Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

27 THÁNG GIÊNG 1973

 Không Thể Nào Quên

 

 

 

 

  

Năm mới đă đứng đợi trước thềm. Chưa mở cửa đón xuân th́ đă thấy dội lên trong ḷng nỗi đau lịch sử. - (27/1/1973 -27/1/2003) . 

Ba mươi năm về trước, Hiệp Định Paris về Việt Nam được kư kết vào ngày 25/1/1973 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 27/1/1973.Nhưng hầu như không mấy ai ngoài những người lănh đạo biết được đó chính là bản án khai tử chính thể Việt Nam Cộng Ḥa.

 

Ḥa b́nh là niềm vui của mọi nhà. Đ́nh chiến là tương lai, là niềm hy vọng trở về của những người v́ làm nhiệm vụ đang phải chịu đọa đày trong ngục tù Cộng Sản. 

Bao năm tù đày khổ nhục vững chí trung kiên chỉ đợi một ngày xổ lồng tung cánh. Nhưng niềm hy vọng mới manh nha đă lại tắt lịm. Đ̣n thù của đối phương lại chụp xuống thân xác những người con yêu của đất nước. Cuộc đấu tranh giữ ǵn phẩm cách và sinh mệnh của những người công tác bí mật bị sa cơ c̣n gian nan, vô vọng hơn cả giai đoạn trước khi có hiệp định Paris.. nhưng quả t́nh “sắt đá cũng chưa bền gan bằng ư chí” của những con người có lư tưởng... 

Trang sử ô nhục lật qua đă lâu nhưng nhân ngày 30 năm nhớ lại chuyện cũ, trích lược đôi ḍng tự truyện để phần nào cho chiến hữu, bằng hữu biết rơ cuộc sống trầm luân của những người chiến sĩ trung kiên.....

 

 

 

***

 

 

 BK Nguyễn Thái Kiên , BK Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt Tỷ phú Ross Perot , BKTŕnh A Sám 

 

Năm 1970 , khoảng vài tháng sau vụ đột kích giải cứu tù binh Mỹ ở Bất Bạt, Sơn Tây của Lực lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ không thành công, chúng tôi đang ở tại trại Phong Quang- Lào Cai th́ bắt đầu có những cuộc đảo người, xáo nhóm.

 

Khu biệt lập có hơn 130 Gián Điệp Biệt Kích tuần tự được chuyển đi từng nhóm nhỏ. 

Nhóm của chúng tôi là nhóm thứ hai - tổng số 32 người - được chuyển về trại Tân Lập, Vĩnh Phú vào đầu năm 1971.

 

Đến trại được vài hôm, chúng tôi được biết khu Biệt Lập - c̣n gọi là khu xây - chiếm một dẫy gồm bốn buồng lớn. Từng buồng trong tường vây có sân sau, sân trước, bể nước khá rộng.

 

Ngoài buồng chúng tôi đang ở nằm mút đầu phía trong trại, buồng sát bên cũng đă có một nhóm Gián Điệp Biệt Kích khác. Nhóm này đang làm công việc may quần áo tù. Buồng sát bên cạnh nhóm may giam một vị tướng Cộng Sản tên là Đặng Kim Giang. Buồng sát ngoài ṿng tường trại là buồng để hơn chục cái máy may cho toán lao động.

 

Mấy tháng đầu mới tới trại, chúng tôi được ở không. Hàng ngày bọn công an quản giáo CS mở cửa cho ra phơi nắng, đi lại trong khoảnh sân quanh buồng giam.

 

Khu chúng tôi ở tuy nằm trong ṿng tường của trại nhưng tuyệt đối không thể nào liên lạc được với những nhóm tù h́nh sự khác bởi có mấy lớp rào thép gai và tre. Chỉ có một người tù tên Viên trong nhóm trật tự làm công việc gánh cơm nước, phục vụ cho khu biệt lập.

 

Một hôm, chúng tôi được đưa sang buồng may để học nghề nên thấy một nhóm tù h́nh sự đang xây mấy căn buồng nhỏ. Lợi dụng lúc tên quản giáo đi khỏi, tôi hỏi mấy người tù đang làm việc, mới biết là họ đang xây xà lim để dành cho chúng tôi.

 

Sau khi nghe họ nói vậy, tôi đă biết chắc chắn ḿnh sẽ có một xuất..... 

 

Đợt khai trương nhà cùm vào tháng 7 năm 1971, Nguyễn Huy Thùy, lúc đó mang quân hàm trung úy làm Phó giám thị trại Tân Lập đưa một trung đội công an vũ trang vào khiêng tôi đi “khánh thành” xà lim kỷ luật vừa mới xây xong. Đúng là “khiêng”; bởi v́ sau khi tên quản giáo đọc lệnh “kỷ luật”, tôi chống lại cương quyết không đi. Chẳng phải chúng tôi sợ cùm nhưng cố t́nh gây khó dễ để tỏ thái độ chống đối.

 

Kể cũng vui, thỉnh thoảng được thử xem “Sức Mạnh Ṭan Đảng và Toàn Quân” của bọn “khỉ tiến hóa” tới đâu.

 

Thật ra mỗi lần đi cùm chẳng dễ chịu ǵ; hai cổ chân th́ vỡ toác, môi trường yếm khí, hôi hám không thể tả.

 

Ăn đói, thời tiết lại rét buốt, chết lúc nào không hay nhưng im lặng để bọn đười ươi coi thường là chuyện không thể chấp nhận được...

 

 

 

Sau hơn bốn tháng cùm kẹp, một hôm tôi được lệnh mang đồ đoàn về lại buồng tập thể. Chân thấp, chân cao tập tễnh trên đường từ nhà cùm về buồng, tôi thầm nghĩ chắc hẳn chúng tưởng tôi đă mỏn sức nên cho ra. Nhưng sau về đến buồng gặp anh em mới biết v́ nhà cùm không c̣n chỗ để đưa người khác vào nên tôi là người đang nằm lâu nhất mới được “nhà nước gia ơn” giải phóng từ nhà cùm sang nhà tù.

 

 

 

Mai văn Học (hiện ở San Jose- Cali) vào cùm sau tôi ba tháng là người thay tôi trấn nhậm xà lim cho tới gần tết 1972.

 

Khi Học được thả ra, tôi biết ḿnh lại sắp sửa được đảng bộ trại Tân Lập cử đi “trấn thủ lưu đồn” tiếp.

 

“Nhân bảo như thần bảo”.. tháng 3, tôi lại khăn gói vào nhiệm sở. Đợt này mới ở được 30 ngày, chân chưa cuồng; đột nhiên lại được thả về buồng cũ mà chẳng hiểu lư do làm sao...

 

 

 

Suốt gần tháng trời, anh em cứ bàn bạc đến việc chuyển trại. Và rồi chuyển trại thật. Toàn bộ chúng tôi tay xách, nách mang ra xe vào buổi chiều nhưng không đi đâu xa mà chỉ chuyển vào trại sơ tán nằm khuất trong một cánh rừng trung du không xa trại cũ là mấy.

 

Sáng nào tụi công an trại giam mở cửa cho ra sân trại trong mấy lớp rào nứa kiên cố vây quanh cũng thấy núi Ba V́ đội mây, sừng sững trước mặt.

 

Thời gian này, không lực Hoa Kỳ được lệnh của Tổng thống Nixon dần nát Bắc Việt.

 

 

 

Nhiều lần chúng tôi được tận mắt ngắm những đoàn chim sắt bay qua bầu trời trung du, tiến vào hỏi thăm Hà Nội.

 

Cũng tại đây, anh em chúng tôi được một lần nh́n thấy SAM 2 phóng lên để nhằm bắn hạ một chiếc Thunderchief. Tất cả chúng tôi đều trầm trồ tán thưởng khi nh́n chiếc phi cơ đang bay lẻ loi giữa tầng mây lưng trời bỗng khựng lại, thoắt nghiêng cánh chui qua giữa hai trái hỏa tiễn địa không rồi biến mất.

 

Khoảng hơn tiếng đồng hồ sau, từng đoàn, rồi từng đoàn chim sắt từ biển vào, từ những rặng núi phía Tây bay qua vần vũ trên không phận Vĩnh Phú.

 

Tiếng động cơ phản lực gầm thét như sấm động, tiếng bom nổ liên hồi. Bọn công an vũ trang đuổi tất cả mọi người xuống hầm, hào tránh bom nhưng chúng tôi vẫn nằm ngửa, cố t́m xem các phi cơ của “Không Quân Nhân Dân Anh Hùng” có bay lên nghênh chiến hay không... nhưng hoài công.. v́ chắc họ “nghe lệnh bác” chơi kiểu “tiêu thổ kháng chiến” mặc cho phi cơ Hoa Kỳ thả hết bom và bay hết xăng th́ cũng phải chuồn thôi.

 

Chỉ tội nghiệp cho “đơn vị tên lửa anh hùng” kia chạy trối chết cũng không thoát khỏi tổn thất nặng nề.

 

Nhưng có sá ǵ! Miền Bắc đang thiếu gạo, bớt đi nhiều miệng ăn chừng nào càng tốt chừng ấy... Chẳng phải chúng tôi đă ăn độn đủ thứ để nh́n cho ra sự ưu việt của chế độ xă hội chủ nghĩa hay sao?

 

Trong suốt thời gian ở trại “sơ tán” khoảng gần sáu tháng. Chúng tôi vẫn cứ châm chọc và chống đối như trước nhưng chẳng có ai được cho đi “trấn thủ” nữa.

 

Hỏi một số tù h́nh sự th́ được biết nhà kỷ luật đặc biệt cùm Gián điệp biệt kích đă sụp v́ đợt oanh tạc vào trại.

 

Có hôm, sau đợt bom đánh vào khu chăn nuôi của trại; chúng tôi thấy bữa ăn hôm đó bỗng nhiên có khẩu phần thịt khá nhiều do lợn bị chết v́ bom. Ăn xong, hôm sau mới nghe anh chàng Viên phục vụ kể cho biết có mấy tên cán bộ và ba người tù chết tan xác với bầy gia súc khi bom rơi trúng khu chuồng lợn..!.!.!

 

Khoảng cuối tháng tám, chúng tôi được tin sẽ chuyển sang một phân trại khác để học tập chính trị chờ trao đổi, trao trả. Theo những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau (lúc này chúng tôi đă tiếp xúc được với đám tù h́nh sự) Hiệp định Paris về căn bản đă xong chỉ c̣n chờ kư chính thức.

 

Nhưng rồi chẳng được mấy tuần sau, không khí lại căng lên v́ những tiếng động cơ phản lực bay qua bầu trời.

 

Và rồi lại mấy tuần vắng bặt.

 

Bầu trời trung du, mùa thu xanh lồng lộng, khoáng đạt vô bờ. Hàng ngày, chúng tôi đi lại trong khoảnh sân nhỏ hoặc trải chiếu ngồi đánh chắn, rơi nh́n những tầng mây lang thang, ḷng trào dâng ư tưởng phiêu bồng.

 

Thế rồi vào khoảng gần cuối tháng chín sang đầu tháng mười, đột nhiên chúng tôi được chuyển qua phân trại khác để học tập trao trả thật.

 

Chúng tôi được di chuyển bằng xe hơi. Một số ở lại chuyển về trại xây cũ. Trên đường xe chạy, chúng tôi gặp một số anh em ở cùng trại Phong Quang trước đây đang tay ôm túi, tay cắp chiếu đi ngược lại.

 

Như vậy là ở tại Tân Lập có hai bộ phận Gián Điệp Biệt Kích nằm ở hai nơi khác nhau mà măi đến lúc đó chúng tôi mới biết.

 

Nhẩm tính con số, tổng cộng tất cả khoảng hơn trăm người.

 

Tôi và một số anh em được đưa vào một trại sơ tán khác. Ở đây cả nhóm bị phân tán mỏng v́ mỗi buồng chỉ ở tối đa từ 6 đến 8 người.

 

Ngày hôm sau, được mở cửa ra sân, trèo rào nói chuyện chúng tôi được biết ngoài anh em Gián Điệp Biệt Kích c̣n có mười mấy người Thái Lan và bốn người tù Bắc Việt ( Vũ thư Hiên là một trong bốn người) ở cùng khu biệt giam với chúng tôi.

 

Thảo nào, tối hôm qua, tôi đập tường rồi dùng “morse” nói chuyện mấy lần mà chỉ nghe tiếng gơ trả nhè nhẹ, dè dặt chẳng theo nguyên tắc nào, khác hẳn với cái thói “coi trời bằng vung” của mấy anh em Gián Điệp Biệt Kích chúng tôi.

 

Những người tù như vậy thường là những cán bộ cao cấp trong hàng ngũ đảng Cộng Sản v́ chống đối lại chủ trương của phe đương quyền nên bị thanh trừng.

 

Trường hợp Đặng Kim Giang ở khu xây với chúng tôi và những người này hẳn là cùng chung nhóm “xét lại” thân Khrouschev của Hoàng minh Chính.

 

Biết vậy, anh em chúng tôi vờ nói lớn cốt để cho họ hiểu chúng tôi là những người có thể tin cậy được rồi qua tṛ chuyện, tâm sự có thể hiểu thêm đươc thực chất nội bộ của họ ra sao.

 

Buổi tối, tôi làm quen được với người ở sát vách. Qua tiếp xúc tôi thấy ông ta là một người có học.

 

Sau khi biết rơ chúng tôi thuộc thành phần nào, ông tỏ ra tin tưởng và cho biết tên ông là Phùng Văn Chức (sự thực là Phùng Mỹ, giáo sư Đại Học công tác tại Viện Triết Học)  bị bắt cùng với Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang. Tất cả đều bị ghép cho tội âm mưu đảo chánh.

 

Ông ta cho biết, ông đă là đảng viên từ khi chưa thành lập cái nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và ông ta thuộc “Những người Cộng Sản có trái tim?”.

 

Theo lời ông ta kể, tập đoàn Lê Duẩn là một bọn “siêu phát xít” đang cố bóp chết mọi mầm mống chống đối để củng cố quyền lực của chúng.

 

Qua tṛ chuyện với nhân vật này, tôi càng thấy rơ thực chất của bọn Cộng Sản c̣n tồi tệ hơn những ǵ bộ máy tuyên truyền trong Nam đă nói về chúng. Nhân vật này là người cho tôi biết nhiều nhất về bản Hiệp Định bởi ông vẫn được đọc báo. Ông có ḷng cảm mến nên khuyên tôi cố nhẫn nhục, che dấu tư tưởng căm thù th́ mới có hy vọng về được miền Nam.

 

Ông kể cho tôi nghe chuyện của nhiều người và kinh nghiệm ngay cả của bản thân ông rồi kết luận:“ Dưới chế độ cộng sản con người phải tự biến ḿnh thành một viên bi bằng cao su mới có thể an thân. Bi tṛn th́ lăn đâu cũng được. Cao su th́ co dăn sát hợp với những ô cửa rộng hẹp khác nhau.”

 

Tôi không tranh căi với ông nhưng không chấp nhận ư kiến này, tôi không sợ khổ, sợ chết chỉ sợ đánh mất khí phách nam nhi. Tôi đọc cho ông nghe một bài thơ của ḿnh làm để tỏ lộ ư chí của tôi. 

 

 

 

 HIÊN NGANG

 

 

 

 Núi vẫn hiên ngang đứng giữa trời. 

 Sao mờ. Sao nhạt. Phải thay ngôi. 

 Thiên cơ diệu ảo - đêm thần bí 

 Tù ngục sầu ray rứt nửa đời 

 

 

 Thù nước khi nào rửa được đây? 

 Bao xuân uất hận - kiếp lưu đầy. 

 Mẹ già tức tủi - đôi hàng lệ 

 Vẫn đợi mong ta - những tháng ngày

 

 

 Xuân đến trời đêm tối mịt mùng 

 Một đời nguyền giữ vẹn kiên trung 

 Đêm cũ sẽ qua - ngày mới đến. 

 B́nh minh xuân sáng tỏa vô cùng.

 

  

Kim Âu

 

 

 

 

 

Và mặc dù trải bao khổ nhục, có lúc tưởng đă không thể sống nổi nhưng tôi thấy ḿnh vẫn đúng, vẫn tự hào với phẩm cách của ḿnh.....

 

Thời gian này (1972), chúng tôi đang chuẩn bị học tập trao trả nên đă bắt đầu được nâng mức ăn lên cao để mau chóng phục hồi thể lực cho chế độ tù binh của “Đảng quang vinh” khỏi mang tiếng là vô nhân đạo.

 

Đầu tháng 10, đoàn giảng viên của Bộ Nội Vụ do Vơ Đại Nhân dẫn đầu đến thăm chúng tôi và sau đó tổ chức học tập chính trị.

 

Tưởng rằng chúng tôi được phát bản Hiệp Định để nghiên cứu nhưng chẳng thấy ǵ ngoài những tài liệu nhằm đáp ứng yêu cầu học tập do chúng đề ra.

 

Thật tâm, chúng tôi cũng chẳng thèm để ư đến chương tŕnh học tập chính trị của bọn cộng sản nhưng rơ ràng tôi thấy bọn chúng âm mưu thông qua những bài giảng này để gài chúng tôi vào một cái “thế “ nhằm “vô hiệu hóa” chúng tôi, để nếu có được trả về miền Nam chăng nữa chúng tôi cũng khó mà tránh khỏi nanh vuốt của chúng.

 

Thông lệ cứ qua một bài giảng, chúng lại buộc tổ chức mạn đàm. Sau đó là viết bản “thu hoạch”. Một bài học tập mất khoảng ba ngày.

 

Âm mưu của chúng lộ rơ nhất là khi học đến bài “ Tội Ác Của Đế Quốc Mỹ bè lũ tay sai”.

 

Buổi tối ngồi uống trà trong pḥng, tôi nói với anh em đừng nên viết bản thu hoạch này. V́ theo ư kiến của tôi, đây sẽ là một thứ “sinh tử phù “ vô cùng tai hại cho chúng ta khi trở về miền Nam.

 

Hôm kết thúc bài giảng, bọn chúng cho mạn đàm từng tiểu tổ, có cán bộ của đoàn Trung Ương về tham dự chứng kiến.

 

Thật là buồn cười khi những buổi mạn đàm tố cáo “Tội Ác Của Đế Quốc Mỹ bè lũ tay sai”, trở thành những buổi lên án “Tội Ác của Liên Xô - Trung Cộng và Ngụy Quyền Bắc Việt”.

 

Mấy năm tù tội dưới chế độ giam giữ dă man của cộng sản khiến chúng tôi căm hận. Dưng không có dịp, không ai bảo ai; tất cả mọi người đều trút cả căm hận lên đầu bọn cán bộ tham gia mạn đàm. Nhiều lúc thấy bọn này ngồi thộn mặt ra để nghe anh em chửi rủa, tôi cũng thấy phục tài chịu đựng và nhẫn nhục của chúng.

 

Trước t́nh h́nh đó, chúng bắt đầu có biện pháp tách từng người đi gặp riêng để thực hiện kế ly gián, mua chuộc và gây áp lực. C̣n chúng tôi th́ tổ chức yêu sách, đ̣i hưởng quy chế tù binh, đ̣i trao trả và chống đối học tập.

 

Sau những chống phá này, một số anh em -trong đó có tôi- được đưa về trại B́nh Đà, Khúc Thủy, Hà Tây ít hôm - thêm vài người ở nơi khác về nhập đoàn - rồi lại chuyển vào trại Ba Sao, Kim Bảng, Nam Hà. Lần này, theo sát chúng tôi có đoàn cán bộ phụ trách học tập và trao đổi, trao trả do cục phó Phản Gián đứng đầu.

 

Đến trại, chúng tôi được trại trưởng - thượng tá Xuyên - tiếp nhận đưa vào khu giam người Mỹ hiện bỏ trống v́ nhóm này vừa được đưa đi trao trả mấy hôm trước.

 

Ở được vài hôm, đúng buổi trưa ngày 30 tháng chạp Âm Lịch, bọn Cộng Sản đưa tôi đi giam “cách ly” để ép tôi phải làm cái thủ tục gọi là “Đơn Xin Khoan Hồng” (chuyện này cụ Nguyễn Văn Đăi, Đại Biểu Hành Chánh Vùng I chiến thuật - bị bắt tại Huế năm Mậu Thân và bị đưa ra Bắc cùng với Phó tỉnh trưởng Thừa Thiên Bảo Lộc - đă viết trong hồi kư Ánh Sáng và Bóng Tối dưới bút hiệu Hoàng Liên, cụ cho tôi cái ngụy danh Văn v́ sợ nếu viết tên thật, tôi c̣n ở lại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng).

 

Và cũng là một cơ duyên, cùng chiều hôm đó, nữ sĩ Thuỵ An - một người đứng đầu của vụ Nhân Văn Giai Phẩm- chuyển từ một trại khác về ở ngay pḥng c̣n lại. (đón xem trong tự truyện Hận Cùng Trời Đất)

 

Thời gian này bọn cộng sản dùng đủ mọi thủ đoạn mua chuộc lẫn áp đảo tinh thần tôi. Chúng chiêu dụ măi không xong, rồi trắng trợn nói thẳng rằng chúng sẽ không bao giờ cho tôi trở về Miền Nam nếu tôi không chịu viết những bản “thu hoạch” như mọi người khác đă làm. Dù biết rằng phận ḿnh chẳng khác ǵ “cá nằm trên thớt, cua nằm trong rọ”, tôi vẫn cương quyết trả lời: “Không bao giờ, v́ tôi không phải là công dân của nước VNDCCH mà là một tù binh nên không thể chấp nhận làm những điều vô lư”.

 

Tất nhiên suy tư của mỗi người mỗi khác nhưng tính cách con người tôi th́ vẫn tâm niệm “anh hùng tử, khí hùng nào tử” nên vẫn vững tin là sẽ trở về trong vinh quang v́ số anh em được trả về nhờ “giả dại qua ải” chắc chắn không bao giờ im lặng. Ăn thua do ḿnh có đủ nghị lực để vượt qua những thử thách hay không.

 

Sau hơn bốn tháng nằm trong khu biệt giam. Ngày 19 - 5 - 1973. Một ḿnh, một xe, tôi bị đày lên trại Cổng Trời, Quyết Tiến, Hà Giang, vốn là nơi thi hành bản án tử h́nh cho những người chống đối.

 

Cảnh ngộ thật bi phẫn - mọi người đều về xuôi để chuẩn bị trao đổi, trao trả một ḿnh tôi lthẳng lên mạn ngược. Trên đường đi tức cảnh, sinh t́nh. Khi lên đến trại Cổng Trời, Quyết Tiến cũng là lúc hoàn thành bài thơ Trên Đỉnh Lưu Đày.

 

 

 

 Trên Đỉnh Lưu Đày 

 

 

 sương chiều phủ trắng Phạ Quan

 

 xe men dốc núi

 

 người tan tác ḷng

 

 Hà Giang, Quản Bạ ngh́n trùng

 

 đèo cao, sương muối

 

 anh hùng thi gan.

 

 xe qua trăm dặm - đại ngàn

 

 mơ ngày đất nước vinh quang

 

 Ta về...

 

 sầu giăng xám cả sơn khê

 

 xe lên!lên măi!

 

 hồn tê tái sầu.

 

 Ta về đâu?

 

 sẽ về đâu?

 

 Mây giăng bốn cơi

 

 vực sâu!

 

 đỉnh trời!

 

 hỏi ḷng

 

 rồi bỗng cả cười

 

 hùng tâm tráng trí

 

 đạp đời mà đi.

 

 xe lên tận cơi man di

 

 Cổng Trời - Địa ngục

 

 có đi không về

 

 xe qua ngh́n khúc tiểu khê

 

 vách! vách! núi dựng

 

 đường xe lượn ṿng

 

 xe dừng

 

 tuyệt đỉnh

 

 mờ trông

 

 Phương Nam độc đạo

 

 rừng phong tầng, tầng

 

 Ta vào huyệt mộ

 

 cô thân

 

 bao giờ?

 

 đá nẩy chồi xuân

 

 Ta về...

 

 

 

Kim Âu 

19- 5 - 1973 

 

 

 

Sau khi tôi bị cùm tại Cổng Trời đă hơn bốn tháng, những nhóm Gián Điệp Biệt Kích ở các nơi khác lục tục kéo lên, rồi một số thuộc thành phần chống đối quyết liệt bị đưa vào nằm chật khu hành h́nh có hỗn danh “Cung Điện Mùa Đông” ở xà lim trại Cổng Trời. 

Để trả đũa những người có hành động chống đối, bọn cộng sản quyết cùm chúng tôi cho tới chết..... Măi tới năm 1975 chúng cưỡng chiếm Miền Nam xong và tổ chức ăn mừng thống nhất chúng mới thả cho chúng tôi trở về các đội lao động với thể xác tiều tụy và tâm hồn tan nát - Việt Nam Cộng Ḥa đă không c̣n. 

Tính ra tôi đă nằm một lèo hết hai mươi bẩy tháng trời trong cái ḷ sát sinh mà trước đây không ai chịu nổi quá vài tháng. 

Những người tù chính trị địa phương và đám tù h́nh sự sau này thường gọi tôi là “Chủ Nhân Cung Điện Mùa Đông hoặc Chủ Nhân Điện Kremlin.” 

BN 587 gọi tôi là “Lion d'Or”. Tên Tin cán bộ trực trại nghe lỏm được không hiểu nhưng gă trật tự tên Tưởng biết tiếng Pháp nói cho hắn biết chữ đó có nghĩa là “Sư Tử Vàng”. 

Thế là cả đám công an đều biết tôi qua những biệt hiệu này....

 

***

 

Bao nhiêu gian khổ, nhục h́nh đă qua từ ngày đó. Hiệp Định Paris về Việt Nam chẳng có chút hiệu lực nào đến với anh em Gián Điệp Biệt Kích chúng tôi. 

Và tất cả những nhận biết của chúng tôi về bản Hiệp Định này đều thông qua những trích đoạn trong một số bài đăng trên báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân của bọn Cộng Sản nhằm vu khống và bêu riếu chế độ Việt Nam Cộng Ḥa.... 

Sau này, khi ra khỏi trại giam rồi qua đến Hoa Kỳ. Nghiên cứu kỹ lưỡng nhiều tài liệu được giải mật và những văn tự của Hiệp Định cùng với những biến động thực tế của lịch sử. Tôi nhận thấy quả t́nh Hiệp Định này là một vết nhơ không thể bôi xóa và cũng là một cái nhục cho các quốc gia đă kư vào bản Định Ước.

 

Trong bốn bên kư kết bản Hiệp Định ngày 27 - 1 - 1973 ngày hôm nay chỉ c̣n hai.

 

Hiệp định Paris về Việt Nam!

 

Đó là kết thúc đáng buồn cho những lời cam kết, hứa hẹn của Hoa Kỳ sau khi đă t́m đủ mọi cách, kể cả sát hại Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm để nhằm mục đích đưa quân vào chiến đấu tại Việt Nam. 

 

Tiến sĩ Henry Kissinger, như người ta thường ca tụng là một nhà ngoại giao lỗi lạc nhưng thật ra theo tôi, hắn chỉ là một thứ thuyết khách mạt hạng nhất tự cổ chí kim.

 

Ngoại giao mà đi thương thuyết để rồi xóa bỏ hết thành quả xương máu của hơn 58.000 quân nhân Hoa Kỳ đă hy sinh để bảo vệ thành tŕ của thế giới tự do. Đó là chưa kể đến tính mạng của những quân nhân các nước Đồng Minh khác và hàng triệu quân cán chính Việt Nam Cộng Ḥa.

 

Đấu trí mà không hiểu rơ đối phương đến nỗi hậu quả là cho tới ngày hôm nay c̣n chưa biết rơ tông tích bao nhiêu người Mỹ bị giữ làm con tin không trao trả.

 

Thương thuyết để bức tử cả một quốc gia đồng minh thừa quyết tâm chống Cộng như Việt Nam Cộng Ḥa để chiều theo ư đối phương như vậy nếu nói là tài năng xuất sắc th́ ắt hẳn cần phải xem xét lại....

 

Henry Kissinger cùng “ê kíp “cầm quyền tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và bọn phản chiến thuở ấy đă vay một món nợ “Máu và Danh Dự” không biết bao giờ mới trả lại được cho dân tộc Việt Nam chứ đừng nói rằng chúng ta phải thọ ơn họ.

 

Gần ba thập kỷ đổ xương máu để chặn đứng làn sóng Đỏ tại Đông Nam Á là chiến công vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Chính sự sụp đổ của chúng ta đă trở thành bài học giúp cho các quốc gia trên thế giới thấy rơ giá trị của Ư Thức Hệ Tự Do để kịp thời củng cố, tồn tại và chiến thắng cộng sản.

 

Chính dân tộc Việt Nam đă chịu nạn cho Thế Giới và cứu rỗi cho Nhân Loại...

 

Mặc dù cơn sóng dữ đă làm vỡ đập nhưng sức của cơn lũ đă yếu không c̣n bao nhiêu tác hại.

 

Sau Nixon, tổng thống Reagan có tạo nên nhiều biến đổi về chiến lược dẫn tới sự sụp đổ của khối Cộng nhưng cho đến nay dân tộc Việt Nam vẫn c̣n ch́m đắm trong kiếp sống mông muội dưới sự cai trị hà khắc của Cộng Sản.

 

Hầu như Việt Nam ngày nay đă trở thành một quá khứ, một món nợ không ai c̣n muốn nhắc tới..... nhưng Cuộc Chiến Tranh Việt Nam đă đi vào lịch sử.... Món nợ lịch sử vẫn c̣n đó.

 

Thất bại ở Việt Nam là thất bại của Chủ Nghĩa Thực Dụng Phản Trắc của Hoa Kỳ mà dân tộc Việt Nam chính là nạn nhân.

 

Hiệp Định Paris về Việt Nam là một kết thúc Không Có Ḥa B́nh và cũng Chẳng Có Danh Dự như ai đă từng cao rao.

 

Thế mà vẫn có kẻ kêu đ̣i chúng ta phải “ Tây Phương Hóa”.

 

Tây phương ư ! Xin nh́n kỹ lại! Chẳng có chính nhân và cũng không có quân tử.

 

Chỉ có nền văn hóa của DÂN TỘC chúng ta mới thực sự tạo ra những “kẻ sĩ “ biết trọng tín nghĩa, cương thường. 

 

 

Kim Âu Hà văn Sơn.  

(lược trích tiểu đoạn của Hận Cùng Trời Đất)

 

 

 

 

 

 

 

HENRY KISSINGER BỊ DÂN MỸ KÊU GỌI PHẢI BỊ KHỞI TỐ

 

V̀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG H̉A MIỀN NAM VIỆT NAM

 

 

Ngày 29 tháng 1, 2015, tại cuộc điều trần trước Thượng Viện Mỹ, Tiểu ban về Ngoại giao, trong nghị tŕnh về những thách thức toàn cầu và chiến lược an ninh quốc gia Mỹ tại Capitol Hill, viên cựu bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger đă bất ngờ đối diện với một nhóm hoạt động xă hội có tên gọi là CodePink. Nhóm này đă xông thẳng vào nghị trường và hô to các khẩu hiệu đ̣i đưa Henry Kissinger ra ṭa v́ đă bán đứng Việt Nam và nhiều quốc gia khác trong thế kỷ 20, gây nên tai họa tàn khốc cho nhiều dân tộc. 

Thượng nghị sĩ John McCain đă phản ứng dữ dội với những người biểu t́nh trong việc làm náo loạn buổi điều trần, gọi họ là “bọn cặn bă hạ lưu”, sau khi cảnh sát đưa những người biểu t́nh ra khỏi đó. Mặc dù sự kiện diễn ra hết sức kịch tính, nhưng vẻ mặt của Henry Kissinger vẫn điềm nhiên. Được mô tả như là một con cáo già quỷ quyệt của t́nh báo ngoại giao, Henry Kissinger vẫn được chính phủ Mỹ trọng dụng, mặc dù rất nhiều nhà phân tích chính trị đă chỉ rơ là những sách lược của ông ta từ những năm 60-70 đă gây tổn hại tức th́ cho nhiều quốc gia, cũng như về sau đó của nước Mỹ. 

Với những ai quan tâm đến cuộc chiến Việt Nam, th́ vẫn c̣n nhớ nhân vật Henry Kissinger, người phục vụ dưới thời Tổng thống Nixon, và cho tới nay vẫn bị nguyền rủa rủa bởi những người ủng hộ nhân quyền về cách dàn xếp của của ông trong hậu trường chiến tranh Việt Nam, bao gồm cả hành động tàn bạo khác nhau, trên khắp hành tinh trong hơn nửa thế kỷ. 

Những thành viên của nhóm ḥa b́nh CODEPINK đă giương khẩu hiệu, gọi Henry Kissinger là tội phạm chiến tranh. Một người đă tiến tới gần Henry Kissinger và giơ chiếc c̣ng số 8 vào mặt ông ta. Mặc dù bị áp giải ra khỏi nghị trường ngay sau đó, nhưng nhóm hoạt động CodePink nói rằng họ thực sự tự hào về hành động của ḿnh tại Thượng viện ngày 29 tháng 1, 2015, v́ đă thay mặt cho nhân dân Đông Dương, Trung Quốc, Đông Timor và nhân dân yêu chuộng ḥa b́nh ở khắp mọi nơi, nói vào mặt của Henry Kissinger về tội ác của ông ta. Medea Benjamin, người đồng sáng lập tổ chức CodePink nói rằng "Henry Kissinger phải chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu người. Ông ta là một kẻ sát nhân, một kẻ nói dối, một kẻ lừa đảo, và là một kẻ côn đồ. Ông ta cần phải được đưa ra trước vành móng ngựa tại Hague." 

Băng video ghi lại giây phút ấn tượng này đă được truyền đi khắp nơi, những người biểu t́nh từ nhóm CodePink đă hô vang, "Phải bắt giữ Henry Kissinger v́ tội ác chiến tranh!". Những tiếng hô này càng lớn hơn ngay khi Kissinger bước vào pḥng họp của Thượng viện. 

"Di sản thật sự của Kissinger để lại chỉ là sự hủy diệt. Ông là nhân vật phản diện vĩ đại của Mỹ." Anna Kaminski, thành viên của nhóm CodePink nói với báo chí.  

Để biết thêm về những ǵ mà Henry Kissinger đă gây ra, CodePink nói tất cả mọi người cần tham khảo thêm về Việt Nam: Từ năm 1969 đến năm 1973, Kissinger, làm việc cho Richard Nixon, gây ra một cuộc chiến tàn khốc giữa hai miền Nam Bắc. Sau đó, v́ muốn đi đêm với Trung Cộng trong chính sách bảo vệ Đài Loan và bỏ rơi miền Nam Việt Nam, Campuchia và Lào, Henry Kissinger đă để mặc cho 3 nước Đông Dương này rơi vào thảm trạng. Nửa thế kỷ sau, tàn dư từ những bài toán của Henry Kissinger vẫn c̣n làm tan nát con người và các đất nước này. Đặc biệt sự sụp đổ của chế độ Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam đă trở thành một vết nhơ khó quên trong lịch sử của Hoa Kỳ.

 

Chile: Henry Kissinger là một trong những kiến trúc sư chính của cuộc đảo chính ở Chile vào ngày 11 Tháng 9 năm 1973, một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ dân cử của tổng thống Salvador Allende. Đất nước này đă phải chịu 16 năm đàn áp, tra tấn và tử vong dưới sự cai trị của một người bạn của Kissinger, trùm độc tài phát xít Augusto Pinochet.

 

Đông Timor: Năm 1975, trong khi làm việc cho Tổng thống Gerald Ford, Kissinger vận động phê duyệt việc yểm trợ cho nhà độc tài Suharto của Indonesia xâm lược đẫm máu của những ḥn đảo nhỏ của Đông Timor. Các cuộc xâm lược này đă được thực hiện với vũ khí trang bị của Mỹ. Bởi thời gian chiếm đóng Indonesia cuối cùng kết thúc vào năm 1999, 200.000 Timor với kết quả 30 phần trăm dân số đă bị xóa sổ.

 

Nhà văn Jon Queally, người bảo vệ hành động của nhóm CodePink nói rằng “Những trang sử đẫm máu đó chính là di sản của Kissinger. Cái chết. Sự tàn phá. Đau khổ. Cùng cực. Chế độ độc tài. Henry Kissinger chính là một kẻ giết người, một kẻ nói dối, một kẻ lừa đảo, một kẻ côn đồ.”

 

(Lược dịch từ Reverbpress / Ảnh: Reuters - Gary Cameron)

 

Code Pink Protesters Surprise Henry Kissinger.

 

 https://www.youtube.com/watch?v=JRvl0SngH0k

 

CodePink Attempts to "Arrest" Henry Kissinger for War Crimes in Vietnam, Laos, Chile and East Timor

 

 https://www.youtube.com/watch?v=5ApY-P6oAxU

 

 

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng