Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
Tưởng Niệm Quốc Hận Đầu Tiên 1979 – tại Sydney
Kính thưa Quư Đồng Hương,
Ba giờ chiều ngày 27 tháng 4 của 40 năm trước, giữa thủ đô Paris, hàng trăm sinh viên Việt Nam, với vành khăn tang trắng, đă tuần hành trong im lặng và nước mắt, để khóc thương cho quê hương Việt Nam đang hấp hối dưới gót giầy xâm lăng của CSVN và CS quốc tế… Ba ngày sau, Saigon thất thủ, mở ra một giai đoạn đầy bi thương, uất hận cho dân tộc VN, dưới mỗi mái nhà, trong mỗi cuộc đời… Và bi thương, uất hận đó không chỉ có ở Việt Nam mà c̣n có ở nhiều nơi trên khắp thế giới, để rồi mấy năm sau, ngay trên đường phố Sydney, Úc Đại Lợi, những người con thân yêu của Mẹ Việt Nam, cũng im lặng tuần hành với nước mắt và vành khăn tang trắng, tưởng niểm Quốc Hận 30.4 năm thứ Tư .Bài viêt sau đây của Ông Vơ Đại Tôn, sẽ tái tạo phần nào những giờ phút bi hùng của lễ tưởng niệm Quốc Hận đầu tiên trên đất Úc, những cố gắng duy tŕ Quốc Kỳ VNCH và niềm tự hào của QLVNCH trong ngày diễn hành ANZAC đầu tiên tại Sydney, song song với việc xây dựng cộng đồng và thành lập những tổ chức đấu tranh đầu tiên tại hải ngoại. Trong niềm biết ơn chân thành, tấm ḷng và tâm huyết của Ông Vơ Đại Tôn, cùng tất cả những người Việt yêu nước đi trước tại Úc và khắp nơi trên thế giới, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng Quư vị nguyên văn bài viết của Ông, với hy vọng, được Quư vị quan tâm, chia sẻ và phổ biến.
Trân trọng,
Hữu Nguyên
Tưởng Niệm Quốc Hận Đầu Tiên 1979 – tại Sydney
(Chít khăn tang, tuần hành im lặng)
Vơ Đại Tôn
Bên góc trái tấm h́nh, tác giả chít khăn tang đang giải thích ư nghĩa Ngày Quốc Hận với dân chúng Úc và cơ quan truyền thông Úc
Kính tặng bài viết này đến Quư Vị Đồng Hương và Chiến Hữu khắp thế giới, nhất là tại Úc Châu, cùng nhau nhớ lại những kỷ niệm ấm ḷng trong những năm đầu tiên định cư tại Úc – 1975/1980 – đặt những viên đá lót đường trên công tŕnh xây dựng Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu hùng mạnh ngày hôm nay, sau 40 năm Quốc Hận lưu vong (1975-2015). Đặc biệt, thân tặng các Bạn Hậu Duệ VNCH để thêm tài liệu sống thực về sinh hoạt Cộng Đồng qua nhiều lĩnh vực trong những năm đầu tiên tại Úc.
5 NĂM ĐẦU TIÊN ĐỊNH CƯ TẠI ÚC CHÂU : 1975-1980.
Chúng tôi chỉ tóm lược lại một vài sinh hoạt tiêu biểu (Cộng Đồng, Cựu Quân Nhân, Kháng Chiến Phục Quốc) tại Sydney trong những năm đầu tiên có sự hiện diện của một số ít đồng hương tỵ nạn cộng sản từ các đảo qua định cư tại Úc. Qua những h́nh ảnh c̣n lưu giữ, mặc dù thời gian gần 40 năm đă trôi qua, chúng tôi vẫn có thể nhận diện được nhiều anh chị em một thời đă từng quỳ trước Bàn Thờ Tổ Quốc tuyên thệ dâng hiến đời ḿnh cho Đại Nghĩa Phục Quốc, nhưng chúng tôi không dám nêu danh tánh v́ chưa được phép, với nhiều lư do khác nhau. Cũng từ thời gian đầu tiên này, cho đến nay vẫn c̣n có nhiều Vị hiện đang sinh hoạt trong Cộng Đồng, Đoàn Thể, hoặc c̣n sinh sống tại nhiều tiểu bang Úc Châu, nhưng chúng tôi không có cơ hội trực tiếp gặp gỡ để xin phép nêu danh trong bài viết ngắn này như là Nhân Chứng, kính mong thông cảm. Cũng xin cám ơn C/H T. Đ.T.T. đă cố gắng lục t́m lại vài tấm ảnh “ngày xưa” để giúp tôi kèm theo bài viết này.
TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN
Chúng tôi từ Mă Lai qua định cư tại Úc (Sydney) vào năm 1976. Vui mừng gặp lại Bác Sĩ LBH và đại gia đ́nh họ Nguyễn (định cư tại Brisbane, tiểu bang QDL) đă từng chung sống với nhau tại đảo tỵ nạn Pulau Perhentian, Bắc Mă Lai. Ngay sau 30 tháng 4 năm 1975, đảng phái chính trị cầm quyền tại Úc không thuận lợi cho người Việt tỵ nạn cộng sản từ các đảo tại Đông Nam Á sau khi vượt biển t́m tự do xin định cư tại Úc, cho nên số lượng người Việt di tản được nhận vào Úc rất hạn chế, điều kiện xin nhập cư rất khó khăn. Toàn nước Úc chỉ có vào khoảng vài ngàn người, chia khắp các tiểu bang, tương đối đông nhất là ở Sydney (NSW), Brisbane (QLD), Melbourne (VIC) và một số ít tại Perth (WA), Adelaide (SA). Sau này, với sự thay đổi đảng phái chính trị cầm quyền thuận lợi hơn, số lượng người Việt tỵ nạn được nhập cư vào Úc tăng dần lên theo thời gian. Vào năm 1976 và những năm đầu tiên sau đó, tính đến năm 1980, riêng tại Sydney và vùng phụ cận, chưa có các thành phố đông người Việt tỵ nạn như Cabramatta, Bankstown, Canley Heights… như bây giờ. Không có một cơ sở thương mại, quán hàng, tiệm ăn nào của người Việt. Tất cả người Việt tỵ nạn đều được đưa vào tạm cư tại các trại gọi là “Hostels” để học ngoại ngữ, t́m công việc làm ăn, chờ đoàn tụ gia đ́nh, như các “Hostels” : Cabramatta, East Hills, Endeavours, Westbridge (Villawood)… Ra đường, thoáng thấy những người Á Châu “đầu đen da vàng” nào là chúng tôi vui mừng chạy đến hỏi thăm, nhưng thường bị ngỡ ngàng, “cụt hứng” v́ chỉ gặp toàn là người Tàu. Thậm chí t́m mua được một chai nước mắm, sản xuất tại Thái Lan, lâu lâu có bán ở Phố Tàu, Sydney, là cả nhà mừng reo như được của quư. Mùi vị quê hương. Chúng tôi bơ vơ như chim lạc đàn, bao nỗi niềm chất chứa trong ḷng, từng đêm ác mộng. Đa số anh chị em lúc bấy giờ đều là thanh niên thiếu nữ trên dưới 20 tuổi (bây giờ, sau 40 năm, nếu c̣n gặp lại nhau th́ đă ngoài 60, “phiêu bạt giang hồ” khắp nơi, nếu không c̣n sinh hoạt th́ cũng chẳng c̣n nhớ tên nhau).
Chúng tôi không có “Cộng Đồng”. Chỉ có một số ít anh em tập họp lại để thành lập Hội Liên Hương (Liên Kết Đồng Hương – bầu anh N.A.T, làm Chủ Tịch. Anh N.A.T. đă qua đời từ lâu) và cố gắng phát hành một tờ báo hàng tháng là tờ Quê Mẹ để phân phối tại các “Hostels”. Không có tiền, chỉ in được tờ b́a ngoài, c̣n nội dung bên trong là in “ronéo”, bỏ dấu chữ Việt bằng tay. Chúng tôi phải chạy nhờ một cơ quan từ thiện mới quen là Hội Paulian Association ở Sydney giúp cho mượn máy in “ronéo” và cho giấy mực. Anh em chia nhau viết bài, bỏ đấu bằng tay, in ấn và phân phát. Món ăn tinh thần vô giá lúc bấy giờ. Những ngày “làm báo” Quê Mẹ là thời gian quy tụ anh chị em chia nhau làm việc với phương tiện hạn hẹp nhưng đầy t́nh huynh đệ ấm ḷng, ngày nào không được gặp nhau là nhớ mong chờ đợi. Chiều tối, anh em chúng tôi chia nhau vào các “Hostels” để thăm đồng hương, bắt đầu tổ chức những buổi sinh hoạt nhỏ, ca hát đấu tranh, gợi nhớ quê hương cội nguồn. Những năm sau đó, một số anh em tập họp tại thủ đô Canberra để thảo luận việc thành lập Cộng Đồng chính danh, soạn thảo tuyên ngôn lập trường, nội quy, đặt nền móng cho việc xây dựng Cộng Đồng Người Việt Tự Do cho đến ngày hôm nay, từ Liên Bang cho đến Tiều Bang. (Một số quư Vị hiện diện trong buổi họp đầu tiên này hiện vẫn c̣n sinh sống tại Sydney hoặc các tiểu bang khác, một số vẫn c̣n sinh hoạt, có thể minh chứng sự kiện này, như quư Ông L.T.Q., Đ.V.T., …).
Cá nhân tôi t́m được nhiều việc làm mưu sinh dễ dàng ngay sau khi đến định cư tại Úc nhưng rồi cũng từ bỏ để lo việc đấu tranh toàn thời, xin hưởng trợ cấp xă hội tạm sống qua ngày. Qua giao dịch thường nhật, tôi quen biết với Luật Sư David Clarke (hiện nay là Thượng Nghị Sĩ Tiểu Bang NSW) trong đảng Tự Do, thường sinh hoạt chung tại Phân Bộ Đảng Tự Do Trẻ tại Yagoona (NSW), và được giới thiệu đến Hiệp Hội Các Quốc Gia bị Cộng Sản chiếm đóng (Captive Nations Association) – gồm đa số di dân từ các nước như Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Ba lan, Nga Sô, và các nước Đông Âu khác – và tôi được mời vào Ban Chấp Hành Trung Ương, đi thuyết tŕnh các nơi về chiến tranh VN, về sự tàn ác của chế độ cộng sản VN, về các thảm nạn trên đường vượt biển t́m Tự Do… do Ông Lienko Urbanchich làm Chủ Tịch Hiệp Hội (đă qua đời). Tôi được quen biết thêm nhiều Dân Biểu Nghị Sĩ đảng Tự Do, trong đó có Ông Philip Ruddock, từng là Bộ trưởng Tư Pháp, sau này. Cho đến ngày nay, các vị này vẫn c̣n hiện hữu và là bạn thân mấy chục năm qua của tôi.
Nhờ thân t́nh này, đảng Tự Do tại NSW, do LS David Clarke và Ông Lienko Urchanchich giới thiệu, đă tổ chức một buổi lễ trọng thể tại hội trường Bankstown để long trọng trao lại cho chúng tôi lá Quốc Kỳ VNCH mà các ông ấy c̣n lưu giữ sau ngày mất miền Nam 1975. Đồng hương từ các trại tạm cư Hostels được chúng tôi hướng dẫn đi xe lửa, xe buưt (v́ không ai có phương tiện di chuyển tư nhân) đến tham dự, khoảng mấy trăm người, cùng với di dân trong Hiệp Hội Captive Nations và đảng viên đảng Tự Do Úc. Trên sân khấu, có C/H ĐQH, và cá nhân tôi, tiếp nhận lá Quốc Kỳ VNCH, do LS. David Clarke trao lại. Hội trường, đặc biệt là đồng hương tỵ nạn chúng ta, đồng loạt đứng dậy, có người bật khóc và cùng hát vang bản Quốc Ca VNCH. Một kỷ niệm vô cùng xúc động, nức ḷng, trong thời gian định cư đầu tiên trên đất Úc. Hiện nay, chúng tôi vẫn c̣n lưu giữ lá Quốc Kỳ VNCH này tại nhà Thờ Tổ của tổ chức đấu tranh LMQPVN.
Trở lại với các buổi tưởng niệm Quốc Hận đầu tiên. Trong các năm 1977, 1978, v́ đồng hương tỵ nạn c̣n qua ít, sống tại các Hostels, và chúng tôi không có phương tiện hoạt động, chưa quy tụ được nhiều nhân sự, cho nên chỉ tổ chức tưởng niệm Quốc Hận như là sinh hoạt nội bộ tại các Hostels, mượn pḥng họp của các trại tạm trú, chia sẻ tâm t́nh, làm quen nhau, và ca hát nhạc đấu tranh. Nhưng đến năm 1979, sau khi tôi đi Âu Châu và Hoa Kỳ trở về (phần 3 trong bài viết này), đă bắt đầu quy tụ được một số đông anh chị em cùng chung tâm huyết để có nhân sự hoạt động. V́ muốn có chỗ hội họp thường xuyên và thuận lợi hơn là tại các Hostels, gia đ́nh chúng tôi mượn tiền ngân hàng mở một quán cà phê nhỏ ở Cabramatta (báo chí Úc thường gọi là Saigonmatta lúc bấy giờ), trong một đường hẻm trên đường John St., cùng dăy với quán Cà Phê 86 và tiệm thịt quay Minh Tâm hiện nay. Đây là quán cà phê đầu tiên của người Việt tại Cabramatta, lấy tên là Quán Cà Phê Cu-Lỳ (tên gọi ở nhà của con trai tôi sinh tại Úc, 1978), bán cà phê phin, sách báo và băng nhạc cassette từ Mỹ gửi qua (lúc bấy giờ không có băng CD, DVD, như hiện nay). Đây là nơi quy tụ anh chị em hàng ngày để thăm hỏi nhau và để hội họp bàn luận các chương tŕnh sinh hoạt. Chúng tôi tự đóng bàn ghế trong quán. Cuối tuần, chúng tôi tổ chức tập dượt ca hát nhạc đấu tranh, cho đến khuya, ngồi chật cả quán trên sàn nhà, chia sẻ tâm sự cùng chung chí hướng, thương yêu nhau như trong một đại gia đ́nh.
Chúng tôi cùng thảo luận và quyết định tổ chức một buổi lễ tưởng niệm Quốc Hận công khai đầu tiên tại Sydney, chia nhau viết biểu ngữ, may cờ Vàng VNCH, và khăn tang trắng, kêu gọi đồng hương từ các trại tạm cư Hostels tham dự. Buổi lễ tưởng niệm này là buổi “TUẦN HÀNH IM LẶNG” qua những đường chính tại thành phố Sydney, đặt bàn thờ Tổ Quốc tại công viên Hyde Park. Chúng tôi thông báo và xin Cảnh Sát Úc dẫn đường, giữ trật tự giao thông. Mờ sáng đúng ngày 30.4.1979, do sự hướng dẫn của anh chị em chia nhau phụ trách, đồng hương đi xe lửa tập trung trước ṭa đô chính Sydney, đến địa điểm ai cũng chít khăn tang trắng, từ già đến trẻ em ngồi trên xe đẩy, tay cầm cờ (do một số chị em cặm cụi ngồi may tay suốt cả tuần lễ tại Hostels). Dân chúng Úc hiếu kỳ đứng chật cả haibên đường nh́n chúng tôi im lặng tuần hành, khoảng hơn 100 người, báo chí và truyền h́nh Úc đi theo làm phóng sự và quay phim. H́nh ảnh thực sự cảm động ngậm ngùi, suốt đời chúng tôi không quên. Đây là lần đầu tiên người dân Úc bản xứ thấy một hiện tượng lạ lùng và xúc động như vậy. Sau khi tuần hành qua các đường chính trong thành phố, chúng tôi tập trung tại công viên Hyde Park, thắp nhang trước bàn thờ Tổ Quốc, và giải thích cho người dân Úc cũng ṭ ṃ tập trung tại đây về ư nghĩa ngày Quốc Hận, và những vi phạm nhân quyền của chế độ cộng sản Việt Nam, lư do chúng tôi phải bỏ nước ra đi t́m Tự Do và tiếp tục chiến đấu. Tinh thần đồng hương và anh chị em chúng tôi dâng cao, với những ánh mắt nh́n ngưỡng phục và ủng hộ của người dân Úc bên đường. Nh́n lại h́nh ảnh cũ, thấy các em bé ngồi trên xe đẩy, đầu cũng chit khăn tang ở hàng đầu đoàn tuần hành im lặng, vẫn c̣n cảm thấy nao ḷng. Lúc bấy giờ các em mới một-hai tuổi, bây giờ sau 40 năm, đă trở thành trung niên trên dưới 40 tuổi, không biết có c̣n nhớ kỷ niệm đẹp này không? Và những anh chị tham dự tuần hành Quốc Hận đầu tiên này, mong rằng vẫn c̣n ghi nhớ trên hành tŕnh đấu tranh c̣n lại, sau gần 40 năm lưu vong.
DIỄN HÀNH ANZAC DAY ĐẦU TIÊN TẠI SYDNEY (1979)
Khi đến định cư tại Úc vào những năm đầu tiên, chúng tôi được biết có cuộc diễn hành tại Sydney hàng năm vào ngày Anzac Day của Úc, 25.4, rất trọng thể qua các đường phố chính, gồm nhiều đơn vị quân đội tham dự. Chúng tôi nhờ các bạn Úc trong đảng Tự Do giới thiệu đến trực tiếp gặp Ông Sir Collin Hyes, Chủ Tịch Hiệp Hội Cựu Chiến Binh Úc để yêu cầu được tham dự như là một đơn vị cựu quân nhân VNCH đồng minh của Úc trong cuộc chiến VN. Lúc bấy giờ, vào những năm 1976-77-78, trong số đồng hương tỵ nạn sống trong các trại tạm cư – Hostels – số cựu quân nhân chúng ta rất ít. Chúng tôi cũng chạy t́m các cựu chiến binh Úc đă từng tham chiến tại VN để mong có sự ủng hộ tinh thần đồng minh. Sau nhiều buổi họp rất gay cấn, có sự hiện diện của C/H ĐQH, Ông Collin Hyes và ban tham mưu chỉ cho phép chúng ta tham dự diễn hành như là một “toán nhỏ” đi chung với các đơn vị di dân khác, không được cầm cờ VNCH và không có biểu ngữ đi đầu. Không khí các buổi họp này rất căng thẳng, nhiều lúc to tiếng căi nhau, v́ họ viện cớ là VNCH đă mất rồi, đă bị xóa tên trên bản đồ thế giới, và cũng v́ lẽ nước Úc lúc bấy giờ đang có bang giao thân hữu với cộng sản VN sau khi chiếm được miền Nam, trong chính phủ Úc có một số chính trị gia thiên tả, không muốn sự hiện diện công khai của chúng ta làm mất đi ḥa khí ngoại giao với CSVN. Nhưng sau nhiều lần hội họp, chúng tôi giải thích nhiều lư do chính đáng, nêu cao chính nghĩa của VNCH và danh dự của người cựu quân nhân QLVNCH, chúng tôi được chấp thuận thành lập đơn vị cựu quân nhân VNCH cùng đi diễn hành, riêng biệt, không hợp chung với các đơn vị Úc khác. Đấy là một tin mừng cho anh em chúng tôi.
Phần c̣n lại là lo quy tụ một số cựu quân nhân trong các trại tạm cư, lo nhờ các chị em may cờ Vàng VNCH, sơn bảng “Republic of Vietnam” (VNCH), mua sắm áo quần đồng phục (quần màu sậm, áo trắng dài tay, thắt cà-vạt đen, có gắn bảng tên, v́ không có quân phục như bây giờ), và tập dượt diễn hành trước, tại sân trại tạm cư Westbridge Hostels (Villawood). Chúng tôi chỉ quy tụ được khoảng 25 anh em cựu quân nhân. Đến ngày diễn hành Anzac Day, đơn vị chúng ta hiên ngang tiến bước, C/H. LQQ cầm đại kỳ VNCH đi trước, có bảng hiệu “Republic of Vietnam”, và 25 anh em nhịp bước theo nhạc quân hành. Dân Úc và một số đồng hương chúng ta đứng hai bên đường vỗ tay reo mừng khi thấy đơn vị VNCH đi qua. Báo chí và các đài truyền h́nh Úc quay phim, chụp ảnh, rất xúc động. Sau khi cuộc diễn hành bế mạc, anh em chúng tôi được các cựu chiến binh Úc tại câu lạc bộ RSL Club ở Sydney mời vào uống nước, uống bia, bày tỏ tinh thần đồng minh thắm thiết, và có mời tôi nói chuyện thêm về cuộc chiến VN, về cuộc di tản t́m Tự Do của đồng bào VN. Đây là cuộc diễn hành Anzac Day đầu tiên tại Úc, khởi đầu cho những cuộc diễn hành tiếp theo suốt gần 40 năm qua của các Hội Cựu Quân Nhân VNCH sau này.
THÀNH LẬP CÁC TỔ CHỨC ĐẤU TRANH ĐẦU TIÊN TẠI ÚC
Vào năm 1979, sau khi tôi đi Âu Châu và Hoa kỳ để cùng thành lập tổ chức Liên Minh Hải Ngoại Phục Quốc và Chí Nguyện Đoàn Hải Ngoại Phục Quốc VN đầu tiên tại hải ngoại, trở về Úc th́ số lượng anh chị em chiến hữu đấu tranh ngày càng tăng. Từ Khu Bộ Úc Châu-Tân Tây Lan của Liên Minh Hải Ngoại Phục Quốc, chúng tôi chuyển thành một tổ chức đấu tranh độc lập tại Úc Châu, với các đơn vị tại các tiểu bang, lấy tên chính thức là Lực Lượng Dân Quân yểm trợ Phục Quốc VN. Ngoài các buổi lễ công khai đă được chính quyền Úc công nhận hợp pháp của tổ chức LLDQYTPQVN, chúng tôi có rất nhiều hoạt động về các lĩnh vực Văn Hóa, Văn nghệ Đấu Tranh, Chính Trị, Cộng Đồng, bắt nguồn cho sự lớn mạnh của Phong Trào Phục Quốc Hải Ngoại lúc bấy giờ. Các cuộc biểu t́nh chống cộng do anh chị em chúng tôi phát động đều được đồng hương nhiệt liệt tham dự và ủng hộ tinh thần. T́nh chiến hữu trong tổ chức chúng tôi, có tuyên thệ trước bàn thờ Tổ Quốc, ngày càng thắm thiết, hội họp và hoạt động liên tục. Chúng tôi c̣n lục t́m các tên tay sai cộng sản năm vùng, triệt hạ mọi tuyên truyền xuyên tạc, biểu t́nh đả đảo các tên cộng sản cầm đầu các phái đoàn ngoại giao của CSVN qua Úc thăm viếng chính thức. Chúng tôi c̣n đi thuyết tŕnh trong các trường đại học Úc, tại các tiểu bang để kết nạp thêm chiến hữu đấu tranh, thành lập thêm nhiều đơn vị đặc biệt. Có thể nói, LLDQYTPQVN là tổ chức kháng chiến phục quốc đầu tiên tại Úc Châu và Tân Tây Lan.
Đến cuối năm 1980, cá nhân tôi từ giă gia đ́nh và anh chị em chiến hữu cùng đồng hương, đóng cửa quán cà phê Cu-Lỳ, để lên đường từ Úc qua Thái Lan, băng rừng về lại quê hương tham gia kháng chiến phục quốc, qua ngă Hạ Lào, giữ trọn lời thề Tâm Nguyện.
TẠM KẾT
Trong dịp Tết Ất Mùi (2015) vừa qua, tôi có đến thăm Hội Chợ Tết do Cộng Đồng NVTD-NSW tổ chức, đông đảo đồng hương tham dự, tôi chợt thấy có một căn lều có mấy vị ngồi viết thư họa trên các thiệp Chúc Tết. Tôi im lặng đứng nh́n, ḷng nhớ quê hương cội nguồn giữa tiếng cười vui rộn ră của hàng ngh́n đồng hương các nơi tụ về, các em bé đùa chạy vui chơi, không khí thật tưng bừng náo nhiệt, như ngày Tết xa xưa trên đất nước Việt Nam thân yêu. Tôi cũng nhớ lại những năm tháng đầu tiên đến Úc, (1976-1980), hơn 10 năm sống trong lao tù cộng sản Hà Nội sau khi bị sa cơ tại biên giới Lào-Việt (1981), và qua h́nh ảnh các vị đang ngồi viết thư họa, tôi nhớ lại bài thơ “Ông Đồ” của thi sĩ tiền chiến Vũ Đ́nh Liên (1913-1996) với mấy câu cuối: “Năm nay đào lại nở – Không thấy Ông Đồ xưa – Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?”… Cuộc chiến chống cộng vẫn c̣n tiếp diễn, mặc dù 40 năm đă trôi qua, trên hành tŕnh c̣n lại, biết ai “c̣n” ai “mất”?
Xin cầu chúc Quư Vị và Quư Chiến Hữu b́nh an và thành công chung.
Vơ Đại Tôn
Tết Ất Mùi 2015 Úc Châu
Phỏng Vấn Ông Vơ Đại Tôn: "40 Năm Quốc Hận - 40 Năm Đấu Tranh"
- Hữu Nguyên -
LGT: Trong suốt cuộc chiến chống cộng trước và sau 1975, người Việt yêu nước ở khắp mọi miền của tổ quốc, đă chứng kiến không biết bao nhiêu tấm gương anh hùng, bất khuất, trong đó, có những vị đă vị quốc vong thân, vĩnh viễn nằm xuống trong ḷng đất lạnh, có những vị can đảm tuẫn tiết không chịu đầu hàng, có những vị âm thầm chiến đấu trong lao tù, có những vị ngược xuôi bôn ba, ǵn vàng giữ ngọc, nuôi dưỡng ngọn lửa đấu tranh trong suốt bốn chục năm kể từ 1975... Trong số những tấm gương anh hùng đó, chúng ta không thể không nhớ đến Ông Vơ Đại Tôn, người đă sáng lập Liên Minh Quang Phục Việt Nam ngay từ những tháng năm đầu mất nước, đă từng về VN trực tiếp chiến đấu với kẻ thù CS, từng bị kẻ thù bắt cầm tù suốt thời gian hơn 10 năm, nhưng trước sau vẫn giữ được khí tiết của một người lính VNCH, sự minh mẫn của một kẻ sĩ giữa lao tù CS, và đặc biệt đă thắp sáng ngọn lửa yêu nước và niềm tin son sắt vào chính nghĩa, qua cuộc họp báo quốc tế lịch sử tại Hà Nội cách đây ngót 40 năm. Nhân dịp tưởng niệm 40 năm Ngày Quốc Hận 30-4, chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng qúy độc giả nguyên văn bài phỏng vấn Ông Vơ Đại Tôn, trong niềm hy vọng, với tấm ḷng sắt son của những người Việt yêu nước, quư vị sẽ thấy được trong tâm tư, nguyện vọng và niềm tin của Ông, có cả tâm tư, nguyện vọng và niềm tin của chính ḿnh.
Hữu Nguyên: Chúng tôi chân thành cám ơn Ông đă chấp thuận trả lời phỏng vấn nhân dịp Tưởng Niệm 40 Năm Ngày Quốc Hận 30.4. Câu hỏi đầu tiên, trong những ngày của tháng Tư cách đây 40 năm, Ông đang làm ǵ, ở đâu và có những suy tư ǵ đặc biệt?
Ô. Vơ Đại Tôn: Ngay từ đầu tháng 3 năm 1975, tôi đă nhận lệnh công tác đặc biệt tại Cần Thơ, Quân Đoàn 4, và sau khi lệnh đầu hàng của Tổng Thống cuối cùng của VNCH (Dương Văn Minh) ban ra vào cuối tháng 4, tôi đă về lại Saigon, ngụy trang là thường dân chen chúc trên xe đ̣, chứng kiến sự sụp đổ toàn diện của miền Nam, trong hoảng loạn và trong uất hận. Xuyên suốt thời gian phục vụ trong quân đội, hoặc biệt phái ngoại ngạch, trong các công tác t́nh báo và làm việc trực tiếp với hồi chánh viên và thẩm vấn tù binh VC, cũng như xuyên qua lịch sử Dân Tộc kể từ ngày có chế độ cộng sản tại miền Bắc, tôi biết rơ sự tàn ác và xảo quyệt của người cộng sản VN trong việc sẽ trả thù người dân và quân cán chính miền Nam sau khi họ cưỡng chiếm được. V́ lẽ đó, tôi đă t́m đường vượt biển ngay từ ngày 1.5.1975, từ Saigon ra Vũng Tàu.
Gia đ́nh tôi đă được đi chung ghe đánh cá cùng hơn 50 người, vượt biển qua Mă Lai, đến được bến bờ tự do vào tháng 7 năm 1975. Chuyến đi vô cùng gian nan, sau lần bị kẹt lại v́ máy ghe hư phải chờ sửa chữa, may mắn thoát được, nhưng chuyện này c̣n dài không thể kể hết ra đây và cũng không phải là đề tài phỏng vấn của quư anh hôm nay. Những người cùng đi chung ghe với tôi, hiện nay đang định cư tại Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc Châu và chúng tôi vẫn thường xuyên liên lạc với nhau. Suy tư về tháng Tư Đen Quốc Nạn, th́ đối với tôi đó là ngày đau thương nhất với nhiều kỷ niệm đau buồn cho bản thân, đại gia đ́nh ḍng họ, anh em đồng đội, và trên hết là Dân Tộc. Nhưng tôi đă riêng tâm nguyện là từ những suy tư đau thương đó, tôi phải vùng dậy để mong đóng góp công sức nhỏ nhoi của ḿnh vào việc tiếp tục phụng sự lư tưởng Tự Do Dân Chủ cho quê hương, cho đến hơi thở cuối cùng.
Hữu Nguyên: Từ Mă Lai Ông và gia đ́nh đă đến Úc trong hoàn cảnh nào? Có những kỷ niệm đặc biệt ǵ trong chặng đường này?
Ô. Vơ Đại Tôn: Khi ghe chúng tôi đến Mă Lai vào ngày 26.7.1975, được tạm cư trên đảo Pulau Perhentian, Trengganu, miền Bắc Mă Lai, và sau đó vài tháng th́ những người đi chung ghe với tôi đều được chấp nhận cho đi định cư tại Úc. Riêng tôi và gia đ́nh được đưa về thủ đô Kuala Lumpur v́ tôi được nhận làm việc tại Bộ Quốc Pḥng Mă Lai, học tiếng Mă, phục vụ trong ngành quân báo. Sau gần một năm làm việc, từ một người tỵ nạn cộng sản trắng tay đă được công việc làm thích hợp, được hưởng lương cao và phụ cấp nhà cửa xe cộ đầy đủ, sung túc, nhưng chung quanh không có người đồng hương nào cả. Hơn nữa, khi vượt thoát ra đi, ĺa xa Tổ Quốc, tôi luôn mang trong ḷng hoài băo sẽ có ngày trở về lại quê hương, tiếp tục đấu tranh chống cộng, chứ không phải ra đi để thụ hưởng tự do và đời sống mới phong phú cho riêng ḿnh và gia đ́nh nơi xứ người. V́ lẽ đó, tôi và gia đ́nh lại xin đi định cư tại Úc và đă được chấp nhận vào tháng 6.1976. Đến Úc, tôi có công việc làm ngay, nhưng rồi cũng bỏ để đi nhiều nơi trên thế giới, thành lập các phong trào kháng chiến phục quốc, t́m đường về lại quê hương vào năm 1981, như quư anh đă biết. Bỏ lại vợ con bơ vơ nơi xứ người, tuy thiếu bổn phận với gia đ́nh nhưng tôi đă giữ vẹn được lời thề phục quốc, không thẹn với lương tâm. Tuy không thành công cụ thể như mong ước, nhưng tôi không hề cúi mặt. Câu chuyện về lao tù, họp báo tại Hà Nội ngày 13 tháng 7 năm 1982, công cuộc tiếp tục chống cộng (chống cái ác) của tôi sau này th́ quư anh đă biết rơ, tôi không muốn nói nhiều v́ sẽ có người cho là tôi tự đề cao. Tôi đă hứng chịu quá nhiều oan khiên rồi. Tôi có làm cho tôi một câu thơ để mỗi ngày đọc lên như là lời tâm nguyện đối với quê hương: “Dù là bụi, xin vuông tṛn hạt bụi. Lăn theo đường Tổ Quốc của ta đi”. Tôi chỉ có tâm nguyện duy nhất là được làm một người con trung hiếu với Mẹ Việt Nam.
Tại Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận đầu tiên ở Sydney, Ông Vơ Đại Tôn (đầu chít khăn tăng,
đứng bên trái) đang tố cáo CSVN vi phạm Hiệp Định Paris, xâm lăng Miền Nam
Hữu Nguyên: Được biết, Ông là người đầu tiên tại hải ngoại thành lập các tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc, và cũng là người đầu tiên và duy nhất tại Úc Châu đă trở về quê hương để chiến đấu chống cộng vào năm 1981. Ông cũng là người có cơ hội đi nhiều quốc gia, gặp gỡ nhiều cộng đồng người Việt. Như vậy, Ông đánh giá sức mạnh đấu tranh của người Việt tại Úc nói riêng và hải ngoại nói chung, trong 40 năm qua như thế nào? Và sức mạnh đấu tranh đó sẽ phát triển ra sao trong 40 năm tới?
Ô. Vơ Đại Tôn: Thưa quư anh, v́ công tác đấu tranh liên tục, chia sẻ trách nhiệm với các đoàn thể bạn cùng chung mục tiêu, và với chủ trương “Kết hợp Ḷng Người - Giải Trừ cộng sản - Quang phục Quê hương” của tổ chức Liên Minh Quang Phục Việt Nam của anh em chúng tôi (trước đây là Chí Nguyện Đoàn Hải Ngoại Phục Quốc tại Hoa Kỳ và Âu Châu, và Lực Lượng Dân Quân Yểm trợ Phục Quốc tại Úc Châu), tôi đă đi hầu hết các quốc gia có người Việt tỵ nạn cộng sản định cư, luôn cả có lần đă qua tận Mạc Tư Khoa sau khi ở tù về. Đối với câu hỏi này, xuyên suốt một giai đoạn dài 40 năm tại hải ngoại, xin phép cho tôi được dài ḍng một chút v́ nếu ngắn gọn quá th́ không nêu rơ được nét chính trong bức tranh toàn diện.
Tôi cố gắng tóm lược, trong thập niên 1975-1985 là giai đoạn bùng dậy của các phong trào kháng chiến phục quốc tại khắp năm châu trong cộng đồng người Việt tỵ nạn. Vết thương c̣n đỏ máu, ḷng hận thù c̣n sôi sục, tuổi trẻ c̣n hăng say, số lượng những người tham gia vào các công tác chống cộng có thể nói là lên đến đỉnh cao nhất trong lịch sử lưu vong. Hầu như người Việt tỵ nạn cộng sản nào cũng tự nguyện tích cực tham gia toàn thời hoặc bán thời vào các công tác đấu tranh chống cộng. Không ai thờ ơ đứng bên lề. Đă có những người trở về quê hương để kháng chiến phục quốc. Tiếng hô đả đảo cộng sản trong các cuộc biểu t́nh mà người tỵ nạn tự động t́m đến tham gia, không cần mời mọc, vang dậy nhiều góc trời hải ngoại. Những đêm tôi chứng kiến lễ tuyên thệ Phục Quốc tại các nơi tôi đă đi qua, mỗi lần cả trăm thanh niên quỳ khóc trước bàn thờ Tổ Quốc, nguyện thề dâng hiến đời ḿnh cho Tổ Quốc Tự Do. Người ngoại quốc cũng đă từng chứng kiến với sự kính trọng và khâm phục tinh thần chống cộng mănh liệt của đồng hương chúng ta khắp nơi, kể luôn cả vùng trời Úc Châu này. Tại đây, Hiệp Hội Các Quốc Gia Bị Cộng Sản Chiếm Đóng (Captive Nations) đă long trọng mời chúng tôi là những người tỵ nạn đầu tiên đến Úc, - sau khi chứng kiến cuộc biểu t́nh Quốc Hận đầu tiên tại Sydney (1977) - với đoàn người chít khăn tang im lặng diễn hành qua các đường phố - sau khi chứng kiến đoàn cựu quân nhân VNCH đi diễn hành (gồm 25 người) lần đầu tiên trong ngày Anzac Day 25.4.1977 - sau khi nghe chúng tôi đi thuyết tŕnh tại các cộng đồng di dân bạn và các trường học - làm Hội Viên chính thức của Hiệp Hội.
Đảng Tự Do tại Úc đă tổ chức một buổi lễ long trọng và cảm động tại Bankstown Town Hall (1978) để trao lại cho chúng tôi lá quốc kỳ VNCH mà họ c̣n lưu giữ được sau ngày mất miền Nam. Khi Luật Sư David Clarke (hiện nay là Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội NSW) trao lá quốc kỳ VNCH cho chúng tôi, cả hội trường đồng loạt đứng dậy, và đồng hương tỵ nạn CS tự động hát quốc ca VNCH trong nước mắt. Tôi không bao giờ quên được h́nh ảnh xúc động này. Hiện nay, chúng tôi vẫn c̣n lưu giữ lá quốc kỳ này, đặt tại Nhà Thờ Quốc Tổ trong tổ chức của anh em chúng tôi. Sau đó, lần lượt nhiều tổ chức đấu tranh bạn công khai hoạt động, cộng đồng ngày càng vững mạnh và đoàn kết, theo đà tăng trưởng của số lượng đồng bào chúng ta đến định cư tại Úc. Các nhóm Sinh Viên Đoàn Kết thân Cộng đă phải tan hàng, không dám xuất đầu lộ diện. Tinh thần chống cộng của đồng hương chúng ta dâng lên mănh liệt khắp Úc Châu. Tại các quốc gia khác trên thế giới cũng đều hừng hực lửa đấu tranh trong cộng đồng tỵ nạn. Sau này, theo thời gian và đời sống nơi xứ người, luôn cả những trở ngại mà tôi sẽ nêu ra một cách tổng quát sau, nên số lượng người tham gia trực tiếp vào công cuộc đấu tranh chống cộng tại hải ngoại có phần giảm đi so với thời gian đầu như tôi vừa tŕnh bày (thập niên 1975-85), nhưng phẩm chất lại được trui rèn và nâng cao hơn trong tinh thần và kinh nghiệm của những người c̣n đang tiếp tục con đường đă chọn qua Lẽ Sống.
Nói về 40 năm sắp tới th́ thế hệ của chúng tôi sẽ không c̣n nữa, nhưng tôi tin tưởng mănh liệt, với xu thế dân chủ của thời đại, với chu kỳ lịch sử, với tội ác của cộng sản ngày càng được phơi bày qua kỹ thuật thông tin hiện đại, với Ḷng Dân, nhất định chế độ cộng sản sẽ không c̣n tồn tại lâu dài trên quê hương chúng ta. Nhất định Thiện sẽ thắng Ác. Muốn sớm thấy được ngày hạnh phúc Tự Do Dân Chủ và T́nh Người thực sự của Dân Tộc, mỗi người và mọi người con dân nước Việt phải tự thức tỉnh lương tâm để cùng Toàn Dân chiến đấu về mọi mặt, để tự cứu lấy quê hương; chứ không phải chỉ khoanh tay ngồi chờ và ủy nhiệm cho một số người tại hải ngoại và quốc nội tiếp tục cuộc hành tŕnh c̣n lại. Đây là Cuộc Chiến Đấu của Ḷng Người và Cuộc Chiến Đấu của Toàn Dân. Lấy Nhân Nghĩa thắng hung tàn, lấy Trí Nhân thay cường bạo.
Hữu Nguyên: Xin Ông cho biết, những điểm mạnh, yếu đối với các phong trào đấu tranh tại Việt Nam trong 40 năm qua? Và theo Ông dự đoán, triển vọng 40 năm tới, t́nh h́nh Việt Nam sẽ có những biến chuyển quan trọng ǵ?
Ô. Vơ Đại Tôn: Thưa quư anh, tại quốc nội, mấy chục năm trước, chế độ cộng sản đă bưng bít thông tin toàn diện, dùng bạo lực để cai trị và củng cố đảng của họ, nhưng ngày nay, nhờ vào kỹ thuật thông tin hiện đại, và giao lưu toàn cầu, bức màn sắt bịt kín của họ đă bị phá thủng, đặc biệt là tâm lư sợ hăi trong ḷng quần chúng bị áp bức đă không c̣n như xưa. Ḷng Dân đă được thể hiện quyết liệt qua các cuộc biểu t́nh dân oan khiếu kiện, các nhà đấu tranh trong nước đủ mọi thành phần; đặc biệt là giới trẻ đă và đang đứng lên đ̣i hỏi cho quyền sống và lẽ sống của dân tộc. Tất cả các đồng bào dũng cảm trong nước đều được sự tin yêu và yểm trợ của cộng đồng NVTD hải ngoại và thế giới Tự Do. Nhiều đốm lửa đă được nhen nhúm và nhất định sẽ tập hợp trở thành một cơn băo lửa, một trận cuồng phong sẽ phá sập chế độ phi nhân, đốn hèn với bao tội ác đang được phơi bày ngày càng rơ nét.
Về điểm yếu, tất nhiên trong cuộc chiến đấu nào cũng gặp phải trở ngại, riêng trong cuộc đấu tranh chống cộng quyết liệt này, nếu chúng ta đồng tâm hiệp lực, mỗi người đều ư thức trách nhiệm, th́ sẽ vượt qua được những trở ngại ấy. Trở ngại, hoặc điểm yếu căn bản, riêng tôi nhận thấy, thuộc về Tâm Lư nhiều hơn là chiến thuật. Chế độ cộng sản đang vùng vẫy, gia tăng trấn áp để mong tồn tại thêm một thời gian nữa trước xu thế dân chủ của thời đại và trước Ḷng Dân không c̣n tin tưởng những chiêu bài mị dân. Về tập đoàn lănh đạo đảng CSVN luôn cả đại đa số đảng viên các cấp đă và đang phơi bày bộ mặt thật đầy dối trá, tham nhũng và bạo lực, “ác với dân, hèn với giặc Tàu”.
Họ sử dụng ngón đ̣n thâm hiểm nhằm thỏa măn Tâm Lư hưởng thụ của con người để mong vượt thoát mọi chống đối. Trong nước, họ tạo ra một xă hội vật chất, sa đọa, tranh đua thụ hưởng mọi mặt trong mọi tầng lớp dân chúng và đặc biệt với thế hệ trẻ, để con người chỉ biết lo kiếm tiền bằng mọi cách để vui chơi mà quên đi sự chống đối về chính trị, có nghĩa là chống lại việc làm sai trái của đảng cộng sản. Chưa lúc nào nền Đạo Lư Nhân Bản của Tổ Tiên bị băng hoại như ngày hôm nay dưới chế độ cộng sản. Tổ Quốc thật sự đang lâm nguy.
Đối với cộng đồng hải ngoại, CSVN sử dụng mọi chính sách để ve vuốt, khuyến dụ, khuynh loát hàng ngũ đấu tranh, bằng cách “mở cửa” cho về thăm quê hương, vui chơi thỏa thích, che giấu sự đàn áp một cách xảo quyệt, dùng tiền bạc hàng chục tỷ đô la mỗi năm mà đồng hương chúng ta gửi về để trang trí thêm mặt nổi cho chế độ, và dội ngược ra lại hải ngoại để mua chuộc, nuôi dưỡng những phần tử trở cờ, đánh phá sự đoàn kết cộng đồng. Tâm Lư thương nhà nhớ nước trong ḷng những người đă ĺa xa Tổ Quốc mấy chục năm qua đă được VC ve vuốt nồng hậu, tiếp đón ân cần, giao lưu dễ dàng... Tất cả đều được sử dụng như là một ma thuật để củng cố chế độ. Chúng ta đă rơi vào bẫy của “điểm yếu Tâm Lư” đó, của con người b́nh thường trong mọi xă hội, và gián tiếp hoặc trực tiếp làm suy yếu sức mạnh đấu tranh chống cộng toàn diện, hải ngoại cũng như quốc nội. Ngoài ra, c̣n có yếu tố thời gian 40 năm dài, thế hệ cựu quân cán chính chống cộng của chúng ta từ nguồn gốc VNCH cũng sẽ bị mỏi mệt v́ tuổi già sức yếu, hệ lụy lao tù, hoặc không c̣n tồn tại nữa. Thế hệ tuổi trẻ sinh ra và lớn lên sau chiến tranh, không hiểu rơ hiểm họa cộng sản, riêng với thế hệ trẻ từ hải ngoại, nh́n quê hương cội nguồn như là một xứ lạ, nếu có về là chỉ đi du lịch như một người ngoại quốc, tiền đồ Dân Tộc chỉ là điều không mật thiết đối với cuộc sống hàng ngày !
Về viễn ảnh Việt Nam trong ṿng 40 năm tới, tôi đă thưa ở phần trên. Hy vọng có dịp sẽ trở lại trong một chuyên đề phỏng vấn để được tŕnh bày chi tiết hơn, như là một tham luận chính trị. Điều duy nhất tôi có thể khẳng định là với Ḷng Dân và với sự chuyển ḿnh của Lịch Sử Dân Tộc, không có một chế độ phi nhân bạo tàn nào có thể tồn tại lâu dài. Dân Tộc chúng ta nhất định sẽ giải trừ được chế độ công sản và quang phục quê hương về mọi mặt. Tất cả đều tuỳ vào sự thức tâm, trách nhiệm và bổn phận của mỗi người và mọi người dân Việt, trong cũng như ngoài nước.
Hữu Nguyên: Do hoàn cảnh đặc biệt của gia đ́nh Ông cũng như sự từng trải của ông, một người bôn ba khắp năm châu bốn biển tiếp tục cuộc đấu tranh chống cộng, chắc chắn Ông biết được nhiều bí mật liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam trước 1975, cũng như công cuộc phục quốc sau 1975. Nay sau 40 năm kể từ ngày Quốc Hận 30.4.1975, xin Ông chia sẻ một vài bí mật có giá trị như là những bài học lịch sử và ư nghĩa cho cuộc đấu tranh hiện nay?
Ô. Vơ Đại Tôn: Cá nhân tôi chỉ là thuộc cấp thừa hành trong quân đội cũng như chính quyền VNCH trước 30/4/1975, cho nên không thể trong một vài phút hoặc một vài trang giấy nêu lên những điều mà quư anh gọi là “bí mật”. Tôi chỉ xin nêu ra một điều có thể nói được bây giờ, c̣n những chuyện khác, luôn cả công cuộc phục quốc sau 1975, xin khất lại những dịp sau. Tôi đă viết bài thơ “Mẹ VN ơi, chúng con vẫn c̣n đây” vào năm 1972, trước khi ḥa đàm Paris chấm dứt và ba năm trước ngày miền Nam bị cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm. Bài thơ này đă được nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 phổ nhạc có lẽ quư anh đă nghe nhiều lần trong các sinh hoạt cộng đồng hải ngoại. Trong bài thơ có câu (nguyên văn): “Mẹ ḷng đau, phương Bắc chiếm phương Nam”. Tôi không cần thiết phải “phịa” ra ngày tháng sáng tác thơ văn của tôi làm ǵ, nhưng chỉ nêu ra làm ví dụ về điều tôi đă nghe nói trước, qua tiếp xúc, và qua việc nhận lệnh thi hành một vài công tác đặc biệt từ những vị có thẩm quyền, luôn cả việc tiếp xúc với một vài cố vấn Mỹ liên hệ lúc bấy giờ. Xin nhấn mạnh lại một lần nữa, tôi chỉ là cấp thừa hành, chỉ được nghe và ghi nhớ một vài điều về “mệnh nước” của chúng ta, thế thôi. Tôi không dám lộng ngôn để kể lại hoặc viết ra những điều trọng đại đă thuộc về lịch sử.
Hữu Nguyên: Được biết, trong những ngày này của 35 năm trước, Ông được mời qua Pháp tham dự và phát biểu trong buổi lễ Ngày Quân Lực VNCH, 21.6.1980, tổ chức tại Paris dưới quyền chủ tọa của Trung Tướng Trần Văn Trung. Ngày 19.7.1980, sau khi Ông đi qua Hoa Kỳ để cắt máu tuyên thệ Trở Về Quê Hương tại Los Angeles, th́ Chiến Dịch Người Về được phát động và các Ủy Ban Yểm Trợ được thành lập khắp nơi. Cùng lúc đó, chiến dịch phao tin đồn nhảm, đánh phá Ông và báo Trắng Đen cũng xảy ra tràn lan. Hậu quả, đến tháng 2 năm 1981, khi Ông là người đầu tiên trở về quê hương chiến đấu phục quốc th́ chưa một Ủy Ban Yểm Trợ nào đóng góp được tiền bạc ủng hộ ông. Nguyên nhân v́ đâu có những đánh phá ác liệt như vậy?
Ô. Vơ Đại Tôn: Thưa quư anh, quư anh là những nhà báo, thường đi sát với quần chúng trong mọi giai tầng xă hội để t́m hiểu dư luận, phân tách tin tức, viết bài b́nh luận... th́ có lẽ hơn ai hết, quư anh đă biết rơ về ư nghĩa của hai chữ “Ḷng Người”. Tự nguyện làm “Cách Mạng” trong một giai đoạn c̣n nhiều khó khăn, kẻ thù c̣n theo đuổi, nhiều cá nhân c̣n mang đủ loại mặc cảm, ganh ghét đố kỵ, vô chính phủ, th́ việc kêu gọi giúp đỡ “Người Về” lúc bấy giờ đă bị xuyên tạc là “ảo tưởng”, “điên khùng”, lừa bịp, không thức thời vận. Tuy tinh thần chống cộng vẫn c̣n mănh liệt nhưng “Ḷng Người” như con chim bị đạn, kèm theo việc đánh phá nhất định của kẻ thù chung, th́ chúng tôi đành phải chấp nhận đương đầu với nhiều sự việc phủ phàng, vượt qua nỗi cô đơn để quyết chí hoàn thành tâm nguyện của ḿnh trong Lẽ Sống.
Những Đấng Thiêng Liêng tối cao trong nhân loại, như Đức Giê-Su và Đức Phật, chỉ đi rao giảng Tin Lành, truyền bá đạo sống Từ Bi Bác Ái cho chúng sinh, mà Quư Ngài c̣n bị con người đóng đinh trên thập giá, c̣n bị ném đá vào gốc bồ đề, c̣n bị xuyên tạc mạ lỵ, huống hồ chúng tôi chỉ là cát bụi, tự nguyện vươn ḿnh lên làm viên gạch lót đường, th́ chuyện bị dèm pha, đánh phá, chửi bới cũng là lẽ thường t́nh trong xă hội con người. Ngay cả đến bây giờ, cá nhân tôi cũng c̣n là nạn nhân của nhiều điều mạ lỵ, oan khiên. Những nhà đấu tranh đang bị khốn cùng trong nước cũng đang bị xuyên tạc, bôi bẩn. Nhưng tôi luôn luôn tin tưởng vào sự sáng suốt và công tâm của đại đa số đồng bào thầm lặng. Làm việc nước phải chấp nhận tất cả, ngay cả cái chết để tṛn đạo nghĩa với Tổ Quốc.
Quư anh mỗi ngày có thể nghe được hoặc đọc được những điều tiêu cực này trong xă hội và trên mạng lưới thông tin. Theo tôi nghĩ, và đă tự rút ra cho ḿnh nhiều kinh nghiệm sinh tồn, nếu chúng ta c̣n có lương tâm trong sáng, c̣n có hành động v́ chính nghĩa, c̣n biết đau niềm đau của Tổ Quốc, c̣n biết nép ḿnh theo cuộc hành tŕnh chân chính của Dân Tộc, c̣n biết đến Lẽ Sống và Đạo Sống của dân tộc, không tranh giành quyền lợi riêng tư và hư danh, không lừa bịp ai, th́ xin chấp nhận những phũ phàng đó trong đời để tiếp bước theo lư tưởng đă chọn. Nỗi đau cá nhân thật quá nhỏ bé đối với nỗi nhục lớn của dân tộc. Nản ḷng và bỏ cuộc là tự thua. Chỉ có thế thôi. Chỉ nên sợ một điều là nếu chúng ta không thành tâm hành động đúng theo nguyện vọng của Toàn Dân th́ sẽ bị chính Dân Tộc đào thải, khinh miệt chúng ta.
Hữu Nguyên: Trong bài viết “Tiếng vọng hoàng hôn” của Ông được phổ biến trên mạng lưới thông tin toàn cầu và đă được báo Saigon Times đăng lại cách đây 5 năm, khi đề cập đến việc Ông bị VC bắt ngày 23.10.1981, trên đường về quê hương phục quốc, Ông cho rằng đó là “một tai nạn bất ngờ”. Nhưng trong một bài báo do tác giả Sedgwick Tourison (có tên Việt là Tùng), thuộc pḥng quân báo Hoa Kỳ (Defense Intelligence Agency) kể lại buổi nói chuyện giữa Ông và tác giả, Ông đă cho biết là chuyến trở về quê hương của Ông đă bị lộ v́ một Việt kiều ở Thái Lan tên là Chung. Xin Ông cho biết rơ thêm về sự kiện này?
Ô. Vơ Đại Tôn: Xin cám ơn quư anh cho tôi cơ hội làm sáng tỏ thêm về việc này. Trước hết, xin kể lại một mẩu chuyện vui liên quan đến tác giả Sedgwick Tourison này. Tên Việt Nam của Ông ta là Trần Văn Tùng, tác giả nhiều cuốn sách giá trị phân tách sử liệu vừa được giải mă liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong đó có cuốn “Secret War - Secret Army”, cũng có đề cập một đôi ḍng về cá nhân tôi. Ngày tôi ra khỏi ngục tù cộng sản vào cuối năm 1991 về lại Úc, và đi Hoa Kỳ vào năm 1992 để tri ân đồng bào, tôi đă đến Hoa Thịnh Đốn, ngụ tại nhà một thân hữu. Vào một buổi chiều, trong lúc tôi vắng nhà, có điện thoại reo lên và vợ tôi bắt chuyện với người đầu dây. Giọng người đàn Ông nói tiếng Việt rành rọt:
- Xin phép bà cho tôi thưa chuyện với Ông Vơ Đại Tôn.
- Thưa, nhà tôi đi vắng. Xin Ông cho biết quư danh.
- Thưa bà, nhờ nói lại với ông, tôi là Tourison tức là Trần Văn Tùng đây, xin hẹn Ông ngày mai lúc 10 giờ sáng tại quán cà phê Mimosa, tôi có món quà đặc biệt để tặng ông.
- Ủa, Ông là người Mỹ phải không?
- Thưa bà, tôi là người Mẽo chứ không phải Mỹ (cười). Tôi là bạn cũ của Ông nhà.
- Sao Ông nói tiếng Việt sơi thế, tôi thực sự không ngờ!
- Thưa bà, tôi nói tiếng Việt nhưng là giọng Bùi Chu Phát Diệm đấy ạ, v́ thầy của tôi là người Bùi Chu di cư vào Nam đấy ạ.
Câu chuyện c̣n dài, nhưng tôi kể ra như vậy để mô tả thêm về Ông bạn Trần VănTùng này. Khi gặp nhau, Ông ta có tặng cho tôi mấy tấm ảnh chụp trại tù Thanh Liệt nơi tôi đă bị giam cầm hơn 10 năm ở Hà Nội, và nói: “Chúng tôi biết Ông bị giam ở đây!”...
Về lộ tŕnh của tôi về nước năm 1981, không phải bị lộ v́ một Việt kiều ở Thái Lan, có lẽ Ông ta viết lại câu chuyện không rơ. Tên của Việt kiều này là Trung (Nguyễn Chí Trung) chứ không phải là Chung. Khi tôi c̣n tạm trú ở Bangkok, chờ ngày vào mật khu kháng chiến Lào Tự Do của Tướng Vang Pao, tôi được một vài nguồn tin riêng cho biết đương sự (trước 1975 có làm việc tại ṭa đại sứ VNCH ở Thái Lan) thân cộng. Tôi có đến nhà của đương sự ở một vài ngày, nhưng sau đó th́ dọn đi chỗ khác ngay, và không liên lạc ǵ với đương sự suốt cả thời gian tôi tạm trú ở Bangkok và cho đến ngày tôi lên đường.
Ngày giờ xuất phát và lộ tŕnh qua Cao Miên lần thứ nhất và qua Hạ Lào lần thứ hai, không ai biết ngoài tôi, và tôi đă thay đổi thường xuyên các hướng đi để tránh địch. Và khi tôi bị sa cơ là do Lào Cộng vây bắt chứ không phải Việt Cộng. Thật là khôi hài và ngây thơ nếu có ai nghĩ rằng VC "dàn trận” suốt biên giới Lào- Cao Miên- Việt - mấy ngàn cây số, 24/24 giờ hàng ngày hàng tháng để chờ “bắt” tôi, trong khi họ không biết tôi sẽ đi đường nào và đi lúc nào? Như tôi đă nói, khi bị sa cơ, thất bại, th́ có kẻ đàm tiếu lúc trà dư tửu hậu hoặc v́ ganh ghét đố kỵ nào đó - luôn cả VC - thêu dệt thêm nhiều chuyện để xuyên tạc, mạ lỵ, và kẻ thù th́ “đề cao” sức mạnh bao vây của họ, “không để lọt bất cứ một tên phản động nào!” Đây chỉ là “mẹo vặt tuyên truyền xảo trá”. Tôi đă viết rơ sự việc này trong cuốn hồi kư “Tắm Máu Đen” của tôi rồi. (Xuất bản tại Úc năm 1992, tái bản tại Hoa Kỳ năm 2000).
Ông Vơ Đại Tôn tại cuộc họp báo lịch sử ở Hà Nội ngày 13.7.1982
Hữu Nguyên: Một trong những sự kiện quan trọng trong cuộc đấu tranh chống cộng suốt 40 năm qua, cũng như trong cuộc đời của Ông, là cuộc họp báo tại Hà Nội vào ngày 13.7.1982, Ông đă can đảm và b́nh tĩnh, tuyên bố những lời son sắt: "Tôi sẽ không phản bội bất cứ ai đă giúp đỡ tôi, ủng hộ tôi. Tôi tiếp tục duy tŕ lập trường chính trị của tôi, tranh đấu cho tự do và giải phóng dân tộc. Tôi sẵn sang chấp nhận bất cứ bản án nào mà chế độ CS dành cho tôi”. Thưa Ông, bây giờ, sau thời gian hơn ba thập niên, Ông nghĩ những lời tuyên bố đó đă có những ảnh hưởng tích cực ǵ đối với bản than ông, với chiến hữu của ông, cũng như với người Việt trong và ngoài nước?
Ô. Vơ Đại Tôn: Thưa quư anh, tuổi đời của tôi đang ở vào buổi hoàng hôn, tôi vẫn luôn tâm nguyện một điều duy nhất là được làm một viên gạch lót đường cho thế hệ trẻ bước lên và tiến thẳng về đài vinh quang của Tổ Quốc trong Tự Do Dân Chủ, Nhân Bản và Tự Chủ. Ba mươi ba năm về trước, ngày 13.7.1982, tôi đă đơn độc đứng trước sự bao vây của cả một chế độ đang ở trên đỉnh cao quyền lực sau khi cộng sản Bắc Việt vừa chiếm được miền Nam, Liên Xô và Đông Âu chưa sụp đổ, tôi biết được lẽ tử sinh của đời ḿnh. Có lẽ quư anh và quư vị ở ngay trong nước hoặc ở ngoài, không thể hoặc ít cảm thông được giây phút căng thẳng tinh thần và tâm lư của tôi phải đương đầu với bạo lực toàn diện. Nếu quư anh coi lại cuộn phim do kư giả Mori Watanabe (đài truyền h́nh Nhật Bản NHK) lén đem ra được hải ngoại về cuộc họp báo tại Hà Nội, quư anh và quư vị sẽ thấy trong một vài giây phút, tôi đă ngước mặt lên trần nhà, nước mắt tôi đă chảy ra. Đấy là giây phút tôi cầu xin vong linh của mẹ tôi giúp cho tôi được chết trong danh dự, trong tinh thần bất khuất, trọn trách nhiệm của một người lính VNCH, một người dân biết tṛn đạo nghĩa, một người con không làm tủi nhục gia phong, một người chồng người cha giữ vẹn lời thề. Tôi đă phải trải qua gần một năm ṛng, dùng mọi phương cách, mới đánh lừa được người cộng sản vốn đầy bản chất xảo quyệt, để được ra họp báo quốc tế, và tôi biết tôi chỉ có được một hai phút, bất ngờ chớp thời cơ, để nói lời tâm nguyện cuối cùng. Tôi đă âm thầm suy nghĩ ngày đêm, là nếu tôi chỉ la to lên “Đả đảo cộng sản!” th́ cái chết của tôi, nếu bị tử h́nh, cũng chẳng đi tới đâu, vô ích. Tôi cần gửi lại một điều tạm gọi là thông điệp cuối cùng của một người tù trước giờ nhất định sẽ bị trả thù tàn bạo nhất, kể cả tử h́nh. V́ lẽ đó, tôi đă nhanh chóng tuyên bố những lời nói trên, trong ṿng 2 phút, rồi chấm dứt. Thản nhiên chờ đợi bất cứ một bản án nào, trước một chế độ đầy bạo lực. Những lời tôi tuyên bố là rút gọn từ những bài học Văn Hiến Dân Tộc, về Nhân Dũng Trí Tín, tinh thần bất khuất mà Tiền Nhân đă dạy cho tôi qua ḍng máu Dân Tộc. Bây giờ, tôi vẫn tiếp bước theo thông điệp đó để tuân theo Lẽ Sống và Đạo Sống của một công dân b́nh thường trước cơn quốc nạn. Và, anh em chiến hữu trong tố chức của chúng tôi đă hiểu được Tâm Nguyện đó.
C̣n đối với người Việt trong và ngoài nước, th́ thú thật với quư anh, tôi không dám nghĩ đền bất cứ ảnh hưởng nào cả, v́ lẽ tôi chỉ là một người dân đang cố nép ḿnh theo quư vị trên con đường chính nghĩa của Dân Tộc. Xin hăy dạy tôi, hăy nâng tôi đứng dậy và giúp tôi được làm tṛn bổn phận và nghĩa vụ của một người Dân Việt b́nh thường trong cơn quốc nhục hiện nay của dân tộc.
Hữu Nguyên: Trong cuộc đời của mỗi người Việt tỵ nạn thường có những cuộc hội ngộ kỳ diệu. Ông không những là một người tỵ nạn, c̣n là một chiến sĩ phục quốc, một người sống trong lao tù cộng sản hơn 10 năm, rồi sau khi ra tù, tiếp tục bôn ba khắp các quốc gia có người Việt hải ngoại sinh sống để giữ lửa đấu tranh. Xin Ông kể lại một vài duyên hội ngộ kỳ diệu có ư nghĩa trong cuộc đời tranh đấu của ông?
Ô. Vơ Đại Tôn: Thưa quư anh, duyên hội ngộ gọi là kỳ diệu đầu tiên là lúc tôi ra khỏi máy bay Qantas bước vào phi trường Sydney, sau hơn 10 năm lao tù từ Hà Nội, tôi đă thấy vợ con tôi và quư vị đồng hương cùng anh em chiến hữu của tôi ào đến ôm tôi, nghẹn ngào. Tôi tuởng như ḿnh đă từ địa ngục được đầu thai vào kiếp sống mới. Sững sờ và bấn loạn tâm hồn. Đứa con trai duy nhất của đời tôi, lúc tôi ra đi chỉ mới lên 2 tuổi, bây giờ đă trở thành một thiếu niên, tôi không nhận ra v́ tôi đă sống trong xà lim tăm tối với sự mơ tưởng về h́nh ảnh của một đứa bé thơ. Con tôi không nói ǵ cả, có lẽ cũng ngỡ ngàng, không biết tôi là ai, nhưng cháu đă khóc. Nước mắt tự nhiên chảy ra từ máu chung ḍng.
H́nh chụp Ông Vơ Đại Tôn trước khi về VN phục quốc (trái) và sau khi ra tù trở lại Úc.
Và vợ tôi, ánh mắt đă ngời lên mừng tủi, nhưng không dám nh́n thẳng tôi v́ h́nh hài của tôi quá tang thương tiều tụy. Và tôi cũng nghe trong đám đông đồng hương tiếng khóc gào của một bà cao niên, mà hiện nay tôi thỉnh thoảng vẫn gặp lại bà ngoài phố: “Trời ơi, sao mà gầy ốm quá vậy, Ông Tôn ơi”. Tiếng khóc của t́nh Dân Tộc ban cho tôi thêm sức sống. C̣n bao nhiêu hội ngộ kỳ diệu nữa, không thể kể hết, khi tôi như từ cơi chết trở về.
Riêng đối với người ngoại quốc, tôi đă có một hội ngộ kỳ diệu, tưởng như là chỉ xảy ra trong tiểu thuyết. Đấy là vào năm 1993, (Liên Bang Sô Viết đă sụp đổ) khi tôi qua Mạc Tư Khoa cùng với quư vị trong phái đoàn Liên Châu đấu tranh cho Nhân Quyền. Sau phần thuyết tŕnh của tôi, chị Irina là giám đốc đài phát thanh Mạc Tư Khoa Tự Do, người Nga nói tiếng Việt thông thạo, đến gặp tôi và nói “Có người muốn gặp anh tại pḥng khách”. Chị Irina giới thiệu tôi với một kư giả người Nga, tên là Palov. Ông ta chợt ôm chầm lấy tôi và khóc. Tôi chưa biết chuyện ǵ th́ Ông ta đă vội nói bằng Anh ngữ trong nước mắt:
“Tôi đă thấy Ông trong buổi họp báo quốc tế tại Hà Nội năm 1982. Tôi nghĩ là Ông đă chết rồi. Không ngờ lại gặp nhau ở đây. Lúc ấy tôi là tùy viên báo chí trong đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội, và có tham dự buổi họp báo của ông. Ông có biết không, ngay sau khi Ông tuyên bố những lời chống đối Hà Nội, cuộc họp báo đă phải bế mạc lập tức, ai cũng bàng hoàng. Chúng tôi đă tham dự một phiên họp kín sau đó với Bộ Nội Vụ Hà Nội, có cả Ông đại sứ Liên Xô được mời dự họp. Ai cũng biểu quyết phải đem Ông ra bắn ngay ở chợ Đồng Xuân vào sáng hôm sau, nhưng Ông đại sứ của chúng tôi đă đề nghị cứ giam giữ Ông lại để tiếp tục khai thác. Chúng tôi không c̣n biết tin tức ǵ về Ông cả. Sau đó th́ tôi về lại Mạc Tư Khoa cho đến bây giờ đă hơn 10 năm rồi, chúng tôi không c̣n là cộng sản nữa, và tôi đă nghĩ là Ông đă chết rồi. Chị Irina có mời tôi đến tham dự buổi thuyết tŕnh về Nhân Quyền hôm nay, tôi nghe có tên ông, tôi không tin, cho nên đến để xem có thực là Ông không. Không ngờ là Ông c̣n sống!”...
Chúng tôi đă nghẹn ngào nói chuyện với nhau. Và trước khi từ giă, Ông ta có tặng cho tôi một cuốn sách dịch ra Việt ngữ “Người Việt đất Việt” trong đó có một chương viết về buổi họp báo của tôi tại Hà Nội do các kư giả Nga Sô viết lại, gọi tôi là “anh hùng”. Tôi có chụp h́nh chung với kư giả Palov và chị Irina, lưu niệm cuộc gặp gỡ hi hữu này, và có in trên trang b́a cuốn Video “Cờ Ta Bay trên thành phố Mạc Tư Khoa” ghi lại chuyến đi của tôi.
Hữu Nguyên: Trong suốt 40 năm qua, bên cạnh h́nh ảnh người lính bất khuất Vơ Đại Tôn c̣n có h́nh ảnh nhà thơ đấu tranh Hoàng Phong Linh với những bài thơ vang vọng đầy hào khí. Nay sau 40 năm nh́n lại, trong hai h́nh ảnh này, Ông thấy h́nh ảnh nào thể hiện đúng tâm tư, nghị lực, hoài băo của Ông hơn cả? Nếu mô tả về Vơ Đại Tôn Hoàng Phong Linh một câu ngắn gọn, Ông sẽ mô tả như thế nào?
Ô. Vơ Đại Tôn: Thưa quư anh, tôi không muốn nói nhiều về “cái tôi” riêng tư tầm thường của ḿnh. Chỉ xin mượn lời của nhà thơ Phùng Quán để thưa: "Mỗi khi tôi ngă ḷng, tôi vịn Nàng Thơ mà đứng dậy!”. Nàng Thơ của tôi là những Lời Viết Cho Quê Hương. VĐT-HPL, nhị trùng bản ngă, đều là con của Mẹ Việt Nam, suốt đời chỉ mong được giữ vẹn đạo Hiếu-Trung.
Hữu Nguyên: Câu hỏi cuối cùng. Chúng tôi được biết, trong cuốn hồi kư thẩm vấn tù binh Việt Cộng của Ông Sedgwick Tourison, tác giả có viết tặng Ông bằng Việt ngữ “Kính biếu Vơ Đại Tôn, anh hùng Quân Lực VNCH”. Ông Tourison c̣n có nhận xét thêm: "Những người anh hùng như Vơ Đại Tôn th́ rất quư. Sự đóng góp của họ không nhất thiết phải ở ngoài mặt trận khu rừng già. Ngồi viết ra những kinh nghiệm của ḿnh đôi khi hiệu quả hơn”. Phải chăng cuốn hồi kư “Tiếng Vọng Hoàng Hôn” của Ông đang viết sẽ là tập hợp những kinh nghiệm đấu tranh, những bài học quư giá được Ông rút tỉa trên con đường đấu tranh?
Ô. Vơ Đại Tôn: Thưa quư anh, tôi không dám nhận hai chữ “anh hùng” mà bất cứ ai đă có ḷng thương mến tặng cho tôi, v́ tôi tự cảm thấy ngượng ngùng khi biết ḿnh chưa làm được ǵ cả cho Tổ Quốc. Tôi đă xuất bản hai cuốn hồi kư: "Tắm Máu Đen” (đường về quê hương và 10 năm trong ngục tù CS Hà Nội) và “Tuổi Thơ và Chiến Tranh” (chiến tranh tại quê tôi, Quảng Nam, 1945-1950). Bây giờ tôi đang viết gần xong cuốn hồi kư dài “Tiếng Vọng Hoàng Hôn” - có lẽ là cuốn hồi kư cuối đời - về công cuộc kháng chiến phục quốc tại hải ngoại từ 40 năm qua. Xin quư anh đón đọc khi tôi xuất bản.
Hữu Nguyên: Một lần nữa cảm ơn th́ giờ quư báu của Ông. Và kính chúc Ông măi măi xứng đáng là người con Trung Hiếu của Mẹ Việt Nam Tự Do, đúng như tâm nguyện duy nhất của Ông...
Ô. Vơ Đại Tôn: “Dù là bụi, xin vuông tṛn hạt bụi. Lăn theo đường Tổ Quốc của ta đi”.... Chân thành cám ơn quư anh về buổi phỏng vấn hôm nay, cầu chúc cho nhau Tâm Rộng Nghĩa Sâu, Chí Bền Dạ Sáng trong việc đóng góp công đức vào đại cuộc Cứu Nước của Toàn Dân nhằm giải trừ cộng sản, quang phục quê hương.
Hữu Nguyên
(huunguyen@saigontimes.org)
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
The Beatles. French Music . Nhạc Pháp . Dalida . Jaune. Ngọc Lan. Thanh Lan. Elvis Phương. Best English1
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures. Dancing Music. 2015
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám
Federation of Anerican Scientist
Người Việt Seatle