Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phan Nhật Nam

 

Tù binh và ḥa b́nh

 

 

Thời đại của gian dối

 

Ngày gần hết, ánh nắng loáng vàng trên mặt sông, chiều ngày đầu năm váng vất khí lạnh mùa đông c̣n sót lại. Tôi đứng nh́n về bờ nam sông Thạch Hăn, lá cờ Vàng bay phơi phới trên bầu trời xanh thấp mây trắng. Ḷng nôn nao nhẹ nhàng, tôi muốn được trở về bên bờ kia mau chóng. Toán chót của tù binh vừa được trao trả xong, cuộc họp cuối cùng của ngày bắt đầu. Nói và họp, người Cộng sản chuẩn bị, liên kết hai công việc vào nhau gọn ghẽ, thích thú.

Sự chán mứa dâng cao cùng cực trong khi tôi ngồi xuống chiếc băng ghế cứng, một nữ cán bộ phục dịch “công tác” ngay một ly trà bốc khói. Tất cả đều được tính toán kỹ.

Thiếu Tá Nguyễn An Giang chỉ huy trưởng địa phương bắc sông Thạch Hăn đứng dậy tuyên bố khai mạc buổi họp, kiểm điểm công tác trong ngày, rút ưu khuyết điểm, hoạch định công tác ngày mai. Từng chữ nghĩa vô bổ, trống rỗng va chạm nhau đều đặn tuông ra, khuôn mặt tái xanh đông cứng nghiêm trọng. Thiếu Tá Giang đúc kết công tác trong ngày bằng những thành ngữ quen thuộc:

Công tác tiến triển tốt, phản ảnh được tinh thần ḥa giải và hoà hợp dân tộc, hai bên thực hiện cuộc trao trả đúng như đă dự định trong tinh thần tích cực, khẩn trương công tác đúng theo như điều 8(a) Nghị Định thư, chấp hành nghiêm chỉnh bản Hiệp Định chấm dứt chiến tranh đă được nhân dân tiến bộ yêu chuộng hoà b́nh trên thế giới ủng hộ...!!!

Tôi ngồi lơ đăng nh́n đám mây xám phủ xuống cuối con sông nơi phía Ngô Xá Đông, nhớ lăng đăng lần trực thăng vận của chiến trận mùa đông năm 1967 trên vùng đất cát đó... Cuốn sổ đặt trên đùi được ghi vắn tắt vài con số, số tù binh được trả trong ngày... Thiếu Tá Giang tiếp tục:

Để chấm dứt phần kiểm điểm công tác trong ngày, tôi xin nêu thêm một điểm nhỏ để Đại Úy Nam (thay v́ dùng chữ “phía VNCH”) ghi nhận để sửa đổi lại cho phù hợp với tinh thần Nghị Định thư và Hiệp Định ngưng bắn (!) Đấy là tiêu đề của mỗi bản danh sách nhân viên quân sự của phía Chính phủ cách mạng lâm thời (!) được quân cảnh (chỉ có từ ngữ “quân cảnh” không có từ VNCH) giao trả. V́ theo như chúng tôi ghi nhận, “tinh thần của Nghị Định thư và Hiệp Định ngưng bắn” là để hai bên miền Nam - Bắc Việt Nam có cơ hội ḥa giải, ḥa hợp, trao đổi nhân viên quân sự và dân sự, v́ vậy tiêu đề "Tù binh Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập" ghi trên mỗi bản danh sách không phù hợp với "thực tế pháp lư" của tinh thần Nghị Định thư (!) vậy nên yêu cầu Đại Úy Nam ghi nhận và sửa đổi...

A! Lại một đ̣n mới, kết quả của cuộc “hội ư” suốt buổi chiều nay giữa các đầu óc cách mạng! Tôi ngồi thẳng dậy, vụt bỏ sự lơ đăng,chuẩn bị nghênh đón đối phương. Đ...m, đúng là Việt Cộng. Tôi bực dọc chửi thề trong bụng. V́ hôm nay (19-2-1973) là ngày trao trả thứ ba của đợt II tại địa điểm này, bờ bắc sông Thạch Hăn. Từ ngày đầu của cuộc trao trả (12-2) tại các địa điểm khác như Lộc Ninh, đâu đâu, Quân cảnh VNCH vẫn dùng tiêu đề đó trên các bản danh sách, và rơ ràng hơn ba ngày trao trả trước tại đây, các danh sách với tiêu đề đó vẫn không đặt nên vấn đề, nhưng hôm nay... Lại dở tṛ mới rồi... Tôi tập trung chú ư lại. Khi Thiếu Tá Giang ngồi xuống th́ đến Thiếu Tá Vầy trưởng tổ Liên hợp phe Mặt trận giải phóng thuộc Tiểu ban Tù Binh Trung ương phát biểu ư kiến. Thêm một màn lập lại:

Cám ơn quí vị trong Ủy ban Kiểm soát và Giám sát Quốc tế đă tích cực tham gia vào công tác kiểm soát cuộc trao trả nhân viên quân sự... Thể hiện tinh thần ḥa giải ḥa hợp (!). Cám ơn chính quyền địa phương (?) đă tổ chức chu đáo (!) và cuối cùng là “điểm nhỏ”: Theo điều 1 và 2 của Nghị Định thư về Tù Binh th́ chỉ phân loại ba thứ tù binh: Nhân viên quân sự và dân sự của Hoa Kỳ và các nước ngoài, nhân viên quân sự và dân sự hai bên miền Nam Việt Nam vậy ư kiến của Thiếu Tá Giang là một thực tế (!) phản ảnh đúng tinh thần Nghị Định thư nên yêu cầu Đại Uư Nam ghi nhận và sửa đổi!!!

Thiếu Tá Vầy ngồi xuống, bật cái hộp quẹt Thăng Long đốt điếu thuốc lá Điện Biên khói bay khét lẹt, rung đùi lắng tai nghe Đại Úy Lân của Bắc Việt phát biểu ư kiến... Cám ơn quí vị... Tinh thần ḥa giải và “điểm nhỏ” của Thiếu Tá Gang vừa nêu ra... Theo điều 1 và 2 Nghị Định thư!! Một lập lại lần thứ ba qua người phát biểu!! Một lập luận được ba người lập lại trong nghiêm trọng, được dịch lại ba lần bởi một thứ “broken English” rất vất vả. Ṿng tṛn người ngồi nghe nghiêm trang, những cái đầu gục gặc tán thưởng đồng ư lẫn nhau, hai anh Hung Gia Lợi và Ba Lan gật mạnh đầu hơn hết, tra cứu cuốn sổ nhỏ để t́m điều 1 và 2 Nghị Định Thư... Những đôi mắt đăm chiêu lướt vội trên gịng chữ, những x́ xào to nhỏ xác nhận ‘thực tế’ của tù binh căn cứ trên điều khoản Nghị Định thư... Tất cả màn kịch khôi hài gian trá được đồng t́nh khai triển tối đa. Đợi lúc Đại Úy Lân và tên thông dịch viên ê a luận lư điều 1 và 2 Nghị Định thư tôi làm việc thật mau trong đầu... Điều 1 và 2 Nghị Định thư quả thật qui định không có tù “Cộng Sản Bắc Việt” trong đó, suốt bản Hiệp Định ngưng bắn cũng không có một chữ nhắc đến Quân đội Nhân dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa... Vậy th́ trả lời như thế nào? Căn cứ ở đâu?... Bản Hiệp Định hay là tấm màn nói dối vĩ đại đă được cả thế giới tán thưởng!!! Đại Tá Thompson của phái đoàn Hoa Kỳ đẩy đưa vài lời cám ơn, nêu con số các chuyến bay trong ngày và kết thúc bằng một lời cám ơn khác. Người bạn đồng minh độc nhất không thể giúp ǵ tôi hơn được v́ hôm nay 18-2, Bắc Việt vừa thả đợt 2 tù binh Mỹ ở sân bay Gia Lâm: Tù binh Hoa Kỳ, gánh nặng lớn cuối cùng của chiến tranh Việt Nam cần phải giải quyết nhanh chóng trước tiên.

Tôi đứng dậy. Nắng cuối cùng của ngày đầu năm đă tắt, vùng núi đồi phía tây La Vang mờ trong sương xám, ngọn cờ Vàng ở đầu cầu Quảng Trị bay phần phật. Khói đạn pháo binh Bắc quân bắn vào vùng Tích Trường, Như Lệ của Nhảy Dù Việt Nam dâng cao từng cột... H́nh ảnh xa nhưng vang dội đau đớn trong ḷng. Tôi lâm chiến:

Thưa quí vị, tôi xin được thông qua các con số tù binh do chúng tôi trao trả trong ngày mà quí vị đă tận tường, tôi cũng xin thông qua các ưu điểm mà quí vị vừa xác nhận. Tôi xin đi thẳng vào “điểm nhỏ” mà Thiếu Tá Giang vừa nêu ra... Đó là “Tiêu đề Tù binh”. Thưa quí vị, tiêu đề “Tù binh Cộng sản Bắc Việt xâm nhập” hay “Tù binh Cộng sản hồi kết” hay “du kích” là những tiêu đề hiện thực tính chất thực tế về người tù binh đă được Quân cảnh Việt Nam Cộng ḥa thiết lập khi hoàn tất lư lịch căn cứ trên cung từ của mỗi người tù. Cung từ của mỗi tù binh được lập nên, đúc kết từ những câu hỏi liên quan đến các yếu tố cụ thể sau đây: Sinh quán của tù binh, ví dụ như tù binh đó sinh ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, Quảng Ngăi hay ở Thanh Hóa, Ninh B́nh, Nghệ An. Đơn vị của tù binh đó, ví dụ như tù binh thuộc các đội du kích ở Tân B́nh, Gia Định hay các Công trường 5, 7, 9 của lực lượng vơ trang thuộc Mặt Trận Giải Phóng miền Nam hay các Sư đoàn 308, 320, 324 B, 325 của Quân đội Nhân dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Cung từ của tù binh cũng xác định nơi xuất phát của đơn vị mà tù binh đó trực thuộc. Ví dụ như tù binh du kích thuộc xă Xuân Thới Thượng quận Tân B́nh tỉnh Gia Định xuất phát từ mật khu Lư Văn Mạnh nằm giữa Long An, Hậu Nghĩa, Gia Định, hay tù binh thuộc Công trường 7 xuất phát từ vùng Mơ Vẹt vượt biên giới Việt Miên tấn công vào Lộc Ninh, tràn xuống An Lộc. Và tù binh có tiêu đề “Cộng sản Bắc Việt xâm nhập” th́ được chỉ định cho những người phát xuất từ Nghệ An, theo đường ṃn Hồ Chí Minh hay đường dây “Xă hội Chủ nghĩa” xuống Nam Lào đến Tchépone theo đường số 9 vượt biên giới Lào Việt vào tham chiến tại mặt trận Trị Thiên. Cụ thể là tù binh thuộc Sư đoàn 325 Tổng trừ bị Quân đội Nhân dân Bắc Việt đang có mặt tại đây, tỉnh Quảng Trị của VNCH... Hiện thời, đă ở đây rất lâu.

Tôi ngừng nói, đưa mắt đi một ṿng, Thiếu Tá Giang, Thiếu Tá Vầy, Trung Tá Martin (Hung), Đại Tá Garrick (Gia Nă Đại)... Những ánh mắt khó chịu, những tia nh́n phẫn nộ... A! Ra tất cả đều muốn tránh xa sự thật, tất cả đều muốn bỏ qua sự kiện có một nước Nam Việt Nam, mọi người đều đồng ư thực hiện một màn dối trá bịp bợm theo khuôn mẫu của Hiệp Định ngưng bắn. Tờ cam kết được cả thế giới hoan nghênh. Mà giá trị đích thực chỉ là mảnh giấy tráo trở chứng nhận tṛ bịp lớn của thế kỷ và che dấu sự thật đau đớn của người Việt Nam.

Tôi hơi khép đôi mi, h́nh như những gân máu nằm trong mắt nổ to, căng phồng những lượng nước mắt phẫn nộ. Phía trái bên kia con sông thành phố Quảng Trị tan vỡ như một dấu tích ngàn đời không nguôi ngoai, Cổ Thành, Ṭa Hành Chánh, nhà thương... Đống đá vĩ đại bi thương kia chỉ cách năm trăm thước, như ngọn lửa đốt cháy thêm ḷng thù hận... Tôi gằn mạnh từng chữ, tiếp tục:

Và hơn ai hết, quí vị đă biết rơ, biết rất rơ những sự thật sáng như ánh mặt trời mà tôi vừa kể đến. Điều 1 và 2 của Nghị Định thư chỉ là một tṛ chơi chữ nghĩa muốn xóa tan một sự thật. Đó là có một nước Bắc Việt xâm lăng, tấn công miền Nam Việt Nam! Nếu quí vị có một trí nhớ khả dĩ, quí vị hăy nhớ năm 1966 chúng tôi đă phóng thích một số tù binh thuộc quân đội chính qui Bắc Việt về bên kia bờ bắc sông Bến Hải với những danh sách được thiết lập cùng tiêu đề này... Từ năm 1966 đến nay tính chất, lư lịch của những người tù binh căn cứ trên các yếu tố cụ thể vừa kể không thay đổi, vậy hôm nay không có lư do ǵ bắt chúng tôi phải xóa bỏ tiêu đề đó. Thế nên tôi xin lập lại: Chúng tôi vẫn tiếp tục duy tŕ tiêu đề “Tù binh Cộng sản Bắc Việt xâm nhập...” cho đến ngày chót của đợt trao trả tù quân sự đối với những tù binh gốc quân đội Bắc Việt.

Tiếng x́ xào bất măn, những ánh mắt toé lửa không che dấu. Tôi đứng thẳng chịu đựng sự tấn công của bốn hướng, chờ đợi những phản ứng bùng nổ... Lê Thanh Lân (Bắc Việt) nghiêng vai qua Vầy (Mặt trận giải phóng), cặp mắt màu xám chớp chớp, chiếc đầu đội nón ông sao gật gật theo những lời của Vầy. Thiếu Tá Vầy đứng dậy:

Đại Úy Nam đă tŕnh bày dưới một dạng thức vô lễ, mặc dù ở đây, Đại Úy Nam là người nhỏ tuổi nhất, nhỏ cấp bậc nhất...

Tôi cười nhạt, đứng phắt dậy nói trong tiếng hét:

Ở đây, chúng ta họp nhau lại để làm những công việc của lịch sử không phải để phân định cấp bậc và xét xem phẩm chất của mỗi cá nhân trên khía cạnh luân lư...

Anh thông dịch viên Chi lắp bắp hỏi... Làm sao dịch, có phải dịch không? Chẳng cần. Tôi ngồi xuống với một hân hoan tội nghiệp. Trước hay sau sự thật cũng đă bị đồng t́nh chối bỏ... Ư nghĩ xẩy đến làm rả rời, trầm hết xuống tất cả mọi ồn ào. Tôi nén tiếng thở dài...

Trở về bờ Nam, trời mù sương, chiếc máy bay bốc khỏi băi đáp đưa toán Ủy ban Quốc tế và Ban Liên Hợp Quân sự trở về Huế, tôi đứng lại giữa đám gạch ngói và những người lính thủy quân lục chiến đang chuẩn bị lại tuyến pḥng thủ đề pḥng đêm xuống lũ giặc bắc bờ sông. Đi bộ về ngă ba Long Hưng xuyên qua những đống đá lớn trên những con đường trơn trợt. Tôi đang đi trong ḷng Quảng Trị, thành phố có sức sống lâu dài kể từ ngày Chúa Nguyễn vào Nam. Đây là ǵ nhỉ? Đứng tần ngần trước một “ngôi nhà” mà chiếc mái bê tông đă bị bẹp xuống sát nền đất, dăy cửa bị ép lại thành một đám sắt vụn như chiếc ḷ-xo bị rối... Phải chăng đây là quán sách ở góc đường Gia Long? Tôi nh́n về phía Cổ Thành rồi so sánh lại... Cũng không thể nhận ra ngôi nhà mà suốt năm 1967 đă nhiều lần la cà qua lại. Tôi đi trong thành phố Quảng Trị cố vận dụng tối đa trí nhớ cũng không thể gom đủ chi tiết về một chỗ ở đă qua sống cùng trong thời gian dài. Bên kia bờ sông, năm trăm thước bề rộng, cuộc đấu lư vừa qua như một khinh bỉ không lường. Lương tâm trung trực của con người ở đâu?? Tôi không hiểu khi Kissinger và Thọ ngồi phân tích từng chữ, gọt dũa từng ḍng của Hiệp Định ngưng bắn, họ có ư thức đang cùng nhau thực hiện một dối trá ghê tởm chi phối mười lăm triệu người dân miền Nam Việt Nam, các bộ tham mưu của các văn pḥng chính trị khi phân tách, nghiên cứu t́m hiểu có ai đă phải bật cười v́ tính chất hồ đồ độc địa của những hàng chữ vô nghĩa có tác dụng che đậy tội ác vĩ đại. Tội ác cao như núi, tội ác ngập ngụa như biển máu, như rừng xác người đă nằm xuống trên chín cây số của Đại Lộ Kinh Hoàng, của dăy người chết nằm rải rác dưới những gốc cao su dọc đường 13... Cả thế giới đều bịt mắt, toàn thế giới vỗ tay, rung chuông, mở rượu, tung dây ngũ sắc để mừng ḥa b́nh Đông Dương, đón mừng Hiệp Định ngưng bắn, chuẩn bị cho Nixon lănh giải Nobel Ḥa B́nh, đồng công nhận Kissinger là “Ông Thế Giới” và chính phủ Hà Nội, tập đoàn cộng sản Bắc Việt là những kẻ tích cực góp phần xây dựng ḥa b́nh thế giới... Đau đớn biết bao nhiêu. Đau đớn quá!!

Hiệp Định ngưng bắn tái lập ḥa b́nh cho Việt Nam. Hàng chữ như một trêu ghẹo độc ác nhảy múa trong màn mưa, trên gạch ngói, những chữ rơi rớt lổng chổng trên con đường phố bị bóc hết nhựa hằn từng vết bùn đỏ chạch. Từ tờ đầu đến gịng chữ cuối không có một chương, một ḍng ấn định rơ rệt sự kiện Bắc Việt đă xâm lăng miền Nam. Không một gịng xác định Quân đội Nhân dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa rút về phía bờ Bắc sông Bến Hải trừ điều 5, nói mơ hồ về sự rút quân của các quân đội không phải của hai bên miền Nam Việt Nam. Đau đớn và độc địa quá, đám lính Bắc chỉ cần qua một buổi học tập là biến thành quân đội giải phóng, nên người Quảng Trị sơ tán vào núi theo lực lượng vũ trang của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam (!!) Ai trên thế giới sẽ gánh chịu sự lừa dối nham hiểm thô bạo nầy. Ḥa b́nh nào có được khi đám lính của các Sư đoàn 324, 325, 308, rặt một lớp người nói tiếng Bắc, dưới hai mươi tuổi, cố chấp, cuồng sát, cuồng tín biến thành “người Quảng Trị” kỳ quái trên, để sẵn sàng đào đường, chùi súng, sửa phi đạo, thiết lập giàn phóng hỏa tiễn trực chỉ vào bờ Nam sông Thạch Hăn?? Đây chính là tội ác của cả thế giới, từ anh trí thức bên trời Âu đến lũ ngụy ḥa b́nh đang lúc nhúc tràn ngập ở miền Nam, từ tên thủ lănh biển lận của thời đại thực dân c̣n sót lại ở Ba Lê đến anh chánh khách hèn mọn chờ thời làm con cờ lót đường trong buổi nhiễu loạn. Tất cả thế giới đang đồng ḷng che mặt hóa trang dự buổi dạ vũ máu trên thịt xương người Việt.

Hay thật, sự lừa dối khi đến mức siêu đẳng đă biến thành sự thật. Tội ác khi đạt đến mức tinh vi biến thành hành động cứu rỗi, phụng sự con người. Kim Dung khi tạo ra Vi Tiểu Bảo làm tṛ cười cho độc giả, chắc hẳn đă ư thức được sự tan vỡ của thời đại này, trong đó những tên dối trá, những kẻ cường bạo chi phối, điều động đại cuộc. Và ghê tởm hơn, cả một khối đông thế giới đều đồng ḷng xưng tụng tội ác...

Tôi đi trong Quảng Trị tan vỡ, đi trong mưa phùn, trên lầy lội, quăng đường dài xa xôi không c̣n lư hội... Cơn đau xót, nỗi phẫn nộ, trí căm hờn như át hẳn mưa rơi như xóa tan trời gió. Giông băo trong ḷng nghe thắm thiết đau đớn mănh liệt tưởng như ḍng khí độc tác hại hết giác quan... Làm ǵ được đây? Tôi làm ǵ được hở?!!

Tháng 3-1973 - Quảng Trị

 

 

 

Tù cộng sản... Tù cộng ḥa

 

Phi đạo nằm theo hướng Nam - Bắc vạch một đường đỏ thẫm giữa ḷng rừng cao su xanh lá. Trực thăng hạ xuống theo lối xoắn trôn ốc, mặt phi đạo hiện rơ dần... Bước xuống sân bay Minh Thạnh, cách quốc lộ 13 không đầy mười lăm cây số đường chim bay. Tôi vào đất địch.

Dưới tàng cây xanh im bóng, trong khu rừng tịch mịch, từ tốn hít từng hơi thuốc ấm, nghe tiếng gió vi vu thổi qua hàng lá dày... Tôi tận hưởng hết tất cả b́nh yên trước một ngày căng thẳng. Đám cán bộ cộng sản đến từ Sài G̣n đang “hội ư” với những cán bộ địa phương. Chỉ c̣n khoảng thời gian “trong sáng” này để sống cho riêng ḿnh. Nửa giờ nữa, một con người thật lạ phải thế chỗ trong tôi.

Hôm nay, tôi dự kiến cuộc trao trả về phía cộng sản bốn trăm người và nhận lại hai trăm. Địa điểm này tôi đă xuống một lần, đă biết được thế nào là chiến pháp cư xử của cán bộ cộng sản miền Nam có cán bộ cộng sản miền Bắc chỉ huy kiểm soát. Biết, nên giương sẵn mọi cẩn thận đề pḥng. Minh Thạnh - Tây Ninh. Mật khu Ba Thu nằm bên kia biên giới Miên - Việt chỉ cần một ngày một đêm di chuyển. Nhân viên của cục R đă ra mặt hoạt động. Khu rừng cao su mông mênh, những người Mỹ ngồi bên cạnh nhỏ to th́ thào, tôi lọt hẳn giữa những bũa vây im lặng mở đầy phong ba.

...Để tránh gây khích động tâm lư nơi những người sắp được trao trả, để biểu lộ ḷng yêu chuộng ḥa b́nh đích thực trong tinh thần ḥa hợp và ḥa giải dân tộc... Chúng tôi yêu cầu đại úy chỉ thị cho quân cảnh không được mang vũ khí vào khu vực trao trả, tất cả phải để lại trên máy bay...- Anh cán bộ Mặt Trận mở đầu.

Tôi cúi đầu nh́n xuống đất cỏ, phân chia lời nói theo các thứ tự để trả lời... Không được mang vũ khí, lại một khó khăn mới. Việt cộng quả hơn người ở điểm sáng tạo, mỗi ngày phải gây thêm một khó khăn. Những đ̣i hỏi kế tiếp: Trực thăng không được lượn ṿng trên phi đạo (?!); Quân cảnh phải gọi anh trước tên mỗi tù binh. Quân cảnh không được điểm danh tù khi trao trả (Dù phía MT chưa kư nhận chữ kư cuối cùng ở mỗi danh sách). Những anh Ủy Ban Quốc Tế gật đầu, những anh Bắc Việt gật đầu, những anh Mặt Trận miền Nam trong tổ Liên Hợp cũng gật đầu... Trung Tá Tuệ, gă cán bộ tuổi quá ngũ tuần, da xanh bụng ỏng ồ ề giọng nói đầy những âm thanh đặc thù của vùng quê Bắc Việt. Trung Tá Tuệ, chỉ huy trưởng phi trường Minh Thạnh, người có kiến thức quân sự phi trường ở câu nói: Cứ bảo máy bay C-130 đáp xuống đi, cán bộ phi trường của chúng tôi bảo đáp được...!! Cán bộ “kỹ sư phi trường” Minh Thạnh, một anh mắt toét, răng hô hấp him đôi mắt nh́n ra phi đạo ửng nắng gật gật chiếc đầu xác nhận sự đồng t́nh góp ư với ông chỉ huy phi trường. Ai bảo chủ nghĩa xă hội vô giai cấp? Chú Mạ Què quả t́nh là nhân vật chống cộng hữu hiệu và đúng cỡ nhất đối với cộng sản Á Châu.

Máy bay sắp đến, tôi phải chấm dứt màn kịch để bắt đầu công việc. Trung tá “tư lệnh” phi trường Minh Thạnh bệ vệ lên chiếc xe Jeep mang huy hiệu Nhảy Dù... A! Người cộng sản vẫn biết xỏ xiên láu cá như ai (v́ họ thấy tôi mặc đồ rằn ri nên lấy chiếc Jeep bắt được của nhảy dù ra lái).

Cuộc trao trả bắt đầu với những phiền toái bực ḿnh cố hữu. Những bộ áo quần gượng gạo vứt bỏ khỏi thân thể, những hộp trái cây, hộp thịt e dè ném đi, những cánh tay đưa lên hô khẩu hiệu hững hờ, những ánh mắt lơ láo, những cái siết tay nồng nàn nhạt thếch... Cả một lớp hài kịch bi thảm dằng dặt cũ kỹ được diễn lại trong gượng gạo thảm thương pha lẫn vị khôi hài. Bộ quần áo nâu mới và bọc quần áo (của VNCH cấp phát) được ném đi để nhận lại một tấm khăn rằn mỏng như vải mùng cùng một bộ áo quần xanh mới nhuộm lem luốc đậm nhạt từng khoảng màu loang lổ. Hài kịch “cách mạng” ném áo quần này không hiểu do rỉ tai nào đă xúi dục v́ những cuộc trao trả trong những ngày đầu tiên (12, 13 tháng Hai 1973) tại các địa điểm Lộc Ninh, Thạch Hăn không thấy thực hiện, và chắc chắn không phải do tự ư tù binh; v́ hơn ai hết, những người này sau khi được trao trả, họ sẽ không c̣n dịp nào để có những bộ áo lành lặn, tốt đẹp, chắc chắn như thế này. Bộ quần áo nâu có chữ T.B. (tù binh) bắt buộc phải cởi đi nhưng những chiếc quần lót, mùng chăn là những vật dụng không thể nào có được nữa. Chẳng phải là lư luận suông nhưng cứ nh́n y phục của đoàn quân “cách mạng” mới biết thế nào là sự thiếu thốn, tàn tệ của quân đội cộng sản, Cộng sản Nam cũng như Bắc. Những bộ áo quần sờn ṃn (đây là dịp trọng đại mới đem ra mặc) những chiếc dép vẹt đế. Tất cả y phục tội nghiệp nghèo khó đó thật khó ḥa hợp với những khuôn mặt kiêu căng đầy vẻ tự măn trẻ con đến độ buồn cười. Nét kiêu căng của “Nhân dân cách mạng giác ngộ” hiến thân cho Độc Lập, Dân Tộc và Chủ Nghĩa!!! Có một điều ǵ bất ổn trong cảnh sống của người cộng sản. Loại người đặt căn bản hành động trên hệ thống luận lư biện chứng duy vật nhưng lại hướng đến những tiêu chuẩn tâm linh nhiều hơn ai hết... “Tự do, Cộng sản, Xă Hội, Cách Mạng” rốt cuộc chỉ là những danh từ trống được bơm vào đó chút say sưa kích thích để xô đẩy cả bao thế hệ vào ḍng vận động cuồng tín... Năm 1973, năm của những tiến bộ khoa học tưởng chừng như trong chuyện cổ tích, nhưng người cộng sản Việt Nam vẫn phải khó khăn đấu tranh với từng mẫu sắn, từng lon gạo, một hai điếu thuốc khô, dăm ba chiếc kẹo ngọt trên bước đường đấu tranh thần thánh thực hiện chủ nghĩa xă hội th́ quả t́nh quá tội nghiệp. Cả một đội vận tải trên đường dây “Chủ Nghĩa Xă Hội” (đường ṃn Hồ Chí Minh) phải “hội ư” (hội họp) từ năm giờ chiều đến chín giờ tối để đạt “tiêu chuẩn” “tiếp thu” năm điếu thuốc. Đội vận tải gồm những kỹ sư, bác sĩ, những cán bộ mang quân hàm trung, thiếu tá phải b́nh nghị, hội họp suốt bốn tiếng đồng hồ để đạt “tiêu chuẩn” phân chia năm điếu thuốc Điện Biên. Thế nên cuộc cách mạng vô sản giải phóng miền Nam phải cần nh́n lại mục đích và phương tiện. Phải chăng cách mạng đă là một việc vô ích và quá phí phạm phương tiện. Nhưng phương tiện “người” trong chế độ cộng sản phải chăng là yếu tố không hao ṃn, yếu tố không cần phải lư hội.

Tôi không nh́n sự “nghèo” của người cộng sản để bỉu, nhưng quan niệm tính chất “nghèo” đó là một ưu điểm cần phải đấu tranh để thực hiện th́ không thể nào chấp nhận được với đầu óc b́nh thường. Người cộng sản Việt Nam đă thực hiện được ǵ trong ba mươi năm đấu tranh trên đại dương mênh mông xác chết, chiếc xe đạp của một cán bộ cao cấp ở Hà Nội, bộ áo quần thô kệch của viên “Tư Lệnh phi trường Minh Thạnh”, bữa cơm không có thịt trong suốt mười tám năm của người dân Tuyên Quang miền Bắc, hai điếu thuốc lá được viên kỹ sư máy nổ “tiếp thu” trên đường dây chủ nghĩa xă hội như mặt trái của tấm gương phản chiếu những chữ nghĩa rực rỡ, nghe xa xăm như một giấc mộng mơ hồ không bao giờ có thật.

Tàn tệ như thế, thê thảm như thế, nhưng người tù cộng sản trước giờ trao trả khi bước ra khỏi ḷng máy bay, chân bước xuống mặt đất “giải phóng” phải hành động như một lũ người mê man... Tay vỗ vào nhau, mồm cất giọng khàn đặc...”Đoàn kết chúng ta là sức mạnh... Thề chết không hề lui. Giết cho hết loài bán nước...” Giết cho hết loài bán nước th́ quá sai với “Tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc” mà những người lính cộng sản “Nam Việt Nam” xuất phát từ trại Xuân Mai, Hà Đông, nói giọng Sơn Tây, Thái B́nh đang nhắc đi nhắc lại hoài xem như là phương châm chỉ đạo mới! Bài hát phải được x́ xào chỉ thị đ́nh chỉ, để bậm tay nâng cao hoan hô: “Hồ Chủ Tịch muôn năm... Tinh thần chống Mỹ cứu nước bất diệt...” Hồ Chủ Tịch không hề là Chủ Tịch của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam và “tinh thần chống Mỹ” th́ quả t́nh đă được xóa tan từ lâu. Tôi muốn nhắc họ yếu tố nầy. Nhưng như một lũ đồng bóng đă bị cốt nhập, đám tù bắt đầu cởi áo quần, ném tay nải... Chiếc quần lót, vật xa xỉ của chế độ cộng sản được ném đi với hối tiếc không dấu được trong ánh mắt để bậm môi, quắt mắt, vung tay hô to khẩu hiệu. Sự hận thù dù cần thiết trong cuộc chiến bi thảm cũng đă là một điều tàn nhẫn, huống ǵ bây giờ (khi tiếng súng tạm ngừng nổ trên văn bản Hiệp Định), nên những khích động căm hờn, những xúi dục phẫn nộ này mang một nét bạo ngược tàn ác lỗi thời... Anh cảm hóa ai? Thù hận người nào? Ai là lũ bán nước? Ôi nước rách tan không do sự góp tay tích cực của người cộng sản sao? Căm thù lũ bán nước, giết lũ tham tàn, mùa thu 1945, mùa đông 1946, cuối thập niên 50, đầu những năm 60, đă được hát bao nhiêu lần, đă được vỗ tay bao nhiêu lần... Người Pháp, Ông Diệm, chống Mỹ... Bao nhiêu đối tượng đă thay đổi mà nội dung cứ măi cũ kỹ nhạt nḥa. Thật lạ, có những quy luật sơ đẳng tưởng chỉ như là chuyện đầu môi hóa thành động lực căn bản. Căm thù, thứ gia vị thô thiển độc địa mà người cộng sản thêm vào bữa tiệc máu người Việt Nam không chán ngấy. Cộng sản sẽ là ǵ khi không c̣n khích thích tố mê man đó? Con chó Pavlov không thể nhỏ giọt nước bọt nếu thiếu tiếng chuông khiêu gợi. A! Chỉ mỗi tiếng chuông lạnh đó, chỉ mỗi hai chữ ngắn nhức nhối kia mà cả một khối người bị chi phối, những người có đủ trí thức, giác quan nhưng đă mất phần nhân bản, người c̣n xác nhưng lạc hồn, người không phải sống cho người nhưng cho Cách Mạng, cho Tổ Quốc, Ḥa B́nh, Tiến Bộ, Xă Hội Chủ Nghĩa... Câu hỏi không phải là phản ứng cực đoan của một tinh thần “chống cộng” quá độ. Tôi chỉ muốn tự hỏi sao có những con người quá quy tắc, bị ḱm kẹp, huấn luyện đến độ cuồng tín như thế này. V́ được trả tự do, phải có nghĩa là nhảy lên khỏi mặt đất chật hẹp, phải vung tay thật cao để hít cho hết lượng gió mát mênh mông của trời cao; nhưng những người tù cộng sản không được quyền biểu lộ niềm sung sướng đó, họ phải chứng tỏ “kiên gan, duy tŕ tinh thần quyết chiến, quyết thắng...”; họ phải biểu lộ “ḷng căm thù không suy giảm, trí căm hờn không phôi phai...” Họ phải quên những giờ khắc của năm trước, năm kia khi phải đưa tay đầu hàng trước mũi súng của người lính Việt Nam, phải quên những đối xử nhân đạo sau khi đă trao cây súng, phải quên điếu thuốc chân thành được mời hút dù trong vị thế tù binh... Họ phải quên luôn thực tại. Một thân thể chắc cứng khỏe mạnh với lồng ngực nở nang, những bắp thịt ở vai ở lưng cuồng cuộn... Thân thể căng phồng chiếc áo tù binh, hừng hực mùi muối bể và không khí tốt lành của trại giam Phú Quốc, thân thể cường tráng vạm vỡ nổi bật lên dưới ánh nắng, tương phản cực độ với thứ nước da xanh mái, h́nh vóc c̣m cơi thiếu hụt của những đồng chí tiếp đón. Người tù cộng sản phải quên hẳn sự thật trên thân thể họ để đứng lên tố cáo: “Chế độ giam giữ hà khắc tàn nhẫn của trại giam Phú Quốc...” Viên trung úy Bắc Việt lóng cóng chiếc máy ghi âm để thâu lời tố cáo... Nh́n thân thể gầy g̣ của anh ta dưới chiếc áo đại quân lụng thụng bên cạnh lồng ngực trần cường tráng của gă tù binh khi nghe câu tố cáo “Traị giam đă bỏ đói, hành hạ chúng tôi...” Cùng với sự chăm chú ghi nhận của các sĩ quan Ba Lan, Hung Gia Lợi, tôi nghe trong ḷng nỗi phẫn nộ băo bùng dấy lên như giông tố... Sự thật được che đậy và lật ngược trong tráo trở tỉnh táo, ngang ngược vô liêm sĩ đến tận cùng!!

V́ sự thật không phải chỉ trên thân thể gă tù cộng sản, sự thật c̣n ở cuối phi đạo cách nơi trả tù cộng sản năm trăm thước, góc rừng hai trăm người lính Việt Nam ngồi im lặng với cặp mắt đứng tṛng...

Có chắc trả không Đại úy, tụi em có được trả không Đại úy...

Chắc mà, chiếc trực thăng bay đi th́ có chiếc kia lại liền... Tôi đến đây để lănh các anh em...

Đại úy, em... có được trả về ḿnh không...

Cả trăm con người ngồi th́ thào to nhỏ, lo sợ từng tiếng nói, lo sợ từng đầu ngón tay lóng cóng đón điếu thuốc do tôi mời, lo sợ ở đôi mắt lạc thần cứ coi chừng măi “anh cán bộ”... Tôi muốn nói một câu ǵ thật đủ, tôi muốn làm một việc ǵ thật mạnh mẽ, muốn ôm lấy hết hai trăm người lính đưa họ ra thẳng trực thăng, bay lên thật nhanh, để tránh khỏi vùng rừng cao su thẫm đặc, những gă cán bộ canh gác lầm ĺ soi mói, nét độc ác ngấm ngầm tràn đầy trên những sợi gân máu đỏ rực... Tôi muốn đẩy đám sĩ quan Ba Lan, Hung Gia Lợi, Gia Nă Đại... đến tận từng người tù để họ thấy lớp da người lở loét ăn sâu xuống phần xương tay, để họ thấy những đôi mắt hủng, chiếc má vàng bủng tưởng như đọng cứng cả một khối vi trùng độc hại dưới lớp da mỏng tanh vàng bệch... Tôi muốn hét to cho cả khu rừng, cho cả thế giới biết đâu là cường bạo, đâu là sự thật, gă tù nhân trại Phú Quốc cách xa đây năm trăm thước với lồng ngực vạm vỡ cùng những lời tố cáo như một cái xiên nung đỏ chọc hẳn vào mắt tôi khi nh́n người tù Việt Nam Cộng Ḥa không kêu nổi được tiếng “có mặt” loạng choạng run rẩy từng bước một, đi qua chiếc bàn của nhân viên trao trả... Sự thật ở hai thân thể đối cực này nhưng tại sao cả thế giới, cả hằng triệu người trên thế giới vẫn dành riêng những ư niệm tốt đẹp cho người cộng sản, cả những người chân tu, những nhà hiền triết h́nh như đều nghĩ một chiều, hướng một phía Phía cộng sản. Tôi muốn gọi họ đến đây chỉ vào từng đôi mắt người tù để cả nhân loại ngộ nhận t́m được sự thật... Người tù binh đứng dậy, một đáy quần sũng nước. Trong cơn chờ đợi thảng thốt người lính đă đái ra quần!!!... Không phải vậy, phải nghe lời anh nói: Em sợ tụi nó lắm, tụi nó tàn ác không phải như người đối với nhau... Em sợ xin nó đi tiểu rồi nó giữ lại không trả th́ chết mất... Tôi muốn chảy nước mắt, tôi muốn khóc gịng phẫn nộ... Gă Ba Lan đâu rồi? Tôi muốn nói cho hắn ta nghe lời nói, tiếng kêu của người đă ở trại giam cộng sản. H́nh như mọi người dấu mặt, h́nh như mọi người đă đánh mất lương tri, chẳng có ai chụp h́nh vũng nước tiểu đọng trên nền đất phủ đầy lá, chẳng ai chụp h́nh hai trăm con người ngồi dật dờ như một đám xác chết chưa tẩm liệm, sao không có tên Hung Gia Lợi nào chụp h́nh người tù Việt Nam ngă qụy trên phi đạo mồm sủi nước dăi v́ thiếu ăn!! Hung Gia Lợi Chúng ta đă dành cho dân tộc này biết bao cảm t́nh trong những ngày Budapest đổ máu cho tự do. Nhưng h́nh như những người Hung yêu tự do, sống cho sự thật đă không đến nơi này, chỉ có đến đây những cán bộ cộng sản mang quốc tịch Hung Gia Lợi. Hóa ra người sống cùng người không phải do tương quan của hai chủ thể nhân bản nhưng do chính trị của quốc gia, đảng phái xác định. Người Hung Gia Lợi phải ũng hộ cộng sản Việt Nam và gây bất lợi cho Việt Nam Cộng Ḥa. Chỉ thị đă được học tập, phổ biến thế, nên gă tù Bắc Việt với thân h́nh lực sĩ lớn tiếng tố cáo chế độ giam giữ hà khắc của Việt Nam Cộng Ḥa vẫn hữu lư hơn h́nh ảnh người tù Việt Nam ngồi lạc thần, không dám tin vào sự thật sắp được trao trả, kiệt sức để không nói lên được hai chữ “có mặt”...

Chỉ thị đă ban bố, gă sĩ quan Hung phải xóa bỏ lương tri, phải tự che mắt để không thấy sự kiện, gă chỉ được chụp h́nh người tù Bắc Việt đưa tay lên hô đả đảo, bỏ qua bàn tay ghẻ lở thấu xương của người tù Việt Nam. Cách vong thân đi đến mức tuyệt hảo khi quan niệm hành xử như thế là đúng với công lư và chân thật!!! Không phải chỉ mỗi Trung Tá Martin thuộc nước Cộng Ḥa Nhân Dân Hung Gia Lợi này tin vậy, nhưng h́nh như toàn thể nhân loại. Những dân tộc tiến bộ và yêu chuộng ḥa b́nh của toàn thể thế giới. Đều mắc phải chứng bạo ngược tâm lư với dân tộc Việt Nam. Phải có một ngày sự thật nầy hẳn được nhận ra.

Tháng 3-1973

 

 

Vấn đề Tù Binh

 

Ngày 27-1-1973, Hiệp Định Ba Lê được kư kết, đ́nh chỉ chiến tranh Việt Nam. Hiệp Định gồm có chín chương bao gồm tất cả các điều khoản căn bản để thực hiện ngưng bắn và giải quyết những vấn đề do ḥa b́nh đem đến. Việc trao trả tù binh giữa các bên tham chiến là một nét chính của Hiệp Định, được quy định bởi Chương III, Điều 8, ấn định tổng quát công việc trao trả và một Nghị Định Thư (NĐT) gồm mười bốn điều nhằm qui định nhiệm vụ, chức năng của mỗi bên, đồng thời phác họa một số quy định để các bên làm cơ sở thi hành. Việc trao trả nhân viên quân - dân sự của hai bên miền Nam được thiết lập từ Điều 8 Hiệp Định và Nghị Định Thư kể trên. Có thể tạm gác vấn đề trao trả những tù binh quân sự Hoa Kỳ và các nước ngoài (Những nước tham chiến trong khuôn khổ quân viện của thế giới tự do giúp Việt Nam Cộng Ḥa), thường dân Hoa Kỳ và các nước ngoài do Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Mặt Trận Giải Phóng bắt giữ và trao trả. Chủ điểm chính của hai bài viết là vấn đề những tù binh Quân-Dân sự của hai bên miền Nam Việt Nam mà Điều 8 (a+c) đề cập, cũng như Điều 1 và 7 Nghị Định Thư ấn định trên những nguyên tắc căn bản để giải quyết.

Điều 8 Hiệp Định và Nghị Định Thư về trao trả tuy trên h́nh thức đă ấn định một số điều khoản cần thiết để trao trả, có thể thực hiện được với một mức độ hiệu quả, nhưng không khí chung của toàn thể những bản nội dung trên lại đặt căn bản trên một tính chất mơ hồ và uyển chuyển “tinh thần nhất trí ḥa hợp ḥa giải giữa các phe lâm chiến” cụ thể là “tính chất ḥa giải trong tinh thần dân tộc của hai phe miền Nam.” Một bản văn chính trị đặt cơ sở trên tính chất tâm lư khởi đầu đă tạo nên một không khí không mạch lạc, dứt khoát; v́ vậy các bên kư kết có thể nh́n lời văn dưới nhiều quan điểm khác chiều, đôi khi đối nghịch. Trong tính chất tổng quát đó Điều 8 Hiệp Định cũng như Nghị Định Thư về trao trả đă vô t́nh (và cố ư) bỏ qua sự kiện: Có những quân nhân và nhân viên dân sự Việt Nam Cộng Ḥa bị các lực lượng chính qui của quân đội Bắc Việt bắt và giam giữ; những người lính Việt Nam Cộng Ḥa bị bắt ở ngoài lănh thổ miền nam Việt Nam và những thường dân Việt Nam bị bắt bởi lực lượng Cộng sản trong suốt thời gian từ khi phát khởi cuộc đấu tranh tại miền Nam từ những ngày đất nước phân ly (20-7-1954). Tuy Điều 1 và 7 của Nghị Định Thư đă nói tổng quát đến vấn đề toàn thể nhân viên quân sự và dân sự của hai bên miền Nam bị bắt giữ trong chiến tranh phải được hoàn toàn trao trả hết, ấn định một thời lượng cơ bản để hoàn tất công tác này; 60 ngày, để trả hết tù quân sự; 90 ngày để trả tù dân sự trong tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc cho những người ở cả hai phe hiện bị giam giữ ở các trại giam bên nầy hoặc bên kia. Nhưng Điều 1 và 7 Nghị Định Thư chỉ mới là cái khung cần thiết chứ chưa phải là điều kiện đủ để giải quyết thỏa đáng vấn đề tù binh Việt Nam; Điều 1 Nghị Định Thư chỉ kể ra: Tất cả Nhân viên Quân sự Việt Nam bị bắt, thuộc các lực lượng vũ trang chính qui hoặc không chính qui sẽ được trao trả cho hai bên miền Nam Việt Nam; những người nào phục vụ dưới sự chỉ huy của bên miền Nam Việt Nam nào th́ sẽ được trao trả cho bên miền Nam Việt Nam đó. Vấn đề cơ bản đă có kẽ hở ở đây. Những tù binh của quân đội miền Bắc sẽ được giải quyết ổn thỏa khi Việt Nam Cộng Ḥa trao họ cho lực lượng vũ trang giải phóng; những xáo trộn về địa bàn hoạt động của những tù binh nầy sẽ được giải quyết ổn thỏa cho dù các đơn vị tiếp nhận có trực thuộc vào cục R (Trung ương Cục miền Nam), đường lối chỉ đạo chính trị vẫn phát xuất từ Bộ Chính Trị Đảng Lao Động miền Bắc; nên khi tù binh quân sự Cộng sản vốn là lính của Sư đoàn 324B Bắc Việt được trao trả tại Lộc Ninh do nhân viên tiếp nhận của Mặt Trận Giải Phóng đề cử vẫn có được cơ sở tinh thần để tiếp tục công tác trong ḷng đơn vị mới.

Kẽ hở nguy hiểm nhất của điều 1 NĐT giương lên về phía Việt Nam Cộng Ḥa v́ điều 1 này đă không đề cập với mực độ chính xác tối thiểu đến những quân nhân VNCH bị bắt bởi các đơn vị chính quy miền Bắc, những người bị giam giữ ở trong các trại giam Bắc Việt, Lào, Kampuchia. Kẽ hở cũng chính là lư hướng nguy hiểm nhất của Hiệp Định: Ngụy trang hay không đề cập đến sự tham chiến của lực lượng quân sự chính qui miền Bắc tại chiến trường miền Nam. Trong tinh thần này, câu “Sinh Bắc Tử Nam” không chỉ là khẩu hiệu tác động tinh thần nhưng là một ư niệm chiến lược chỉ đạo mà đảng Cộng sản miền Bắc quyết tâm thực hiện.

Nghị Định Thư cũng có kẽ hở khác ở Điều 7, khi không xác định rơ rệt và dứt khoát những thường dân VNCH bị bắt trong thời gian dài của mười chín năm chiến tranh. “Tinh thần ḥa hợp và ḥa giải dân tộc” được nhắc lại trong Điều 7 này không đủ khả năng để giải quyết t́nh trạng bi thiết mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu trong cuộc chiến cục bộ của hai ư hệ đối nghịch. Con số 67.501 thường dân và cán bộ của VNCH bị bắt từ năm 1954 - 1/1975 phải là một con số có thực mà ư niệm ḥa giải của Điều 7 này không làm sao bao gồm được, Mặt Trận Giải Phóng (MTGP) đă đeo cứng vào những kẽ hở để xóa bỏ những thực tế bi thảm này.

 

Diễn Tiến

 

Ngày 27-1-1973 là ngày bắt đầu thi hành những biện pháp cụ thể tích cực tái lập ḥa b́nh, Hoa Kỳ đ́nh chỉ oanh tạc khắp lănh thổ VN các phe lâm chiến ở miền Nam đ́nh chỉ các cuộc hành quân, ở nguyên tại vị trí, cùng ngày tại Ba Lê, VNCH trao cho Mặt trận Giải Phóng (MTGP) danh sách 4.285 người. Đại diện MTGP khi trao danh sách đă đưa ư kiến sẽ bổ túc thêm danh sách để tỏ thiện chí, cụ thể hóa tinh thần ḥa giải ḥa hợp dân tộc. Phiên họp đầu tiên của Tiểu Ban Tù Binh Ban Liên Hợp Quân Sự 4 bên ở Sài G̣n nhóm vào ngày 3-2-1973. Vấn đề trao trả tù binh theo danh sách trên bắt đầu đặt lên bàn hội nghị.

Trong thời gian 60 ngày (kể từ 28-1-1973) theo Điều 8a Hiệp Định và 4a Nghị định thư (NĐT) về trao trả, Tiểu Ban Tù Binh 4 bên đă nhóm họp tất cả 50 phiên để hoàn tất việc trao trả 26.508 nhân viên quân sự MTGP, 585 nhân viên quân sự Hoa Kỳ các nước ngoài và 4.956 nhân viên quân sự VNCH trong bốn đợt. Bốn đợt trao trả đă được bốn bên thực hiện như sau:

VNCH trả 26.508 người ở bốn địa điểm: Lộc Ninh (B́nh Long), Minh Thạnh (B́nh Long), bắc sông Thạch Hăn (Quảng Trị) và Bồng Sơn (B́nh Định).

VNCH nhận 1.956 người ở bảy địa điểm: Lộc Ninh, Quảng Trị, Minh Thạnh, Thiện Ngôn (Tây Ninh), Bồng Sơn (B́nh Định), Đức Phổ (Quảng Ngăi), Tam Kỳ. Riêng địa điểm Đức Nghiệp (Pleiku) tuy đă thám sát ba lần nhưng 410 nhân viên Quân Sự (NVQS/VNCH) hiện tại ở địa điểm này vẫn chưa được trao trả, phải đợi đến hơn một năm sau, MT mới được trả làm ba đợt kéo dài trong một tháng từ 8-2-74 đến 7-3-74 với tỷ lệ thiếu là 31/410.

MTGP và Bắc Việt (BV) trả 585 nhân viên quân sự Hoa Kỳ và thường dân các nước ngoài tại hai địa điểm Lộc Ninh và Gia Lâm (Hà Nội). Trong số nầy có một binh sĩ Đại Hàn được trả tại Đức Phổ (Quảng Ngăi) và hai lính Thái Lan tại Gia Lâm.

Tổng cộng hai bên miền Nam đă xử dụng tất cả bảy địa điểm để trao trả và tiếp nhận số NVQS mỗi bên trong thời hạn do Hiệp Định đề ra. Ngày 28-3-73, chấm dứt thời hạn sáu mươi ngày của NĐT. Vấn đề tù binh quân sự được tạm kết thúc với 26.508 nhân viên quân sự MTGP được trao trả và 4.956 NVQS/VNCH; vấn đề c̣n lại có hai điểm cụ thể : 410 người ở Đức Nghiệp chưa được trao trả và 210 phía Mặt Trận hồi chánh ở Biên Ḥa và hai mươi tám người t́m tự do phía VNCH chưa được hợp thức hóa đúng thủ tục trao trả (Theo quan điểm phía Cộng sản). Ngoài ra, một số lớn quân nhân VNCH hiện c̣n bị giam giữ cũng là một mối quan tâm lớn mà Tiểu Ban Tù Binh VNCH phải cố gắng thuyết phục để phía CS chấp thuận bổ sung. Vấn đề nhân viên quân sự này đă kéo dài quá thời hạn sáu mươi ngày, lan qua thời hạn chín mươi ngày quy định cho vấn đề nhân viên dân sự, và kéo dài cho đến ngày 3-1-74 (Ngày Mặt Trận trả đợt chót của 410 người ở Đức Nghiệp) mới tạm coi giải quyết xong.

Theo tinh thần Điều 7b NĐT trong ṿng mười lăm ngày kể từ ngày kư kết 27-1-73 hai bên phải phổ biến danh sách nhân viên dân sự mà hai bên giam giữ và phải hoàn tất trong ṿng 90 ngày kể từ ngày 27-1-1973 việc trao trả toàn bộ số nhân viên dân sự được thông báo. Để thi hành đứng đắn điều khoản trên, phía VNCH trong phiên họp ngày 12.2.1973 đă mang sẵn danh sách đầy đủ 5081 NVDS/MTGP để trao đổi, đổi lại phía Mặt Trận dự định chuyển giao một danh sách chỉ vỏn vẹn 140 người. VNCH không thể chấp thuận con số này nên cuộc trao đổi bất thành. 140 người, một số lượng quá ít ỏi so với 67.501 nhân viên dân sự và thường dân VNCH đă bị bắt trong khoảng thời gian 1954-1973. 67.501 người có đủ chi tiết hộ tịch, các trường hợp bị bắt, ngày tháng, nơi bị bắt được tu chỉnh đầy đủ chi tiết. Trước đ̣i hỏi hợp lư của VNCH với danh sách chính xác, MT không thể muối mặt ngoan cố hơn được đành phải bổ sung vào số lượng 140 bằng những con số kế tiếp: 60, 200, 28 và 209... tổng cộng tính đến ngày 2.4.1973, MTGP công bố một danh sách 637 người và xác định: Đây là con số cuối cùng, nếu có bổ sung thêm th́ cũng chỉ có được với một, hai người đâu đó mà họ chưa kiểm kê chính xác được. Con số 637 người vẫn c̣n là một cách xa không bù so với tổng số 67.501, nên VNCH một mặt vẫn đ̣i hỏi MT bổ sung đến một con số thỏa đáng; một mặt để tỏ thiện chí, tôn trọng thời hạn do NĐT đề cập, nên đă thiết lập một kế hoạch trao trả bắt đầu vào ngày 28.4.1973 để thăm ḍ thiện chí của phía CS. Kế hoạch dự trù trả 750 người cho MT tại Lộc Ninh và bắc sông Thạch Hăn từ 28.4.73 đến 11.5.73, đồng thời nhận về 385 người ở ba địa điểm Lộc Ninh, Quảng Trị, B́nh Định. Nhưng đúng như dự kiến của VNCH, đối phương đă gài vào số lượng 385 người được trao trả này 128 quân nhân VNCH, một tỷ lệ vô lư vi phạm trầm trọng yếu tố chính của tinh thần trao trả: Trao trả nhân viên dân sự giữa hai bên miền Nam. Trước sự tráo trở này cùng những thủ đoạn xảo trá tại các địa điểm trao trả nhằm mục đích ngăn chận người muốn t́m tự do về phía VNCH, điển h́nh trong cuộc trao trả ngày 9.5.73 tại Quảng Trị khi 10 trong 25 người của danh sách thứ nhất phát biểu nguyện vọng t́m tự do, cán bộ MT tại địa điểm bắc Thạch Hăn đă trở mặt đ̣i hợp thức hóa những người này ngay ở cuối đợt trao trả danh sách thứ nhất nầy. Trái với thủ tục phát biểu nguyện vọng đă thỏa thuận trên nguyên tắc ở BLHQS/2B/TƯ”. Sự kiện đă làm tŕ hoăn việc trao trả cho đến ngày 11.5.73. V́ những lư do xác đáng này, VNCH tạm thời đ́nh chỉ công tác để kiện toàn lại thủ tục hầu có một bản văn làm căn bản để có thể thi hành ở tất cả mọi địa điểm trao trả hoặc tiếp nhận.

Ngày 13.6.73, Thông Cáo Chung Ba Lê được kư kết để t́m một giải pháp tích cực và cụ thể hơn cho việc thi hành Hiệp Định ngưng bắn, vấn đề trao trả nhân viên quân sự và dân sự cũng được đề cập chặt chẽ bởi Điều 8 của Thông Cáo Chung này và một số thời lượng chính xác khác lại được nêu ra làm mốc để việc trao trả phải được hoàn tất nhanh chóng: Vấn đề nhân viên quân sự phải được giải quyết trong 30 ngày, nhân viên dân sự trong 45 ngày kể từ 13-6.

Nhưng Thông Cáo Chung cũng như Hiệp Định ngưng bắn, dù với những điều khoản thiện ư cùng các qui định chặt chẽ tới đâu cũng không thể thực hiện được v́ tính ngoan cố căn bản của phía cộng sản, huống ǵ ngay trong căn bản, Hiệp Định đă vô t́nh hay hữu ư có những kẽ hở trầm trọng to lớn, và MT núp sau đó, làm nơi trú ẩn tránh né sức công phá do đ̣i hỏi hợp lư cụ thể của phía VNCH. Thế nên số lượng nhỏ nhoi 637 cần được phía MT kiên tŕ giữ vững với lập luận:

- Chúng tôi chỉ có chừng đó và kế hoạch trao trả cho quí vị chỉ có được với số c̣n lại của 637 (385 người đă trả ở Quảng Trị, Lộc Ninh, B́nh Định).

Một lần nữa để tỏ rơ cùng thế giới ḷng tha thiết muốn thực hiện ḥa b́nh bằng những biện pháp tích cực nhất, VNCH lại khởi đầu lập ra một kế hoạch trao trả khác kể từ 23-7-73 đến 28-8-73 để trả hết số nhân viên dân sự MTGP c̣n lại của 5.081 (750 đă trả theo kế hoạch ngày 28-4 và 11-5 tại hai địa điểm Lộc Ninh và Thiện Ngôn) đồng thời thâu nhận 410 nhân viên quân sự VNCH ở Đức Nghiệp và 252 dân sự. Kế hoạch này không thực hiện.

Trước Tết Giáp Dần, phía VNCH muốn khai thông vấn đề trao trả với hy vọng cuộc trao trả sẽ tiến hành và kết thúc trước Tết. Nhưng hai bên đă nh́n vấn đề theo hai quan điểm đối cực. Phía Việt Nam muốn đặt vấn đề trong khung cảnh toàn bộ, muốn giải quyết toàn thể tù binh (gồm số tù đă được thông báo nhưng chưa trả hết và quân nhân VNCH bị bắt ở Hạ Lào, Kampuchia, Mậu Thân, và tổng số nhân viên dân sự bị bắt cóc từ 1954 hay trở về trước nữa...) Trái lại, phía MT chỉ muốn tiếp tục lại kế hoạch bị bỏ dỡ từ tháng 7-1973; họ quan niệm kế hoạch này là toàn bộ vấn đề tù binh, trả hết số tù binh nầy là kết thúc. Vấn đề Tù Binh (nếu gọi là c̣n) tức là số 200.000 nhân viên dân sự và tù chính trị thuộc lực lượng thứ ba hiện VNCH đang giam giữ (!); theo quan điểm của họ 410 quân nhân VNCH và 252 nhân viên dân sự là những “con số thực tế” cuối cùng! Thật gọn, ai bảo người cộng sản không biết khôi hài; quả t́nh họ khôi hài độc địa và thâm hiểm hơn bất kỳ loại khôi hài đen nào.

Tết Giáp Dần đi qua, kế hoạch không được thực hiện, măi tới ngày 8-2-74 một cuộc trao trả mới được bắt đầu để kết thúc vào ngày 7-3-74. Cuối cùng VNCH trao trả đủ số 5081 nhân viên dân sự thêm 76 nhân viên quân sự cho Mặt Trận, nhận về 410 người ở Đức Nghiệp (với số thiếu là 31/410) và tỷ lệ thiếu về nhân viên dân sự là 12%... Một cuộc chiến tranh ư hệ dài dằn dặt được kết thúc với con số 252 c̣n lại của tổng số 637 người dân, nhân viên dân chính bị bắt.

 

Những con số đau đớn

 

Theo Điều 8a của Hiệp Định Ngưng Bắn và Tái Lập Ḥa B́nh tại Việt Nam, trong ṿng 60 ngày kể từ ngày kư kết 27-1-1973 những phe tham chiến tại Việt Nam sẽ trao trả hết số tù quân sự và thường dân nước ngoài hiện đang bị giam giữ, đồng thời phải trao đổi ngay danh sách đầy đủ về số tù nhân này trong ngày kư kết.

Vấn đề tù binh dân sự Việt Nam được qui định giải quyết trong một thời gian 90 ngày đặt căn bản trên Điều 21 (b) của Ḥa Ước Genève (Điều khoản này định nghĩa : Nhân viên dân sự bị bắt là người đă tham gia vào cuộc đấu tranh vũ trang hoặc chính trị tại một bên ở Việt Nam mà bị bên kia bắt giữ. Cuộc tham gia này có thể là dưới nhiều h́nh thức miễn không là ở cương vị người lính.

Vấn đề cụ thể và đau đớn của cuộc chiến, một cuộc chiến khốc liệt cao điểm của phương thức chiến tranh giải phóng, cuộc chiến tinh quái độc hại rối rắm nhất của nhân loại được giải quyết bởi 11 gịng gồm 195 chữ của Điều 8 HĐ và bốn trang của NĐT gói ghém toàn bộ cách thức giải quyết. Trên cơ sở mong manh hàm hồ nhiều cạm bẫy này, vấn đề tù binh dần được giải quyết với sự thiệt hại nghiêng dần về phía Việt Nam Cộng Ḥa. Phải viết đủ bốn chữ như thế để phân biệt với “hai” thứ Việt Nam kia, những người Việt no say hưởng bữa tiệc rượu máu của những người Việt đang bị giam giữ: Những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa.

Trong những ngày soạn thảo văn bản Hiệp Định và các Nghị Định Thư, không hiểu những người có nhiệm vụ bớt từng chữ, từng câu khi cố t́nh loại bỏ sự có mặt của quân đội Bắc Việt, của “nước” Bắc Việt để che dấu những thỏa thuận biển lận, thâm độc chính trị, có nghĩ rằng họ đang sửa soạn một bữa tiệc máu: Máu những người lính Việt Nam Cộng Ḥa bị quân đội Bắc Việt bắt giữ khi giao tranh. V́ Điều 1 và 2 NĐT/TB không có phân biệt rơ ràng để xác định có bao nhiêu loại tù binh, nên dù cố gắng soi sáng bằng tất cả mọi góc cạnh tỉ mỉ mười bốn hàng chữ của hai điều khoản đó, ta cũng chỉ nhận được có bốn loại tù binh : Tù binh Hoa Kỳ và quân đội nước ngoài (Những nước đă tham chiến giúp VNCH), thường dân nước ngoài thuộc quốc tịch Hoa Kỳ hay của bất cứ nước nào khác (Phi, Úc, Nhật...) và hai loại tù dân - quân sự của miền Nam Việt Nam : tù do Việt Nam Cộng Ḥa bắt giữ và tù của Mặt Trận Giải Phóng!! Không có một gịng chữ nào gợi đến những người lính chính qui đă phát xuất từ Bắc Việt theo đường ṃn Hồ Chí Minh vào tham chiến tại mặt trận B2 (Trị Thiên), B3 (Ba biên giới)... Không có một chữ, nghĩa dù mơ hồ để chỉ những tù nhân quân sự bị bắt tại trận địa, ḿnh xâm câu “Sinh Bắc Tử Nam”, trả lời thẳng thắng: “Tôi thuộc Sư đoàn 304B do Thượng Tá Nguyễn Sơn chỉ huy, đơn vị thành lập năm 1965 tại Thanh Hóa, xâm nhập miền Nam ngày 9-10-1967, tham chiến tại Khe Sanh kể từ ngày 19-1-1968...” Không có một gịng chữ để chỉ loại tù này: Những người lính đi B (đi Nam) và lẽ tất nhiên cũng không có chữ nghĩa vô ích để gọi đến cái Sư đoàn 304B kia! Kinh khiếp thật, cả thế giới a ṭng cùng quân cướp, trong đó có những người được nổi tiếng v́ hoạt động cho ḥa b́nh!! Và thê thảm hơn cả, đau đớn hơn cả, hệ luận tất nhiên của hai điều khoản trên ắt phải xảy ra: Không có quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa bị bắt bởi quân đội Bắc Việt...

 

Tóm lại: Chiến dịch Hạ Lào (2-1971), chiến dịch đánh vào hậu cần Cục R trên đất Miên (5-1970), rơ rệt nhất là cuộc tổng công kích vào miền Nam trong Tết Mậu Thân, và mới mẻ hơn hết: Cuộc đại chiến mùa hè 1972, những cuộc giết người vĩ đại được hợp thức hóa thành chiến tranh cục bộ do phong trào “Nhân dân miền Nam giác ngộ yêu nước chủ động hoặc do Nhân dân Khmer và Pathet Lào kiên cường chống xâm lược...” Người lính Việt Nam Cộng Ḥa bị bắt trong các trận chiến nầy bị hư vô hóa, vô hiệu hóa và vô tính hóa. Không có loại tù binh đó trong Hiệp Định Ngưng Bắn và Tái Lập Ḥa B́nh tại Việt Nam. Vấn đề tù binh sẽ được giải quyết trên căn bản “Ḥa hợp, ḥa giải dân tộc, chấm dứt thù hận, giảm bớt đau khổ và để người tù đoàn tụ với gia đ́nh...” Cả thế giới hoan nghinh tinh thần đẹp đẽ và điều khoản nhân đạo của Hiệp Định...

 

Người tù quân sự VNCH, anh ở đâu? Cả thế giới đồng ḷng xóa bỏ sự hiện diện đau đớn bi tráng này. Thế Giới, Nhân Loại, trong khi ngửa cổ uống ly rượu “ư thức ḥa b́nh tiến bộ” có nghĩ đến những người lính miền Nam đang bị cùm chân ở núi rừng Cao-Bắc-Lạng. Người Tù rớt khỏi tṛ chơi Ḥa B́nh.

 

Để trao đổi với VNCH khi bên này công bố bảng danh sách tù quân sự 26.750 người của Mặt Trận Giải Phóng bị giam giữ. Trong danh sách 26.750 tù binh cộng sản, VNCH liệt kê các thành phần: Quân đội chính qui Bắc Việt xâm nhập; lực lượng hồi kết (Thuộc các đơn vị ở Trung và Nam Việt Nam tập kết ra Bắc sau Hiệp Định Genève 1954 và xâm nhập về Nam từ 1959 trở đi...); đơn vị chính qui và du kích thuộc MT. Đối lại, MT chỉ ghi chú số 5.018 người là do quân giải phóng bắt giữ được trong mười năm chiến tranh. Cộng sản chỉ dự trù trao trả cho VNCH những tù binh phần lớn bị bắt trong năm 1972, một số ít của những năm 68, 69, 70, 71... Tù binh trước năm 68 không hề được đề cập và liệt kê vào danh sách. Thâm hiểm hơn hết họ không trao trả số quân nhân VNCH đă bị bắt trong các cuộc hành quân vượt biên với lư luận đây là tù binh của Phathet Lào và của Khmer Đỏ.

Phía VNCH không thể nào chấp nhận danh sách 5.018 người kia trả là tổng số thực tế của mười năm dài chiến trận. Không thể chấp nhận nầy v́ sẽ phạm tội đồng lơa khi gọi số lượng nhỏ kia là con số thực tế. Sau cuộc trao trả, khi so sánh danh sách 5.018 người được trao trả nầy với danh sách đă phổ biến tại Ba Lê người ta thấy ngay được con số lớn chênh lệch: 29 sĩ quan, 1033 binh sĩ và hạ sĩ quan (Có tên trong danh sách 5.081 phổ biến ở Ba Lê) nhưng không được trao trả. Sự kiện có thể hiểu theo hai cách: V́ có 29 sĩ quan và 1033 hạ sĩ quan, binh sĩ trong danh sách này đă chết nên bây giờ phía cộng sản thế vào bằng một số người khác; hoặc 29 sĩ quan và 1033 binh sĩ sau này tuy không được liệt kê vào danh sách Ba Lê như dự trù nhưng v́ danh sách thiếu hụt số lượng người trao trả nên họ bù vào cho đủ số. Tất cả hai luận lư đều có chung một kết luận: “C̣n rất nhiều quân VNCH hiện đang c̣n bị giam giữ trong lao tù cộng sản”. Như dẫn chứng sau đây, Tiểu đoàn 101 pháo binh đóng tại Gio Linh, tháng 3-1972; Bắc quân mở đầu đại chiến mùa hè, căn cứ hỏa lực của tiểu đoàn nầy bị tràn ngập, trung úy Thành bị bắt và đem giam tại Bắc Việt. Một bức ảnh chụp tù nhân VNCH tại miền Bắc trong đó có Thành được đăng lên báo Đoàn Kết (Bắc Việt) và phổ biến tại Ba Lê. Gia đ́nh cũng nhận được lời nhắn tin của Thành qua đài Hà Nội. Sự kiện về trung úy Thành rơ ràng cụ thể không che lấp, dấu diếm nhưng chắc rằng Thành đă có hành động chống đối, lời nói bất phục nên Thành không được trao trả. Tất cả bằng chứng về Thành được đưa ra ở bàn hội nghị của ban LHQS. Phe Mặt Trận “ghi nhận” chi tiết và đi qua trong tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc”...

Trường hợp của Thành chỉ là một ví dụ điển h́nh, cụ thể, của hằng ngàn người hiện c̣n bị giam giữ trong sáu mươi trại giam rải rác khắp ba lănh thổ Việt, Miên, Lào, trong đó những trại giam miền Bắc Việt Nam được ghi nhận chính xác là mười hai trại. Trong mười hai trại ở Bắc Việt có trại T2 (thành lập vào khoảng tháng 4-71 sau chiến dịch Hạ Lào hai tháng) đặt tại vùng hai xă Việt Hồng, Việt Cường huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái, trong trại này có những quân nhân Việt Nam bị bắt ở chiến dịch Hạ Lào, những sĩ quan như Đại tá Nguyễn Văn Thọ Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 3 Dù, Thiếu Tá Trần Văn Đức sĩ quan ban 3, Thiếu Tá Phương. Đại úy Thương, những sĩ quan pháo binh của Tiểu đoàn 3 Pháo, đơn vị trấn giữ đồi 31. Những con người có thật đă nói ở đài Hà Nội, bị giam ở những trại đă được kiểm chứng, do lời tiết lộ của những người vừa được trao trả, do cung cấp của những hồi chánh viên có nhiệm vụ quản lư trại... Những tài liệu chính xác, những dẫn chứng cụ thể, những lời nói được thâu băng... Tất cả trở nên vô hiệu, vô ích trước cộng sản. Phía MTGP lư luận: Những sĩ quan như Đại tá Thọ, Thiếu tá Phương, Đức,... Như quí vị vừa nêu ra, chúng tôi xin ghi nhận; nhưng chúng tôi xin thông báo trước: Những nhân viên quân sự đó không thuộc quyền “quản lư” của chúng tôi, họ tham chiến tại Nam Lào bị lực lượng Pathet Lào bắt được, chúng tôi chỉ v́ “t́nh đồng bào” (?!) ḷng nhân đạo, sẽ “quan hệ” với lực lượng Pathet Lào để thả các anh em đó ra v́ dù sao họ cũng là người Việt Nam (!!).

Khỏe ru, MTGP, Bắc Việt ung dung thông qua vấn đề, v́ Hiệp Định, Nghị Định Thư không nói đến loại tù nầy... Quân Bắc Việt không tham chiến ở Lào, ở Nam Việt Nam. Tóm lại, lănh thổ và chính quyền đó đứng ngoài cuộc chiến tranh. Quái đản và đau đớn quá, nhiều cái mồm hét lớn hoan hô ḥa b́nh, hoan hô thiện chí... Có nhiều nguyên do gây nên chiến tranh, gây nên tội ác. Danh từ là một trong những nguyên nhân chính yếu. Cộng sản, những người chiến đấu v́ danh từ và dùng nó để che dấu vết giết người. Rất nhiều người không thấy rơ mặt cộng sản sau những danh từ: Ḥa B́nh, Ḥa Hợp, Ḥa Giải...

Tạm gác vấn đề tù quân sự lại, phương thức giải quyết sẽ vô cùng khó khăn khi va mặt với bức tường đá cộng sản. Chúng ta đi tiếp vấn đề. Tù dân sự, khuôn mặt bi thảm thứ hai của vấn đề tù binh. Sau ngày 27-1-1973 Phủ Tổng Ủy Dân Vận phổ biến một tập danh sách tổng kết số thường dân và cán bộ dân sự bị cộng sản bắt cóc kể từ 1954. Tổng số là 67.501 người, gồm 50.747 thường dân và 16.754 cán bộ. Con số tuy lớn nhưng vẫn là con số chính xác căn cứ vào những chi tiết cụ thể đă được kiểm chứng kỹ. Ngoài ra c̣n có một số lớn thường dân ở những vùng hẻo lánh bị bắt cóc mà chính quyền không kiểm kê được. Đối diện với số người to lớn có đủ dẫn chứng về tên họ, gia cảnh, sinh quán, chức vụ, ngày và nơi bị bắt, người cộng sản tỉnh táo trả lời đến độ ngang ngược: Năm 1959, Phong trào nhân dân vũ trang giải phóng mới được phát động, ngày 20-12-1960, Mặt Trận Giải Phóng mới chính thức thành lập... Vậy thật vô lư khi bảo Mặt Trận đă tham dự vào công việc bắt cóc thường dân và cán bộ VNCH trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1960!! Được đà, đám cán bộ trong bàn hội nghị tiếp tục: Kể từ năm 1960 trở về sau này, quả t́nh MT có bắt giữ một số cán bộ, những người dân không “giác ngộ”, những người dân không có “ư thức cách mạng tiến bộ...”, nhưng v́ chính sách của MT là cải tạo, giáo dục và không... giam giữ, nên số người nầy sau một thời gian học tập đă giác ngộ (!!). Mặt Trận đă thả họ về nhà hoặc để họ “tự động” tham gia vào phong trào nhân dân vũ trang yêu nước (!!?). Cuối cùng để chứng tỏ thiện chí và tinh thần tôn trọng Hiệp Định và Nghị Định Thư, Chính phủ Lâm Thời trao cho Việt Nam Cộng Ḥa một danh sách 140 người hiện bị MT giam giữ để chứng tỏ ḷng yêu chuộng ḥa b́nh. MT luôn sẽ cố gắng bổ sung thêm nếu có!!

Thậm quái đản, không có sự ngang ngược nào hơn thế nữa, cuộc chiến dài giữa hai ư hệ đối nghịch trong thời gian dài mù mịt chỉ có được 140 người tù dân sự. Và đúng như danh từ “cải tạo, giải phóng” mà CS gán vào cho những người thường dân, cán bộ dân chính VNCH, cũng thật đúng nữa khi họ bảo không có chế độ giam giữ. V́ họ đă giết, giết rất nhiều cán bộ hành chánh và thường dân vô tội. Nhân loại thế giới khi vỗ tay ca ngợi lũ người xanh mặt bủng từ mật khu đi hội Ba Lê v́ “thiện ư ḥa b́nh” hăy hiểu rơ họ đang cổ vơ tán thưởng “những kẻ giết người”. Những đao phủ thâm ác và nhiệt tâm từ ư thức giác ngộ cách mạng; được gây hứng khởi bởi máu xương của người dân miền Nam nước Việt. Người dân Huế chết trong Tết Mậu Thân, người Quảng Trị trên chín cây số xác người của “Đại Lộ Kinh Hoàng”, người B́nh Long ngă gục dọc đường số 13... Chủ nghĩa siêu nhân của Nietzsche gây cơn hứng giết người cho dân tộc Đức, giáo điều Mao Trạch Đông giúp Vệ Binh Đỏ xuống tay quá độ không ngần ngại... Và ở Việt Nam, nơi đáy sâu tai ương khốn nạn, thứ Marxisme thô sơ được biến thể và cập nhật hóa bởi đầu óc ngoại hạng họ Hồ giúp đám cán bộ đảng Lao Động giết người vô tội trong tận cùng thỏa thuê với ư thức giác ngộ sáng suốt... Kinh tởm quá, hậu bán thế kỷ 20 vẫn c̣n số đông nhân loại mang chứng bạo ngược tinh thần để a ṭng cùng kẻ sát nhân qua máu xương người Việt thụ nạn.

Cuối cùng, phe cộng sản tỉnh táo kết luận như trên, dù khi phía VNCH công bố chi tiết về trại Ba Sao ở Nam Hà (Nam Định và Hà Nam) trong số có các ông Bảo Lộc, Phó Tỉnh Trưỏng Thừa Thiên, Nguyễn Văn Đăi Ủy viên Chính phủ Vùng I, Hà Thúc Tứ Trưởng ty Hỏa xa Đà Nẵng, Nguyễn Đ́nh Bá sinh viên và nữ kư giả Nguyễn Thụy An. Và cụ thể nhất là trường hợp của Bác sĩ Nguyễn Đệ Trưởng Ty y tế Bồng Sơn bị cộng sản bắt trong tháng 5-1972, đă bị khám phá bởi kư giả báo Ashahi Shinbul. Báo nầy viết : “Trường hợp của Bác sĩ Đệ bị bắt ép phải ở lại, là một vết nhơ của vùng giải phóng...” Những người này không có tên trong danh sách 637 người bổ túc.

Ngày 12 tháng 2/73, cuộc trao trả tù bắt đầu, Bắc Việt trả tù ở Gia Lâm, Việt Nam Cộng Ḥa trả ở Thạch Hăn, Mặt Trận Giải Phóng trả tù ở Lộc Ninh. Cuộc trả tù ở Gia Lâm diễn tiến tốt đẹp. Hà nội c̣n trả thêm một trung tá v́ mẹ ông này bịnh. Tại Quảng Trị phíaVNCH đem tù đến bờ nam sông Thạch Hăn, toán cán bộ gốc Bắc Việt ở bên kia sông chưa kịp chuẩn bị v́ thiếu phối hợp, nên từ chối tiếp nhận. Tại Lộc Ninh, MT chơi tṛ ma giáo, hẹn trả lúc 8 giờ 30, măi đến chiều tối mới trao trả. Ông tướng Woodward phản pháo lập tức bằng một kháng thư gởi đến Chủ tịch Ủy Ban Quốc Tế và một văn thư cảnh cáo Trướng Trà với xác định: Việc trao trả của quân nhân Hoa Kỳ chỉ liên hệ trực tiếp với việc rút quân của Hoa Kỳ. Việc rút quân này diễn tiến theo đúng thời hạn ấn định, không có lư do nào để giải thích những tŕ hoăn tương tự...

Tháng 2, 3 năm 73 qua hết, 556 tù Quân sự Mỹ được hoàn tất đúng boong kỳ hạn, cả hai anh Bắc Việt và Mặt Trận sau hai lần thử gió người Mỹ, đă phải de lui v́ phe nầy nắm trong tay nhiều sức mạnh để quyết định... Chúng tôi không đến đây để đùa cùng quí vị, ông Cố vấn Kissinger đang có mặt tại Hà Nội (2-73) với những chỉ thị của Tổng Thống chúng tôi để yêu cầu quư vị dứt khoát trả các tù nhân Hoa Kỳ đúng thời hạn... Câu nói cứng rắn nhiều uy thế của Tướng Woodward, của Đại tá Russell đẩy mạnh vấn đề của Hoa Kỳ êm đẹp. Việt Nam Cộng Ḥa cũng hoàn tất việc trao trả 26,508 tù quân sự cộng sản (c̣n 210 chưa hợp thức hóa là người t́m tự do). Mặt Trận trở mặt giữ 410 quân nhân VNCH lại Đức Nghiệp không có giải thích thỏa đáng, được che dấu dưới luận điệu : Chúng tôi luôn đặt tinh thần nhân đạo lên trên mọi tác động chính trị. Và tiếp tục giữ 410 người ở Đức Nghiệp nầy quá thời hạn sáu mươi ngày, chín mươi ngày cho đến tháng 7 năm 1973. Ba tháng đi qua đă có 30 người chết trong các trại giam. Vấn đề tù quân sự được tạm thời đ́nh chỉ đầu tháng 5-73 để bắt đầu cuộc trao trả cho MT 750 tù dân sự và nhận về 385... Kế hoạch đang trên đà tiếp tục bỗng bế tắc v́ Ủy Ban Quốc Tế không chịu đến địa điểm trao trả nếu MT không chịu bảo đảm hành lang không lưu. Người Cộng sản cũng không chịu nhận tù ở địa điểm nam Thạch Hăn v́ muốn lợi dụng địa điểm bắc Thạch Hăn để ngăn những người tù không muốn về phía Mặt Trận. 36 người hồi chánh trong 750 người trao trả của đợt I tù dân sự chắc chắn sẽ có thêm một đa số không chịu về phía bờ bắc Thạch Hăn nơi có những lá cờ máu và cán bộ đáng nói giọng miền Bắc với danh xưng. “Người Quảng Trị”. Ngoài ra MT c̣n chuẩn bị thêm một chiến thuật khác nhằm khai triễn và lợi dụng những người như Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Long... để tạo dựng nên một thành phần thứ ba, những người chắc chắn sẽ gây nhiều trở ngại và rối rắm ở địa điểm trao trả với số phóng viên báo chí ngoại quốc mà Mặt Trận bố trí sẵn sàng. Trong t́nh trạng dằn co của tháng 5, 6, 7, 1973 phía VNCH nỗ lực đ̣i hỏi phía CS trả hết số tù nhân đă được thông báo, ưu tiên là 410 quân nhân ở Đức Nghiệp; số tù dân sự c̣n lại và trọng tâm của yêu cầu là những tù nhân VNCH c̣n bị giam rải rác khắp nơi trên lănh thổ Đông Dương; cụ thể là 7.061 tù nhân quân lẫn dân sự của 34 trại ở nam và bắc Việt Nam. Trước con số cụ thể, những dẫn chứng minh bạch, những vị trí chính xác của trại giam, phía CS vẫn cố t́nh che lấp vấn đề bằng lập luận ngang ngược và cố chấp đến cùng cực.

Chúng tôi chỉ c̣n một hoặc hai người là nhiều, quí vị đánh ở Nam Lào, ở Kampuchia, nếu bị bắt là do Pathét Lào, Khmer Đỏ bắt giữ chứ không phải chúng tôi. Những lập luận quái đản, những lư lẽ hàm hồ được lập đi lập lại không ngượng ngùng bằng những ngôn từ nghiêm trang mẫu mực. Bức tường đá cố chấp không t́nh người vẫn đứng nguyên trước những đ̣i hỏi hợp lư. Tù nhân Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n bị cùm kẹp nơi hốc núi, cuối ḷng rừng ở Tuyên Quang, Vĩnh Phú (Vĩnh Yên À Phú Thọ), Yên Bái, Sơn Tây. Những viên chức hành chánh VNCH vẫn phải lao động sản xuất đến hơi thở cuối cùng trong trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa, hệ thống trại giam Lư Bá Sơ cũ. Trại Lư Bá Sơ, nơi địa ngục trần thế của lũ người nghiện men máu và hơi xác chết qua một thời gian dài. Chỉ c̣n mười ngày nữa là hết thời hạn bốn mươi lăm ngày của Thông Cáo Chung 13-6-1973 những lính Biệt Kích, Nhảy Dù của Lữ Đoàn 3 thuộc trại T371 nơi núi rừng Lạng Sơn hằng ngày vẫn phải kiếm lá, nhặt rau để ăn cầm hơi v́ phần gạo “tiêu chuẩn” tối thiểu... Trong khi ở Trà Mi miền Nam, Trà Bồng, Ba-Tơ, A-Sao, A-Lưới bao nhiêu quân nhân vẫn đang bị học tập cải tạo, sống với tiêu chuẩn hai vắt cơm cùng vài hạt muối mỗi ngày. Mười ngày nữa, thời hạn sẽ qua đi, tù cộng sản được trả hết, phía VNCH c̣n lại ǵ để bàn căi, để đặt vấn đề. Đau đớn quá, tiếng thét của hàng vạn người Việt Nam Quốc Gia không vang được đến tai người đồng đội, không thoát khỏi tàng cây, không vượt qua đỉnh núi... Các anh sẽ ra sao, những người lính đồi 31 Hạ Lào, của căn cứ Hỏa Lực A1, A2, Gio Linh, các anh sẽ ra sao những người đă giữ vững Tân Cảnh, đă tử thủ Hoài Ân, những người chiến đấu cho Ḥa B́nh, cho nhân loại, cho thế giới.

Mặt Trận c̣n xử dụng một chiêu thức khác để chạy tội về vấn nạn tù binh, bằng cách nêu lên đ̣i hỏi: phía VNCH phải trả tự do ngay lập tức và không điều kiện 200.000 (?) tù chính trị hiện c̣n đang bị giam giữ. Họ lư luận: “Đây là những người tranh đấu cho Ḥa b́nh, Ḥa giải, Dân Tộc”... Thuộc về “thành phần lực lượng thứ ba”; một lực lượng tối cần thiết để thành lập Hội Đồng Hoà Giải Dân Tộc!!! 200.000 người theo MT là tống số thường phạm hiện c̣n đang bị giam giữ ở các nhà giam VNCH.

Đây là một đề tài tương đối mới mẻ mà Mặt Trận vừa mới đưa lên bàn hội nghị kể từ tháng 5-73. Vấn đề này sở dĩ xuất hiện muộn v́ có hai lư do mà chúng ta có thể dẫn chứng không sợ sai lệch.

Trong những tháng 3 và 4-73, MTGP dồn nỗ lực để tiếp nhận con số lớn 26.750 nhân viên quân sự được VNCH trao trả đồng thời tranh thủ thời gian để kịp nhận số nhân viên dân sự cộng sản (5081 người) mà VNCH sắp trao trả. Nhân tố này là một thành phần tối cần thiết để MTGP bổ sung lại lỗ hổng cán bộ hạ tầng đă tan vỡ và vô hiệu hóa sau biến cố Mậu Thân, hoặc do hậu quả và các chiến dịch vượt biên của quân đội VNCH năm 1970, 1971; các đường giây giữa cục R và cơ sở nông thôn như giao liên tiếp vận, chuyển quân đă bị đứt hẳn hoặc chùng lại trong suốt những năm 69, 70, 71, 72.. Số cán bộ hạ tầng này cũng để dùng thay thế lớp cán bộ chính trị Bắc Việt hiện tại đang khuynh loát toàn thể cơ cấu của Mặt Trận, lớp cán bộ miền Bắc này đă được bố trí vào hạ tầng cơ sở nông thôn miền Nam trong âm mưu chiến lược của cuộc đại tấn công 1972 do các sư đoàn chính qui Bắc Việt. Nhưng có lẽ sau đợt tiếp nhận từ 28-4 đến 11-5-73 với 750 nhân viên dân sự, MTGP thấy không thể khai thác đám cán bộ này với nhiều lư do, có những lư do nội tại tiêu cực là lớp người này đă mất hẳn cơ sở tinh thần tranh đấu, hoặc áp lực tích cực của khối cán bộ gốc Bắc Việt. Thế nên, cách hăm hở, nôn nóng ban đầu nguội dần, Cộng sản xoay mũi đấu tranh qua địa bàn tù chính trị.

Lư do thứ hai có thể giải thích sự muộn màng việc Mặt Trận Giải Phóng trở hướng chiến đấu v́ từ tháng 5-73 trở đi họ mới có đủ tài liệu và dữ kiện để nhập trận. Khi có những tài liệu về các trại giam Côn Sơn, Tam Hiệp, báo chí, sách vở của nhóm trí thức Công Giáo tả khuynh như Ngọc Lan, Chân Tín, tập Bạch Thư của Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận; Mặt Trận Giải Phóng tận lực khai triển hợp cùng với những đợt tấn công của các hiệp hội đoàn thể có khuynh hướng cộng sản, thiên tả lấy mục tiêu nhà tù VNCH làm chủ điểm đấu tranh. Nội ngoại tiếp ứng nhịp nhàng để tạo thành cơn nổ lớn với đề tài À Tù chính trị ở miền Nam. Nắm được điểm chủ yếu của phong trào, Mặt Trận Giải Phóng khai triển tối đa thành phần nhân viên dân sự mang tội phá rối trị an như luật sư Long, luật gia Thành sinh viên Mẫm, Ban, Lan, Huệ... Với sức đẩy của phong trào, người cộng sản nỗ lực biến những người này thành một lớp “tù chính trị trung tính, một lực lượng thứ ba yêu nước” chỉ v́ đấu tranh cho ḥa b́nh mà bị cấu thành tội. “Khối thứ ba” nầy rất cần thiết cho giai đoạn ḥa giải và ḥa hợp dân tộc. Một khối thứ ba với kỹ thuật đấu tranh sách lược hoạt động và quá tŕnh tư tưởng là cộng sản. Công tác này bắt đầu được đẩy mạnh trong tháng 6-73. Phía MT tổng hợp số người “thực tế” nầy với số 200.000 người trên để tạo nên một thực tế “ma” là 200.000 tù chính trị!!!

Với chủ đích nghiêm trọng như thế, Mặt Trận Giải Phóng kết lập tất cả mọi dữ kiện từ cuốn sách của Dân biểu Nhuận với một lời tuyên bố của một giới chức VNCH liên quan đến vấn đề tù nhân, bài báo của nhóm linh mục cộng sản giáo tả khuynh ḥa điệu cùng bức thư của sinh viên Mẫm. Tất cả diễn ra nhịp nhàng chặt chẽ với sự tiếp hơi của các đoàn thể, hiệp hội khuynh tả trên thế giới, đặc biệt của nhóm Công Giáo Cấp Tiến đang có ảnh hưởng mạnh lên thành phần trí thức phản chiến Tây Phương. Và phong trào đă dừng lại trên cao điểm: Việt Nam Cộng Ḥa hiện đang giam giữ hàng trăm ngàn người tù chính trị trong các trại giam Côn Sơn, Tam Hiệp, Phú Quốc, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, các trại giam ở 44 tỉnh, ở các quận... Lời tố giác cũng yêu cầu Việt Nam Cộng Ḥa phải thả vô điều kiện các thành phần sinh viên học sinh tranh đấu, các nhân vật Châu, Long, Trọng, Thành... Cam kết không bắt giữ họ lại. Mục tiêu này cùng hiện rơ khi MT đưa ra trên bàn hội nghị một dự thảo thủ tục trao trả có nguyên một điều khoản để đề cập đến thành phần “không thuộc hai bên miền Nam” nầy... Chiến thuật tố cáo này cũng là một đ̣n né khi Việt Nam Cộng Ḥa đưa ra đ̣i hỏi bổ sung danh sách NVDS/VNCH theo tập thống kê 67.501 như đă tŕnh bày.

Diễn tiến cũng như kết quả của vấn đề này đă một lần được hiện rơ khi phía chúng ta trao trả hai mươi nhân viên dân sự gốc sinh viên học sinh, trong ngày 23-7-73 tại Lộc Ninh. Từ khi xuống trực thăng cho đến khi hoàn tất thủ tục trao trả nhóm sinh viên này đă lộ hẳn t́nh trạng. Đó là một thứ cán bộ cộng sản đă thấm nhuần cách thức đấu tranh do MTGP phát khởi và huấn luyện. Mặt trận đă chuẩn bị tinh vi để đám sinh viên học sinh này có cơ hội phát biểu trước Ủy Ban Quốc Tế với thực chất được ngụy trang sinh viên học sinh tranh đấu cho ḥa b́nh dân tộc thuần túy” để tố giác Việt Nam Cộng Ḥa đă giam giữ họ cũng như nhiều tù chính trị khác mà không qua căn bản pháp lư nào, mở đầu mối xích chuỗi đấu tranh liên tục cho vấn đề “tù chính trị”. Nhưng khôn ngoan, thâm độc là một chuyện, sự thật và công lư lại là một khía cạnh khác, Điều 7 (a) Nghị Định Thư đă nêu rơ chỉ có hai thành phần nhân viên dân sự để hai bên miền Nam trao trả. Hai thành phần nhân viên dân sự đó là những người đă dự phần vào cuộc đấu tranh ở một bên này hay bên kia dưới bất cứ h́nh thức nào trong tác động vơ trang hoặc chính trị nên bị một bên kia bắt giữ (Điều 21b Genève). Thế nên bằng tất cả mọi nổ lực, 24 giờ sau khi tiếp nhận đám sinh viên học sinh này, Mặt Trận Giải Phóng đă không gây được một tiếng vang hiệu quả nào khác ngoài sự cố gắng tuyệt vọng để khai triển một vấn đề mà thực chất đă bị ngụy danh.

 

Tù Binh, anh đi về đâu?

 

Như tiêu đề đă nêu trên, phần lớn của tập bút kư này là viết về người tù, về cảnh tù, về những người thê thảm và cảnh đời tan vỡ. Trong những đoạn đă viết qua, tôi tŕnh bày đủ một vài khía cạnh chính yếu về tù nhân Việt Nam Cộng Ḥa do phía Cộng sản bắt giữ, những người tù thảm hại nhất của chế độ tù tội nhân loại. Những người tù bị ngụy danh, bị sỉ nhục, bị tước đoạt hết giá trị con người cùng quyền hạn, khả năng thực hiện thực đời sống. Cộng sản đă không gọi họ qua danh từ thông thường. Tù nhân (dù đă là từ ngữ đen tối, thấp kém đau đớn nhất), nhưng họ bị chụp bởi những chiếc mũ: Giặc, ngụy, hoặc phản nghịch. Các trại tù lại được ngụy danh thành trại sản xuất, trại cải tạo, tù nhân được chia thành đội ngũ để xẻ núi, làm đường, trồng ngô, trồng sắn để sản xuất, tự lực cánh sinh... Trả nợ nhân dân!! Người tù Việt Nam Cộng Ḥa không được yên thân trong thế giới đọa đày riêng, họ phải phấn đấu qua mỗi giờ, mỗi phút, làm sao có được bát cơm hẩm, giọt nước muối để được sống. Phải, tất cả sức lực tinh thần, vật chất chỉ được hướng vào một mục đích: Sống c̣n. Nhưng chính v́ trong đời sống thụ động đau đớn kinh hoàng này, người tù Việt Nam Cộng Ḥa khi được trao trả, trở về trong phần đất quốc gia, đời sống tù tội, giấc mơ ác liệt tưởng như trong địa ngục hoàn toàn chấm dứt, họ bắt đầu một đời sống mới, đời sống tưởng chừng như đă hủy diệt bất phục hồi. Được trao trả đồng nghĩa trở về địa đàng trần thế và quên thật nhanh, quên thật hết tháng qua, ngày trước, giờ phút trước khi điểm danh trao trả để đi như chạy, ḅ bằng tay lẫn chân vào ḷng của chiếc trực thăng để bay cao, trở về và không bao giờ nhớ lại Đă một lần bị người cộng sản giam giư.ơ Đă một lần sờ tận tay nỗi chết. Bài viết này không đề cập đến những “người sung sướng” tội nghiệp đó, tôi muốn nói đến lớp tù đối phương, tù Cộng sản do quân đội, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa bắt giữ và trao trả về cho đối phương; những người tù bị bắt khi tay đang giữ vũ khí ở chiến trường hoặc là những cán bộ nội thành bị phát giác đầy đủ tang vật và tài liệu. Cần nói rơ hơn một khẳng định, tôi sẽ không viết những lời tán dương chế độ giam giữ của chính phủ VNCH, một chủ đề mà cuốn sách không dự liệu, cũng như rất đối nghịch cùng lương tâm người viết: Người kinh sợ cảnh tù trên tất cả mọi sợ hăi. Bài viết sẽ cố gắng tŕnh bày đủ đoạn trường tù tội mà kẻ tù nhân kia bắt buộc phải triệt để chấp hành, bắt đầu từ khi hắn tự đưa tay đầu hàng trước một mũi súng trên chiến địa hoặc đặt tay vào chiếc c̣ng của nhân viên công lực VNCH.

Như đă nhiều lần nhấn mạnh, người Cộng sản không bao giờ bỏ lỡ cuộc đấu tranh trong bất kỳ hoàn cảnh, cơ hội hoặc giai đoạn ngắn ngủi nào... Không có vấn đề nghỉ ngơi, không có đời sống riêng rẽ, hoàn cảnh độc lập. Đă dự vào cuộc đấu tranh do Đảng “đề xuất” và lănh đạo có nghĩa đă dự vào một cuộc đua liên tục, đua không ngừng, không nghỉ, cho đến phút chót khi thiên đường Cộng sản hoàn toàn thực hiện. Đó là trên lư thuyết, trên cơ sở chủ nghiă, riêng trong giai đoạn hiện tại, sau bước đường chống Mỹ cứu nước nay đă đến bước “Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp Định Pa-ri...”; người tù Cộng sản lại phải luôn luôn học tập, phải đả thông vấn đề, phải chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh Đảng ngay trong cảnh tù tội, để đến khi được trao trả th́ đă nắm đủ các yếu tố phát động thế đấu tranh mới.

Sau khi đưa tay lên đầu hàng ở chiến trận, người tù quân sự Cộng sản được cơ quan an ninh của đơn vị bắt giữ khai thác tại chỗ để phân loại và cung cấp các hoạt động liên quan đến trận liệt. Thường thường các cuộc thẩm vấn được tiến hành cấp tốc v́ những đơn vị tác chiến thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa không đủ nhân viên chuyên môn để khai thác tù binh, họ chỉ ghi nhận vài yếu tố lư lịch, đơn vị của người tù, xong giải giao ngay đến các cơ quan lưu giữ tạm thời như Bộ Chỉ huy Trung đoàn, Bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn mà đơn vị đó trực thuộc hoặc thuộc dụng hành quân. Tại những nơi này dù có đủ th́ giờ rộng răi hơn cũng như có chuyên viên thẩm vấn, các cuộc hỏi cung cũng chỉ có mục đích xét hỏi người tù binh những tin tức liên quan đến t́nh h́nh mặt trận mà anh ta vừa tham dự, một số chi tiết về tên họ, đơn vị trực thuộc, từ đâu xâm nhập vào trận địa, ư định điều quân của đơn vị này trong thời gian sắp tới... Người tù binh tiếp tục được giải giao đến các Trung Tâm Tù Binh chiến tranh. Sự tranh đấu, nếu được gọi là như thế, giữa tù binh và cơ quan giam giữ quân đội Việt Nam Cộng Ḥa không được cấu thành, cũng không bao giờ thực sự cần thiết. Cơ quan có nhiệm vụ chính thức giam giữ tù binh quân sự là binh chủng Quân Cảnh mà tư thế và nhiệm vụ rất cụ thể và hạn chế: Quản trị, điều hành và lưu giữ tù binh. Không có vấn đề phải khai thác, tuyên truyền chính trị, nên tương quan này không dẫn đến những xung đột nghiêm trọng, những đầy ải ác nghiệt như người Cộng sản luôn luôn tuyên truyền, xuyên tạc. Nhưng chính trong những chốn lưu giữ này, người tù binh Cộng sản phải bắt đầu tham gia vào một cuộc tranh đấu kinh hồn quyết liệt mà kết quả độc nhất là sự chết, do những bạn tù thi hành, hoặc tiếp tục giữ vững lập trường Cộng sản không mệt mỏi, không suy giảm để chấp hành đứng đắn mọi chỉ thị do những người đại diện của họ ra lệnh. Cuộc đấu tranh nguy nan giữa những người cùng chiến tuyến bắt đầu trong nhà tù Việt Nam Cộng Ḥa.

Đến đây, cần mở rộng vấn đề qua một phạm vi khác để soi sáng yếu tố những người tù cộng sản ở các trại giam: Những hồi chánh viên. Hồi chánh viên là những người tự nguyện buông súng, rời bỏ hàng ngũ cộng sản trở về phía Việt Nam Cộng Ḥa trong tất cả mọi hoàn cảnh, ở khắp nơi trên chiến trường; cũng có thể gọi là hồi chánh dù trong lúc giao tranh nếu người lính cộng sản có thái độ tích cực sau khi buông súng về cùng các đơn vị quân đội cộng ḥa. Sự thật, đă có những người hồi chánh v́ “thế kẹt”, khi đơn vị anh tan ră, rút đi, hoặc đôi khi v́ bị bao vây, tấn công quá dồn dập. Nhưng dù có buông súng trong t́nh huống tiêu cực đó, nếu anh ta tự nguyện cung cấp tin tức, chỉ điểm nơi chôn dấu vũ khí và xin được hồi chánh th́ anh ta vẫn được đưa về các Trung Tâm Chiêu Hồi, chứ không là các trại tù như trên đă nói. Những người hồi chánh tự nguyện hay ở vào thế kẹt như vừa tŕnh bày, chỉ là những người hồi chánh “b́nh thường”, những người hồi chánh trong b́nh yên. Có một loại hồi chánh viên khác, hồi chánh ngay trong trại tù, mới là những người hồi chánh thượng hạng, những người đă vượt qua biên giới cái chết trong đường cơ kẽ tóc. Như trên đă nói, người tù binh Cộng sản ngay khi nhập trại đă phải chịu một cuộc thẩm vấn gắt gao do đại diện tù nhân cộng sản thực hiện. Anh ta phải khai rơ lư lịch, không phải chỉ một vài chi tiết của tên tuổi, tên cha mẹ, bạn bè, đơn vị, nghề nghiệp, sở thích... Không phải khai một lần, nhưng năm lần bảy lượt bởi một cuộc thẩm vấn tinh vi kinh khiếp: Mục đích của cuộc tra hỏi này là để nhóm đại diện tù binh cộng sản phát giác ra ngay những “ngụy hồi”, tức là những hồi chánh viên mà cơ quan giam giữ Việt Nam Cộng Ḥa gài vào đám tù binh cộng sản để ḍ chừng phản ứng, âm mưu của đám tù binh cộng sản. Cuộc tra hỏi cũng nhằm xem thành phần, tinh thần của người tù để sắp xếp anh ta vào những công tác, nhiệm vụ do ban đại diện đề cử. Cuộc tra hỏi dằng dai khít khao này cũng giám định lại tinh thần của người cán binh cộng sản, xem anh ta v́ thụ động, tiêu cực nên đầu hàng quân đội Cộng ḥa hay anh ta đă hết sức chiến đấu nhưng bởi kiệt lực bắt buộc. Tóm lại, sau giai đoạn thẩm vấn, người tù binh Cộng sản mới được xác định, xếp loại do chính đồng bạn tù quyết định. Nếu anh ta là một hồi chánh viên được gài vào, nếu anh ta là một chiến sĩ có tinh thần sút kém, chiến đấu tiêu cực. Số mệnh anh đă hoàn toàn được định đoạt: Chết. Chỉ có một giải pháp, một giải pháp độc nhất, cuối cùng. Dùng đũa đâm từ tai này qua tai kia, lột da đầu, cắt cổ, bóp cổ. Cực h́nh sẽ được thực hiện giữa đám tù để dằn mặt, cảnh cáo những người sa sút tinh thần, ngă ḷng, muốn bỏ cuộc. Các tù binh Cộng sản được ban đại diện của họ chia vào từng tiểu tổ sinh hoạt, công tác chung với nhau, người này kiểm soát, canh chừng người kia để khi phát hiện một dấu hiệu ngă ḷng, ư hướng mệt mỏi, muốn xin hồi chánh, làm việc cho ban giám đốc trại VNCH, th́ báo động ngay đến ban đại diện tù trong khu của ḿnh. Kẻ bị nghi ngờ sẽ bị hành h́nh không chút nương tay. Trong t́nh huống kinh khiếp nghặt nghèo này, người tù binh Cộng sản luôn luôn đề cao cảnh giác, phải luôn luôn biểu lộ ḷng tin vào lập trường của Đảng, luôn luôn giữ vững ư chí cách mạng thực hiện công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước dưới sự lănh đạo của Bác và Đảng. Họ phải kiên định lập trường, học tập tài liệu từ ngoài chuyển vào để luôn nắm vững t́nh h́nh, hướng nỗ lực tranh đấu vào mục tiêu do Đảng chỉ định. Để thực hiện công tác gắt gao này, phía Cộng sản đă không ngần ngại chỉ định những chính trị viên cốt cán, giả hàng ở trận địa rồi t́m đủ mọi phương cách làm sao chuyển được tới trại (mà họ được chỉ thị công tác)... Ví dụ như trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, cán bộ thuộc Trung đoàn Quyết Thắng (Trung đoàn đánh vùng Cây Thị, Gia Định) bị mất tinh thần trầm trọng... Bộ chỉ huy Ba Cục (R) thấy cần phải giữ vững tinh thần đám tù binh thuộc đơn vị này, đă điều động một số chính trị viên giả đầu hàng Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa ở một mặt trận nào đó thuộc vùng B́nh Dương, Tây Ninh... Nhóm tù binh chính trị viên này sau đó đă được tập trung vào một trại tù như Tam Hiệp (Biên Ḥa)... Ví dụ như sau khi móc nối với các đại diện tù và biết được đám tù của Trung đoàn Quyết Thắng đă chuyển đi một nơi nào ở Phú Quốc th́ họ sẽ chủ tâm tỏ ra vô kỹ luật, phá hoại, để ban giám đốc trại trừng trị, khiển phạt và cuối cùng bị (được) chuyển đi Phú Quốc. Nơi đây, nếu được chuyển đến một khu không có người của Trung đoàn Quyết Thắng kia th́ họ sẽ tiếp tục dùng mọi biện pháp để làm sao cuối cùng chuyển đến tại nơi có “mục tiêu” được chỉ định...

Trong ḱm kẹp gắt gao do đề pḥng hiểm độc của các chiến hữu ḿnh, người tù binh Cộng sản bị muôn ngàn hiểm nguy thường trực đe dọa... Không tỏ vẻ căm thù nhân viên quân cảnh có nhiệm vụ đưa cơm tới, không giác ngộ về “hiện t́nh thối nát của chính phủ VNCH”, hoài nghi về thành quả giải phóng 3/4 đất, 4/5 dân ở miền Nam, tiếng thở dài nhỏ trong đêm tối... Tất cả đă là nguyên do gây nên cái chết tức khắc. Một tù binh được ban giám đốc trại gọi lên hỏi chi tiết của nơi sinh. Nếu được trả về trại an lành, anh ta chắc đă nắm đưọc đầu giây của cái chết do chính bạn bè anh thực hiện. Thế nên, một người tù trong hoàn cảnh này mà xin được hồi chánh để trở nên hồi chánh viên th́ quả t́nh là một hồi chánh viên thượng thặng, hữu hạng, một ngườiđă vượt mặt tử thần. Sự kiện này tŕnh bày đủ thực trạng bi thảm về người tù binh Cộng sản. Trong trại giam, ngoài lớp cán binh trẻ cuồng tín của các sư đoàn chính qui Bắc Việt, c̣n có những tù binh thuộc các lực lượng địa phương miền Nam, những du kích xă, huyện. Bên cạnh đoàn tù binh sắt máu luôn tin vào tiền đồ cách mạng, nuôi dưỡng căm hờn chế độ, chính phủ Cộng ḥa, có những tù nhân bất đắc dĩ, những chiến sĩ cách mạng lỡ thời, vốn chỉ là một nông dân kẹt ở vùng “giải phóng”, hoặc ở các vùng xôi đậu bị kéo vào bưng học tập, đi du kích. Thoạt tiên, họ được “động viên” đi dân công, sau tham gia các công tác phá hoại, tiếp theo do được b́nh nghị là đă “giác ngộ” tham gia công tác tốt, anh ta trở thành du kích xă, du kích huyện, đôn lên thành bộ đội chủ lực tỉnh. Gặp lúc có chiến dịch lớn như B́nh Giả (1964) Đồng Xoài (1965)... Các đơn vị chủ lực Miền bị thiếu sót quân số trầm trọng, du kích xă, huyện theo lệnh của Trung Ương Cục được tập trung về khu C (Tây Ninh, B́nh Long) để bổ xung vào các Trung đoàn thuộc các Công Trường 5, 7, 9... Tính chất “cách mạng vô sản” nơi người du kích miền Nam này, ngay cả những cán bộ hồi kết (Gốc miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 và trở về Nam trong những năm 1959, 1960 hoặc sau) rất khác xa với đám cán binh trên dưới hai mươi tuổi thuộc các sư đoàn Bắc Việt xâm nhập. Đám sau này tích cực hơn, cuồng tín, mê say một cách mù quáng và khắc nghiệt, hoàn toàn tin vào mệnh lệnh đường lối Đảng, lời Bác dạy. Nếu có một số ngă ḷng v́ cực khổ trên đường xâm nhập hoặc thấy rơ hiện t́nh miền Nam, thấy rơ thành quả giải phóng của cách mạng miền Nam, thường hồi chánh ngay trong thời gian đầu... Số c̣n lại, nếu đă thử sức đủ trên đường đi, hiện t́nh miền Nam vẫn chưa làm hắn ta “giác ngộ”, th́ ḷng cuồng tín càng tăng thêm cường độ. Thế nên, trong ư hướng cực đoan này, những cán binh có ư định hồi chánh là thành phần cần phải tiêu hủy đầu tiên và tối đa đối với những cốt cán nầy.

Bị vây bọc bởi đám tù cuồng tín trên, một cán binh có ư định hồi chánh ở trại tù tức đă dự cuộc đua với tử thần trong gang tấc sít sao. Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa trước giai đoạn thành lập danh sách cuối cùng để chuyển giao về phía cộng sản tất cả cán binh bị giam giữ theo Hiệp Định Ba Lê, đă phát động một chiến dịch gọi là phong trào Tân Sinh Hoạt trong tất cả mọi trại giam tù binh Cộng sản, mục đích phong trào này trên bề mặt là huấn nghệ, giúp điều kiện để tù binh có việc làm trong những ngày giam giữ, nhưng thực chất là tạo môi trường giáo dục tù binh để họ nhận định đúng hiện trạng miền Nam, tiến đến chọn lựa cuối cùng giữa hai ư hệ Cộng Sản và Tự Do. Phong trào đă thành công lớn lao, hơn 10.000 tù binh hồi chánh trong dịp tết Quư Sửu (72-73) trước khi danh sách trao trả cuối cùng chuyển đến phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng tại Hội Nghị Ba Lê. Số lượng 10.000 người tuy lớn so với gần 30.000 mà Việt Nam Cộng Sản dự trù trao trả, nhưng thật sự con số kia chắc chắn sẽ gấp đôi nếu tù nhân được hoàn toàn tự do chọn lựa chế độ trước khi trao trả, hoặc họ rơ được thủ tục phát biểu nguyện vọng và quyền phát biểu tại địa điểm trao trả. Trường hợp các tù binh Thạch Phen trao trả Lộc Ninh ngày 14 tháng 2-73 và Hồ Văn Công ở Quảng Trị ngày 17-3-1973 là điển h́nh về cảnh bi thảm lặng lẽ mà người cán binh Cộng sản gốc miền Nam phải chịu đựng trong cô đơn và nguy biến riêng ḿnh. Thạch Phen, người Việt gốc Miên, anh bị lôi kéo vào Mặt Trận không cưỡng lại được v́ cư trú trong vùng bản lề giữa mật khu Cộng sản trên đất Miên với vùng VNCH ở Châu Đốc. Ngày 11-2-1973 anh đưọc đưa đến Lộc Ninh để trao trả. Từ trực thăng bước xuống, anh kinh hoàng nh́n khung cảnh địa điểm trao trả, lớp nhà lá gồi, dăy cờ đỏ, rừng khẩu hiệu khắc nghiệt, đám cán bộ tiếp rước mặt xanh tím, tṛng mắt vơ vàng đầy thù nghịch ḍ xét. Những nụ cười vồn vă máy móc của những chiếc mồm xấu xí không làm anh yên tâm, thêm nữa, tiếng hát vang vang tiết điệu Trung Hoa dội lên từ dăy loa phát thanh làm anh bối rối kinh ngạc... Tuy đă cầm súng chiến đấu trong hàng ngũ những người Cộng sản, nhưng hôm nay, anh được đưa đến một nơi quá xa lạ, lớp rừng cao su xanh ngắt ôm kín những khu đồi đất đỏ, đám cán bộ đồng phục xanh với những cặp mắt vàng chạch v́ sốt rét, nụ cười vô hồn, không cảm giác kéo lên, đóng xuống từng chập để lộ nguyên h́nh tính cách tra hỏi cay nghiệt. Thạch Phen chưa từng bao giờ ở cùng những chiến hữu nguy hiểm với cảnh núi rừng thâm u đầy đe dọa này. Tội nghiệp và đơn độc hơn nữa, tù cùng toán toàn là người Bắc, họ hân hoan biểu lộ sự thù hận, niềm tin sắt đá vào thành tŕ cách mạng bằng nắm chặt tay tung hô khẩu hiệu, câu hát. Thạch Phen hoàn toàn xa lạ trong không khí gớm ghê đầy đe dọa này... Anh lùi dần, lùi dần xuống cuối toán và chạy về phía mấy sĩ quan quân cảnh (có nhiệm vụ tải áp tù từ Phú Quốc đến Lộc Ninh) để xin hồi chánh. Đại úy Lộc, trưởng toán Liên Hợp Quân Sự Việt Nam Cộng Ḥa thông báo sự kiện đến ba thành viên Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt và Mỹ cùng Ủy ban Quốc tế để hợp thức hóa trường hợp hồi chánh của Thạch Phen. Nhưng hai viên sĩ quan của Mặt Trận Bắc Việt không chịu, nại cớ anh Phen đă hồi chánh không đúng thủ tục (Nghĩa là không phát biểu ư kiến của ḿnh khi điểm danh trao trả. Cần nhắc lại một điểm, thời gian này chưa có thủ tục trao trả). Hai anh Hung và Ba Lan trong Ủy ban Quốc tế được “mớm”ư kiến trên, đồng phát biểu: Không giám sát trường hợp hồi chánh của Thạch Phen v́ không đúng thủ tục trao trả!! Cuối cùng, v́ để có một cách thức giải quyết mẫu cho những lần trao trả sau, Quân cảnh Việt Nam Cộng Ḥa hộ tống Phen đến lều trao trả để phát biểu ư kiến, nhưng đám tù binh cùng toán của Phen nhào đến cướp Phen và hành hung quân cảnh; không thể làm sao chống cự nổi với đám tù, hơn nữa, nếu giành giật quá độ, đám tù có thể đánh chết Phen... Quân cảnh VNCH buộc ḷng phải thả Phen ra. Hai thành viên Hung và Ba Lan đuợc yêu cầu can thiệp và chứng nhận sự kiện xảy ra, một lần nữa lại tuyên bố: Anh Phen chưa được điểm danh, nghĩa là chưa đưọc trao trả, họ không có trách nhiệm ǵ ngoài việc giám sát cuộc trao trả tại lều trao trả (?!!). Thạch Phen bị kéo đi một lát sau trở lại, với mặt mũi vỡ nát... “Chính quyền địa phương” Mặt Trận Giải Phóng tại Lộc Ninh yêu cầu có cuộc họp với đầy đủ bốn thành viên của Ủy Ban Quốc Tế để anh Phen phát biểu ư kiến trong “hoàn toàn tự do”... Và cuối cùng, thay v́ nói muốn được hồi chánh, Phen phát biểu: “Việt Nam Cộng Ḥa “gài” anh ta làm hồi chánh viên, nhưng bây giờ “giác ngộ” nên tự ư xin về phía Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam VN!! Hai thành viên Hung và Ba Lan ghi nhận sự kiện trung thực: Anh Phen đă nói lên nguyện vọng của ḿnh trong tự do!!

Trường hợp của Hồ Văn Công th́ khả quan hơn. Công thuộc toán thứ nhất để trao trả trong ngày 17-3-1973 tại Quảng Trị. Cũng như Thạch Phen, Công là du kích thuộc xă Phụng Hiệp Cần Thơ, bị quân đội VNCH bắt trong một cuộc tuần tiểu. Với bản chất thẳng thắn, đơn giản của người miền Nam, Công tham gia vào cuộc chiến đấu vơ trang trong hàng ngũ cộng sản hoàn toàn do hoàn cảnh ép buộc, một sự góp mặt trung tính v́ không thể sống độc lập giữa hai chế độ đối nghịch. Công đến bờ sông Thạch Hăn, nh́n về phía bờ đối diện, ngọn cờ đỏ ngôi sao vàng cùng tất cả im lặng nặng nề của một khối tổ chức chặt chẻ vô nhân tính vang vang khúc hát gợi căm thù. Công chùng bước... Đây là đâu? Phải chăng là bờ Bến Hải? Bến Hải - Cần Thơ khoảng cách ngút ngàn, suốt đời anh bao không bao giờ ư niệm đến... Nước Việt Nam là một, Tổ quốc Việt Nam là một, chúng ta có thể đến bất cứ đâu, tác chiến bất cứ nơi đâu... Viên bí thư xă đă nhiều lần nói như thế; cán bộ đại diện tù nhân cũng đă giải thích, thông báo hơn tháng trước: Chúng ta sẽ được trao trả tại Quảng Trị, ở đấy sẽ “tiếp thu” chúng ta, sau đó tùy nhu cầu thực tế, chúng ta sẽ được phân phối vào các cơ quan khác nhau, có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Quảng Trị, một tỉnh Công không bao giờ nghe tên. Đây là Quảng Trị, sông này là sông Bến Hải (!?), trao trả xong họ mang ḿnh thẳng về Bắc luôn!! Công co rúm người khi bước chân lần xuống thuyền để qua sông, Công liếc qua tái, qua phải, hai hàng lính Thủy quân Lục chiến, Nhảy Dù với những bộ đồ rằn ri rất quen thuộc và ngay cả lá cờ vàng ba sọc đỏ này nữa... Dù anh đă một lần chiến đấu chống lại. Đám lính Cộng ḥa với cách thức phát âm, dáng điệu phóng khoáng kia vẫn quen thuộc, thân mật gần gũi với Công hơn là đám tù binh mặt nặng căm hờn đang to nhỏ với nhau, hoan hô đả đảo... Lá cờ Việt Nam Cộng Ḥa - Công đă quen thuộc từ bao lâu, kể từ ngày anh lớn lên, đi qua đồn nghĩa quân, đi qua trụ sở hành chánh xă Phụng Hiệp. Công nổi gai khi nghĩ tới cảnh trời nơi đất Bắc xa xôi, nơi anh sẽ đến và không có ngày trở về làng xưa cuối miền Nam... Anh bước chân xuống thuyền, thuyền tṛng trành, đám lính Thủy quân Lục chiến đứng trên bờ cười nói vang vang, tiếng cười, giọng nói miền Nam yêu quí... Thuyền nổ máy hướng mũi về phía bờ Bắc nơi có lá cờ đỏ... Công quyết định, anh đứng dậy trên ḷng thuyền, một bàn tay nào đó muốn vít cổ anh xuống, Công đưa tay lên gạt mạnh, phóng ḿnh xuống nước... Nước lạnh cóng, Công cố bơi vào bờ, mắt anh mờ ánh nước, tay chân anh giăn ra, anh thả trôi người, ch́m xuống... “ Hồi chánh! Hồi chánh... Có người hồi chánh ”. Công loáng thoáng nghe có tiếng người kêu lớn ở trên bờ, nghe tiếng sóng đập mạnh đâu đây trên gịng nước, có cánh tay bế xốc anh lên... Công đưa tay xuống cạp quần nơi có tấm ảnh của vợ con anh ở miền Nam!!

Viên Y sĩ Thủy quân Lục chiến chích cho Công mũi thuốc khỏe... Ảnh vợ con tôi đâu? Ảnh vợ con tôi đâu? Đây đây... Công lần ṃ bàn tay run rẩy trên mép tấm ảnh quen thuộc...

Tôi đi qua bờ Thạch Hăn, yêu cầu tổ Ủy ban Quốc tế đến chứng kiến và xác nhận trường hợp anh Công, để hai anh Hung và Ba Lan không thể thoái thác từ chối với lư do anh Công chưa đến địa điểm trao trả (Bờ Bắc sông Thạch Hăn)... Tôi đón trước bằng đề nghị: V́ anh Công đang trên đường đến địa điểm và nhảy xuống nước, hiện tại đang bị kích ngất không thể di chuyển qua sông được, sẵn dịp Ủy ban Quốc tế sẽ về bờ Nam đáp trực thăng đi Gio Linh, tôi yêu cầu họ phải xác nhận trường hợp hồi chánh của anh Công. Nhưng v́ tôi cũng chỉ một ḿnh, một miệng, hai toán Liên Hiệp Quân Sự phe Cộng sản xử dụng tối đa nhân lực cùng lớp cán bộ địa phương bao vây ngay hai anh Hung và Ba Lan, cả một lực lượng hơn mười người cùng hai tên thông dịch viên, thay nhau thảo luận, hỏi ư kiến liên tiếp, kèm thêm màn chụp h́nh, mời uống nước. Hai anh Hung và Ba Lan lại biểu đồng t́nh tŕ hoăn chiến để không qua sông chứng kiến tựng hợp anh Công. Khốn nạn, tôi chỉ kéo được hai anh Gia Nă Đại và Nam Dương về bờ Nam. Trên gịng nước lạnh ngắt, dưới trời mưa bụi tôi đưa mắt nh́n ra xa nghĩ đến cảnh những người trầm ḿnh để được chết tự do. Cao quư và đau đớn thật, h́nh như rất ít người nghĩ đến yếu tố thực tế này khi vỗ tay mừng Hiệp Định Ba Lê. Cuối cùng, anh Công vẫn được xếp vào hàng ngũ những người hồi chánh, dù thiếu sự chứng kiến của hai thành viên Ba Lan, Hung Gia Lợi. Trường hợp hồi chánh của anh vẫn được ghi nhận qua phái đoàn Nam Dương, phái đoàn Chủ vị Ủy ban Quốc tế của tháng này. Thạch Phen hay Hồ Văn Công là những trường hợp điển h́nh v́ đă bùng vỡ và thực hiện qua hành động, nhưng c̣n biết bao nhiêu người nữa, những người không thể hồi chánh theo phong trào Tân Sinh Hoạt, những người không thể tách khỏi tay đám tù đồng bọn khi đi trên đường đến địa điểm trao trả. Bao nhiêu người muốn làm động tác như Hồ Văn Công của ngày 17-3-1973, bao nhiêu người muốn đưa tay lên để phát biểu ư kiến, bao nhiêu người ḷng ngập bi thương khi bước chân vào địa điểm trao trả để đợi điểm danh trước khi về với... Nhân Dân!! Nhân Dân... Điển h́nh với h́nh ảnh phục phịch của một nữ đồng chí “phục vụ” với giọng nói miền Bắc Việt nghe lạ lùng. Bao nhiêu người tù binh tóc đă ngă màu muối tiêu, bước chân lóng cóng, dẫm lên chiếc thuyền để qua sông, ngập ngừng ném chiếc áo nâu dầy ấm áp theo lệnh của “tù trưởng” để lộ làn da nhăn nhúm mệt nhọc dưới làn mưa dầm dề của tiết xuân, lớp da dù được khích động, đù được bơm căm thù vẫn phải co rúm dưới cơn gió rét miền Trung rờn rợn... Tù Binh... Về đâu? Câu hỏi vang lên nghe nhức nhối và tội nghiệp khôn cùng.

Chẳng phải v́ muốn tăng thêm cường độ cảm xúc trong văn chương nên tôi đă khai triển tối đa t́nh huống qua hai sự kiện cụ thể, nhưng bởi đă nhận ra thực tế không phải chỉ xảy ra ở bờ sông Thạch Hăn, sân bay Lộc Ninh, nơi rừng cao su Minh Thạnh, bên cạnh lớp tù nhân hùng hổ kéo nhau đi trong khi thế hận thù bốc cao đầy ánh mắt, có một số đông, một số rất đông tù binh Cộng sản bước những bước ngắn e ngại, thẩn thờ... Họ cũng như đám tù binh Hồng Quân đă tự sát tập thể bằng cách lao ḿnh từ toa tầu xuống vực sâu trên đường trở về Nga Sô Viết sau khi Đức đầu hàng Đồng Minh 1945; họ cũng như những tù binh của các chiến dịch Atlante, Castor, được Pháp trả về phía bên kia phía Cách Mạng - Phía Việt Cộng. Thân phụ tôi, người chiến sĩ của Sư Đoàn 308, người chiến sĩ của chiến thắng Điện Biên, người từng bỏ tất cả đời sống b́nh yên cạnh vợ con để hiến dâng trọn đời ḿnh đến cách mạng, cho dân tộc... Từ trại tù 51 ở Hải Pḥng trước ngày Pháp trao trả về cho Quân Đội Nhân Dân đă không cầm ḷng, phải viết nên lời: “Anh (ba tôi) bây giờ đă mệt mỏi lắm rồi, anh biết đủ thứ, biết bữa củi, nấu cơm, có thể làm tất cả mọi chuyện, chỉ muốn làm sao đưa em (mẹ tôi) và các con đi xa, đi thật xa, ra khỏi nước Việt Nam này..” Năm 1954, với chiến thắng rực rỡ lớn lao kia, người tù Cộng sản cũng phải nh́n lại đoạn đường ḿnh đă đi qua, đưa mắt hướng về một tương lai ảo tượng để nói lên lời cay đắng, huống ǵ hôm nay, thời gian của 1973, biên giới của Cộng Sản và Tự Do đă xóa nḥa trong men rượu Mao Đài, được quên đi nơi Công Trường Đỏ khi Nixon cúi ḿnh tưởng niệm anh hùng Sô Viết... Thế nên, người tù binh Cộng sản c̣n đâu ư chí, c̣n đâu căm thù đích thực... Và “Chống Mỹ cứu nước” hiện rơ ra một khẩu hiệu không nội dung, không đối tượng khi “bè lũ quân Ngụy ác ôn côn đồ” cũng chỉ là những người lính da vàng âm thầm chịu đựng, khi thành tích cách mạng giải phóng miền Nam thật bày ra lớp thịt da người Việt phủ kín chín cây số của Đại Lộ Kinh Hoàng... Giải Phóng, Tự Do, Dân Tộc, Độc Lập, những danh từ chát chúa vĩ đại một cách phi nhân đă thể hiện đủ tính chất, tṛ xảo trá to lớn mà người tù binh đă đem đời ḿnh hiến dâng nên thành. Trong nhà tù, nơi địa điểm trao trả, người tù binh thấy lại trước mắt cảnh cơm khô, nước lă miệt mài nơi rừng xanh để xây dựng một thiên đường nhạt thếch... Gia đ́nh, làng xưa, nẻo đường về càng ngày càng mất hút. Tù binh Cộng sản, anh đi về đâu khi ngày sắp hết và đời anh cũng đến lúc kiệt cùng.

C̣n một điều cần phải nói thêm cho đủ, những người tù dù đă chứng tỏ vững lập trường khi ở giai đoạn giam giữ, cũng phải phát triển căm thù cùng tinh thần chiến đấu ngoan cường ở địa điểm trao trả v́ nếu không, sau ly nước trà vồn vă bốc khói, người tù lừng khừng, mệt mỏi, sẽ bị cô lập, tra hỏi, kiểm thảo và hạ tầng công tác ngay hoặc nếu cần th́ thủ tiêu... Lớp tù binh được trao trả về theo Hiệp Định Genève 1954 đă chứng tỏ điều này trong những ngày sau 54, những người tù binh của những chiến trường khốc liệt được Pháp trả về đă bị phân tán, đánh tỉa, bỏ rơi và bắt buộc ở vào t́nh trạng tê liệt cho đến hôm nay, gần hai mươi năm sau ngày trao trả.

Để địch quân bắt giữ là một tội phạm. Người Cộng Sản đă quan niệm như thế. Cả một bộ máy tuyên truyền to lớn của họ không đề cập hoặc khai triển rất ít đối với thành phần những người tù vừa được VNCH trả lại. Trong các báo Quân Đội Nhân Dân, Quân Đội Giải Phóng, tin tức về các cuộc trao trả tù binh Cộng sản được loan báo rất sơ sài, một cột, vài ba gịng. Thiếu vắng hoàn toàn cách đề cao, thổi phồng các “anh hùng” bị giam giữ, bên cạnh những anh hùng sản xuất, anh hùng của đội làm cầu Hàm Rồng..v.v... Số phận những tù binh Cộng sản năm 1973 chắc cũng không khác ǵ những người hai mươi năm trước. Thực tế sau nầy chứng minh mức độ chính xác của lời tiên tri tiên kiến. Người viết gặp lại người tù anh đă trả nơi bờ sông Thạch Hăn năm 1973. Thượng úy Trọng - Trọng “già”, người cùng chung pḥng kỹ luật với Phan Nhật Nam (1983) tại Trại 5 Lam Sơn Thanh Hóa. Trọng đă ở tù từ ngày trao trả mười năm trước v́ tội “Để quân Ngụy bắt giữ!!!”

Đó là số phận của tù Cộng sản chân truyền, dù là người kiên quyết ném cái áo tù binh xuống gịng sông, móc từ hậu môn ra mảnh vải dài khoảng ba tấc ngang bằng ba đốt ngón tay trên ghi gịng chữ “Đả đảo Đế quốc Mỹ” và giữ vững trên đầu từ khi bước xuống thuyền, qua sông, ngồi xuống băng điểm danh. Huống ǵ loại tù binh mắt lạc thần nh́n lên màu cờ đỏ, năo nề không trả lời khi được gọi đến, những người tù tóc bạc, thở dài không che dấu, bước những bước hững hờ, lạnh nhạt giữa hai hàng cán bộ phục dịch tay vỗ vang và ứa tràn miệng cười... Những tù binh quê miền Nam, những tù binh vốn du kích, những tù binh đă gần đến tuổi nghỉ ngơi. Về đâu? Đêm nay ngă lưng xuống nơi đâu, quê hương, gia đ́nh đâu? Ảnh ông Hồ Chí Minh và khẩu hiệu “Không có ǵ quư hơn Độc Lập Tự Do” cũng chỉ nên h́nh ảnh nhạt nḥa vô nghiă... Người tù Cộng sản lưng trần, đầu cúi xuống, bước đi ngập ngừng. Đi măi vào một nơi không bao giờ biết. Không hề biết.

Phần những tù binh quân sự đă thê thảm tội nghiệp như thế, huống hồ ǵ những tù dân sự, những người được gọi là “nhân viên dân sự” của Cộng sản qua định nghĩa của điều 21 (b) Hiệp Định Genève 54: “Nhân viên dân sự là những người đă góp phần vào cuộc đấu tranh vũ trang, chính trị của một bên và bị bên kia giam giữ...” Định nghĩa rộng răi nhưng vô cùng chặt chẽ đă không làm “lọt” một người nào giữa hai bên miền Nam, tất cả mọi người khi lựa chọn một bên để sống tức là đă lựa chọn một chế độ, hoàn tất một thái độ chính trị và “cuộc góp phần” có thể suy diễn từ thái độ này cũng không sợ nhầm lẫn quá độ. Qua định nghĩa này, tức không c̣n bóng dáng “thường dân” trong thời chiến, không c̣n người “dân” thuần túy, độc lập giữa hai thế lực đối kháng Người bị cuốn hút vào không cưỡng chế, phải góp phần tham gia, với một tương quan liên kết về một phe. Không có người làm nghề tự do, không có người buôn bán độc lập mà chỉ có nhân viên dân sự như Nguyễn Văn Tám, bốn mươi ba tuổi từ xă Đông Yên, quận An Biên, tỉnh Rạch Giá làm “gián điệp” cho Tám Cơ ở thị xă Rạch Giá và bị “Chính phủ Lâm Thời” bắt giữ tại địa điểm U Minh trong ngày 2-3-1971.

- Tám Cơ là ai?

- Dạ ổng ở Rạch Giá...

- Tám Cơ bảo anh làm ǵ?

- Dạ bảo làm... gián điệp!!

- Làm gián điệp như thế nào? Làm những việc ǵ?... Nguyễn Văn Tám đứng tṛng, đưa mắt nh́n tôi, anh không biết ḿnh đă làm những việc ǵ có liên quan đến “điệp vụ” nguy nan như từ ngữ đó... Tám Cơ, phải chăng chỉ là một nhân viên t́nh báo của cuộc Cảnh Sát ở Rạch Giá đă nói với Tám trong một lần nào đó: “Vào trỏng thấy ǵ là lạ, ra nói lại nghe”. “Vào trỏng là những khu U Minh mịt mùng mà Tám hằng ngày ra vào để làm lúa!! Gián điệp Tám đă phạm tội nặng ngàn cân với t́nh cảnh một người dân khốn khổ! Gián điệp, tội tử h́nh dù giữa hai quốc gia có tuyên chiến. Tám phạm tội tất nhiên như Tám đă sống trong đời. Phải chăng làm người Việt Nam trong thời đại tàn khốc này đă là một cái tội?!! Trường hợp của bà Lê Thị Tám th́ trái ngược lại, bà Tám năm hai mươi tuổi, tóc khô và người nhăn nhúm, thân thể nhỏ bé quắt queo toát ra một vẻ chịu đựng khốc liệt. Bà Tám mở đôi mắt vàng đục, nhướng những lằn mí mắt sùm sụp, cất giọng phiền năo...

- Tui tên Tám, năm mươi hai tuổi ở làng La Chữ ngoài Huế.

- Bà phải nói đủ nơi sinh, gồm có xă, huyện, tỉnh... Viên Thiếu tá Mặt Trận có nhiệm vụ hỏi ư kiến bà già cũng năo nề trước t́nh trạng mệt mỏi này.

- Hỉ? Chi?!!

- Bà nói cho tôi biết huyện nào?

- Th́ tui “noái” rồi đó, tui ngoài La Chữ, Thừa Thiên...

- Bà bị phía Việt Nam Cộng Ḥa bắt v́ tội ǵ?

- Răng biết?!

- Bà không biết lư do bị bắt th́ tại sao bây giờ lại xin ở lại.

- Theo “bộ đội” th́ biết khi mô về lại ngoài nớ, tui xin về nhà thôi, không được th́ ở tù lại cũng được!!

Đến đây, tôi lại phải chen vào chứ để cho viên thiếu tá này vặn vẹo một hồi, bà Tám nói lung tung th́... vỡ mặt. Tôi can thiệp nhưng ḷng cũng không có niềm hứng khởi đấu tranh... V́ đấu tranh ở đâu khi lôi kéo người đàn bà này về phía quốc gia, với tầng lớp nhân dân mệt mỏi vô t́nh này! Tôi cắt ngang lời phát biểu và các câu hỏi để đặt câu hỏi dứt khoát:

- Bây giờ bà đi theo bên Chính Phủ Lâm Thời hay là phía Việt Nam Cộng Ḥa?

- Tui ở lại.

- Xong, cám ơn bà, bà theo quân cảnh để ra đợi trực thăng về lại Biên Ḥa.

Viên Thiếu tá Mặt Trận giở nón lấy khăn lau đầu, có những sợi tóc bạc đẫm mồ hôi. Dù là người Cộng sản chắc y cũng thoáng ră rời. Bà Tám loắt choắt bước theo người quân cảnh, hai bàn chân nhỏ bước thoăn thoắt, nắng rọi sáng trên đám tóc khô rối. Người đàn bà tội nghiệp này làm sao biết ḿnh vừa lựa chọn một chế độ, vừa phân biệt và quyết định giữa hai đối lực chính trị Quốc Gia - Cộng Sản. Bà đă sống t́nh cờ nơi làng La Chữ, Hương Trà, Thừa Thiên, hàng ngày vào mạn núi phía tây quốc lộ 1 vùng Nam Ḥa (Huế) kiếm củi, có người chận lại đưa cho gói giấy, bảo khi trở về th́ rải gói giấy này trên quốc lộ. Người lạ cũng gởi bà mua thuốc lá, xà pḥng với giá cao. Gánh củi trở thành phương tiện mua bán thứ yếu, cách buôn bán trên trở nên nguồn lợi chính. Bà Tám rốt cuộc bị ủy viên an ninh xă khám phá và giam giữ!!. Bà khai thật t́nh số thuốc lá đă bán, số lời thâu được. Bà cũng rất thành thật nói rằng, sau này khi biết mấy người kia là “bộ đội” th́ có hỏi tin tức về chồng bà đă đi vào phía núi này từ năm 1952, 53... Liên quan giữa bà Tám với “bộ đội” quả rất phù hợp với định nghĩa của điều 21(b) - Điều khoản được hoàn tất từ những đầu óc nhiều kinh nghiệm, nhiều kiến văn. Lẽ tất nhiên không bao giờ nhầm lẫn, sơ sót. Buôn bán tức là có tương quan kinh tế và vong thân chính trị là ǵ nếu không phát xuất từ cơ sở kinh tế. Cuộc tranh chấp lớn hiện nay giữa Cộng Sản và Tư Bản cũng chỉ là hệ quả của sự chống đối tử chiến giữa hai lực kinh tế đối nghịch, Tư Bản - Vô Sản. Vậy bà Tám đă hiện thực một “tương quan kinh tế” tức là dự phần vào cuộc đấu tranh vơ trang chính trị giữa hai bên miền Nam theo điều 7 Nghị Định Thư Tù Binh của Hiệp Định Ba Lê!!! Bà Tám được ghi tên vào danh sách để trao trả về Mặt Trận Giải Phóng tại Lộc Ninh ngày 21-2-74.

Bà Tám đă thê thảm nhưng Phan Anh Hoát lại c̣n đau đớn tàn khốc hơn. Hoát trên bốn mươi, người thấp bé nhẫn nhục. Hoát là công chức ở Huế, bị bắt sau cuộc chính biến miền Trung 1966, v́ Hoát tham gia lực lượng tranh đấu Phật Giáo. Hoát bị đưa vào Sài G̣n và cuộc điều tra đă có kết luận: Hoát phá rối trị an, làm lợi cho Cộng sản, có dạng thức đấu tranh Cộng Sản, nhận chỉ thị từ thành ủy Huế..v.v.. Ngày trao trả 18-2-74 tại Lộc Ninh, Hoát lặng lẽ đi giữa hai hàng cán bộ tiếp đón với nước mắt chảy đầy má. Đám cán bộ Cộng Sản sững sờ trước khuôn mặt đẫm nước mắt và môi mím chặt uất hận. Lần đầu tiên, tại một địa điểm trao trả có hiện tượng phẫn uất đau đớn này. Đi về phía Cộng sản th́ phải vỗ tay phấn khởi, phải bộc lộ căm thù trên đầu nắm tay, trong cái nh́n hung hiểm. Về phía Cộng sản cũng phải dựng lên màn kịch được giải phóng toàn thể, được đời sống tự do tuyệt đối. Nhưng lần đầu tiên của một năm trao trả, người tù Phan Anh Hoát với giọt nước mắt bi phẫn, với lặng lẽ năo nề đă từ chối tất cả, đă buông xuôi tất cả, đă hoàn toàn bó tay giữa một thế lưỡng cực phân tranh mà Hoát hoàn toàn thụ động. Hoát cô độc và yếu đuối giữa hai ư hệ. Hoát thả rơi những giọt nước mắt đớn đau. Hoát chỉ là một trường hợp điển h́nh của đám người cuối đáy tuyệt vọng, những người nghẽn lối và bị xé nát giữa cuộc đấu tranh Quốc - Cộng. Hoát khóc được nhưng một số người đông đảo đă không đủ can đảm để khóc nên gịng nước mắt bi thương đó. Rất nhiều người đă không làm được. Rất nhiều người như thế. Tôi đă biết những người Việt Nam không được khóc giữa các cuộc trao trả.

Những người tù của Gheorghiu quả t́nh đă bị xé nát bởi guồng máy phi nhân của những chính quyền nhân danh Tự Do và Nhân Loại. Người tù Việt Nam, kẻ chịu nạn ghê gớm giữa hai ư hệ đối cực. Họ không có giai đoạn trước và sau thời hạn tù. Sống ở trên đất nước này đă là một cái tội. Họ bị kết án bởi đời sống đó.

 

 

 

Đi Bắc Về Nam****** Ḥa B́nh, tưởng như là giấc mơ

 

 

 


 


 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: