Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Trong Tăng Chi Bộ kinh (III. 539-43), thường được biết là Bài kinh Phật thuyết cho người dân Kalama như sau :

 “Một ngày kia, đức Phật đi qua một thị trấn nhỏ, tên là Kesaputta, thuộc vương quốc Kosala.  Người dân tại đó gọi là dân Kalama liền tới thăm đức Phật và tŕnh bày sự hoang mang của họ trước sự kiện các sa-môn và tu sĩ Bà-la-môn đi ngang qua đây, đều đề cao tôn chỉ của ḿnh và chê bai tôn chỉ của người khác.  Như vậy, họ đâm ra nghi ngờ, không biết người nào nói thật, người nào nói sai, không biết nên tin theo ai.

Đức Phật bèn giảng cho họ về mười nền tảng của một niềm tin tốt – niềm tin chân chánh, và khuyên họ luôn giữ tinh thần phê phán, không chấp nhận một điều ǵ là thật trước khi tự ḿnh kiểm chứng và thực nghiệm...

Đức Phật nói: Này các thiện nam tín nữ Kalama, nhân đây Như Lai sẽ giảng giải về 10 nền tảng của niềm tin chân chánh:

- Một là, chớ vội tin một điều ǵ, chỉ v́ điều đó là truyền thuyết.

- Hai là, chớ vội tin một điều ǵ, chỉ v́ điều đó thuộc về truyền thống.

- Ba là, chớ vội tin một điều ǵ, chỉ v́ điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.

- Bốn là, chớ vội tin một điều ǵ, chỉ v́ điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.

- Năm là, chớ vội tin một điều ǵ, chỉ v́ điều đó thuộc lư luận siêu h́nh.

- Sáu là, chớ vội tin một điều ǵ, chỉ v́ điều đó phù hợp với lập trường của ḿnh.

- Bảy là, chớ vội tin một điều ǵ, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.

- Tám là, chớ vội tin một điều ǵ, chỉ v́ điều ấy phù hợp với định kiến của ḿnh.

- Chín là, chớ vội tin một điều ǵ, chỉ v́ điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.

- Mười là, chớ vội tin một điều ǵ, chỉ v́ điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của ḿnh tuyên thuyết.

Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều ǵ, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm, chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, quư vị thực sự nhận thấy: "Lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán, nếu sống và thực hiện lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài" th́ lúc ấy quư vị hăy đặt niềm tin bất động và thực hành theo”.

Có lẽ trong suốt lịch sử nhân loại, chưa có một triết gia hay một giáo chủ tôn giáo nào có một thái độ tự do, cởi mở, đề cao lư trí và thực nghiệm như vậy.  Ngoài đức Phật ra, ai có thể nói với người khác được rằng:  Đừng tin vào kinh điển, đừng tin vào lời dạy của chính ḿnh! Niềm tin chân chánh trong đạo Phật phải là những ǵ đem lại kết quả lợi ích thiết thực và hiện tại, không thêu dệt hay hứa hẹn, bởi:  “Tất cả những điều Như Lai dạy cũng như ngón tay chỉ mặt trăng.  Hăy đừng lầm lẫn ngón tay với mặt trăng” – kinh Viên Giác.  Ngoài ra, đức Phật c̣n cảnh báo thêm: "Ai tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai vậy" –  kinh A Hàm.

 

Tăng Chi Bộ III.65

 Kinh Kàlàma

 

Ḥa thượng Thích Minh Châu dịch

 

Anguttara Nikaya III.65

 Kalama Sutta

 Translated by Thanissaro Bhikkhu.

 

I have heard that on one occasion the Blessed One, on a wandering tour among the Kosalans with a large community of monks, arrived at Kesaputta, a town of the Kalamas.

The Kalamas of Kesaputta heard it said, "Gotama the contemplative -- the son of the Sakyans, having gone forth from the Sakyan clan -- has arrived at Kesaputta. And of that Master Gotama this fine reputation has spread: 'He is indeed a Blessed One, worthy, and rightly self-awakened, consummate in knowledge and conduct, well-gone, a knower of the cosmos, an unexcelled trainer of those persons ready to be tamed, teacher of human and divine beings, awakened, blessed. He has made known -- having realized it through direct knowledge -- this world with its devas, maras, and brahmas, its generations with their contemplatives and priests, their rulers and common people; has explained the Dhamma admirable in the beginning, admirable in the middle, admirable in the end; has expounded the holy life both in its particulars and in its essence, entirely perfect, surpassingly pure. It is good to see such a worthy one.'"

 

Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến Kesaputta, thị trấn của các người Kàlàmà.

Các người Kàlàmà ở Kesaputta được nghe: "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ ḍng họ Thích ca đă đến Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau được truyền đi về Sa-môn Gotama: Ngài là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Sau khi tự thực chứng, Ngài đă giảng dạy chư thiên và loài người, hàng tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân, Ngài đă giảng Pháp cao diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối; Ngài đă giảng đời sống phạm hạnh chi tiết và rơ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết. Lành thay, nếu chúng tôi được yết kiến một vị Ứng Cúng như vậy".

 

So the Kalamas of Kesaputta went to the Blessed One. On arrival, some of them bowed down to him and sat to one side. Some of them exchanged courteous greetings with him and, after an exchange of friendly greetings and courtesies, sat to one side. Some of them sat to one side having saluted him with their hands palm-to-palm over their hearts. Some of them sat to one side having announced their name and clan. Some of them sat to one side in silence. 

 

 Rồi các người Kàlàmà ở Kesaputta đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống một bên; có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên và ḍng họ rồi ngồi xuống một bên; có người im lặng rồi ngồi xuống một bên.

 

As they sat there, the Kalamas of Kesaputta said to the Blessed One, "Lord, there are some priests and contemplatives who come to Kesaputta. They expound and glorify their own doctrines, but as for the doctrines of others, they deprecate them, revile them, show contempt for them, and disparage them. And then other priests and contemplatives come to Kesaputta. They expound and glorify their own doctrines, but as for the doctrines of others, they deprecate them, revile them, show contempt for them, and disparage them. They leave us absolutely uncertain and in doubt: Which of these venerable priests and contemplatives are speaking the truth, and which ones are lying?"   

 

Sau khi ngồi xuống một bên, các người Kàlàmà ở Kesaputta bạch Thế Tôn:

- Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesaputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của ḿnh, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Bạch Thế Tôn, và một số Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng đi đến Kesaputta, Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của ḿnh, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Đối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: "Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai nói sự thật, ai nói láo?"

 

"Of course you are uncertain, Kalamas. Of course you are in doubt. When there are reasons for doubt, uncertainty is born.

So in this case, Kalamas, don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by logical conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, 'This contemplative is our teacher.'

 

- Đương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những nghi ngờ! Đương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những phân vân! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các Ông đương nhiên khởi lên phân vân.

Này các Kàlàmà, chớ có tin v́ nghe báo cáo, chớ có tin v́ nghe truyền thuyết; chớ có tin v́ theo truyền thống; chớ có tin v́ được kinh điển truyền tụng; chớ có tin v́ lư luận suy diễn; chớ có tin v́ diễn giải tương tự; chớ có tin v́ đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin v́ phù hợp với định kiến; chớ có tin v́ phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin v́ vị Sa-môn là bậc đạo sư của ḿnh.

 

When you know for yourselves that, 'These qualities are unskillful; these qualities are blameworthy; these qualities are criticized by the wise; these qualities, when adopted and carried out, lead to harm and to suffering' -- then you should abandon them.

"What do you think, Kalamas? When greed arises in a person, does it arise for welfare or for harm?"

 

-"For harm, lord."

 

-"And this greedy person, overcome by greed, his mind possessed by greed, kills living beings, takes what is not given, goes after another person's wife, tells lies, and induces others to do likewise, all of which is for long-term harm and suffering."

 

"Yes, lord."

 

"Now, what do you think, Kalamas? When aversion arises in a person, does it arise for welfare or for harm?"

 

"For harm, lord."

 

"And this aversive person, overcome by aversion, his mind possessed by aversion, kills living beings, takes what is not given, goes after another person's wife, tells lies, and induces others to do likewise, all of which is for long-term harm and suffering."

 

"Yes, lord."

 

"Now, what do you think, Kalamas? When delusion arises in a person, does it arise for welfare or for harm?"

 

"For harm, lord."

 

"And this deluded person, overcome by delusion, his mind possessed by delusion, kills living beings, takes what is not given, goes after another person's wife, tells lies, and induces others to do likewise, all of which is for long-term harm and suffering."

 

"Yes, lord."

 

"So what do you think, Kalamas: Are these qualities skillful or unskillful?"

 

"Unskillful, lord."

 

"Blameworthy or blameless?"

 

"Blameworthy, lord."

 

"Criticized by the wise or praised by the wise?"

 

"Criticized by the wise, lord."

 

"When adopted and carried out, do they lead to harm and to suffering, or not?"

 

"When adopted and carried out, they lead to harm and to suffering. That is how it appears to us."

 

Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự ḿnh biết rơ như sau: "Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là đáng chê; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà, hăy từ bỏ chúng!

Các Ông nghĩ thế nào, này Kàlàmà! Ḷng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

 

- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

 

- Người này có tham, này các Kàlàmà, bị tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?

 

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

 

- Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, ḷng sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

 

- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

 

- Người này có sân, này các Kàlàmà, bị sân chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?

 

- Thưa có, bạch Thế Tôn..

 

- Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, ḷng si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

 

- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

 

- Người này có si, này các Kàlàmà, bị si chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?

 

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

 

- Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bất thiện?

 

- Là bất thiện, bạch Thế Tôn.

 

- Đáng chê hay không đáng chê?

 

- Có tội, bạch Thế Tôn.

 

- Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?

 

- Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.

 

- Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không? Hay ở đây, là như thế nào?

 

- Được thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất hạnh, đau khổ, ở đây, đối với chúng con là vậy.

 

So, as I said, Kalamas: 'Don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by logical conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, "This contemplative is our teacher."

When you know for yourselves that, "These qualities are unskillful; these qualities are blameworthy; these qualities are criticized by the wise; these qualities, when adopted and carried out, lead to harm and to suffering" -- then you should abandon them.' Thus was it said. And in reference to this was it said.

 

- Như vậy, này các Kàlàmà, điều Ta vừa nói với các Ông: "Chớ có tin v́ nghe báo cáo, chớ có tin v́ nghe truyền thuyết; chớ có tin v́ theo truyền thống; chớ có tin v́ được kinh điển truyền tụng; chớ có tin v́ lư luận suy diễn; chớ có tin v́ diễn giải tương tự; chớ có tin v́ đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin v́ phù hợp với định kiến; chớ có tin v́ phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin v́ vị Sa-môn là bậc đạo sư của ḿnh. ".

Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự ḿnh biết rơ như sau: "Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là đáng chê; Các pháp này bị các người có trí quở trách; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà, hăy từ bỏ chúng! Điều đă được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.

 

"Now, Kalamas, don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by logical conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, 'This contemplative is our teacher.'

When you know for yourselves that, 'These qualities are skillful; these qualities are blameless; these qualities are praised by the wise; these qualities, when adopted and carried out, lead to welfare and to happiness' -- then you should enter and remain in them.

 

Này các Kàlàmà, chớ có tin v́ nghe báo cáo, chớ có tin v́ nghe truyền thuyết; chớ có tin v́ theo truyền thống; chớ có tin v́ được kinh điển truyền tụng; chớ có tin v́ lư luận suy diễn; chớ có tin v́ diễn giải tương tự; chớ có tin v́ đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin v́ phù hợp với định kiến; chớ có tin v́ phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin v́ vị Sa-môn là bậc đạo sư của ḿnh.

Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự ḿnh biết như sau: "Các pháp này là thiện; Các pháp này là không đáng chê; Các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hăy tự đạt đến và an trú!

 

"What do you think, Kalamas? When lack of greed arises in a person, does it arise for welfare or for harm?"

"For welfare, lord."

 

"And this ungreedy person, not overcome by greed, his mind not possessed by greed, doesn't kill living beings, take what is not given, go after another person's wife, tell lies, or induce others to do likewise, all of which is for long-term welfare and happiness."

 

"Yes, lord."

 

"What do you think, Kalamas? When lack of aversion arises in a person, does it arise for welfare or for harm?"

 

"For welfare, lord."

 

"And this unaversive person, not overcome by aversion, his mind not possessed by aversion, doesn't kill living beings, take what is not given, go after another person's wife, tell lies, or induce others to do likewise, all of which is for long-term welfare and happiness."

 

"Yes, lord."

 

Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy, là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?

- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.

 

- Người này không tham, này các Kàlàmà, không bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?

 

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

 

- Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không sân, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?

 

- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.

 

- Người này không sân, này các Kàlàmà, không bị sân chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho người ấy hay không?

 

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

 

"What do you think, Kalamas? When lack of delusion arises in a person, does it arise for welfare or for harm?"

"For welfare, lord."

 

"And this undeluded person, not overcome by delusion, his mind not possessed by delusion, doesn't kill living beings, take what is not given, go after another person's wife, tell lies, or induce others to do likewise, all of which is for long-term welfare and happiness."

 

"Yes, lord."

 

"So what do you think, Kalamas: Are these qualities skillful or unskillful?"

 

"Skillful, lord."

 

"Blameworthy or blameless?"

 

"Blameless, lord."

 

"Criticized by the wise or praised by the wise?"

 

"Praised by the wise, lord."

 

"When adopted and carried out, do they lead to welfare and to happiness, or not?"

 

"When adopted and carried out, they lead to welfare and to happiness. That is how it appears to us."

 

- Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?

- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.

 

- Người này không si, này các Kàlàmà, không bị si chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho người ấy hay không?

 

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

 

- Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bất thiện?

 

- Là thiện, bạch Thế Tôn.

 

- Các pháp này là đáng chê hay không đáng chê?

 

- Không đáng chê, bạch Thế Tôn.

 

- Bị người có trí quở trách hay được người có trí tán thán?

 

- Được người trí tán thán, bạch Thế Tôn.

 

- Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến hạnh phúc an lạc không, hay ở đây, là như thế nào?

 

- Được thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến hạnh phúc, an lạc. Ở đây, đối với chúng con là vậy.

 

"So, as I said, Kalamas: 'Don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by logical conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, "This contemplative is our teacher."

When you know for yourselves that, "These qualities are skillful; these qualities are blameless; these qualities are praised by the wise; these qualities, when adopted and carried out, lead to welfare and to happiness" -- then you should enter and remain in them.' Thus was it said. And in reference to this was it said.

 

- Này các Kàlàmà, chớ có tin v́ nghe báo cáo, chớ có tin v́ nghe truyền thuyết; chớ có tin v́ theo truyền thống; chớ có tin v́ được kinh điển truyền tụng; chớ có tin v́ nhân lư luận siêu h́nh; chớ có tin v́ đúng theo một lập trường; chớ có tin v́ đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin v́ phù hợp với định kiến; chớ có tin v́ phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin v́ vị Sa-môn là bậc đạo sư của ḿnh.

Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự ḿnh biết rơ như sau: "Các pháp này là thiện; Các pháp này là không có tội; Các pháp này được người có trí tán thán; Các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hăy chứng đạt và an trú! Điều đă được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.

 

"Now, Kalamas, one who is a disciple of the noble ones -- thus devoid of greed, devoid of ill will, undeluded, alert, and resolute -- keeps pervading the first direction [the east] -- as well as the second direction, the third, and the fourth -- with an awareness imbued with good will.

Thus he keeps pervading above, below, and all around, everywhere and in every respect the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with good will: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.

 

"He keeps pervading the first direction -- as well as the second direction, the third, and the fourth -- with an awareness imbued with compassion. Thus he keeps pervading above, below, and all around, everywhere and in every respect the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with compassion: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.

 

"He keeps pervading the first direction -- as well as the second direction, the third, and the fourth -- with an awareness imbued with appreciation. Thus he keeps pervading above, below, and all around, everywhere and in every respect the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with appreciation: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.

 

"He keeps pervading the first direction -- as well as the second direction, the third, and the fourth -- with an awareness imbued with equanimity. Thus he keeps pervading above, below, and all around, everywhere and in every respect the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with equanimity: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.

 

- Này các Kàlàmà, vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Từ biến măn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư.

Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu với Từ, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

 

Vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Bi biến măn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư.

 

Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu với Bi, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

 

Vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Hỷ biến măn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư.

 

Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu với Hỷ, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

 

Vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Xả biến măn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư.

 

Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu với Xả, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

 

"Now, Kalamas, one who is a disciple of the noble ones -- his mind thus free from hostility, free from ill will, undefiled, and pure -- acquires four assurances in the here-and-now:

1) "'If there is a world after death, if there is the fruit of actions rightly and wrongly done, then this is the basis by which, with the break-up of the body, after death, I will reappear in a good destination, the heavenly world.' This is the first assurance he acquires.

 

2) "'But if there is no world after death, if there is no fruit of actions rightly and wrongly done, then here in the present life I look after myself with ease -- free from hostility, free from ill will, free from trouble.' This is the second assurance he acquires.

 

3) "'If evil is done through acting, still I have willed no evil for anyone. Having done no evil action, from where will suffering touch me?' This is the third assurance he acquires.

 

4) "'But if no evil is done through acting, then I can assume myself pure in both respects.' This is the fourth assurance he acquires.

 

"One who is a disciple of the noble ones -- his mind thus free from hostility, free from ill will, undefiled, and pure -- acquires these four assurances in the here-and-now."

 

Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm không oán như vậy, không sân như vậy, không uế nhiễm như vậy, thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, người ấy đạt được bốn sự an ổn:

i) "Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh lên cơi thiện, cơi trời, cơi đời này"; đây là an ổn thứ nhất vị ấy có được.

 

ii) "Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền năo, được an lạc"; đây là an ổn thứ hai vị ấy có được.

 

iii) "Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau được"; đây là an ổn thứ ba vị ấy có được.

 

iv) "Nếu việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ư hay cố ư), ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh"; đây là an ổn thứ tư vị ấy có được.

 

Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an ổn này.

 

"So it is, Blessed One. So it is, O One Well-gone. One who is a disciple of the noble ones -- his mind thus free from hostility, free from ill will, undefiled, and pure -- acquires four assurances in the here-and-now:

"'If there is a world after death, if there is the fruit of actions rightly and wrongly done, then this is the basis by which, with the break-up of the body, after death, I will reappear in a good destination, the heavenly world.' This is the first assurance he acquires.

 

"'But if there is no world after death, if there is no fruit of actions rightly and wrongly done, then here in the present life I look after myself with ease -- free from hostility, free from ill will, free from trouble.' This is the second assurance he acquires.

 

"'If evil is done through acting, still I have willed no evil for anyone. Having done no evil action, from where will suffering touch me?' This is the third assurance he acquires.

 

"'But if no evil is done through acting, then I can assume myself pure in both ways.' This is the fourth assurance he acquires.

 

"One who is a disciple of the noble ones -- his mind thus free from hostility, free from ill will, undefiled, and pure -- acquires these four assurances in the here-and-now.

 

"Magnificent, lord! Magnificent! Just as if he were to place upright what was overturned, to reveal what was hidden, to show the way to one who was lost, or to carry a lamp into the dark so that those with eyes could see forms, in the same way has the Blessed One -- through many lines of reasoning -- made the Dhamma clear. We go to the Blessed One for refuge, to the Dhamma, and to the Sangha of monks. May the Blessed One remember us as lay followers who have gone to him for refuge, from this day forward, for life."

 

- Sự việc là như vậy, bạch Thế Tôn! Sự việc là như vậy, bạch Thiện Thệ! Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an ổn:

"Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh lên cơi thiện, cơi Trời, cơi đời này"; đây là an ổn thứ nhất vị ấy có được.

 

"Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền năo, được an lạc"; đây là an ổn thứ hai vị ấy có được.

 

"Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau được"; đây là an ổn thứ ba vị ấy có được.

 

"Nếu việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ư hay cố ư), ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh"; đây là an ổn thứ tư vị ấy có được.

 

Vị Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an ổn này.

 

Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng những ǵ bị quăng ngă xuống, hay tŕnh bày cái ǵ bị che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết giảng. Chúng con nay xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con xin trọn đời quy ngưỡng..

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


Thư Viện Hoa Sen

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng