Nguyễn Mạnh Trinh

 

HOÀI THANH, văn nô hay phê b́nh gia chân chính?

 

 

 

 

 

Trong nền văn học hiện thực xă hội chủ nghĩa, người phê b́nh văn học đóng vai tṛ của một ' búa ŕu” để răn đe những người bước đi chệch khỏi hướng đă được định sẵn. Trong những năm giữa của thập niên 50 , trong những biến cố văn học như vụ đàn áp nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, những nhà phê b́nh như Hoài Thanh đă đóng vai tṛ xung kích và là nồng cốt cho những màn “ Phê b́nh và tự phê b́nh “ mà thực chất là những màn đấu tố công khai khốc liệt.

Nhưng , theo những tư liệu mà Nhà văn Lại Nguyên Ân đă có th́ cái chủ trương ấy cũng đă thay đổi theo với những diễn tiến chính trị ở hai nước Cộng sản là Trung Cộng và Liên Xô. Khi Mao Trạch Đông phát dộng phong trào trăm hoa đua nở th́ ở Việt nam cũng có nhiều chuyển biến theo . Nhưng khi Liên Xô có chủ trương xét lại của Kruschev th́ ở Việt nam cũng có những chuyển biến tương tự.

Mà những thay đổi chính trị ấy liên quan đến văn học rơ ràng nhất là ở trường hợp Hoài Thanh. Tiền hậu bất nhất , lúc được lệnh của cấp trên bật đèn xanh , Hoài Thanh đă chủ tŕ cuộc đấu tố văn học nhà văn Trần Dần lúc đó không có mặt v́ đang bị cải tạo lao động . Phê b́nh bài thơ “ Nhất Định Thắng “ của Trần Dần đăng trong Nhân Van Giai Phẩm, Hoài Thanh viết Bài “ Vạch tính chất phản động của bài “ Nhất Định Thắng “ của Trần Dần” với những quy chụp nặng nề . và cũng chính Hoià Thanh đă chủ tŕ một cuộc đấu tố văn học mà báo Văn nghệ đă mô tả như sau:

“..Trần Dần đă viết nên những câu thơ hằn học xuyên tạc và bôi nhọ cái thực tế đẹp đẽ của miền Bắc chúng ta. Anh Văn Giáo đă đứng lên vạch cái chân tướng ấy của thơ Trần Dần” Bài Thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần là kết quả sự sa ngă của người viết vào những cặn bă mà đế quốc đă để lại ở đây. Với bài thơ ấy, Trần Dần đă đi vào cá nhân chủ nghĩa, nghệ thuật vị nghệ thuật do đó đă hóa ra thảm hại khiếp nhược. Cái nh́n của Trần Dần là cái nh́n kém lập trường phản nhân dân của kẻ địch' lời nói của Văn Giáo đầy nhiệt t́nh và căm giận.Và đó cũng là ư nghĩ nỗi ḷng chung của anh chị em có mặt trong buổi họp. Cùng một nhận định ấy, phát triển trong nhiều khía cạnh khác nhau. Tú Mỡ , Nguyễn Tuân, Trần Cư , Trúc Đường, Lương Ngọc Trác , chị Thanh Hương, chị Ngọc Khanh, Nguyễn Văn Bổng , Nguyễn Xuân Huy, à đều phát biểu ư kiến của ḿnh.Một người ngồi xuống la 2hàng chục cánh tay khác đă giơ lên xin nói.Càng đi sâu vào những chứng minh cụ thể càng thấy rơ những sai lầm nghiêm trọng và tư tưởng phản động của bài thơ Trần Dần..”

Và :“ ..Anh Sỹ Ngọc , Văn Cao và một vài anh em khác đă có bài trong Giai Phẩm 1956 cũng đă lần lượt phát biểu ư kiến của ḿnh và đều nhận thấy sai lầm lớn của ḿnh đă để in lên một bài thơ như bài thơ của Trần Dần.

Quá nửa đêm ư kiến phát biểu vẫn c̣n nhiều. Nhưng với một bài thơ như vậy , việc phân tích và phê phán cũng đă khá đầy đủ anh Hoài Thanh thay mặt chủ tịch đoàn tổng kết cuộc thảo luận..”

Hoài Thanh c̣n phê phán nặng nề hơn :

'' Miền Bắc trong bài Trần Dần hoàn toàn không giống với miền Bắc thực của chúng ta . Mới xem lướt qua có người tưởng lầm là Trần Dần chỉ nói đến những khó khăn. Nhưng xem lại th́ thấy rơ Trần Dần đă xuyên tạc và vu khống miền Bắc. Trần Dần đă tao ra một miền Bắc đen tối và ngột ngạt. Bốn lần Trần Dần day đi day lại cái h́nh ảnh mưa rơi trên cờ đỏ, cố gây một ấn tượng âm u đối với thực tế tươi sáng của chúng ta.Phải chăng v́ một thứ phiền muộn vẩn vơ nào đây mà Trần dần nh́n cảnh vui lại hóa ra cảnh buồn?Nhưng nếu chỉ có thế th́ cũng chỉ là một sự sai lầm b́nh thường như nhiều sai lầm khác trong các tác phẩm văn nghệ của chúng ta.Đối với những sai lầm ấy, người đọc chỉ phê b́nh một cách thân ái. Trái lại bài của Trần Dần đă làm cho hầu hết mọi người đọc đều phẫn nộ. Hội Văn Nghệ Việt Nam có tổ chức một buổi họp để nhận định về bài này.Không khí buổi họp rất sôi nổi anh chị em văn nghệ miền Bắc, miền Nam , vùng tự do cũ và mới giải phóng ai cũng muốn được phát biểu ư kiến để nói lên sự phẫn nộ của ḿnh.V́ sao vậy? V́ mọi người đă nhận thấy đây không chỉ là sai lầm mà chính là một lời vu khống..”

Nhưng, khi ở Liên Xô có sự thay đổi khi Kruschev kế vị Stalin tạo phong trào sửa sai cũng như phê phán tệ đoan sùng bái lănh tụ th́ ở Việt Nam cũng thay đổi theo. Và , Hoài Thanh sau khi đă đóng vai tṛ xung kích trong việc kết tội Trần Dần th́ lại sám hối và viết” Tôi đă sai lầm như thế nào trong việc phê b́nh bài “Nhất định thắng “ của anh Trần Dần ”.

Ông phê b́nh gia văn nô này tự đấm ngực xưng tội một cách vô cùng thảm thiết

“ .. vẫn sự lầm lẫm nghiêm trọng ấy trong bài phê b́nh của tôi đăng trên báo Văn nghệ. Trong bài này tôi đă nói tính chất phản động của bài Nhất Định thắngm bài thơ ấy chứa đựng những tư tưởng phản động và tôi đă dùng hai chữ phản động không cân nhắc. Nhưng thực ra không phải chỉ là vấn đề dùng chữ. Toàn bài phê b́nh của tôi đều cùng một tinh thần ấy. Tôi nói tôi không kết luận về người chẳng qua chỉ có nghĩa là tôi không nói Trần Dần là ở trong một tổ chức của địch.Kết luận thế nào được? Có chứng cớ ǵ đâu mà kết luận? Nhưng trong ư nghĩ của tôi th́ đúng là địch rồi dầu chưa có thể kết luận là ở trong một tổ chức của địch . Tôi nhặt từng câu từng chữ để chứng minh rằng tác giả đă cố ư nói xấu chế độ ta cố ư vu khống miền Bắc. Nay tôi b́nh tĩnh đọc lại bài Nhất Định Thắng th́ thấy tuy có câu không được rơ nghĩa nhưng không có ǵ để kết luận như thế . Không có chứng cớ mà kết luận như vậy thực là coi rẻ một cách qua 1đáng sinh mệnh chính trị của một người. Do đâu mà tôi đă có kết luận như vậy?..”

Như con tắc kè , xanh đỏ tùy lúc , nhà phê b́nh của nền văn học hiện thực xă hội chủ nghĩa ấy đă thay đổi tùy thời và nhận đnh phê phán văn học chỉ có một mục đich là làm cần câu để câu danh vọng và tiền bạc.Nhưng , trước năm 1945 , trong ḍng văn học tiền chiến , Hoài Thanh đâu có tệ hại như vậy?

 

Có người hỏi : Hoài Thanh, phê b́nh gia của thời tiền chiến hay thời văn học xă hội chủ nghĩa? Trả lời câu hỏi ấy, có lẽ chúng ta phải đi ngược lại từ những năm mà thơ mới nở rộ với biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác mà tác giả Thi Nhân Việt nam đă giới thiệu và làm nổi bật nét đặc sắc. Rồi cũng phải kể đến một thời văn học bị chính trị chỉ đạo và phê b́nh là mũi dao kề vào thân thể nhà văn để bắt đi vào con đường đă được chỉ đạo.

Hoài Thanh (1909-1982), nhà lư luận phê b́nh có tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên sinh ngày 15 tháng 7 năm 1909, quê gốc Nghi Trung, Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và mất ngày 14 tháng 4 năm 1982 ( theo tiểu sử trong Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại của Hội Nhà Văn).

Ông và Hoài Chân đă viết “ Thi Nhân Việt nam”, một cuốn sách nhận định về thơ in từ năm 1941 nhưng đến nay vẫn được coi là một tác phẩm phê b́nh có giá trị và vẫn c̣n là khuôn thước văn chương tồn tại qua thời gian.Bài viết đề tựa tác phẩm là những nhận định sâu sắc vẽ lại một thời đại thi ca với nhiều bài thơ vẫn gây được xúc động cho những người yêu thơ dù cả mấy chục năm sau.Phong cách lựa chọn cũng chính xác và vô tư, và chính điều này đă tạo thành giá trị cho quyển sách .

Nhà phê b́nh là người yêu thơ rất mực nhưng cũng có những tâm sự mà tới nay những người đồng điệu vẫn c̣n chia xẻ. Trong phần kết thúc quyển sách, chương “ Nhỏ, to,”, tác giả “Thi Nhân Việt Nam “ viết:

“.. Khi tôi bắt đầu viết quyển sách này,, đây đó người ta bảo tôi: “ Cây leo thà leo cây đa chứ leo ǵ những loài thảo mộc nhỏ.” Nhưng dầu tôi có tự rẻ rúng đến đâu cũng không bao giờ nuôi cái mộng làm một cây leo, nghĩa là cái mộng “hôi “ chút danh thừa. Tôi biết quyển sách này ra đời sẽ chỉ đưa về cho tôi một mớ ác cảm. Hàng trăm người sẽ bảo tôi mù v́ không trích thơ họ. Những người thơ, trích ít sẽ nghĩ đáng lẽ phải trích thơ họ nhiều hơn. Những người, thơ trích nhiều sẽ khó chịu v́ thấy tên ḿnh bên cạnh những tên họ khinh rẻ. Và , bạn nữa, hỡi người bạn không quen biết! Tôi biết bạn cũng sẽ trách tôi sao lại trích nhiều bài thơ bạn thấy dở và bỏ sót nhiều bài bạn cho là hay.”

            Tới bây giờ , ở mấy chục năm sau, vẫn có người c̣n cho rằng những công việc như phỏng vấn tác giả, giới thiệu sách, đọc sách là những công việc của những giây tầm gửi nghĩa là như Hoài Thanh viết “ hôi một chút danh thừa!!!”. Nếu suy nghĩ rộng hơn một chút, giá trị của tự thân văn chương không ở những lời nhận định như thế làm giảm đi mà ở chính những cống hiến chân thực từ những việc làm kể trên đă trả lời một cách minh định . Hoài Thanh từ thuở ấy đă viết :

;.. Nhưng tôi là người thời bây giờ. Dău vui dẫu buồn, tôi muốn sống cái đời bây giờ đă. Có những bài thơ tôi say mê mà người sau sẽ thấy không có ǵ. Th́ mặc kệ họ chứ. Nói ǵ người sau. Chính tôi ngày mai đây biết có c̣n rung động v́ tất cả những bài thơ hôm nay tôi trích? Nghĩ như thế nên hôm nay tôi hết sức rộng răi với tôi. Bài thiệt hay trích đă đành, bài hay vừa tôi cũng trích. Lại có khi trong một bài chỉ được bốn năm câu; nếu những câu ấy không dẫn vào trong bài tôi viết tôi cũng đành trích trọn bài thơ. Tôi sợ thiếu không sợ thừa. Tôi muốn ghi hết những vui buồn của thời đại. Tôi chỉ dè dặt với những nhà thơ ai cũng biết. Xuân Diệu có 15 bài trích, nhưng ngoài 15 bái ấy vẫn c̣n nhiều bài hay. Các nhà thơ có tiếng , đại khái đều thế. Ngoài ra với các nhà thơ ít người biết, hễ bài nào trích được là tôi trích.”

Ở thời kỳ mà Hoài Thanh và Hoài Chân viết “Thi Nhân Việt Nam”, thơ mới đang ở trong một cao trào thịnh măn. Và , những người phê b́nh cũng rất sắc bén một cách công tâm. Với con mắt nh́n tinh tế, thơ được chọn lựa để nh́n ngắm và phê với b́nh chuẩn xác biết bao. Phần đông những bài thơ được đề cập đến, tới bây giờ vẫn c̣n làm người yêu thơ rung động.Trong bối cảnh h́nh thành của thơ mới, xây dựng trên cái lỗi thời của thơ cũ, những thi sĩ đă mang cái nhịp sống mới ảnh hưởng từ văn chương Pháp hiển lộng thành những nét đặc trưng của một thời đại. Thời thế ấy, với những cánh cửa mở, quyển sách nhận định văn học như Thi Nhân Việt Nam đă góp công không nhỏ.

Trong bài giới thiệu của nhà văn Từ Sơn viết năm 1988 in trong” Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại” đă có những đánh giá khá chuẩn xác dù đôi khi không phù hợp với đường lối và quan điểm văn học của Đảng khi nhận định về một thời đại văn học đă qua :

“ Hoạt động văn học của Hoài Thanh phong phú và trải ra ở một diện rất rộng, nhưng tên tuổi của nhà văn gắn liền với cuốn Thi Nhân Việt Nam. Trước lúc mất ít lâu, nhà văn đă tâm sự với con trai ḿnh những điều tâm huyết : “ Cha viết văn đă 50 năm nhưng công việc cha thích nhất là dạy học và b́nh thơ, b́nh thơ hay vô luận là của ai. Cha biết văn chương của cha cũng vậy thôi. Nếu không có cuốn Thi Nhân Việt Nam th́ không chắc ǵ người ta đă công nhận cha thực sự là một nhà văn.Một đời làm văn của cha chỉ t́m cái hay, cái đẹp để b́nh. Đó là điều ham muốn của cha. Vậy mà cha đă vấp phải khối chuyện phiền: kẻ yêu người ghét.. cha biết vậy nhưng không thể sống khác, viết khác cái tạng của ḿnh. Điều mà cha có thể hoàn toàn yên tâm và tự hào trước lúc đi xa là cha đă sống và viết hoàn toàn trung thực.. “.

Chúng ta có thể tin tưởng vào cái “ tâm huyết” của nhà văn Hoài Thanh không? Cũng như chúng ta có thể tin vào những bài thơ cuối đời của Chế Lan Viên khi nh́n lại những công việc bút mực của ḿnh với nỗi xót xa hối tiếc ? Hay là, với áp lực lúc nào cũng đang treo trên đầu, những người cầm bút chỉ là những robot hoạt động theo lệnh của “ lănh đạo”. Trong suốt một hành tŕnh văn học dài, chúng ta thấy rất nhiều trường hợp tác giả phải tự từ bỏ những tác phẩm tâm huyết của ḿnh. Không phải chỉ những người bị trù dập mà ngay cả những quan chức văn nghệ cũng bị chính sách Phê b́nh và tự phê b́nh chi phối. Ngay đến nhà văn Nguyễn Đ́nh Thi , Tổng thư kư Hội Nhà Văn bao nhiêu đời mà cũng phải chịu nh́n nhận và từ bỏ một cách gián tiếp những bài thơ mới tâm đắc hoặc những vở kịch nhiều suy tư sáng tạo của ḿnh. Và, ở trường hợp Hoài Thanh, cũng năm lần bẩy lượt nh́n lại tác phẩm của ḿnh tự phê phán tự khe khắt để mong làm vừa ḷng “ lănh đạo” và c̣n có chỗ để sinh tồn trong thị trường bút mực. Dưới đây, tôi xin dẫn chứng một vài điều mà tôi ghi nhận được.

Nhà thơ Xuân Sách , với “ Chân Dung Nhà Văn” trong những bài thơ vẽ lại những khuôn mặt tiêu biểu của các tác giả hiện đại đă phác họa diện mạo văn chương Hoài Thanh như sau với nhiều châm chích mỉa mai:

 

' Vị nghệ thuật nửa cuộc đời.

Nửa đời sau lại vị người ngồi trên

“ Thi nhân “ c̣n có chút duyên

Lại ṿ cho nát, lại lèn cho đau

B́nh thơ đến thuở bạc đầu

Vẫn chưa thể tất nổi câu ân t́nh

Giật ḿnh ḿnh lại thương ḿnh

Tàn canh, tỉnh rượu, bóng h́nh cũng tan,”

 

Kể cũng đau cho nhà phê b́nh cự phách qua cái nh́n quan sát của nhà thơ!!!

Viết “Thi Nhân Việt Nam”, Hoài Thanh có cái dũng lược của một người yêu thi ca và sẵn sàng v́ công tâm mà không ngại sự yêu ghét của những người bị phê phán. Đó là thời kỳ văn học mà Thực dân Pháp c̣n ngự trị trên đất nước ta.Dù trong gông xiềng nô lệ mà vẫn viết được những nhận định trong sáng và làm nổi bật được một thời kỳ văn học nhiều khai phá với những công tŕnh thi ca rực rỡ.

Sang thời kỳ văn học kháng chiến chống Pháp đến văn học Việt Nam xă hội chủ nghĩa, th́ nhà phê b́nh Nguyễn Đức Nguyên tức Hoài Thanh lại đổi tính. Nửa đời trước th́ vị nghệ thuật nhưng nửa đời sau “ lại vị người ngồi trên”. Hồi trước, Hoài Thanh khen thơ mới với những kiện tướng như Thế Lữ, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, th́ sau này nhà phê b́nh lại khen hết mực những Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Trường Chinh, những “ lănh đạo” nắm quyền sinh sát cả nước. Hoài Thanh khen thơ Nguyễn Ái Quốc để nịnh Hồ chí Minh cũng như khen thơ Sóng Hồng để lấy ḷng Trường Chinh. Phải chê bai cái đă qua để làm nổi bật lên cái thời bây giờ dù thơ Hồ Chí Minh nhiều khi vay mượn hoặc nôm na một cách quái dị hay thơ của Trường Chinh tức nhà thơ Sóng Hồng chỉ là những kêu gọi hoặc phẫn nộ giả trá viết để làm tṛn cái chủ tâm chính trị.

Năm 1951, Hoài Thanh viết và in “ Nói chuyện thơ kháng chiến” và sau này chép lại nguyên văn trong “ Toàn Tập Hoài Thanh” năm 1999. Đề cập đến thời kỳ ấy, ông viết :“ Trong cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta, tiếng súng, tiếng nhạc ,tiếng thơ cùng ḥa điệu. .. Thơ gắn liền với vấn đề tư tưởng, vấn đề công tác , vấn đề hành độngà “ Nhà phê b́nh thời tiền chiến đă lột xác để thành nhà phê b́nh khác đem văn chương phục vụ những mục tiêu chính trị. Trong chương “ Nh́n lại thơ cũ 1932-1945” ông đă tự kiểm điểm những điều đă viết từ trước và nhiều khi đă tỏ ra tự khe khắt và nghiêm khắc khác thường đến khó hiểu. Ông gọi những bài thơ đă trích dẫn và b́nh chọn trong Thi Nhân Việt Nam là “ loại thơ cũ tư sản và tiểu tư sản “ Cũng như” Thơ mới có cái yếu đuối vị kỷ v́ nó đă tách cái tôi riêng của nó, hay nói đúng hơn, cái tôi riêng của giai cấp nó ra ngoài cái ta chung của dân tộc, của nhân loại..”

Và :“ Ngày trước hay bây giờ những câu thơ buồn nản hay mộng mơ vẩn vơ cũng đều là bạn đồng minh của giặc. Giặc chỉ có thể xây dựng cơ đồ của chúng trên phần bạc nhược của con người Chúng ta có không dám làm người th́ chúng nó mới có khả năng làm giặcà” Hay “à Những vần thơ buồn tủi bơ vơ ấy là những vần thơ có tội, nó xui người ta buông tay cúi đầu, do đó làm yếu sức ta và làm lợi cho giặc.”

Nhận xét như thế, Hoài Thanh đă gom chung tất cả những người cầm bút thời trước là “ giặc”. Cũng như, sau này Trần Trọng Đăng Đàn đă phê phán tàn mạt hai mươi năm văn học miền Nam (1954-1975) để đạt danh hiệu tiến sĩ và thành một cái loa đánh phá vùi dập những giá trị văn chương không phải của riêng Miền Nam mà của cả dân tộc.

Mà, trong bài tựa Thi nhân Việt Nam th́ lại viết :

“.. Đời chúng ta đă nằm trong ṿng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi t́m bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường t́nh cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử , Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đă khép, t́nh yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.

Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng ḷng tự tôn, ta mất luôn cả cái b́nh yên thuở trước.”

Hoài Thanh viết về những nhà thơ của thời tiền chiến lúc trước th́ t́m những cái hay cái đẹp bao nhiêu th́ sau này kiếm t́m những cái dở cái xấu bấy nhiêu. Thử hỏi, điều ǵ đă thúc đẩy ông làm công việc đó?

Thế mà , chưa đủ. Hai năm sau, ông lại viết một bài khác, đăng trên tạp chí Văn Nghệ, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Nhà Văn bài” Tự phê b́nh về quyển Nói chuyện thơ kháng chiến”. Một bài viết chứng tỏ cái tư cách không đứng đắn ! Đến nỗi một nhà văn nổi tiếng là giáo điều như Hồng Diệu đă phải viết trong Văn Nghệ Quân Đội số tháng 10 năm 1999 những nhận định khá nặng nề:

“.. Tuy vậy, đọc bài Tự Phê b́nh về quyển nói Chuyện thơ kháng chiến do chính Hoài Thanh viết hai năm sau khi quyển sách ra đời, đăng trên tạp chí văn Nghệ số 42 (8-1953) chắc người đọc rất khó đồng t́nh. Hoài Thanh đă quá khe khắt khi đặt cho Nói Chuyện Thơ Kháng Chiến và tác giả của nó-tức là ông- những yêu cầu rất khó thực hiện, hoặc không thể thực hiện vào thời điểm ông viết quyển sách.”

Và :“.. bài Tự Phê B́nhà của Hoài Thanh cũng chỉ là một trong một loạt các bài khác như Nh́n rơ Sai Lầm của nhà văn Nguyễn tuân, Dứt khoát của nhà thơ Xuân Diệu, Nh́n Thẳng về Tương Lai của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, Tin Tưởng của nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Quyết Tâm và Tin Tưởng của nhạc sĩ Lê Yên đăng trên tạo chí Văn Nghệ số 41 (7-1953) hay Tôi đă trở về với nhân dân lao động của họa sĩ Nguyễn Sáng đăng trên tạp chí Văn Nghệ số 44 (10-1953)à Chúng có” cao giọng “ nhưng thể hiện rơ quyết tâm của những văn nghệ sĩ đă từng “nặng nợ” với chế độ cũ, đă từ những chân trời khác nhau nay đứng trong đội ngũ những chiến sĩ cách mạng đem hết sức ḿnh cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.”

Có phải , nhà phê b́nh nhận định văn học đă khá hối tiếc khi viết về những người mà ḿnh đă từng xưng tụng, đă từng đọc và b́nh với cả tấm ḷng :

“ ..Song cũng nên thể t́nh cho con người trong thơ cũ. Nó đáng thương hơn là đáng trách. Cái buồn tủi , cái bơ vơ của nó chứng rằng nó cũng là một kẻ trầm luân trong bể khổ của chế độ thực dân. Nó không đứng trên một Bến Giác tưởng tượng nào để uống rượu, ngâm thơ mà mỉm cười nh́n xuống chúng sinh, như những nhà thơ ca tụng cảnh nhàn trong thời phong kiến.”

Trong “ Nói chuyện thơ kháng chiến” Hoài Thanh có những lập luận khá tức cười . Như nhận xét về những câu ca dao Trấn Thủ Lưu Đồn:

 

Ba năm trấn thủ lưu đồn

Ngày th́ canh điếm tối dồn việc quan

Chém tre đẵn gỗ trên ngàn

Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai

Miệng ăn măng trúc măng mai

Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng

Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng.

 

Hoài Thanh viết :“ Anh lính thú lưu đồn ngày xưa kêu khóc thảm thiết: Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.

Thực ra cái khổ của anh không phải v́ chém tre, đẵn gỗ, v́ măng trúc , măng mai. Anh khổ v́ thiếu sự nâng đỡ của nhân dân và do đó phản lại chính ḿnh anh nữa.

Từ buổi bước ra đi, con người của anh đă không c̣n là con người thống nhất. Bao vàng, nón dấu, súng hỏa mai, giáo trên ḿnh anh thắt , đội, mang , cắp, nhất nhất đều do lệnh quan sai; chân anh bước cũng do tiếng trống giục quan sai. Con người giả, con người công cụ ấy choán hết cả bài thơ, nó đè nặng lên con người thực. Một cái ǵ nghẹn ngào trong bài thơ. Đến khi con người thực vụt hiện ra được ở cuối bài thơ th́ câu thơ bỗng khóc ̣a lên, người ta không trông thấy ǵ ngoài những ḍng nước mắt.

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.”

Thú thực, tôi suy nghĩ măi mà chẳng hiểu người lính thú tội nghiệp kia tại sao lại khổ sở v́ “thiếu sự nâng đỡ cùa nhân dân”. Không khổ v́ ăn uống kham khổ, không mệt v́ công việc chém tre ,đẵn gỗ khổ sai.? Để rồi, v́ thiếu sự nâng đỡ của nhân dân đến nỗi phản lại chính ḿnh. Sự bội phản này xem chừng hơi khó tưởng tượng đối với những đầu óc có suy nghĩ b́nh thường.Có lẽ , con người phê b́nh hiện thực xă hội chủ nghĩa đă sản sinh ra lối lư luận văn học quái đản như trên! Nếu nói rằng người lính thú phải trấn thủ lưu đồn ở những vùng xa, nhớ thương gia đ́nh, đời sống thiếu thốn, công việc khổ sai nặng nhọc nên tức cảnh sinh t́nh ra những câu ca dao năo nuột như trên th́ c̣n nghe được chứ gài thêm vào những nhân dân, nhữngcon người thực , con người giả chỉ làm cho cảm xúc của người nghe bị giảm đi và những câu ca dao mất đi cái lôi cuốn chia xẻ . Thế mà, nhận xét như vậy lại được khen là tinh tế .Không biết có phải v́ viết như thế là phải đạo, đúng đường lối chính sách, phù hợp với chính sách đấu tranh giai cấp.

Hoài Thanh thời tiền chiến th́ ngược lại. Viết trong Thi Nhân Việt Nam, nhà phê b́nh mở rộng tấm ḷng biết bao.

”.. Cho nên gặp thơ hay, tôi triền miên trong đó. Tôi ngâm đi ngâm lại hoài, cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người. Thỉnh thoảng có nói đến cái dở là cũng cốt cho nổi cái hay mà thôi. Chứ dở th́ giữa đời thiếu ǵ mà phải đi t́m trong thơ! Nói chắc bạn không tin, nhưng thật t́nh tôi chẳng muốn chê ai mà cũng chẳng muốn khen ai. Tôi chỉ muốn hiểu cho đúng- không phải cho đủ- h́nh sắc các hồn thơ.

Và như thế tôi đă phải cố gắng nhiều lắm. V́ trong các nhà thơ cũng nhiều người tôi đă gặp giữa đời. Có người thơ tuyệt đẹp mà đối với tôi lại toàn những cử chỉ rất mực xấu xa. Họ phũ phàng, họ nhỏ nhenà Nhưng thôi tôi nói ra làm ǵ. Những cử chỉ xấu kia là bề ngoài; phần sâu sắc nhất trong tâm hồn họ đă ghi lại nơi những vần thơ đẹp. Tôi tin như thế. Đừng ai làm tôi hết ḷng tin. Trái lại, có những nhà thơ tử tế với tôi vô cùng mà thơ của họ tôi lại chỉ thích có hạn. Nếu bảo rằng tôi không ái ngại người này, không khinh ghét người kia th́ e không thực. Nhưng ái ngại hay khinh ghét khi xem thơ tôi chỉ biết có thơ. Tôi không hề nghĩ đến danh vọng của người hay của tôi. Danh vọng quư thật nhưng c̣n điều quư hơn danh vọng , quư hơn hết thảy: ḷng ngay thẳng, mà ít nhất cũng phải giữ trọn trong văn chương.”

Tôi đọc Thi Nhân Việt Nam để cảm thông với tấm ḷng yêu thơ rất mực đến nỗi quên tất cả những ǵ quư giá trên đời.Thế mà, công tŕnh một đời tâm huyết như thế lại nhiều khi bị chính tác giả của nó từ chối giá trị. Phê b́nh và tự phê b́nh, phản tỉnh để tự gạt bỏ cái cũ. Thật đáng thương cho người yêu thơ. Tuyển Tập Hoài Thanh với bốn quyển sách đồ sộ bề dầy hơn ba ngàn trang mà h́nh như ít thấy bóng dáng những lời b́nh thơ sang sảng thuở xưa. Chỉ thấy có mặt những Nói Chuyện Thơ Kháng Chiến, Nam Bộ Mến Yêu, Chuyện miền Nam, Phê b́nh và Tiểu Luận. Ôi, c̣n đâu những lời hùng hồn vị nghệ thuật. C̣n đâu cái tâm ṿi vọi trời cao. Để, có một lúc.Tàn canh, tỉnh rượu , bóng h́nh cũng tan...

 

 

 

 

 

 

 

Bài Cũ :  Tháng 6/08. Tháng 7 /2008   Tháng 8/08.  9/08. 10/08. 11/08. 12/08  xin mời quư vị vào phần lưu trữ c̣n có  nhiều tài liệu, bài vở mới dùng vào việc nghiên cứu , tham khảo