Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 6
Người Mỹ phát hiện ra Hồ Chí Minh

Khi các cường quốc bắt đầu xúc tiến các hoạt động bí mật ở Đông Dương th́ ở đó ít nhiều cũng đă có một số nhóm công tác ngầm. Một nhóm đại diện cho quyền lợi giới dầu lửa phương Tây. Một nhóm khác là phong trào dân tộc Việt Nam - Việt Minh. OSS đă có liên hệ ở mức độ nhất định với cả hai nhóm và trước khi rời Washington, tôi đă để ư nghiên cứu t́nh h́nh các nhóm này.
GBT: NHÓM GORDON
Điều đầu tiên gợi cho tôi chú ư đến nhóm GBT là bản báo cáo của AGAS/ Trung Quốc(1) nói về tin của nhóm GBT tường thuật cuộc tập kích đường không của Đồng minh trên vùng Sài G̣n.
Nhóm GBT cho biết 9 phi công Mỹ đă bị hoả lực đối phương bắn rơi và 3 trong số đó đă bị Nhật bắt. Tin tức tiếp sau lại chỉ rơ các phi công khác đă được người Pháp cứu và có thể sẽ không trao lại cho Nhật.
Sau đó độ một tuần, tin tức của nhóm GBT đă được xác nhận lại khi Hurley báo cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ biết là người Pháp ở Côn Minh phán đoán là giữa Pháp và Nhật sẽ nổ ra một cuộc khủng hoảng v́ đại sứ Matsumoto đă đưa ra cho đô đốc Decoux một số yêu sách, trong đó yêu cầu Pháp phải trao trả quân đội Nhật: “4(!) phi công Mỹ đă bị hạ trên đất Đông Dương và đă rơi vào tay người Pháp”.
Báo cáo của nhóm GBT về các nhân viên hàng không Mỹ đă làm tôi nhớ đến bức điện của đại sứ Gauss trước đó 6 tháng: “Người Trung Hoa và OSS hoạt dông thông qua nhóm Gordon, một tổ chức không được phái đoàn Pháp hoàn toàn ưa chuộng”. (Gordon là một người Anh, bề ngoài là đại diện của hăng Texas ở đó, nhưng bên trong th́ để nhiều thời gian làm công tác t́nh báo cho OSS và cho quân đội Mỹ. Khi tới Trùng Khánh, Gordon đă ở cùng với tùy viên quân sự của chúng ta).
Tôi muốn t́m hiểu nhóm GBT này nhưng cơ quan OSS đă chẳng cung cấp cho tôi được ǵ hơn, măi cho đến khi trung tá Duncan Lee gợi ư cho tôi phải hỏi đến OSS New York của chúng ta. Đến tháng 2-1945, tôi mới nắm được một ít t́nh h́nh về cái nhóm hai mặt ḱ cục này.
GBT là chữ tắt của các tên Gordon - Bernard - Tan. Nhóm GBT thuộc sự điều khiển của Laurence Laing Gordon, một công dân Anh sinh ở Canada. Trước đây Gordon là một chủ đồn điền cà phê ở Kénya, đă chuyển sang kinh doanh công nghiệp dầu lửa và phụ trách nhiều công tác khoan dầu ở Ai Cập, Trung Quốc và ở Madagascar.
Khi chiến tranh bùng nổ (1939-1940), Gordon là giám đốc công ty Cal - Texaco ở Hải Pḥng. Sau khi Nhật chiếm đóng Đông Dương, Gordon và gia đ́nh trở về California nhưng vẫn giữ quan hệ với các lănh đạo của Cal - Texaco. Vào năm 1941, Cal - Texaco khuyên Gordon trở lại trông nom quyền lợi của hăng ở Đông Nam Á. Nhưng chuyến đi của Gordon đă phải bỏ dở v́ Nhật đánh Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) và cũng từ đó, lănh đạo Cal - Texaco đă đặt kế hoạch cho Gordon xâm nhập vào Đông Dương dưới một cái vỏ bán công khai.
Câu chuyện ngụy trang của Gordon do Sir William Stephenson(2), thủ trưởng Cục phối hợp An ninh Anh xây dựng. Sau khi được cơ quan t́nh báo Anh tuyển mộ, Gordon được điều tới New Delhi và theo chỉ thị của Bộ chiến tranh Anh, được bí mật phong hàm đại uư t́nh báo. Nhiệm vụ của Gordon lúc đó là đến cộng tác với phái đoàn Pháp ở Trùng Khánh để xây dựng một mạng lưới t́nh báo ở Đông Dương.
Thoạt đầu Gordon muốn tranh thủ sự giúp đỡ của phái đoàn Pháp và nhận thấy ngay rằng việc đó sẽ chẳng mang lại một kết quả ǵ, không những chỉ v́ có sự hạn chế của tướng Tai Li mà c̣n do những chia rẽ v́ tranh giành về chính trị. Gordon liền xoay xở để có một chỗ dựa chính thức, t́m đến tùy viên quân sự của ta(3) và được giới thiệu với Đô đốc Yang Hsuan Cheng(4). Người Trung Hoa đă cho phép Gordon được hoạt động ở tỉnh Quảng Tây, nhưng với điều kiện không được cộng tác với các cơ quan t́nh báo Pháp.
Thoạt tiên, Gordon chỉ hạn chế hoạt động trong việc duy tŕ sự có mặt của ḿnh trong đám các nhân viên cũ của Cal - Texaco. Về sau, với danh nghĩa là một đại lư dầu hoả độc lập, Gordon đi khắp Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, nối lại các quan hệ cũ, tập họp những người Pháp và người Việt trung thành, vừa cung cấp khá nhiều xăng dầu và các thứ khác cho chợ đen của người Trung Hoa, vừa xây dựng một mạng lưới chỉ điểm để nhằm cứu văn tài sản của công ty dầu lửa. Như thế là ngẫu nhiên mà đă h́nh thành một cơ cấu sớm mang những đặc điểm của một tổ chức t́nh báo tài tử.
Trong năm đầu hoạt động, Gordon sử dụng tiền tài, đài vô tuyến điện và thiết bị máy móc của người Anh, nhân viên người Hoa, với sự cộng tác của hai người Mỹ, một là Frank (“Frankie'') Tan, dân Boston gốc Hoa, quen với Gordon khi ở Hải Pḥng, hai là Harry V. Bernard, một cựu nhân viên Cal - Texaco ở Sài G̣n.
Trong thời kỳ hoạt động khẩn trương 1943, nhóm GBT đă làm cho người ta thấy họ không thể thiếu được đối với người Trung Hoa và đội không quân thứ 14 của tướng Chennault. Lợi dụng tốt nhất các quan hệ Pháp và Việt, nhóm GBT đă thiết lập được ở khắp Đông Dương một mạng lưới năng nổ các đài vô tuyến và trạm thu tin t́nh báo. Nhân viên của họ tuy không được đào tạo chuyên môn nhưng vẫn là nguồn cung cấp tin chủ yếu về Đông Dương trong những năm 1942-1943.
Sau khi hợp nhất tổ chức OSS và AGFRTS(5) tháng 4-1944, người Anh yêu cầu tướng Donovan sử dụng nhóm GBT và tất nhiên là phải trợ cấp cho họ. Lúc đầu, Gordon tỏ ra bướng bỉnh, muốn duy tŕ một kiểu hoạt động độc lập ngoài sự ràng buộc bởi lợi ích dân tộc và lề lối quan liêu bàn giấy. Nhưng sau, nhận thấy sự hỗ trợ hạn chế của người Anh, thấy tài nguyên và thế lực ngày càng lớn của OSS trên chiến trường Trung Quốc, Gordon cuối cùng đă phải nhận cộng tác với OSS/AGFRTS và đă tham gia vào các chiến dịch tâm lư (MO) của OSS. Tháng 9-1944, OSS cử trung uư Charles Fenn(6) làm sĩ quan liên lạc đến nhóm này. Về sau, trong khi mở rộng hoạt động của ḿnh, OSS lại gia tăng nỗ lực để kiểm soát chặt chẽ nhóm tự do GBT hơn. Gordon không vừa ḷng nên cuối cùng đă tự tách ḿnh ra khỏi OSS/AGFRST và đi theo AGAS. Nhưng đến tháng 2-1945, Fenn lại được bổ nhiệm làm sĩ quan liên lạc của OSS với AGAS và do đó tái lập lại mối quan hệ với tổ chức GBT lúc ấy đang cộng tác với AGAS. Trung uư Fenn tiếp tục giám sát Gordon cho OSS.
Cuộc đảo chính tai hại của Nhật vào tháng sau đă làm cho mọi hoạt động của Gordon tiêu tan không thể tránh khỏi.

TRƯỜNG HỢP “ÔNG HỒ”

Các báo cáo của nhóm GBT đều khẳng định mọi thành công trong việc giải thoát được người của Đồng minh từ sau vùng bị Nhật kiểm soát là nhờ ở sự tổ chức và cộng tác có hiệu quả của những người Việt “phiến loạn” thuộc một phong trào chính trị vững mạnh đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, được coi là có xu hướng thân Matxcơva, nhưng người Nhật, Trung Hoa và Pháp nói chung lại gọi họ là “cộng sản”. Trong các báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ, AGAS và OSS/AGFRTS, họ lại thường được kêu là phần tử “thân Đồng minh”, “chống 'Nhật” và “chống thực dân”. Về phần ḿnh, tôi cho rằng nhóm người này cũng giống như những người du kích chống phát xít châu Âu, có thể hỗ trợ nhiều cho các nỗ lực chiến tranh của chúng ta ở Đông Nam Á.
Lục trong đống hồ sơ, tôi đă t́m được một số thông báo của các nhà ngoại giao ta ở Trùng Khánh, Sài G̣n và Côn Minh, đề ngày tháng từ 1940 nói về các hoạt động của phong trào dân tộc này. Các bản thông báo đầu tiên phản ánh quan điểm của người Pháp đánh giá người Việt Nam “non nớt về chính trị, có thái độ lănh đạm và thân Pháp”. Nhưng khi phong trào do đă có đà phát triển mạnh và sự chống đối với các nhà chức trách Pháp, Nhật đă trở thành công khai thù địch hơn; người Pháp, người Nhật và cả một số quan chức trong cơ quan đối ngoại của ta bắt đầu gán cho những người trong phong trào đó danh hiệu là “cộng sản”.
Chắc chắn rằng trong số lănh tụ phong trào quốc gia đó cũng có mặt các phần tử thân Matxcơva, nhưng đa số những người lănh đạo nhân dân nổi dậy đấu tranh giành độc lập ấy chỉ là một khối hỗn hợp, trong đó bao gồm thành phần của mọi xu hướng chính trị, từ các tín đồ tôn giáo cho đến những người bảo hoàng theo ông hoàng Cường Để thân Nhật, từ những người Việt không Cộng sản, thân Trung Quốc, lưu vong ở Hoa Nam cho đến những người Cộng sản triệt để đi theo đại biểu Xô-viết Hồ Chí Minh.
Qua tập hồ sơ, tôi thấy lần đầu tiên người ta đề cập đến Hồ Chí Minh trong một bức điện của Đại sứ Gauss ghi ngày 31-12-1942. Bức điện đă nhắc tới một bản thông báo trước đó nói về việc người Trung Hoa bắt giữ một lănh tụ Việt Nam “một người An Nam tên là Ho Chih Chi (?)” (sic) và được biết là giam ở Liễu Châu, Quảng Tây ngày 2-9.
Một năm sau, đại sứ Mỹ ở Trùng Khánh đă gửi về Bộ Ngoại giao hai bức thư của Ủy ban Trung ương hiệp hội Quốc tế chống xâm lược Đông Dương. Một bức viết bằng tiếng Pháp gửi cho Đại sứ Mỹ, một bằng tiếng Trung Hoa gửi cho thống chế Tưởng Giói Thạch. Cả hai bức thư đều đề ngày 25-10-1943, Hà Nội, nhưng mang dấu bưu điện 25-11-1943, Tŕnh Tây(7). Bức thư gửi đại sứ Mỹ yêu cầu Đại sứ ủng hộ “Hiệp hội” trong việc đ̣i tha cho “đại diện Hồ Chí Minh của chúng tôi”. Bức thư cho Tưởng đ̣i Tưởng trả lại tự do cho Hồ Chí Minh, để tiếp tục lănh đạo các hội viên Hiệp hội hoạt động chống Nhật.
Trong hồ sơ của OSS chúng tôi, chỉ có thấy nhắc đến Hồ Chí Minh trong bản báo cáo của Powell thuộc OWI(8) ghi ngày 28-8-1944 và trong bức điện của William R. Langdon, tổng lănh sự Mỹ ở Côn Minh, xin ư kiến Bộ Ngoại giao về việc xin thị thực nhập cảnh cho Hồ Chí Minh vào nước Mỹ.
Lúc đó cái tên Hồ Chí Minh liên tục xuất hiện trong các tài liệu hồ sơ hàng năm của OSS đă thu hút sự chú ư của tôi. Tôi liền t́m hỏi Austin Glass, một người bạn thân và là chuyên gia về các vấn đề Đông Dương. Anh ta có biết “người bạn An Nam” này, nhưng lại không rơ bây giờ ông ta lấy tên ǵ và Glass cũng chẳng giúp cho tôi t́m được ông ta ở đâu v́ ông ta không có nơi ở nhất định. Glass chỉ nói: “Hăy kiếm ông ta ở Bắc Kỳ”.
Qua nhiều cộng tác viên khác của OSS tôi được biết Nha Viễn Đông sự vụ Bộ Ngoại giao cũng đang loay hoay t́m bắt mối với “Ông Hồ” và xem xét trường hợp của ông. Người bạn đồng nghiệp của tôi ở đó đă bắt tôi phải cam đoan giữ tuyệt đối bí mật mới cho phép tôi được xem tập hồ sơ những “tin tức chỉ để tham khảo” chứ không phải “để giải quyết” của Bộ. Theo tôi, đúng là t́nh h́nh đă được thổi phồng lên quá mức trong tài liệu của Bộ Ngoại giao.
Như vậy, thoạt tiên Hồ Chí Minh đă được những người Mỹ ở Trung Quốc chú ư vào khoảng 4 tháng sau khi ông bị bắt ở Quảng Tây (nay được xác định là vào ngày 28-8-1942). Bằng một nước cờ tài t́nh nhằm thu hút sự chú ư của người Mỹ nhưng đồng thời cũng làm cho Quốc dân đảng Trung Quốc bối rối, ông Hồ đă dựa vào sự giúp đỡ của bạn bè cho đăng trên đại công báo, tờ báo hàng ngày ở Trùng Khánh, một bài tiết lộ sự tồn tại của một chính phủ lâm thời do Trung Quốc dựng lên cho Đông Dương. Bài báo xuất hiện ngày 18-12-1942 và lập túc được ngay hăng UP tóm lấy để chuyển về New York và Washington.
Bản tin của UP đă gây ra một sự ngao ngán đáng kể trong giới ngoại giao Trung Quốc, Pháp và Mỹ ở Trùng Khánh. Chỉ vài giờ sau khi tin này được công bố tại Mỹ, Đại sứ quán của chúng ta ở Trùng Khánh phải chỉ thị cho một trong số những sĩ quan trẻ tuổi sắc sảo Cục Đối ngoại, Philip D. Sprouse(9) tiến hành diều tra về vấn đề này. Sprouse đă báo cáo là bài báo do một phóng viên của tờ Đại công báo tên là Hsu Ying viết dựa theo tin tức của một người Đông Dương không rơ căn cước nhưng được coi là một người Cộng sản. Sprouse cũng có đến gặp J. Fisbacher, đại diện “những người Pháp chiến đấu” theo De Gaulle ở Trùng Khánh. Fisbacher nói không hay biết ǵ về một “chính phủ lâm thời” cho Đông Dương nhưng lại cho Sprouse xem một bức thư (cũng từ một “người An Nam” không được xác minh!) gửi cho thông tín viên địa phương của hăng Reuters phản đối việc nhà cầm quyền Trung Quốc ở Liễu Châu đă bắt giữ ngày “2-9-1942” một người An Nam tên là Ho Chih Chi(?) “được xác nhận là lănh tụ Đông Dương Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược”. Theo Sprouse, Fisbacher đă hăm hở gạt bỏ không những bài báo mà cả bức thư gửi cho Reuters và tỏ ư mong rằng cơ quan sứ quán Mỹ hăy bỏ qua đừng quan tâm đến chuyện này nữa.
Nhung cả Gauss và Sprouse đă không hoàn toàn bỏ rơi câu chuyện. Theo thường lệ, ngày 31-12, Gauss báo cáo về Bộ những điều đă khám phá ra được, kèm theo bản tường thuật của Fisbacher và nêu nhận định của Gauss có thể đồng ư với quan điểm của Pháp là không có “Chính phủ lâm thời” nhưng điều đó chưa thực chắc chắn lắm. Việc các nhà đương cục Trung Hoa vội vàng gạt bỏ câu chuyện và người Pháp đă quá nhậy cảm đối với quyền lợi của Mỹ trong các vấn đề Trung - Việt đă gây cho Gauss nhiều sự nghi ngờ.
Gauss đă không chững lại. Khi rời Trùng Khánh về Washington xin chỉ thị, Gauss đă đề nghị với đại diện lâm thời George Atcheson Jr. cho tiếp tục công việc. Ngày 20-5-l943, được sự đồng ư của trên, J.S. Service(10) và Sprouse đă tổ chức một bữa ăn với G. Wang, thông tín viên UP ở Trùng Khánh và ban biên tập Đại công báo, trong đó có người phóng viên độc đáo, ông Hsu Ying. Trong cân chuyện hôm đó, Hsu Ying đă nói chi tiết về nguồn gốc bài báo, đồng thời lại tiết lộ cho biết có hai tổ chức tuy có liên quan với nhau nhưng khác hẳn nhau, cùng tồn tại trong những người Việt lưu vong ở Trung Quốc và Hoa kiều hải ngoại.
Nhóm thứ nhất gọi là “Đông Dương Cách mạng Đồng minh Hội”, thành lập ở Liễu Chân dưới sự bảo trợ của tướng Trương Phát Khuê(11). Lănh tụ của họ gồm toàn người Hoa kiều nhưng nghe nói họ cũng có khoảng chừng 2.000 lính An Nam được giới quân sự Trung Quốc huấn luyện.
Nhóm thứ hai là ṇng cốt của “Chính phủ lâm thời Đông Dương”, gồm toàn người Việt và dựa vào Quốc dân đảng. Lănh tụ của nhóm là một người Việt tên là Wu Fei, người này đă có lần đến Trùng Khánh, gặp bác sĩ Chu Chia Hua (12). Cái gọi là Chính phủ lâm thời này được tổ chức bởi hai đảng - Quốc dân đảng (không có quan hệ với chính phủ Trung ương Trung Hoa) và đảng Bảo hoàng. Có tin “Chính phủ” của họ đă có độ 12.000 quân du kích đang hoạt động ở miền bắc Bắc Kỳ, giáp biên giới Trung Quốc.
Ngày 28-5, Atcheson đă gửi bản báo cáo công tác của Sprouse cho Bộ Ngoại giao để hỏi ư kiến của John Carter Vincent(13). Carter Vincent tuyên bố không biết ǵ về các tổ chức nói trên nhưng biết có người nào đó thuộc một nhóm quốc gia Đông Dương “không phải đă bị bắt cầm tù mà chỉ bị các nhà chức trách Trung Quốc ở Liễu Châu giám sát chặt chẽ không cho tự do hoạt động”. Vincent cho rằng người Trung Hoa đă nghi nhóm người Đông Dương nói trên được cảm t́nh của cộng sản và đang xúc tiến thành lập một Chính phủ lâm thời Đông Dương trên đất Trung Quốc, mà theo ông th́ chủ trương này không được Trung Quốc tán thành (14).
Nhưng Vincent, trước đây là quyền cố vấn đại sứ quán Mỹ lại nghĩ rằng người Pháp ở Trùng Khánh cũng nghi ngờ người Trung Hoa “đang mưu toan xúc tiến một cuộc vận động nhằm thiết lập một Chính phủ lâm thời ở Đông Dương” và phỏng đoán nhóm người Việt ở Liễu Châu đă được họ giúp đỡ để thực hiện ư đồ đó. Vincent đă nhắc tới việc Boncourt, cựu cố vấn đại sứ quán Pháp tại Trùng Khánh, cùng nhiều nhà chức trách Pháp đă tỏ ra rất mẫn cảm đối với mọi gợi ư về việc Trung Quốc có kế hoạch nhằm tranh chấp chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.
Bộ trưởng Hull không hài ḷng về thái độ lững lờ của Bộ Ngoại giao đối với trường hợp “ông Hồ”, ngày 30-6 đă điện cho đại sứ quán ta ở Trùng Khánh biết là t́nh h́nh “chưa hoàn toàn rơ ràng” và Hull muốn có một bản báo cáo bằng công văn tỉ mỉ hơn, kèm theo nhận xét của đại sứ quán về vấn đề này. Bản phúc đáp của Sprouse ngày 21-7 không nói ǵ đến việc ông Hồ bị bắt hoặc bị giam giữ mà chỉ xác định lại các báo cáo trước đó và phản ánh quan điểm của người Pháp cho rằng phong trào của người Việt Nam nói trên không có ǵ đặc biệt quan trọng trong lúc này. Sự việc này đă dừng lại ở đó vào tháng 7-1943.
Cố gắng đầu tiên của ông Hồ để thoát khỏi bị giam giữ và tranh thủ sự công nhận chính thức của Đồng minh đă không đi tới đâu. Câu chuyện trên tờ Đại công báo tuy có làm cho giới ngoại giao xôn xao ít nhiều nhưng rồi cũng bị lắng ch́m đi trong cái biển quan liêu của Bộ Ngoại giao.

OSS VÀ “ÔNG HỒ”

Nhưng t́nh h́nh đă đổi khác, khi mà ở Trùng Khánh OSS ra sức xây dựng một hệ thống tổ chức hoạt động bí mật có hiệu quả. Đại diện của Mao Trạch Đông ở Trùng Khánh đă tiếp xúc với các sĩ quan OSS và SACO, và gợi ư rằng bằng con đường điều đ́nh riêng có khả năng khiến cho nhà lănh tụ Việt Nam đi theo phe Đồng minh.
Như chúng ta đă rơ, 1942 và 1 943 là những năm khó khăn cho hoạt động bí mật của Mỹ ở Đông Nam Á. V́ những lư do khác nhau, cả hai nước Pháp và Trung Quốc đều tỏ ra dè chừng đối với Mỹ, và cả hai đều đă từ chối không chịu tŕnh bày ư đồ của ḿnh hoặc cộng tác với Mỹ về các chủ trương chính sách đối với Đông Dương. Thực tế, họ đă có mưu đồ cách ly người Mỹ với các kế hoạch của họ. Pháp th́ muốn ve văn cảm t́nh và sự ủng hộ của người Anh, cùng là nước thực dân như nhau, để loại trừ người Mỹ. C̣n Trung Quốc lại lo giành thế mạnh trên bàn đàm phán hoà b́nh sau này về các vấn đề đặc quyền ngoại giao và nhượng địa của Pháp ở Trung Quốc, nên Trung Quốc đă mưu tính với những người quốc gia Việt Nam nhằm thừa cơ hất cẳng Pháp ra khỏi thuộc địa cũ của Pháp.
Bằng nhiều con đường kín đáo khác nhau, gợi ư của những người cộng sản Trung Quốc đă được chuyển tới các đại diện của OSS ở Trùng Khánh. Không cho cả Miles và Tai Li biết, các đại diện của OSS đưa vấn đề ra thảo luận với OWI, với nhân viên Đại sứ quán; và họ đă đồng ư sẽ cho xúc tiến một cố gắng chính thức nhằm kéo Hồ Chí Minh ra khỏi nhà tù và điều đ́nh để ông cộng tác với OSS.
Bây giờ chúng tôi mới hay là, cũng trong mùa hè và mùa thu 1943, khi OSS xúc tiến thương lượng qua đường ngoại giao và quân sự để giải thoát ông Hồ th́ lúc đó tướng Trương Phát Khuê cũng đă làm áp lực để buộc ông hoạt động cho Quốc dân đảng. Trương đă gặp nhiều khó khăn rắc rối với các nhóm người Việt lưu vong ở Hoa Nam mà sự chia rẽ chống đối nhau về phương pháp tiến hành đấu tranh và những sự tranh giành quyền lực giữa các lănh tụ đảng phái đă che lấp mất mục tiêu thống nhất đấu tranh giành độc lập đất nước họ đang theo đuổi. Trương đă lập luận rằng nếu muốn lợi dụng được các nhóm này để phục vụ cho Quốc dân đảng th́ trong chiến tranh hay thời b́nh họ phải được thống nhất và tổ chức lại thành một khối thuần nhất thân Trung Quốc - Hồ Chí Minh đă được coi như là con người thích đáng nhất để đảm nhận công việc đó và “để giúp chấn chỉnh” Đồng minh Hội(15), mặt trận quốc gia do Trung Quốc đỡ đầu.
Tháng 11 năm đó được xem như là thời điểm mà Hồ Chí Minh đă được người Mỹ nghĩ tới, người Trung Hoa và các bạn Cộng sản của ông ở Việt Nam cho là biệt tăm v́ họ chẳng được tin tức ǵ về số phận của ông ở Quảng Tây. Lúc đó cũng là lúc có hai bản kiến nghị xin tha cho ông được gửi đi từ Hiệp hội quốc tế chống xâm lược. Tài liệu Bộ Ngoại giao cho thấy con người lanh lợi Sprouse đă tŕnh ngay bản kiến nghị cho Đại sứ và đề nghị gửi về Washington, kèm theo một công văn chuyển giao do Sprouse thảo. Nhưng cái lối làm việc quanh co ở đây đă giúp cho Đại sứ quán lẩn tránh được nhiệm vụ gay cấn phải giải quyết các vấn đề chính trị của người Pháp ở Đông Dương. Trong công văn, Sprouse đă ghi “người An Nam” chính là người được coi là đă bị bắt, là người đă được báo cáo gần một năm trước đây. Nhưng Gauss lại đề nghị Bộ trưởng “không nên phúc đáp bức thư của tổ chức người An Nam” khi mà người Pháp đă từ chối mạnh mẽ không công nhận sự tồn tại của “Hiệp hội”.
Lúc đó bản thân Đại sứ Mỹ cũng đang bị rối bận về các mối quan hệ Mỹ - Trung, một mặt là các vấn đề gay cấn trong cấp chỉ huy, giữa huân tước Mounbatten và Tưởng Giới Thạch, mặt khác là mối hận thù giữa Stilwell và Chennault. Các việc nhỏ nhặt khác như vấn đề Đông Dương đều được giao lại cho cơ quan giải quyết. Nhưng cơ quan, đặc biệt là Sprouse lại thường xuyên chịu ảnh hưởng và bị chi phối bởi Phái đoàn Pháp theo De Gaulle trong các sự vụ ở Đông Dương. Các quan chức phụ trách phái đoàn đă để nhiều thời gian và công sức thuyết phục người Mỹ rằng tất cả mọi người Việt Nam đều thân Pháp và mong đợi lực lượng thân De Gaulle quay trở lại, ở đó không có phong trào độc lập dân tộc quan trọng nào mà chỉ có người Trung Hoa khuyến khích một số ít người Việt bất măn gây rối cho người Pháp. Bức thú gửi cho Hull, phản ánh ảnh hưởng của Pháp với Sprouse, đă kết luận “h́nh như không có cơ sở để nghĩ rằng các tổ chức quốc gia Đông Dương không đại diện ǵ cho một cái ǵ khác hơn là một mưu toan của Trung Quốc nhằm phơi bày một thái độ hữu nghị đối với các dân tộc bị lệ thuộc châu Á và đồng thời cũng nắm trong tay một hạt nhân tổ chức để phục vụ cho “những t́nh huống có thể xảy đến” sau này. Bức thư - báo cáo đến Washington ngày 12-1-1944 và đă được chuyển cho nhiều cơ quan để “biết và làm tài liệu”.
Mấy ngày sau, Lănh sự quán của chúng ta ở Quế Lâm đă báo cáo là lănh tụ của Đảng Cộng sản là “một ông Hoàng nào đó, đă từng cộng tác lâu năm với đảng Cộng sản Trung Quốc... Cơ quan lănh đạo của phong trào đóng trong vùng phía nam tỉnh Vân Nam”. Đây hầu như là điều chắc chắn ám chỉ ông Hồ, nhưng tên th́ chưa được xác nhận; đây không phải là “đồng chí Vương” như người ta đă nhiều lần được biết tên ông ở Quảng Đông, Liễu Châu và Côn Minh.
Hồ sơ của Bộ Ngoại giao đă cung cấp những tin tức có giá trị về vấn đề Powell/Langdon xin giấy phép nhập cảnh cho Hồ Chí Minh 6 tháng trước đó. Powell thuộc cơ quan OWI đă đến gặp Langdon, Tổng lănh sự Mỹ ở Côn Minh và yêu cầu cấp thị thực nhập cảnh cho một người Đông Dương gốc Hoa “Ho Ting Ching”. Powell cho biết các nhà chức trách OWI New York đă định thuê người này trong một thời gian dài để phát thanh các bản tài liệu dịch tiếng Việt của OWI từ San Francisco.
Langdon đă trả lời là sẽ đồng ư cấp giấy nếu OWI yêu cầu và nói thêm rằng “Ho Ting Ching” cần phải xin một giấy phép thông hành do Chính phủ Trung Hoa cấp để đến công tác tại nước Mỹ và Langdon đă tỏ ra không tin là Ho Ting Ching đă có giấy đó. Langdon cũng lại cho biết trong bất cứ t́nh huống nào người Pháp cũng sẽ “rất bất b́nh” nếu “Ho Ting Ching” được đoán chừng cũng có thể là một người có quốc tịch Pháp, được đưa đến nước Mỹ để tuyển dụng vào làm nhân viên nhà nước mà người Pháp không được hỏi ư kiến trước.
Thấy có khả năng xảy ra nhiều điều phức tạp, Langdon đă hỏi xem ư kiến Bộ. Vấn đề được đặt ra cho Washington vào tháng 12-1944 và được chuyển tói Sprouse(16). Sprouse đă phải chuẩn bị một bản bị vong lục nói về “ông Hồ” cùng với những hoạt động và quan hệ của ông với OWI Côn Minh. Nhưng chứng chỉ nhập cảnh đă không được cấp.
Vấn đề xin nhập cảnh cũng như bài đăng trên Đại công báo và các kiến nghị xin trả tự do cho ông Hồ đă nằm chết trong đống hồ sơ của Bộ Ngoại giao. Nghĩ tới các bản danh sách các nạn nhân chiến tranh bi thảm của chúng ta trong những thập kỷ vừa qua, người ta chỉ có thể đau xót, hối tiếc đă để lỡ mất những cơ hội có khả năng làm chuyển biến thời cuộc đi theo một hướng khác như đă được tŕnh bày ở trên. C̣n đối với tôi lúc đó, ít ra tôi cũng đă nắm được một số đầu mối tổ chức kháng chiến của những người Việt Nam vào đầu năm 1945. Đó là một việc mà tôi cảm thấy có thể sẽ có ích cho tôi ở Trung Quốc. Nhưng lúc đó th́ tôi không nhận thức được rằng những hồ sơ bị xếp xó đó và những cuộc điều đ́nh của OSS ở Trùng Khánh đă thể hiện một cố gắng nhất định của Hồ Chí Minh chỉ nhằm để làm cho Mỹ chính thức công nhận “sự nghiệp” của ông ta.
Khi Hồ Chí Minh c̣n là khách của tướng Trương Phát Khuê tại nhà tù Tiên Dao th́ Wendell Wilkie đến thăm Trung Quốc vào tháng 10-1942. Qua các báo chí cũ và các tin tức phát thanh bập bơm, ông Hồ cũng nắm được các sự kiện xảy ra trên thế giới và những lời công bố của Wilkie, và đă phát hiện được sự căng thẳng trong quan hệ giữa Mỹ, Anh, Pháp về vấn đề chủ nghĩa thực dân. Khi rời Trung Quốc Wilkie đă tuyên bố là người châu Á đang yêu cầu thi hành các nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương phù hợp với điều kiện đặc biệt của đất nước họ. Sau đó ông Hồ lại được đọc trên báo chí Trung Quốc những tin tức mới, những lời b́nh luận về cuộc trao đổi ư kiến giữa Churchill và Roosevelt về việc thi hành Hiến chương Bắc Đại Tây Dương. Vào 1945, trong một phút giễu cợt hiếm có của ông, ông Hồ đă hỏi tôi “phải chăng Hiến chương Bắc Đại Tây Dương chỉ là một bạn cùng đôi với 14 điểm Wilson được áp dụng cho các nước người da trắng châu Âu, ngoại trừ các nước thuộc địa Á – Phi”(17).
Trong những năm 1942-1944, vấn đề tự do của tất cả các dân tộc phụ thuộc đă trở thành một vấn đề quan trọng và người Mỹ đă nổi lên như một quán quân bênh vực cho lư tưởng này. Roosevelt và Cordell Hull yêu cầu các cường quốc thực dân châu Âu theo gương người Mỹ ở Philippin trong việc đặt nền tảng cho việc thực hiện độc lập của các nước thuộc địa cũ của họ. Roosevelt đă có lần nhấn mạnh quá mức đến nước Pháp ở Đông Dương và nói đến nền cai trị Pháp ở đây như là một điển h́nh nổi bật của chủ nghĩa thực dân áp bức bóc lột nặng nề.
Điều đó đă làm cho huân tước Halifax(18) phải yêu cầu Hull ngày3-1-1944 giải thích rơ hơn về ư đồ của Tổng thống Roosevelt. Theo bộ ngoại giao Anh th́ Tổng thống Mỹ đă “xác nhận phần nào” những lời tuyên bố trong dịp đi Cairo và Téheran của ông với nội dung là “Đông Dương có thể sẽ được tách ra khỏi nước Pháp và đặt dưới quyền ủy trị quốc tế”. Halifax cho biết thêm là bản thân ông cũng đă nhiều lần được nghe Tổng thống có ư kiến như vậy nhưng không biết chắc những lời phát biểu đó của Tổng thống có phải đă là kết luận cuối cùng không. Người Anh ngại rằng những lời nhận xét đó của Tổng thống có thể tới tai người Pháp và sẽ gây ra nhiều sự lúng túng lớn.
Hull đảm bảo với Halifax là ông ta cũng chẳng biết ǵ hơn về việc này và gợi ư rằng có thể tốt hơn hết là Tổng thống và Churchill nên trao đổi với nhau về vấn đề này trong một cuộc gặp gỡ sau nào đó.
Câu chuyện giữa Halifax và Hull đă gây ra những tiếng vang xôn xao. Hai ngày sau, S.K. Hornbeck, cố vấn chính trị Bộ Ngoại giao, đă thông báo cho Hull biết tin nhà chức trách Trung Quốc đă nhiều lần tuyên bố rằng mặc dầu Trung Quốc mong muốn thấy Đông Dương được trả lại cho Pháp nhưng lại không muốn điều đó được thực hiện mà không có một số các điều bảo đảm nhằm ngăn chặn Pháp dùng Đông Dương vào những hoạt động không thân thiện đối với quyền lợi của người Trung Hoa sau này. Nói tóm tắt là tương lai của Đông Dương sẽ không được định đoạt nếu như không có mặt người Trung Hoa trên bàn Hội nghị Hoà b́nh. Chính trong bối cảnh của việc nhận thức mới này về sự quan trọng của Đông Dương mà Trung Quốc và OSS đă sử dụng Hồ Chí Minh trong năm 1944-1945.
Sau vụ “hạ tầng công tác”(19) ở Đồng minh Hội, ông Hồ thấy rằng ḿnh đă có một cương vị vững vàng để tự do hoạt động, vai tṛ lănh đạo đă được công nhận trong đám đồng bào bạn bè và không bạn bè của ông, nên ông đă sử dụng triệt để lợi thế mới của ḿnh. Đồng minh rơ ràng sẽ chiến thắng ở châu Âu và ông Hồ đă thấy trước là toàn bộ lực lượng của bộ máy chiến tranh Đồng minh sẽ chuyển sang chống Nhật Bản. Ông Hồ cũng biết rằng thời giờ c̣n lại cho ông rất eo hẹp. Ông phải sẵn sàng, nếu không theo luật pháp th́ trên thực tế, là người đại diện cho chính quyền ở Đông Dương đối với những người Đồng minh chiến thắng, nếu như ông giành và duy tŕ được sự kiểm soát của một nước Việt Nam độc lập. Trong thực tế, thời gian của ông c̣n bị hạn chế hơn ông tưởng rất nhiều v́ có vụ nổ bom nguyên tử.
Nhờ có đầu óc phân tích, bản chất thực dụng và một sự thông hiểu sâu sắc t́nh h́nh chính trị thế giới, ông Hồ đă rất sớm rút ra kết luận phải tranh thủ cảm t́nh của nước Mỹ. Ông đă xác định được không thể coi Trung Quốc như là một Đồng minh và thậm chí c̣n hơn thế nữa, có thể trở thành đối kháng. Ông đoán trước sẽ không có một sự ủng hộ tích cực về phía nước Nga “anh dũng” đối với kế hoạch giành độc lập của ông, bởi ngay sau khi thắng trận họ đă bị kiệt sức v́ chiến tranh. Trong khối Đồng minh phương Tây, các nước thục dân như Anh, Pháp và cả Hà Lan - sẽ nhất tề không thể nào khác được trong việc chống lại cuộc vận động chống chủ nghĩa thực dân của ông. Đối với những nước này th́ chỉ có việc đẩy mạnh công cuộc đề kháng. Trong suy nghĩ của ông, nhất định là khi có cơ hội, Pháp sẽ đ̣i lại Đông Dương làm thuộc địa.
Chỉ c̣n có Mỹ, một khả năng cuối cùng của ông. Nhưng đồng thời Mỹ cũng là một điều bí ẩn đối vối tâm t́nh của một con người đă được đào luyện chính trị ở Matxcơva. Ông Hồ đă phải vắt óc suy nghĩ để t́m ra những điều khá lạ lùng để dung hoà những đ̣i hỏi về lư thuyết và thực hành của ông. Ông cảm thấy người Mỹ rơ ràng là chống thực dân, bối cảnh lịch sử, thành tích trước kia và những lời tuyên bố mới đây, tất cả đều chứng minh điều đó. Nhưng Mỹ cũng vẫn là tư bản. Những cải cách kinh tế xă hội của họ chưa thực sự “dân chủ”. Vô sản của họ thật chưa được “tự do” và được “giải phóng” như ở Nga. Nhưng chỉ c̣n có người Mỹ có lẽ mới chịu nghe và giúp đỡ phong trào của ông một cách có thiện cảm.
Cuối mùa xuân 1944, thoát khỏi được gánh nặng ở Đồng minh Hội, chưa bao giờ ông Hồ lại lo tranh thủ sự chú ư của người Mỹ như lúc này. Năng khiếu nhận thức và tính toán thời cơ của ông đă giữ vai tṛ quan trọng trong các sự kiện tiếp theo. Ông biết rằng OSS cho tổ chức những nhóm gián điệp người Trung Hoa để quấy phá Nhật Bản dọc theo bờ biển Trung Quốc và trong các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây. Lúc đó OSS ở Trung Quốc đánh giá cao cái vốn quư của ông Hồ trong lĩnh vực công tác t́nh báo và chiến tranh du kích, nhưng người Pháp và Trung Hoa ở Trùng Khánh đă hoạt động chống lại việc người Mỹ muốn sử dụng Việt Minh. Mặc dù vấp phải những trở ngại nói trên, giữa năm 1944, OSS và AGAS đă tiếp xúc với ông Hồ trong một cố gắng không thành nhằm tổ chức một lưới t́nh báo ở Đông Dương, sau khi ông đă cộng tác phần nào với người Mỹ trong công tác tuyên truyền.
“Ông già” mưu mẹo(20) đă phản đối việc sử dụng ông giống như những nhân viên người Trung Hoa khác. Ông muốn được công khai chính thức công nhận và ở cấp bậc cao nhất có thể được. Tất nhiên ông không có được sự ủy nhiệm ngoại giao cần thiết để làm việc với một cường quốc bên ngoài. Ông được Matxcơva công nhận nhưng Cộng sản hoàn toàn không được thừa nhận ở Trùng Khánh. Ông Hồ có được một cơ sở chính trị trung thành và có hiệu lực ở Đông Dương nhưng lại bị người Pháp ở đó đặt ra ngoài ṿng pháp luật. Ông bị đàn áp ở Trung Quốc v́ Trung Quốc ủng hộ bọn “tay sai bù nh́n” mà họ hy vọng để sử dụng cho những tín toán sau chiến tranh. Nếu người Mỹ muốn lợi dụng sự giúp đỡ của ông cho ḿnh - và họ cũng mong muốn như vậy - th́ họ buộc phải đối xử với ông một cách khá trang trọng hơn. Và một cuộc thương lượng giữa ông Hồ với những người của OSS tiếp cận với ông đă được xúc tiến.

ÔNG HỒ T̀M KIẾM SỰ CÔNG NHẬN CHÍNH THỨC

Vào tháng 8-1944, qua các sĩ quan OSS và OWI ở Côn Minh, Đông Dương Độc lập Đồng minh Hội đă gửi một bức thu đến Đại sứ Mỹ. Tác giả bức thư yêu cầu Mỹ giúp đỡ công cuộc đấu tranh giành độc lập của họ và cho họ được cơ hội chiến đấu chống Nhật bên cạnh các nước Đồng minh. Ngày 18-8, một sĩ quan OSS tŕnh bức thư cho Langdon, kèm theo b́nh luận: “Những người cách mạng An Nam... hiện nay tinh thần rất cao... [] họ mong việc yêu cầu Mỹ giúp đỡ được chấp nhận”. Và người sĩ quan đó phán đoán: “Sau chiến tranh, sẽ có rối loạn lớn ở Đông Dương, nếu như không có ít nhất một biện pháp sớm bảo đảm quyền tự trị thực sự cho đất nước này”.
Ngày 8-9, được OSS khuyến khích, Langdon đă gặp các tác giả bức thư. Theo lời kể lại của Langdon, ông Phạm Viết Tự, được coi như là người phát ngôn của họ, đă nói rằng họ “đến để tranh thủ cảm t́nh... của nước Mỹ”. Langdon đă đáp lại như sau:
“Họ hoàn toàn đúng khi làm cho người đại diện nước Mỹ biết đến những quan điểm và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam trong khi mà người phát ngôn cấp cao nhất của chính phủ Mỹ đă nhiều lần tuyên bố bảo đảm sự quan tâm của chính phủ Mỹ đối với chính sách v́ phồn vinh và tiến bộ của các dân tộc bị trị ở phương Đông, trong đó nhân dân Việt Nam cũng có thể tự coi như có ḿnh”.
Và Langdon đă hứa với những người đối thoại rằng những ư kiến của họ sẽ được ông ta chuyển tới Chính phủ Mỹ. Nhưng Langdon lại nói tiếp:
“Người Việt Nam là công dân của nước Pháp, mà nước Pháp lại đang sát cánh cùng Mỹ đấu tranh... chống lại phe Trục. Thực không c̣n nghĩa lư ǵ nếu như một mặt Mỹ đă phải bỏ ra những chi phí rất lớn về người và của để chi viện và giải phóng nước Pháp khỏi ách nô lệ của người Đức mà mặt khác Mỹ lại đục khoét đế quốc Pháp”.
Phạm Viết Tự đă đáp trả:
“Người An Nam rất biết về t́nh h́nh hữu nghị lâu đời giữa Pháp và Mỹ, và Đồng minh Hội chúng tôi không có ư đồ đấu tranh chống lại Pháp mà chỉ muốn cho các hội viên của ḿnh được đứng về phía Đồng minh đánh Nhật. V́ thế Hội đă có kế hoạch hành động theo hướng đó nếu như Mỹ bằng ḷng cung cấp vũ khí và tiếp tế cho chúng tôi”.
Đến đây Langdon ngắt lời và nói rằng đó là một vấn đề quân sự nên Đồng minh Hội phải trực tiếp thảo luận với Bộ chỉ huy quân sự của Đồng minh.
Phạm Viết Tự nói lại ông chỉ muốn hạn chế ư kiến của ḿnh ở khía cạnh chính trị của vấn đề và yêu cầu Langdon đề đạt rơ với Chính phủ Mỹ là ở đây chỉ nhấn mạnh đến vấn đề tự trị cho nhân dân Việt Nam. Một lần nữa Langdon lại kéo dài câu chuyện và nói rằng ông hy vọng Đồng minh Hội xem xét lại lời yêu cầu trên với một lập trường thực tế hơn và cũng nên thấy rằng trong đó có bao hàm một sự ép buộc có thể đối với Đồng minh Pháp.
Langdon nói thêm là người An Nam có ǵ phải kêu ca đối với người Pháp th́ họ nên theo con đường thông thường mà nói chuyện thẳng với người Pháp.
Phạm Viết Tự đáp lại rằng về lư thuyết mà nói th́ đó là một cách giải quyết chính đáng “nhưng bênh vực cho điều đó trong trường hợp của Đông Dương là ngu ngốc, không nhận thấy thực tế của t́nh h́nh, v́ ở đó chỉ có áp bức, không có dân chủ”.
Một lần nữa Langdon lại đả vào các người khách của ḿnh: “Dân An Nam không nên nh́n tiền đồ của ḿnh một cách quá bi quan. Tháng 7(21) vừa qua, tướng De Gaulle đă có công bố với báo chí Washington rằng chính sách của Pháp là nhằm dẫn dắt mọi dân tộc trong đế quốc Pháp tiến tới tự trị...”.
Cuộc nói chuyện đă tiếp diễn theo cái kiểu đó để rồi dẫn đến một kết thúc tất nhiên không tránh khỏi.
Khi Phạrn Viết Tự và các bạn của ông báo cáo lại cho ông Hồ, họ đă tỏ ra thất vọng và chỉ có thể nói rằng họ đă được tiếp đón thân mật nhưng không được một lời hứa hẹn ủng hộ về chính trị nào. Điều tốt nhất mà họ hy vọng có thể đạt được chỉ là một sự giúp đỡ hạn chế về quân sự và cũng có thể chỉ được trả công các dịch vụ đă tiến hành. Nhưng ông Hồ không thất vọng, trái lại ông tỏ ra hoan hỉ, trước sự ngạc nhiên của mọi người kể cả các sĩ quan OSS...
“Đồng minh Hội” của ông đă tranh thủ được sự công nhận của một quan chức trong Chính phủ Mỹ và đă giành được lời hứa hẹn sẽ làm cho các nhà cầm quyền cao cấp nhất  ở Washington, có thể cả đến “Tổng thống Roosevelt vĩ đại”, phải quan tâm đến sự nghiệp chính nghĩa của Hội.
Nhưng ở Washington, người ta đă đi đến một kết luận rất khác. Người Pháp đă được chấp nhận trước một cách không có cơ sở thục tế, như là một nước Đồng minh chiến dấu chống lại các lực lượng của Nhật ở Trung Quốc. Không muốn bị bỏ quên trên chiến trường Thái B́nh Dương và hy vọng chiếm lại chủ quyền ở Đông Dương, người Pháp đă dồn dập yêu cầu các Chính phủ Washington và London cho họ tham gia vào các kế hoạch quân sự ở Viễn Đông.
Về sau việc tham gia chính thức của Pháp càng trở nên phức tạp khi Pháp đ̣i có quyền xúc tiến các hoạt động bí mật “chuẩn bị tác chiến” ngay trên đất Đông Dương. Việc đó đă đến tai cả Roosevelt và Churchill. Churchill không phản đối ư đồ của Pháp nhưng lại không muốn công khai bác bỏ lập trường đă được công bố của Roosevelt cho rằng ngtịi Pháp không được chiếm lại Đông Dương bằng vơ lực. Vấn đề được đưa ra bàn bạc rộng răi và đă là đầu đề cho hàng đống giấy tờ và công văn ngoại giao trao đổi trong nội vụ và giữa các Bộ Ngoại giao Mỹ - Anh.
Roosevelt rất bực bội trước những đ̣i hỏi khăng khăng của Pháp, Anh và đă chỉ thị cho Hull “không được làm ǵ cả đối với các nhóm kháng chiến hay bất cứ cái ǵ khác có liên quan đến Đông Dương...”. Và như thế là câu chuyện đă được chấm dứt vào ngày 16-10-1944, nhất là đối với các hoạt dộng của Pháp như Roosevelt đă có ư nói. Nhưng vấn đề cũng đă lại chấm dứt với cả các “nhóm kháng chiến”.
Về sau, điểm này đă được làm sáng tỏ vào mùa xuân 1945, khi các nhà cầm quyền Mỹ cuối cùng đă phải cho phép chỉ giúp đỡ cho các nhóm nào đă chuẩn bị đánh Nhật.

ÔNG HỒ GẶP CHENNAULT

Trong lúc này, nhiều cuộc dàn xếp với ông Hồ đă được xúc tiến tại chỗ. Sau lần thương lượng mới với Trương Phát Khuê, ông được hoạt động tương đối tự do, và đă để một phần thời giờ cùng với các nhà chức trách OSS và OWI tham gia điều khiển công tác tuyên truyền của Đồng minh ở Côn Minh, Quế Lâm, Liễu Châu. Ông đă tận dụng các phương tiện của OWI để trau dồi thêm vốn tiếng Anh và sự hiểu biết thêm về lịch sử, phong tục tập quán Mỹ cũng như t́nh h́nh thời sự quốc tế. Ngoài ra, thỉnh thoảng ông lại cung cấp cho BIS tin tức quân sự về Nhật từ Đông Dương gửi tới, thực hiện công tác của tổ chức Việt Minh của ông và thu nạp người của các nhóm quốc gia đối lập. Đó cũng là một thời kỳ để ông Hồ tận dụng các khả năng thuận lợi của ḿnh; nhưng trong thực tế, ông chỉ là một con tép nhỏ trong cái ao lớn và chắc chắn rằng đă chẳng có người Mỹ nào thấy được tầm quan trọng vai tṛ của ông trong tương lai.
Những người đi theo ông Hồ ở Đông Dương, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, mà người Mỹ ở Trung Quốc không hề biết, cảm thấy phấn khởi trước việc ông Hồ thoát khỏi sự giam cầm của người Trung Quốc, trước thắng lợi của Đồng minh ở châu Âu và Thái B́nh Dương. Dưới sự lănh đạo tài t́nh của Vơ Nguyên Giáp, họ đă tiến hành đánh phá các tiền đồn của Pháp và Nhật. Tiếp theo đó là những vụ đàn áp không thể tránh khỏi, cuộc “khủng bố trắng” của người Pháp. Người Việt Nam bị bắt giữ, nhà cửa bị đốt phá, tài sản bị tịch thu, làng xóm bị triệt hạ. Một số người Cộng sản được phát hiện bị bắn bỏ, bị chém đầu, hoặc bị chặt tay chân để bêu ra chợ. Chính quyền Decoux treo thưởng tiền và muối cho ai nộp được đầu các lănh tụ cách mạng.
Những trận tấn công khủng bố của người Việt Nam và sự đàn áp dă man của Pháp đang c̣n diễn ra ác liệt vào 1944, khi có tin tướng De Gaulle vào Paris. Giáp trở nên nôn nóng và muốn phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại cả Pháp lẫn Nhật, nhưng nhiệt t́nh của ông đă bị các lănh tụ khác thận trọng hơn ḱm lại và cuộc khởi nghĩa đă bị hoăn. Nhưng những cuộc đàn áp của Pháp vẫn tiếp tục và phong trào cách mạng có nguy cơ bị tiêu diệt. Từ Côn Minh, ông Hồ ra lệnh “đ́nh chỉ lại tất cả”, cho đến khi ông có thể về đến Pác Bó, hành dinh chiến đấu của ông trong vùng rừng núi t́nh Cao Bằng.
Cuối tháng 11, ông Hồ gặp Giáp và các chiến sĩ khác ở Bắc Kỳ. Ông thảo luận với họ về t́nh h́nh, phê phán tính nóng vội của họ và chỉ cho họ biết rằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra lúc đó là quá sớm và sẽ thất bại. Để nâng cao tinh thần họ và ngăn chặn những hành động liều lĩnh có thể làm nguy hại cho phong trào, ông Hồ cho thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và cử Giáp làm Tổng chỉ huy. Ban đầu, đội tập trung vào tuyên truyền phổ biến và giáo dục cho dân chúng về chiến thuật du kích; và sau đó đội đă trở thành tiền thân của Quân dội Nhân dân hiện nay mà Giáp là Tổng tư lệnh và là người anh hùng.
Sau khi đă giải thích và trấn an những người đi theo, ông Hồ quay trở lại Côn Minh. Khi đi qua vùng Cao Bằng gần biên giới Trung Quốc, ông Hồ gặp một người phụ tá tin cẩn khác là Phạm Văn Đồng, người trước đây đă đề xuất ra các bản yêu sách cho Gauss và Tưởng Giới Thạch để xin tha cho ông Hồ ra khỏi nhà tù. Qua Đồng, t́nh cờ ông Hồ biết là có một phi công Mỹ bị hạ đang được giữ trong một đơn vị du kích của Giáp ở gần đó. Người phi công đó chính là một trong 9 nhân viên hàng không mà nhóm GBT báo cáo là đă nhảy dù ra khỏi máy bay sau trận đánh trên vùng Sài G̣n.
Hay tin có một phi công Mỹ đang được giữ ở một nơi an toàn, ông Hồ nắm ngay lấy thời cơ may mắn này và ra lệnh cho đưa người Mỹ đó đến gặp. Sau một lúc nói chuyện thân mật và tin chắc rằng người Mỹ đă thấy được sự giúp đỡ của người Việt Nam, ông đă chỉ thị cho Đồng cho hộ tống người Mỹ đó, không phải chỉ giản đơn đến biên giới, mà đến thẳng cho người Mỹ ở Trung Quốc. Đây là một dịp thuận lợi nữa để ông Hồ đề cao phong trào cách mạng với người Mỹ và làm cho họ phải chính thức công nhận phong trào của ông.
Ông Hồ trở lại Côn Minh vào tháng 2 rét lạnh. Ở đó ông đă tiếp xúc ngay với các bạn ở OSS và OWI. Ông tỏ ra lo lắng về các cuộc điều động quân mới đây của Pháp và Nhật. Ông cho việc quân Pháp và cả quân Nhật cũng triển khai lực lượng trên các vùng rừng núi Bắc Kỳ và Lào là một điều lạ lùng. Ông Hồ đă không thể biết rơ về các cuộc điều động binh lực này nhưng chắc chắn là có một cái ǵ đó quan trọng đang được chuẩn bị. Theo ông có thể có cuộc tiến quân phối hợp Pháp - Nhật về hướng Vân Nam phủ(22) ở phía Bắc hoặc về Nam Ninh ở phía Đông.
Điều mà ông Hồ không biết là đội tuyên truyền mới của ông sắp sửa là mục tiêu cuộc hành quân càn quét của quân Pháp nhằm triệt để hoàn toàn “bọn phiến loạn”. Cuộc hành quân này đă được dự định tiến hành trong tuần lễ bắt đầu từ 10-3. Trong khi chuẩn bị, một số đơn vị quân Pháp ở Bắc Kỳ đă được dàn ra ở phía Bắc, hướng vào các căn cứ địa quân du kích Việt Nam. Thật ra, đó chỉ là một bộ phận trong kế hoạch to lớn chủ yếu của tướng Mordant bố trí toàn bộ quân của ông ở phía Bác để chờ “cuộc đổ bộ của quân Đồng minh” vào Đông Dương. Cuộc hành quân càn quét chỉ là một kế hoạch che giấu nhưng đồng thời đó cũng là một đ̣n Mordant muốn trả đũa cho “nhóm người An Nam phản bội”.
Nếu như ông Hồ và ông Giáp không hay biết ǵ về ư đồ nhằm tiêu diệt lực lượng nhỏ bé của họ th́ người Pháp lại càng bất ngờ hơn với người Nhật: Nhật đă đột nhiên tấn công quân Pháp chiều ngày 9-3, ngay trước khi cuộc hành quân của Pháp bắt đầu. Như sau này đă rơ, người Nhật đă tước vũ khí và bắt giam tất cả những lực lượng quân sự cùng với những nhà lănh đạo Pháp, trong đó có tướng Mordant và Aymé, và đă tước quyền của các quan chức mọi cấp - từ Decoux cho đến tên thư kư quèn. Như đă nêu trên, chỉ có những người Pháp trong các đội quân được triển khai ở bắc Bắc Kỳ và Lào(23) để nhằm càn quét vùng rừng núi quân du kích Việt Minh và chờ “quân Đồng minh” đến mới thoát được ra ngoài cú vét lưới của Nhật.
Chỉ có Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh của ông ta là đă được lợi gấp đôi trong cái cú đánh lớn may mắn này. Họ đă được cứu thoát khỏi những người Pháp đang nhằm tiêu diệt họ, những người mà sau này họ đă che chở và cho ẩn náu khi rút lui qua Trung Quốc. C̣n nhân dân Việt Nam th́ tạm thời đă được “giải phóng” khỏi những ông chủ Pháp của họ.
Luồng tin tức t́nh báo từ Đông Dương cho đến lúc đó vẫn c̣n hạn chế, đă bị tắc trong ngày một ngày hai. Cú đảo chính của Nhật đă làm ỉm đi mất tất cả mọi đường dây thông tin quân sự, chính trị của mạng lưới SACO và GBT. Tướng Chennault bên hàng không đ̣i cung cấp các mục tiêu t́nh báo; người Trung Hoa gặp khó khăn nguy hiểm trong việc triển khai các lực lượng trang bị đơn sơ và nghèo nàn của họ, cũng như trong việc xây dựng các cứ điểm pḥng thủ của họ dọc theo biên giới Đông Dương mà không nắm được tin tức về sự bố trí quân Nhật. V́ vậy phải cấp bách mở lại các đường giao liên và các hoạt động bí mật để bảo đảm cho các kế hoạch chống Nhật ở Trung Quốc và Thái B́nh Dương của Đồng minh thành công.
Trong t́nh h́nh khẩn cấp đó, lănh đạo OSS được chỉ thị phải làm mọi việc có thể được để mở thông lại luồng tin tức và đă cho phép được sử dụng “tất cả mọi nhóm kháng chiến”. Đây rơ ràng là một sự thay đổi trong chính sách cấm đoán của Tổng thống từ tháng 10 trước và cũng có nghĩa là OSS đă được quyền tự do tiếp xúc với Hồ Chí Minh.
Fenn, trung uư hải quân của chúng ta, lúc đó được phái đến công tác ở AGAS, đă dược nghe nói về một “người An Nam tên là Hu Tze Minh” đă giúp cho viên phi công bị hạ “Trung uư Shaw” trở về Trung Quốc. Fenn lại được biết “Hu Tze Ming” đă ở Côn Minh và “thỉnh thoảng” xuất hiện trong các cơ quan của OWI. Fenn thu xếp để gặp người An Nam đó vào chiều 17-3. Đó tất nhiên là Hồ Chí Minh.
Khi tôi đến Côn Minh vào tháng 4-1945, tôi đă có dịp đọc một số báo cáo của Fenn nói về việc tổ chức “các lưới t́nh báo bản xứ trong nội địa Đông Dương”. Nhưng các báo cáo này không có những chi tiết mà trung uư Fenn đă đưa ra sau này trong quyển sách in năm 1973 của ông(24). Một số ít các chi tiết này (mà tôi đă xác nhận trong tập ghi chú chính thức vào lúc đó) đă nói rất xác đáng về những thắng lợi chính trị của Hồ Chí Minh vài tháng sau đó.
Trung uư Fenn đă kể lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của Fenn với ông Hồ: “Hồ đi cùng với một người trẻ tuổi là Phạm(25)... H́nh như ông ta đă được gặp... Glass và De Sibour, nhưng chẳng thu được ǵ ở các vị này. Tôi đă hỏi xem ông Hồ muốn ǵ ở họ. Ông Hồ nói - chỉ có vấn đề công nhận nhóm của ông ta (gọi là Mặt trận Đồng minh hay Mặt trận Độc lập)”. Sau đó ba hôm, họ gặp nhau lại để chuẩn bị cho ông Hồ trở về Đông Dương, nơi sẽ được đặt các trạm thu tin t́nh báo với các máy vô tuyến của OSS và các hiệu thính viên người Việt do OSS đào tạo.
Ông Hồ đă gợi ư với Fenn rằng ông ta muốn được gặp tướng Chennault. Fenn chỉ đồng ư thu xếp cuộc tiếp kiến nếu như ông Hồ chấp nhận không được đ̣i hỏi ở Chennault bất cứ điều ǵ: “việc xin tiếp tế cũng như hứa hẹn ủng hộ. Hồ tán thành”. Ngày 29-3, Fenn, Bernard và Hồ Chí Minh được đưa đến cơ quan và giới thiệu với tướng Chenjlault.
Fenn kể lại: “Chennault rất cảm ơn ông Hồ về việc người phi công được cứu thoát. Ông Hồ đáp lại bao giờ ông cũng sung sướng được giúp đỡ người Mỹ và đặc biệt giúp tướng Chennault mà ông ta hết mực ca tụng. Họ chuyện tṛ về đội Hổ bay. Chennault tỏ ra hài ḷng về những câu chuyện mà ông Hồ biết chung quanh vấn đề này. Họ bàn chuyện cứu các phi công bị nạn. Không ai nói ǵ đến người Pháp hoặc nói chuyện chính trị. Tôi thở phào khi mọi người sắp từ biệt nhau. Lúc đó, ông Hồ nói rằng ông muốn xin một vật kỷ niệm nhỏ... Và tất cả cái mà ông muốn chỉ là một cái ảnh của tướng Chennault... Đúng lúc... một tập ảnh 8x10 được đưa ra. “Hăy chọn lấy”, Chennault nói. Ông Hồ cầm lấy một chiếc ảnh và hỏi tướng Chennault có vui ḷng cho xin chữ kư?' Chennault liền viết ở dưới “Bạn chân thành của anh. Claire L. Chennault”.
Theo ư ông Hồ th́ việc được tướng Chennault tiếp là hết sức quan trọng v́ được coi như là một sự công nhận chính thức của Mỹ. Nhưng tấm ảnh có chữ kư đă trở thành vật có ư nghĩa quan trọng sống c̣n đối với ông khi ông rất cần một chứng cứ cụ thể để thuyết phục một số người Việt Nam quốc gia đa nghi rằng ông đă giành được sự ủng hộ của Mỹ. Đó chỉ là một mưu mẹo không có cơ sở nhưng cũng đă đạt được kết quả.
Khi Fenn, Bernard và Tan điều đ́nh với AGAS để chở ông Hồ đến vùng biên giới Tŕnh Tây để rồi từ đó ông đi bộ về Pác Bó, tôi cũng dùng “Humpll”(25) bay tới Côn Minh để tiếp quản các công tác ở Đông Dương.
Chú thích :

 (1) Ban không trợ mặt đất, tổ chức cứu các phi công bị rơi ở chiến trường Trung Hoa, tương tự như BAAG của Anh.
(2) “Người hùng” của Churchill, lúc đó đang hoạt động bí mật dưới danh nghĩa là người Mỹ.
(3) Đại tá  N.B. De Pass
(4) Trưởng ban Ngoại vụ của Quân sự Ủy viên hội, giám đốc Cục t́nh báo quân sự Trung Quốc.
(5) Ban tham mưu kỹ thuật không lực mặt đất, đơn vị 5329
(6) sĩ quan MO của OSS ở Miến Điện
(7) thuộc đông bắc Côn Minh, cách biên giới Đông Dương 30 dặm
(8) Nha thông tin chiến tranh
(9) Bí thư thứ ba của Đại sứ quán ở Trùng Khánh
(10) Bí thư thứ hai của Đại sứ quán ở Trùng Khánh
(11) Tư lệnh Đệ tứ chiến khu
(12) Bộ trưởng Bộ tổ chức Ban chấp hành Trung ương Trung Hoa Quốc dân đảng
(13) giám đốc Viễn Đông sự vụ Bộ Ngoại giao
(14) ư Vincent muốn chỉ tổ chức Việt Minh
(15) tức Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội
(16) lúc này Sprouse đă được chuyển về Bộ Ngoại giao
(17) Tại hội nghị Versailes 1919, ông Hồ, lúc đó mang tên Nguyễn Ái Quốc, đă thay mặt cho Đông Dương, gửi kiến nghị (bản Yêu sách 8 điểm) cho tổng thống Wilson nhưng không có kết quả.
(18) Đại sứ Anh ở Mỹ 1941-1946
(19) Để đáp lại việc Trung Quốc trả lại tự do vào tháng 8-1943, ông Hồ đă đồng ư hợp tác với tướng Trương Phát Khuê tổ chức lại Đồng minh Hội. Ông Hồ cũng phải hứa cộng tác với người Trung Quốc trong việc thu thập tin tức t́nh báo.
(20) lúc đó ông Hồ 54 tuổi
(21) năm 1944
(22) Côn Minh
(23) lực lượng dưới quyền tướng Galwel Sabattier, chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ và tướng Wavcet Alessandri
(24) Charles Fenn, Hồ Chí Minh, 1973
(25) Sau này chính Phạm Văn Đồng đă xác nhận ông là người đi cùng ông Hồ trong lần gặp gỡ với Fenn
(26) tuyến đường bay ở phía đông Himalaya, được Đồng minh sử dụng để vận chuyển người và đồ tiếp tế từ Ấn Độ sang Trung Quốc.

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: