rền tịch mịch
Ḍng sông tới biển, nức tuôn, tuôn
...
Mùa hè cọ xát điên kim loại
Con quạ kêu vang giữa quăng không
(„Tưởng tượng ta về nơi bản Trạch’’)
Mặt bạn mặt ta c̣n trắng cả
Như mặt trời chiều mới tạnh mưa
(„Anh hùng tận’’)
Trái đất tṛn như con số không trái đất muôn năm. Anh đứng lên như
tiếng chửi thề.
(„Phương’’)
Chỉ có thế. Trời câm, đất nín
Đời im ĺm đóng váng xanh xao
(„Ta về’’)
Đêm lụa là, anh trở giấc, cây nến thức khuya đă bị gọt ṃn, c̣n nghe
tiếng ru.
(„Lễ tấn phong t́nh yêu’’)
Và thêm một đoạn thơ trong bài thơ bất hủ sau. Đoạn này, với những cách dùng từ,
ngữ và những h́nh ảnh, suy tưởng được nối kết với nhau một cách kỳ lạ, độc đáo
và đầy phong cách, đă thổi đến người đọc cái phong vị u buồn và cảm hoài của
thời đại, mang đầy tính bi tráng của lịch sử Việt Nam:
Đ̣ nghẹn đoàn quân xa tiếp viện
Mưa lâu trời mốc buồn hôi xưa
Con đường đáo nhậm xa như nhớ
Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng c̣
Quán chật xanh lên rừng lính ướt
Mặt bơ phờ dính gió bao la
Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét
Chuyện t́nh cờ nhúm ấm cây mưa
Vang lên những địa danh huyền hoặc
Mỗi địa danh nồng một xót xa
Giặc đánh lớn - mùa mưa đă tới
Mùa mưa như một trận mưa liền
Châu thổ mang mang trời nước sát
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên
Tiếp tế khó- đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên
Di tản khó - sâu ḍi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên
Người chết mấy ngày chưa lấy xác
Thây śnh mặt nát lạch mương tanh...
Sông cái nước men bờ sóng sánh
Cồn xa cây vướng sáng mơ màng
...
(„Qua sông’’)
Chiến tranh, với những bi thảm và tàn bạo của nó, h́nh như ở thời nào, chốn nào
cũng giống nhau. H́nh ảnh “Người chết mấy ngày chưa lấy xác / Thây śnh mặt nát
lạch mương tanh...” làm ta rất nhớ đến đoạn mở đầu của Một thời để yêu và một
thời để chết của Erich Maria Remarque, về cái chết của những người lính ở
bên Nga trong thời Đệ nhị thế chiến.
[1]Phần
tŕnh bày về hai thao tác chọn lựa và kết hợp trong ngôn ngữ này được dựa theo
quan điểm của Roman Jakobson trong Essais de Linguistique Générale,
Paris, 1963; và trong Questions de Poétique, Paris, 1973, của cùng tác
giả.
[2]Nói như vậy dĩ nhiên là một
cách nói có phần cực đoan. B́nh thường, những “câu nói” của một thi sĩ bất kỳ
nào đó (và thực sự là thi sĩ!) trong bất kỳ một bài thơ nào, đều khác với cách
nói của chúng ta, là những con người sống trong đời thường. Nói chung, trong
những hoàn cảnh nói năng b́nh thường của cuộc sống, những câu nói của chúng ta
chỉ mang giá trị “tiêu dùng”, có tính “disposability” (dùng xong rồi bỏ). Những
câu nói của các văn nhân, thi sĩ th́ khác! Đặc biệt đối với các thi sĩ, những
câu nói được phát biểu ra là để giữ lại, không phải để “dùng một lần rồi bỏ”!
Mọi thi sĩ đều mong sao cho những câu nói của ḿnh trở nên một chất keo kết dính
măi trong kư ức của người đời. Nếu không “đẹp và thơ”, th́ phải nói sao cho
thiên hạ sợ. Và nói như Đỗ Phủ, Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu (Chữ dùng
mà không làm cho người đời kinh hăi th́ chết cũng không yên ḷng). Bởi thế, ở
một góc độ và mức độ nào đó, các thi sĩ thực thụ, trong việc sử dụng ngôn ngữ
thi ca của ḿnh, đều có một số nét giống nhau. Ngôn ngữ của họ giống nhau ở chỗ
đó là một thứ ngôn ngữ khác biệt với cái ngôn ngữ của đời thường. Nhưng nếu nh́n
vào chữ nghĩa và ư tứ của chính các thi sĩ, ta thấy họ có nhiều điểm khác nhau
lắm. Chính những điểm khác nhau đó tạo ra phong cách của mỗi người. Xét riêng về
nét lạ lùng trong kỹ thuật dùng từ và tạo h́nh ảnh, trong cả hai thao tác chọn
lựa và kết hợp, một thi sĩ viết sau Tô Thuỳ Yên nhưng có những nét có thể so
sánh với nhà thơ này, mà lại tạo ra được một phong cách rất khác, là Cao Đông
Khánh. Dù sao, giới hạn của bài tiểu luận này không cho phép người viết đi sâu
hơn vào những phân tích cần thiết để làm sáng hơn nhận xét vừa nêu.
[3]Người ta cũng có thể cho rằng
trong câu ghế để ngồi, động từ là (th́) được hiểu ngầm. Ở
cấu trúc ngầm (underlying structure), không phải cấu trúc trên bề mặt
(surface structure), câu này được hiểu “Ghế là (th́) để ngồi”. Trong tiếng Việt,
những loại câu như thế này, và một số loại câu khác, động từ th́, là (to
be) thường được bỏ đi. Chẳng hạn, người ta có thể nói với nhau, Em ngoan lắm!,
chứ hiếm có người nói Em th́ ngoan lắm! hay Em là ngoan lắm! Nhưng
trong một số trường hợp, chẳng hạn trong những câu nói âu yếm (baby talk), người
ta vẫn có thể bẹo má nhau mà nói rằng, Em là hư lắm! Anh bẹo mũi chết bây
giờ!
[4]Thật ra, ở dưới mạch ngầm,
trong câu tiếng Việt Cửa thần phù dựng ường sơn sóng, Trường Sơn đứng sau
danh từ sóng và thay cho cả một cụm từ, một ngữ tuyến, một ngữ đoạn (phrase).
Ngữ đoạn ấy có thể là cao ngất như dăy Trường Sơn hoặc trùng điệp như
dăy Trường Sơn. Nói theo kiểu của Tô Thùy Yên tức là đă áp dụng hai ba luật
biến hoá ngữ pháp (transformation rules) trong đầu trước khi câu nói được nói
ra.
Nguồn: Đă đăng một vài đoạn khác nhau, lần đầu trên các nguyệt san Hợp Lưu và Văn Học (California), vào những năm 1992 và 1994. Toàn bộ bài viết được in trong Lư luận và phê b́nh / Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước 1975-1995 của Bùi Vĩnh Phúc, nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1996. Đăng lại trên talawas với một số thay đổi và bổ túc của tác giả.
Nghị Quyết Số 33 NQ/TW - Văn học việt nam trong thời kỳ đổi mới - Văn Học Với Đời Sống
Văn Nghệ Quân Đội - Viện Văn Học Hàn Lâm - Văn Hiến Việt Nam - Sông Hương
Văn Học Quê Nhà - Văn Việt Nam - Báo Văn Nghệ - Văn Hóa Học- Cởi Mở - Đổi Mới
Lư Luận Chính Trị - Quân Đội Nhân Dân - Trần Đ́nh Sử - Tuyên Gíao - Vinadia
Văn Việt - Văn Đoàn Việt - Việt Văn - Văn Chương Việt - Trí Thức
Liên Bang Sô Viết Tan Ră - Mọi Điều Bạn Biết Đều Sai Khi Liên Sô Sụp Đổ
Những Âm Mưu Làm Tan Ră Liên Sô - Đông Âu Sụp Đổ - Quan Điểm Về Việc Liên Sô Sụp Đổ
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám
Người Việt Seatle