Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Sơ Thảo: Bài sử khác cho Việt Nam*

 

 

 

CHƯƠNG XII:

 

ĐÀNG NGOÀI và ĐÀNG TRONG

 

Vấn đề danh xưng và hướng phân li

 

Sau trận 1672, quân Trịnh “chia binh đóng đồn ở các đường trọng yếu châu Bắc Bố Chính, pḥng giữ nghiêm nhặt, lấy sông Gianh làm giới tuyến (phía nam sông là Nam Hà, phía bắc sông là Bắc Hà.) Từ đây Nam Bắc nghỉ binh.” Đó là lời của Thực lực tiền biên, quyển sử của nhà Nguyễn, phe phía Nam. Chúng ta không gặp một xác nhận như thế trong quyển sử của nhóm Lê Trịnh phía Bắc tuy cũng có những lời cam nhận giới hạn quyền lực của ḿnh: “(Trịnh xếp đặt quan tướng) khống chế biên thuỳ, giữ yên dân một phương.” Họ chỉ dùng chữ “hà”: Bắc Hà, Nam Hà khi nói về sông Lam trong trận chiến 1655-60 vào thời gian quân Nguyễn lấn đất làm nổi lên ư thức về biên giới trên vùng đất xa xôi càng lúc càng mở rộng thêm bởi người khác, c̣n đối với chính họ th́ tính chất chủ quyền chỉ mơ hồ trong h́nh ảnh của thời xa xưa: “Nhân dân hai xứ của các ngươi vốn là nhân dân ở đất của Thánh tổ Thần Tông Hoàng triều, không phải do họ Nguyễn khai thác mà có.” (Hiểu dụ hai xứ Thuận Quảng 1672.)

 

Nói như thế là để khẳng định tham vọng chủ quyền nhưng thực tế kiến thức và quyền lực cũng khiến họ Trịnh không thấy có nhiều vướng víu t́nh cảm với vùng đất “do một số thú vật đă thiết lập một nước li khai ở biên giới phía nam” của họ như thấy trong bức thư Trịnh Tráng cầu viện Batavia năm 1637. Chúa xin giúp tàu thuyền, súng ống, binh lính, hứa khi thành công sẽ ban tặng vàng bạc và nhất là “sẽ trao xứ Quảng Nam” cho họ cai trị, nghĩa là chỉ để đổi chủ vùng đất, bởi v́ Hà Lan “có thể thu hoạch các sản phẩm trong vùng và gửi một phần cho triều đ́nh” Lê Trịnh – giống như họ Nguyễn khi c̣n chịu nạp tô thuế Thuận Quảng. Trịnh Tráng c̣n bám víu vào quan điểm Đông Việt Tây Việt của đất nước khi bày tỏ trong thư mối “lo ngại điều bất ngờ có thể xảy ra ở phía biển (Mạc)” nên không thanh toán được “bọn thú vật” kia nhưng với con cháu th́ mối lo phương Nam cũng không giải quyết ǵ được. Thời ngưng chiến 1672 là một thú nhận bất lực để nhóm li khai trưng ra bảng hiệu mới: Nam triều (1719) trước khi người cầm đầu chính thức xưng Vương.

 

Vùng này trên bản đồ thế giới, như ta đă thấy, chỉ có danh xưng Chamba xuất hiện đầu tiên theo hồi kí của Marco Polo c̣n th́ ông chỉ nói mơ hồ về xứ Caugigu (Giao Chỉ Quốc.) Với các bản đồ từ tin tức của thương nhân, giáo sĩ mới xuất hiện tên Kẻ Chợ (“Cachu” 1561) sau cả từ Cauchechina (1529). Có lẽ đây là do thương nhân đánh dấu vùng đất “Cochi [Giao Chỉ] của China” để khỏi lẫn với “Cochin của India” cho nên lúc đầu nó bao gồm toàn Đại Việt, lấn xa lên vùng phía bắc (bản đồ 1599,) và đến măi thế kỉ XVIII vẫn c̣n tên vùng Thượng/Haut Cochinchine chỉ phần đất phía bắc của Nguyễn so với vùng Basse Cochinchine ở phía nam. T́nh trạng phân biệt đó vẫn c̣n thấy trên bản đồ của Alex. de Rhodes (1650) với Tunkin / Đông Kinh và Cochinchina, có địa điểm HOA (Thuận Hoá/Huế) ghi thật lớn. Những dạng chữ khác nhau trên văn bản, bản đồ: Tonchino, Tonqueen, Tunkin, Tonquim/n… đó đều là dẫn xuất từ kinh đô Trịnh Lê của thời Lê sơ: Đông Kinh. Vẫn c̣n phần đất Ciampa phía tây nam Ran Ran (Đà Rằng, Phú Yên.) Tính chất chủ quyền phân hai rành rẽ trên phần đông bán đảo Đông Dương cũng được người ngoại quốc xác định với bản đồ 1751 có hai chữ Tonquim và Cochinchine đặt đúng vị trí của hai chính quyền Trịnh Nguyễn. Nhưng tất cả đều không ghi nhận được tiếng nói người dân thường chỉ vùng đối ứng với nơi ḿnh ở: Đàng Ngoài và Đàng Trong. Cho măi đến bản Đại Nam hoạ quốc toàn đồ xuất hiện ở Calcutta 1838, hơi muộn, của Taberd.

 

Tuy nhiên thật lấy làm lạ là trong từ điển của A. de Rhodes (1651) lại đă có ghi: Đàng Trong và Đàng Ngoài trong khi ở các bản tường tŕnh năm 1636, 1644 liên quan đến hai vùng, ông vẫn giữ các chữ Tungkin, Cochinchina. Chứng tích sớm hơn là từ Linh mục Gaspar d’Amaral trong thư 31-12-1632 ở Kẻ Chợ: “đàng tlaơ” (đàng trong,) “đàng ngoày” (“đàng ngoài” 1637.) Chỉ có thể giải thích sự khuất lấp chứng tích trên bản đồ là do nguồn gốc nội bộ của chúng, nguồn gốc “nôm” chưa được đưa lên b́nh diện chính thức, chỉ phổ biến trong nước mà thôi. Thế có nghĩa là ta có thể t́m thời điểm xuất hiện của chúng xưa hơn năm 1632. Li Tana cho rằng danh xưng là gốc Đàng Trong, và là vào khoảng 1620. Không thấy tên này trong sách của Ch. Borri 1621. Ta đoán là Bà đă nh́n vào thời điểm A. de Rhodes ra Bắc 1626 để nêu giới hạn trên.

 

Chứng tích về t́nh trạng Nguyễn muốn là “riêng biệt” xuất hiện trên văn từ sớm nhất là ở tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí 1719 của Nguyễn Khoa Chiêm: Họ muốn là “Nam triều” đối kháng với “Bắc triều” của Trịnh. Phương hướng, địa vực nam/Nam, bắc/Bắc rành rẽ như thế không cho thấy một ư thức lấy ḿnh làm trung tâm, ở “bên trong,” như gợi ư của Li Tana, bởi v́ chữ “đàng” đ̣i hỏi một cách nh́n về chiều hướng, và không có thiên kiến quy định một điểm xuất phát. Cũng v́ vậy mà vùng đất Trịnh Lê không thể tự gọi ḿnh là Đàng Ngoài được. Lí do thiếu sót có lẽ là v́ người ta đă chỉ dừng lại ở các danh từ chung đang sử dụng rồi t́m cách giải thích cho hai danh từ riêng kia chứ không chịu đẩy vấn đề đến tận cùng nguồn gốc lịch sử của chúng. Thiết tưởng ư nghĩa đó chỉ có thể t́m thấy khi ta trở lại với lối nh́n phương hướng cụ thể của người Việt những thế kỉ về trước, khi phải vươn tầm mắt ra ngoài vùng châu thổ. Và lẽ tất nhiên không tránh khỏi những chuyển dịch về sau.

 

Chứng tích lịch sử để lại rất nhiều và rất muộn cho thấy triều đ́nh, nhân vật ở Thăng Long đă nh́n các vùng đất phía nam châu thổ (theo cách nh́n ngày nay) là nằm ở phía tây, đối ứng với vị trí phía đông của họ, để phát sinh những cách ứng xử đă bàn nơi các chương sách trước. Một cách nh́n từ vị trí đẳng cấp trên trong xă hội như thế có thể chuyển qua trong lối nói hàng ngày, nơi sinh hoạt của tầng lớp dân chúng bên dưới. Phía tây chỉ là rừng núi âm u, nơi sinh hoạt của lớp cư dân man, lăo thấp kém như lớp người Lào, người Chiêm mà triều đ́nh Thăng Long đă cất công chinh phạt. Từ h́nh tượng bên trong rừng núi phía tây tối tăm, đối ứng với phía ngoài đồng ruộng rộng răi thênh thang nơi người dân nh́n thấy hàng ngày, đă phát sinh hai cặp đối ứng trong-tây, ngoài-đông trên đường di chuyển nam bắc của người dân Việt đương thời. Thế rồi một thời gian có chính quyền trung hưng trên đất Thanh Nghệ, và cũng từ đó họ Nguyễn xuất phát gây dựng sự nghiệp, khiến có một vị trí ở giữa để nh́n mà tuông đổ lực lượng xuống đồng bằng phía bắc, đi về phía nam, làm quân b́nh sự cân nhắc, phán đoán. Cho nên hai danh xưng “đàng trong”, “đàng ngoài” có thể đă xuất hiện trong thế kỉ XVI từ trong dân chúng, không mang ư nghĩa chính trị chênh lệch nặng nhẹ, phải trái rồi sẽ trở thành danh xưng khu vực sau khi người dân nhận ra có hai vùng đất thuộc hai chính quyền riêng biệt khiến cho cả người ngoại quốc đến nơi cũng phải gọi riêng là nước An Nam và nước Quảng Nam! Chính quyền Trịnh trong thế kỉ XVII c̣n vướng víu với sự hiện diện của họ Mạc nên phải chịu thêm một sự phân vùng khác mà G. d’Amaral có ghi: “đàng tlên” / Đàng Trên.

 

Một trăm năm đoạn tuyệt, nghỉ binh giúp cho các lănh chúa có cơ hội củng cố địa vị của ḿnh theo với t́nh thế và phương tiện có được, gần như không c̣n dính dấp với nhau nữa khiến cho đến khi “gặp lại,” Tây Sơn, một kẻ đại diện khác của Đàng Trong đă xưng hô với Lê, ông chủ danh nghĩa cũ của toàn vùng, một điều “quư quốc,” hai điều “quư quốc” mang tính xa lạ, đưa đẩy khách sáo, bày tỏ môt thực tế không những về quyền lực khác biệt mà c̣n thoáng vẽ ra một cách nh́n mới về nội dung đất nước: nước không c̣n chỉ thuộc về một ông vua như trước nữa. Quan niệm về sự thống nhất trong vương quyền Nho Giáo được xây dựng, củng cố trong mấy trăm năm đă bị thực tế phủ định. Ư thức của thực tế mới đó được Lê Chiêu Thống, sau khi Tây Sơn rút quân, nhận ra nơi cái “nước trống không,” không của cải, không quyền lực, nằm ngoài thân xác bậc Con Trời của chinh ông.

 

vua và chúa trong một trăm năm sinh tồn ở đàng ngoài

Đă nói, trong hai phần ba thế kỉ của thời ḱ đầu Trung hưng, đứng chân trên đất chiếm lại của nhà Mạc, chính quyền Lê Trịnh đă tạo dựng một h́nh thức quyền bính mới nhưng dựa trên các nội dung quan niệm cũ, có xê xích sửa đổi theo t́nh thế đ̣i hỏi. Họ bắt gặp các vấn đề mới phải giải quyết với nhiều cố gắng để giữ ǵn quyền lực bên trong nhưng sự thất bại cuối cùng lại đến từ bên ngoài vùng quản trị của họ.

 

Vẫn chế độ lưỡng đầu mà thực quyền về tay chúa với sự nhẫn nhịn của vua, tuy không phải là lúc nào cũng gh́m nén được. Thương nhân phương Tây cũng biết t́nh h́nh này nên khi có mang hàng đi biếu th́ vua hưởng ít hơn, chỉ được 2/3 của chúa. Chúa không thể làm vua th́ t́m cách đem con gái nhà họ Trịnh vào cung, có khi ghép cả gái lỡ thời như trường hợp hoàng hậu của Thần Tông. V́ vua có khi chỉ là cháu chúa nên tất nhiên Trịnh Tạc “được phép vào chầu vua khỏi lạy, chỉ bắt ghế ngồi bên cạnh.” Thế mà Trịnh Giang c̣n làm đảo lộn nhiều hơn các ông chúa khác: phế vua, lập vua rồi phế vua, giết vua.

 

Thật ra đó chỉ là những thời điểm nổi bật của t́nh trạng bức xúc khi chúa muốn làm vua mà không được, nguyên do có phần v́ lâu ngày lí thuyết, lí tưởng trở thành thói quen ứng xử, thành kiến khó gỡ bỏ khiến ngay cả chúa cũng phải dè dặt. Đă nói, Trịnh Tạc muốn các quan sau khi chầu vua, mặc ngay cả triều phục vào chầu chúa liền bị bác bỏ cho nên đến ông cháu chắt (Trịnh Cương) được Tham tụng Nguyễn Công Hăng xin mặc áo vàng liền từ chối, tuy với thời gian cầm quyền thực sự lâu dài ông cũng biết làm việc truất phế vua. Là phụ nữ, vợ Trịnh Doanh dễ dàng thấm nhuần thói tục / lí tưởng nên đă buộc con (Trịnh Sâm) không được ngồi cùng mâm với Thái tử Duy Vĩ mà không ngờ đă đem đến tai nạn cho ông này. Chúa nhường cho vua một vài h́nh thức quyền hành tưởng là hư vị, không ngờ trong t́nh h́nh quyền lợi có ít phải tranh giành gay gắt th́ danh vị lại vẫn c̣n có giá. Cho nên vua dự coi thi, ban phát bằng cấp cho cống sĩ, nhiều người vẫn sử dụng các tờ sắc “nội hoàng… đến hơn 1000 người” (Lê Quư Đôn) đó để luồn lọt thăng tiến, và đạt kết quả gây ra một chừng mực rối loạn trong tổ chức điều hành.

 

Chê trách danh vị quan lại đương thời, Tự Đức phê: “Tham tụng, bồi tụng là gia thần của Phủ Chúa, Thượng thư, Thị lang là vị hăo của triều đ́nh.” Đúng là các lệnh tổ chức cḥng chéo đă khiến cho quan chức thừa danh vị nhưng có vẻ như người ta cũng dành ra một sự phân công tối thiểu cho hệ thống hai tầng đó như chứng tỏ trong việc thu lạm, ẩn lậu thuế năm 1725. Nguyên người sai phạm bị Công phiên xác nhận có tội, lại kêu cầu quan chức Công bộ bác bỏ. Tuy cơ quan phúc thẩm cuối cùng đồng ư với bản án đầu tiên, quan chức làm sai phải tội nhưng điều dằng dai đó cho thấy h́nh như quan của Bộ, nghĩa là với danh vị của Vua, c̣n có chút việc làm phúc thẩm công việc thuộc quyền hạn nhân vật của Chúa. Trong vụ binh biến 1674, Ưu binh giết Bồi tụng, quan chức “xúi giục” có hai ông Thượng thư “làm trái sắc chỉ bị băi truất,” thế mà khi dẹp loạn xong, những người này được “khôi phục,” “lại được dùng” bằng cách tụt hạng, xuống Thị lang, gọi là để trừng trị! Như thế chức tước mang danh nghĩa của vua c̣n làm đà cho quan gây một ít ngang bướng với chúa, và c̣n mang chút uy thế để chỉ bị tụt hạng mà thôi. Cho nên bên dưới xa, người giàu có dư ruộng, cứ tưởng là hối lộ lên được đến cấp cao nhất, lại đem cung tiến cả hàng trăm mẫu để vua phải lập kho thóc riêng mang danh hiệu của ḿnh. Thực lực vật chất và danh vị của vua Lê đến đây được nổi lên – dù là nhỏ nhoi, cho đến khi gặp phải các ông chúa kiêu ngạo nổi giận. Như Trịnh Sâm bắt giam cả thái tử Duy Vĩ, không đợi đến lúc kẻ-ở-bậc-trên lên làm vua. Và bị đẩy đến bước đường cùng, năm 1738, một số hoàng tử nổi loạn, vượt thoát ngoài kinh thành để Lê Duy Mật trở về mở rộng căn cứ xưa của Nguyễn Kim, chống cự Trịnh đến hơn nửa thế kỉ.

 

Thật ra so với nhiều người cầm quyền khác, các ông chúa Trịnh không đến nỗi tệ hại như sử sách của kẻ thù họ vẽ ra. Nguyễn đứng trên quan điểm kẻ thắng cuối cùng không nói làm ǵ nhưng những người chống đối khác, mang danh hiệu “phù Lê,” cũng nh́n họ như một thứ tội đồ của lịch sử chỉ v́ họ là kẻ thất bại mà thôi. Công tích của họ tuy c̣n người nâng đỡ ghi chép nhưng địa vị tông tộc của họ rốt lại đă phải đi theo cái Phủ Chúa bị Chiêu Thống ra lệnh đốt tan tành năm 1787. Công b́nh nh́n lại, ta thấy không có ông chúa nào mà không xứng đáng với tính cách người thủ lĩnh cả. Họ giết nhau để giành ngôi hay giữ ngôi nhưng rơ ràng là thật tận lực trong địa vị lănh đạo đất nước. Trịnh Căn có một tuổi trẻ hư đốn theo lời gia phả họ Đặng nhưng đă len lách lên đến tột đỉnh bằng chính quân công của ḿnh trước khi chứng tỏ khả năng điều hành đất nước, dù rằng theo chứng nhân đương thời (W. Dampier) ông có “thể chất ốm yếu” và mang bệnh hủi (?). Trịnh Cương là người thi hành cải cách nhiều nhất, có căn bản nhất như cải cách thuế khoá 1723, h́nh phạt dưới thời ông cũng bớt phần tàn khốc (không chặt tay 1721, không xử tử xă trưởng ẩn lậu dân đinh.) Trịnh Giang bị lật đổ với cớ làm hư hỏng triều chính nhưng đó là khi ông ta đă đắc chí và mang bệnh hoạn, c̣n khi mới lên ngôi ông vẫn sử dụng Nguyễn Công Hăng để thi hành những cải cách lớn lao dù đă bị ông này chê nặng lời khi c̣n là Thế tử.

 

B́nh thường cứ mỗi ông chúa lên là một cố gắng gây dựng cơ đồ, vun đắp tiếp cho các công tŕnh về trước hay chỉnh đốn lại những ǵ sa sút của các ông chúa trước v́ cầm quyền lâu ngày nên trở thành giăi đăi, mỏi mệt, buông lung… Các ông chúa tuy phải diệt trừ người thân để nắm quyền nhưng họ cũng từng triệt hạ kẻ lộng quyền dù là thân thuộc, tay chân tin cẩn để bảo vệ cơ nghiệp chung. Trịnh Tráng đă chần chừ không lập người kế nghiệp là thuộc ḍng chúa Nguyễn v́ cốt để chuyển vào người xứ Bắc: Trịnh Tạc. Các chúa trừng trị xong là đến vỗ về: Chính Trịnh Cương khởi đầu làm thơ tiễn đưa sứ thần (1715 rồi 1718) mà dấu vết c̣n lại kèm theo nhân vật Nguyễn Biểu đă khiến ông Hoàng Xuân Hăn đặt sự việc vào đầu thế kỉ XV. Và cũng chính liên tục dưới đời các chúa đă ban phát những bài “giáo hoá” mà chi tiết là vào năm 1663, liên tục trong các năm 1676, 1710, 1751, 1760 như dụng ư giải tỏ vai tṛ thân cận, không để dân chúng Đông Kinh nghĩ tới gốc vùng Thanh Nghệ – Tây Việt xa lạ của họ nữa. Tất cả lịch sử làm chúa của Trịnh không cho thấy họ mắc vào t́nh trạng của các triều đại chỉ hưng khởi với vài người mở đầu rồi tiếp theo là những con người bạc nhược yếu đuối, đam mê hưởng thụ.

 

Di chứng đối kháng Tây – Đông Việt: Ưu binh và biến loạn

 

Trận chiến 1672 dữ dội cuối cùng rốt lại không thành công khiến cho Trịnh không c̣n mơ tưởng về mảnh đất phương Nam nữa. Ta đă thấy ảnh hưởng tàn bạo của cuộc chiến đi vào tâm thức của vài người lănh đạo ở Đàng Trong. Và tất nhiên t́nh h́nh đó không tránh khỏi xảy ra ở đất Đàng Ngoài tuy là dưới biểu hiện khác.

 

Với ư định thanh toán kẻ địch một lần sau khi đă an tâm và kiêu ngạo với chiến thắng phía Bắc (Mạc và con cháu chúa Bầu,) Trịnh Căn huy động đến cả trăm ngàn quân cho chiến dịch. Và đây là thành phần ưu tú của Trịnh Lê, đăc biệt dùng bảo vệ cơ nghiệp nhà chúa, nên quen gọi là Ưu binh, có nguồn gốc từ đất Tây Việt mà thời gian lâu dài trấn đóng vùng trung châu dù đến Trịnh Cương vẫn c̣n nhận ra (1721): “Từ lúc trung hưng, dùng binh lính Thanh Nghệ diệt giặc Mạc, khôi phục đất nước, rồi giữ luôn binh lính ấy đóng ở kinh đô để đủ số lính chầu chực và bảo vệ hoàng thành…” Chi li ra th́ cũng có chút phân biệt: “Thanh Hoá là ấp thang mộc…” cho nên W. Dampier nghe nói chúa Trịnh cất giữ một số tài sản lớn ở Tenehoa, trong một bể chứa lớn đầy nước (?), bố trí nhiều quân lính canh giữ dưới quyền “một viên thái giám tầm cỡ của triều đ́nh.” Trong lúc đó th́ “Nghệ An là dân ứng nghĩa…” (Trịnh Cương 1724,) lại cũng được Dampier xác nhận lời chúa: “Tỉnh Ngean là nơi sinh ra nhiều người ham ăn và ăn khoẻ nhất nên thường có nhiều người được mộ lính…” Cho nên tuy quân đó được gọi là quân Tam phủ (của Thanh Hoá) nhưng nói chung th́ lính Thanh, Nghệ vẫn là cùng một hệ thống binh dịch và quyền lợi. Với thành phần, công dụng riêng biệt như thế th́ dưới mắt người ngoại quốc, loại Ưu binh “xấc xược” này trông như một đoàn quân chiếm đóng thật không sai.

 

Tất nhiên trong t́nh trạng mở rộng khu vực quản lí th́ thành phần lính đó không đủ cho sử dụng nên phải tuyển thêm người trung châu theo nhu cầu cấp thời, được gọi là lính Tứ trấn của bốn trấn chung quanh kinh đô. Lúc cần th́ nhà nước tuyển mộ, hết việc th́ cho về làm ruộng (trường hợp đánh Cao Bằng 1664, sau khi đánh bắt Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương 1753.) Họ như là một loại lính trừ bị so với Ưu binh là lính hiện dịch. Quy định có sẵn cho nên sau chiến dịch 1672, việc giải tán lính Tứ trấn đă không xảy ra biến cố ǵ. Nhưng với thời b́nh th́ thành phần lính Thanh Nghệ kia là dư thừa thấy rơ. Sử quan Trịnh Lê cố lấp liếm sự việc Ưu binh nổi loạn năm 1674, và cả sử quan Nguyễn cũng không nhiều lời. Chúng ta chỉ biết đại khái “Ưu binh Thanh Nghệ cậy có công lao, sinh ra kiêu ngạo phóng túng, (Bồi tụng Nguyễn) Quốc Trinh, (Tham tụng Phạm) Công Trứ bàn cách ḱm hăm ức chế bớt đi, v́ thế binh lính không bằng ḷng.” Thế là họ đón đường giết Quốc Trinh, kéo nhau phá nhà Công Trứ. Công việc trừng trị của Trịnh Tạc cho ta thấy phía Chúa không có đường lối đối phó nào ngoài cách phủ dụ bằng tiền bạc với lính, nhẹ tay với quan triều, như e sợ sự liên kết của hai tập đoàn này. C̣n về phía binh lính th́ sự phản kháng cũng chỉ mang dấu vết ô hợp, chưa đủ là mối lo sụp đổ quyền bính.

 

Tuy nhiên sự việc cũng khiến chúa Trịnh thấy phải cải cách quân đội, mọt mặt để chia bớt trách nhiệm của Ưu binh mà cũng là bớt áp lực từ phía này trong lúc vẫn phải giữ sự ưu đăi dành cho họ. Trịnh Cương ra quy định (1721) lính Tứ trấn cũng là một thành phần hiện dịch như Ưu binh. Sự lựa chọn đỡ đè nặng một phía hơn: Dân ở bốn trấn vốn chỉ chịu 1 lính cho 5 đinh, nhờ thế mà Thanh Nghệ cũng được hưởng phân suất đó thay v́ lấy 1 lính từ 3 đinh như trước. Tuy nhiên Ưu binh vẫn lănh lương nhiều hơn lính Tứ trấn. Những quy định, hành động tiếp theo có vẻ như muốn đẩy địa vị thành phần này lên tầm quan trọng mới, v́ ngoài việc ban cấp và trông chừng thi hành việc cấp ruộng cho lính Tứ trấn c̣n có việc thành lập 6 quân doanh như muốn thống nhất quân đội (1722) và có lễ duyệt binh trọng thể cho lớp lính mới này (1724). Vô t́nh mà một lực lượng đối trọng với Ưu binh đă thành h́nh.

 

Công việc cải cách không được thuận lợi suôn sẻ v́ giới hạn phương tiện Trịnh có được. Nhu cầu cai trị bằng sức mạnh khiến Trịnh dù không phải là Mạc cũng phải thi hành chính sách cấp ruộng cho lính như Mạc. Nhưng đem ruộng công cấp cho lính th́ “dân không có ǵ để sinh nhai” như lời tâu của quan đương thời (1733). V́ thế mà từ năm 1727, lính Tứ trấn có tên riêng là Nhất binh do lẽ hạ tiêu chuẩn chọn lựa: cứ 10 đinh mới tuyển 1 lính. Nhà nước do đó lấy ít lính, bớt được số ruộng phải chia cấp. Có những chủ trương thụt tḥ, bỏ tuyển lính, lấy thêm lính chứng tỏ sự bối rối của nhà cầm quyền trước nhu cầu trị an cấp bách và phương tiện thực hiện. Người ta phải lập phép Đoàn kết, tổ chức Hương binh, bắt làng xă tự lo việc an ninh để triều đ́nh không phải chịu tổn phí về sinh hoạt, vũ khí. Nhưng loạn càng lớn th́ rốt lại vẫn phải cần đến Ưu binh cho nên Trịnh Doanh thay Trịnh Giang liền tuyển thêm Ưu binh (1740). Vấn đề thành ra trở lại như cũ với sự đe dọa chực chờ qua năm tháng.

 

Trịnh không giữ yên được vùng trung châu v́ nhiều lí do, trong đó có lí do ngược đời là v́ chính những cải cách muốn đem đến ổn định bằng các thể thức pháp chế rành rẽ, gây ra. Đă nói, phép B́nh lệ của Phạm Công Trứ đề ra năm 1664, trong buổi đầu giúp Trịnh thu thuế, bắt người nhưng theo với thời gian, và nhất là khi thời b́nh trở lại th́ một chính sách “gọn nhẹ,” biếng nhác như vậy lại cho thấy những khuyết điểm lớn lao.

 

Kết quả b́nh định ở biên giới phía bắc giúp cho Trịnh Căn kiểm tra địa vực dưới quyền bằng cách lập sổ Tu tri (1694) ghi chép địa phận các làng xă với chi tiết bên trong, như một loại bản đồ viết, tập họp lại có thể thành một thứ địa chí đến từng đơn vị hành chính nhỏ đương thời. Nắm được tổng số lượng điền sản qua kiểm tra, Phủ Liêu liền thi hành chính sách quân điền, ít ra là theo cách thức đời Hồng Đức một chừng mực, tưởng rằng có thể tạo được sự ổn định cho việc nuôi dưỡng sức dân. Tuy nhiên thực tế đă không được như xưa. Phan Huy Chú về sau nhận xét về lệnh phong cấp 1711 này: “Sơn Nam Hạ nhiều ruộng đất công, làm được. Các nơi khác không có mấy, có nữa th́ cũng đủ cho cung cấp binh lương, ngụ lộc, không thể nào chia cho các hạng được.” Ấy thế mà Trịnh không thể buông bỏ thân thuộc, những người phục vụ ḿnh, vẫn phải giữ việc cấp ruộng cho họ, cấp dân nuôi họ, càng lúc càng nhiều thể loại đến mức người thụ hưởng chỉ đành dừng lại ở tờ lệnh mà thôi. Nói như Lê Quư Đôn: “Hộ phiên phát chế lộc, ngụ lộc cho các quan, từ một hai đến hơn 10 xă, người được ban cấp tự thu lấy.” Ông đă so sánh t́nh trạng này với ngày xưa, theo t́nh h́nh thực ấp giả định, và thật phong chỉ đúng mức độ hưởng thụ, nhưng rơ ràng là thực tế đương thời c̣n hỗn loạn hơn. Chính sách quân điền 1711 không hẳn đă được thi hành rơ rệt v́ các năm 1712, 1713 tiếp theo là những năm hạn, lụt, “chết đói đầy đường.” Cho nên từ đó ta có thể suy ra tại sao cứ liên tiếp có các tờ tâu về các cường hào, các nhà quyền quư lấn lướt dân lành, đồng thời lại có những tấm bia ca tụng các đại thần, các ông thái giám, bà cung tần rộng răi khoan thứ cho dân làng, đến cả việc chia lại ruộng đất cho làng, đem cúng hậu nơi chùa – một số trường hợp “rộng răi” đó chỉ là do thực tế người thụ hưởng không có cách nào lấy được phần đă ban cấp trên giấy tờ kia. Ai vụng về, kém thế hơn nữa, không biết “tự thu lấy” th́ như Tham tụng Nguyễn Viết Thứ đầu thế kỉ XVIII, khi chết đi “nhà thanh bạch,” chúa phải trả nợ giùm trong lúc nhiều người phất lên giàu to vào thời ấy, cả đến một viên huyện thừa thấp thỏi mà cũng có ruộng, có tiền hiến cho chùa.

 

Thật ra không phải chỉ có những sơ hở ngay từ trong chính sách mà chính các lệnh ban hành cho thấy tính chất hối lộ đối với tầng lớp trên không phải là một tội phạm. Lính, như một tầng lớp có chừng mực cao hơn dân thường, thế mà đi lính phải nạp tiền cho công quỹ, lính (hẳn là Ưu binh) vào hầu gần với chúa th́ nạp tiền càng cao (Phan Huy Chú.) Đặt thuế mới, ví dụ thuế muối th́ muốn có giấy phép kinh doanh, ngoài lễ vật trọng hạu cho người nhà nước / “giám đương,” c̣n phải có lễ vật dâng lên chúa. Cho nên không lấy làm lạ là Lê Quư Đôn lấy tiền thu được trong ḱ thanh tra ở Thanh Hoá (1771), cũng như từng lấy tiền nạp kiện của dân chúng đem cung đốn cho Trịnh Sâm để tiến thân (“người làm quan không có lương bổng thường xuyên, bổng lộc phải trông vào việc kiện tụng,” Cương mục 1746) – ông Lê chỉ khôn ngoan hơn người khác, hơn những kẻ v́ giữ riêng cho ḿnh nên gặp tai vạ khủng khiếp mà thôi.

 

T́nh trạng bất lực trong quản lí thấy rơ ở những lệnh trái ngược nhau như nhận định 1723 về việc thi hành “b́nh lệ” mà c̣n phải nạp “(thuế/tiền) ngoại ngạch, khoa điều, sai phái nặng gấp hai thuế chính ngạch.” Xác nhận (1729) “dân nghèo phiêu lưu ngày càng khốn khó” thế mà “hộ trú ngụ th́ nhà cửa vững vàng… bọn tạp lưu th́ của cải đầy đủ…” Nhưng cải cách th́ lại gây ra xáo trộn mới khiến phải huỷ bỏ (lệnh 3 năm làm sổ đinh một lần 1722 lại trở về với quy định 12 năm một lần 1730,) hay phải có những biện pháp xoa dịu. Đánh thuế đồng và muối (1720), thuế buôn, lấy 1/40 giá trị hàng chở trên thuyền qua lại sở tuần ti (1723). Thế rồi thuế thổ sản phải băi bỏ (1732) v́ người nộp thuế sơn chặt cây, người nạp vải lụa ngừng dệt, người khai thác gỗ, tre bỏ nghề, người bị thu thuế mật không chịu trồng mía; v́ thuế bông thuế chè mà vườn tược bỏ hoang… Nhân vật được sử quan cho là chính yếu trong các cải cách về thuế khoá, thi cử, chấn chỉnh quan trường, cả đến việc đề nghị phê phán quan cai trị… từ khi Trịnh Cương lên là Nguyễn Công Hăng – Lê Anh Tuấn ở mức độ cũng quan trọng nhưng có vẻ thấp hơn. Thế mà sau những cải cách, sử quan lại cho rằng “Nguyễn Công Hăng thay đổi phép tắc, chỉ chăm làm những việc phiền phức, dân phiêu tán có đến 527 làng… nhiều người oán ghét.” Không phải chỉ có quan chức mà cả sĩ tử, học tṛ (1728). Cho nên ông bị giết (1732) không phải chỉ v́ tội nói xấu, ngăn trở Trịnh Giang lên ngôi chúa lúc trước mà v́ tội để mả phát vượng khí, có nghĩa là tội từ những lời xúc xiểm của kẻ thù lúc các chính sách cai trị đă hết tác dụng, bắt đầu gây ra khủng hoảng mới. Hai năm sau, Lê Anh Tuấn bị giết tiếp hẳn cũng cùng lí do chịu tội thất bại trong cải cách như người đồng liêu nhiều nhiệt t́nh kia. Các ông này chịu rủi ro hơn một người đồng liêu khác về sau: Lê Quư Đôn.

 

Cải cách thất bại, rối loạn tiếp theo càng nổi rơ hơn trong t́nh trạng người cầm đầu suy nhược. Vớí bề mặt ổn định tương đối do các cải cách đưa đến, cùng lúc tổ chức chặt chẽ hơn thêm với sự tập trung quyền hành qua tổ chức Giám ban, Trịnh Giang bắt đầu hưởng thụ. Nhưng do đó ông cũng tuỳ thuộc hơn vào kẻ thân cận khiến uy tín sút giảm đi theo với bệnh tật phải buông bỏ quyền hành. Rối loạn ở bên ngoài, trước nhất là từ nhưng vùng xa. Các vùng ngoài trung châu không an toàn khiến cho quan cai trị chỉ điều hành từ xa, phó mặc cho các phụ đạo có khi nổi dậy hoặc chém giết lẫn nhau. Con cháu họ Mạc lẻn về cũng từng chiếm được Cao Bằng, nên Nguyễn Công Hăng được đưa lên vùng “béo bở” đó như một ân sủng, lại từ chối “chỉ muốn ở bên cạnh chúa” mà thôi! Các nhân vật nổi loạn thất bại ở trung châu chuyển về hoạt động trên vùng thượng du như Nguyễn Diên của phe Ninh Xá, có kẻ đă tồn tại đến cả đời con như trường hợp Hoàng Công Chất – chữ lót “văn” dùng cho tên “giặc cỏ” ở Sơn Nam này đến đây đă chuyển thành “công”/Ông khi hùng cứ cả vùng tây bắc. Đó là chưa kể Lê Duy Mật đứng chân trên vùng Trấn Ninh xa hơn.

 

Những dấu hiệu nổi loạn cứ càng ngày càng to rộng hơn theo với đà suy nhược của nhà cầm quyền. Muốn làm đối trọng đồng thời phụ giúp với Ưu binh th́ người ta lập Nhất binh như đă nói. Phép Đoàn kết, tổ chức một loại hương binh tuy có kết quả bất ngờ là giúp cho họ Trịnh làm việc đảo chính cung đ́nh, thay thế Trịnh Giang, cứu văn cơ đồ nhưng lại cũng tạo ra t́nh trạng mất an ninh khác v́ đă trao vũ khí vào các toán người, có lúc thực sự trở thành trộm cướp mang danh nghĩa chính quyền. Loạn từ nhỏ ra lớn, chứng tỏ ở trường hợp những người xuất hiện ban đầu không có họ mà chỉ có tên trống trơn. Tế, Bồng nổi dậy, làm đà cho người đầy đủ tên họ: Nguyễn Danh Phương đánh chiếm một vùng núi Tam Đảo cả mười năm trời. Người nổi dậy cũng không phải là “nông dân” thuần tuư, như nhóm Ninh Xá (1739) có bậc tôn trưởng là Nguyễn Mại, đỗ tiến sĩ, chuyển qua làm quan vơ, trấn thủ Cao Bằng, Sơn Tây (1715) mà danh tiếng được gián điệp Nguyễn đưa về tận Thuận Hoá. Sử quan Nguyễn gọi nhóm Ninh Xá là “nghĩa quân,” được Tự Đức khen “đúng” hẳn không phải chỉ v́ chống đối họ Trịnh mà mọt phần chính v́ dính dấp đến ông quan trấn thủ được họ khen là “có sức mạnh, trí lực, có tài về chính trị” này.

 

Mối liên hệ giữa những kẻ nổi loạn và chính quyền cũng không phải là hoàn toàn cắt đứt. Tuy nhóm Ninh Xá đúc tiền riêng “Ninh Dân thông bảo” với thâm ư lập triều đ́nh khác nhưng họ dựng cờ Phù Lê, c̣n Nguyễn Tuyển lại từng là gia khách của Hoàng Công Phụ – điều này đă khiến Phụ xuất quân định phủ dụ giặc, bất ngờ để trống phủ Chúa cho Trịnh Doanh lên ngôi. Kẻ nổi dậy khi yếu thế, nếu chịu đầu hàng th́ cũng t́m được mối liên lạc đến cả vợ chúa Trịnh, như trường hợp Nguyễn Danh Phương được dung túng, “nghiễm nhiên lập một nước đối địch” trong 10 năm trời. Có kẻ được phong chức tước cao như Nguyễn Hữu Cầu làm Hương Nghĩa hầu (1746), kể cả “giặc cỏ” Hoàng Văn/Công Chất cũng được chiêu dụ theo lời hứa “trao quan tước, chiếu theo từng địa điểm mà cho cai trị.” Những kẻ cầm đầu này khó có thể làm hàng thần lơ láo nhưng những người ở cấp thấp th́ dễ dàng chịu khuất phục, như nhóm con cháu Đinh Văn Tả (tướng b́nh định Cao Bằng,) Hoàng Phùng Cơ. Họ sẽ nổi bật thành nhân vật cần thiết khi những kẻ khác lẩn tránh, như lúc Tây Sơn ra Bắc. Rồi cũng có trường hợp ngược lại như tay chân của Hoàng Ngũ Phúc lại trở thành cướp, hẳn cũng giống như những người của thành phần “chí nguyện binh” tuyển mộ đánh giặc mà Trịnh Doanh cho giải tán khi chỉnh đốn quân đội (1740).

 

Quan, cướp lẫn lộn như thế nhưng họ Trịnh gặp thành công chỉ v́ sự chống đối đă diễn ra ngay ở vùng có quan hệ đến sự tồn vong của ḍng họ nên phải cố gắng ổn định t́nh h́nh. Trịnh Doanh đă thấy “vùng Đông Nam là nơi đẻ ra của cải, thuế khoá của quốc gia” nên tự điều khiển quân tướng, linh động sử dụng người, không nề hà gốc gác quan văn (Phạm Đ́nh Trọng,) lính trơn (Nguyễn Phan,) kẻ đầu hàng, cả người tuy thân thuộc nhưng khởi đầu chỉ là kẻ cơ hội (hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc)… Ông cũng không bắt tội Phạm Đ́nh Trọng không nghe lệnh chiêu dụ Nguyễn Hữu Cầu, bỏ qua việc Đ́nh Trọng tổ chức quân ngũ riêng, không biết có phải bằng tiền vay liều rồi hi vọng quỵt nợ nếu thành công như trường hợp Hoàng Ngũ Phúc nghe lời anh quân sư khách buôn hay không. Quân nổi loạn dù sao cũng là ô hợp như nhóm Ngân Già tuy hung dữ, xông trận vác dao chém bừa băi nhưng không có đồn luỹ, chỉ dựa vào nơi bùn lầy hiểm trở. Trong lúc đó quân lính của Trịnh vẫn có tính chất chính quy, trang bị súng ống như thấy qua bằng chứng ngoại nhân, trong các lệnh thu mua diêm tiêu trên vùng thượng du, thuốc súng của khách thương ngoại quốc ở Kinh thành, ở “phố Lai triều” / Phố Hiến. Rốt lại Trịnh Doanh cũng qua được thời ḱ nguy khốn những năm 1740-1741, chận Lê Duy Mật, Nguyễn Danh Phương từ xa, phá quân Ninh Xá, Ngân Già, mở rộng khu vực an ninh, giải toả áp lực quân nổi dậy sát kinh thành để tiếp tục chinh phạt Nguyễn Hữu Cầu trên vùng biển xa, rồi diệt trừ Cầu và Nguyễn Danh Phương cùng một lúc (1751), dành cho Trịnh Sâm thanh toán Hoàng Công Chất (1769), Lê Duy Mật (1770) về sau.

 

Nhưng Trịnh Doanh cũng không thể vượt thời đại của ḿnh. Lời phê của Tự Đức là khá oan uổng: “(Doanh) cũng không phải là người giỏi.” Tuy đă giải tán giám ban để xoa dịu các quan văn vơ phải xấu hổ khi thấy bị ghép ngang hàng với người thiến, nhưng Doanh vẫn phải dùng thái giám cầm quân đánh giặc, vài người bị đặt vào thế đứng ở hàng đầu nên càng lúc càng tỏ ra xuất sắc như Hoàng Ngũ Phúc, tuy có người gặp rủi ro như Hoàng Công Ḱ. Muốn có tính chính danh, Doanh để cho quan triều lo việc thuế má nhưng rốt lại cũng phải giao vào tay nội giám (1755). Thiếu tiền cho nhu cầu quân bị, ông phải thu thuế Gia tô chồng lên thuế chính thức (1742), vẫn phải cho bán quan mua tước ngay lúc mới cầm quyền (1740), rồi thêm một lần nữa trong tám năm sau, không khác chính sách của Trịnh Giang (1736), người bị lật đổ. Cải cách thi cử cũng là dịp cho nhà nước kiếm tiền chi phí quân dụng: Ai nộp ba quan th́ được miễn khảo hạch và vào trường thi ngay, cho nên đến ngày thi, học tṛ xéo lên nhau, có người chết (1750). Hiện tượng làm mất mặt chính quyền về chính sự hănh diện trí thức của cơ cấu quyền lực đó, cần thiết đến nỗi sau khi băi bỏ ba năm sau lại phải tiếp tục năm 1765.

 

Thiếu tiền nhưng thực tế lại cần phải có sự lựa chọn. Dù có quân phù trợ, hương binh, chí nguyện binh, thực sự đăt vệ binh ở Tứ trấn nhưng rốt lại vẫn không thể lơ là với quân Ưu binh cốt cán. Ngay cả khi thấy chiến trận ở vùng sông nước cần thành lập quân thuỷ, người ta vẫn đặt Ưu binh chen vào làm ṇng cốt. Cho nên dù các nơi khác c̣n giặc, chỉ mới dẹp xong Ngân Già, Ninh Xá, triều đ́nh vẫn phải tính việc thưởng công, thế là Ưu binh nhân dịp đ̣i quyền lợi, đ̣i được tính thêm quan tước ngoài lượng ruộng được chia phần. Lại cũng như lần trước xa, họ không thấy thoả măn nên kéo nhau đi đốt nhà Tham tụng Nguyễn Quư Cảnh, lùng t́m người để giết (1741).

 

Sử quan Nguyễn cho rẳng: “Ưu binh kiêu ngạo, hung hăn đă thành thói quen, không thể nào kềm hăm được.” Không thể nào kềm họ được nhưng chính họ cũng chỉ là một lực lương quấy đảo không đủ sức lật đổ triều đ́nh như chúng ta lại thấy họ xuất hiện lần nữa trên chính trường vào hồi tranh chấp cuối đời (1783-84) với hành động hung bạo hơn: phế chúa, lập vua. Bản chất họ là một tầng lớp tay sai, đứng trên dân thường một bực v́ có ruộng ở mực ưu đăi, lương trên cả lính Nhất binh, nhưng họ cũng phải nạp “tiền vọng” cho triều đ́nh khi được/bị tuyển mộ, tiền đó hẳn là xén vào số lương lính của họ. Lại thêm những quy định phải nạp tiền vọng “và các tiền khác (?)” khi muốn vào những vị trí hầu cận cao hơn. Cho nên dù là Ưu binh, vẫn có lính trốn. Quyền lợi nhiều có vẻ là ở những cấp bậc chỉ huy Cơ, Đội của họ theo lối quy định cấp chung cả (một/nhiều) xă cho đơn vị để lấy lương mà lại đă có định lượng cho từng người một – phần thừa ra hẳn thuộc về những người chỉ huy. Cuộc biến loạn năm 1741 đ̣i thưởng quan tước theo số dân của xă là để làm tăng phần thưởng, nhưng cũng chỉ sẽ về tay những người chỉ huy. Lính trơn vẫn bị gạt ra bên ngoài. V́ thế chúa Trịnh tuy gặp khó khăn vẫn trấn áp được Ưu binh, c̣n các ông quan triều, nếu không trốn chạy vào phủ chúa để khỏi bị giết th́ lại núp sau lực lượng địa phương bị bạc đăi hơn: lính Tứ trấn, như trường hợp Nguyễn Khản / Nguyễn Lệ (1784). Những mâu thuẫn địa phương sâu sắc vẫn c̣n thể hiện qua những dịp biến động lớn dù rằng nhiều trăm năm đă trôi qua.

 

Những đổi thay đồng thời với biến loạn

 

Những thông tin về t́nh trạng nổi dậy, mất an ninh xă hội lúc nào cũng vẫn thường được ghi chép, không cứ ǵ phải đợi đến ngày nay với kĩ thuật tinh vi nhanh nhạy, với quan điểm “chống phong kiến áp bức.” V́ cứ theo đà lôi cuốn của định kiến mà khi sử quan Nguyễn chép hai sự kiện “không mưa,” “được mùa” của năm 1728 có vẻ trái ngược nhau liền bị Tự Đức gằn giọng. Thật ra th́ không ai khác hơn dân chúng cảm thấy t́nh h́nh như thế nào để than văn hoặc hưởng thụ trong cuộc sống ngắn ngủi của họ. V́ sự tồn vong của chính ḿnh, Trịnh cũng phải có các biện pháp cứu chữa: chẩn cấp cho dân đói, tha thuế, lực dịch, phủ dụ cho dân yên ổn làm ăn. Cho nên ngay dưới đời Trịnh Giang, giữa những ḍng sử kể về sự truỵ lạc của Giang, về khổ nạn dân chúng phục dịch, ta vẫn thấy sử quan chen vào những ḍng ngắn ngủi “Lúc ấy nhân trong nước thái b́nh…” Đói rét tuy có thể là nhân hoạ nhưng vẫn là do thiên tai mà khả năng con người đương thời không chế ngự được. Người dân vốn quen sống chịu đựng, nhẫn nhịn lại phụ thuộc vào sự tuần hoàn thiếu/đủ của chỉ một mùa, một năm ngắn ngủi nên “đói” đó rồi lại “no” đó là chuyện b́nh thường. Lại có những sự kiện đổi thay thật quan trọng nhưng sử quan ở tầng lớp trên không quan tâm tới nên để chúng, hoặc ch́m lấp đi hoăc lạc vào những loại “chuyện kể” lệch hướng. Ví dụ trường hợp nhập khẩu một loạt các loại cây mới: bí đỏ, bí rợ / bí ngô, mè/vừng, đậu phông / lạc, và cây bắp/ngô vào Đại Việt.

 

Trước hết, ngày nay c̣n có hai từ khác nhau dành cho mỗi loại cây lương thực này, có thứ vốn từ gốc châu Mĩ, chắc chắn là khởi đầu xa qua những thương nhân Tây phương, (đậu phông có dấu vết vào Trung Hoa năm 1682, cây mè vào đầu thế kỉ XVIII) đă đi vào Việt Nam, riêng rẽ đến hai vùng có hai chính quyền khác nhau nên mới mang hai tên khác nhau. Ở Đàng Trong, một loại được gọi là cây/trái “bắp” chắc là theo h́nh tượng cơ bắp của con người. C̣n ở Đàng Ngoài th́ chữ “ngô” lại cho thấy gốc gác địa phương chuyển dẫn trực tiếp: Đó là từ Trung Quốc, nơi có Ngô Vương Chu Nguyên Chương, trước khi trở thành người sáng nghiệp nhà Minh, đă gây ra sự nghiệp “b́nh Ngô” của triều đại đương thời. Lại cũng có thể tiếp tục trong tiềm thức, là nước Ngô (Việt) xa xưa mà người Việt in trí nhiều hơn với những truyện kể về Tây Thi, Phạm Lăi, hay nước Đông Ngô thời Tam Quốc tràn đầy trong tiểu thuyết dễ gợi nhớ… Truyền thuyết về việc nhập giống ngô vào Đàng Ngoài qua chuyện ông sứ thần giấu hạt trong lỗ đít (nên ngô không được dùng cho cúng tế) chứng tỏ sự chuyển tiếp không được suôn sẻ – không hẳn v́ lí do chính trị, v́ sự ngăn cấm của quan lại Trung Hoa mà có thể v́ thành kiến khó chấp nhận cái mới của người Việt.

 

Dù sao th́ dân Việt ở thế kỉ XVIII cũng được thấy thêm một loại cây lương thực ngắn hạn, quan trọng ngang tầm lúa – loại “lúa ngô,” không phải dầm chân trong nước mà vẫn phát triển qua những tháng không mưa, để được trồng trên những vùng đất cao, chỉ cần một chừng mực tưới tiêu. Sự thuận lợi đó nổi bật trên vùng trung du, rừng núi phía Bắc, hẳn là có tác dụng tích cực hơn đối với các tập đoàn thiểu số nơi này mà ta không mong ǵ được ghi nhận trong sách vở. Tóm lại, người dân thấy một vật phẩm cứu đói thần ḱ trong thế kỉ XVIII và các thế kỉ sau mà sử quan lại bỏ qua, để lâu ngày sự quen thuộc sẽ trở thành b́nh thường – tầm thường nếu có ai gợi lên, nhắc tới. C̣n hai loại cây hạt dầu kia hẳn đă giúp người nông dân khốn khổ Đàng Ngoài chịu đựng thêm qua những ngày mùa đông giá buốt, đói lạnh.

 

Chúng ta không rơ những người dân Đ̣ Mè / “thành phố Domea” trồng rau cải cho người Hà Lan trú ngụ ở đấy, có truyền đạt ǵ cho vùng trung châu hay không. Chỉ biết cây thuốc lá, mà Lê Quư Đôn biết gốc gác từ Philippin: “tạm-ba-cô,” thấy ở nam Trung Hoa, đến Đàng Ngoài qua ngả Lào (1660) được “quan, dân, đàn bà con gái đua nhau hút,” khiến cho hai lần lệnh cấm 1665 không mang lại hiệu quả. Sự mê đắm đó tập trung vào một dạng đặc biệt của cây mê thảo này với tên riêng: “thuốc lào,” thực sự thêm một lối giải trí ngoài rượu chè, cờ bạc bị cấm đoán, đă đem lại cho đám dân cực nhọc những giây phút quên lăng cuộc đời khốn khổ. Và cho cả những người của tầng lớp quan quyền một chút ảo vọng về con đường công danh gập ghềnh, có khi đầy cay đắng với những rủi ro bất thường từ sấm sét trên cao, cùng lúc với những xung đột kèn cựa từ các đồng liêu của nhiều nguồn gốc đào tạo, thăng tiến… Các chúa Đàng Trong có vẻ cũng không từ bỏ lạc thú này v́ cuối thế kỉ sau, chàng thanh niên Nguyễn Ánh, sau hồi vong gia thất thổ trở về dựng nghiệp ở Gia Định, đă có riêng một toán người đặc trách “hầu điếu.”

 

Đói rét vẫn có đấy nhưng những người có tiền của không phải chỉ là công hầu, quận chúa, quan chức. Họ giàu đủ có tiền để mua quan chức, nhiều lần. Người có tiền đông đến mức bỏ ra nạp tiền thông kinh (chưa kể những thứ dành sẵn cho những bước tiếp theo) để giày đạp nhau trong trường thi. Người ta có nhiều tiền, đủ để cho quan chức vay tổ chức quân binh dẹp loạn – một h́nh thức đầu tư khó thấy thu hồi vốn trong t́nh h́nh binh loạn dâng lên tứ phương, thế mà người ta vẫn làm! Số tiền đầu tư phi nông nghiệp dồi dào như thế gợi ư về một t́nh h́nh ối đọng tiền bạc mà khu vực ruộng đất không thu hút hết được. Bởi v́ ở đó vẫn c̣n một thành phần ruộng công to lớn mà nhà nước cố bám giữ để ban phát, duy tŕ quyền bính tuy rằng đă thấy tư nhân cố len lách chiếm giữ khiến nhà nước phải đề ra biện pháp lấy lại quyền lợi. Đó là t́nh h́nh dẫn đến quyết định đánh thuế ruộng tư của nhà nước Lê Trịnh trong thế kí XVIII.

 

Ruộng tư đă thấy xuất hiện trong sử sách từ các triều đại độc lập đầu tiên, v́ lí do giản dị là nó đă có mặt trong thời Bắc thuộc theo với tổ chức chính quyền ngoại trị. Nhà nước các triều đại đầu không đánh thuế ruộng tư v́ “muốn bớt gánh nặng cho dân” như Lê Tắc nói, tuy ông không dùng chữ “tư điền” rơ rệt mà vẫn cho ta hiểu như thế. Thật ra có thể hiểu sát sao hơn như ta đă nhận ra, là tính chất thu hoạch của nhà nước Lí Trần vốn dựa trực tiếp trên phần tư điền của ḿnh, gián tiếp trên phần của các hào trưởng, thủ lănh địa phương, nên không thể nào đi sâu sát từng mảnh đất riêng rẽ được. Với thời gian, Trần Hồ cũng đă mon men vào ruộng tư khi cho lập thuế đinh đánh luỹ tiến theo số ruộng thủ đắc. Phép quân điền đời Lê sơ thay thế sự quản lí thông qua tầng lớp hào trưởng lúc bày đă tàn tạ, bằng việc ban cấp, chia cắt cho một hệ thống quan chức, xă dân, đưa quyền bính trung ương đến tầng lớp thấp trong xă hội. Và t́nh h́nh chung là quản lí một số lượng lớn ruộng đất, tất cả gom góp lại theo nguyên tắc “đất trong thiên hạ là đất của vua,” không tranh căi. Nhưng khi quân quyền suy yếu, thế phân tranh kéo dài th́ sự thủ đắc chiếm đoạt lâu dài của cá nhân trở thành đương nhiên, vượt ra ngoài ṿng quản lí của nhà nước. Thời Trung hưng, như đă thấy, Trịnh cứ nhắc lại, lập các lệnh “theo thời b́nh,” như của thời Hồng Đức nhưng rơ ràng không thể hồi phục quyền lực như trước kia nên ruộng đất cứ vuột khỏi tay chính quyền càng lúc càng nhiều.

 

Phép B́nh lệ chủ yếu nhắm vào phần ruộng đất, dân chúng của nhà nước quản lí, căn bản của chính sách chung vẫn c̣n đó, những cải cách lẻ tẻ chỉ gây thêm phiền nhiễu mà nhà nước vẫn không thu được tiền của về trung ương. Thời gian 12 năm giữa hai ḱ kiểm kê / duyệt tuyển là thời ḱ “vô chính phủ” để hỗn loạn thành h́nh khó cứu chữa. Năm 1711 có lệnh cấm các nhà “quyền quư, hào phú” thiết lập các trang trại, nghĩa là những nơi không những mang mầm mống cát cứ mà c̣n tách rời quyền lực trung ương trên đất ruộng, trên dân đinh chịu sưu dịch nữa. Đă có những điều chỉnh phép B́nh lệ từ năm 1716, 1719 chia đều thuế khoá và lực dịch không phải chỉ nhắm vào t́nh trạng đinh suất mà c̣n nhằm vào sự thủ đắc điền thổ được đo đạc lại. Chính quyền biết rằng đă để lọt ra ngoài phần ruộng đất tư càng lúc càng lớn rộng theo với đà rối loạn xă hội thuận tiện cho việc đầu cơ. Đồng thời, lợi tức từ sự phát triển thương mại mang thêm giá trị cho hàng nội đă vào tay một số người để họ chuyển sang đầu tư vào ruộng đất theo với tâm thức chung của thời đại. Do đó, nhận xét năm 1723 về “những kẻ ruộng đất liền bờ… đều là hạng người được miễn trừ, không phải đóng góp,” đă dẫn đến việc đánh thuế ruộng tư năm 1728 tuy rằng cũng lại có những quyết định điều chỉnh thụt tḥ như đă nói.

 

Không phải ngẫu nhiên mà những nhà giàu đă xuất hiện vào thời gian sau lúc thi hành phép B́nh lệ. Lê Quư Đôn dẫn sách Trung Hoa, kể chuyện huyền thoại về cảnh tiền đồng nối đuôi nhau với cờ phướn bay suốt hai tháng từ châu Quỳnh (Hải Nam) đến “đất Giao Chỉ” rồi suy ra sự giàu có của một số người trong nước lúc đương thời, “vàng bạc tiền thóc kể đến hàng vạn, vườn đẹp ruộng tốt khắp mọi phương.” Và năm xảy ra chuyện “tiền bay” thật có ư nghĩa: 1699. Không phải những người này “tay trắng bỗng nên giàu to.” Sử ghi các năm 1702, 1703 dân đói phiêu tán, dù được miễn giảm thuế má, lao dịch nhưng đến năm 1708 vẫn chưa ổn định, và trong thời gian đó th́ Nguyễn Thị Thuyết, “Bà Bổi” của Lê Quư Đôn, đă nhân dịp năm 1703 đói kém, dân đói mà cho vay lấy lăi cùng bán thóc “mua” ruộng!

 

Trong những người giàu Lê Quư Đôn kể ra, tất cả đều thuộc tầng lớp thấp: huyện, (hương) cống, phụ nữ. Người ta c̣n t́m ra được tên một phụ nữ khác cũng dâng một số lượng ruộng lớn khiến vua phải lập kho riêng để chứa thóc thu hoạch. Ông huấn đạo phủ Thiên Quan (Thái B́nh) được lưu danh chỉ nhờ tấm bia (1738) tán tụng công đức của “bà vợ chính” mà thôi. Chúng ta không rơ những “Bà” này có lợi dụng được t́nh h́nh giao thương phát triển của thời đại với người Âu đến lập nghiệp hay không, bởi v́ tài liệu không nói đến. Nhưng với tính cách tần tảo của phụ nữ thường được ca tụng, như Bà Bổi được ghi trong bia 1720 là “nhà nghèo, chí thú làm ăn” th́ tuy không thấy tổ chức buôn bán của các Bà, ta cũng có thể nghĩ rằng họ đă gián tiếp hưởng lợi từ t́nh h́nh đó. Thêm nữa, những người giàu có cũng đều là dân Hải Dương, Sơn Nam Hạ, thuộc vùng đông, đông nam tích chứa của cải nhiều nhất nước. Đất ruộng của Sơn Nam Hạ có tác dụng trong chính sách quân điền đă được Phan Huy Chú nói đến. Các báo cáo của Lê Trọng Thứ 1742, Lê Quư Đôn 1774 cho thấy ruộng ẩn lậu vào tay cường hào địa phương rất nhiều. Khi quân Nguyễn chiếm bảy huyện ở Nghệ An được nhiều người Đàng Ngoài hưởng ứng th́ một dân nội ứng đoan quyết rằng Hải Dương mà không nộp thuế th́ chính quyền Trịnh đổ ngay. Chính Trịnh Doanh trong những lần khốn khó b́nh định vùng nổi dậy ở đông nam, cũng phải thừa nhận mục đích là để chiếm lại vùng “nhân dân đông đúc, sản vật phong phú… là đất Quan Trung, Hà Nội của nước nhà.”

 

Ở đây cũng là cửa ngơ ra vào của thương thuyền ngoại quốc theo một tuyến sông được gọi chung là La Rivière de Tonquin từ một cửa sông Thái B́nh đến tiền cảng Đ̣ Mè / Domea lên Phố Hiến trước khi đến Kẻ Chợ / Đông Kinh. Theo chính sách tách biệt với thương nhân phương Tây, triều đ́nh Lê Trịnh đă để cho người Hà Lan lập thương điếm ở Kinh thành (1637, đóng năm 1663 rồi mở 1665,) ở ti Hiến sát Sơn Nam Hạ thành tên Phố Hiến nổi danh ở Đàng Ngoài, như Hội An so với Đàng Trong. Người Anh cũng vào Kẻ Chợ mở thương điếm năm 1683. T́nh h́nh buôn bán thật ra không suôn sẻ như người ta mong tưởng v́ sự cạnh tranh giữa các công ti cùng mang tên Đông Ấn nhưng có cái đuôi theo quốc gia xuất phát: Hà Lan, Anh, Pháp. Họ cũng lại than phiền về sự hạch sách, đ̣i hối lộ của các bà phi, của quan quyền bản xứ tuy thật ra cũng nhờ đó họ vượt qua được những ngăn cấm, ví dụ với lệnh cấm lấy người nước ngoài mà một nhân viên Hà Lan trưởng chi điếm Kẻ Chợ (1663) đă có vợ Việt sinh ra người con lai Samuel Baron làm việc cho Anh năm 1672, trông coi thương điếm ở Phố Hiến năm 1678. Bà “me Tây” đầu tiên kia không phải thuộc ḍng thấp kém v́ từng đi ngoài đường với áo tía, thứ màu riêng dành cho công hầu, vương tước trong lệnh 1661 – sắc áo thấy cả trên ḿnh Trịnh Cương khi nhún nhường không nghe lời nịnh thần xin chúa mặc áo vàng! Và bà ta cũng chỉ là một trong những người khác, thay các thương nhân ngoại quốc, trụ tại chỗ, lẻ tẻ tung tiền gom mua hàng rẻ chỉ v́ dân chúng nghèo đói không đủ khả năng sản xuất nhiều, phải vay mượn, chịu đựng sự bắt chẹt của các me-Tây này, làm giàu cho họ theo nhiều cách. Làm “vợ” người th́ cũng có thứ bậc, thấp nhất là những người trong các làng “nấm” hợp rồi tan, bám theo chỗ đậu của thương thuyền, như ngôi “làng” phía thượng lưu Đ̣ Mè, ở đấy người ta dựng nhà cấp thời để xin xỏ, buôn bán lặt vặt, cho thuê pḥng, thuê người…

 

Việc buôn bán không đạt lợi nhuận khiến Anh bỏ đi năm 1697, trước người Hà Lan năm 1700, chỉ c̣n người Pháp bám trụ v́ ngoài việc buôn bán họ c̣n có mục đích truyền giáo để giành giật quyền làm Con cưng của Giáo hội nữa. Sự nhiệt thành trong hành động Tông đồ của người Pháp, người phương Tây nói chung không phải đă không có ảnh hưởng của việc bài đạo càng lúc càng mạnh: lệnh chính thức bắt đầu 1663, rồi gay gắt, bắt thích chữ vào mặt (1712), xử tử giáo sĩ… Văn chương Giáo hội đương thời – và càng nồng nhiệt theo thời gian, trong chủ quan của các người truyền đạo, cho thấy thật nhiều nhiệt t́nh cao cả của các dân tân ṭng từ người nghèo khó đến bậc quyền quư như Bà Maria, vợ Nguyễn Hoàng ở Đàng Trong. Tuy nhiên, cũng như tất cả những biến động lịch sử khác, sự cuốn hút theo Đức Tin mới không phải không từ những khía cạnh bên lề, xa lạ, cả đến từ những nguyên cớ rất tầm thường. Người ta theo đạo mới như theo một hệ thống thần thánh khác có uy lực hơn hệ thống cũ, chứng tỏ v́ nó là của những người ngoại quốc giàu có, sang trọng kia. Theo đạo mới là đổi xác thân, như câu hỏi khi Rửa tội: “Congno muon bau tlom laom Hoalaom chiam?” (Con nhỏ muốn vào trong ḷng Hoà Lan chăng?) W. Dampier (1688) đến Phố Hiến, nhận định rằng các linh mục nơi đây chỉ làm việc chuyển tiếp thần tượng cũ của dân chúng qua các linh vật, ảnh thánh của Giáo hội La Mă mà không đưa đến cho họ đức tin căn bản về Thiên chúa đúng như ư định lí tưởng về cải giáo. Từ sự phản bác đó, Dampier mới nhận thấy người theo đạo là theo tiếng chuông leng keng phát gạo vào lúc giáp hạt, và theo ông, cả những người cải đạo đă biết lần tràng hạt hay mang ảnh thánh, sẽ hờ hững ngay khi nh́n thấy ruộng đồng tốt tươi, sẽ không c̣n là con chiên như khi các linh mục ban phát đồ ăn thức uống cho họ trong cơn đói rách.

 

Ngoài sự xung đột tín ngưỡng, nhà nước Trịnh Lê c̣n không nhiệt t́nh với thương nhân ngoại quốc một phần cũng v́ chiến tranh với Đàng Trong đă chấm dứt từ 1672, triều đ́nh không có nhu cầu thiết yếu về việc mua súng đạn, hay lấy thế hù dọa đối phương nữa: Năm 1680 Trịnh c̣n đổi tơ cho Anh lấy đại bác nhưng năm 1689 khi Anh đưa chào hàng 20 khẩu, Trịnh chỉ lấy có 7 khẩu! Về phía thương nhân th́ thấy hàng hoá trong xứ không đủ cho việc trao đổi đều đặn, liên tục trong năm nên họ không cần giữ một trụ sở thường trực trong xứ. Họ chỉ “buôn hàng chuyến,” như thế họ tiếp xúc trực tiếp được với dân chúng, tuy không tránh khỏi hẳn nhưng lại bớt được tổn phí qua trung gian quan quyền. Do đó tuy rằng trên các tiểu sử để lại của những người giàu đă kể không có dấu vết giao thiệp với người ngoại quốc, ta vẫn nghĩ rằng họ có hưởng lợi từ những chuyến buôn với bên ngoài kia.

 

Họ Trịnh đánh thuế các món hàng ngoài danh mục cổ điển: thuế thổ sản, muối, kim loại chứng tỏ vẫn có một ḍng giao thương nội địa vừa với tầm mức sinh hoạt kinh tế trong nước. Câu chuyện tiền từ Hải Nam bay sang Đàng Ngoài phản ảnh t́nh h́nh buôn bán vào cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII của thương nhân Trung Hoa mang tiền đồng Trung Quốc trực tiếp trao đổi với sản phẩm của dân chúng nước Việt đem về nước họ, hay làm trung gian chuyển cho thương nhân người Âu. Các lệnh quy định cư trú cho khách buôn ở nhiều địa điểm cho thấy họ là người Trung Hoa, đồng thời cũng thấy có lệnh bắt buộc đồng hoá để bớt khó khăn trong sự kiểm soát những người này. Lại cũng không thấy dấu vết thương đoàn của người Việt trên vùng trung châu nhưng trong biến loạn 1786 lúc Tây Sơn ra Bắc, các giáo sĩ nhắc đến cơ nghiệp tan tành của đám Các lái xứ Thanh. C̣n người dẫn quân Tây Sơn ra Bắc làm đảo lộn cơ nghiệp nhà chúa là con nhà lái buôn xứ Nghệ, gia tư có cả hàng vạn. Có nghĩa là xứ Thanh Nghệ không phải chỉ cậy Ưu binh, mà c̣n có cả sức mạnh thương buôn từ thần, từ thế nữa.

 

Đă nói, t́nh h́nh giao thương ở Đàng Ngoài tuy không có tầm vóc quốc tế lớn rộng nhưng so với nội địa th́ những hoạt động trong thời Lê Trịnh đă phức tạp hơn ở những thế kỉ về trước. Điều đó chứng tỏ nơi các lệnh truyền nhắc nhở nhiều đến vấn đề tiền tệ. Thiếu tiền cho lưu thông, nhà nước cấm kén chọn tiền, phải đúc thêm tiền mà lệ thuộc vào các tiền hiệu Trung Quốc đang lưu hành nên “nhái” giả các tiền này khiến phát sinh những tên hiệu, niên hiệu quái gở làm đà cho những phóng tay bừa băi hơn nữa về sau. Nhà nước đích thân mở thêm ḷ đúc tiền ở địa phương, quanh các năm 1740 (tiền niên hiệu Cảnh Hưng c̣n lại rất nhiều, rất đa dạng) cho nhu cầu quân dụng rồi có lệnh băi bỏ năm 1753, lấy cớ tiền các trấn đúc quá lạm, mỏng xấu, chỉ giữ lại hai ḷ đúc ở kinh thành mà thôi. Thế là không thể ngăn được t́nh h́nh đúc lậu trong dân chúng cho kịp với nhu cầu lưu thông, và cũng bởi lí do người dân quen với lối kiếm lợi lộc dù là ít oi cũng vẫn nhảy xô vào.

 

Ngược lại, quyền lực trung ương có lúc không tới làng xă nên tuy thiếu tiền trong lưu thông mà vẫn có thể sinh chuyện thông đồng với thương nhân ngoại quốc qua trung gian người Hoa chuyên chở kim loại đồng, tiền đồng ra ngoài. Thông đồng xảy ra giữa thương nhân Quảng Châu, Macao với người Anh khoảng giữa 1707-1721, với Bồ, Hà Lan qua các sự kiện năm 1734, 1744, dù có các lệnh 1718, 1726 chận bắt các thuyền chở tiền lậu. T́nh h́nh tiền tệ rối rắm như thế nảy sinh sự phân biệt giá trị của hai cách tính đếm, hai loại tiền trong lưu thông: tiền cổ/quư, tiền sử/gián không những làm khổ thương nhân nước ngoài mà lại là căn cứ cho những chính sách thuế khoá, lương bổng, thăng thưởng… thấy trong các lệnh rối mù của nhà nước ở thế kỉ XVII, XVIII.

 

Nhưng chủ yếu v́ t́nh h́nh cơ bản của xă hội là nông nghiệp nên hoạt động của các nhà giàu kia mang tính đầu cơ ruộng đất rơ rệt. Tiền kiếm được chỉ dùng mua ruộng chỉ v́ không có lối thoát đầu tư gần gũi nào khác. V́ thế đă xuất hiện những làng đa số sống về nghề buôn bán, có khi chuyên trị một thứ hàng, mà vẫn là mang dáng làng xă chứ không có tính cách một đô thị. Thế mà lại có nhiều lí do khiến cho việc đầu cơ đất đai trở nên bấp bênh. Ruộng đất manh mún không thể tập trung để tạo quyền lực, mà có tập trung th́ cũng không tạo hiệu suất khá hơn v́ cách thức sản xuất vẫn không đổi. Có quá nhiều quyền lực nh́n vào để xâu xé ruộng đất, không chỉ từ trên cao của vua chúa, quan quyền mà c̣n ngay bên cạnh, ở các người bên trong làng xă. V́ thế người giàu có sau khi thu tóm ruộng nương lại phải chia ra: cung tiến là một cách hối lộ người trên, chia cho làng xă là cách hối lộ người xung quanh để bảo đảm an toàn cho phần ruộng dành cho con cháu, cho sự an toàn ở địa phương của chính bản thân những người này. Lập hậu cũng là một cách hối lộ làng xă thông qua việc hối lộ thần thánh để mua sự an thân có bảo đảm cho rằng đến cả đời sau. Cách điều chỉnh ruộng đất không mang tính tự nguyện, từ tâm như thế: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” đă tạo ra trong một lúc một t́nh h́nh quân b́nh tài sản tương đối trong xă hội, và đă chận trước được những biến động loạn li mà không ai thấy ra. Đồng thời về lâu về dài tạo ra một nếp sống loanh quanh xóm làng, bụi lúa, con trâu cho cả những người giàu có.

 

Tuy nhiên cũng không nên quên khía cạnh tích cực của các thế kỉ này. Nhà giàu bỏ tiền mua quan chức, nuôi binh lính đă góp phần vào việc ổn định cho chính quyền Lê Trịnh. Cả người góp chỉ có ba quan để đạp nhau đến chết trong trường thi cũng là theo đà mở rộng học vấn đương thời, và tiếp sức cho nó. Có chê trách t́nh trạng “học tủ” như ghi nhạn năm 1693 th́ đó cũng chỉ là kéo dài trong loạn li kết quả không tránh được của nền học vấn ba hoa, sáo rỗng nhắm vào thi cử mà Lê Quư Đôn cho là gốc gác từ thời Hồng Đức. Tuy nhiên, không có cái phong khí đua đ̣i đó và sự sung túc của một lớp người tiếp sức cho th́ không có cảnh Vũ Thạnh bị băi chức (1699) về nhà mở trường dạy học, “mỗi khi đến ngày giảng tập, nhà học không đủ chỗ chứa, học tṛ thường mượn thuyền nan cặp vào bên hồ (Bảy Mẫu) nghe lởi giảng dạy.” Trước ông ta có Nguyễn Đ́nh Trụ bị giáng cách, ‘dạy bảo… học tṛ cả hàng ngàn người.. thành đạt hơn 70 người.” Sử quan cho là “nhân rỗi việc” nhưng chúng ta thấy ra sự lạm phát nho sĩ đương thời đă đem lại một lớp thầy đồ cao cấp ở xóm làng. Lạm phát nhưng cũng là bức tường thành ư thức chống đỡ cho chế độ khỏi sự xâm nhập của những luồng tư tưởng khác, cụ thể vào thời này là sự rao giảng Đạo mới của người phương Tây. Có một điều mỉa mai là nếu Lê Quư Đôn không ăn của đút, chỉ sống thanh bạch như nhà nho “thực bất cầu băo” th́ khi chết đi may ra được chúa Trịnh trả nợ giùm chứ không đủ tiền mua sách do giao thương đem lại, để hiểu cả những vấn đề mới nhất thuộc loại “trái đất h́nh tṛn,” và đem ứng xử trong khi làm việc nước để thành nhà bác học như người ta ca tụng ngày nay.

 

Dù sao th́ sinh hoạt văn hoá dồi dào của Đàng Ngoài rơ ràng là nổi bật trong thế kỉ XVII, XVIII. Lê Hi làm Tham tụng “thiên hạ sầu bi” để lại tiếng xấu nhưng cũng là người hoàn thiện tập họp sử kí nhiều đời, của nhiều người đến nay mới được chính thức in ra lần đầu (1697). Ư thức và khả năng chất chứa sách vở của thế kỉ XVIII qua các vọng tộc Ngô Th́, Phan Huy, Nguyễn Tiên Điền, Trường Lưu… không những làm xuất hiện các sáng tác, biên tập của từng cá nhân mà c̣n làm nền tảng cho sự thành h́nh bộ Lịch triều hiến chương loại chí đồ sộ của thế kỉ sau nữa. Và có lẽ nhờ tầng lớp thương nhân phát triển đủ tạo một ḍng buôn bán sách vở mà một nền văn chương chữ nôm cũng thành h́nh nhuần nhuyễn cho đến chúa Trịnh cũng làm thơ nôm. Nhà nước có ngăn cấm th́ cũng phải ch́u theo thời thế để ông Tham tụng Nhữ Đ́nh Toản phải diễn âm quốc ngữ (1760) cho bản gíáo hoá bằng chữ Hán năm 1663 kia. Thơ quốc âm đă kể chuyện, phản ảnh thực sự tâm t́nh của người dân nước đương thời, không phải vướng víu v́ cái khuôn khổ chữ Hán văn vẻ nhưng dù sao cũng là xa lạ, kiêu ḱ… Ở thế kỉ trước người ta chỉ ra lệnh cấm truyện nôm “nhảm nhí” nơi lời Giáo hoá (1663) nhưng qua thế kỉ sau th́ có lệnh tịch thu sách “in ra để buôn bán,” lệnh trừng trị (1718) những người tàng trữ, nghĩa là người ta đă phải chống đối một phong trào lớn. Đặng Trần Côn viết khúc ngâm Chinh phụ hẳn là ảnh hưởng từ biến động những năm 1740 nhưng tiếng vang của những đoạn văn cổ ráp nối ấy chỉ vượt ra ngoài ṿng nho sĩ, rộn ră đến với dân chúng khi có những khúc diễn nôm tiếp theo. V́ thế những lời “tục tĩu” ở Bích Câu ḱ ngộ kí vẫn c̣n nằm trong ṿng khép kín của những người thông thạo chữ Hán. Nguyễn Gia Thiều có dáng “bạo” hơn nhưng vẫn c̣n chút dè dặt ngượng ngùng trong hồi tưởng văn vẻ của người cung nữ trong đêm động pḥng. Thử nghĩ nếu bản diễn âm Bích câu dịch trọn vẹn những lời kia? – Và đúng là nhà nho đă không dám làm thẳng chuyện ấy chỉ v́ động đến nền tảng đạo đức vẫn đang được đề xướng, cổ động cho lớp người đông đảo mà họ quản trị. Tất nhiên với người đời nay, nếu có một bản nôm như thế th́ họ lại thấy không có ǵ may mắn hơn v́ nhờ đó mà họ hiểu được một quá khứ chân thật hơn.

 

CHƯƠNG XIII:

 

MỘT TẬP ĐOÀN THÂN TỘC KHU VỰC – RỒI MỘT NƯỚC

 

 

Những người Tống Sơn: Năng lực mới trên những vùng đất xưa cũ

 

Sử quan Nguyễn nói về ngày ra đi của những người dựng nước ở Đàng Trong như sau: “… Mùa đông, tháng 10 (1558), chúa bắt đầu vào trấn Thuận Hoá… Những người bộ khúc ở Tống Sơn và những người nghĩa dũng xứ Thanh Hoá đều vui ḷng theo đi…” Tất nhiên không phải toàn là những người trung thành v́ đến cả thế kỉ sau, ngay từ bên trong ḍng họ cầm quyền ta vẫn gặp những người trở cờ. Ấy thế mà riêng biệt có ba người được kể ra (1559) trong “buổi đầu dựng nghiệp Đế” ấy: Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phúc Trị và Mạc Cảnh Huống. Nếu ta lưu ư đến sự nhấn mạnh ở tính chất khởi đầu th́ nhận ra ba nhân vật trên là đại diện cho tập đoàn người đơn lẻ trên vùng đất Thuận Hoá mà họ c̣n phải chứng minh và phát triển quyền lực. Nguyễn Ư Dĩ là ông cậu với vai tṛ truyền thống quan trọng, với chứng tích như đă thấy, là đại diện cho họ Nguyễn được trao quyền từ trung ương. Chính con cháu ông này đă b́nh định hai đầu nam (Quảng Nam 1571), bắc (Bắc Bố Chính 1630) cho họ chúa. Một họ Nguyễn gom lại chung cho cả hai phía nội ngoại đă mở rộng vây cánh ḍng họ cầm quyền khiến cho những người họ Nguyễn khác dễ dàng chịu nhận lănh quyền lực được chia sớt và chen vào ṿng thân thuộc.

 

Trong mối liên hệ với họ Nguyễn chúa, họ Tống có vẻ đă có địa vị đặc biệt quan trọng hơn là tính chất hợp tác, đồng hương khiến ta tưởng lầm. Tống Phúc Trị được ghi là đă trấn đất Thuận Hoá với tước Quận công, nghĩa là ngang hàng với Nguyễn Hoàng khi ông này đến nơi. Huyện Tống Sơn của nơi phát xuất được mệnh danh là “Quư Huyện,” “Quư Hương,” nơi của những “bộ khúc” đi theo – phân biệt với những “nghĩa dũng” của khu vực Thanh Hoá rộng hơn. Và họ Tống này đă liên kết thông gia với họ Nguyễn nhiều lần liên tiếp, rơ ràng với mục đích để sinh ra người nối nghiệp cho ḍng chúa, mà nếu dự tính không thành th́ vẫn có những biện pháp ngoắt ngoéo để trở về địa vị chỉ định. Bà Tống đầu tiên lấy con cả Nguyễn Phúc Nguyên, rủi ro chồng chết, ông cha thấy không c̣n làm ông nhạc của chúa liền bỏ đi đầu hàng Trịnh (1632), bà ta ở lại không sao cả, c̣n len được (1639) vào cung ông em chồng (chúa Thượng, Phúc Lan 1601-1648,) giữ liên hệ với họ Trịnh (1648), quyến rũ ông chú của Phúc Tần (Phúc Trung 1654) làm đảo chính. Đến lúc này, tập đoàn nhà chúa thấy ở trên bờ nguy cấp mới “sai quân dân phá nhà, lấy hết của cải,” giết bà đi – nghĩa là bà Tống kia không phải chỉ có một góc ở trong nhà chúa! Thế mà chúa Hiền Phúc Tần đó lại có vợ họ Tống sinh ra chúa Nghĩa Phúc Trăn (1649-1691) và ông này vẫn có vợ họ Tống (1651-1696) sinh ra Quốc chúa Phúc Chu. Điều ḱ lạ khác là với bước ngoặt đổi đời xưng Đại Việt Quốc Vương (1694), ông có bà vợ họ Hồ liền ban họ Tống cho ông cha vợ để có bà vợ họ Tống khác (1680-1716) sinh ra thêm một ông chúa khác có dáng thuộc ḍng Tống! Khi vị hoàng hậu kế tiếp của ông Quốc Vương thực thụ ở Đàng Trong (Nguyễn Phúc Khoát 1738-1765) mang họ Trương, thêm một bà Tả cung tần cùng họ th́ gây nên sự găy đổ của ḍng này tuy rằng ông vua cũng c̣n kèm thêm một bà vợ họ Tống nữa – ở địa vị Hữu cung tần, nghĩa là kém thế hẳn.

 

Có vẻ như họ Tống là bắt nguồn từ tên Tống Sơn theo cách lấy họ từ nơi cư trú – cũng lại một dấu vết khác như họ Trịnh của ḍng Thái đă thấy. Nguồn gốc xa hơn có thể là từ một tập đoàn thờ thần núi Tống Thiên vương / Tống Sơn có vị Thầy Mo / Thiên sư xưng tên như thế. Họ Tống là họ chính ở vùng “Quư Hương,” tất là có tay chân thân thuộc tạo thành lực lượng đa số trong những người theo Nguyễn Hoàng, lại thêm ông Tống Trị tại chỗ, khiến cho ḍng chúa này phải t́m cách liên kết chặt chẽ. Các công nương con Quốc chúa, nghĩa là vào thời ḱ muốn mở “nước” đă được tặng phong là Tống Sơn Quận quân / Quận chúa. Có nhiều người họ Tống khác làm các chức rơ ràng là chỉ dành riêng cho lớp người theo Nguyễn Hoàng: Tống Đức Minh, Cai cơ trong trận 1672, Nội tả (một trong Tứ trụ đại thần) 1680, Tống Hữu Thanh Chưởng cơ 1689, Tống Hữu Thận Trấn thủ 1687, riêng Tống Hữu Đại coi dinh Cựu 1635, được ghi rơ là người Quư Hương, chắc v́ vậy nên sử mới nhớ cả tên người cha. Lại vẫn có những người họ Tống gốc Tống Sơn nữa mang chữ lót khác, có những người xuất hiện rất muộn, lúc quân Trịnh vào Phú Xuân, có người chỉ được sai trông coi làm kho đụn, hẳn không phải là danh giá ǵ lắm! Và t́nh trạng có bà hoàng họ Hồ đổi sang họ Tống chứng tỏ một chừng mực cố gượng uy danh của tập đoàn này trước khi họ Trương nổi lên khuynh đảo.

 

Tiếng là vào trấn Thuận Hoá để đề pḥng họ Mạc nhưng Nguyễn Hoàng trở thành kẻ thu nhận tập đoàn thù nghịch với họ Trịnh, theo t́nh h́nh “kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta.” Cho nên ta có tên Mạc Cảnh Huống “đem gia quyến đi theo” Nguyễn Hoàng, là em Mạc Kính Điển (+1580), nhân vật trụ cột của nhà Mạc. Thế là những liên hệ thân cận cứ kéo nhau nối kết để mở rộng quyền lực: Nguyễn Hoàng và Mạc (Kính?) Cảnh Huống cùng lấy hai con gái của một người họ Nguyễn nào đó để bà vợ Cảnh Huống làm mối con gái Mạc Kính Điển (Mạc Thị Giai 1578-1630) cho Nguyễn Phúc Nguyên / chúa Săi lúc c̣n là hoàng tử, theo lời sử là cô gái đă theo chú lánh nạn vào Nam khi Mạc bại vong (1593?). Lại cũng có thể thấy toán hàng quân của Lập Bạo (1572) đă được đưa lên khai thác vùng Cồn Tiên sát với con đường giao thương qua ngả Lào (Lao Bảo) mà ḷng trung thành với Nguyễn Hoàng thể hiện trong việc lập Chùa Vua (1695) đi theo với tên tổng Bái Trời / Bái Ân. Không c̣n là thù địch mà chỉ c̣n ân nghĩa v́ họ Mạc có được một người cháu ngoại lên làm chúa Đàng Trong: chúa Thượng Phúc Lan.

 

Sự chia xẻ quyền lực rồi cũng phải trở nên rành rẽ, cho nên với ư thức phân li bắt đầu lập chữ “phúc” riêng cho họ nhà chúa với chúa Săi th́ những người được ghép vào ṿng thân cận cũng được mang chữ “phúc”. Con Mạc Cảnh Huống có tên Nguyễn Phúc Vinh; một người thân cận với Ngọc Tú (vợ Trịnh Tráng) trốn từ Bắc về được ban “quốc tính,” mang tên Nguyễn Phúc Kiều. Chữ lót “phúc” dành cho Tống Phúc Trị hay các ông cha vợ chúa và con cháu của họ, cũng chỉ là danh xưng được ban cấp. Người mở đầu, Tống Phúc Trị, có ngay chữ lót “phúc” ở phần đầu Thực lục chỉ là do sử quan viết theo lối hồi tố mà thôi.

 

Chữ lót quốc tính khiến ta c̣n suy ra gốc của một ḍng họ khuynh đảo triều chính về sau nhưng không thấy sử quan nêu rơ lúc khởi đầu, đó là họ Trương Phúc. Người họ Trương thấy đầu tiên là Phó tướng Trương Trà, tử trận trong cuộc chiến 1571, người được bà vợ họ Trần điều khiển quân tướng riêng trả thù nhà, mà lập công lớn với Nguyễn Hoàng. Lời sử Nguyễn ghi rằng Trương Trà “xưng là Trà Quạn công,” mà “không rơ quê quán, ông cha là ai” có vẻ cho thấy ông ta có uy thế độc lập, khác biệt với Tống (Phúc) Trị, được ghi: “Bấy giờ gọi là Luân Quận công,” đúng với danh vị một ông quan chính thức. Có hai người họ Trương Triều… tham gia chiến trận 1648, Trương Văn Vân 1660, 1672, cả người cha vợ Phúc Khoát vẫn là Trương Văn Sáng – trong lúc c̣n người họ Tống trong cung đ́nh. Người họ Trương có chữ “phúc” lót khởi đầu là Trương Phúc Phấn, “người Quư Huyện, trước là họ Trương Công, sau được cho đổi làm chữ Phúc.” Cha ông, Trương Công Da/Gia, được ghi hồi tố là Trương Phúc Da, trong trận 1627 mới chỉ là mưu sĩ dưới tay Nguyễn Hữu Dật. Sử không nói rơ nhưng ta đoán chừng đặc ân kia là do ông Phấn chống giữ lũy Trường Dục 1648, nổi danh là “Phấn cố tŕ,” và là người mở đầu cho ḍng Trương Phúc được ghi vào Liệt truyện, Vậy th́ chỉ có một ḍng họ Trương và một ḍng họ Tống đi vào ṿng thân cận hôn nhân với nhà chúa mới giữ được chữ lót “phúc” mà thôi.

 

Đến khi quyền lực vững chắc thêm, họ chúa lại muốn giữ sự tôn vinh riêng biệt hơn một bậc nữa nên đặt thêm hệ-tính với chữ lót “hữu”, “cửu”: Nguyễn Phúc Kiều trở thành Nguyễn Cửu Kiều, Nguyễn Phúc Vinh thành Nguyễn Hữu Vinh. Cứ thế mà lan rộng: Nguyễn Triều Văn có con mang tên Nguyễn Hữu Dật, điều đó chứng tỏ con cháu ông ta dù sau này lấy cớ dân Gia Miêu Ngoại trang, vẫn không phải là chính ḍng Nguyễn chúa. Con rể Đào Duy Từ cũng mang chữ lót hệ tính, không phải dân Tống Sơn mà chỉ là Thanh Hoá nói chung, chưa kể là di cư từ trước, hẳn v́ lẽ đó mà con cháu không nổi bật như của ḍng Nguyễn Hữu Dật nổi danh đồng thời.

 

Ṿng tay họ Nguyễn rộng ra, thu tóm những họ khác như sẽ thấy rất nhiều về sau, mà khuất lấp, nếu ta không ṭ ṃ để ư: Nguyễn Cư Trinh vốn họ Trịnh, chắc tiên tổ tuy cũng là đi theo từ đất Thanh Hoá nhưng lại lận đận với cái họ Trịnh thù nghịch, khiến ông cùng với ông bác, Nguyễn Đăng Thịnh, rơ ràng chỉ nổi lên nhờ ông cha chuyển sang họ Nguyễn! Thế rồi từ sự đồng tộc của tập đoàn chung văn hoá lại lan thêm qua những tộc đoàn văn hoá khác với những chứng tích muọn màng nhưng làm bằng cớ cho các sự kiện khuất lấp về trước. Phe Nguyễn Ánh, trong cuộc tranh chiến với Tây Sơn có người Miên làm sai dịch trong làng, trở thành tướng trấn thủ Bà Rịa (1795): Nguyễn Văn Tồn. Những người quản lí nhóm Chàm B́nh Thuận với các tên được phiên âm là Môn-lai-phù-tử, Thôn-ba-hú (Thuận Thành Vương của Nguyễn 1764), Bô-kha-đáo lại mang họ Nguyễn, chỉ dấu của ḍng Kinh Cựu về sau. Có “thổ nhân” xứ Vĩnh Long Sa Đec, bắt cóc người bỏ vào bao bố, đ̣i tiền chuộc, gây nên cả một phong trào ăn cướp thành “giặc Du bao,” người đó cũng mang họ Nguyễn Văn, Nguyễn Văn Ngữ! Tất cả h́nh như mở đường (hay nằm trong ḍng) Nguyễn-Văn đầy dẫy thời bây giờ. Một họ tôn quư, riêng lẻ như thế đă trở thành một họ b́nh dân, của quần chúng, là kết quả của một giai đoạn xáo trộn ở một vùng đất tứ chiếng đ̣i hỏi sự thoả hợp quyền lực kể cả từ những người có ưu thế.

 

Nhóm người khởi đầu nhỏ bé đó tuy rằng sẽ lập thành một nước từ một tập thể dân có sẵn, một hệ thống điều hành đă thành nếp một chừng mực nhưng các yếu tố đó cũng không đủ để đi đến thành công nếu tâp đoàn họ Nguyễn không điều hành xứ sở họ có dưới tay – và phát triển ra, bằng một ư chí kiên quyết thấy rơ, từ những người cầm đầu đến tay chân thân thuộc. Tướng như Nguyễn Hữu Tiến, chức vụ mới là Đội trưởng mà luyện tập quân lính thấy không theo lệnh liền chém người cầm đầu. C̣n chúa Săi biết chuyện cũng tán thành: “Binh không đều th́ giết có tội ǵ?” Đến ông chúa thứ hai, Phúc Lan, mới vừa chơi vui yến tiệc, thu nhận bà chị dâu vào cung, xây cất nhà cửa hẳn là để cho xứng với địa vị, khi bị kẻ dưới can ngăn, liền đ́nh chỉ ngay. Người sắp kế nghiệp, Phúc Tần, không nghĩ tới địa vị cao đón chờ, vẫn bắt chước ông nội dẫn thuyền ra đánh giặc ngoài biển. Tính khắc kỉ lên đến cao độ khi Phúc Tần nhận một người con hát xinh đẹp vào cung, chợt nhận ra mối nguy hiểm mềm yếu bên cạnh, liền cho người giết chết (1652). Hành vi có vẻ bất nhân nhưng có lẽ với tính cách đó mà chúa Hiền mới vượt qua được sự e dè của phản ứng từ họ Tống để trừ khử bà d́ ghẻ, vợ của ông cha và ông bác. Tất cả tập nhóm cầm quyền đó đă cố sức khai thác các tài nguyên trong vùng theo một mức độ hẳn là chưa từng thấy dưới các chính quyền về trước, dù là khác chủng tộc nhưng cũng không phải là đă nhẹ tay.

 

Tổ chức công tŕnh chiếm đoạt sâu sát và vươn xa

 

Nhiều năm dài trống vắng sự kiện trong khoảng đời Nguyễn Hoàng trên đất Thuận Hoá chứng tỏ ông c̣n phải loay hoay giữ ḿnh trong một thời gian, và có vẻ ông cũng an phận làm một ông quan trấn nhậm cơi xa, tránh được họ Trịnh nếu t́nh thế không khiến ông phải gắng công thêm. Được trao thêm đất Quảng Nam, vùng đất trọng điểm quyền lực về sau, ông không cần phải động đến đám quan lại co rút của triều đ́nh như Dương Văn An đă nêu vài chứng cớ. Đám thổ hào địa phương có người ngoi lên chức lớn như Bùi Tá Hán, dân Quảng Ngăi, đúng là “chân thổ quan” làm đến chức tổng trấn Quảng Nam, nên thật dễ dàng hợp tác với đại diện triều đ́nh. Nhưng ở cấp dưới, nơi quyền lực trung ương khó vói tới này vẫn c̣n rất nhiều kẻ mà chức chưởng nào trên cao cũng phải cần tới họ. Cho nên họ Nguyễn đă phải sống thoả hợp với đám thổ hào địa phương đó như dấu vết về sau nơi chuyện ông Khám lí Trần Đức Hoà ở phủ Hoài Nhơn (cũng là một thổ hào khác đă vào quan trường) giao thiệp với nhà hào phú nuôi (và đề cử) anh xướng ca lưu lạc Đào Duy Từ làm công thần nhà Nguyễn. Nguyễn Hoàng, lúc nhận đất Quảng Nam (1570) cũng vẫn là khuôn mặt lạ với đám cường hào đó nên gây xung đột ngay sau khi được trao quyền, bị tấn công ngay chính nơi trú đóng, phải phái tướng đi b́nh trị bên kia đèo Hải Vân (1571) và c̣n chịu đựng sự nội ứng của nhóm địa phương với quân Mạc đến tấn công nữa. Thêm một thời gian dẫn quân ra Bắc để có điều kiện so sánh với các thế lực đang tranh giành, Nguyễn Hoàng nhận ra thực lực của ḿnh mà quay về đất cũ, truyền lại cho con ư thức li khai như ta đă thấy. Cứ thế mà, khởi đầu là Nguyễn Phúc Nguyên, họ Nguyễn tràn lấn chiếm đoạt để giữ ḿnh, để phát triển măi đến khi hết sinh lực.

 

T́nh h́nh tổ chức cai trị tiến triển theo với nhu cầu tồn tại và đà mở rộng đất đai. Với chúa Săi Phúc Nguyên là bắt đầu (1614) sắp xếp một cơ cấu hành chính trung ương theo mẫu h́nh quản trị cũng từng thấy có ở vùng Trịnh Tây Việt nhỏ hẹp (1564). Đó là việc đặt ra Tam ti (Xá sai, Tướng thần lại, Lệnh sử) mà những công việc văn án, xử kiện, lễ tiết đều mang dáng lu mờ trước việc thu thuế, cung cấp lương hướng cho quân binh khiến vai tṛ các nhân viên tướng thần nổi bật khi ta thấy họ có mặt đến tận cấp bực đơn vị làng xă, thuộc, nậu… Khía cạnh thu tóm tiền tài vật lực là quan trọng khiến ta lại thấy đặt thêm các ti Nội lẹnh sử và Lệnh sử đồ gia riêng cho nhà chúa – Nội phủ.

 

Các đơn vị phụ thuộc dưới Dinh vẫn là phủ, huyện như cơ cấu của Lê nhưng thành phần cơ sở lại phức tạp hơn nhiều, không những mang tính cách riêng biệt hay pha trộn chủng tộc mà c̣n mang tính chuyên nghiệp khác nhau nữa. Có vẻ Xă có sự thuần nhất một chừng mực về người Việt (di dân hay đồng hoá) nhưng các Thuộc được nói đến nhiều, có nguồn gốc là tập họp các thôn, man, nậu lẻ tẻ họp lại, nghĩa là thành phần dân chúng ở đấy, “các nơi gần núi rừng, dọc sông biển,” không hẳn là Việt dù có thể nói được tiếng Việt. Không phải chỉ là những người bây giờ ta gọi là “Thượng” mà c̣n là tập họp Chàm, thương nhân, phần lớn là Hoa. Trên bản đồ 1774, cả vùng nửa nam B́nh Định được ghi tên 3 thuộc mà dấu vết ngày nay là bao gồm gần trọn vùng đồng bằng trù phú. C̣n dơi theo tổng số “thuộc” từng vùng do sử quan ghi năm 1726, về “hồi quốc sơ” th́ càng về nam số thuộc càng lớn: Quảng Nam nơi có kinh đô Chàm c̣n để lại tên dinh “Chàm”, Kẻ Chiêm, và phố Hội An buôn bán phồn thịnh, có tất cả 19 thuộc, trong khi Quảng Ngăi chỉ có 4 thuộc, Quy Ninh (Vijaya cũ) lên 13, vào đến Phú Yên mà nửa sau thế kỉ XVIII c̣n nữ chúa Chàm, lại vọt lên 36 thuộc. Khánh Hoà gần đây, phía đồng biển c̣n thấy tập họp người Hạ / Mọi Hạ – “mọi” nhưng mang dấu vết sinh hoạt Chàm – vùng hai phủ B́nh Khang, Diên Ninh đó có đến 34 thuộc, cho nên không lấy làm lạ là B́nh Thuận có 30 thuộc. Cuộc sống xen kẽ như thế không làm ta ngạc nhiên khi thấy Ch. Borri nói rằng có dân Việt sống nhiều trên nhà sàn! Không hẳn là tất cả nhưng dấu vết nhà sàn dài ở Hội An c̣n thấy trên một bản đồ thời ḱ “thuyền Châu ấn” đồng thời với Ch. Borri, và lại c̣n dấu vết bằng chứng khảo cổ ngay trên đất Quảng Nam (2001).

 

Đă đặt kho riêng “Nhà Đồ” năm trước th́ phải tính đến chuyện thu cái ǵ chứa vào đó cho nên năm 1618 có việc “đạc ruộng (của) dân hai xứ” Thuận Quảng, lấy lí do “bọn hương lí, hào hữu xâm chiếm mất nhiều ruộng công để làm của riêng,” nay triều đ́nh thu lại để lấy thuế. Lấy thuế th́ phải rồi nhưng coi đó nguyên là ruộng công – nhất là ruộng của công xă, bị chiếm đoạt th́ không ǵ sai hơn. Sự chiếm đoạt chắc cũng từng xảy ra theo t́nh thế thay đổi quyền lực cụ thể trong vùng nhưng ruộng đó là tư điền do những “tiền hiền” mang nông cụ, tay chân đến khai khẩn trên những vùng hoang hoá lâu ngày nên có thu hoạch lớn lao mà lại không phải nạp thuế nhiều cho những quan chức vốn nằm trong t́nh trạng nay dời mai đổi chức quyền trung ương nên cũng không phải hạch sách quá quắt. Dấu vết cụ thể xưa th́ thấy nơi lưu bút Thuỷ thiên tự (1384) của ông thuỷ tổ họ Bùi làng Câu Lăm (?), Quảng Trị và cũng có thể thấy qua lời tán tụng sự giàu có ở đất Ô Châu của Dương Văn An: “Lúa ngoài ruộng, quá ḱ vẫn chưa thu hoạch.” Chưa kể khi ta nh́n vào đất Gia Định ở thế kỉ sau. Cho nên việc đạc ruộng năm 1618 là chuyện tịch thu ruộng tư làm ruộng công để thu thuế, phân chia cho quan, dân để nắm người, chứng cớ rơ ràng muộn màng là chuyện lấy ruộng tư làm ruộng công ở B́nh Định dưới thời Minh Mạng mà vào những năm 1950 nhiều người sống ở thành phố đă tưởng đó là một cuộc cải cách ruộng đất, lấy của nhà giàu chia cho người nghèo, đang diễn ra trên vùng bưng biền mơ ước. Việc “đo ruộng dân để định tô thuế” năm 1669 được nói rơ hơn, là “đạc những ruộng thực canh làm ruộng công… (v́) dân gian nhiều người chiếm canh ruộng lậu mà không chịu nộp thuế.”

 

Đánh thuế trên ruộng đất cày cấy th́ có mẫu h́nh lấy từ đất Đàng Ngoài nhưng họ Nguyễn c̣n có dưới tay một tập họp hỗn độn dân chúng khác chủng loại, khác nguồn gốc mà họ chiếm đoạt hoặc thu nhận. Từ đó có các nguồn lợi khai thác từ khối rừng núi phía tây mà họ thu thuế (thân, sản vật, lực dịch) trực tiếp từ những người, nhóm dân sống gần khối dân đồng bằng. Thuế đánh khá nặng, theo nhận xét của Li Tana lấy từ tài liệu Lê Quư Đôn. Tuy nhiên phải công nhận rằng t́nh trạng chịu thuế nặng cùng chịu đựng những hạch sách khác không phải chỉ dành cho dân Thượng. Người dân đồng bằng phải chịu thuế theo quy định c̣n có thêm những loại “phụ thu” theo lối cung phụng truyền thống cho cấp trên như đă thấy ở Đàng Ngoài, lại c̣n phải cung đốn những thứ lặt vặt đến không ngờ như sợi mây, sợi lạt làm nhà, tiền may bao (đựng gạo)… Cả người về hưu cũng phải nạp thuế, điều không thấy ở Đàng Ngoài. Có lẽ v́ khởi đầu là một tập đoàn chiếm đoạt trên những đám dân thất thế, trong t́nh h́nh bức thiết phải tồn tại trước một lực lượng Trịnh đông, mạnh hơn gấp bội nên họ Nguyễn đă thi hành một chính sách có thể gọi là “thực dân” trên vùng đất họ quản trị, may mắn thay lại chưa có giới hạn cạn kiệt v́ c̣n một vùng đất lớn trống trải quyền lực ở phía nam để dân chúng trốn chạy mà người cầm quyền sẽ đi theo thu thập tiếp.

 

Tất cả những cố gắng của tập đoàn Nguyễn trước tiên là để dành cho sự tồn tại của ḿnh cho nên tính chất quân sự của Đàng Trong là điểm nổi bật có mang những dấu hiệu ràng buộc của địa phương. Trên cao là Dinh (quân đội) như đă thấy. Các phủ huyện trung gian chỉ có những người cầm đầu làm việc xử đoán kiện tụng, cần đến văn từ mà thôi. Thuế má tận vét là để nuôi quân lính cho nên các Ti đặt ra là thu chi lương hướng cho các Dinh. Việc thu thuế, bắt lính thường trực đă được quy định từ Lê sơ qua các tổ chức tuyển trường, ở Đàng Trong là 6 năm một lần cho việc kiểm tra lớn, 3 năm một lần cho kiểm tra nhỏ để điều chỉnh sự thay đổi trong khoảng thời gian nhà nước không để ư tới. Vẫn có hạng Lánh sẵn sàng thành Lính., hạng Quân dự bị tiếp theo, hạng Dân sau rốt, với những hạng khác, tất cả nếu không nằm trong quy định miễn giảm th́ chỉ có một việc là nạp thuế, đi xâu. Ngoài chính binh của nhà nước c̣n có lực lượng địa phương, gọi là thổ binh hay thuộc binh, trong đó có cả người miền núi, người Chàm (quân Côn Man [Mọi Gậy? Mọi Con?] của Nguyễn Cư Trinh.) Vớí ghi chép c̣n lại th́ nhà nước không phải trả lương, họ chỉ khỏi đóng thuế mà thôi. Họ được sử dụng vào việc bảo vệ an ninh ở địa phương, có tác dụng rất mạnh ở địa phương xa, nơi chính quyền trung ương c̣n lỏng lẻo như ở đất Gia Định. Tuy nhiên với vị trí mù mờ dân/lính như thế th́ họ cũng có thể vừa là người giữ trị an vừa là mầm mống của nổi loạn khi quyền bính bên trên trở nên bất lực.

 

Tất nhiên vẫn có cảnh lùng bắt lính nghiệt ngă như mọi chuyện xảy ra thời xưa nhưng thân phận người lính Đàng Trong so ra sáng sủa hơn lính Đàng Ngoài. Một tấm h́nh để lại của phái đoàn J. Crawfurd cho thấy họ áo quần lành lặn, bịt khăn trùm đầu, giống như một người dân Chàm/Ấn ngày nay, c̣n sử quan Nguyễn th́ ghi rằng họ có đến 4 bộ quân phục. Từ người ngoại quốc đến Lê Quư Đôn đều nhận rằng họ ăn mặc sang trọng (lính mặc áo đỏ, áo xanh – B. Vachet sống ở Đàng Trong 1673-83,) thứ kiểu cách bề ngoài đó đă khiến cho quan tướng Thuận Hoá năm 1774 khinh thường quân Trịnh v́ thấy kẻ thù ăn mặc rách rưới, dáng vẻ đói khổ. Họ thuộc vào các đội chính binh tuy gồm cả thuỷ lẫn bộ nhưng đơn vị bộ binh vẫn có tên “thuyền” chứng tỏ khuynh hướng vận chuyển bằng đường thuỷ là nổi trội. Đây là dấu vết rơ nhất về tính chất địa vực đă ràng buộc trong quá khứ Chàm c̣n lưu lại ở Đàng Trong: Các vùng đất bị ngăn bằng những dăy núi nên chính các con sông ra biển Đông là trục lộ nối liền thuận tiện nhất như Thích Đại Sán đă chứng kiến khi từ Hội An đi triều kiến chúa ở Phú Xuân. Cũng từ quá khứ thời đại cũ mà số quân tượng của Nguyễn đă nổi trội hơn của Trịnh và c̣n là ưu thế kéo dài khi Tây Sơn ra Bắc.

 

Dù sao th́ với một vùng quản trị càng lúc càng lớn với những yêu cầu tồn tại càng lúc càng phức tạp, họ Nguyễn không thể chỉ bằng ḷng với đám thân thuộc tay chân làng xóm của ḿnh. Việc quản lí phải cần cả đến những văn quan cao cấp, chuyên nghiệp mà họ không có đủ nên phải mượn bên ngoài. Đă có sẵn là lớp người Hoa đồng văn đến buôn bán nên thương nhân Âu Tây nhận ra các ông Cai tàu đến kiểm kê tàu của họ, hướng dẫn họ qua các quan lớn khác, vào gặp Chúa, là những người Hoa tại chỗ đă lên quan chức. Chu Thuấn Thuỷ đến Đàng Trong năm 1657 chứng kiến một cuộc “chiêu mộ người biết chữ (Hán)” của chúa Hiền do một ông Cai tàu người Triều Châu thi hành ở Hội An, bắt lầm phải một người Hoa không biết chữ mà khiến ông này lúc ra đi phải trối chết với vợ con. Chu Thuấn Thuỷ viết kí sự chứng tỏ sự gan ĺ của ḿnh không chịu phục vụ Nguyễn, chính v́ nỗi đau mất nước c̣n nóng hổi hơn là từ sự cương cường hănh diện làm một “trưng sĩ” (theo chế độ vua vời người có danh vọng) của nhà Minh.

 

Ở cấp dưới, chúa Nguyễn lại cần số đông biết chữ nên đă mở những cuộc khảo hạch nhân dịp lập tuyển trường, chắc là cho đỡ tổn phí. Sử sách chính thức cho biết năm 1646 có mở khoa thi lấy người biết chữ làm lại thuộc (thi Hoa văn), với số lượng đông gấp 5 lần lớp người có khả năng hơn để bổ làm quan (thi Chính đồ.) Tuy Chu Thuấn Thuỷ huênh hoang với sở học của ḿnh cùng sự kiêu ngạo làm thần dân nước lớn nhưng qua những đối đáp với quan Đàng Trong, ta thấy những người này ham hiểu biết, không thiếu kinh sách Nho học. Có lẽ v́ vị trí thông thoáng của Hội An đă khiến Đàng Trong không những có Kinh Sử uyên áo mà cả tiểu thuyết “truyện Tàu:” Tam quốc chí diễn nghĩa, Phong thần. Ngay từ thời gian đầu đă thấy Phúc Nguyên đọc Chiến quốc sách. V́ thế không lấy làm lạ là Nguyễn Hữu Dât có tập Hoa văn cáo thị (1650), và người con, Nguyễn Hữu Hào tiếp theo có truyện dài nôm Song tinh, bắt chước theo tiểu thuyết Minh Thanh cùng thời xuất hiện ở Đàng Trong mà không chờ đợi thời gian lâu xa. Tầm mức kiến thức chung là như thế cho nên tuy Đàng Trong chưa mở khoa thi Tiến sĩ, người đương thời vẫn gọi các văn chức trong triều, ở địa phương là ông Nghè – qua nghe ngóng của người Tây phương là các Omgne (Ch. Borri 1621,) Unghe chieu (ở Nước Mặn, Gaspar Luis 1626,) on ghe bo, oũ nghe bo (ông nghè Bộ, A. de Rhodes 1647…) cả đến Bà Nghè của cây cầu Thị Nghè (Sài G̣n) được nhắc nhở chỉ v́ ông chồng làm chức Thư kí ở phủ Tân B́nh (Trịnh Hoài Đức.) Dấu vết kiến thức sách vở tạp nhạp hấp dẫn đă chuyển dạng thành sử kí ở phía Bắc trong Toàn thư bây giờ cũng thấy ở Đàng Trong, v́ cũng theo Chu Thuấn Thuỷ, văn chức nơi này có người tin rằng các chuyện ở tiểu thuyết Minh Thanh là chuyện thật. Quyển “chí” của Nguyễn Khoa Chiêm có dáng lẫn lộn của tuồng “diễn nghĩa.” C̣n câu chuyện Văn Khuông đem trả sắc phong cho Trịnh (1629) tuy chắc cũng trót lọt qua một âm mưu lén lút nào đó nhưng lại được diễn tả như một màn đấu trí có hồi “thiệt chiến quần nho” của Khổng Minh. Đây hẳn bắt nguồn từ lối giương danh tự xưng Ngoạ Long của ông quân sư mới về phục vụ (1627).

 

Tất nhiên về t́nh h́nh quan chức cấp dưới th́ người ta có thể tiến thân bằng cách nạp tiền cho chúa. Dù sao đây cũng là dịp cho dân Thuận Quảng (và ở các vùng xa hơn về phía Nam theo t́nh h́nh mở rộng quyền lực) được đi vào hệ thống cầm quyền để đợi có biến động lớn là xuất hiện trên chính trường. May mắn vượt thường là gả con cho chúa từ những gia đ́nh khuất lấp nhưng nh́n kĩ th́ đúng là thuộc những khu vực mang tính cách thế lực, như người đất Thế Lại phồn vinh cung cấp Ngô Ngọc Lâm xinh đẹp giúp Nguyễn Hoàng thắng Lập Bạo. Người vợ họ Đoàn của Phúc Lan tuy được ghi kết hợp với chúa theo kiểu lăng mạn nhưng suy từ đấy th́ cũng là người của chốn phóng túng vùng đồng bằng Quảng Nam. Không rơ những con cháu người dân Thuận Quảng thuộc loại “bách tính” kia có được ngoi đầu lên khỏi vị trí thấp kém mà toán người Tống Sơn kềm kẹp không nhưng Hồ Văn Mai của đất Thừa Thiên có con gái làm vợ chúa, được chuyển qua họ Tống, rồi được ông cháu ngoại Phúc Chú ban lệnh cho con cháu họ Tống-mới này được miễn dao dịch (1726). Sự chia sớt quyền hành tuy chậm chạp nhưng cũng là điều bắt buộc cho cả người có ưu thế khiến t́nh h́nh xă hội càng lúc càng phức tạp hơn để đến cuối cùng, nhà chúa thấy ra mối đe doạ đến với cơ nghiệp của ḿnh qua những người dân khuất lấp từ một vùng núi xa.

 

Các tập đoàn bên lề quyền lực Nguyễn uốn nắn hội nhập

 

Tập đoàn Nguyễn đem sức mạnh của ḿnh từ đất Thuận Quảng lấn tràn về phía nam theo một tiến tŕnh vươn lên phức tạp, vừa như một cố gắng vượt thoát áp lực của Trịnh, vừa như bởi chính sự thừa mứa năng lực tích trữ trong cuộc chống đối với thế lực Đàng Ngoài nên phải t́m nơi trút bỏ.

 

Phủ Phú Yên được chính thức thiết lập năm 1611 đến lúc này mới đi vào ṿng quyền bính của họ Nguyễn tuy đă thấy sự hiện diện của quyền bính mới từ 1578 với vai tṛ của Lương Văn Chánh vượt qua đèo Cù Mông chiếm thành Hồ (thành An Nghiệp, Tuy Hoà,) lấy đất khai khẩn vùng đồng bằng gần đèo. T́nh h́nh vẫn c̣n bấp bênh nên năm 1629 phải trải qua một cuộc b́nh định khác để từ đây bắt đầu một ư thức Nam tiến rơ rệt với việc đặt tên dinh Trấn Biên cứ mang cái tên ấy mà đi xa dần theo đà tăng tiến quyền lực, cuối cùng dừng lại trên đất Biên Hoà ngày nay. Ba ngàn tù binh Trịnh bắt được trong trận chiến 1648 đem rải ra từ Quảng Nam đến Phú Yên theo từng 50 người làm thành ấp, sinh sống buổi đầu nhờ trợ cấp của chúa, từ tiền của nhà giàu trong vùng bị buộc cho vay, đă làm tăng thêm thế lực họ Nguyễn, và cũng gây nên mâu thuẫn với dân bản xứ c̣n lại, lấn át chút quyền uy lay lắt của các ông chúa Chàm. Một công nữ của Nguyễn được gả cho Po Romé mang tên Chàm: Bia Út (1631?) đă không giúp được sự hoà hoăn mà c̣n phải chịu tiếng làm mất nước với truyện tích xúi chồng chặt cây Krek thần thánh khiến xứ B́nh Thuận đến gần đây c̣n truyền tụng tên Vua Mê để chê cười ông vua “dại gái” kia. Thế là có thêm những cuộc chinh phục mới được gọi là chống gây rối, xâm lấn, kết quả Nguyễn đặt thêm dinh Thái Khang (1653) đến tận sông Phan Rang. Vùng đất khô cằn c̣n lại giúp cho các chúa Chiêm an tâm một thời gian nữa v́ Nguyễn bận nh́n vào vùng đất trù phú ở xa hơn về phía nam.

 

Lúa gạo là cần thiết nuôi người nhưng nguồn vật dụng trao đổi trong giao thương mang lại sự trù phú lại là ở trên rừng núi, thuộc vào những tập đoàn người khác. Nói chung th́ trên văn từ vẫn dùng chữ “man” để chỉ những người này nhưng với chi tiết tiếp xúc càng lúc càng sâu nên có sự phân biệt nhóm người ở xa, nhóm người ở gần (với dân Việt), người ở trên núi cao: Man Cao, Man Thượng / “Mọi hoang,” Man Hạ / “Mọi thuộc.” Tuy nhiên với chỉ danh Mọi đă dẫn, thấy sớm nhất ở từ “Kẻ Mọi” (Ch. Borri 1621) c̣n sử dụng đến gần đây th́ ta biết rằng tập đoàn Nguyễn đă đem tiếng tự gọi của người Mường Thanh Hoá: “món”/”mọi”/”người” để chỉ chung các tập đoàn vùng rừng núi mới mà họ đến tiếp xúc. Chi tiết được biết về những người này là dân phía tây Thuận Hoá (nói chung) với các tên có dáng chủng loại không rơ rệt, lẫn với tên khu vực thuần Việt hay đă chuyển âm Việt Hán. Tên nguồn Viên Kiệu cho thấy tên tập họp dân tộc Vân Kiều ngày nay. Ta nhận ra một tên Tồi Ôi là sách “lậu” lúc bấy giờ, nay vẫn c̣n nằm trong xếp hạng dân tộc học. Cũng thuộc loại này là người Sách, không hiểu v́ cớ ǵ mà có liên hệ sít sao với Nguyễn đến mức đă mang họ Phan, được chỉ định đóng thuế khá nặng cho từng người, từng cụm người (“ngũ”) trong khi tên Sách hẳn không phải chỉ một tập đoàn dân tộc theo chủng loại mà chỉ là từ tên đơn vị hành chính rừng núi đă có từ xưa: “sách”.

 

Những người này liên lạc với nhau trong sinh hoạt buôn bán trao đổi được thể hiện qua những truyện kể truyền thuyết về những chuyến du hành đến các bộ tộc khác trong khu vực rừng núi. Chuyến đi từ phía đồng biển, ngược qua những ḍng sông suối sâu vào trong núi, tuy có khi vượt qua biên giới nhưng thường chỉ là nơi xuất phát của ḍng chảy nằm ở thượng lưu nên được gọi chung là “nguồn”, và thành tên những vùng kinh tế tài chính nhỏ dưới mắt chính quyền. Thuế công đánh vào dân nguồn nặng đă đành nhưng vẫn c̣n thuế gọi là “tư” dành cho quan tại chỗ, là một h́nh thức mua ép giá, mua trước trả sau. Lại c̣n h́nh thức đánh thuế trên những dân buôn qua lại. Chúng ta đă thấy mối liên hệ nguồn biển từ Lí Trần qua đèo Lao Bảo, đến nay lúc đầu cũng vẫn là nơi khai thác nguồn lợi giao thương của Nguyễn cho nên chúa Săi phải giành quyền ǵn giữ an ninh cho con đường này (1621) và lập dinh Lao Bảo để trấn giữ. Có điều phía biển của khu vực này lại không thuận tiện cho việc lập hải cảng, dù là cảng nhỏ của ngày xưa. Cảng Hồ Xá bị bùn cát lấp nhiều lần (1668), c̣n Mai Xá khi thành công (1681) có ghi luôn tên người đào cảng chứng tỏ việc mở mang phía biển ở vùng này thật khó khăn, không thể nào vượt trên ưu thế của Hội An được.

 

Trong sự giao tiếp, thường người ta hay nghĩ tới những ảnh hưởng về phía đồng bằng, về sự thay đổi ở các nơi này mà không quan tâm đến sự thay đổi trên rừng núi. Trong tiềm thức người ta vẫn cho dân rừng núi muôn đời cứ như cũ, chỉ là lớp người chịu đựng bóc lột chứ không biết thừa hưởng những thành quả văn minh của thế giới ngoài vùng. Thật ra chức việc Đàng Trong đă báo cáo với Lê Quư Đôn là các dân Man thượng/hạ/cao phía tây Thừa Thiên trong tế lễ hay dùng trâu, heo, cùng thanh la, đồ đồng, “các thứ (của dân miền xuôi mang lên) này bán chạy lắm!” Chưa kể những vật phẩm khuất lấp đi từ phía Miên, Lào lại. Vậy là cái mà ngày nay gọi là “văn hoá Cồng chiêng” không phải được biểu diễn bằng các vật phẩm tự chế! Cũng như có thể hiểu được một chừng mực hưởng thụ ít ra là của tầng lớp khá giả, khi người ta khai quật được các vật dụng sành sứ cao cấp ở Lâm Đồng, không biết trong ấy có bao nhiêu là của chúa Nguyễn “ban” cho vua Lửa, vua Nước.

 

V́ cách xa vùng thủ phủ nên trên đất Quảng Nam, Gia Định chỉ ghi tên các nguồn mà hiếm thấy tên tập đoàn người. Vùng Quảng Ngăi một thời được gọi là “tiểu Đồng Nai” v́ họ Nguyễn chiêu tập dân miền núi và lưu dân khai khẩn làm ruộng, tổng số đến 72 trại. Có lẽ dấu vết phồn thịnh, liên hệ với vùng bắc B́nh Định, là các công tŕnh tưới tiêu bằng xe-nước mang tính chất tổ chức thật hoàn bị, chặt chịa c̣n măi đến gần đây. Những xung đột với các tập họp phía tây Quảng Ngăi từ thế kỉ XVII, nổi bật qua thế kỉ sau với Nguyễn Cư Trinh, lưu lại tên “Mọi Đá Vách” chung chung mà không có xác định dân tộc học. Có vẻ chỉ thấy xác định khi gặp những tập đoàn lớn: người Đê/Rađê/Êđê phía nam La Hai (Phú Yên – Lê Quư Đôn), người Trà Lai (Jarai) khi nhắc đến Nam Bàn. Danh xưng này có liên quan đến sự chia cắt của Lê Thánh Tông năm1471. Lê Quư Đôn coi đây là khu vực xưa nay bao gồm hai “nước” Thuỷ Xá và Hoả Xá với hai “vua” Nước và “vua” Lửa. Chính v́ hai nhân vật nổi bật này mà ta có chứng dẫn đương thời độc nhất về hai tổ chức chính trị xă hội liên làng “chừng hơn 50 thôn” trên một vùng Tây Nguyên ngày xưa. Dân Jarai nơi vùng có vua Lửa vua Nước vẫn tự phụ là Jarai “gốc”. Thường hay có sự lẫn lộn giữa tên hai vua như sử quan Nguyễn ghi hai tên khác: Đôn vương (vua Nước?) và Nga vương (vua Lửa?) với sự phân vân “h́nh như thuộc về Hỏa quốc.” Nhưng nhiều bằng cớ cho thấy Vua Lửa ở vị thế nổi trội hơn v́ liên hệ đến việc ǵn giữ một cây kiếm, về mặt thần thuyết là có quyền năng bách chiến bách thắng, về mặt thế tục là vật tượng trưng cho vương quyền khiến cho các bộ tộc trong vùng phải thần phục, cung phụng cho sinh hoạt của hai Vua. Họ Nguyễn cũng không động đến tổ chức này, chỉ phái quan đến liên lạc, thu thuế, nhận chịu sự thần phục mà không can thiệp vào tin tưởng của họ, không như Odend’hal v́ đ̣i xem kiếm của vua Lửa Euil At mà bị người Êđê giết năm 1904. Họ Nguyễn không cần biết đến cây kiếm đó nhưng lại không ngờ rằng sau rốt nó có phần tác động vào sự điên đảo của triều đ́nh bậc Thiên vương ở Phú Xuân chỉ v́ tiếng đồn nó được trao vào tay anh biện lại thu thuế nơi góc đất Tây Sơn của họ.

 

Tên Nam Bàn liên hệ với Lê Thánh Tông khiến đương thời đồng hoá người Đê là người Chàm và cho thấy mối liên hệ của những người Tây Nguyên với vương quốc Chàm thật sâu sắc. Vợ của hai vua Lửa, Nước “mặc áo Chiêm Thành sặc sỡ,” hai vua ngự trên một vùng “điện vua Hồ” có voi đá, ngựa đá – có thể là khu tháp Chàm Yang Mun ở Buôn Chu (Cheo Reo) đă nói. Danh xưng chung cho hai vua: pơtao / botao là một tước hiệu Chàm, có nghĩa là “ngài”, “thầy” hay cũng có thể là “vua”. Đường liên lạc với Nam Bàn được chức việc đương thời kể lại với Lê Quư Đôn là dọc theo lối thượng đạo từ B́nh Định đi về phía nam đến Phú Yên cho nên Hoa Anh của sau năm 1471 hẳn là vùng Phú Yên, Khánh Hoà với người Hạ ngày nay. Không nên lấy làm lạ v́ trên vùng “(cánh) đồng (của) Dàng/Yang,” di tích Đồng Dương bây giờ, vẫn c̣n người “Việt” họ Trà, cũng thấy có ở B́nh Định, c̣n chủ một số nhà lá-mái sang trọng ở Phú Yên có họ Ma… Cho nên năm 1578, Lương Văn Chánh phản công, đánh lấy thành Hồ, có thể là địa điểm chính của Hoa Anh, là thành c̣n có nữ chúa Thị Hoả theo Tây Sơn ngày sau. Ông mộ dân khai thác vùng Cù Mông (giáp giới B́nh Định), Xuân Đài (bắc Phú Yên), có sử dụng ngườ́ “Xiêm”, chữ của khu vực Nam Đông Dương chỉ người nô lệ. Tướng Văn Phong trấn thủ phủ Phú Yên mới thành lập (1611) lại ra mặt chống đối (1629). Sử nói là “dùng quân Chiêm Thành để làm phản” chứng tỏ có sự liên kết với bộ phận dân Chàm – điều cũng là khả thể nếu ta nh́n ngược lại về thành phần các “thuộc”.

 

Phần đất c̣n lại co dăn sau 1471 được gọi là Chiêm Thành, h́nh như có một “kinh đô” là Bal Debare (Plei Bocon / Caklin / Chung Mĩ, An Phước, Ninh Thuận,) thừa hưởng sự chính thống cũ, có thể giữ được sự an b́nh tương đối để phát triển b́nh thường như một thực thể chính trị có chứng thực của người ngoại quốc. Một nhân vật Tây Ban Nha bị người Chàm bắt (1592) v́ tội “xâm nhập lănh thổ,” đă tả về một vưong quốc có hải phận mà tàu thuyền bên ngoài xuôi nam bắc đều phải ghé vào mua sản vật quư. Đến giữa thế kỉ XVII th́ có nhân vật Po Romé (1627-1651) nổi bật qua những công tŕnh phục hồi kinh tế, xây dựng thuỷ lợi, cố gắng vươn ra t́m viện trợ phía vùng hải đảo để ḥng quân b́nh lại với áp lực họ Nguyễn. Các công tích đó khiến cho nhân vật này đă trở thành huyền thoại với dân Chàm tuy nhiên lại có dáng đe doạ họ Nguyễn, gây phản ứng mà kết cục câu chuyện chặt cây krek là bằng cớ đi vào truyền thuyết. Họ Nguyễn cho rằng trạn chiến chiếm và thành lập tỉnh Khánh Hoà ngày nay là do Bà Tấm (Po Nrop) gây hấn nhưng người Hoà Lan bị băo dạt vào Quảng Nam (1661) nghe chuyện mười năm trước, họ Nguyễn đă nhốt một ông Dairo Thầy Cả của Chiêm Thành trong một cái đ́nh, điều đó chứng tỏ Po Romé có thể đă bị bắt thực sự như xác nhận của truyền thuyết, bị bắt v́ các công tŕnh kinh dinh của ông, và việc tiến chiếm năm 1653 chỉ là hồi kết của một giai đoạn xung đột mà thôi. Ta thấy Po Romé đă mở rộng mối liên lạc nhiều đến các tộc người Tây Nguyên bằng hôn nhân, tăng tiến giao tiếp hơn trước kia, liên hệ đậm nét đến mức sau khi nước Chàm mất hẳn lại có nhiều bộ tộc Tây Nguyên giữ các “kho tàng vua Chàm” gồm có áo măo, kiếm gươm, tiền đồng…

 

Ngôi tháp mang tên Po Romé ở Palei Thươn (Hậu Sanh, Ninh Thuận) tuy chứng tỏ là dấu vết của một thời đại suy đồi nhưng cũng là ngôi tháp to lớn của truyền thống cũ. Ngôi tháp cũng là bằng chứng bộc lộ một sự khủng hoảng tiếp theo khủng hoảng suy yếu. Ông đi t́m hiểu sức mạnh ở vùng hải đảo vốn dựa vào Hồi Giáo (“đi học Kabar rup / gồng” ở Kelantan, Mă Lai,) tất có mang về một ít hơi hướng chính thống, chưa kể đă làm cho hệ phái Hồi Giáo cũ trong nước có đà hưng khởi. Tuy nhiên ông lại vẫn giữ lại tính chính thống Bà la môn, điều đó đă khiến sự xung khắc của hai hệ phái vươn lên đến một mức độ mới. Tháp th́ theo khuôn khổ Ấn Giáo như thế nhưng tượng của ông lại chứng tỏ một sự phối hợp pha trộn lạ lùng: có 4 tay như tượng Ấn, mắt xếch, nhưng có râu ngạnh trê, đầu đội mụ chụp (fez) của người Hồi, c̣n cúng tế th́ dưới sự điều khiển của một ông Khù / Guru, pháp sư Ấn, cũng là Sư cả của Chăm Bà-ni. Chiếc tàu Pháp Galathée năm 1720 ghé vào Phan Rí nhận ra có nhiều dân Hồi Giáo nơi này. Xung đột dữ dội ở cấp độ triều đ́nh biểu hiện trong akayet (tráng ca) Um Mưrup. Bên dưới, phái Bà ni / Bini của Hồi Giáo địa phương hoá từ lâu, được tiêm thêm lí thuyết chính thống nên không c̣n dáng thoả hiệp như trước mà mang tính cách tông đồ, lấn lướt phái Chăm Bà la môn lúc này rơ ràng đă nhận ra sự tàn tạ của quyền bính trên cao nên trong cung cách tự bảo vệ cũng trở nên cứng rắn hơn. Có vẻ như vật liệu “giấy” lá buông đă khiến cho việc ghi chép không c̣n chỉ là của tầng lớp cao như khi dùng bia đá cho nên đă thấy có những bản văn thơ dài của thế kỉ XVII, XVIII c̣n giữ lại về sau. Và trong t́nh h́nh khủng hoảng tôn giáo như đă kể th́ các ariya (lục bát Chàm) Căm Bini, hay Bini Căm vừa mang tính cách lịch sử xă hội vừa là những áng văn trữ t́nh không t́m thấy được cả trong đám người chiến thắng Việt vốn cứ bị vướng mắc với các tín điều Nho cứng nhắc, khô khan đến mức giả dối.

 

Với triều đ́nh Chân Lạp th́ đă có dấu vết liên hệ của Nguyễn từ những năm 1620. Ở đấy v́ có tiếp xúc trực tiếp nên không c̣n chữ Chân Lạp xưa cũ nữa mà thay vào đó là tên của lớp dân chúng: Khmer, chuyển âm thành Cao Miên (hay về sau là Cao Man v́ kị huư Thiệu Trị.) C̣n đất nước, triều đ́nh th́ đă có tên Cambodia/Kambujâs mà Lê Tắc ghi nhận từ xưa với tên chuyển âm là Giản Phố Trại, c̣n người Âu đến sau th́ ghi là Camboye. Tên Hán Việt kia bị quên lăng đến khi một toán lưu dân Minh tấp vào một cù lao ở thành phố Biên Hoà ngày nay, gọi tắt là Cù lao Phố, sau này tiếp qua một tầng sai lạc “chữ tác đánh chữ tộ,” nó trở thành Đông Phố một cách tự nhiên! Mối liên hệ lúc đầu của Nguyễn th́ chỉ có tính cầu thân nên lại cũng có công nữ Nguyễn (Ngọc Vạn, suy đoán theo Thái Văn Kiểm) lấy Chey Chettha (II).

 

Người ta vẫn thắc mắc về chủ quyền nơi vùng ŕa giáp giới Chân Lạp / Cao Miên và Chiêm Thành nhưng có thể thấy đó là vùng ảnh hưởng lúc này lúc khác của hai vương quốc lên những tập đoàn dân riêng biệt. Vùng Bà Rịa đến thế kỉ XX c̣n có nhiều người Mọi, và nơi được ghi có người Việt đầu tiên đến: Mỗi Xuy (Hán Việt) / Mô Xoài (thông thường) đă được nh́n ra là Mọi Xoài không phải gây nghi ngờ ǵ lắm. Toán Trần Thượng Xuyên đến cù lao Phố năm 1679 trong một vùng, gần đây c̣n giữ được các tên rạch Mọi, mả Mọi, núi G̣ Mọi của tập nhóm nay nhận ra là Mạ với các tên Đạ Đờng cho Đồng Nai, Đạ Glung cho sông Bé. Tập họp này có vẻ thuần nhất nên người Tây Phương từng nhắc đến một “Vương quốc Mạ” ở vùng này. Tên xứ Bàn Lân ghi bằng chữ Hán, nơi quan binh Minh đến đóng, có dáng chữ blaang (cây g̣n) và tên Sài G̣n sát âm, gần với một trong hai tên Khmer cho là phát xuất ra tên Việt (Prey Kor: rừng cây g̣n) tồn tại lâu dài hơn, chứng tỏ về một vùng khá rộng mọc loại cây c̣n được dùng trong lễ đâm trâu ngày nay. Đây cũng là một bằng chứng cho thấy một khu vực nếu không là nơi cư thú thường xuyên th́ cũng là vùng du canh rộng lớn của bộ tộc người Mạ thời xưa. Cho nên danh xưng kia không chắc là cường điệu, ít ra th́ cũng mang cùng tầm mức của “nước Stiêng” phía bắc đó, với nơi tập trung lớn: “thủ đô” Tinh Xương trong bản đồ Taberd 1858.

 

Các dân tộc Tây Nguyên giữ được mối liên lạc với người Lào, người Khmer không những qua vật phẩm trao đổi mà theo đó c̣n cả những tin tưởng thần bí như cùng chia xẻ về sự thiêng liêng của cây kiếm thần khiến có lúc vua Lửa đ̣i Cao Miên phải triều cống! Tuy nhiên có vẻ người Khmer chính tông làm lúa nước đă xây đền Angkor vẫn cứ coi các vùng đồng bằng là nơi cư trú chính của ḿnh. Sự lấn lướt của người Thái thành lập nước Xiêm La tiến chiếm Angkor 1431 khiến Cao Miên phải dời đô xuống “đồi Bà Pênh” / Phnom Penh 1434. Sự dời đô không hẳn chỉ là kết quả tràn lấn của quân Xiêm nhưng có thể sự cạn kiệt khai thác vùng Angkor đă là nguyên nhân suy yếu của họ và con đường tiến xuống vùng Ngă Tư, với các nơi đóng đô quanh đó, là một lối thoát đi t́m sự phồn thịnh giao thương của thời đại mới đem lại. Chey Chettha lấy vợ Việt, vợ Lào, đă mời người Hoà Lan đến buôn bán ở Phnom Penh và con ông ta, Riamiathipdei, Nặc Ông Chân của sử Việt, th́ chuyển theo đạo Hồi, rơ ràng là tiếp tục khuynh hướng mở rộng giao thương. Thomas Bowyear lúc ở Phú Xuân (1695) được sứ giả Cambodge đưa đề nghị giao thương rông răi hơn Đàng Trong. Nhưng đến lúc này th́ họ đă gặp sự bành trướng không cản nổi của chúa Nguyễn.

 

Nguyễn Phúc Nguyên khi gả con cho Chey Chettha chắc cũng chỉ làm một công việc t́m vây cánh phía nam nhưng rốt lại nhóm người đi theo vị công nương Nguyễn (bà Hoàng Ang Cuv / Dam Sat) đă vận động cho chúa được lập nơi thu thuế quan ở Prei Kor và Kas Krobei (1623 – Sài G̣n và Bến Nghé). Sử quan Nguyễn im lặng về sự kiện chỉ được dẫn xuất từ phía Cao Miên này chứng tỏ đây chỉ là “sáng kiến” riêng theo kiểu lấy “thuế tư” của toán người kia muốn hưởng lợi từ lớp người Việt, hẳn đă đến làm ăn vững vàng trong vùng trong khi chúa của họ vẫn c̣n đang loay hoay ở Thuận Quảng. Tuy nhiên chính quyền Nguyễn đă đặt ở Khánh Hoà 1653 th́ miền hạ lưu Mekong tất phải nằm trong tầm mắt của họ. Chiến công chiếm một phần Nghệ An của Trịnh giúp quân Nguyễn đủ tự tin đem quân can thiệp vào nội t́nh phân ră của Cao Miên, nói là chống đánh sự xâm lấn của Nạc Ông Chân mà thật ra là đứng về phía hai người con bà hoàng Việt trong tranh chấp, đem ngôi vị cho con bà Việt: Batumriachia (1660-1672). Đó là điểm khởi đầu Nguyễn can thiệp vào triều chính Cao Miên, có tiếng nói trong sự phế lập ở đây, xếp đặt vua chính là Sô / Ang Sor ở Vũng Long (Neak Luông –Trịnh Hoài Đức), vua thứ là Nặc Nộn / Ang Non ở Sài G̣n. Con của Sô, Nặc Ông Đài (Bô Tâm – Trịnh Hoài Đức) giết cha, đuổi Năc Nọn lấn quân đến vùng Mọi Xoài khiến Nguyễn phải phái quân B́nh Khang chiếm lại rồi tuần tự chiếm Sài G̣n, lấn sâu vào đất Miên chiếm Lovek, Phnom Penh, xếp đặt thứ tự lại, cho Nặc Thu đóng ở Oudong, Nặc Nộn ở Sài G̣n. Sự can thiệp rồi sẽ tiếp tục bằng những cuộc tiến quân về sau với một t́nh thế phức tạp hơn v́ có thêm sự trợ lực của nhứng nhóm người Trung Hoa bỏ chạy từ đất họ.

 

Dân tại chỗ trên đồng bằng đúng là người Khmer, quần tụ trên các “giồng” là những địa thế cao do tác động kiến tạo của sông, biển. Đây là vùng Miệt Dưới vẫn thường được gọi là Khmer Krom. Tuy nhiên ta vẫn thấy những chứng cứ cho biết di dân không phải chỉ từ những người chuyển vùng nội địa mà c̣n là người từ biển khơi vào. Dấu vết dân hải đảo chỉ thấy loáng thoáng nơi lời của Trịnh Hoài Đức nói qua trên đất Gia Định về sau. Đó là những người Đồ Bà, được giải thích cạn kẽ là “giống người ở biển, ở núi theo đạo Bái Nhật ở trong 36 cửa biển Măn Thích Gia (Malacca).” Nơi chốn xuất phát và tên đạo cho ta đoán là dân Hồi Giáo nhưng con số 36 đơn vị và tên tổng Bái Trời cũng thấy nơi Nguyễn Hoàng đày quân Mạc năm 1572 khiến ta phải tự hỏi: Trên vùng Cồn Tiên kia có dấu vết Hồi Giáo nào không? C̣n con số 36 đơn vị trong bia Tuư Tiên Đường Minh Hương ở Hội An nữa? Nên nhắc: Nặc Ông Chân, người nhường Biên Hoà cho chúa Nguyễn, là một người theo đạo Hồi.

 

Nhưng lớp người đến ở đông đúc mà có tầm quan trọng cho sự phát triển, là từ phương bắc với tên Đường Nhân. Sự tụ tập thành khu vực của người Hoa thấy trên sách vở (1621) là của Ch. Borri ở Hội An, nhận ra họ chia vùng quản trị với người Nhật. Tuy nhiên rơ ràng là họ c̣n ở rất đông trên các vùng khác nên chúa Nguyễn phải lo quản lí họ bằng cách cho lập các “xă” mà hai tên thấy đầu tiên là Thanh Hà và Minh Hương quanh thủ đô, khoảng 1645. Sự hiện hữu đồng thời hai tên cho thấy tên Minh Hương không phải là một trường hợp đặc biệt như ta tưởng về sau. Chữ “hương” lúc đầu với nghĩa “mùi thơm” chứng tỏ các người sáng lập đă thiên về ư nghĩa giá trị tinh thần hơn là gốc gác cư trú nguyên thuỷ. Điều này cũng tương hợp với chữ “thanh” trong tên làng kia v́ hai tên xă mới này cũng thấy trên vùng Quảng Nam. Và lặp lại nửa thế kỉ sau trên đất Gia Định với tập nhóm Minh dân chính thức lưu vong, những người vẫn thường được coi là nguồn gốc của tên Minh Hương với chữ “hương” có nghĩa là “làng xóm, quê quán.” Những người Hoa đó (theo cách gọi ngày nay) vẫn tự xưng và được gọi là Đường Nhân, Hán Nhân nhưng từ khi có một chính quyền không phải Hán mà theo văn hoá Hán đến ngự trị th́ họ giành tên Hán Nhân cho người đồng chủng, chỉ để gọi người phương Bắc đến cư trú là Đường Nhân khi đă gom về ḿnh đám dân Minh Hương kia.

 

Như đă thấy, người phương Tây th́ tuy cần thiết nhưng xa lạ, chưa kể lối sinh hoạt, tôn giáo mới đă đem lại dị ứng, gây nghi ngờ tổn hại cho chính quyền khiến phát sinh những lệnh bài đạo gắt gao khi t́nh h́nh chiến tranh với Đàng Ngoài không c̣n thấy cấp thiết nữa. Cần Joan da Cruz, chúa Hiền phải để ông này lập nhà thờ Đức Bà Vô Nhiễm trong khuôn viên Thợ Đúc, cho chứa chấp các giáo sĩ ḍng Tên, lưu giữ hài cốt người tử v́ đạo… LM. d’Arnedo, Koffler thoát nạn dữ v́ làm Khâm thiên giám, người cho chúa Hiền, người cho Vơ Vương. Tuy nhiên những người khác không tránh khỏi v́ chúa Hiền được báo cáo rằng người bị đóng đinh là vua Bồ, cải đạo là phải mặc y phục Tây, c̣n Vơ Vương th́ hoảng hốt v́ lời sấm đổi thay. Người Nhật đă có một thời liên lạc mật thiết với các thuyền Châu ấn, c̣n để lại cây cầu Nhật Bản / Lai Viễn Kiều (1714) nhưng lại bị cắt đứt v́ các lệnh cấm của chính quyền Shogun (1636) chỉ c̣n một số người không chịu trở về nước mà Chu Thuấn Thuỷ c̣n gặp gỡ nhờ cạy năm 1657. Chỉ có người Đường vẫn liên tục buôn bán như từ thuở nào dù có những vấp váp giai đoạn v́ biến động chiến tranh. Lại c̣n tính cách đồng văn khiến họ dễ dàng xâm nhập vào quan trường qua các cuộc thi cử từ thấp đến cao ở Đàng Ngoài, không chỉ lẩn khuất theo danh vị “ông nghè” ở Đàng Trong mà lại c̣n làm chức sắc cho Chúa, trực tiếp qua các danh vị trung gian buôn bán lớn cấp là các quan Cai tàu vụ nơi các cảng lớn hay làm Cai đội, Tướng lại thu thập sản phẩm người biển, núi rừng nơi các địa phương.

 

Một triều đại vươn lên trong vướng mắc mang tính hệ thống văn hoá

 

Sự thiết lập các chức vụ Tứ trụ đại thần: nội tả, ngoại tả, nội hữu, ngoại hữu năm 1638 là dấu hiệu rơ nét về sự phân chia quyền lực cho các tộc họ có thế lực đương thời như chứng cớ của Thomas Bowyear (1695) nói về việc Quốc chúa chịu ảnh hưởng rất mạnh của 4 ông cậu/chú/bác. Tuy nhiên sự cải cách đó cũng mang lại một h́nh dáng tổ chức chính quyền trung ương sơ khởi cho họ Nguyễn. Bản thân quyền lực phát triển đưa đến sự tự tín nhưng ư thức thành vua một cơi h́nh như cũng được khích động thêm bởi một vong thần nhà Minh, Chu Thuấn Thuỷ, người muốn xúi Nguyễn trợ giúp nên làm thay thư của chúa Hiền kêu gọi khích động quân dân Nam Bắc trong trận tiến chiếm Nghệ An, mà trong tờ có thể gọi là Chiếu đó, để chúa xưng là “An Nam Quốc vương.” Chu c̣n hé mở cho chúa thấy nếu giúp ông một chỗ trú để phục hồi nhà Minh th́ khi thành công sẽ xin phong vương cho Nguyễn, không nệ ǵ việc có mặt vua Lê! Tất nhiên là tác động các lời ấy không mạnh, không những v́ Nguyễn c̣n đang đối đầu với Trịnh ở Nghệ An mà c̣n chính sự kiêu ngạo của Chu cũng khiến ông không được trọng nể nhiều, nơi ông đến ẩn trú.

 

T́nh h́nh sẽ khác đi khi sự ngưng chiến với Trịnh giúp Nguyễn rảnh tay phát triển cương vực, chứng tỏ uy lực của ḿnh trên một phần đất rộng lớn, trù phú đem lại sự sung túc cho bản thân, nâng cao ước vọng đến mức thấy ḿnh đủ làm chủ một nước riêng. Người ngoại quốc đến giao thương đă nhận ra quyền lực đó nên gọi “nước Quảng Nam” theo với tên trung tâm trú đóng của vùng buôn bán phồn thịnh nhất mà không quan tâm tới thủ đô chính trị phía bắc đèo Hải Vân. Tất nhiên điều đó không hợp với ư thức của người cầm đầu đă nhận ra nhiều nguồn gốc ư hướng tập họp thành vị thế thực tế của ḿnh. Nguyễn Hoàng đến nơi, thấy cần có sự phối hợp với quyền lực siêu nhiên nơi ḿnh cai trị nên chịu hoà nhập vào đó, nhận sự che chở của Bà Chúa Xứ, chịu làm một ông deva-raja mới. Tuy nhiên ông, và lớp người theo ông, vốn xuất phát từ một vùng chịu ảnh hưởng Hán Việt từ lâu nên sự suy nghĩ cũng phải chuyển hoá đi. Danh hiệu người trong xứ gọi ông được biểu hiện bằng nền văn hoá đó nên được ghi nhận là “Thiên Vương,” và việc xây chùa mới lên trên một nền tháp Chàm cũ mà c̣n mang tên vướng víu “Thiên Mụ” chứng tỏ sự nối kết cũ mới đó. Sự xác nhận gốc rễ về sau “Nhà nước ta phát tích tự Ô Châu” là một bằng cớ t́m cội nguồn tại chỗ. Và sự lôi kéo về phía địa phương vẫn c̣n rất mạnh: Người dưới quyền ông tuy cùng xuất phát tộc đoàn, cùng văn hoá vẫn dùng chữ Thiên Vương để gọi chúa (chuyện năm 1689 với quân Mai Vạn Long) như chúa vẫn xưng với các “thuộc quốc.” Nhưng ưu thế văn hoá hướng dẫn quyền lực của chúa vào tương lai c̣n mạnh hơn. Chúa phải mở khoa thi lấy người làm việc biên chép sổ sách, thu thuế, thâu thái kiến thức trị nước, mà những điều này th́ chỉ có trong Kinh Sử, kể cả Tam quốc chí diễn nghĩa! Cho nên cầu luỵ Chu Thuấn Thuỷ về giúp mà không nề hà cả chuyện ép buộc – mắng chửi, gông cùm, doạ giết! Người thợ Bồ lai Ấn Joan da Cruz đúc súng cho chúa, th́ ghi rơ ràng là làm cho vị vua (bao gồm) “Cochinchine, Champa và Cambodge.” Nguyễn Phúc Trăn đă là Thiên vương với các tập đoàn phía nam th́ cũng thấy ḿnh có thể tiếp tục lấy danh nghĩa “An Nam Quốc vương” để viết thư (1688) cho “Nhật Bản Đại Quốc vương.” Bước tiếp là để dành cho người kế nghiệp.

 

Sự xoá bỏ nước Chiêm Thành đem lại cho Nguyễn Phúc Chu một giải đất liền lạc lớn rộng, cùng lúc tang lễ đă hết, cho thấy một sự đoạn tuyệt với quá khứ và một viễn vọng về tương lai, đủ cho ông nghĩ đến một “nước”. Cho nên không có tên mang danh nghĩa cá nhân chúa kèm theo như thường lệ mà chỉ c̣n một tên bao trùm: Quốc chúa (1693). Thế mà vướng víu vẫn c̣n. Ông không thể lấy cấp bực lớn hơn vị trí kề cận giúp vua (Lê): Thái phó Quốc công. Tên An Nam là từ phong cấp của Thiên triều phương Bắc mà ông th́ chưa từng được như vậy, không có danh nghĩa nào để tuyên xưng cả. Chỉ c̣n một quốc danh bản xứ, được Thiên triều ngó lơ nhưng sử dụng từ lâu nên cũng trở thành có giá trị thực tế. Thế là xưng Đại Việt Quốc vương ghi trên bia đá, trong thư gửi mời Thạch Liêm Hoà thượng (1694), tiếng là cầu hiền nhưng chính là để qua các đồ đệ của ông này, làm mối liên lạc cầu phong Trung Quốc. Quả nhiên trong tờ tŕnh hiến kế qua loa đáp ơn cầu thỉnh của Quốc chúa, ông hoà thượng pháp sư đă đề nghị chúa “tiến cống Trung triều để chính danh hiệu.” Theo lời đó, năm 1702, đồ đệ Thích Đại Sán cầm đầu đi Trung Quốc cầu phong. Tất nhiên là không được v́ sự tách biệt với Đông Kinh (Lê), ngay trong nội bộ, đă không có tính dứt khoát. Quốc chúa tiếp Thích Đại Sán c̣n nhắc chuyện nhớ về Đông Kinh, ám ảnh này mở rộng đến thành cả lời sấm “tám đời sẽ trở về…” C̣n quan chức có danh như Nguyễn Quang Tiền, cả sau sự đổi thay mạnh mẽ của Vơ Vương (1744) khi viết thư cho chúa gửi trả người Thanh về nước (1756) cũng không chịu dùng danh hiệu An Nam Quốc vương. Và quan dưới quyền ông chúa này cũng vẫn “dâng” tôn hiệu Thái phó quốc công (1740). Cho nên chỉ có những bước tiến ngập ngừng. Năm 1709, Quốc chúa đúc ấn Đại Việt Nguyễn chúa Vĩnh trấn chi bảo.

 

Vấn đề có lẽ vẫn sẽ dằng dai nếu không có những đe doạ dẫn đến những quyết định mạnh mẽ. Không biết từ đâu lại có lời sấm “Đến 8 đời th́ trở về Trung đô (Đông Kinh).” Không thể hiểu theo nghĩa lạc quan là thắng Trịnh th́ điều phải hiểu, và phải lo sợ là Nguyễn sẽ mất ngôi cho Trịnh! Các giáo sĩ (Đức ông de la Baume ở Huế 1740) và thương gia hiẹn diện th́ cho rằng đó là do phản ứng của các ông săi đối với tôn giáo mới, muốn nêu lên sự đe doạ là từ phía này. Nhưng chính đạo Phật cũng gặp sự bài bác từ lớp văn quan đang có đà trọng dụng khi đất nước càng phát triển, như trường hợp Nguyễn Cư Trinh với tác phẩm Săi văi. Một thầy săi bị bắt đem chém v́ cho rằng các hiện tượng núi sập, chuột phá đồng, cửa biển Tư Dung bị lấp chỉ là những cảnh báo cho các điều sắp xảy ra c̣n tệ hại hơn nhiều: lửa cháy khắp nước, loạn lạc, dân chết v́ dịch lệ, đao binh… Sự huỷ diệt đó chỉ tránh khỏi khi chính chúa Nguyễn chịu lên giàn hoả để cứu vớt dân chúng. Vấn đề đúng có lẽ là ảnh hưởng từ sự lấn chiếm đất Cao Miên đă khiến nổi lên mối tin tưởng thần thuyết từ phía nam đi ra, nói về sự tuần hoàn thượng/hạ nguơn qua những cuộc đảo lộn kinh hồn. Rơ rệt là ghi nhận của J. Koffler (1754) về lời ông đạo sĩ 80 tuổi được vời từ núi vùng phía nam, đă quả quyết: “ Chỉ có đến 8 đời chúa thôi, không hơn, cho đến khi núi biến thành đồng, cửa biển bị lấp, người quanh ta chết tiệt để cho một lớp người mới đến thay thế, và vương quốc sẽ chuyền sang tay người khác…”

 

Chuyện ấy th́ chẳng thể nào để xảy ra nên hệ thống đương quyền t́m cách phản ứng tích cực hơn: Lập thời mới trước khi định mệnh buộc thay đổi. Thế là năm 1744 “bầy tôi… dâng biểu xin chúa lên ngôi vương…” để có những đổi thay triệt để, không có bước lùi đảo ngược. Chúa trở thành Vơ Vương, đúc ấn (?), ra “chiếu” xác nhận gốc tích mới: “Nhà nước ta phát xuất từ Ô Châu..,” bên trong nâng cấp phong tặng cho cha ông, dựng tông miếu, đảo lộn danh xưng giới tính để đánh lừa thần thánh, bên ngoài đưa hệ thống điều hành trung ương lên đến cấp Bộ, hoàn bị tổ chức lănh thổ lên đến 12 dinh, 1 trấn (Hà Tiên) với Đô thành ở trung tâm. Công cuộc cải cách y phục để dân Đàng Trong khác với Đàng Ngoài đưa đến sự cách biệt dứt khoát bên dưới, “bỏ hết tục xấu, lạc hậu ở Bắc Hà để thành một nước với áo mũ văn vật rỡ ràng (Trịnh Hoài Đức).” Nhưng rơ ràng là bên trên đă không thành công với một tổ chức Lê-không-có-vua-Lê, cho nên rốt lại nhà Lê vẫn hiện diện với niên hiệu của ông vua đang ở Đông Kinh. Điểm dứt khoát cuối cùng đó phải đợi qua cuộc tranh chiến gian khổ của ông cháu lên ngôi năm 1802, và chờ vua Thanh chuẩn nhận.

 

Sự phát triển quyền lực và khủng hoảng ẩn tàng

 

Chính thức th́ người ta biết rằng hai toán bại binh của nhà Minh dẫn đầu bởi Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài / Thượng Xuyên, đầu năm 1679 dẫn 3000 quân, 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung xin làm thần dân đất Nguyễn. Điều dễ hiểu là Nguyễn không thể cho ở sát bên ḿnh một lực lượng to tớn như thế nên đă đẩy tất cả vào đất Đồng Nai xa xôi mà họ từng thấy ruộng đồng ph́ nhiêu, trong lúc quyền bính “Giản Phố Trại” hơ hỏng khiến chính Nguyễn cũng từng xoay chuyển được hơn hai mươi năm trước. Vậy là binh Long Môn họ Dương vào ở vùng Mĩ Tho sâu trong đất Miên, c̣n binh Cao Lôi Liêm họ Trần th́ án ngữ khối dân Mạ ở cù lao (Giản/Đại) Phố, Biên Hoà. Khối họ Trần được ghi nhận nhiều biến chuyển hơn không những trong sử sách Nguyễn mà cả trong ghi chép riêng của Trịnh Hoài Đức. Điều đó một phần có lẽ v́ nhờ vị trí tiếp giáp với khối đông dân Việt có sẵn, phải chịu sự lưu tâm của chính quyền Nguyễn nhiều hơn nơi vùng sau này sẽ là thủ phủ của toàn đất đồng bằng phương Nam. Khối họ Dương khuất lấp hơn v́ ở xa hơn nhưng chính qua biến động năm 1688 mà ta thấy họ vừa làm công việc buôn bán vừa là cướp đường sông, giành giật quyền lợi, dẫn đến việc giết chủ tướng với lí do “ăn mặc đều nhờ sản vật của Chân Lạp.” Sự can thiệp của Nguyễn tuy đưa quân lấn sâu vào đất Miên (Lovek) nhưng vẫn dùng dằng khiến hai viên tướng cầm quân phải bị cách chức, chứng tỏ ư thức xâm chiếm vẫn chưa thành h́nh mạnh mẽ. Tuy nhiên các đoàn quân mang đi chinh phục ấy lại có thời gian khai khẩn đất mới (Mai Vạn Long, ruộng Châu phê của Nguyễn Cửu Vân được công nhận năm 1715,) cùng với đám dân đă có sẵn sẽ khuyến khích những cuộc lấn chiếm sâu rộng hơn.

 

Sự tăng tiến quyền lực của Nguyễn trên đất Đồng Nai lại có tác động ngược đến vùng đất Chiêm Thành. Tuy chỉ là sự sống c̣n lay lắt nhưng quyền bính trên rẻo đất ấy cũng là một cản trở mà Nguyễn phải dẹp bỏ để giữ ǵn an toàn cho đám quân, dân về phía trước càng lúc càng đông, càng tiến xa. Cho nên năm 1693 Bà Tranh (Po Thot) bị bắt, Chiêm Thành trở thành trấn Thuận Thành cùng lúc với sự xuất hiện của tướng Nguyễn Hữu Cảnh/Kính với những công tích lấn chiếm, mở mang trên đất Gia Định về sau.

 

Chúng ta thấy trong đời Quốc chúa tổ chức đă nhặt nhiệm hơn, việc tuyển lựa nhân viên phồn tạp hơn qua những cuộc duyệt tuyển lớn tiếp tục thời trước, thường xuyên hơn, có kèm những lần thi Chính đồ, Hoa văn, hay khảo sát văn chức tổ chức riêng rẽ (1689, 1695 “thi Đ́nh bắt đầu từ đấy,” rồi 1698, thi 1701, 1703, lệnh năm1707 thật chi tiết cho duyệt tuyển năm sau, thi 1713). Di dân Việt, Hoa và những trận chiến lấn chiếm đă khiến vùng trung châu Đồng Nai thành đương nhiên là của Đàng Trong nên rốt lại cuộc kinh lí của Nguyễn Hữu Cảnh (1689) để thành lập hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định) chỉ là chuyện xếp đặt nội bộ với việc phân chia các khu hành chính, mộ người tăng tốc cư dân, tổ chức quân đội, thu thuế, lập nên một vùng phồn thịnh qua bao biến chuyển chiến tranh, thay đổi triều đại măi cho đến ngày nay. Quyền lực ở địa phương được nối kết với trung ương qua việc tổ chức vận tải đường biển, chia khu vực trách nhiệm (1700), thành lập bản đồ có thưởng tiền rất lớn mà cách đo đường đất lại nhờ vào phương tiện mới: Dùng đồng hồ để tính độ xa gần. Sự thành lập các dinh đă chận con đường ra biển của Cao Miên. Trần Thượng Xuyên đă đóng quân sắp vượt sông Tiền (1699) cho nên lại gây mâu thuẫn với triều đ́nh Cao Miên, trong đó những cuộc tranh giành nội bộ dẫn đến sự cầu viện người Xiêm mở rộng tham vọng của họ, càng làm cho Cao Miên thất thế hơn.

 

Nguyễn chưa kịp đi xa hơn nữa th́ một nhóm Minh lưu vong khác lại đặt một đầu cầu cho Nguyễn bước qua đến bờ vịnh Thái Lan. Mạc Cửu (1655-1735), một tay giang hồ người Lôi Châu mới 16 tuổi đă trôi dạt đến đất Cao Miên, khéo léo được trọng dụng rồi t́m cách kinh dinh riêng vùng Hà Tiên theo cung cách của một dân tứ chiếng mang tham vọng lớn: Gá bạc, chiêu tập lưu dân khai khẩn ruọng đất, trao đổi sản vật nội địa ở vùng núi Tượng kề phía sau. Tiếng là Mạc lúc đầu chỉ lập thành 7 thôn xă nhưng trong thực tế theo các địa danh nêu ra, rơ là ảnh hưởng cả bờ biển phía đông vịnh Thái Lan như được xác dịnh về sau trong những cuộc xung đột của Nguyễn và Cao Miên được Mạc đứng làm trung gian. Dù sao th́ Mạc Cửu cũng không thể nào đủ sức đương cự với hai thế lực mang tầm vóc quốc gia đang lên như Đàng Trong và Xiêm La. Đất nước Cao Miên mà ông nhờ cậy, làm quan th́ quá yếu ớt, chưa đủ khiến ông tránh được tai vạ bị vua Xiêm bắt đi (1706). Lần trốn về căn cứ cũ, ông nh́n ra được hướng liên minh phải có. Ông hẳn thấy rơ những người đồng hương với ông đang phục vụ chính quyền Nguyễn ở bên kia các nhánh sông lớn. Không rơ việc kết nối hôn nhân với Trần Thượng Xuyên xảy ra vào lúc nào nhưng rơ ràng toán Minh dân 1679 và chính quyền Đàng Trong mang tính cách đồng văn hoá đă khiến cho sự đầu phục của ông cựu Ốc nha / Okya của Cao Miên năm 1708 là thuận chiều của t́nh thế. Với Hà Tiên ở cuối đường đất, với Trần Thượng Xuyên đă từng đóng quân phía đông sông Hậu, đương nhiên năm 1731 Nguyễn đặt dinh Điều khiển ở Gia Định như một bộ tư lệnh phương Nam, lập châu Định Viễn, đăt dinh Long Hồ. Thêm một lần can thiệp các năm 1756-57, Nguyễn đẩy dinh Long Hồ xa thêm đến địa điểm Vĩnh Long ngày nay, đặt các đạo Tân Châu, Châu Đốc, cắt đứt khối người Miên vùng Bạc Liêu, Sóc Trăng cách biệt với chính quốc của họ trước khi bị sáp nhập vào thế kỉ XIX theo triều đại mới. Nhưng không phải Nguyễn đă không chịu hệ luỵ v́ sự bành trướng này.

 

Lê Quư Đôn làm việc tổ chức hành chính cho đoàn quân Trịnh trên đất Thuận Hoá vừa chinh phục được (1776) nên hầu hết những chi chép về công cuộc kinh dinh của họ Nguyễn ở đất Đàng Trong đều là những số liệu gần với thời ông, nghĩa là thuộc vào thời ḱ phát triển nhất của xứ này, thuộc vào thời ḱ các ông chúa muốn, và mới xưng vương. Đó là kết quả của hàng trăm năm thu xếp cho nên ta không lấy làm lạ với những con số chi tiết đến mức độ kinh ngạc về tổ chức ngụ lộc cho các quan, về số lượng binh lính (1753), về thu chi tài chính chính xác (kiểm kê năm 1744), về t́nh trạng thuế khóa, phân phối chi li… những con số tương đương không thể thấy ở Đàng Ngoài nhiều “chữ nghĩa” hơn. Tiếp cận được với thực tế nên Lê Quư Đôn vừa khen tổ chức hoàn bị của Đàng Trong (sổ sách thuế má các phủ, dinh “rất là kĩ lưỡng” 1769), vừa than thở giùm cho dân chúng “chịu sao cho thấu!” Chẳng có ǵ là mâu thuẫn ở đây cả. Chính quyền Nguyễn, như bất cứ chính quyền nào khác, phải cố sức tận vét không những chỉ cho bản thân mà c̣n cho nhu cầu cai trị. Càng phát triển, nhu cầu càng lớn trong t́nh thế càng phức tạp hơn như thời gian họ Nguyễn tiến đến giai đoạn xưng vương, lập nước. Sự cố kết qua thân tộc, địa phương “Quư Huyện” rơ ràng là cần thiết nhưng không đủ nên phải nhường quyền lợi cho những người khác, cho “bách tính,” cho dân lưu vong, kể cả cho dân phiên thuộc, “man mọi” mới về. V́ thế có những cuộc mua quan bán tước với giá rơ ràng rất cao nhưng vẫn có người mua v́ lợi lộc thoát ra ngoài quyền thu của chúa cũng không ít. “Thuế khoá xứ Thuận Hoá, pháp lệnh rất phiền, nhân viên thu thúc rất nhiều… dân cùng nhà nghèo thường khổ gấp bội mà quan lại bớt xén không thể kiểm xét được” – Lê Quư Đôn. Người ta hay dẫn lời ông nói về một xă mà có tới 16, 17 Tướng thần, 20 xă trưởng nhưng đó là điều cũng khiến Lê Quư Đôn khen Nguyễn “lấy dân tra xét dân.” Kết quả c̣n lưu lại đến gần đây, khi người Pháp tổ chức Nam Ḱ, rơ ràng số nhân viên hương chức vẫn cho thấy vừa rối loạn vừa phức tạp, và thời Nguyễn, mỗi thôn (làng xă) của Cù lao Phố có đến 37 hương chức, nghĩa là toàn thể 13 thôn của vùng này có khoảng 481 người cai quản, tỉ lệ quan/dân như thế có thể lên đến 1/10!

 

Thu hoạch nhiều từ ruộng đất th́ đủ để nuôi dân, nuôi lính, nuôi quan nhưng nguồn lợi tức rừng núi làm phát triển cả một ḍng lưu thông nguồn-đồng-biển, và ngược lại, mới chính là nguồn tài lực mang lại sản phẩm kĩ thuật cao như đă thấy về súng đồng, về đồng hồ trên các trạm đường… Với t́nh trạng giao thương đó th́ nhu cầu tiền tệ cũng phải cao mà Nguyễn dù cố gắng cũng không giải quyết được. Dương Văn An từng than lúa thóc tràn đầy mà tiền “mắt ngỗng” – thường vẫn bị loại bỏ, cũng không có lấy một đồng! Đàng Trong không có đồng, Hà Tiên nhỏ bé quyền bính nhưng v́ nhu cầu kinh doanh nên vẫn ráng đúc tiền (1736), mà cho ra loại nhỏ để bớt hao hụt nguyên liệu! Khả năng Đàng Trong cũng không đáp ứng được yêu cầu, như được thú nhận trong thư năm 1688 của “An Nam Quốc vương” gửi cho Đại Quốc vương Nhật Bản. Chúa Nghĩa biết Nhật đă cấm dân nước ra ngoài, không bán đồng, nhưng chịu chia sẻ mối lợi để Hà Lan đúc tiền từ cảng Trường Ḱ bán đi, nên thúc đẩy Nhật “chế thật nhiều tiền đồng để cứu nước nghèo tiền tệ.” Công ti VOC của Hà Lan tuy đúc súng bán nhưng có lúc cũng thấy chỉ c̣n có việc buôn tiền là có lợi chắc chắn mà thôi. Quốc chúa không giải quyết được ǵ nhưng người kế nghiệp ra lệnh đúc tiền (1725), cũng không đủ. Do đó, t́nh trạng “đói tiền” đă khiến Vơ Vương đúc tiền kẽm (1746), cứ tưởng giải quyết được vấn đề mà không ngờ là nguyên cớ lớn suưt làm tiêu tan sự nghiệp của ḍng họ.

 

Đất nước rộng lớn chứa nhiều chủng loại người, nhất là dân phiêu lưu không chịu vào khuôn khổ trên một vùng c̣n rất nhiều sơ hở về quyền bính ràng buộc nên rối loạn cũng là điều xảy ra thường xuyên. Những người Hoa lưu lạc là yếu tố nhân lực chính khai thác vùng của các chính quyền cũ yếu thế, đồng thời lại cũng là yếu tố gây đảo lộn lớn. Chúa Nguyễn xoá vương quốc Chiêm Thành (1693) v́ thấy cản trở trên con đường liên hệ với vùng đất mới phương Nam nhưng sự chống đối của người Chàm khiến cho vương triều lay lắt này trở lại như cũ (1594) một thời gian để năm 1695 T. Bowyear c̣n được mời đến giao thương. Sự nới lỏng này là do sự xúi giục và tham gia của lớp người Thanh – người Hoa của triều đại mới, đến muộn phải kèn cựa giành chỗ, và thường là thất bại. Khách buôn Lí Văn Quang tụ đảng đến hơn 300 người, xưng là Đông Phố (phải là Giản Phố th́ đúng hơn) Đại vương, mưu đánh úp dinh Trấn biên (1747). Trên vùng Hà Tiên lại cũng thấy một âm mưu lạc loài của những người đến muộn như nhóm Trần Thái quấy rối Mạc Thiên Tứ (1768), dây dưa đến sự can thiệp của quân Xiêm. Trần Liên, quan Xiêm mà rơ là gốc Thanh., đă thay mặt Xiêm cai trị, tàn phá ải địa đầu này của Nguyễn (1773). Và rồi tiếp tục lại vẫn thấy dân phiêu lưu trong cuộc đảo lộn cuối đời với Trung nghĩa quân Tập Đ́nh vắn số và Hoà nghĩa quân Lí Tài hơi bền dai hơn.

 

Lại cũng thấy nhân vật của t́nh thế mới gây chống đối như năm 1695 ngườ́ lái buôn tên Linh, xưng Linh Vương, ở Quảng Ngăi phối hợp với người Quy Ninh (Quy Nhơn) “ra vào núi rừng” họp đảng chống đối. Họ không thành công nhưng rơ ràng đó là kẻ mở đường cho tập họp Tây Sơn gần một thế kỉ sau, lớp người đầy đủ cơ sở để nổi dậy thành công hơn. Lê Quư Đôn đă thấy lí do tại sao đám “giặc” làm điên đảo họ Nguyễn lại xuất phát nơi vùng chịu áp bức nặng nhất. C̣n riêng chúng ta lại phải ngạc nhiên tại sao một đám cướp nhỏ cũng của vùng Tây Sơn chỉ c̣n tên một người: Lía (một người Thanh?), không được ghi trong sử sách, cướp bóc trên một địa điểm mà người địa phương cũng không thể chỉ rơ nơi đâu:

 

Chiều chiều én liệng Truông Mây,

Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.

 

thế mà Vè chàng Lía lại lưu truyền và cải biến thành Thơ Văn Doan đến tận xứ Gia Định xa lạ, lưu giữ cả qua thời họ Nguyễn phục hưng.

 

Tất cả những phức tạp đó là biểu hiện của một “nước” Đàng Trong đang thành h́nh với những khuyết điểm nội tại, c̣n phải vượt qua hơn phần tư thế kỉ rối loạn để chuyển biến thành một nước Việt Nam càng phải đương cự với nhiều vấn đề của thế giới vốn chỉ mới len lén bước vào trong thời gian này.

 

Phụ lục 1

 

MÂU THUẪN CHĂM – BÀ NI

 

Khi nói về vương quốc Champa người ta chú trọng nhiều đến dấu vết ảnh hưởng Ấn Độ trong tổ chức chính trị, tín ngưỡng dẫn đến các công tŕnh xây cất, tạo tác c̣n để lại sau khi vương quốc đă sụp đổ. Tuy nhiên trong tiến tŕnh phát triển mà sự hưng thịnh phải dựa vào hoạt động thương mại th́ Hồi Giáo tuy đến sau, chưa đủ để lên địa vị chính thống nhưng cũng đă để lại dấu vết trên vương quốc Chàm, và nhất là trên cuộc sống của người dân Chàm, càng đậm nét hơn khi chính quyền trên cao đă sụp đổ. Chẳng nói đâu xa, trước năm 1975 người ta c̣n thấy những ông thầy Chàm ngồi trên các đường phố, mang giỏ thuốc mời mọc người qua đường…

 

Những dấu vết bia đá, truyền thuyết cho thấy Hồi Giáo đă có mặt rất sớm trên vùng phía nam, ít ra là trong thế kỉ XI cho nên lại có suy đoán theo truyền thuyết là chính Hồi Giáo ở Java vốn xuất phát từ Champa. Thế rồi gần đây người ta lại dựa vào truyền thuyết Po Rome, cho rằng ít ra là có một đợt xâm nhập của Hồi Giáo – mà thất bại, do chính ông vua này mang từ Kelantan (Mă Lai) về. Nhưng xét lời văn ở Chiếu B́nh Chiêm năm 1470 của Lê Thánh Tông th́ chắc chắn là Trà Toàn (khoảng 1449-1471) đă cho thi hành một số luật tục Hồi Giáo như cấm nấu (uống) rượu, cấm giết (ăn thịt) heo trên đất nước ḿnh, không hẳn là chăm chú riêng để chống đối tập đoàn người Việt sống lẫn lộn nơi ấy như lời Hịch kia kể tội để lấy danh nghĩa tiến quân. Và do đó chúng ta có căn cứ ngược về trước, rằng Chế Bồng Nga đă có khuynh hướng theo Hồi Giáo nên đă hùng mạnh mà không xây tháp, dựng bia kỉ niệm theo như truyền thống Ấn cũ. Năm 1607, một đô đốc Hà Lan ghé cảng Chiêm Thành mua thực phẩm, lấy nước đă gặp ông thượng quan phụ trách nghi lễ, là dân Hồi Giáo.

 

Như thế trong dân chúng Chàm đă thành h́nh hai tập đoàn mang hai tín ngưỡng khác nhau mà sự sụp đổ trên tầng lớp cao đă dồn những mâu thuẫn đi xuống trong sinh hoạt xóm làng, hàng ngày, riêng biệt trong hôn nhân, lănh vực lúc nào cũng là nơi khuấy động t́nh cảm bức thiết nhất. Chăm Bà la môn tự gọi là Cam Jat (Chăm thuần, gốc), được nh́n theo tục lệ, gọi là Cam Cuh ( Chăm thiêu), hay giản dị chỉ là Cam/Chăm khi liên hệ đến tập đoàn kia: Chăm Bà ni / Cam Bini, với nghĩa “con trai của Đấng Tiên tri.” (Tuy nhiên Dohamide giải thích Bà ni chỉ có nghĩa giản dị là “đạo”.) Bà ni có dấu vết ḍng Shiite v́ trong lễ cưới Bà ni, chú rể đóng vai Po Aly – Ali là rể của Mahomed, chủ phái Shiite. Trong khi đó nhóm Hồi Giáo mới ở Châu Đốc lại thuộc ḍng Sunni. Bà ni lại làm mất ḷng người anh em Islam chính thống v́ không tuân thủ nghiêm ngặt quy luật Hồi Giáo, thờ kính thần linh lẫn lộn đến mức cùng tham gia vào các lễ tiết của người phái Cam. Tuy nhiên họ lại ư thức rơ rệt về sự phân biệt “Cam, Bini khác nước,” gọi người phái Cam là Cam Kaphir (vô đạo.) Sự xung đột tôn giáo làm xuất hiện từ thế kỉ XVII các bài thơ dài được lưu giữ trong các gia đ́nh và xuất hiện trên sách vở ngày nay qua các công tŕnh khảo cứu của học giả ngoại quốc cũng như từ chính các trí thức Chàm ư thức được sự cần thiết phải hiện diện.

 

Liên quan đến vấn đề đang bàn là akayat (sử thi / tráng ca) Um Mưrup, trong đó nhân vật hoàng tử Chăm Um Mưrup được thuyết phục theo Hồi Giáo, quay trở lại chống vua cha, làm một thứ nhiệm vụ “tông đồ” nên chịu tử v́ Đạo, cuối cùng được đồng đạo trả thù, tàn phá đất Chàm. Có hai bài thơ trữ t́nh dài (ariya) kể chuyện xung đột tôn giáo lại mang tính nhân bản hơn, dễ thấm vào ḷng người hơn. Đó là ariya Bini-Cam (khoảng cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII) kể chuyện hoàng tử Chăm mê công chúa Islam, say đắm đi t́m người yêu trên những vùng nay không c̣n là của vương quốc huy hoàng ngày xưa nữa. Chuyện t́nh giống như vang vọng lịch sử của công tŕnh Po Rome đi t́m viện trợ Hồi Giáo mà không kết quả: Công chúa Islam về lại Mưkah/Mecca, “Nàng mang chi chiến tranh, Quê hương anh tan tành, đám dân đen khốn khổ.”

 

Ariya Cam-Bini (khoảng đầu thế kỉ XIX) càng gần gũi nhân t́nh hơn. Đó là chuyện đôi trai gái yêu nhau, không lấy được nhau, cô gái không những bị cản trở mà c̣n bị hành hạ đến chết. Một điểm lạ đối với những người lầm lạc nghĩ về chế độ mẫu hệ, cứ tưởng phái nữ phải có chút quyền hành nào, té ra cũng vẫn sống cuộc đời phụ thuộc (“Phận đàn bà giữ nhà,”) cực nhọc cung phụng đàn ông hưởng thụ, với ư tưởng đàn ông là của cuộc sống chinh chiến, to rộng bên ngoài xă hội, nhưng có khi thật sự chỉ là rong chơi! Nghịch lí xă hội này lại được lí tưởng hoá trong văn chương, ở ariya Xak Pakei (cũng cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII) kể chuyện một người con gái đeo đuổi người con trai đến tuyệt vọng.

 

Sự mâu thuẫn Chăm/Bàni trong hiện tại, qua thơ văn lại làm nổi bật vấn đề nhân vật Ngoạ Triều trong quá khứ xa. Chúng ta đă thấy Ngoạ Triều, ông vua Chàm trên đất Việt đó (nếu nh́n sự truyền ḍng qua người mẹ Chàm) rất thích ăn thịt giông, theo như ta suy đoán từ Toàn thư. Ấy thế mà con giông, xuất hiện trong “ca dao” Chăm, lại là chứng vật trung tâm của mâu thuẫn Chăm/Bà-ni:

 

Chăm đào giông miệng cười kh́,

Giông chạy đi Chăm đấm ngực.

Chăm lại đào trong căm tức,

Ôi trời đất! Tội lắm thân con!

 

Inrasara giải thích hơi mâu thuẫn trong cách nh́n của người Chăm Bà ni về con giông, theo đó, giông là “con vật được thờ phượng” (1992) / là “con ḅ sát xấu xa” (2006). Tuy nhiên chỉ riêng với chứng cớ trên th́ chúng ta cũng hiểu rằng người Bà ni đă nhạo báng một sinh hoạt thông thường của người Chăm, c̣n lí do xung đột cho là bắt nguồn từ sự tin tưởng kia th́ chỉ là một biện minh đến sau mà thôi.

 

Phụ lục 2

 

NGƯỜI TRÊN ĐẤT GIA ĐỊNH, NHƯ DẤU VẾT CHƯA ĐƯỢC QUAN TÂM ĐÚNG MỨC

 

Ngày nay, khi muốn t́m hiểu về đất Đàng Trong, học giả thường lục t́m trong Phủ biên tạp lục, nhưng muốn t́m hiểu về phần cuối của đất nước th́ phải đọc Gia Định thành thông chí của người địa phương Trịnh Hoài Đức v́ Lê Quư Đôn chỉ ngồi ở Phú Xuân nghe ngóng mà thôi. Tuy nhiên v́ những cấm kị không thành lời, người ta lại chỉ nh́n sự phát triển ở nơi này chủ yếu là do sự điều đọng quân binh Nguyễn đi theo với đông đảo người Việt di dân tràn vào – và hẳn nhiên cũng nhắc qua loa đến đám Minh dân lưu vong một chút. Bức tranh thô giản được nh́n trong hiện tại đó sẽ khác đi nếu ta chăm chút thêm vào những lời kể của Trịnh Hoài Đức. Tất nhiên ở đây không phải là chỗ để chép lại mọi lời của ông quan triều Nguyễn, gốc Minh Hương mà đă trở thành “người nước ta” như ông đă tự xưng.

 

Tập họp “người Gia Định” theo Trịnh cho thấy, bao gồm nhiều chủng loại: Hán nhân “lưu dân nước ta,” người Thanh được gọi là người Đường; người phương Tây có: Phú Lăng Sa, Hồng Mao, Mă Cao (Bồ?); ngoài biển vào có Đồ Bà theo đạo Bái Nhật – hẳn là Trịnh có thấy họ rạp người quỳ lạy hướng về Mecca. “Người các nước ấy đến kiều ngụ đông đảo chung lộn mà y phục, khí dụng đều theo quốc hoá của họ.” Như thế Gia Định của thế kỉ XVII, XVIII đă mang tính chất tứ chiếng giang hồ – quốc tế, nếu muốn nói nghiêm chỉnh hơn. C̣n phải kể những người Khmer vẫn có mặt để ta không ngạc nhiên về t́nh trạng Nặc Nọn chẳng hạn làm Phó Vuơng ở Sài G̣n, địa điểm theo danh xưng cũ là vùng Chợ Quán (Quận 5, TP. HCM), nơi đó cả gần trăm năm trước đă đặt một trạm thuế của Đàng Trong, cũng như lại một trạm khác nữa ở gần bên, vùng bến Bạch Đằng ngày nay. Chính v́ vậy mà khi nói chuyện với nhau, có tiếng “Đường” tiếng Miên lẫn lộn, rơ là nhiều hơn b́nh thường như gần đây nên Trịnh bảo là “người ở hạt khác đều không biết.”

 

“Người Việt ta… theo tục cũ Giao Chỉ”, chắc là được tả theo trước khi có cải cách 1744 th́ đáng chú ư riêng biệt, là đi chân đất, “không có quần,” đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố, tuy không phải là rách rưới. Đọc Trịnh mới hiểu tại sao vùng Nam Bộ gần đây lại làm lễ đưa ông bà vào ngày mồng 4, mồng 5 Tết: Dân chúng tiễn đưa ông bà sau ngày quan làm lễ (mồng 3) là để ông bà họ ở cơi u minh khỏi bị bắt đi khuân vác vật dụng nhà quan! Lại thấy đă có tục Sắc bùa / ”nậu sắc bùa” trong lễ Tết của Nguyễn đem từ vùng Mường phía Bắc đi vào Gia Định, như các nghiên cứu gần đây chứng minh rằng nó đă theo các chặn đường bành trướng của Nguyễn: Nghệ Tĩnh, Thuận Hoá, Ngăi B́nh, Bến Tre… Không hiểu từ đâu có việc lễ Tết bày mâm ngũ quả lại có thêm cây mía đủ cả gốc ngọn, nói là để ông bà làm gậy chống đi… Tuy nhiên người đời nay thấy tṛ thi đua ăn hot dog trên tivi th́ không ngạc nhiên khi nghe kể chuyện dân Gia Định đánh đố uống trà Huế từng bát lớn, mồ hôi đổ ra như tắm, hay ăn mắm mặn chát, người xuất sắc ăn “hết 2 ống mắm, độ 20 cân .” Không có chứng cớ nào rơ ràng hơn về một xứ sở phồn thịnh, sung túc. Tính chất quốc tế, nhân bản trong sinh hoạt khiến ta ngờ rằng một tục lệ khác cũng mang tầm mức nguồn gốc xa rộng hơn. Đó là tục mở cuộc cầu đảo hát xướng, mời người đem tiền bạc đến tham dự chia xẻ tổn phí nhưng đến khi người kia mời lại th́ phải đáp lễ, mà phải trội hơn lần thụ nhận. Cứ qua lại theo cách gấp bội như thế nên cuối cùng tiền “phiên lễ” đó lên đến cả 100 quan tiền, “có người phải cầm cố vay mượn để trả..,” có người nghèo không đủ để đi trả lễ liền bị “chủ nợ” đến tận nhà hạch hỏi, lạ lùng là có thưa kiện đến tận cửa quan! Tất nhiên sự kiện lan truyền có méo mó theo với đướng đất xa cách nhưng tục Phiên lễ này h́nh như có vướng vất lễ tục potlatch của vùng tây bắc Thái B́nh Dương th́ phải. Cho nên không lấy làm lạ rằng lại cũng trên đất Gia Định / Nam Ḱ trước Thế chiến II có dấu vết tin tưởng cargocult của dân hải đảo ngoài xa.

 

Như thế, giở lại Gia Định thành thông chí, đọc một cách chăm chú cũng sẽ thấy ra nhiều điều mới mẻ hơn là các thứ do thói quen, thành kiến dắt dẫn.

chương xiv:

1771 – 1802

 

MỘT THẾ HỆ, TRONG VÔ THỨC, ĐI T̀M VƯỢT THOÁT KHỎI V̉NG KỀM THÚC CỦA TRUYỀN THỐNG KHU VỰC**

 

Tại sao Tây Sơn?

 

Giữa hai vùng Nam Bắc đang ḱnh chống nhau, có vẻ nhóm Trịnh Lê phải lo âu nhiều hơn v́ những rối loạn nội bộ gay gắt nổi bật mà sử gia trong nước đến nay vẫn c̣n dùng nhóm từ “Phong trào nông dân” để chỉ định, tuy rằng dấu vết lănh tụ đă không bỏ sót ai, từ tầm mức giặc cỏ lên tới quan chức sĩ hoạn nhỏ lớn, với cả người hoàng tộc muốn giành lại quyền lực cho gia đ́nh ḿnh. Phía Đàng Trong, như ta thấy, chỉ có sự lấn lướt về phía chính quyền, tuy vẫn gặp cản trở nhưng cứ tưởng như chúa Nguyễn chưa có thể thấy ngay ngày suy sụp. Vậy mà điều ấy đă xảy ra trước ở đây.

 

Sử gia ngày nay, để hợp với ư thức chính thống khai triển từ những năm 50 của thế kỉ XX, cũng gọi biến động làm khuynh đảo triều chính Nguyễn, dẫn đến sự phá vỡ phân tranh trong 200 năm có hơn đó, là một cuộc khởi nghĩa nông dân, mang thêm dấu ấn của thời hiện đại, là một cuộc Cách mạng: Cách mạng Tây Sơn. Người ngoại quốc (thương nhân, giáo sĩ) có một chút cách biệt (John White 1819) th́ nh́n ra nguyên nhân suy sụp là ngay chính nơi t́nh h́nh phát triển quyền lực của nhóm người cầm đầu. Đó là bước phát triển có định hướng rơ rệt, theo tổ chức của một chính quyền Á Đông, với một sự thu xếp đ̣i hỏi những chi phí lớn lao đi theo với sự bành trướng quyền lực, làm tăng tiến kiêu ngạo bản thân, những điều vốn thường hay dẫn đến sự đổ vỡ như thường thấy ở các tập đoàn cai trị tương tự. Tất nhiên t́nh h́nh tệ hại trong việc cai trị ở Đàng Trong, ngay từ phủ Chúa đă bị H. Poivre (1749) nhận ra qua lời phê phán ông chúa “tham sắc, xa xỉ, bỏ mặc việc nước trong tay đám cận thần tham tàn” nhưng sự cải tổ của Vơ Vương năm 1744 cũng là có thể coi là một cố gắng vượt-thoát-về-phía-trước. Có điều chính sự tập trung quyền hành tột đỉnh vào một người mang ư nghĩa “vua” lại là một nguyên cớ gây nên găy đổ khác.

 

Các chúa Nguyễn không phải là người ở địa vị vững vàng nhất như sách sử thường tô vẽ. Khi người ngoại quốc khen các chúa đầu được dân chúng yêu mến v́ cai trị khoan dung, điều đó một phần cũng là phản ảnh một tính t́nh yếu mềm ngay nơi các ông này, vốn chưa vững tin nơi địa vị phải có. Trong những cuộc tranh giành quyền bính lúc đầu giữa anh em, các người làm chúa đă tỏ ra ngần ngại khi phải trừng trị kẻ chống đối. Chúa Hiền kế vị mà khóc xin nhường cho ông chú. Cho nên đến thời Quốc chúa, Thomas Bowyear (1695) đă nhận ra rằng ông này chịu ảnh hưởng rất mạnh của bốn ông cậu/chú/bác. Điều này cũng cho thấy việc thành lập hệ thống Tứ trụ năm 1638 là một h́nh thức phân chia quyền lực của các tộc họ lớn như ta đă phân tích từ trước. Trong thực tế th́ cái thế cân bằng phân quyền này cũng rất mỏng manh. Th. Bowyear thấy được ba ông th́ hai ông Tả, Hữu (không rơ Nội hay Ngoại) đă rất già. Và sau đó, năm 1709 lại có tranh giành, một ông Nội hữu họ Tống Phúc làm phản, chỉ bị cách làm thứ dân, c̣n người anh của đồng đảng (bị giết) thuộc ḍng Nguyễn Cửu th́ làm chức Nội hữu năm 1714. Điều quan trọng mà bị lướt qua là những người muốn cướp quyền ở đây không phải mang họ Nguyễn Phúc, họ làm chúa. Cho nên cuộc tranh giành quyền bính sau khi Vơ Vương chết không phải là điều mới xảy ra lần đầu.

 

Mọi biến động dẫn đến việc suy sụp triều chúa đều được cho là tội của Ngoại tả Trương Phúc Loan đă âm mưu cải sửa di chiếu. Tuy nhiên lời của Thực lục “(Nguyễn Phúc Luân, cha Nguyễn Ánh) theo vai vế th́ đáng được lập” cũng cho thấy không có sự xác quyết ngay từ Vơ Vương. Chúa “mềm yếu / lại cái” (Jh. White, bản chữ Pháp: efféminé) từng đảo lộn giới tính cho các con trai của ḿnh th́ không thể có quyết định sáng suốt được. Việc Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi (1765) cũng được sử quan đổ tội cho Loan nhưng vai tṛ Thái giám Cửu Đức lại cho thấy là rối loạn bắt đầu từ nội cung. Mẹ Thuần, bằng vào liên hệ con chú con bác với ông chúa mới mất, đă thấy tham vọng giành ngôi có cơ thực hiện được khi những người lớn tuổi đua nhau rơi rụng. Cùng phe Loan có Nội tả (1739) Nguyễn Cửu Thông, và Ngoại hữu lại là anh của Thông: Cửu Quư. Cho nên sự thành công của tam trụ là điều không lạ. Ông Nội hữu Trương Văn Hạnh bị gọi vào cung giết đi chỉ là do rủi ro làm người nuôi nấng Phúc Luân theo chủ trương “đỡ gánh nặng con cái” của Vơ Vương chứ cũng không hẳn là kẻ được chỉ định phù trợ người kế nghiệp. Loan là người cầm đầu, do có liên hệ nhiều nhất với nhà chúa nên được đẩy lên địa vị “tể tướng” Quốc phó, nhường chức ngoại tả cho một người hoàng tộc biếng nhác, bất lực, gắng gượng xuất hiện vào hồi chót để cứu vớt ḍng họ, rồi chết v́ Hoàng tôn Dương trong hoàn cảnh éo le làm kẻ phù trợ Tây Sơn nên chịu khuất lấp trong trang sử của nhà ḿnh!

 

Tuy nhiên sự sụp đổ của họ Nguyễn chúa không phải chỉ v́ những rối loạn cung đ́nh này. Loạn hay trị chỉ là vấn đề tương quan quyền lực. Họ Trịnh sau đời Trịnh Sâm xét ra c̣n nát bét hơn họ Nguyễn. Không có nhóm Tây Sơn quấy đảo th́ các họ Trịnh, Nguyễn sẽ lần lượt t́m lại thế quân b́nh trong việc phân chia quyền lực với nhau để lịch sử ḍng họ chỉ như vừa trải qua một cơn khủng hoảng nội bộ mà thôi. Và Nguyễn sụp đổ trước chỉ v́ phải chứa chấp Tây Sơn, phải chịu đựng một lực lượng chống đối trong ṿng quyền bính của ḿnh mà vùng đất Quy Nhơn lại như là một điểm hội tụ đương thời của những mâu thuẫn họ Nguyễn không giải quyết nổi.

 

Nh́n lại trong sự phát triển quyền lực của Nguyễn, căn bản tổ chức tuy là theo khuôn mẫu của một chính quyền phương Đông nhưng trong t́nh thế riêng biệt của vùng và của thời thế, yếu tố thương mại đă có dáng quan trọng đến mức chứa chấp cả sự hưng vong của ḍng họ. Không phải chỉ v́ nhu cầu tự vệ với Trịnh mà Nguyễn bị buộc phải củng cố phát triển. Trong một trăm năm ngưng chiến, họ vẫn trên đà gia tăng cường thịnh để có những toan tính ḍm ngó đất Đàng Ngoài, và chuẩn bị xưng vương lập nước. Phần đất mới chiếm ở đồng bằng phía nam tuy c̣n nhỏ hẹp, vẫn đang ở thế tranh chấp nhưng cũng đă đủ cung cấp lúa gạo cho vùng Thuận Quảng, nơi với đà khai thác không ngừng và với dân số tăng trưởng, đă mất lần danh vị đất Hai Huyện, “tiểu Đồng Nai,” hay bị bỏ luống v́ đă có sẵn gạo đưa tới như hàm ư của Lê Quư Đôn. Nhưng cũng v́ cái thế phụ thuộc đó mà khi có biến loạn, thuyền buôn không tới th́ khủng hoảng thấy rơ như trong lời tŕnh bày của Ngô Thế Lân, và cao điểm là trận đói kinh hồn của dân Thuận Hoá ghi lại ở Hoài Nam khúc.

 

Tuy nhiên cho đến lúc này th́ lúa gạo Gia Định chủ yếu chỉ dùng cho trong nước chứ chưa phải là nguồn lợi xuất khẩu, nếu ta nh́n vào ghi nhận của Lê Quư Đôn và liếc vào danh sách các món hàng trên thương thuyền ngoại quốc. Cho nên lợi tức do giao thương đem lại cường thịnh cho chúa Nguyễn chính là từ các sản vật khai thác trên vùng Thuận Quảng cũ và phần mới chiếm được trong đời các chúa khởi đầu. Ở đây, ngoài các sản phẩm thủ công nghiệp quen thuộc với người Âu (đường cát, tơ lụa), cái thế khởi động thường xuyên liên tục là theo hướng rừng-đồng-biển hay ngược lại, và phần lớn là khai thác thiên nhiên hơn là nuôi trồng: “Ai về nhắn với nậu nguồn, Măng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên.” Các lễ tục c̣n giữ lại cho thấy sự quan trọng của nguồn lợi rừng núi trong khu vực: lễ Khai sơn, Đăng sơn, tục Đi nguồn… Trong liên hệ đồng biển th́ có lễ Cầu gió, lễ Cầu ngư mở mùa cá. Chính quyền Nguyễn chỉ làm việc kiểm tra thu thuế như ta đă thấy, qua các thương nhân nội địa với các đầu mối nhỏ ở làng xă, len lách trong các nguồn, đưa sản phẩm vào tay những người Các lái – cái tên từ thế kỉ XVIII c̣n thấy đến gần đây ở vùng “Mọi”, trong đó lớp người năng động có mối liên lạc quốc tế, ngoài biển xa hơn, là những người Hoa, Minh dân cũ hay Thanh nhân mới. Các tập đoàn này tất nhiên là có sự tương nhượng để cùng hưởng lợi. Những người thợ làm xe nước Quảng Ngăi gần đây, trước khi đi lấy gỗ phải làm lễ Đăng sơn, nạp tiền cho các cai tổng Mọi gỡ bỏ sập bẫy, c̣n những người các lái, đốt than, lấy củi th́ phải tế nơi các đền Bà Chúa (Xứ) trong vùng. Có sự thoả thuận như thế nên chức quyền Pháp ở Quảng Nam vào những năm 1930, thám hiểm vùng rừng núi phía tây đă gặp một Các lái mù đi cáng, lặn lội mua bán quế trên dưới 20 năm! Và lại cũng như với trường hợp lúa gạo, khi chính quyền Nguyễn yếu thế th́ mối hoạ là từ những lớp người thao túng tài sản này. Cụ thể, ở vùng núi phía tây phủ Quy Nhơn, từ đó có tên Tây Sơn, được giữ như một chứng tích sức mạnh kinh hồn, một biểu tượng oai hùng thời cận đại.

 

Từ năm 1768, Hàn lâm Nguyễn Quang Tiền đă nghe lời đồn đất Quảng Nam (nghĩa là dài tới Phú Yên ngày nay) sẽ có loạn trong 6 năm tới. Nhưng lời “tiên tri” đó chỉ đúng khi nói về thời điểm bùng nổ chứ không phải về sự kết tập của các lực lượng. Năm 1770 quan quân phải dẹp loạn người Thượng trong vùng, tiếng gọi là b́nh Mọi Đá Vách nhưng những biến động tiếp theo cho thấy một loạt các lái miền xuôi đă xuất hiện, rồi sẽ liên kết hoặc đầu quân dưới cờ Tây Sơn: “tướng giặc thượng đạo” tên Diện, Tường ở phía tây Hội An; ở Quy Nhơn, ngoài nhóm Tây Sơn c̣n có Phạm Văn Sĩ, xa về Phú Yên có Chu Văn Tiếp, Nguyễn Long. Và lại c̣n các người Thanh làm ṇng cốt cho Trung nghĩa quân Tập Đ́nh, Hoà nghĩa quân Lí Tài, những tên tổ chức cho thấy số lượng người lớn lao làm nổi bật những tay chỉ huy trong biến động. Dân chúng b́nh thường không biết đến các mối giao thương “quốc tế” kia, họ chỉ lưu ư đến sản vật thường thấy trước mắt, do đó họ chỉ giữ lại h́nh ảnh buôn trầu nguồn của ông Biện Nhạc vang danh mà thôi. Nhưng ông Nhạc đó không phải chỉ là người lái buôn tầm thường mà là con một “thổ hào,” và chính ông đang giữ chức của triều đ́nh, chức dù nhỏ cũng là “quan” địa phương, trông coi việc thu thuế cả một vùng, phải giao tiếp với đủ hạng từ dân đến cướp, từ “mọi” đến “Tàu”, Olane…

 

Buôn bán b́nh thường đến mức giàu có th́ không việc ǵ người ta phải nổi loạn. Khủng hoảng nền tảng cấp thời – cũng có thể gọi là một cuộc khủng hoảng phát triển, là v́ nhu cầu cần đến tiền tệ lưu thông mà người cầm quyền không thoả măn kịp như đă thấy, khiến phát sinh những biện pháp dễ dăi, mang lợi lộc hấp dẫn: Nhà nước đúc tiền kẽm, nhanh và rẻ hơn đúc tiền đồng. Vơ Vương thực hiện điều ấy từ 1746 khiến hoạ hoạn xảy ra theo lí thuyết Gresham: “… Ruọng ở Phiên Trấn, Long Hồ không bị hạn lụt bao giờ…Thế mà từ năm Mậu tí (1768) tới nay (1770) giá thóc cao vọt, nhân dân đói kém… không phải v́ thiếu thóc mà v́ đồng tiền kẽm gây nên… Dân đua nhau chứa thóc mà không chịu chứa tiền (kẽm).” Có lúa mà dân đói. Hành động khởi đầu của nhóm Tây Sơn lúc xuống đồng là “lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo,” trong trường hợp cụ thể này là lấy thóc lúa tích trữ đem phân phát cho dân chúng, điều đó minh chứng cho lập luận của Ngô Thế Lân ở trên. Dân đói, buôn bán không được mà Các lái th́ tích trữ tiền bạc giàu có nên nảy sinh tham vọng lớn.

 

Và cũng không phải v́ t́nh cờ mà cuộc khởi loạn lại xảy ra trên một phần đất của phủ Quy Nhơn, dinh Quảng Nam. Lại cũng thêm một dịp để chứng minh không phải hễ đói nghèo là người ta làm loạn, và làm loạn như thế chắc chắn sẽ dẫn đến thành công. Phủ Quảng Ngăi “tiểu Đồng Nai” tưới ruộng bằng cả một hệ thống xe nước phức tạp, c̣n lưu giữ bằng sắc của Thái Đức, kĩ thuật đó có dấu hiệu là từ vùng Lại Giang kề cận, thuộc phủ Quy Nhơn, vùng đất hơn trăm năm trước có ông nhà giàu nuôi công thần Đào Duy Từ đem tiến cử cho chúa Nguyễn. Li Tana thấy An Khê liên hệ với nguồn sông Ba ở Phú Yên, là nơi có thể so sánh với Cam Lộ trong việc giao thương sâu vào bên trong rừng núi. Làm loạn mà không thành công th́ chỉ là giặc cỏ, muốn vượt trên chừng mực ấy th́ phải có tính tổ chức nền nếp. Cho đến gần đây, người ta vẫn dùng chữ “dân nẫu” nhạo báng, dành cho dân bốn tỉnh Nam Ngăi B́nh Phú nhưng dồn dập chỉ định quyết xác nhất lại là dân B́nh Định mới (1801), phủ Quy Nhơn cũ. Nẫu là biến dạng của chữ “nậu” chỉ một tập họp nghề nghiệp khai thác (nậu sáp vàng, trầm hương lấy lâm sản, nậu đánh cá, nậu làm ruộng…) v́ thế mà thành đơn vị cư trú được chúa Nguyễn cải đổi thành thôn thuộc, làng xă. Ngôn ngữ lưu giữ hành vi xă hội, dân phủ Quy Nhơn – có thể lan một ít về phía bắc hoặc phía nam, được gọi là dân nẫu chỉ v́ h́nh thức tập họp nậu ở đây đậm đặc nhất, nghĩa là một thứ dân có một nền tảng tổ chức tập đoàn chặt chịa nhất trong vùng. Đó đúng là cơ sở quần chúng được các lănh tụ nổi loạn ước mong, t́m kiếm.

 

Lại cũng có thể nghĩ thêm một yếu tố khác nuôi dưỡng phong trào nổi loạn, ít ra là đă tạo ra sự thịnh vượng về trước trong vùng: Sự sản xuất và t́nh h́nh thương mại của loại sản phẩm gốm được nhà khảo cổ học lôi ra từ trong mịt mù và đặt tên là gốm G̣ Sành, phát hiện trên đất B́nh Định. Đó là loại gốm khởi đầu trên đất vương quốc Vijaya bởi nhóm người Tống lưu vong thế kỉ XIII, đă trường tồn qua các biến loạn bằng những cách nào đó với những người kế tiếp để sản phẩm của họ c̣n thấy trên thị trường thế giới có lẽ đến thế kỉ XVIII, trên các mộ táng ở Lâm Đồng bây giờ. Việc cửa biển Nước Mặn / Cách Thử được nhà nghiên cứu ngày nay (Đỗ Bang) cho rằng bị lấp v́ nguyên nhân thiên tạo nhưng cũng có thể chính là do biến động của con người vào phần tư cuối của thế kỉ XVIII đang bàn ở đây. L. Barizy vẽ bản đồ trận chiến Thi Nại (1801) cho thấy cửa Nước Mặn đă bị lấp phần ra phía biển nhưng mươi năm trước đó người Anh đi ngang qua, thấy nó c̣n là một lạch nhỏ trong khi ở B́nh Nam đồ 1774 th́ nó mang ḍng chữ “Nước Mặn hải môn thâm.” Không phải cửa biển thường mà là cửa biển “sâu”. Cửa biển đó đă bị lấp v́ bỏ phế không dùng đến trong một thời gian dài, chứng cớ bị lấp vừa vặn với thời gian xảy ra biến loạn (1774-1801). T́nh trạng bỏ phế ngay từ những năm khởi đầu của Tây Sơn có thể đă làm suy sụp gốm G̣ Sành vốn sản xuất ở các vùng quanh thành Chà Bàn. Người ngoại quốc (Chapman 1778) nhớ lại thời thịnh vượng khi trông thấy Hội An điêu tàn, như thế th́ cửa Nước Mặn ở ngay trung tâm biến động tất phải chịu đựng ảnh hưởng nhiều hơn, nhiều đến mức không gượng lại được. Cửa Thi Nại (thành phố Quy Nhơn ngày nay) “Thi Nại hải môn” – không có chữ “thâm”, trên vùng nước cạn dần, lại xa hơn về phía nam của nơi sản xuất G̣ Sành. Nếu nó gượng lại được, cũng không coi đó là đường lưu thông lí tưởng nữa. Ḍng gốm G̣ Sành suy tàn từ các nguyên cớ phối hợp đó chăng?

 

Tuy nhiên biến động lịch sử là của con người, cho nên phong trào Tây Sơn có thành công trong việc lật đổ hai chính quyền Nam Bắc đang ngự trị th́ cũng phải từ khả năng của những người cầm đầu: Anh em Nhạc, Lữ, Huệ. Họ là ai?

 

Gốc tích của những người vô danh, khuất lấp phải chịu mịt mù đă đành nhưng thật ngược đời, những người nổi bật cũng phải chịu mù mờ không kém. Anh em Tây Sơn quá nổi, nhất là trong thời gian hơn nửa thế kỉ qua, nổi đến mức gần như nói tốt ǵ về họ cũng là phải. Các huyền thoại tung hứng, xu phụ hướng về họ – có khi với mục đích phục vụ cho người bây giờ, khiến cho những ư định lôi về sự thật b́nh thường của con người, của lịch sử được coi như là một sự báng bổ đáng căm ghét, làm “mang tội với dân tộc, đất nước.”

 

Sử quan Nguyễn, kẻ tiếp cận sít sao nhất của vấn đề cũng chỉ t́m được chứng cớ: “Tiên tổ (Tây Sơn) người Hưng Nguyên, trấn Nghệ An. Ông tổ bốn đời khoảng năm Thịnh Đức (1653-1657) bị quân ta bắt được, cho ở ấp Tây Sơn Nhất… Cha là Phúc dời đến ấp Kiên Thành… sinh ra Nhạc, Lữ, Huệ.” Chỉ có thế mà khi Hoàng Lê nhất thống chí thêm: “… ḍng dơi Hồ Quư Li, cùng ngành với Hồ Phi Phúc…” th́ ông Phúc của sử quan Nguyễn được ghép vào với Hồ Phi Phúc thành cha của anh em Tây Sơn, không nệ rằng ông Phúc nếu có họ Hồ, khi làm cha Nguyễn Huệ tất phải đến hơn trăm tuổi! Người đương thời, Bùi Dương Lịch, lao đao trong biến loạn, đầu phục phe này phe nọ v́ bất đắc dĩ nên có thể công b́nh trong ghi chép hơn, đă xác nhận rằng “có một thổ hào… ở sách Tây Sơn trên phủ Quy Nhơn… Cụ tổ đi lính…” Nếu trở lại với chứng cớ của Chu Thuấn Thuỷ (1657), đúng vào lúc Nguyễn chiếm Nghệ An, thấy chúa Hiền cầu người văn học thiết tha đến mức không nệ sự hỗn xược của Chu, thấy sử quan Nguyễn kể về sự hấp tấp thu dụng những dân văn học bốc trời của Trịnh kéo đến đầu hàng, th́ biết không thể có chuyện bắt người họ Hồ Hưng Nguyên danh tiếng đem về đày ở vùng nay gọi là đèo Mang / Mang Yang / Cửa Trời! Mọi tô vẽ chỉ từ danh tiếng (về sau của) Tây Sơn, cụ thể là Bắc B́nh Vương / Quang Trung Nguyễn Huệ mà thôi. Tổ tiên ông chỉ là một người b́nh thường bị quân Nguyễn “bắt theo dân” (Hoàng Lê…) Và có thể kể thêm chi tiết của Bùi Dương Lịch: “(thổ hào) tên là Đồng Toàn, sinh Đồng Phúc, (sinh) Thư Nhạc chiếm cứ nơi hiểm yếu, xưng là trại chủ…” Có tên ông Phúc đấy. Không phải là họ Hồ kéo về trước đến Hồ Quư Li, về sau đến Hồ Xuân Hương, mà họ Đồng, cũng có thể suy đoán là lấy theo vùng đất “động”/”đồng” đầy dẫy trong xứ: đồng Cây Cầy, đồng Hươu, đồng Dài… Tên mẹ của anh em Tây Sơn là Nguyễn Thị Đồng không rơ từ nguồn gốc sách vở nào nhưng chắc là suy đoán từ họ Đồng này. Và cũng nên xác nhận thứ tự của anh em họ thật dứt khoát. Nhạc là anh Cả, có thể thấy trong xưng tụng của quân sĩ: Thượng sư / Thầy Cả, Lữ thứ 7 (“Bảy” của Bùi Dương Lịch, “Đức ông Bảy” của giáo sĩ), Huệ thứ 8 (“Đức ông Tám” của giáo sĩ.) Tám anh em, c̣n sống 4 người, người thứ 4 trong chứng cớ của Bùi Dương Lịch hẳn là người chị, của sử quan, đi viếng tang Huệ năm 1792. Không có anh Hai Trầu, chú Ba Thơm, thầy Tư Lữ ǵ ráo trọi!

 

Nhạc làm biện lại đất Vân Đồn, tiêu lạm tiền thuế nên túng cùng làm loạn, theo lời sử quan. Không cần phải là người xưng tụng cuộc “cách mạng” này, người ta cũng thấy điều đó không đúng. Tổ chức thu thuế ở Đàng Trong cho thấy tiền của rơi rớt rất nhiều cho các thổ hào, quan lại địa phương cho nên ông Biện lại đất Vân Đồn giàu có, giao du rộng răi không phải là điều lạ. Chứng nhân ngoại quốc (Jh. White) nhạn ra Yin Yac buôn bán lớn lao với người Thanh, người Nhật. Sự giàu có ấy có vẻ không phải chỉ xây dựng từ đời Nhạc mà cả từ người cha, theo sử quan cho biết có sự dời đổi nơi cư trú xuống đồng bằng trung lưu sông Côn, con sông huyết mạch chuyển hàng qua cửa Nước Mạn từ rất xa đời. Sử c̣n kể ra những hào phú khác từ lúc khởi đầu: Huyền Khê, Nguyễn Thung, các toán “cướp” ở nguồn An Tượng trong vùng: Tứ Linh, Nhưng Huy. Theo chiều biến động th́ sẽ có sự phân hoá như việc giết nhóm An Tượng, Nguyễn Thung, đuổi Tập Đ́nh, bỏ Lí Tài nhưng nh́n vào tập họp khởi loạn th́ rơ ràng là đủ thành phần: thiểu số Thượng, Thanh và người Việt đồng bằng. V́ thế khởi đầu của loạn quân mang một dáng dấp tôn giáo thần bí mà người ta dễ bỏ lơ. Nguyễn Nhạc được loan truyền thu thập cây gươm thiêng (của vua Lửa), được xưng tụng là “Thượng sư / Thầy Cả.” Người em thứ bảy cũng mang danh Pháp sư / Đại pháp sư toàn Đàng Trong (“Prêtre / Grand prêtre de toute la Cochinchine” – Jh. White) chứng tỏ có cả một hệ thống mang tính tôn giáo trong phong trào Tây Sơn. Tên Tứ Linh cũng có dáng dấp thần bí (long, li, quy, phượng.) Cho nên họ mang màu đỏ thần thánh đó trên lá cờ, sắc mũ áo, lấn lướt trải dài Nam Bắc cho đến cuối đời. Toán quân Thanh phù trợ lại là một dạng h́nh khác từ các hội kín Trung Quốc. Người lính Tây Sơn độc nhất được ghi lại trong sổ tay người ngoại quốc tuy dáng vẻ cứng rắn hơn nhưng lại trông như một ông Săi Cả Chàm, như dấu hiệu liên kết c̣n lại từ ngày đầu với vị nữ chúa Thị Hoả trên đất Phú Yên. Và cứ thế là họ tràn xuống đồng sau hai năm chuẩn bị trên rừng mà triều chúa không hay biết v́ c̣n bận tâm giải quyết vấn đề nội bộ, hay chỉ v́ nh́n các rối loạn kia như những rắc rối trước mắt ở khắp nơi mà thôi.

 

Tranh chiếm vùng quê ngoại

 

Từ đầu tháng 4-1773 họ tung hoành dưới đồng bằng Phú Yên và nam Quy Nhơn, đủ thành một thế lực đánh động đến Phú Xuân, thúc đẩy thêm tranh chấp ở đấy khiến Nội tả Nguyễn Phúc Văn tưởng có cơ lật được Trương Phúc Loan nhưng rốt cục thất bại. Trận đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn (9-1773) của Tây Sơn là đ̣n quyết định thử thách quyền bính họ chúa và khả năng loạn quân. Tiếng đồn liều lĩnh về mưu mô cướp thành c̣n được loan truyền măi về sau (E. Navelle 1887,) vọng đến tai ông Tham quân Lê Quư Đôn (1776): “(Nguyễn Văn Nhạc) phá ngục cho tù ra…” Tuy nhiên cho đến lúc này th́ vẫn chưa thấy một lí tưởng chính trị – hay một ư hướng lí tưởng cụ thể nào được thành h́nh. Có thể là Giáo Hiến, người trốn chạy đến đất Kiên Thành dạy anh em Tây Sơn, đă mang đến cho họ một ít h́nh ảnh về thế giới bên ngoài đồng ruộng, rừng núi của họ nhưng không thể khiến họ h́nh dung ra cuộc sống phức tạp của một triều đ́nh đang có tranh chấp. Bởi v́, lúc đầu họ chỉ chứng tỏ là những người nổi loạn với lời kêu gọi mơ hồ “vâng mệnh Trời và tuân lệnh Đức Thượng sư” cứu dân… như bất cứ đám bạo loạn nào khác có ước vọng lớn. Xuống đồng, mở rộng quyền lực, thu nhận được những nhân vật đầu hàng hay bất măn của triều đ́nh th́ những toan tính to lớn mới xuất hiện ra càng lúc càng rơ rệt, và họ cũng có đủ tự tin để hướng dẫn t́nh h́nh có lợi cho bản thân. Sự phân biệt rành rẽ “Quân Triều: quân Quốc phó / Quân Ó: quân Hoàng tôn” phải có thời gian và địa vực mới thành h́nh. Và trên đường tiến chiếm quyền lực, tuy Tây Sơn có thu được một vài thắng lợi nhưng hẳn không ngờ kẻ giúp họ thêm một bước đi đến thành công lại là những người họ chắc chưa từng nghe đến: quân Trịnh ở Đàng Ngoài.

 

Lớp quan binh chiến thắng thuộc thế hệ 40 của Đàng Ngoài đă làm đà cho những người dưới quyền bính một ông chúa mới (Trịnh Sâm 1767) mở rộng quyền lực đánh dẹp, không chỉ ở trung châu mà lan ra cả vùng ngoại biên: dẹp Hoàng Công Chất ở tây bắc (1769), Lê Duy Mật ở Trấn Ninh, lấn đất Lào (1770). Tin tức rối loạn từ Đàng Trong đưa ra cho Trịnh Sâm thấy có cơ hội cử Hoàng Ngũ Phúc lănh quân tiến vào, cuối năm 1774. Quân vượt sông Gianh, thấy luỹ Trấn Ninh mở cửa đầu hàng, rêu rao chỉ trừng trị Trương Phúc Loan nhưng rồi tiếp tục chiếm đô thành Nguyễn, đuổi triều đ́nh họ vào Quảng Nam, chịu kẹp giữa quân Tây Sơn đang tiến ra. T́nh thế đó khiến gây thêm phân ră. Mất quyền mất tính chính thống, Phúc Thuần (Duệ Tông) phải chịu lập Nguyễn Phúc Dương “Hoàng tôn” lên làm Thế tử, chia triều đ́nh thành hai phe rơ rệt. Phúc Thuần tự thấy trở thành người thừa nên t́m cách lên thuyền chạy vào nam, để Phúc Dương ở lại chống cự như đúng với danh nghĩa chính thống lúc này. Thế là Tây Sơn có cái đích trước mắt để tuyên dương với dân chúng. Nhóm phù trợ Hoàng tôn Dương bị khuất lấp trong biến động nhưng cũng tỏ ra hoạt động khá tích cực trong t́nh thế hạn hẹp của ḿnh. Họ t́m cách chiêu dụ một toán quân của Tây Sơn đến “rước” Hoàng tôn, gây mâu thuẫn trong hai cánh Tập Đ́nh, Lí Tài, c̣n nhân vật chính của phe Dương, “Ngoại tả” Nguyễn Phúc Tĩnh th́ đứng hẳn về phía Tây Sơn chiêu dụ binh dân ở Quảng Ngăi. Thế lực Nguyễn yếu ớt như thế nên rốt lại trên chiến trường Quảng Nam chỉ c̣n có Tây Sơn và quân Trịnh.

 

Trận đụng độ ở Cẩm Sa (5-1775) thắng Tây Sơn không giúp quân Trịnh khai thác thêm thắng lợi v́ thiếu ư chí chiếm lĩnh. Quân Trịnh vốn đă là rách rưới dưới mắt quân Nguyễn, lại đến một vùng vừa gặp đói đến nỗi “người ăn thịt người,” lính phải chết v́ dịch tể nhiều hơn v́ đánh trận. Tướng lĩnh như Hoàng Ngũ Phúc th́ đă già, chí tiến thủ không c̣n, biểu lộ trong lời tường tŕnh cho Trịnh Sâm trước khi chết trên đường thu quân về Thuận Hoá. Như thế Sâm ở Đông Kinh cứ an tâm hưởng thụ tiền của vơ vét từ kho tàng Đàng Trong, trần truồng đàn hát trên hồ Tây, không màng đến việc quân Tây Sơn có cơ hội rảnh rang xây dựng lực lượng đi thanh toán một triều đ́nh đang trên đà phân ră.

 

Cái thế dùng dằng tôn phù Hoàng tôn Dương giúp cho Nguyễn Huệ đánh trận Phú Yên, đầu tiên thắng quân Ngũ Dinh của Tống Phước Hiệp, lực lượng lớn tập trung sức mạnh của phần đất chưa suy suyển phía nam của Nguyễn. Sự kiện đó mở đầu cho những cuộc tranh chiến dằng dai trên đất đồng bằng phương Nam, vốn cũng không phải chỉ có các thế lực chính trong vùng ḍm ngó. Chúng ta thấy đầu năm 1776, Nguyễn Lữ đem quân đánh Gia Định dựa trên t́nh h́nh lực lượng mạnh của Nguyễn đang dồn hết về phía Phú Yên. Cuối năm đó Nguyễn Phúc Dương trốn từ Quy Nhơn vào, càng đem thêm chia rẽ trong họ nhà chúa. Đỗ Thanh Nhân và Duệ Tông một bên, Lí Tài và Dương, lúc này là Tân Chính Vương phía bên kia, là mồi ngon cho Nguyễn Huệ đem quân vào lùng diệt khiến họ Nguyễn hoàng tộc lớp lớn chỉ c̣n một cậu bé 15 tuổi: Nguyễn Phúc Ánh.

 

Dù sao th́ đó cũng là một may mắn cho họ Nguyễn bởi v́ từ nay các nhân vật thụ ơn triều cũ, các thế lực địa phương, anh hùng thảo dă muốn dương danh trong thời biến loạn đă có thể tập trung vào chỉ một người để phục vụ, để tôn phù theo một tương lai đầy trắc trở, không hẳn đă thấy được sự thành công ngay trước mắt. Sau khi các nhóm Nguyễn, trong đó có Đỗ Thanh Nhân nổi bật, chiếm lại Sài G̣n, Nguyễn Ánh được tôn xưng làm người kế nghiệp triều chúa, không phải chỉ với danh nghĩa tượng trưng mà là người chỉ huy toàn cục: Đại nguyên suư Nhiếp quốc chính (1778).

 

Là lực lượng chính trên vùng đất chỉ mang danh nghĩa Nguyễn chưa đầy một thế kỉ, quyền lực Nguyễn Ánh vẫn phải chịu dấu ấn nặng nề của quá khứ và những phân hoá trong hiện tại. Cho nên lối tổ chức Tứ trụ vẫn c̣n xuất hiện với khuyết điểm cũ là thực quyền trong biến loạn lại có khuynh hướng về tay chỉ một người. Nhưng Ngoại hữu Đỗ Thanh Nhân, với thanh thế quân Đông Sơn phù trợ bên ngoài, vẫn không đủ sức cứu văn thân xác (khoảng tháng 4-1781) bên trong một triều đ́nh tuy mới mà đầy những lực lượng cũ, v́ chính ông, lúc đầu xuất hiện trên chính trường theo Duệ Tông chạy giặc, chỉ mang một cái tên trống trơn, không thấy kèm một danh vị nào cả (gốc chỉ là Cai đội.) Danh xưng Đông Sơn mang ư nghĩa bùa chú, phong thuỷ để chống với danh hiệu Tây Sơn, cũng là một biểu hiện lạc loài trong một triều chính kiểu Nho Giáo. Rồi cũng chỉ “người mới” Chu Văn Tiếp lấy lại Sài G̣n trong tay Tây Sơn mà không đủ sức chống cự với lực lượng Tây Sơn ào ạt tấn công tiếp theo, quyết liệt truy đuổi đến cùng (1782, 1783, 1785). Những cuộc trốn chạy trên đồng bằng, biển khơi, hải đảo trong một chừng mực nào đó đă đem thanh thế Nguyễn Ánh lan toả khắp vùng, giúp thu thập các tướng lục lâm, quân đầu hàng, cướp biển Thiên Địa Hội, Mă Lai (Vinh Li Ma.) Và điều quan trọng có ảnh hưởng lớn về sau là việc tiếp xúc với các giáo sĩ Thiên Chúa Giáo, nhất là với Giám mục Bá Đa Lộc.

 

Cái thế nhờ cậy quân Xiêm cũng là điều không thể tránh khỏi v́ họ cũng là một lực lượng đang lên, đang hướng bành trướng về phía đông. Cho nên đến lúc Nguyễn thua th́ Tây Sơn thành một yếu tố cản trở quyền lực của Xiêm và do đó, Nguyễn lại là đồng minh của họ. Với hồi mở đầu liên lạc với Nguyễn Hữu Thuỵ có tác động trong việc Rama I lên ngôi (1782), với mối liên hệ lâu dài giữa Mạc Thiên Tứ và quân Xiêm, Nguyễn Ánh được lôi vào Xiêm để được “giúp đỡ.” Thế là quân tướng Nguyễn được trở về xứ nhưng chỉ là nương nhờ vào một lực lượng lớn quân Xiêm dưới quyền hai tướng Tăng, Sương, cho đến khi họ tan tác ở Rạch Gầm Xoài Mút (1-1785). Nguyễn Ánh phải lên đường lưu vong thật sự để Tây Sơn nghĩ rằng có thể chiếm lĩnh xứ Gia Định một cách toàn vẹn dưới quyền một người: Đức Ông Bảy Nguyễn Lữ, con người mang khuynh hướng thần bí, chắc lúc này mới là đúng với danh hiệu “Đại Pháp sư của toàn Đàng Trong.”

 

Lịch sử Tây Sơn, rốt cục là lịch sử của một phe chiến bại cho nên hoạt động của họ chỉ được nh́n theo biến động của phe Nguyễn thắng trận mà thôi. Do đó ta không thấy ra rơ rệt có sự thay đổi nào của họ đă dẫn đến những trận xua đuổi quân Nguyễn, va chạm đến các lực lượng họ chưa từng nghĩ tới như chiến thuyền Tây Phương hay quân chính quy của Xiêm La. Mọi công tích có vẻ như dễ dàng giải thích bằng cách trút cho ông Nguyễn Huệ tài ba của các trận chiếm đất Bắc, thắng Đống Đa về sau. Sự thực chắc không giản dị như vậy. Đúng ra th́ quân nổi dậy cũng có những hành động khác thường mà một toán quân chính quy của thời b́nh không thể nào làm được. Như Tống Phước Hiệp dẫn quân (gồm cả) Năm Dinh đóng ở Phú Yên mà bị một chàng thanh niên 23 tuổi dẫn các trai làng vượt đèo Cù Mông đuổi chạy về phía nam đèo Cả trong lúc một người chỉ huy khác hẳn cũng gốc ruộng rẫy, đi rừng, hẳn cũng chừng ấy tuổi, ở cách xa nơi cỗi gốc hàng ngàn dặm, đă đem chỉ 50 người lính “khoẻ mạnh,” vượt trên đồng lầy, sông rạch mênh mông, xa lạ đến tận quân dinh của Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ, đưa thư dụ hàng! Người thứ nhất c̣n lại trong lịch sử, là một danh tướng, người thứ hai chỉ là Cai đội / Đội trưởng (đội gồm 50 người) xuất hiện khuất lấp có một lần, không tên tuổi…

 

Tuy nhiên qua ghi chép của kẻ chiến thắng ta cũng có thể thấy một vài t́nh thế của Tây Sơn phải chịu đựng trong phát triển. Cuộc tấn công đầu năm 1776 của Nguyễn Lữ chỉ là một hành động lấy lương thực, để giải quyết t́nh h́nh đói kém trong vùng và được gợi ư từ việc cướp thuyền lương ngoài khơi Quảng Nam của Mạc Thiên Tứ gởi giúp Duệ Tông. Các cuộc tấn công theo những thời điểm tuần hoàn có giới hạn, đánh vào rồi rút ra, chỉ để một lực lượng nhỏ đóng giữ, chứng tỏ Tây Sơn c̣n phải lệ thuộc vào mùa gió và chưa đủ vững tin nơi vùng căn bản của ḿnh. Trong t́nh thế đó th́ Nguyễn lại không dễ ǵ bị bật gốc khỏi Gia Định.

 

Nguyễn Khoa Thuyên bị rượt đuổi, bỏ đất Gia Định về đầu Lê Quư Đôn đă cho ông tham quân biết rằng đất Gia Định có quân địa phương rất nhiều. Tính chất phức tạp về mặt thành phần chủng tộc, về phương thức khai thác trên một vùng đồng bằng rộng lớn, hoang vu khiến đất Gia Định vẫn là nơi bất an của bất cứ chính quyền nào – cả về sau khi Nguyễn thống nhất. Vơ Văn Lượng giàu có cá mắm, tức giận quân Tây Sơn vào cướp, ăn không hết c̣n ỉa vào tài sản của ḿnh nên tự lập ra một thế lực Lương Sơn Bạc, nuôi dưỡng một Tống Giang của thời mới, cung cấp cho Nguyễn Ánh một vị tướng tận trung đến lúc chết: Vơ Tánh. Cho nên ta chỉ có thể nghĩ rằng trong các năm Nguyễn xây dựng ở Gia Định (1780-82), Tây Sơn cũng đang tập họp lực lượng ở Quy Nhơn, chờ cơ hội tràn vào khi Nguyễn gặp rối loạn v́ vụ Đỗ Thanh Nhân. Có điều chi tiết xây dựng như thế nào th́ ta hoàn toàn không biết.

 

Những viên tướng Tây Sơn nổi lên lúc này có khi không thấy xuất hiện lần thứ hai, chứng tỏ họ là những nhân vật bất chợt của thời thế, may mắn kéo dài danh vọng th́ mới rơ gốc chăn trâu như của Nguyễn Văn Trương chẳng hạn. Cô em Chu Văn Tiếp nếu không có anh là đại công thần của Nguyễn Ánh th́ không giữ được tên Đậu và danh tiếng Chu Muội nương (“Cô họ Chu?” “Cô em ông Chu?”)! Những Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy của lúc khởi đầu, những Đô đốc Long/Mưu, Đô đốc Bảo một lần vang danh chỉ có thể hiểu được là những cựu tướng cướp, đầu nậu, trai làng, loại “phu quét chợ, lính đẩy xe” (Phan Huy Chú)… quanh quẩn vùng Quy Nhơn. Quyền bính đổi thay thường xuyên khiến có kẻ chạy qua chạy lại, khuất lấp phía Tây Sơn nhưng nổi bật phía Nguyễn như Huỳnh Đức, trốn từ đất Nghệ An xa lạ trở về được mang họ của chúa, như Nguyễn Đức Xuyên, thân thuộc của Nguyễn Ánh, như Trương Tấn Bửu, Phó Tổng trấn Gia Định khi Jh. White gặp năm 1819. Cho nên sự việc xuất hiện đều đạn và lâu dài ở những chức vụ lớn của những nhân vật họ Phạm, trong đó có Hộ giá Phạm Ngạn v́ bị giết đă gây nên cuộc tàn sát kinh hồn người Hoa trên đất Gia Định (5-1782) khiến ta nhận ra ngay từ lúc này, rằng thực lực Tây Sơn, ngoài ba anh em, đă phải dựa vào liên hệ hôn nhân với các họ khác, với họ Phạm để phát triển. T́nh thế chênh vênh đó là một nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến sự sụp đổ của anh em nhà họ.

 

T́nh h́nh giao tiếp giữa năm 1778 của Nguyễn Nhạc với thương nhân Chapman cũng cho thấy Tây Sơn chưa thể ḱ vọng ǵ vào những yếu tố thay đổi đến từ bên ngoài. Hội An bị tàn phá, cuộc điều đ́nh với Chapman cho thấy kiến thức của Nguyễn Nhạc không chỉ là của anh biện lại nơi góc núi nhưng kết quả không đi đến đâu. Sức mạnh của Tây Sơn hẳn chỉ gom góp từ lực lượng tịch thu của Nguyễn chuyển về một tập đoàn nổi dạy đang trên đà phát triển dữ dội mà thôi. Nguyễn Nhạc đă vào đóng trong thành Chà Bàn, tuy hoang phế nhưng cũng là một thành luỹ, c̣n hơn phủ thành của Nguyễn Khắc Tuyên chỉ có nhà tranh tre lá. Thành luỹ đó đủ cho Nguyễn Nhạc mở rộng thêm để đủ uy nghi xưng đế, lấy niên hiệu Thái Đức (1778), lên thay thế ḍng họ ông vừa tiêu diệt một năm trước. Các cuộc lấn chiếm, truy đuổi tàn dư họ Nguyễn khiến Nguyễn Ánh phải sống lưu vong, nương nhờ người Xiêm vốn “sợ Tây Sơn như sợ cọp,” giúp Nguyễn Nhạc toan tính thực hiện thu hồi phần đất của phía “ngoại” ông, phần của chúa Nguyễn đang c̣n trong tay quân Trịnh, như ông đă từng thố lộ với Chapman. Ước vọng sẽ thành nhưng không ngờ lại đem đến một lối rẽ mang cả định mệnh của họ đi theo một hướng khác.

 

nếu không có nguyễn hữu chỉnh?

Cuối tháng tư âl. năm Bính ngọ (1786) quân Tây Sơn tiến phát dưới quyền Nguyễn Huệ chiếm được kinh thành Huế ngày 14-6-1786. Đi theo quân có Hữu Đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh, tướng cũ của Trịnh.

 

Nguyễn Hữu Chỉnh từng được Hoàng Ngũ Phúc sai vào Quy Nhơn phong chức cho Nguyễn Nhạc (1775) khi Phúc không c̣n có ư đi xa hơn. Sự kiện nhỏ nhoi khuất lấp này lại dẫn đến hậu quả lớn về sau chỉ v́ những h́nh thức ngoại giao phe phái đă diễn ra giữa những người cùng một chừng mực sinh hoạt quen thuộc với nhau. Nhờ chuyến Tây Sơn ra Bắc, chúng ta mới được các giáo sĩ cho biết có một lớp người Các lái phải sạt nghiệp v́ biến loạn: “thuyền, thóc, tiền sạch cả,” (tiếng Việt.) Số lượng họ không ít: có đến 3000 người ở vùng cửa Bạng xứ Thanh. Số tiền của Hoàng Ngũ Phúc vay mượn để khởi đầu sự nghiệp hẳn là từ những người như ông cha Nguyễn Hữu Chỉnh, buôn muối giàu có, đem ông con đỗ Hương cống vào làm thư kí, phục vụ cho ông quan thị đă trở thành danh tướng của Trịnh. Quan dựa vào nhà buôn để làm giàu, tăng thế lực, thương nhân dựa vào quan để t́m danh vọng là chuyện b́nh thường nhưng khuất lấp trong sử sách. Giỏi thuỷ chiến, cai quản thuỷ quân là dấu vết dân buôn miền biển, từ đó Chỉnh có tầm mắt rộng răi về cuộc sống. “Thiên hạ vạn nước, lo ǵ không có chỗ đi,” đó là lời Chỉnh khi phải tránh vạ quân Tam phủ lật đổ Trịnh Cán, lập Trịnh Khải, giết Hoàng Đ́nh Bảo, chủ ông (1782). Dưới mắt ông, trật tự cũ không có chút giá trị ǵ như khi ông tha tội cho ông nghè (tiến sĩ 1775) Phan Huy Ích, “thầy đồ nói khoác,” từng đ̣i bắt ông nhốt vào cái trống làm sẵn. V́ thế không lấy làm lạ rằng khi rời bỏ xứ Bắc, Nguyễn Hữu Chỉnh đă t́m vào Quy Nhơn. Hai lớp người Các lái của hai phương trời gặp nhau, Chỉnh mới có đúng chỗ để “ngày đêm v́ giặc bày mưu thiết kế.”

 

Nguyễn Nhạc vượt khỏi sự ngần ngại quyết đánh Phú Xuân nhờ có Chỉnh móc nối, nắm đúng t́nh h́nh quân tướng Trịnh để đi đến chiến thắng. Quân Tây Sơn đă đắp luỹ Thầy thêm cao để ngăn quân Đàng Ngoài, toan tính lập lại thế phân tranh cũ nhưng cuối cùng lại ào ạt tuôn tràn ra phía Bắc cũng v́ Nguyễn Hữu Chỉnh cho rằng “Chỉnh đi (th́ ngoài đó) là cái nước trống không… tướng trễ binh kiêu, triều đ́nh không kỉ cương.” Nói về bản thân th́ có huênh hoang nhưng nói về t́nh h́nh chính quyền Trịnh th́ không ǵ đúng hơn. Kiêu binh đă làm tan nát chính quyền trung ương v́ từng hănh diện “đă lập chúa c̣n lập vua.” Vậy mà lực lượng đó chỉ là một nhóm hỗn loạn không có ai cầm đầu. Quân thế Tây Sơn tiến ra ào ạt, nỗi tức giận kẻ phản bội vẫn không làm mất ḷng người ngưỡng mộ uy danh: “Âu cũng là việc hơn đời!” Thế cho nên niềm trung trinh bấp bênh từ lâu phải ngập ngừng giữa vua và chúa, khi bó hẹp vào chúa Trịnh của ông quan Lí Trần Quán, đă khiến anh tuần làng quyết định nạp chúa cho giặc, theo thực tế sống: “Quư chúa không bằng quư thân.”

 

Mối lo của Hoàng Ngũ Phúc về quân Tây Sơn đă trở thành sự thật. Quan dân Đàng Ngoài lần đầu tiên nhận ra: “Xưa nay chưa từng nghe toán giặc nào như toán giặc này.” Viên sứ Trần Công Xán biết ra đi là chết, chỉ mới nh́n được sức mạnh ào ạt của quân thù nhưng những người có mức độ tiếp xúc gần gũi, lâu dài th́ ngoài sợ hăi c̣n có cả ngạc nhiên xen lẫn miệt thị, về một loại “người” khác. Đó là một tập họp hỗn độn “những người Mường, Man di và các người mọi khác như Cao Miên, Cambien (?) và Xiêm…” Quân tướng chui rúc ở các chùa, vứt lăn lóc các tượng thần phật không ngại ngùng ǵ hết, bởi v́ không phải thần của họ! Các giáo sĩ thấy họ không lấy ǵ của người địa phương, ăn cơm không muối, ngủ ngoài trời, không làm phiền đến dân chúng. Bùi Dương Lịch đă ngạc nhiên thấy họ “nói năng, ăn mặc toàn khác lạ, coi thường trời đất đến nỗi gọi nhau bằng ‘cha’.” Không có bằng cớ nào tỏ rơ hơn về sự đụng độ của những người chung một tiếng nói mà khác sinh hoạt văn hoá đến như thế. Cho nên cũng Bùi Dương Lịch ngậm ngùi với cảnh “nơi áo mũ ngàn xưa thành cỏ rác”, cũng như chắc đă chứng kiến cảnh Trần Quang Diệu, trấn thủ mới nơi xứ Nghệ của ông, bảo đem đồ cúng đổ cho chó ăn v́ “chó có ích hơn thần Xă tắc!” Chiến thắng Đống Đa sấm sét ngày sau không kịp cho mọi người thấy sự khác biệt của một Tôn Sĩ Nghị đợi ăn Tết rồi mới xuất quân trong lúc Quang Trung kéo quân đi vào cả đêm Trừ tịch.

 

Trên cấp bực cao, ta thấy Nguyễn Hữu Chỉnh đưa Nguyễn Huệ vào yết kiến Hiển Tông, ông vua già qua gần 40 năm không phải lo sợ bị giết nữa mà bận tâm hơn đến việc mất ông chúa lo chuyện nước non thay cho ḿnh. Và cú sốc văn hoá cũng hiện ra y hệt ở lớp người dưới. Chút danh nghĩa Phù Lê diệt Trịnh chắc không có bao nhiêu trong đầu viên tướng chiến thắng hẳn c̣n nhớ chuyện Hoàng tôn Dương mới mười năm trước. Phía triều đ́nh có kỉ cương lâu ngày với cấp bực chức sắc hào nhoáng th́ tưởng chức Đại nguyên suư đem tuyên phong kia là đủ làm thoả măn người khách lạ – mà thực ra th́ vua Lê cũng chẳng c̣n có ǵ khác hơn. Cho nên ta thấy ông tướng nổi giận bởi v́ chức tước, quyền lực là tự bản thân ông làm ra, tạo nên, cướp lấy, không phải đợi ai ban xuống. Những ngày sau, khi Thái Đức ra đến Đông Kinh, người ta chứng kiến cảnh ông vua anh và ông quan em, ăn nói “y như anh em các nhà thường dân.” Ngày sau, khi đă đánh nhau gần chết thế mà một người qua đời, ông anh cả vẫn dắt em gái đi viếng tang em. V́ thế tuy không bằng ḷng với chức quan của vua Lê nhưng ông tướng lại chịu làm rể ông già họ Lê, để xem thử gái Bắc ra sao. Chuyện chăm lo tống táng ông nhạc, chịu lập Chiêu Thống là theo tương quan gia đ́nh mà lại giải quyết êm đẹp vấn đề chính trị lớn, giải quyết mối giao tiếp giữa hai triều đại, hai Nước, mà chuyến hộc tốc ra Bắc của Nguyễn Nhạc đă tạo dịp dàn bày với nghi lễ cụ thể. Quân Tây Sơn rút về Nam đêm 31-8-1786, không phải chỉ v́ sự hục hặc chưa thành h́nh của hai anh em người cầm đầu mà chính v́ danh phận đă định kia giữa Tây Sơn và Lê. Họ bỏ lại Nguyễn Hữu Chỉnh phía sau, như cách giải quyết một hệ luỵ đă lôi cuốn anh em họ vào một t́nh thế phức tạp mới nhưng không ngờ vẫn phải bị lôi cuốn vào hướng tiến vẽ ra từ con người đầy tham vọng kia, ngay cả khi tiêu diệt được kẻ gây phiền bực ấy.

 

Bởi v́ chuyện bất ngờ đă nổ lớn, gây ngạc nhiên không phải chỉ với những chứng nhân đương thời mà c̣n tạo niềm hi vọng cho nhóm người ṭng vong theo ông chúa trẻ đang rên rỉ than khóc ở xứ người. Anh em Tây Sơn đánh nhau từ tháng 2-1787, dữ dội hơn ba tháng, kéo dài đến cả năm với việc giết Nguyễn Văn Duệ từ Nghệ An đi ṿng về trấn Quảng Nam (3-1788). Người đương thời cho rằng chiến tranh xảy ra v́ việc chia không đều chiến lợi phẩm của Trịnh Lê nhưng có thể xem như là do mâu thuẫn phát triển ở nơi hai con người đang nắm t́nh thế. Vinh quang của chiến thắng trên một xứ nghèo nàn chưa đưa đến cuộc sống cao sang để kịp đổi thay tâm tính nên Nhạc vẫn c̣n nhớ chức Biện lại vừa qua, không nổi cơn lôi đ́nh sấm sét khi dân Nghệ An không khấu đầu lạy tâu Hoàng dế với ông mà chỉ khúm núm tôn xưng “quan lớn” thôi. Cho nên hẳn là đúng sự thật về việc ông sai người đ̣i chia vàng bạc của Huệ lấy từ Đông Kinh. Nhưng viên tướng trẻ 34 tuổi vừa chứng tỏ khả năng đi chiếm một nước của ḿnh, vừa được nâng lên làm rể một ḍng họ cao sang hơn 300 năm, ông ta c̣n nhiều tham vọng, không thể chia xẻ sự co rút của ông anh già “cầu an, ham dật lạc,” được Chiêu Thống ngỏ ư nhường đất mà không dám nhận. Trước khi đi đến đánh nhau, đă có tranh chấp bằng lời lẽ gay gắt v́ sự khác biệt quan điểm ấy nên lời hịch mắng anh đă có chữ “khinh suất, can không nghe.” Rồi cuối cùng có sự chia cắt vùng đất chiếm được, như anh em các nhà b́nh dân khác chia phần ruộng tạo măi chung. Nhạc ở giữa làm Trung Ương Hoàng đế, Lữ kém tài, cho sao hay vậy, lănh vùng phía nam đầy khó khăn, làm Đông Định Vương, và Huệ làm Bắc B́nh Vương trên kinh đô Phú Xuân.

 

Sự phân chia rơ là theo tính h́nh thực tế của các thế lực nhưng lực lượng Tây Sơn yếu nhất ở Gia Định, là miếng mồi ngon cho Nguyễn Ánh quay trở về lập căn cứ mà không phải lo đối đầu trực tiếp với lực lượng mạnh nhất xa tận phía bắc. Nguyễn Nhạc bị em bức bách đến phải kêu khóc cầu hoà nên mất tinh thần, không c̣n sức gượng dậy để đi cứu ứng phương Nam, lo chống đánh khi Nguyễn Ánh c̣n chông chênh ở Gia Định. Nguyễn Hữu Chỉnh lúc đang loay hoay ở xứ Nghệ, t́m cách tránh né cả những tập họp nhỏ nhất t́m giết, hẳn không ngờ rằng ḿnh đă gây nên sự điên đảo cho Tây Sơn, ảnh hưởng cả đến hồi tàn cục của họ.

 

Cái thế ứng biến để vượt lên trên t́nh thế khó khăn của Nguyễn Hữu Chỉnh rơ là không thể có nơi một anh nông dân ôm ruộng, lo xâu, hay của một ông quan kinh sử làu thông bàn chuyện Nghiêu Thuấn. Lê không nắm quyền cả hàng trăm năm nên rời Trịnh ra là thấy cái nước trống không, không quyền bính, không tiền bạc. Cho nên Trịnh trở về, mà lại là loại bèo bọt nên Chỉnh chỉ dùng gia binh và một danh nghĩa tôn xưng là chiếm được quyền hành. Rủi cho Chỉnh, là vẫn c̣n có Nguyễn Huệ. Vũ Văn Nhậm được Huệ phái đi đánh, Chỉnh thua chạy về cung than khóc: “Blời ơi, nhà Lê đă mất rồi,” bị bắt rồi bị giết, đẩy Lê Chiêu Thống lên đường lưu vong. Tương quan Thiên triều / phiên thuộc kéo dài nhiều trăm năm đem lại lí do nhờ cậy của Lê, và “chính nghĩa” can thiệp của Càn Long. Thế là quân Thanh dưới quyền Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị với số quân thường được cho là khoảng hai mươi vạn tiến sang Đông Kinh, lấy ngôi lại cho Lê, đẩy tập họp Tây Sơn lùi về chặn ở yết hầu Tam Điệp, chờ tiếp viện.

 

Người ta đă nói nhiều, quá nhiều đến trận chiến thắng thần tốc này, đúng ra là cả một chiến dịch mà danh xưng gom lại mang tên Đống Đa, tiếc thay lại không xác định, chỉ v́ dính dáng tới cái g̣ cùng tên độc nhất c̣n lại, cái g̣ vùi lấp xác tử sĩ muộn màng về sau. Đă vướng vào sự tranh chấp của các phe Trịnh Lê th́ Nguyễn Huệ phải lo giải quyết các vấn đề của Đàng Ngoài, đến mức độ gây xung đột với nước lớn phương Bắc mà biến động lại cũng sẽ diễn ra y hệt như hàng trăm năm trước, với một thế giới mà Tây phương chỉ mới mon men chen vào.

 

Nguyễn Huệ xưng Đế, lấy niên hiệu Quang Trung tiến quân ra Bắc đánh tan quân Thanh với trận chiến được coi là quyết định xảy ra ở Ngọc Hồi ngày 5 tháng Giêng Kỉ dậu (30-1-1789). Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín để đào thoát, tiếng đồn bại trận khiến dân chúng bên kia đường biên giới bỏ chạy, làng xóm vắng ngắt. Chiến thắng rơ rệt và dứt khoát khiến cho người ta thường không t́m hiểu xem chi tiết biến chuyển, tương quan quân lực, kể cả sự t́nh hậu chiến như thế nào. Chỉ có những lời tâng bốc thán phục, vẽ vời thêm cho chiến thắng, ai chen vào một ít khác lạ th́ dễ bị ghép tội không yêu nước ngay.

 

Trong tương quan quân số, ngày nay người ta cũng không bằng ḷng với số lượng 20 vạn của sử quan đưa ra mà đẩy lên đến 29 vạn, con số của tranh chấp phe phía đương thời, gần với số 30 vạn của giáo sĩ. Phản ứng ngược lại của những người chống đối th́ lại nhận con số quá ít, một số lượng khá vô lí khi nghĩ đến một chiến dịch bên ngoài biên giới. Thật ra nh́n vào thành phần quân chính quy của tướng triều đ́nh, phần dân binh các địa phương, thiểu số (Sầm Nghi Đống,) quân ô hợp từ các xưởng mỏ biên giới, nh́n cách thế thu xếp một người phu cho một người lính… th́ thấy ra số lượng không nhỏ trong lúc hiệu quả lại không thể lớn theo số quân đi. Tôn Sĩ Nghị lo đề pḥng hai ưu thế của địch là voi và hoả hổ nhưng lâm trận rơ ràng các biện pháp ấy không có hiệu quả. Quân tượng dũng mănh hơn Nghị tưởng. Người lính Tây Sơn trên tấm h́nh c̣n lại đă mang súng tay, tuy không hẳn như loại ngày nay nhưng không phải chỉ là “ống phun lửa làm cháy áo quần.”

 

Về phía Tây Sơn, ta cũng không thể h́nh dung nổi tính chất chịu đựng của sức người phải di chuyển trên khoảng đường rất dài trong một khoảng thời gian ngắn, để theo kịp với chân voi trong tiến triển hành binh. Những suy đoán về cách di chuyển khéo léo cũng không qua được việc sử dụng sức người. Chỉ có thể hiểu, là cả một thời gian dài chiến đấu trên nhiều chiến trường Nam Bắc đă giúp quân lính Tây Sơn có được sức chịu đựng dẻo dai để dồn lại sử dụng trong trận chiến thắng quân Thanh năm đó. Không chỉ là người lính vô danh mà tướng lănh cũng gần như vô danh. Vẫn như những người của giai đoạn đầu. Những người điều động cả một cánh quân mà chỉ xuất hiện có một lần như (Đại) Đô đốc Bảo cầm quân thượng đạo, với một cái tên ghi nhận khác nhau như Đô đốc Long (Ngô gia văn phái) hay Đô đốc Mưu (sử quan Nguyễn,) hay có nhắc đến nhiều lần th́ cũng không hơn là một danh hiệu, như Đô đốc Hô, Hô hổ hầu coi hậu quân… Một hai người chỉ huy trên các chiến trường lẻ tẻ… được nhớ như một sự t́nh cờ. Việc trao trả tù binh với Thanh cũng đưa ra các tên người, nhờ đó mới c̣n ghi lại đầy đủ trong một vài tờ lệnh. Tất cả chỉ v́ đó là những tướng lănh, quân nhân xuất thân từ Đàng Trong, tàn lụi trong chiến tranh, công th́ có mà danh th́ không kịp, không có cơ hội được ghi nhận. Những nhân vật ấy, qua một thời gian dài bớt chịu đựng áp lực của t́nh thế th́ có xuất hiện lại cũng phải qua một h́nh ảnh co rút, ít đụng chạm, tŕnh bày theo lối “diễn nghĩa” hoá, bài cḥi hoá trong những ghi chép địa phương muộn màng, không có mấy giá trị chứng cứ lịch sử. Âu cũng là chứng cớ b́nh thường của một sự bất công dành cho đời sống.

 

Dù sao th́ chiến thắng Đống Đa cũng đem lại một sự đổi dời dứt khoát trên danh vị bậc cao của nước An Nam đối với nhà Thanh, trong tương quan ngoại giao của hai nước lớn nhỏ. Toán văn thần thu nhận trên đất Bắc đă có truyền thống giao tiếp với Trung Hoa nên giúp cho việc cầu phong của Quang Trung suôn sẻ hơn, qua giai đoạn vấp váp ngắn ngủi ban đầu dưới sự thu xếp của toán văn thần Đàng Trong nghênh ngang hơn. Do thế mà phái Tây Sơn Quang Trung phải đứng trước một mâu thuẫn lớn: Bản thân quân lực th́ vẫn là của Đàng Trong mà gánh nặng tổ chức th́ phải nhắm vào Đàng Ngoài, nổi bật với các văn thần ở đấy được Quang Trung “tái tạo” (Ngô Th́ Nhậm,) “đem cơ duyên” phục vụ đời mới (Phan Huy Ích,) kết thành tập nhóm quen thuộc nâng đỡ nhau (Ngô Th́ Nhậm, Đặng Tiến Đông.) Mâu thuẫn lộ ra trong việc cải cách thi cử, giáo dục khi phải kết hợp vơ tướng ít học (Nho) và văn thần thông thạo kinh sử Hán, trong đó ngầm chứa mâu thuẫn địa phương gây bất an thường trực trên đất Lê Trịnh cũ, rồi sẽ luồn vào cơ cấu chính quyền Phú Xuân trong vai tṛ nổi trội của Vũ Văn Dũng về sau. Tất cả đều không giúp ǵ cho việc tăng tiến lực lượng Phú Xuân để đủ sức đối phó với Gia Định như nhận định của chính Quang Trung trước khi mất.

 

chênh mực kĩ thuật, xung đột văn hoá, và chiến thắng sau cùng

Sử quan Nguyễn đă thấy sự tranh chiến của anh em Tây Sơn là nguyên cớ lớn giúp cho sự phục hưng của chúa họ. Chính các thủ hạ của Nguyễn Ánh (Tống Phúc Đạm…) lẩn lút trong nội địa đă nhận ra t́nh h́nh thuận tiện cho công cuộc khôi phục nên nhắn Ánh trở về nước, tạo cơ sở chiến đấu dẫn đến thành công, trước khi có viện trợ từ bên ngoài. Những người Pháp về sau, hay những người chống đối họ Nguyễn, đă gán cho sự trợ giúp của Bá Đa Lộc một tầm mức hiệu quả hay một chính nghĩa không đúng với thực tế của nó.

 

Không phải chỉ v́ thiếu chứng cớ ghi lại mà ta không rơ về sự kiến thiết của Tây Sơn ở Gia Định. Tất nhiên là v́ thời gian làm chủ quá ngắn nhưng chính trong giai đoạn ấy cũng không thấy có dấu vết hoạt động ǵ ngoài sự hiện diện của các toán chiến đấu. Họ vẫn chỉ là một đoàn quân chiếm đóng trên những trung tâm hành chính cũ mà căn bản nhân sự là từ Quy Nhơn đem tới, với một số nhỏ hàng quân Nguyễn chưa đủ tin tưởng để phục vụ chủ mới, như hồi kí của Nguyễn Đức Xuyện lộ ra một ít chi tiết. Thật cũng dễ hiểu về phía Tây Sơn. Nhạc Huệ c̣n có văn thần Phú Xuân (Trần Văn Trạc, Trần Văn Kỉ…) c̣n có những văn thần Trịnh Lê bỏ rơi (Ngô Th́ Nhậm, Phan Huy Ích) hay những người tuy bất đắc dĩ nhưng đứng trước thực tế quyền bính phải đem tâm sức ra phục vụ (Nguyễn Thiếp.) Phía Gia Định vẫn là một chiến trường chưa cần đến văn quan nên Nguyễn Huệ bắt Hồ Đồng trong trận Đồng Tuyên (1783) đă đem về Quy Nhơn phục vụ cho ḿnh, sai làm hịch chửi anh mà không thấy ông hàng thần thuộc làu kinh sách đă không theo kịp t́nh thế mới, mắng kẻ địch như mắng chính ông chủ: “Không có tội nào lớn hơn là tội giết vua (Duệ Tông)!” (Cũng là một loại vướng víu chữ nghĩa, tuy chưa đến mức gạt gẫm chủ tướng, như sau này Ngô Th́ Nhậm ch́a cho Quang Trung kí tờ sắc phong cha ḿnh làm Đại vương, một tước vị ở cơi thiêng của làng xóm trong khi Lê Trịnh chỉ phong, ví dụ cho đại công thần Hoàng Ngũ Phúc, đến bực Thượng đẳng thần mà thôi!) Cho nên khi chia đất th́ dễ hiểu là Nguyễn Lữ không có quan văn để làm việc tổ chức lănh thổ. Nguyễn Đức Xuyên dưới trướng Tây Sơn chỉ thấy chuyện lôi nhau ra đấu vơ! Ở vùng của thương thuyền nhộn nhịp có người Hoa c̣n nhớ trận tàn sát 1782 th́ Đặng Văn Chân đóng dinh trại trên đất Cầu Sơn cao ráo, yên ổn rồi ép các nhà buôn theo lên đấy. Hành động “duy ư chí” đó tất nhiên là không mang lại hiệu quả, nhất là khi quyền lực không bền v́ chỉ năm sau là Chân phải đem quân về cứu Nhạc đang bị ông em vây đánh. Không biết danh vị Đại pháp sư toàn Đàng Trong có ảnh hưởng ǵ trong khả năng điều hành việc nước của Nguyễn Lữ không nhưng dấu hiệu của một nơi đóng quân: G̣ văi Lượng, có vẻ như một chứng cớ về thiên hướng thần bí của ông, không mấy ích lợi trong t́nh h́nh thực tế. (Một chừng mực nào đó giống như việc Bùi Đắc Tuyên ở Phú Xuân cai trị từ chùa Thuyền Lâm.) Mọi sự điều hành quân quản dồn vào tay người thân thuộc: Phạm Văn Sâm.

 

Lén bỏ Vọng Các kéo vài trăm tay chân thân tín “Công thần Vọng Các” về ḥn Tre làm đà bước lên đất liền (tháng 7âl. 1787,) Nguyễn Ánh đă khai thác được một lợi thế có sẵn từ sự xung đột ở Quy Nhơn. Nguyễn Đăng Vân, con nuôi Nguyễn Huệ bỏ chạy từ trước, Nguyễn Văn Trương trấn thủ Long Xuyên đưa binh thuyền đón hàng, là những người nhiệt thành lập công buổi đầu. Các tay chọc trời khuấy nước cứ theo t́nh thế mà quy tụ đầu phục, có người vẫn giữ tính ưa chém giết khi theo phe mới như Nguyễn Văn Nghĩa, có người nhẫn nhục ch́u ḷn mà lén nói nên lời trách móc như Vơ Văn Lượng, có người may mắn được ghép theo ḍng chúa qua hôn nhân nên phục vụ tới chết như Vơ Tánh… Với t́nh thế đó th́ tất nhiên Nguyễn Lữ phải bỏ chạy về Quy Nhơn. Phạm Văn Hưng ráng từ Phú Xuân đến ứng cứu, gặp lúc Vơ Tánh tăng thanh thế cho Nguyễn Ánh nên phải lo thoát thân trong lúc c̣n mùa gíó nam. Nguyễn Ánh chiếm Gia Định ngày 7-9-1788. Phạm Văn Sâm với ảo vọng tự ḿnh c̣n có thể chiếm lại dinh trấn cũ nên không ra biển chạy về Bắc mà luồn xuống Bassac nương nhờ dân Miên, cuối cùng găp mùa gió ngược không trốn thoát được phải đầu hàng vào đầu năm sau.

 

Nguyễn Huệ vướng gánh nặng Nguyễn Hữu Chỉnh ngay khi ông ta đă chết nên bận việc giải quyết chuyện Lê Thanh, để cho Nguyễn Ánh rảnh tay tổ chức đất Gia Định theo một t́nh thế không thể nào đảo ngược được. Và khác với Tây Sơn Nguyễn Lữ, Ánh không những có đủ nhân lực thuận tiện để xây dựng một xứ sở trên nền móng của ông cha để lại mà c̣n có cơ hội thu nhận một thành phần nhân lực mới, qua trung gian đôn đốc của một Giám mục muốn làm một Richelieu mới, muốn đi t́m một cơ hội rao giảng đạo Thánh trên vùng đất xa xôi này.

 

Các tôn giáo khi muốn dễ dàng cho việc truyền bá thường cố sức tránh chen vào những tranh chấp phe phái ở nơi ḿnh đến nhưng rơ ràng là không thể tránh được, nên những nhân viên tông đồ tích cực vẫn t́m cách chọn lựa một phe, hi vọng với sự thành công của nó sẽ giúp đưa đẩy tôn giáo ḿnh phát triển thuận lợi hơn. Pierre Joseph Georges Pigneau (de) Béhaine, Pierre/Pedro nói gọn, Pe-to-(r)lo của âm Hán chuyển qua âm Việt: Bá Đa Lộc, là một người như thế.

 

Từ hai trăm năm qua, những kẻ tranh quyền trên đất Việt đều biết rằng phải t́m cách lôi kéo những người da trắng tóc vàng đi trên các thương thuyền từ nơi xa xôi kia để lấy vũ khí mà đàn áp kẻ địch. Tuy nhiên súng ống, kĩ thuật không phải chỉ là cục sắt, là những vật dụng vô hồn. Ngay cả khi chuyển hoá vào trong ṿng văn hoá của ḿnh, vua quan Nguyễn cũng thấy súng có khả năng linh thiêng của một ông Thần đánh đấm: “thần công.” Tính văn hoá của súng trong đời sống thế tục ở thời gian này c̣n thể hiện nơi sự trao đổi giữa hai lớp người, mà cuối cùng thế nào cũng phải dẫn đến xung đột dù đă trải qua bước đồng ư đầu tiên là thanh toán xong bằng tiền bạc, hay vật dụng có giá trị tương đương. Súng ống phải qua tay những thương nhân da trắng, thấy có thêm bổn phận phải chuyên chở những kẻ đi rao giảng một tôn giáo mới mang một điểm chính yếu mà khó có người cầm quyền nào chấp nhận, đó là sự phụng thờ, gọi là một đấng thiêng liêng nhưng vẫn thấy là một người, một tập đoàn mới muốn đứng cao hơn các tập đoàn bản xứ họ rao giảng, chuyển hoá. Thế là các chính quyền đứng trước một sự phân vân lựa chọn, phải tuỳ theo t́nh thế mà quyết định làm sao có lợi cho ḿnh. Các chúa Trịnh Nguyễn đă từng ngó lơ việc rao giảng đạo Thiên Chúa khi cần súng ống, đồng hồ, ống ḍm nhưng cũng từng ra lệnh bắt linh mục, giết giáo dân không nương tay khi thấy nguy hiểm cho địa vị của ḿnh. Điều đó cũng không thể xảy ra khác dưới hai chính quyền Tây Sơn, Nguyễn. Tây Sơn trên đường thành công cũng từng cố công ve vản giáo sĩ. Những người này đă từ chối, lẩn tránh, một phần v́ không ở vào t́nh thế có thể đáp ứng được đ̣i hỏi, phần khác v́ sự khó khăn gây nên bởi sự chọn lựa phe phái rành rẽ của ông Giám mục kia.

 

Bá Đa Lộc tích cực trong việc giúp Nguyễn Ánh, ngoài tính năng động cá nhân c̣n v́ là thành phần của Phái đoàn Truyền giáo Paris, một tổ chức của Pháp muốn giành quyền làm Con cưng của Giáo hội La Mă, lấn át các tập đoàn Bồ, Tây Ban Nha về trước. “Tháng bảy (1783) nghe tin Bá Đa Lộc ở Chân Bôn (Chantaboun) vua cho người đến mời…” Nhân vật trung gian là một giáo sĩ Việt: Hồ Văn Nghị, người từng giúp Ánh chạy trốn, tiếp tế cơm nước trong những ngày gian nan. Sự thật đă xảy ra sớm hơn lời xác nhận kia. Khi đó Bá Đa Lộc đă nắm trong tay tờ tuyên bố ủy quyền của chính quyền Gia Định (18-8-1782) cho phép ông đại diện đi cầu viện nước Pháp với những điều khoản rành rẽ. Khôn ngoan hơn, ông c̣n nhận lănh cậu Hoàng tử Cảnh mới 2 tuổi 4 tháng làm chứng tích chính thống khiến cho các lực lượng khác thèm muốn ḍm ngó, mong ước trao đổi. Tuy nhiên đến hai năm rưỡi sau, phái đoàn cầu viện mới xuất phát về phía Ấn Độ Dương. Có một thoả ước Versailles được kí kết ngày 18-11-1787 nhưng chính quyền Pháp đang vướng vào giai đoạn cách mạng nên không đủ sức trợ giúp. Chức quyền thuộc địa Pháp ở Pondichéry (Ấn Độ) th́ không có mấy cảm t́nh với ông Giám mục nên rốt lại, toán người cầu viện về đến Vũng Tàu ngày 28-7-1789 chỉ được chào từ giă bằng 15 phát đại bác, và thuyền trưởng th́ tặng 2000 cân thuốc súng làm quà cho cậu bé hoàng tử dễ thương cùng ông Giám mục tội nghiệp.

 

Nhưng như đă thấy, Bá Đa Lộc là người có ư chí mạnh mẽ. Không được chính quyền giúp th́ ông lấy tính cách quen thuộc ngoại giao mà mời người. Sự thể cũng có điều dễ dàng v́ tiếng tăm cầu viện của Nguyễn Ánh đă lan cùng khắp vùng biển phía nam. Từ 1780, Toàn quyền Macao đă bắn tiếng cung cấp vật dụng cần thiết cho Ánh. C̣n trong lúc nằm chờ ở Vọng Các, Ánh được thuyền trưởng Antonio Vicenti Rossa đến (23-10-1786) báo đă có 56 (?) “chiến tàu” ở Goa đang chờ sẵn để lấy lại chính quyền cho Ánh.

 

Xă hội Tây Phương từ nhiều thế kỉ trước đă tạo ra một tầng lớp người phiêu lưu đi t́m quyền bính, tiền bạc ở nước ngoài. Một số người thực hiện được, tuy có người không tránh gặp kết cục thảm thương, nhưng tăm tiếng về khả năng của người Âu, về kĩ thuật cao cấp của họ là điều không thể phủ nhận. Cho nên khi Bá Đa Lộc mở lời kêu gọi là có nhiều người sẵn sàng đáp ứng. Ngay trận Ngă Bảy 1783 đă có người Bá Đa Lộc giới thiệu, Emmanuel, chống giữ tàu cho đến chết, được ghi vào sử sách nhà Nguyễn. V́ thế trong thời gian kiến thiết Gia Định, Nguyễn Ánh đă thu nhận được hàng loạt người đủ mọi lănh vực: chiến đấu, tổ chức pḥng thủ, thầy thuốc, vừa đánh nhau vừa đi buôn kiếm thêm, lôi kéo cả các ông quan của Nguyễn Ánh tham gia vào ṿng trao đổi khu vực. Tính tổng cộng những người đến rồi đi th́ Gia Định từng dung chứa khoảng 140 sĩ quan và 80 lính Pháp. Trong số phục vụ c̣n có người Anh, Irlandais. Người lằng nhằng ghi chép dài ḍng nhất là Ba-la-di / L. Barizy. Ông Tín / Ô-li-vi / Alexis Olivier de Puynamel, binh nh́ trên tàu La Dyade 1788 khi trốn đầu Nguyễn Ánh ở Côn Lôn, đă xây thành Gia Định năm 1790 mà công tŕnh hẳn là có sự tham gia của Cai đội Thạch Oai hầu / Le Brun. Những người thân cận về sau được mang họ chúa. Họ thay phiên nhau điều khiển các tàu chiến đặc biệt, thân bọc vỏ đồng. Thầy thuốc của Nguyễn Ánh là Đa-đột / Jean Marie Dayot, nguyên chủ tàu Adélaid 1786, qua trông coi tàu Đồng Nai (1792). Lê (chắc là Nguyễn) Văn Lăng / De Forcan coi tàu Bằng Phi (1801). Ba-nê-ô Nguyễn Văn Thắng / Jean Baptiste Chaigneau có mặt ở Việt Nam sau rốt, thay Dayot trông coi tàu Long Phi (1801). Nguyễn Văn Chấn / Philippe Vannier coi chiếc Phụng Phi (1801) cùng làm quan dưới triều Nguyễn với Chaigneau.

 

Cũng không nên quên các ngoại nhân khu vực khác chen chân vào ṿng tranh chấp. Cũng là người Việt nhưng khác phe, là những người văn học từ Đàng Ngoài vào đầu quân Gia Định như Đặng Trần Thường, Nguyễn Bá Xuyến… không chừa cả những người vốn là phản thần ở đó (1778): Nguyễn Kim Phẩm, Trần Xuân Trạch rồi sẽ đi vào miếu Công thần của Nguyễn. Những người Miên trên vùng Gia Định, hoặc đi hẳn vào quân lực Nguyễn Ánh như Nguyễn Văn Tồn, Diệp Mậu (có dáng lai Hoa) coi “Xiêm binh,” phục vụ cho tới hồi tàn cuộc, được ghi trong Liệt truyện của Nguyễn, hoặc là các lănh tụ địa phương của triều đ́nh Miên góp phần “đánh mướn” trong một chiến dịch, như Cao La Hâm Sâm trong lần tấn công cuối cùng (1800-1802). Ta thấy người Mă Lai Vinh Li Ma được ghi vào nhóm Công thần Vọng Các dù chẳng ở Bangkok ngày nào. Các nhóm Thiên Địa Hội lưu vong trên vùng biển phía nam cũng góp phần, nếu rủi ro th́ lọt ra ngoài thành cướp, may mắn chen vào ṿng quyền bính của Gia Định th́ thành quan. Về mặt kiến thiết, xây dựng một tổ chức xă hội phương Đông th́ các nhóm Minh Hương có mặt từ trước đă đóng vai tṛ đáng kể như nhóm Gia Định Tam gia mà ảnh hưởng c̣n dài măi về sau, thời thống nhất, qua sự xung đột với các vơ tướng Lê Văn Duyệt, Lê Chất. Ta có thể nghĩ thêm đến các tướng, quan Tây Sơn đầu hàng hay bị bắt rồi được thu dụng để thấy tính chất phức tạp của quan tướng Nguyễn Ánh.

 

Tất nhiên trong t́nh h́nh như thế th́ không tránh khỏi mâu thuẫn xảy ra. Lính Âu hung hăng, dữ tợn, rượu chè be bét ngay trên chiến trường. Quan lại cũng không phải là gương mẫu. Cai cơ, cai đội đi ăn cướp. Mới vừa yên vị là các quan lo vui chơi đánh bạc, rượu chè hát xướng. Nguyễn Đức Xuyên bị kẻ dưới quyền chê: “Thằng hát bội, làm tướng sao nên.” Tướng cũng chẳng gan dạ ǵ. Tống Phúc Đạm tổ chức dàn trận rồi ngồi dưới hầm núp, chờ đánh xong mới lên. Lê Văn Duyệt chê Nguyễn Văn Thành nhát mà dấu vết xung đột c̣n ảnh hưởng đến cái chết của ông Tổng trấn Bắc Thành về sau. Ngay đến ư định tấn công Tây Sơn cũng gây ra những lời bàn lui: “B́nh Thuận đánh dễ, giữ khó,” đó là lời Nguyễn Văn Thành, dù Nguyễn Ánh thấy ra cái lợi chiếm được một vùng cá muối để cung cấp lương quân. Cuộc tấn công xuân hè 1790 chiếm B́nh Thuận, chỉ mới gặp Tây Sơn của địa phương Diên Khánh mà tướng binh Nguyễn đă rút chạy, không cứu ứng nhau dẫn đến việc tướng Tiền quân, đại công thần Lê Văn Quân tự sát (1791).

 

Thật ra th́ buổi đầu ra quân này gặp khó khăn không phải chỉ v́ quân tướng Nguyễn Nhạc mà c̣n v́ sự cản trở của chính quyền Chàm lây lất đang hưởng một chút tự trị của Tây Sơn dành cho họ. Chưởng cơ Tá được Tây Sơn công nhận, trở nên người cầm đầu trong chiến tuyến chống Nguyễn, phải rút lui vào rừng khi Nguyễn Ánh cử một số người khác cho mang tên Việt và họ của ḿnh. Mối loạn từ 1793 đến 1798 được gọi là loạn Ba Phủ do “tù trưởng” Toàn Phù cầm đầu có vẻ đă phụ giúp Tá chống đánh quân Việt để lưu danh trong truyền thuyết về người anh hùng Raglai tên Tamrac, khi chết đi trở thành thần, chủ của các tay phù thuỷ Raglai bojou trong vùng. Xương cốt của ông (sọ bọc vải điều) được lưu giữ nơi địa điểm Bumong (Đền) Tamrac gần một làng (Choah: Cà Tráp của sử Việt?) của người Raglai, là nơi cúng tế thường xuyên mà ngày lễ trọng là rằm tháng giêng (trước Tết Việt). Gần đó cũng có bumong của chúa Chàm Sankah.

 

Phái chủ chiến lúc này là nhóm phiêu lưu Tây Phương muốn có chiến tranh để kiếm tiền. Nhưng thuyết phục được chủ tướng lại là ông quân sư bên cạnh vua. Bá Đa Lộc muốn đi vào vùng phía Bắc để viếng thăm các họ đạo nơi ấy. Các giáo sĩ cũng thấy cuộc tiến quân sẽ đem lại cơ hội rao giảng thuận lợi hơn. Bá Đa Lộc đă mang về Gia Định một câu bé hoàng tử thuần phục khiến các giáo sĩ mừng rỡ tưởng sẽ có được một ông vua theo đạo Chúa. Đại công thần Tống Phúc Đạm giữ thành Diên Khánh với Hoàng tử, trở thành kẻ mộ đạo đúng mực tân ṭng qua thời gian 8, 9 tháng cùng ở với ông Giám mục. Thế là bên cạnh cuộc tranh chiến bằng vũ khí với đối phương lại có cuộc tranh chấp tôn giáo giữa người cùng phe, không phải là không đe dọa dẫn đến cái chết. Xung đột nổi bật nhất là trong vấn đề “Lạy xác,” lạy ông bà mà Giáo hội La Mă cấm (Giáo lệnh 1742 của Benoit XIV) v́ cho đó là tục thờ Ma quỷ. Tức giận, có kẻ (Trần Đại Luật) muốn “mượn gươm vua, chém đầu treo cổ ở cửa chợ,” đ̣i giết Bá Đa Lộc th́ Nguyễn Ánh giấu tờ tâu, viện lẽ “hiện nay đang cần người… không nên hẹp ḥi… kẻ dối trá và ngu cũng nên dùng…” Những người chống đối cũng là người Ánh đang cần nhất: Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Văn Thành, Ngô Ṭng Chu… Những t́nh thế phức tạp này đă khiến Ánh t́m cách thu xếp theo một cung cách có lợi cho bản thân nhất, giúp Ánh “lớn lên” để gây dựng sự nghiệp dẫn đến thành công.

 

“Đang cần người…” nên Bá Đa Lộc doạ bỏ đi nếu Ánh không tiến quân, th́ quân Gia Định xuất phát, đánh thắng trận Thi Nại đầu tiên (1792). Dù quân chiếm đóng chỉ nghỉ ở đây có hai ngày th́ cũng là một thời điểm để ta dừng lại lượng định t́nh t́nh chung v́ địa điểm Thi Nại là nơi thử sức đầu tiên của quân Gia Định ở ngay trung tâm của kẻ thù.

 

Không thể biết nhiều về phía Tây Sơn Nguyễn Nhạc trong thời gian này. Các viên tướng nổi bật trên chiến trường từ trước đều ở cả Phú Xuân. Chỉ c̣n lại dấu vết ngày nay là các bằng cấp kí niên hiệu Thái Đức (1789, 1790) cấp cho người làm xe nước ở Quảng Ngăi. Tàu người Âu đi ngang qua Quy Nhơn tưởng đây là vùng sung túc nhưng nh́n kĩ bằng ống ḍm th́ chỉ thấy có núi đồi, băi cát xơ xác. Họ ghé vào Đà Nẵng mà không dừng lại Quy Nhơn v́ cửa Nước Mặn chỉ c̣n là một con lạch nhỏ. Cửa chính là Thi Nại ở về phía nam, nơi chiến trận xảy ra mà tin Gia Định nhận được của tù binh lại là không có pḥng bị ǵ nhiều. Thế là quân Nguyễn tiến ra trong thế vượt trội mà có lẽ Nguyễn Ánh cũng chưa lường hết được.

 

Cơ sở kinh tế Gia Định ngay về nông nghiệp truyền thống đă phát triển theo một hướng mới. Người Âu chê ở đấy chỉ sản xuất lúa gạo nhưng ta thấy là các tổ chức đồn điền của nhà nước – không kể sản xuất tư nhân, đă dư thừa để cung cấp cho các nước khác trên đất, ngoài biển, dùng đổi lấy binh khí theo kiểu ngoại giao truyền thống gọi là “cống sứ.” Đồn điền ở các vùng ngoài là nơi tạo ra lương thực để tồn tại, c̣n đồn điền ỡ Gia Định rơ ràng đă mang tính chất sản xuất hàng hoá. Sự khai thác sản vật có tính cách tổ chức, có chủ trương của tư nhân thời mới được đưa lên tầm mức nhà nước, như cho dân vay làm mùa trong sản phẩm đường mía, đă làm cho chính quyền nắm được số lượng lớn, chắc chắn cho xuất khẩu, khác hẳn lối tom góp lẻ tẻ xưa kia. Và điều này có thể vẫn c̣n được thi hành ở vùng Tây Sơn. Gia Định mở rộng cửa buôn bán, không phải chỉ riêng ở vùng quản lí của Nguyễn mà c̣n sâu trong lănh thổ của Cao Miên với các loại hương liệu lấy từ các dăy núi bên trong.

 

Chứng nhân đương thời đă thấy và thán phục khu vực chế tạo súng đạn của Gia Định. Thuốc đạn châu Âu tinh nhạy hơn các thứ cùng loại sản xuất bằng diêm tiêu, lưu huỳnh cũ kĩ. Súng lớn được di chuyển bằng sức người hay bằng xe trâu ḅ. Thuyền chiến không hẳn là chạy bằng máy nhưng bọc vỏ đồng, tỏ ra có sức chịu đựng sóng gió trên biển hơn là các thuyền nan, gỗ. V́ thế Nguyễn Ánh mới tự phụ: “Thuỷ chiến là sở trường của ta.” Kiến thức khoa học được dịch ra cho Nguyễn Ánh đọc. Không phải sách vở về thành luỹ kiểu Vauban chỉ được dịch ra để suy ngẫm mà Ánh c̣n cho thực hiện một công tŕnh kiểu đó, phối hợp với một số ư niệm phong thuỷ phương Đông. Trần Văn Học xây các thành cùng loại sau khi thống nhất hẳn là từ những học hỏi này.

 

Bá Đa Lộc và nhóm phiêu lưu người Pháp đă giúp Nguyễn Ánh vượt qua những ám ảnh của những ngày gian nan cũ. Thế là nảy sinh một chiến lược hành quân mang tính tấn công theo thực tế của khu vực, đồng thời là huấn luyện quân đội qua thực tập chiến trường. Đó là khởi đầu của những trận “giặc mùa” đánh ra theo luồng gió nam và rút về khi mùa gió bấc nổi, nghỉ binh chờ sang năm đánh tiếp. Toán người Âu và sức mạnh kĩ thuật mới đem lại thành công cho Gia Định, rơ rệt khi Dayot trên chiếc tàu đồng khai hoả cho trận chiến Thi Nại. Chiến tranh như thế tiếp tục mang lại kinh nghiệm và tự tín cho quân Nguyễn, dẫn đến thành công cuối cùng. Trong những ngày quyết liệt về sau, Tây Sơn đă quân sự hoá toàn vùng thang mộc ấp căn bản của ḿnh, “biến ấp thành đội (quân)” nhưng sức dũng mănh của thân xác tướng sĩ họ rơ ràng là không đương cự nổi với quân Gia Định cứ như một cỗ máy ầm ́ lăn tới.

 

Sự đe doạ của Gia Định đă đánh động đến Phú Xuân làm xảy ra một toan tính quyết liệt của Nguyễn Huệ. Nguyễn Nhạc hốt hoảng cầu viện Phú Xuân khiến cho việc ngăn cách hai thế lực mạnh nhất trong vùng có cơ rút ngắn lại. Thật ra th́ đă có những toan tính của hai bên đánh nhau qua các thế lực trung gian, như lúc Trần Quang Diệu thắng ở Vạn Tượng mà tiếng đồn là Tây Sơn sẽ nhân dịp đi ṿng trên vùng thượng đạo, tấn công Gia Định từ phía sau, đồng thời với thuỷ binh đánh ập mặt trước biển. Toan tính đó không thực tế bằng những dự định trong tờ hịch đề niên hiệu Quang Trung thứ 5 ngày 10 tháng 7 (27-8-1792) theo đó Nguyễn Huệ kêu gọi dân hai phủ “thang mộc” Quy Nhơn, Quảng Ngăi chuẩn bị đắp đường, sửa cầu giúp ông kéo quân thẳng vào đập nát họ Nguyễn như đập “gỗ mục,” biến Gia Định thành “mồ chôn” kẻ địch rồi đánh thẳng lên Cao Miên, không chừa cho họ một nơi trốn chạy nào nữa. Toan tính không thành v́ Nguyễn Huệ mất (đêm 16-9-1792).

 

Lịch sử Tây Sơn lúc này vẫn c̣n đang trên đà của những trận chiến th́ việc mất người cầm đầu, nhất là người cầm đầu xuất sắc, tất là không tránh khỏi ảnh hưởng nặng nề đến vận mệnh chung. Lời đồn về việc Huệ bị thần (tiên tổ) họ Nguyễn vật chết chứng tỏ thêm về sự kiện quan trọng này đă góp phần thúc đẩy cho sự thành công ló dạng của phe Gia Định. Thật ra cái chết của Huệ cũng là b́nh thường trong t́nh thế và xă hội lúc bấy giờ. Ch. Borri đă chứng kiến ông trấn thủ Quy Nhơn chỉ v́ quá ham mê săn bắn, bị cảm nắng mà chết thật nhanh chóng. C̣n Nguyễn Huệ “bốn lần vào Gia Định đều đi trước,” suy nhược đau yếu v́ trận Đống Đa khiến cho việc nhận phong An Nam Quốc Vương tưởng là phải gặp trở ngại, và trong năm 1792 đang trông coi khoảng 30 000 lính Phú Xuân tập luyện hàng ngày, cuộc sống căng thẳng như thế th́ chết trẻ không phải là điều lạ. Tuy nhiên Quang Trung đă không chết bất ngờ, ông c̣n gọi được Trần Quang Diệu từ Nghệ An về, trăn trối toan tính lo cho cơ nghiệp sau khi ḿnh chết đi. Có điều sức mạnh ông vun bồi chỉ có thể giúp những người kế nghiệp kéo dài cuộc sống mà không thể cứu văn t́nh h́nh bởi v́ sự suy sụp nằm ngay trung tâm quyền lực, ở cơ cấu gia đ́nh Nguyễn Tây Sơn.

 

Tính chông chênh của nhóm Tây Sơn Quang Trung thấy đầu tiên ở nơi vị trí trú đóng. Ṇng cốt của quân lực th́ lấy từ đất Quy Nhơn buôn bán mà lại đứng chân trên kinh đô của họ Nguyễn vừa mới xưng vương. Người cầm đầu cũng thấy điều ấy nên lăm le trở về Nghệ An, quê của tổ tông theo gia phả, để t́m sự liên kết cố cựu. Tuy nhiên thực tế đất ấy lại không c̣n là của họ nữa v́ những người dân đang phải chịu tai ách của chiến tranh hơn cả lúc trước, như lời Nguyễn Thiếp tŕnh bày, th́ không có ḷng dạ nào nhận bà con với người áp bức họ được. Quang Toản sau đó vẫn ở Phú Xuân là minh chứng.

 

Ư định về Phượng Hoàng Trung đô lại có vẻ cũng là một toan tính vượt thoát, không phải chỉ mong ra khỏi đất lạ Phú Xuân mà c̣n muốn thoát cả sự ràng buộc của đại gia đ́nh Tây Sơn nữa. Ta đă thấy họ Phạm có một người làm vợ chính thức của Nguyễn Huệ, có những người nổi bật ngay suốt triều đại ở cả nhiều phe phía: Phạm Ngạn, Phạm Văn Sâm, Phạm Văn Hưng, Phạm Công Trị… Trong lúc đó gia đ́nh anh em Nhạc, phía nội không có ai xuất sắc, hay có thể không đủ đông để quân b́nh với phía thông gia. Thế mà quan điểm về tính liên kết bà con lại có dấu hiệu đậm nét phía nữ khiến cho vai tṛ nhà vợ của họ lại tăng tiến thêm. Nguyễn Huệ chết, người cầm quyền Phụ chính là ông già tám mươi Bùi Đắc Tuyên, chỉ liên hệ với bà Phạm Hoàng hậu v́ mẹ bà này có chồng trước mang họ Bùi! Ông chồng bà Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, người được Quang Trung gọi về trối trăn, thật ra không có bà con ǵ với anh em Tây Sơn cả. Vậy mà các giáo sĩ đương thời chuyển lời xưng hô của dân chúng đă ghi ông là “oncle maternel du roi,” theo nghĩa thông thường, là ông dượng của Cảnh Thịnh. Thế là có xung đột giành quyền ngấm ngầm giữa họ Phạm và họ Bùi. Tính cách gia đ́nh “nhà quê” đó lại gây xung đột với lớp nho sĩ Phú Xuân cũ để Trần Văn Kỉ đào khoét thêm mối mâu thuẫn địa phương khác, xúi giục Chiêu Viễn Hầu (người Hải Dương) Vũ Văn Dũng gây chính biến giết Bùi Đắc Tuyên và con cái khiến Trần Quang Diệu đang đánh phương nam phải bỏ mặt trận quay về. Đổ vỡ đă thành th́ hàn gắn cũng không thể như cũ được. Tây Sơn trượt dài trên đường bại vong trong lúc Gia Định càng tăng niềm tự tín.

 

Chỉ một năm sau khi Quang Trung chết, ở Gia Định người ta vui mừng: “… kẻ thù vẫn c̣n nhưng lực lượng yếu kém thấy rơ.” Nguyễn Ánh nghe quan tướng Phú Xuân đào ngũ báo cáo về tin tức lủng củng của Tây Sơn, liền ra lệnh xuất quân. Quân thuỷ đi trước sâu vào trong đất địch, giữ việc tiếp tế, liên lạc với bộ binh tiến theo sau. Họ chỉ gặp sức chống cự mạnh khi vào đất Quy Nhơn. Quân Gia Định vây thành Hoàng Đế trong ba tháng, lấn ra đến tận Quảng Ngăi nhưng rốt cục phải rút lui v́ quân Phú Xuân đă vào tiếp viện Nguyễn Nhạc. Trận chiến gió mùa tây nam 1793 rốt lại đem về cho Nguyễn Ánh một vùng đất rộng để Ánh xây thành Diên Khánh, cũng của Olivier vẽ ra, tuy là thành đất nhưng rồi sẽ chứng tỏ sự vững vàng của nó trước đội quân hùng mạnh của Tây Sơn không có vũ khí công phá tương xứng.

 

Quân bộ vào cứu thành Hoàng Đế có đến 17000 người, 80 thớt voi dưới quyền Thái uư Phạm Văn Hưng và các danh tướng từng có mặt ở Đống Đa năm xưa. Đất Bắc có vẻ không giúp ǵ nhiều cho Tây Sơn v́ quân đóng ở đó như ở trên đất địch. Lệnh đeo tín bài để kiểm tra người, bắt lính xảy ra dồn dập như người ngoại quốc đă dùng cả tiếng Việt để diễn ư: “Nhà nào có mấy người th́ bắt đi lính cả, nhà có 5 người th́ đi cả 5 (không ḱ già nua trẻ yếu.)” Như thế th́ tính h́nh hẳn là không dễ chịu đối với người dân miền Bắc để họ chân thành phục vụ. Khi Quang Trung mất, lẹnh đeo tín bài dù được băi bỏ, vẫn có loạn: “xứ xứ tịnh khởi,” như lời sử quan Nguyễn ghi. Tuy nhiên quân lực được Nguyễn Huệ tôi luyện hẳn chưa suy suyển mấy khi tiến vào Quy Nhơn trong năm sau. Họ không đuổi theo quân Nguyễn v́ phải lo thanh toán chính quyền ở đây để đủ toàn quyền hành động cứu văn sinh mệnh tập thể mà chắc họ đă thấy bị đe doạ rơ rệt. Nhạc uất ức thổ huyết chết (13-12-1793), con Nhạc, Nguyễn Bảo chỉ được hưởng lộc một huyện Phù Li (có lẽ trọng tâm nằm trên vùng khởi nghiệp “Kiên Thành”) gọi là Tiểu triều. Và quân Phú Xuân tấn công theo mùa gió bấc năm sau (1794) chỉ dừng lại khi không qua được ngôi thành Diên Khánh năm này, cũng như năm sau.

 

Ưu thế thuỷ quân Gia Định lại chứng tỏ năng lực của nó trước thuỷ binh Tây Sơn tuy cũng có số lượng nhiều nhưng rơ ràng đó chỉ là những chiếc ghe lớn. Năm 1790 khi ra Đông Kinh nhận lễ phong, Quang Trung đă hoảng hốt thấy hàng trăm thuyền chiến Trung Hoa cướp phá dọc biển, phải vội vă lo toan chống cự. Có vẻ ông không trị được đám cướp biển được gọi là Tề ngôi Hải phỉ này nên liên tiếp ra chỉ dụ chiêu hồi họ, dành cửa Bạng cho họ trú đóng, phong vương cho chủ tướng, dùng họ cướp phá ven biển Trung Hoa làm áp lực với nhà Thanh, và cũng làm một yếu tố trấn áp quân Gia Định để bù lại yếu kém của phe ḿnh. Nhưng trận chiến thắng Thi Nại 1-3-1801 là dấu hiệu rơ rệt nhất về ưu thế thuỷ quân Gia Định. Họ đă tha hồ làm chủ măt biển, tấn công sâu vào hậu phương địch, bỏ qua những cản trở mà bộ binh không khuất phục được.

 

Thế là những rối loạn nội bộ của Tây Sơn cứ theo nhau kéo đến. Vụ đảo chính giết Bùi Đắc Tuyên khiến Trần Quang Diệu đang vây Diên Khánh phải bỏ về giải quyết chuyện Phú Xuân (giữa 1795.) Tướng sĩ tan ră, chán nản, có ư đầu hàng Gia Định (1797) như Lê Chất, khi quân Gia Định tiến ra, lần đầu đe doạ Phú Xuân, thế mà Lê Trung cũng không t́m cách ngăn cản. Tiểu triều Nguyễn Bảo gây loạn cuối năm 1798 kéo quân Nguyễn ra chiếm thành Hoàng Đế (giữa năm 1799,) gây thêm lục đục nội bộ Tây Sơn. Trên chiến trường bây giờ chỉ có hai con người nổi bật, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, nhưng họ kết hợp v́ chính sự an toàn của bản thân hơn là v́ tâm ư phục vụ triều đ́nh trên cao.

 

Họ đem quân vào Quy Nhơn toan tính lấy lại nơi căn bản. Họ vây thành, bây giờ đă đổi ra tên B́nh Định, có Vơ Tánh chống giữ. Chỉ có vây, v́ thành đất Diên Khánh c̣n không hạ được th́ thành đá B́nh Định làm sao thanh toán cho xong? Quân thuỷ của Vũ Văn Dũng trấn cửa Thi Nại, không đủ sức giữ để Nguyễn Ánh dùng tàu tây tận lực tấn công đưa đến trận thắng vang dội tận vùng biển Xiêm La. Nhưng trên bộ quân Ánh không tiến lên được v́ không qua khỏi quân Tây Sơn. Từ lâu Nguyễn Ánh cũng biết đến hiệu quả của tượng binh nên cố sức tổ chức binh chủng này, giao cho tướng thân cận hoàng phái là Nguyễn Đức Xuyên điều khiển. Tuy Xuyên có lợi thế sử dụng ống ḍm, từng nhờ đó đă một lần tránh được tổn thất nhưng vẫn chưa đủ sức đương cự với quân tượng Tây Sơn. Thế là thành B́nh Định vẫn không giải toả được. Và thuỷ quân lại thêm dịp chứng tỏ khả năng. Quân Nguyễn theo lời Vơ Tánh chịu hi sinh, để Nguyễn Ánh chuyển đi lấy Phú Xuân (15-6-1801) đuổi Quang Toản chạy ra Bắc.

 

Các sự kiện về sau chỉ có tính cách nối tiếp trên đà suy sụp của Tây Sơn: Quang Toản ở Đông Kinh đổi niên hiệu là Bảo Hưng, mang quân đánh trận cuối trên luỹ Trấn Ninh đầu năm Nhâm tuất (1802) để cho lịch sử ghi thêm tên Bùi Thị Xuân, danh tướng chứ không phải là bà chủ thu lúa ruộng. Toàn bộ vua quan Quang Toản đầu hàng, tự tử, bị bắt để Nguyễn Ánh tiến vào Đông Kinh (20-7-1802). Tàn quân Tây Sơn ở Quy Nhơn vây chết Vơ Tánh nhưng thiếu lương, phải bỏ thành, đi ṿng đường thượng đạo ra Bắc cũng không cứu văn được t́nh h́nh. Quân tướng tan ră, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng chỉ c̣n có thể tỏ khí khái của con nhà tướng khi nằng nặc đ̣i được diện kiến Nguyễn Đức Xuyên, viên tướng chỉ huy tượng quân đă cùng họ tranh chiến suốt ba năm trường mà chưa thấy mặt.

 

Triều đ́nh của tập đoàn các lái Quy Nhơn vừa bị xô đổ. Một triều đại khác lên thay thế, mang dạng vừa cũ vừa mới. Cũ v́ là tiếp tục ḍng dơi của những người ngự trị trên vùng đất họ đă có mặt trên hai trăm năm. Mới là v́ cương vực lănh thổ thuộc quyền đă lớn rộng hơn trước cho nên chức phận không những đă cao hơn mà lại không c̣n ai tranh căi về mặt chính thống nữa, để có thể xoá tên nước cũ từng hiện diện cả ngàn năm và đặt tên mới cho thần dân của ḿnh.. Thế nhưng người cầm một cánh quân ra Bắc với danh hiệu B́nh Tây Tướng quân lại là một tướng Nguỵ Tây. Phu quét chợ, lính đẩy xe, con cháu các lái Quy Nhơn và đồng dạng, vào làm quan trong triều mới khiến “triều sĩ” Nguyễn Viên Bắc Hà lên tiếng chống đối, không nghĩ rằng ḿnh cũng chỉ là kẻ đứng ngoài, mới vừa nhập bọn. Và cũng không nghĩ ra rằng ông chính là đại diện cho một khuôn thức tổ chức mà triều mới sắp đi vào cho sít sao hơn, đúng với t́nh h́nh chung của khu vực Á Đông lớn rộng. Bá Đa Lộc đă chết, Hoàng tử Cảnh cũng đă chết, các ông Chaigneau, Vannier… đă có họ Nguyễn, mang tên Thắng, tên Chấn mặc vơ phục vào chầu vua, mua đất cất nhà ở Kinh đô… cuối cùng nếu không bị đẩy ra ngoài th́ cũng sẽ tan biến trong xứ sở họ phục vụ. Sự hiện diện của những người như họ ở vùng đất này là nguyên nhân của những đảo lộn dữ dội trong hơn ba mươi năm qua, c̣n kết thúc của họ lại như là minh chứng cho sự thất bại của lớp người họ đă góp phần đánh đổ. Nhưng cuối cùng mầm mống họ đă gieo vẫn c̣n đó trong đất nước phức tạp của Gia Long, như một sự nhức nhối chờ đợi những đổ vỡ lớn lao hơn.

 

** Cũng viết cho phần thiếu, nợ gần nửa thế kỉ trước: Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802.

 

Mờ mắt, tạm dừng lại, tháng 10-2008.

 

 Xem tiếp Sơ Thảo: Bài sử khác cho Việt Nam

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Bảo Tàng Lịch Sử

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Hoàng Hải Thủy

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten