Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguyễn ngọc Huy – Hùng Nguyên 

 

 

PHẦN THỨ NH̀

 

 

 

CHỦ - NGHĨA

 

DÂN - TỘC SINH - TỒN

 

 

CHƯƠNG III

 

THUYẾT SINH-TỒN

 

I.- MỤC-ĐÍCH HOẠT-ĐỘNG CỦA NGƯỜI : SINH-TỒN.

 

A.- Ư-CHÍ SINH-TỒN CỦA NGƯỜI.

 

1.- BẢN-NĂNG SINH-TỒN CỦA NGƯỜI.

 

Nhờ sự nghiên-cứu của các nhà sanh-vật-học, sanh-lư-học và tâm-lư học, chúng ta đă có một số tri-thức về con người. Những tri-thức này không nghiêm-xác hoàn-toàn bằng những tri-thức người thâu- hoạch được về các tử-chất. Tuy thế, nó cũng giúp ta có một ư-niệm về con người. Ư-niệm đó chưa được rơ ràng đầy đủ, nhưng cũng phù-hợp với con người thật-sự, ít nhứt là trong những đại-cương.

 

Sự khảo-sát về con người đă cho chúng ta thấy rằng người là một phần của vơ-trụ. Cơ-thể người được cấu-tạo bằng những chất hóa-hợp xây dựng nên vơ-trụ, nhưng lại có những tánh-cách đặc-biệt. Với nhiều xúc-cảm, nhiều quan-năng phức-tạp và phân-biệt nhau, người cư-xử như là một tổng-thể thuần-nhứt. Tổng-thể này rất linh-động và rất mẫn-nhuệ, có nhiều khả-năng và đặt dưới sự điều-khiển của những bẩm-tánh thiên-nhiên có một sức mạnh không ai cưỡng được là những bản-năng.

 

Ta đă thấy rằng các bản-năng của người có thể chia ra làm ba loại chánh-yếu : bản-năng vị-kỷ, bản-năng t́nh-dục và bản-năng xă-hội. Những bản-năng vị-kỷ nhắm vào việc bảo-vệ sự sống c̣n của cá-nhơn , những bản-năng t́nh-dục hướng đến chỗ bảo-vệ sự sống c̣n của chủng-loại, những bản-năng xă-hội th́ có mục-đích tạo điều-kiện cần-thiết cho sự tập-hợp nhiều người lại thành đoàn-thể. Sự sống thành đoàn-thể này vừa có lợi cho sự sống c̣n của cá-nhơn, vừa có lợi cho sự sống c̣n của chủng-loại.

 

Những loại bản-năng trên này thật ra không phải hoàn-toàn phân-biệt nhau, mà có tác-động qua lại với nhau, lắm khi ḥa-hợp nhau để tạo ra những khuynh-hướng vô-cùng phức-tạp. Nhưng trong trường-hợp nào cũng vậy, các bản-năng đều hướng về mục-đích mưu-đồ sự sống c̣n cho người ; sống c̣n của cá-nhơn hay là sống c̣n của chủng-loại. Như vậy, ta có thể xem tất cả các bản-năng của người là những h́nh thể khác nhau của một bản-năng duy-nhứt : bản-năng sinh-tồn.

 

Bản-năng sinh-tồn là một bẩm-tánh thiên-nhiên hỗn-hợp với cơ-thể người ; nó phát-hiện khi người mới sanh và chỉ tiêu-diệt khi người chết. Do đó, nó chi-phối hết cả đời sống của người, từ khi người cất tiếng oa oa để chào đời cho đến lúc người nhắm mắt xuôi tay, giă từ trần-thế.

 

V́ bản-năng sinh-tồn mà người có một ư-chí sinh-tồn vô-cùng mănh-liệt. Ư-chí sinh-tồn xuất-hiện một cách rơ rệt trong tất cả những hoạt-động của người. Những hoạt-động này sở-dĩ phức-tạp là v́ người là một sanh-vật cao-đẳng có nhiều năng-khiếu sanh-lư và tâm-lư, thành ra có nhiều nhu-cầu và khuynh-hướng khác nhau. Tuy vậy, dựa vào bản-năng sinh-tồn, ta có thể thống-suất được hết những hoạt-động ấy một cách dễ dàng.

 

II.- SỰ HOẠT-ĐỘNG SINH-TỒN CỦA NGƯỜI.

 

Xem xét hoạt-động của người từ ngàn xưa đến giờ, ta có thể nhận thấy rằng mục-đích chánh-yếu của người là mưu-đồ sự sống c̣n cho ḿnh.

 

Trước hết, người hoạt-động để sống : sống về mặt vật-chất, trong hiện-tại và tương-lai. Từ một người dă-man ẩn náu trong chốn rừng sâu núi thẳm cho đến một người sống trong xă-hội văn-minh, ai ai cũng lo giữ ǵn tánh-mạng ḿnh và làm việc để nuôi thân. Khi vấn-đề sống trong hiện-tại đă giải-quyết xong, người nghĩ đến việc kéo dài sự sống của ḿnh ra ; người gắng hết sức làm cho đời sống của ḿnh  được lâu dài chắc chắn. Ngoài việc t́m cách xây dựng những nơi trú-ẩn lâu bền người lại c̣n để dành những  món ăn thức uống để pḥng khi đói kém.

 

Giải-quyết được việc duy-tŕ đời sống của bản-thân, người lo đến việc tăng-gia sức sống của ḿnh, bành-trướng năng-lực sanh-hoạt của ḿnh. Người t́m cách nâng cao đời sống của ḿnh lên, cố làm cho đời sống ấy được dễ dàng sung sướng hơn. Không những nghĩ đến việc no ḷng, người c̣n biết t́m những món ăn ngon  lành sạch sẽ, không những cần được ấm thân, người c̣n biết thích y-phục đẹp đẽ, không những muốn có chỗ trú-ẩn, người c̣n muốn có chỗ ở tráng-lệ huy-hoàng.

 

Về phương-diện tinh-thần, người có những t́nh-cảm, những sở-thích, những nguyện-vọng riêng. Người muốn được tự-do phát biểu t́nh-cảm ḿnh, hướng đời sống ḿnh theo nguyện-vọng ḿnh và tổ-chức nó theo sở-thích ḿnh.

 

Hơn nữa, người c̣n muốn đem sự sống ra ngoài bản-thân ḿnh. Người muốn cho những vật quanh ḿnh mang một  phần sự sống của ḿnh, muốn cho đồng-loại ḿnh chịu ảnh-hưởng ḿnh. Sau hết, người cũng muốn rằng sau khi ḿnh chết, một phần sự sống của ḿnh c̣n lưu lại trần-thế. Nhu-cầu t́nh ái của người, ḷng ham muốn có một được đứa con nối dơi cho ḿnh, để ḍng họ ḿnh được vĩnh-cửu, sự cố-gắng để tạo ra một tác-phẩm văn-chương hay, nghệ-thuật một công-tŕnh vĩ đại hay một sự- nghiệp hiển-hách, sự tha-thiết muốn truyền-bá tư-tưởng ḿnh để làm cho nó thắng-lợi và chi-phối những kẻ khác, sự nỗ-lực để ngự-trị đồng-loại, đặt họ dưới sự điều-khiển của ḿnh, đó là bao nhiêu bằng cớ chứng tỏ ư muốn bành-trướng và duy-tŕ sự sống của con người.

 

Duy-tŕ sự sống của ḿnh về hai mặt vật-chất và tinh-thần, trong hiện-tại và tương-lai, làm cho sự sống của ḿnh càng ngày càng dễ dàng sung sướng và bành-trướng măi ra, để có thể truyền cái sống quanh ḿnh trong khi ḿnh c̣n sống và sau khi ḿnh đă chết. Nói tóm lại, sự sinh-hoạt và tồn-tại, sống và c̣n, đó là tất cả mục-đích hoạt-động của con người.

 

Kết-quả của sự hoạt-động này đưa đến một cứu-cánh duy-nhứt : mưu-đồ sự sinh-tồn của con người, và của cả loài người. Ta có thể nói tóm lại rằng, tất cả cuộc đời quây quần chung quanh hai chữ sinh-tồn : sinh-tồn về vật-chất, và sinh-tồn về tinh-thần, sinh-tồn của cá-nhơn và sinh-tồn của chủng-loại.

 

B.- NHỮNG BIỂU-LỘ KHÁC NHAU CỦA Ư-CHÍ SINH-TỒN.

 

Tất cả mọi người trên thế-giới đều có ư-chí sinh-tồn và đều hướng hết sự hoạt-động của ḿnh vào mục-đích phụng-sự ư-chí sinh-tồn ấy. Tuy vậy, sự hoạt-động của con người không phải hoàn-toàn giống nhau, và đứng trước một t́nh-thế, sự phản-ứng của người này và người kia có thể khác hẳn nhau. Như thế là v́ ư-chí sinh-tồn của người bị sự chi-phối của cá-nhơn và có rất nhiều trạng-thái.

 

Năng-lực thể-chất và tinh-thần của người vốn khác nhau vô-cùng. Nếu bên trong mỗi người, những nhu-cầu vật-chất đưa đến những dục-vọng thấp kém vẫn sống gần bên những nhu-cầu tinh-thần đưa đến những lư-tưởng cao-thượng, sức mạnh những nhu-cầu ấy rất khác nhau tùy người. Một mặt khác, khả-năng của người trong sự chế-ngự hay thỏa-măn những nhu-cầu của ḿnh khác nhau vô-cùng, tùy hoàn-cảnh, tùy đặc-tánh di-truyền, tùy tŕnh-độ giáo-dục, tùy trạng-thái sanh-lư và tâm-lư mỗi lúc của người.

 

Người thái-cổ và người dă-man hiện-tại không có một ư-thức rơ rệt về hành-động của ḿnh. Họ hoàn-toàn tuân theo bản-năng một cách tự-nhiên. Sự sai-biệt về thể-chất và tâm-trí không có bao nhiêu, cá-tánh người chưa mở mang lắm và những ước-thúc xă-hội giản-dị có một hiệu-lực gần như nhau đối với cá-nhơn trong đoàn-thể. Do đó, ư-chí sinh-tồn được biểu-lộ gần như nhau.

 

Sự hoạt-động cho mục-đích sinh-tồn cá-nhơn trong những xă-hội thô-sơ vẫn quan-trọng và cần-thiết nhưng v́ người thường có cơ-hội tập-hợp nhau để tự-vệ, để mưu sống chung, để vui chơi với nhau, để lễ bái thần thánh nên các bản-năng xă-hội rất mạnh mẽ. Nó uốn nắn người theo khuôn khổ chung, điều-ḥa sự giao-thiệp nhau giữa mọi người, và khiến cho người sẵn sàng hy-sinh cho đoàn-thể những khi cần.

 

Chính những đặc-tánh trên đây đă tạo ra thần-thoại về những con người dă-man có tánh tốt bẩm- sanh. Thật-sự những con người dă-man đó làm điều phải một cách tự-nhiên như làm điều ác, v́ họ hành-động một cách vô-ư-thức, theo sự thúc giục của bản-năng họ.

 

Trong xă-hội văn-minh, con người đă tiến-hóa hơn, sự sai-biệt về khả-năng thể-chất và tâm-trí của người đă rơ rệt hơn. Tŕnh-độ sanh hoạt vật-chất chung đă được nâng cao, sự an- ninh cũng vững vàng hơn, và những cơ-hội tập-hợp để làm việc hoặc vui chơi chung nhau ít bớt đi. Những điều trên này làm cho cá-tánh người rơ rệt hơn, đồng-thời nới rộng những mối dây xă-hội ràng buộc cá-nhơn.

 

Đă thế, một số người có c̣n thể có ít nhiều ư-thức về hành-động của ḿnh và có thể tự ư chế-ngự một số nhu-cầu, cao-thượng-hóa những khuynh-hướng của ḿnh. Sự giáo-dục mà người nhận chịu một cách không đồng đều nhau, thường có mục-đích tăng-cường những bản-năng xă-hội đă bị yếu bớt trong những xă-hội có tŕnh-độ vật-chất cao.

 

Do những yếu-tố trên này, ư-chí sinh-tồn của người trong xă-hội văn-minh biểu-lộ dưới những h́nh-thức phức-tạp hơn.

 

Trong xă-hội văn-minh có những người khôn ngoan, nhận thấy những quyền-lợi của ḿnh từ xa và một các rơ ràng. Lư-trí họ cho họ biết rằng quyền-lợi chánh đáng của họ không phải ở trong sự thỏa-măn những dục-vọng hiện-tại của họ một cách mù quáng. V́ thế họ nghĩ đến tương-lai nhiều hơn. Họ có thể nhờ một ư-chí mạnh mẽ mà tổ-chức đời sống theo một xu-hướng nhứt-định, và tạo nên những mối dây bền chắc để chế-ngự hay hướng-dẫn các nhu-cầu, các dục-vọng thấp kém của họ. Nhờ đó, họ có một cá-tánh mạnh mẽ và thành-công trong những dự-định của họ.

 

Ngoài ra, lại c̣n có những người biết nghĩ đến tương-lai, nhưng không đủ ư-chí để cưỡng lại các thị-dục của ḿnh và không tổ-chức được đời sống theo nguyện-vọng, theo lư-tưởng ḿnh.

 

Sau cùng, cũng có những người ngu muội hơn, kém cỏi hơn. Họ không thể mở tầm mắt ra nh́n về phía tương-lai ; họ chỉ biết có hiện-tại và hoàn-toàn  làm nô-lệ cho những thị-dục của ḿnh. Trong sự thỏa-măn những nhu-cầu, những người này có thể có đủ tài để thành-công, họ cũng có thể thiếu khả-năng cần-thiết và không dám phô bày ư muốn của ḿnh.

 

Như thế, mặc dầu bản-tánh có giống nhau, mặc dầu đều có ư-chí sinh-tồn như nhau, nguyện-vọng sinh-tồn của người trong xă-hội văn-minh khác nhau vô-cùng.

 

Một số người chỉ chú-trọng đến đời sống hiện-tại mà không nghĩ đến tương-lai. Có người khi kiếm đủ tiền để sống một ngày th́ nhứt-định ở không suốt ngày ấy, dầu có gặp cơ-hội có thể  kiếm nhiều tiền cũng bỏ qua không chịu làm. Nhiều người khác khi có tiền trong tay th́ ăn tiêu huy-hoác, phung-phí cả cơ-nghiệp ḿnh để mua vui.

 

Có những người chỉ biết đến đời sống vật-chất, và trong đời sống hiện-tại cũng như trong việc nghĩ đến tương-lai, họ không có mục-đích ǵ khác hơn là t́m cách thỏa-măn những nhu-cầu của xác thịt họ. V́ đó, họ chỉ chú-trọng đến những món ǵ có một giá-trị về phương-diện vật-chất. Đó là trường-hợp những người đắm mê vật-dục, những anh trọc-phú suốt đời chạy theo đồng tiền.

 

Một số người khác lại chú-trọng đến đời sống tinh-thần nhiều hơn là đời sống vật-chất. Họ thích được người tùng-phục trọng-vọng và không ngại bỏ nhiều tiền bạc, công lao để chuốc lấy tiếng khen hay sự kính nể của thiên-hạ. Cũng có người đi t́m sự an-nhàn, lấy sự an-ổn của tâm-hồn và sự khỏe khoắn của thể-xác làm trọng.

 

Ở một mực cao hơn, là những người có một quan-niệm tôn-quí hơn về vấn-đề tinh-thần. Hoặc đeo đuổi một lư-tưởng cao-siêu, hoặc phụng-sự một nghệ-thuật, hoặc tin tưởng nơi một đời sống vĩnh-cửu ngoài thế-giới hữu-h́nh và hướng tâm-hồn đến một nguyên-lư mà họ cho là nguồn gốc chúa tể vạn-vật, họ đặt giá-trị tinh-thần lên trên hết. Những hạng người hướng sự sống về tinh-thần trên này có thể chấp-nhận một đời sống vật-chất thiếu thốn, hẹp ḥi, có khi họ dám hy-sinh cả tánh-mạng để bảo-vệ lư-tưởng hay binh vực quan-niệm ḿnh.

 

Đứng về phương-diện xă-hội mà nói, ta có thể phân-biệt những người hoàn-toàn vị-kỷ chỉ cần biết đến quyền-lợi cá-nhơn của ḿnh, chỉ nghĩ đến sự sinh-tồn của riêng ḿnh, và những người có một tâm-hồn quảng-đại hơn, biết đặt quyền-lợi chung của đoàn-thể trên quyền-lợi ḿnh, biết xem sự sinh-tồn của đoàn-thể trọng hơn sự sinh-tồn của bản-thân. Đó là những vĩ-nhơn, những anh-hùng hữu-danh hay vô-danh. Họ sẵn sàng chịu thiệt tḥi để cho đoàn-thể được hưởng lợi ; họ cũng dám hủy bỏ sự sống của ḿnh để bảo-vệ đồng-bào, ngay trong khi b́nh tĩnh, không bị bản-năng quần-chúng ám-thị.

 

Như vậy sự sinh-tồn của người có thiên h́nh vạn trạng, và lắm khi những xu-hướng, những thị-dục của người chống chỏi lại nhau một cách mănh-liệt. Trong trường-hợp này, sự thắng-lợi của một xu-hướng đối với một xu-hướng khác tùy nơi cá-tánh của người. Chính cá-tánh này đă định giá-trị cao thấp của người trong xă-hội.

 

Ngoài ra, ta lại có thể nhận thấy rằng nhiều khi loài người dám tự ḿnh hủy-diệt đời sống của ḿnh v́ một điều bất-đắc-ư, hay dám trải thân làm những việc nguy-hiểm đến tánh-mạng để thực-hiện lư-tưởng. Những người trên này không phải là vượt khỏi sự chi-phối của ư-chí sinh-tồn. Nhưng đối với họ, sống mà không đạt được chí-nguyện, hay sống trong một hoàn-cảnh ḿnh không thích th́ không bằng chết mà được thảnh thơi, hay lưu-danh hậu-thế. Nơi họ, sự sinh-tồn của tinh-thần đă thắng ư-chí sinh-tồn của thể-xác vậy.

 

C.- Ư-CHÍ SINH-TỒN VỚI HOÀN-CẢNH.

 

Ư-chí sinh-tồn của người có thể xuất-hiện dưới rất nhiều trạng-thái. Nhưng nó phải tùy-thuộc hoàn-cảnh bên ngoài hay không ? Đó là một vấn-đề đă gây ra nhiều cuộc tranh-luận sôi nổi.

 

1.- NHỮNG THUYẾT TIỀN-ĐỊNH.

 

Một số người theo thuyết tiền-định cho rằng tất cả những sự biến, từ những sự biến của thế-giới vật-chất đến  sự biến của thế-giới tâm-linh đều được qui-định trước, và trong sự hoạt-động của ḿnh, người phải noi theo một quyền-lực vô-h́nh ngoài ư muốn của ḿnh. Ta có thể phân-biệt nhiều xu-hướng tiền-định khác nhau.

 

Một số nhà tôn-giáo ngày xưa cho rằng số mạng người hoàn-toàn nằm trong oai-lực của trời. Người Ả-Rập đứng trước một biến-cố thường hay nói : « Điều ấy đă ghi sẵn trên trời ». Người Trung-Hoa có câu : « Mỗi miếng uống miếng ăn của người đều được định sẵn » (nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền-định ». Nhiều nhà thần-học không đến nỗi có một quan-niệm tiền-định hẹp ḥi như thế, nhưng vẫn cho rằng người là một dụng-cụ trong tay Thượng-Đế và chỉ sống để thi-hành những ư-định của Thượng-Đế. Đối với những người này, ư-niệm tự-do không dung-hợp được với oai-quyền Thượng-Đế.

 

Theo chủ-trương những nhà khoa-học th́ nội-giới của người cũng noi theo những luật-lệ chặt chẽ như ngoại-giới. Những nhà khoa-học này lại phân ra làm ba phái khác nhau.

 

Phái tiền-định vơ-trụ dựa vào những luật lệ căn-bản chi-phối tử-chất để quả quyết rằng ngay trong lănh-vực tinh-thần người không bao giờ được tự-do chọn lựa thái-độ của ḿnh, mà luôn luôn chỉ là một bánh xe nhỏ trong một guồng máy to, phải quay tít theo một mực-độ định sẵn cho ḿnh.

 

Theo phái tiền-định sanh-lư, tất cả đời sống tâm-linh của người đều đặt dưới sự điều-khiển của t́nh-trạng cơ-thể ḿnh, và chung-qui, của sự di-truyền.

 

Sau cùng, phái tiền-định tâm-lư cho rằng tất cả hoạt-động hiện-tại của người tùy-thuộc đời sống tâm-lư quá-khứ một cách chặt chẽ. Chính những sự ham muốn, những dục-vọng, những ư-tưởng đă qua trong trí óc người qui-định ư muốn hiện-tại của người.

 

Ngoài những nhà tiền-định tôn-giáo và khoa-học, lại c̣n có những nhà tiền-định xă-hội chủ-trương rằng con người bị ảnh-hưởng của hoàn-cảnh một cách mạnh mẽ. Những quyết-định của người, ngay đến những quyết-định có vẻ đặc-biệt, cá-nhơn nhứt đều do hoàn-cảnh cá-nhơn chung quanh tạo ra rồi lại truyền bảo lại cho người.

 

2.- THUYẾT TỰ-DO Ư-CHÍ.

 

Chống chọi lại những người theo thuyết tiền-định là những người theo thuyết tự-do ư-chí, cho rằng con người được tự-do trong sự quyết-định của ḿnh.

 

Trước một t́nh-thế, người có thể giữ nhiều thái-độ khác nhau và tự ḿnh chọn lựa một trong những thái-độ ấy. Cảm-tưởng tự-do này là một sự thật do kinh-nghiệm mà ra ; nó là một yếu-tố của ư-thức, người nào cũng có.

 

Nhiều khi người có cảm-tưởng rằng nhiệm-vụ ḿnh bắt buộc ḿnh phải làm một việc ǵ. Nhưng sự bắt buộc của nhiệm-vụ là một sự bắt buộc người t́nh-nguyện, nghĩa là tự-do nhận chịu. Hơn nữa, người chỉ có cảm-tưởng ḿnh bị bắt buộc khi người được tự-do. Vậy, cảm-tưởng bị bắt buộc hàm nghĩa rằng người vốn được tự-do.

 

Chính những người chủ-trương tiền-định cũng phải công-nhận sự tự-do của người trong thái-độ họ về những vấn-đề luật-pháp và luân lư. Nếu con người hoàn-toàn là một thứ bù nh́n bị Thượng-Đế, bị các định-luật vơ-trụ, bị quá-khứ tâm-lư hay hoàn-cảnh xă-hội xô đẩy cho cử-động th́ người không thể có trách-nhiệm ǵ về việc làm của ḿnh. Trong trường-hợp đó không ai có quyền chê bai hay trách móc những người làm bậy. Thượng-Đế không có quyền gởi những kẻ phạm tội ác xuống hỏa-ngục, các nhà đạo-đức không có quyền khinh bỉ một đứa vô-luân, và ṭa-án không có quyền trừng-phạt những cá-nhơn phạm luật. Nhưng thật-sự, các nhà tôn-giáo, khoa-học và xă-hội đều bắt người chịu trách-nhiệm về hành-động ḿnh, và như thế họ đă gián-tiếp nh́n nhận rằng người có được tự-do trong sự quyết-định của ḿnh.

 

Đứng về phương-diện tâm-lư mà xét, ta có thể bảo rằng giá-trị những đối-tượng khác nhau mà người phải chọn lựa hoàn-toàn tùy nơi quan-điểm người mà cao hay thấp, v́ mỗi đối-tượng đều phù-hợp với một vài nhu-cầu của người mà chống chọi lại một vài nhu-cầu khác. Người có thể thay đổi quan-điểm ḿnh để chọn lựa đối-tượng này hay đối-tượng kia, và điều này chứng tỏ rằng người được tự-do.

 

3.-TÁNH-CÁCH SỰ TỰ-DO CỦA NGƯỜI.

 

Xét hết sự hoạt-động sinh-tồn của người, ta nhận thấy rằng con người không phải hoàn-toàn được tự-do. Sự sinh-tồn vật-chất của người bị đặt dưới sự chi-phối chặt chẽ của những định-luật điều-khiển thế-giới vật-lư. Muốn duy-tŕ sự sống của cơ-thể, người phải noi theo nhiều điều-kiện khác nhau. Những quan-năng dinh-dưỡng, bài-tiết, tuần-hoàn, hô-hấp v.v… của người luôn luôn vận-động theo một xu-hướng nhứt-định, nhiều khi ngoài ư-thức của người. Hơn nữa khi sự vận-động này bị ngăn cản, hoặc thiếu những vật-liệu cần-thiết, người có thể bị nguy-hiểm đến tánh-mạng.

 

Tuy vậy, ngay trong lănh-vực vật-chất, người không phải hoàn-toàn đóng một vai tuồng nô-lệ thụ-động.

 

Sự sống tự nó vốn là một cố-gắng để vượt khỏi sự chi-phối của hoàn-cảnh vật-chất, và mực cao thấp của sanh-vật thật ra ở chỗ cố-gắng ấy thành-công nhiều hay ít. Loài thực vật đă có những đặc-tánh mà tử-chất không có : trong sự tuân theo các định-luật thiên-nhiên, nó đă có một hướng phát-triển và một sức tự-tồn khá mạnh rồi. Loài động-vật c̣n đi xa hơn loài thực-vật : nó không phải cố-định ở một chỗ mà di-động được trong một phạm-vi rộng hẹp tùy loại. Một mặt khác, nó có thể phản-ứng lại những kích-thích ngoạI-lai theo nhiều lối, chớ không phải luôn luôn theo một cách-thức duy-nhứt.

 

Con người là một động-vật cao cấp có nhiều khả-năng hơn các loài động-vật khác, nên có một phạm-vi hoạt-động rộng-răi nhứt trong các loài. Sự so sánh đời sống vật-chất của người với đời sống các loài và với tử-chất đă cho ta thấy rằng mặc dầu bị chi-phối của các định-luật thiên-nhiên người không hoàn-toàn lệ thuộc vào nó. Phạm-vi hoạt-động của người đă mở rộng ra theo các khả-năng của người và điều này chỉ tỏ rằng người đă một phần nào được tự-do so với hoàn-cảnh. Do đó, người tự-nhiên có bản-năng tự-do mạnh mẽ, khiến cho họ từ xưa vẫn cư-xử với nhau như là những kẻ tự-do, mặc dầu về phương-diện tư tưỏng, người ta có thể đi đến chỗ phủ-nhận sự tự-do.

 

Đem so sánh người với nhau, ta lại nhận thấy rằng trong sự sống c̣n vật-chất, người không phải tùy-thuộc hoàn-cảnh với một mực-độ ngang nhau. Nếu trên đời có người hoàn-toàn làm nô-lệ cho cơ-thể ḿnh và đặt những huấn-lịnh do những nhu-cầu xác thịt ban bố lên trên hết, th́ cũng có những người biết huấn-luyện xác thịt ḿnh, bắt buộc nó phải chiều theo ư ḿnh một phần nào. Ở hạng người sau này, những nhu-cầu vật-chất nhiều khi phải nhượng-bộ cho những nhu-cầu tinh-thần, và ngay trong sự thỏa-măn những dục-vọng của ḿnh, xác thịt cũng phải noi theo những qui-tắc họ đặt ra. Những qui-tắc này tất-nhiên không thể chọi lại những định-luật vật-lư chi-phối cơ-thể người : người không thể ăn uống thiếu thốn mà trở thành béo tốt được. Tuy thế nó cũng dành lại cho ư-chí người một phần quyền điều-khiển sự sống của cơ-thể.

 

Ngoài ra, trên thế-giới c̣n có những hạng người đặc-biệt, uốn nắn đời sống vật-chất của ḿnh theo một khuôn khổ khắc-nghiệt, và rút nhu-cầu của xác thịt xuống một mực hết sức kém cỏi. Đó là những nhà ẩn-sĩ tu theo đạo khổ-hạnh, những thuật-sĩ Ấn-độ có thể tự chôn ḿnh trong một cái ḥm nhỏ suốt tháng mà không chết, những chí-sĩ như Thánh Gandhi, như nhiều nhà cách-mạng Việt-nam nhịn đói hàng tuần hàng tháng để tranh-đấu cho lư-tưởng ḿnh.

 

Về phương-diện tinh-thần, con người vẫn phải tuân theo các bản-năng của ḿnh. Hơn nữa, sự tác-động của con người c̣n chịu ảnh-hưởng của nhiều yếu-tố khác. Sự di-truyền, sự giáo-dục, t́nh-trạng sanh-lư, quá-khứ tâm-lư của người cũng như hoàn-cảnh xă-hội đều có thể đóng một vai tuồng quan-trọng trong sự quyết-định của người. Những bản-năng và các yếu-tố trên này hợp lại làm khối lực tác-động qua lại với nhau, và ảnh-hưởng rất mạnh đến người. Do đó, chủ-trương của những nhà tiền-định khoa-học và xă-hội cũng có một phần hữu-lư.

 

Tuy nhiên, đối với những con người có ư-thức, biết cân nhắc sự lợi lại, phải trái, biết quan-sát t́nh-thế, biết tự xét về thái-độ ḿnh, sự chọn lựa một đường lối để noi theo vẫn tùy-thuộc tinh-thần người một phần khá lớn. Chính quan-điểm của người đối với những mục-tiêu đồng-thời cám dỗ người đă đóng một vai tuồng quyết-định trong thái-độ của người.

 

Một mặt khác, con người có thể hoạt-động trên những yếu-tố khả-dĩ ảnh-hưởng đến thái -độ tương-lai của ḿnh. Người có thể cố-gắng học-hành, tự khép ḿnh vào một kỷ-luật, tự rèn cho ḿnh một lư-tưởng, tập-luyện thân-thể ḿnh, biến-đổi hoàn-cảnh xă-hội của ḿnh hay ít nhứt cũng biến-đổi quan-điểm ḿnh đối với hoàn-cảnh xă-hội ấy. Những điều này có thể làm cho người sẵn sàng có phản-ứng này hơn là phản-ứng kia.

 

Như thế, nhờ ư-thức, người có được tự-do trong lănh-vực tinh-thần. Sự tự-do này càng lớn khi ư-thức về đời sống của người càng rơ ràng, càng mạnh mẽ. Trong trường-hợp đó, một số yếu-tố chi-phối con người như giáo-dục, hoàn-cảnh xă-hội, thật ra đă giúp thêm vào việc mở rộng sự tự-do tinh-thần của người hơn là phủ-nhận nó.

 

Sự tự-do tinh-thần mà người được hưởng không phải là hoàn-toàn, nhưng nó cũng đủ để cho người có một ư-thức rơ rệt về nó. Phụ thêm vào bản-năng tự-do người sẵn có, nó gây cho người một ư-hướng tự-do rất mạnh, nhứt là trong mấy thế-kỷ sau này.

 

Con người vốn có cái xu-hướng tự-nhiên là muốn dựa vào cái tuyệt-đối nên nhiều kẻ đă đi đến chủ-trương cho rằng sự tự-do của người được hoàn-toàn. Chủ-trương này đă gặp một phản-ứng mạnh mẽ nơi một số nhà khoa-học. Cũng như những nhà tôn-giáo ngày xưa nhốt con người vào trong cái khuôn Tạo-hóa, những nhà khoa-học và xă-hội này nhốt con người trong những định-luật khắc-nghiệt của vơ-trụ hay của xă-hội.

 

Thật ra, người không thể hoàn-toàn được tự-do, và phải tuân theo những định-luật chi-phối đời sống của ḿnh. Tuy nhiên, người vẫn một phần nào được tự-do. Trong phạm-vi sinh-tồn vật-chất, sự tự-do này rất nhỏ hẹp ; trong lănh-vực tinh-thần, nó được rộng-răi hơn. Khi có thể đi đến chỗ từ khước cả cuộc đời ḿnh, người đă một phần nào thoát-ly sự kềm chế của vật-chất. Như vậy, ta phải nhận rằng trong sự hoạt-động sinh-tồn, người có được tự-do.

 

Nhưng ta nên nhớ rằng con người chỉ là một phần-tử nhỏ nhặt của vơ-trụ cho nên sự tự-do của người cũng không thể có tánh-cách tuyệt-đối. Sự tự-do này chỉ nằm trong một phạm-vi nhứt-định : nó phải có một kích thước vừa với con người. Sự phát-triển của khả-năng người trong tương-lai có thể mở rộng nó ra một phần nào, nhưng dầu sao, nó cũng không đi đến chỗ hoàn-toàn như một số chánh-trị gia chủ-trương.

 

Trong trường đó, phủ-nhận sự tự-do quyết-định của người như những nhà độc-tài chủ-trương là đi ngược lại một khuynh-hướng tự-nhiên của người, hơn nữa, là tự ḿnh mâu-thuẫn với ḿnh, v́ những nhà độc-tài vẫn bắt con người không tự-do phải chịu trách-nhiệm về những việc họ làm. Trái lại, lấy tự-do làm lư-tưởng và gán cho sự tự-do một tánh-cách tuyệt-đối, hoàn-toàn, cũng là một thái-độ không phù-hợp với thực-tế.

 

D.- VẤN-ĐỀ HẠNH-PHÚC.

 

Trong sự hoạt-động sinh-tồn của ḿnh, con người lại c̣n bị sự hấp-dẫn của một lư-tưởng rất mạnh mẽ là ư-tưởng hạnh-phúc. Hoặc mơ màng đến hạnh-phúc một cách có ư-thức, hoặc xây dựng đời ḿnh theo quan-niệm hạnh-phúc của riêng ḿnh một cách vô-ư-thức, người ở mọi địa-phương và mọi thời-đại đều theo đuổi một bóng hạnh-phúc không lúc nào ngừng.

 

Ta có thể cho rằng xu-hướng t́m hạnh-phúc của người là một xu-hướng tự-nhiên. Từ trước đến giờ, nó vẫn là một động-lực mạnh mẽ chi-phối sự tiến-triển của xă-hội loài người. V́ đó, nó đă đóng một vai tuồng quan-trọng trong sự hoạt-động chánh-trị. Những nhà chánh-trị cổ kim muốn lôi kéo quần-chúng theo ḿnh đều phải lấy chủ-trương mưu-đồ hạnh-phúc cho dân làm đề-mục tuyên-truyền chánh-yếu của ḿnh. Những danh-từ được đem ra dùng và những h́nh-thức hạnh-phúc được đem ra tŕnh-bày tuy có tùy địa-phương và thời-đại mà khác nhau, nhưng căn-bản của vấn-đề bao giờ cũng có một. Khi lấy hai chữ hạnh-phúc làm đề-mục trong tiêu-ngữ chánh-trị của ḿnh, những chánh-khách hiện-đại chỉ noi theo một nguyên-tắc cổ-truyền trong sự thâu-phục quần-chúng mà thôi.

 

Vấn-đề hạnh-phúc vốn có dính dáng chặt chẽ đến vấn-đề sinh-tồn. Do đó, muốn thấu-triệt được vấn-đề hoạt-động sinh-tồn, chúng ta cần phải xét qua vấn-đề hạnh-phúc.

 

I.- SỰ PHỨC-TẠP CỦA VẤN-ĐỀ HẠNH-PHÚC.

 

Vấn-đề hạnh-phúc thật là một vấn-đề hết sức phức-tạp. Mọi người đều giống nhau ở chỗ cùng hướng đến hạnh-phúc như nhau và với một sự ham muốn mạnh mẽ gần như nhau. Nhưng xét nguyện-vọng từng người một, ta có thể nhận thấy rằng quan-niệm hạnh-phúc của họ rất khác nhau. Quan-niệm này tùy tâm-tánh, tùy hoàn-cảnh, tùy tŕnh-độ trí-thức, tùy nhơn-sanh-quan của mỗi người, mỗi dân- tộc, mà thay đổi vô-cùng vô-tận.

 

Nếu có những người mơ ước được sống trong một cuộc đời ngăn nắp yên-ổn, th́ cũng có những kẻ chỉ thấy sung sướng khi được vẫy vùng ngang dọc giữa những sự nguy-hiểm khó khăn. Giữa những đêm hè nóng bức, một trận mưa to làm cho những người giàu có ưa thích, nhưng một bầu trời quang- đăng lại hợp-ư những kẻ không cửa không nhà. Một bức tranh đẹp làm cho một nghệ sĩ rung động cả tâm-hồn, hoặc một quyển sách hay làm cho văn-nhơn hưởng được những lúc thoát-trần lại không có ảnh-hưởng ǵ đến một bác nông-phu chất-phác, chỉ thấy sung sướng khi ngồi trước một mâm cơm thịnh-soạn.

 

Chung quanh ta, có bao nhiêu người chú-trọng đến đời sống vật-chất của ḿnh : những người ấy ham muốn sự ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi lầu cao cửa rộng, ngồi những chiếc xe bóng nhoáng, sang trọng ; nhưng cũng có những người mê say những thú vui trí-tuệ, suốt đời cặm cụi trong sự học hỏi, t́m ṭi.

 

Ngoài ra, c̣n có những người luôn luôn theo đuổi một sự thỏa-măn về đạo-đức hay tinh-thần : đó là những bậc chơn-tu khép ḿnh trong bốn bức tường của tịnh-thất, hay những người hoạt-động xă-hội, đem hết tài-trí năng-lực của ḿnh để hàn gắn vết thương của hạng người xấu số. Đối với người Hồi, được trông thấy thánh-địa La Mecque trước khi nhắm mắt là điều mơ ước tối-cao. Trong khi đó, người Việt cho rằng có một ngôi sanh-phần đắc-địa và một cỗ áo quan gỗ tốt trong nhà, là một trong những giấc mộng đẹp nhất của những người có tuổi.

 

Như thế, cái bóng hạnh-phúc mà mỗi người vô-t́nh hay hữu-ư phác-họa trong tâm-trí ḿnh có rất nhiều h́nh-trạng. Không những cái bóng hạnh-phúc của người này khác với cái bóng hạnh-phúc của người kia, mà đối với mỗi người, cái bóng ấy cũng tùy lúc mà thay đổi.

 

Sau một thời-kỳ t́m thấy sự sung sướng trong đời sống giang-hồ phiêu-bạt, người ta có thể quay về t́m sự yên-tĩnh trong một đời sống b́nh-dị hơn. Ngoài ra, v́ lẽ nhơn-dục vô-nhai, người ta rất ít khi thơa-măn với những món ḿnh có. Thâu-hoạch được những điều-kiện mà ḿnh cho là cần-thiết và đầy đủ cho hạnh-phúc của ḿnh, con người chỉ sung sướng một cách hoàn-toàn trong một thời-gian ngắn. Kế đó, họ thấy chán với những điều-kiện ấy và đ̣i hỏi, thèm muốn những điều-kiện khác nữa. Khi ở một túp nhà tranh xiêu vẹo, người ta ước mơ ở một căn phố gạch có đèn nước, và lúc mới dọn về ở một căn phố gạch như thế, người ta thích-chí lắm. Nhưng chỉ ít lâu sau đó, người ta lại thấy căn phố gạch đó xoàng xĩnh và muốn được ở một ṭa nhà lầu cao rộng hơn.

 

V́ hạnh-phúc luôn luôn thay đổi như thế nên người ta có cảm-tưởng rằng nó rất mong manh, hệt như cái bọt xà-pḥng, ánh muôn màu sắc rực rỡ, nhưng động đến là tan vỡ ngay.

 

Con người thường đứng núi này trông núi nọ, và hay mong ước ở vào địa-vị một kẻ khác mà họ cho là có hạnh-phúc, trong khi chính kẻ khác đó rất muốn ở vào địa-vị của họ. Một nhà nghiệp-chủ có thể thèm muốn có cái được ưu-thế của một viên quan-lại không biết rằng lúc ông ta thèm muốn như thế, viên quan-lại kia đương thiết-tha mong mỏi sống một cuộc đời nhàn-hạ của ông ta.

 

Chúng ta lại c̣n có thể nhận thấy rằng những người chăm chăm vào việc đi t́m hạnh-phúc không mấy khi đạt được hạnh-phúc. Và lắm lúc, chính những điều mà người ta tưởng là có thể mang đến hạnh-phúc cho ḿnh lại gây cho người ta bao nhiêu sự khốn khổ khi người ta đă thâu-hoạch được nó. Biết bao nhiêu kẻ si-t́nh lấy việc cưới được người họ yêu mến làm cái tuyệt-đích hạnh-phúc cho họ, về sau đă xem người bạn trăm năm của họ như là một gánh nặng mà họ muốn vứt đi.

 

Trái lại, cũng có lắm người không nghĩ nhiều đến hạnh-phúc của ḿnh, nhưng xét đời sống họ, ta có thể cho rằng họ đă đạt được hạnh-phúc một phần nào. Đó là những người nhiều năng-lực hoạt-động, mê say công việc ḿnh làm, lại có mục-đích vừa tầm tài-trí ḿnh, nên không phải bị những sự thất-bại ê chề, những sự tuyệt-vọng đau đớn.

 

V́ vấn-đề hạnh-phúc quá ư phức-tạp và biến-hóa không cùng, người ta rất khó qui-định hạnh-phúc cho người khác. Hạnh-phúc không phải là một món hàng người có thể chế-tạo ra rồi muốn phát cho ai th́ phát. Bởi vậy, trên đời có bao nhiêu kẻ làm khổ cho người khác chỉ v́ muốn gây hạnh-phúc cho họ.

 

Nhiều người cha mẹ đă lầm tưởng làm cho con ḿnh hạnh-phúc, trong khi thật-sự, họ đă dồn ép chúng vào những hoàn-cảnh làm cho chúng đau khổ vô-cùng. Nhiều nhà chánh-trị cũng đă cố-gắng tranh-đấu để xây dựng những chế-độ xă-hội lư-tưởng mà họ cho là có thể mang hạnh-phúc đến cho toàn dân. Họ đă phải chịu nhiều sự hy-sinh bao nhiêu mạng người khác để thực-hiện chương-tŕnh của họ. Nhưng nếu trong đầu óc họ, chế-độ họ xây dựng lên làm cho con người họ tưởng-tượng được sung sướng, hạnh-phúc th́ trong xă-hội thực-tế, nó làm cho những con người bằng xương bằng thịt khổ-sở vô-ngần.

 

Như vậy, vấn-đề hạnh-phúc không phải đơn-giản như các nhà chánh-khách từ trước đến giờ đă chủ-trương. Tuy thế, nếu đem đốI-chiếu nó với sự hoạt-động sinh-tồn, chúng ta có thể nhận-thức chơn- tướng của nó một cách rơ ràng.

 

2.- VẤN-ĐỀ HẠNH-PHÚC ĐỐI-CHIẾU VỚI SỰ HOẠT-ĐỘNG SINH-TỒN.

 

Chúng ta đă thấy rằng sự hoạt-động của người bị rất nhiều bản-năng phức-tạp chi-phối. Tất cả các bản-năng này đều nhắm vào mục-đích mưu-đồ sự sinh-tồn cho người, sinh-tồn vật-chất hay sinh-tồn tinh-thần, sinh-tồn của cá-nhơn hay sinh-tồn của chủng-loại.

 

Khi một bản-năng của người không thỏa-măn được, người thấy ḿnh khổ-sở, và tất cả những sự mong ước của người đều hướng đến chỗ thỏa-măn cho được bản-năng ấy. Đối-tượng có thể thỏa-măn cái bản-năng đương dày ṿ con người là cái bóng hạnh-phúc mà người đeo đuổi. Lúc người đạt được đối-tượng trên đây, nghĩa là lúc người thỏa-măn được bản-năng thúc đẩy ḿnh, người thấy ḿnh có hạnh-phúc.

 

V́ lẽ người có rất nhiều bản-năng cùng hướng về sự sinh-tồn, mà không bản-năng nào đủ sức chi-phối hết cả đời sống của người, cho nên hạnh-phúc của người có rất nhiều mặt và thay đổi không ngừng. Khi bản-năng này đă thỏa-măn, bản-năng khác lại đ̣i hỏi người hoạt-động cho nó, và bóng hạnh-phúc của người là thỏa-măn cái bản-năng khác ấy.

 

Sự sung sưóng mà người cảm thấy khi thỏa-măn được một bản-năng sau một thời-kỳ thèm khát lâu dài, có thể rất mạnh mẽ, khiến cho người tạm quên một số bản-năng khác chưa thỏa-măn. Nhưng sự quên lăng này không phải kéo dài ra măi, và sau cùng rồi, hạnh-phúc của người cũng phải phai mờ đi, nhường chỗ cho sự ước mơ khác.

 

Người cũng có thể nhờ tư-tưởng, nhờ sự tự-kỷ ám-thị mà chế-ngự một bản-năng không được thỏa-măn, và lấy sự thỏa-măn những bản-năng khác làm hạnh-phúc cho ḿnh. Nhưng phương-pháp này ít khi đưa đến một kết-quả hoàn-toàn. Những sự phản-kháng của bản-năng bị chế-ngự có thể làm cho người mất sự quân-b́nh tâm-lư của ḿnh, và đưa đến những chứng bịnh thần-kinh lắm khi rất nặng.

 

Như vậy bản-chất của người làm cho cái bóng hạnh-phúc mà người đeo đuổi luôn luôn di-động.

 

Sau khi lang thang trong rừng để t́m  mồi hay cặm cụi trong một công việc làm để nuôi thân, người t́m sự sung sướng trong bữa ăn. Ăn uống no đủ rồi, người lại thích tán chuyện với người dị-tính mà người ưa mến. nhưng đến lúc mệt mỏi, không có ǵ làm cho người chuộng bằng một giấc ngủ ngon. Tỉnh giấc, người muốn tăng-cường oai-thế của ḿnh bằng sự học hỏi, hoặc muốn thỏa-măn bản-năng sang-chế của ḿnh bằng việc xây dựng sắp đặt những món bày biện trong nhà hay việc tạo ra một công-tŕnh mỹ-thuật. Chán chê rồi, thích đi dạo, đi xem hát giảI-trí. Nếu không người lại đi hội-họp, lên diễn-đàn để biểu-dương tài hung-biện của ḿnh cho công-chúng thấy.

 

Sự hoạt-động của người thật ra biền chuyển không cùng, ta không thể kể ra hết được. Nhưng đại- khái, ta có thể bảo rằng khi người nào không thực-hiện được ư muốn của ḿnh – ư muốn này là một biểu-thị của bản-năng cần được thỏa-măn, bằng sự thâu-hoạch những điều-kiện sinh-tồn mới, hay bằng sự thay đổi những điều-kiện sinh-tồn cũ - người thấy ḿnh khổ-sở. Và những khi sự biểu-thị của bản-năng cần được thỏa-măn không được rơ ràng, mạnh mẽ, thành ra người không hiểu ḿnh phải muốn những ǵ, người cảm thấy buồn chán vẩn vơ.

 

Nói một cách khái-quát th́ con người chỉ đạt được hạnh-phúc khi nào họ thỏa-măn được những bản-năng của họ. Những bản-năng này đều qui vào mục-đích sinh-tồn. Bản-năng của người vốn có rất nhiều, mà sự đ̣i hỏi không thỏa-măn của một cái một cũng đủ làm cho người khổ-sở. Bởi đó hạnh-phúc của người chỉ duy-tŕ được khi nào tất cả các bản-năng của người đều được thỏa-măn một cách đồng đều nhau. Nói một cách khác, người chỉ có thể hạnh-phúc khi người sinh-tồn một cách đầy đủ. Sự đeo đuổi hạnh-phúc của người chung-qui chỉ là sự đeo đuổi theo những cái ǵ mà người thấy cần-thiết cho sự sinh-tồn của ḿnh. Và cuộc đời mà họ cho là đầy hạnh-phúc thật ra chỉ là cái h́nh-thức sinh-tồn lư-tưởng của người mà thôi.

 

Như ta đă thấy, h́nh-thức sinh-tồn lư-tưởng của mỗi người không phải là ổn-định : nó chuyển-dịch luôn luôn, chuyển-dịch v́ sự tiến-triển nội-tại của tâm-trí người cũng như v́ sự biến-hóa của ngoại-giới.

 

Bên trong tâm-trí người, những bản-năng của người không ngớt thay thế nhau để đ̣i hỏi sự thỏa-măn nơi người ; mà đối với từng bản-năng một, sự cần dùng cũng mỗi lúc một khác, bởi lẽ ư-định khuếch-trương sức sống của người làm cho sự cần dùng của bản-năng càng ngày càng nhiều và càng cao-nhă hơn.

 

Về phía ngoại-giới, những điều-kiện của thiên-nhiên cũng như hoàn-cảnh xă-hội không phải đứng một chỗ ; nó thay đổi măi không ngừng.

 

Với tất cả các quan-năng mà Tạo-hóa phú cho ḿnh, người hoạt-động để sinh-tồn, nghĩa là để thỏa-măn những bản-năng của ḿnh. Sự thỏa-măn những bản-năng này bắt buộc người phải điều-chỉnh sự sống nội-tại của tâm-trí ḿnh với ngoại-giới. Nếu thành-công được trong sự hoạt-động của ḿnh, người tạo được một quân-b́nh giữa những bản-năng của ḿnh với hoàn-cảnh. Chính sự quân-b́nh này là cái căn-bản của cái mà người gọi là hạnh-phúc.

 

Như vậy hạnh-phúc không có ǵ khác hơn là một trạng-thái tâm-lư xuất-hiện những khi người gây được sự quân-b́nh giữa bản-năng sinh-tồn của ḿnh và hoàn-cảnh bên ngoài. Sự sanh tồn của các sanh-vật đồng-loại tự-nhiên có những điểm đại-cương giống nhau. Bởi đó, đối với một người b́nh-thường, sự quân-b́nh nói trên đây càng thích-hợp với những điều-kiện sinh-tồn chung của loài người th́ hạnh-phúc của người càng hoàn-toàn. V́ thế, ta có thể cho rằng xu-hướng t́m hạnh-phúc là xu-hướng gây sự quân-b́nh giữa bản-năng sinh-tồn của người và hoàn-cảnh. Nó cũng là một bản-năng cần-thiết cho sự sinh-tồn của chủng-loại và do sự tranh-đấu sinh-tồn của chủng-loại mà có.

 

Định-nghĩa hạnh-phúc trên đây đúng cho tất cả mọi người. Sự bất đồng về quan-niệm hạnh-phúc giữa loài người sở-dĩ có là v́ sự phản-ứng của bản-năng sinh-tồn đối với hoàn-cảnh khác nhau từng người và từng dân-tộc.

 

Trước hết, chúng ta có thể nhận thấy rằng những bản-năng của người này và người nọ không phải nảy nở một cách y hệt như nhau. Đối với một số người, những bản-năng bảo-đảm sự sinh-tồn cá-nhơn về phương-diện vật-chất được mở mang hơn những bản-năng khác, và người chăm chú đến sự ăn ngon, mặc đẹp, ở lầu cao cửa rộng nhiều hơn cả. Đối với một số người khác, những bản-năng bảo-đảm sự sinh-tồn cá-nhơn về phương-diện tinh-thần lại mở mang hơn, và người thích sự tranh-đấu cho tư-tưởng, cho địa-vị nhiều hơn. Cũng có những người mà bản-năng xă-hội phát-triển hơn hết, khiến cho người để phần lớn sự hoạt-động của ḿnh vào công việc giúp đỡ những người khác. Đó là chúng ta chỉ mới phác sơ qua những đại-cương, chớ những bản-năng thật nhiều vô-cùng mà sự phát-triển của nó cũng hết sức phức-tạp.

 

Ta thấy rằng không một bản-năng nào đủ sức chi-phối được hết cả đời sống của con người, và cái bản-năng được mở mang nhứt không làm cho người quên hẳn được những bản-năng khác. Sự chế-ngự một bản-năng thường chỉ đưa người đến những chứng bịnh thần-kinh. Bởi đó, đối với một người mạnh khỏe, b́nh-thường, những bản-năng ít mở mang vẫn c̣n tồn-tại. Những bản-năng này trộn lộn với những bản-năng mở mang nhứt, và tất cả đều ảnh-hưởng qua lại với nhau. Chính sự trộn lộn và sự ảnh-hưởng qua lại giữa các bản-năng có những mực phát-triển khác nhau đă tạo nên cá-tánh mỗi người. Và chính sự cạnh-tranh hay sự liên-hiệp giữa các bản-năng này giành lấy phiên được thỏa-măn, đă qui-định sự phản-ứng của người đối với hoàn-cảnh. Mực phát-triển của các bản-năng đă không giống nhau giữa người này với người nọ, mà trong mỗi lúc, cơ-vận thủ-thắng của mỗi bản-năng trong sự tranh giành được thỏa-măn cũng không giống nhau, tất-nhiên sự phản-ứng của người đối với hoàn-cảnh phải khác nhau, và bóng hạnh-phúc mà họ đeo đuổi cũng phải khác nhau.

 

Suốt đời sống của người, sự biến-chuyển trong mực phát-triển của những bản-năng kể trên này có thể làm thay đổi cá-tánh của người cũng như cơ-vận thủ-thắng của mỗi bản-năng. Do đó, quan-niệm hạnh-phúc của người có thể thay đổi cùng với tuổi tác họ.

 

Những dân-tộc từ trước đến giờ vẫn sống trong những hoàn-cảnh địa-dư, kinh-tế, khí hậu khác nhau. Và trong lịch-sử, họ đă trải qua những t́nh-thế rất khác nhau. Sự tranh-đấu sinh-tồn của các dân-tộc v́ đó mà có những tánh-cách khác nhau, và bản-năng sinh-tồn của họ do cuộc tranh-đấu sinh-tồn này vun bồi và chi-phối tự ngàn xưa đến giờ cũng có những đặc-điểm khác nhau. Bởi thế, những điều-kiện thuận-lợi cho sự sinh-tồn của các dân-tộc hết sức khác nhau, và sự phản-ứng của các dân-tộc để đối-phó với hoàn-cảnh cũng khác nhau. Những điều này làm cho quan-niệm hạnh-phúc của các dân-tộc không thể giống nhau được.

 

3.- SỰ GIẢI-QUYẾT VẤN-ĐỀ HẠNH-PHÚC.

 

Sự nghiên-cứu vấn-đề hạnh-phúc đối chiếu với vấn-đề hoạt-động sinh-tồn đă cho chúng ta thấy rằng người chỉ hạnh-phúc khi nào người thực-hiện được sự quân-b́nh giữa bản-năng sinh-tồn của ḿnh với hoàn-cảnh bên ngoài. Sự quân-b́nh này không thể ổn-định được v́ nó luôn luôn bị sức tiến-triển của nội-tại và ngoại-giới, sức tiến-triển của tâm-trí người và của vật-chất bao bọc lấy người xô đẩy phá-hoại          không ngừng. Và trong khi sự thỏa-măn một bản-năng của người làm cho người sung sướng th́ những bản-năng khác đưa ra những sự đ̣i hỏi khác, có khi mâu-thuẫn nhau, nhưng đều có xu-hướng làm mất thế quân-b́nh đạt được.

 

Tất cả vấn-đề tạo hạnh-phúc cho người chung-qui chỉ gom về việc giữ cho những sự đ̣i hỏi kế tiếp nhau của các bản-năng không làm ngă đổ sự quân-b́nh ấy, để cho tâm-trí người dao-động một cách nhẹ nhàng chung quanh cái trọng-tâm của sự « quân-b́nh hạnh-phúc », chớ không bị lung lay một cách đột- ngột và mănh-liệt.

 

Vậy, việc gây hạnh-phúc cho người chỉ là việc thỏa-măn các bản-năng của người. Mà sự thỏa-măn những bản-năng này không phải chỉ có một phương-diện. Ngoài những bản-năng đ̣i hỏi một thỏa-măn những vật-chất như ăn, uống, mặc v.v… người lại c̣n những bản-năng đ̣i hỏi một sự thỏa-măn tinh-thần.

 

Những đ̣i hỏi vật-chất của bản-năng người thật ra rất khó qui-định, v́ sự ham muốn của người có thể mở ra đến vô-cùng. Tuy nhiên, ta vẫn có thể biết được số nhu-cầu tối-thiểu của người, v́ mỗi người chỉ cần một số lượng nhứt-định y-phục và lương-thực để được ấm cật no ḷng, để được sung sướng về vật-chất. Về những đ̣i hỏi tinh-thần của người, ta không thể nào qui-định được, v́ sự cần dùng tinh-thần của người biến-hóa vô-cùng về lượng cũng như về phẩm. Ta không thể làm cho người hạnh-phúc khi bắt họ đi hội-họp và thảo-luận chánh-trị với những người khác, nếu họ chỉ thích đi lang thang một ḿnh ở những nơi hẻo lánh để ngắm phong-cảnh. Ta không thể làm cho người được sung sướng khi họ xem hát hoặc họ nghe nhạc nếu trong lúc đó họ muốn vào chùa để cầu-nguyện cho linh-hồn họ được thảnh thơi.

 

Thiếu những món cần-thiết cho đời sống vật-chất của ḿnh, hoặc bị bó buộc thái-quá, người nhứt-định phải khổ-sở. Khi có sự tự-do rộng-răi về phương-diện tinh-thần, người mới có đủ điều-kiện để được hạnh-phúc. Hạnh-phúc này thật ra hăy c̣n tùy thái-độ người đối với hoàn-cảnh : một người bao giờ cũng muốn có những món mà sức ḿnh không thể nào t́m được tất-nhiên không thể được thỏa-măn và không thể được hạnh-phúc. Trái lại, những người « tri-túc » có thể thỏa-măn với một số vật- dụng tầm-thường. Nhưng dầu sao, người ta không thể tự-măn tự-túc với một cái bụng trống và hai bàn trắng.

 

Như thế, chế-độ xă-hội lư-tưởng là chế-độ tạo ra những điều-kiện cho người có thể hạnh-phúc được. Nó phải bảo-đảm sự sinh-tồn vật-chất tối-thiểu cho tất cả mọi người. Về phương-diện tinh-thần, nó chỉ có thể bảo-vệ những tập tục cổ truyền tốt đẹp của dân-tộc, tạo ra cho mọi người một bầu không khí tâm-lư thích-hợp với nguyện-vọng chung của ṇi giống từ ngàn xưa để duy-tŕ sự thống-nhứt giữa mọi người. Ngoài ra, nó phải để cho mọi người được tự-do t́m kiếm những thỏa-măn những nhu-cầu ḿnh theo sở-thích, miễn là sự hoạt-động của người không phạm đến sự sinh-tồn chung. Xă-hội có thể giúp vào sự thỏa-măn tinh-thần này một phần nào bằng cách nâng cao tŕnh-độ sanh hoạt chung lên, bằng cách tổ-chức sự sản-xuất trong nước như thế nào cho các vật-liệu được dồi dào, để cho người dễ t́m những phương-tiện vật-chất cần-thiết cho sự thỏa-măn những đ̣i hỏi tinh-thần của bản-năng ḿnh.

 

Nói một cách khác, chế-độ xă-hội lư-tưởng là chế-độ giúp cho người có đủ điều-kiện cần-thiết để sinh-tồn về phương-diện vật-chất, và cho người được tự tổ-chức lấy sự sinh-tồn tinh-thần của ḿnh theo hệ-thống tôn-giáo hay triết-lư nào tùy thích, miễn là điều đó không hại đến sự sinh-tồn chung của xă-hội. Nó chắc chắn có thể xây dựng được và rất thích-hợp với hạnh-phúc của người. Nó không như chế-độ cộng-sản, chủ-trương khép mọi người vào một đời sống tiêu-chuẩn mà Karl Marx và môn-đồ cho là một đời sống đầy hạnh-phúc, nhưng kỳ thật, chỉ là một đời sống nô-lệ, một đời sống thú-vật, một đời sống máy móc, trong đó xu-hướng t́m hạnh-phúc của người bị chế-ngự một cách bạo-tàn, thành ra không bao giờ thỏa-măn được.

 

Nghiên-cứu kỹ càng về vấn-đề hạnh-phúc của người, ta thấy rằng nó tùy-thuộc sự sinh-tồn một cách chặt chẽ. Nói cho thật đúng, hạnh-phúc chỉ là một trạng-thái sinh-tồn. Và chung-qui cũng chỉ có sự sinh-tồn là mục-đích chánh-yếu duy-nhứt của người. Nó là cái định-luật thiên-nhiên làm trung-tâm điểm cho mọi sự hoạt-động của nhơn-loại ở mọi địa-phương và mọi thời-đại.

 

II.- TÁNH-CÁCH CĂN-BẢN CỦA SỰ SINH-TỒN : VỊ-KỶ.

 

A.- KHUYNH-HƯỚNG VỊ-KỶ CỦA NGƯỜI.

 

Con người là một động-vật có một ư-chí sinh-tồn rất mạnh. Tất cả hoạt-động của người đều do bản-năng sinh-tồn chi-phối và đều qui về mục-đích sinh-tồn.

 

Xét đời sống của người, ta thấy rằng giá-trị họ thật ra không phải bằng nhau. Nếu bên trong mỗi người cái thú-tánh tàn-bạo vẫn nằm kế bên cái thiên-lương thuần-hậu, sức mạnh của hai bẩm-tánh đó hết sức khác nhau tùy người. Ta đă thấy rằng trong sự hoạt-động sinh-tồn của ḿnh, có người hoàn-toàn nô-lệ nhu-cầu thể-xác hiện-tại, nhưng cũng có người chế-ngự được các thị-dục ḿnh và hướng đến một đời sống cao-thượng, hay nhắm vào quyền-lợi tương-lai của ḿnh nhiều hơn.

 

Nhưng dầu cho người tuân theo sự thúc giục của các dục-vọng thấp kém, hay đặt ḿnh dưới sự điều-khiển của phần cao-thượng trong tâm-hồn ḿnh, người cũng đều bị sự chi-phối của tánh vị-kỷ, hoặc một tánh vị-kỷ ngu tối thiển-cận, hoặc một tánh vị-kỷ rộng-răi và khôn ngoan sáng suốt hơn.

 

Danh-từ vị-kỷ thường có một ư-nghĩa hẹp ḥi, xấu xa. Nó gợi cho người những ư nghĩ về quyền-lợi vật-chất và những thỏa-măn thấp kém thô-bạo. Nhưng ở đây, ta nên hiểu chữ vị-kỷ theo một nghĩa rộng hơn, và xem nó như là cái khuynh-hướng dựa vào ḿnh, lấy ḿnh làm gốc trong mọi việc và qui mọi việc về ḿnh.

 

Trong đời sống thường ngày, người bao giờ cũng nhớ đến ḿnh cũng lo cho ḿnh trước hết. Đó là điều tự-nhiên ai cũng công-nhận và ta không cần phải nhấn mạnh về nó làm ǵ. Nhưng ngoài những hành-động mà tánh-cách vị-kỷ hiện ra một cách rơ ràng, người c̣n có những hành-động có vẻ cao-thượng và những hành-động được gọi là vị-tha nữa. Đối với một số đông người, những hành-động đặc-biệt này không có tánh-cách vị-kỷ, song nếu ta suy xét kỹ về nó, ta lại nhận thấy rằng thật ra nó vẫn bị sự chi-phối  của tánh vị-kỷ hiểu theo nghĩa rộng trên này.

 

B.- SỰ VỊ-KỶ TRONG NHỮNG HOẠT-ĐỘNG CAO-THƯỢNG CỦA NGƯỜI.

 

1.- SỰ VỊ-KỶ TRONG CÁC CẤU-TẠO VÀ PHÁT-HUY TƯ-TƯỞNG CỦA NGƯỜI.

 

Mặc dầu nhiều khi vẫn có một h́nh-thức hợp-lư, những tư-tưởng của người là phản-ảnh những t́nh-cảm, những quyền-lợi hay những tư-kiến của người. Những chủ-trương của người thường là kết-quả hơn là nguyên-nhơn những t́nh-cảm và cao vọng của người, có khi nó chỉ là một nước sơn che đậy những t́nh-cảm và nguyện-vọng ấy mà thôi.

 

Những người thất-bại trên đường đời thường hướng về những chủ -nghĩa cách-mạng, trong khi những người có của thiên về tinh-thần bảo-thủ hơn. Karl Marx đă hết sức thù nghịch chế-độ tư-bản và nghiêng về lư-tưởng thế-giới đại-đồng, v́ ông vốn là người Do-thái, nên bị chánh-phủ Đức thời ấy bạc-đăi và đàn-áp thẳng tay. Trái lại, Hitler chủ -trương bài -trừ Do-thái một phần v́ thuở thiếu-thời, ông ta đă bị một gia-đ́nh Do-thái khinh rẻ, từ chối một cuộc hôn-nhơn với ông ta. Những người nói đến những danh-từ hàm một ư-nghĩa xă-hội cao quí như công-lư, danh-dự, tư-do, v.v…thường v́ một lư-do có tánh-cách cá-nhơn : họ đă bị hiếp-đáp, bị khinh-thị, bị kềm chế, hoặc chỉ muốn dùng những danh-từ ấy để thực-hiện một chủ-định ǵ đó mà thôi.

 

V́ lẽ những động lực thúc đầy người hoạt-động vốn ẩn náo, ít khi được người nhận thấy, người thành thật tin tưởng rằng ḿnh chỉ tuân theo lư-trí ḿnh. Kỳ thật, người thường chỉ lư-luận để biện- chánh cho ư muốn hay hành-động ḿnh. Trong việc binh vực ư-tưởng hay hạnh-kiểm ḿnh, cũng như trong việc đánh đổ chỉ-trích ư-tưởng hạnh-kiểm kẻ địch, người lắm lúc đưa ra những lư-luận ngây ngô, không vững chắc chút nào, nhưng vẫn tự cho rằng ḿnh hoàn-toàn hữu-lư. Người vô-t́nh hay cố-ư ngụy-biện một cách hết sức tự-nhiên. V́ đó, những tín ngưỡng – vốn phù-hợp với những tập-quán và nhiều khi những quyền-lợi của người – không thể đánh đổ bằng lư-luận được.

 

Kể ra th́ ngoài đời cũng có những sự thật hiển-nhiên, không tùy-thuộc người và có đủ sức mạnh bắt người phải chấp-nhận nó. Nhưng những sự thật này không có được bao nhiêu : nó là những điều-kiện căn-bản họp lại làm cái khung cảnh chung cho mọi người. Trong khung cảnh này, người hăy c̣n một lănh-vực hết sức rộng-răi để đem dùng sáng-kiến cá-nhơn của ḿnh. Trên những lănh-vực đó, người ta dựa vào những công-ước xă-hội nhiều hơn là sự thật. Người tin tưởng và khen ngợi cái ǵ hợp-ư ḿnh, và bài-xích đánh đổ những cái ǵ không làm ḿnh ưa thích. Những nhà chánh-khách khi nịnh bợ quần-chúng, khi chủ-trương binh vực quyền-lợi họ, khi hứa hẹn mang hạnh-phúc đến cho họ để làm cho họ theo ḿnh, đă tỏ ra rất am-hiểu sức mạnh của sự vị-kỷ trong đời sống tư-tưởng con người.

 

2.- SỰ VỊ-KỶ TRONG CẢM-GIÁC CỦA NGƯỜI.

 

Những ư-tưởng của người, cũng như những tri-thức người có được về ngoại-giới, do nơi kinh-nghiệm mà ra : nó bắt nguồn từ những cảm-giác của người. Cảm-giác là những dữ-kiện căn-bản của tri-thức : không có cảm-giác người không thể nào biết được cái ǵ. Một người đui từ lúc bé không sao có thể có một ư-niệm về các màu sắc, cũng như một người sanh ra đă điếc,  không thể nào tưởng-tượng được sự điều-hợp các thanh âm. Chính nhờ cảm-giác mà người ta có ư-niệm về ngoại-giới, và có thể sắp đặt trước những hành-động của ḿnh.

 

Như thế, cảm-giác đóng một vai tuồng rất quan-trọng trong đời sống của người. Người tiếp nhận được cảm-giác nhờ những giác-quan. Giác-quan giúp người nhận thức được những hiện-tượng phát-hiện ở ngoại-giới và những mối tương-quan giữa các hiện-tượng ấy. Những hiện-tượng này rất nhiều và phức-tạp, và người không sao có thể nhận-thức nó hết được. Thật ra, những tri-giác của người đă được giác-quan chọn lọc trong những ấn-tượng người có thể tiếp nhận. Những giác-quan của người đă được tổ-chức một cách đặc-biệt để thi-hành nhiệm-vụ này.

 

Sự cấu-tạo và phát-triển của các giác-quan đă noi theo một ư-lực mạnh mẽ, và ư-lực đó lại nhắm vào việc phụng-sự các bản-năng của người. Những giác-quan đă thành h́nh không phải để giúp người có những tri-giác mà lư-luận. Nó cốt để trả lời cho những sự cần dùng của ư-chí sinh-tồn. Mắt người được tạo ra không phải để trông ngắm cảnh-vật, mà để soi sáng hành-động người, để báo trước cho người một sự nguy-hiểm, đề giúp người vồ bắt một con mồi. Sở-dĩ hiện nay sự tương-quan giữa con mắt và sự sinh-tồn của người ít rơ ràng hơn trước, là v́ nền văn-minh đă khiến cho sự liên-lạc giữa người với hoàn-cảnh biến-đổi khá nhiều rồi. Nhưng dầu sao, sự ích-lợi của nó đối với đời sống của người cũng hết sức quan-trọng.

 

Vậy, những giác-quan của người chỉ là những dụng-cụ đặc-biệt, nhờ đó người thâu-hoạch trong ngoại-giới một số tri-thức cần-thiết giúp người đối-phó với hoàn-cảnh hầu bảo-vệ sự sinh-tồn của ḿnh.

 

3.- SỰ VỊ-KỶ TRONG SỰ HOẠT-ĐỘNG CỦA TÂM-TRÍ NGƯỜI.

 

Những dữ-kiện được giác-quan chọn lựa lại được người chọn lọc lại một lần thứ nh́. Người chỉ lưu-ư đến cái ǵ làm người xúc-động. Một việc nhỏ nhặt có thể được xem là một vấn-đề tối quan-trọng, nếu người thấy nó có thể hại ḿnh, hay mang đến cho ḿnh một mối lợi to. Những kích-thích bên ngoài mà không liên-hợp với một bản-năng, th́ người không lưu-ư đến. Khi đói, người chú-ư đến những món ăn, nhưng đến khi no nê rồi, mùi thơm của món ăn ngon đến đâu cũng không làm cho người lưu-tâm đến nhiều được.

 

Thêm nữa những cảm-tưởng và phán-đoán của người về sự vật cũng thay đổi, tùy sự cảm-thụ và dục-vọng người. Cùng một món ăn mà khi đói, người thấy ngon, c̣n khi no, người thấy chán. Lắm lúc, người có thể làm những việc khó khăn nặng nhọc một cách dễ dàng, nhiều khi thích thú nữa, nếu việc ấy giúp người thỏa-măn một thị-dục. Những anh chàng si-t́nh có thể vượt núi trèo đèo với nụ cười, nếu sau cuộc hành-tŕnh gian-khổ ấy, họ gặp được người yêu.

 

Trước một cảnh-trí, người không có một ấn-tượng khách-quan như cái máy ảnh. Trong khi những chi-tiết làm cho người lưu-tâm nổi bật lên, những chi-tiết không gây được sự chú-ư của người mờ đi rồi mất hẳn. Do đó, những phúc-tŕnh, những tập du-kư của người về một vùng địa-dư hoàn-toàn khác nhau tùy tác giả. Một nhà khảo-cổ nhớ đến những đền đài dinh-thự lịch-sử, một nhà kinh-tế nói tỉ mỉ về những thổ-sản, một nhà họa-sĩ chỉ nhắc đến những nơi phong-cảnh tuyệt-kỳ.

 

Cùng đi ở một đường phố, người đàn bà thường chú-ư đến những hiệu kim-hoàn, những hàng tạp- hóa, những tiệm may, một sinh-viên th́ hay ngó đến những nơi bán sách, những người thích máy móc lại lưu-ư  đến những cửa hàng bán dụng-cụ cơ-giới.

 

Những học-sinh cùng học một lớp, cùng nghe những ông thầy giảng như nhau không đi đến những kết-quả như nhau, không những chỉ v́ họ không cố-gắng như nhau mà c̣n v́ khả-năng họ khác nhau, thành ra họ không thích những vấn-đề được tŕnh-bày y như nhau.

 

Sự chú-ư làm cho sức mạnh những cảm-giác được tăng-cường. Khi lưu-tâm đến một sự sung sướng hay một nỗi đau khổ, người thấy sự sung sướng hay nỗi đau khổ ấy tăng lên gấp bội. Trái lại, nếu người không thèm chú-ư đến nó nhiều, sự sung sướng hay nỗi đau khổ ấy yếu lần đi và tan biến một cách dễ dàng.

 

Một mặt khác, sự chú-ư lại là một điều-kiện cho kư-ức. Những cái ǵ người thích và chú-ư, người nhớ rất dai và rất kỹ. Ngoài ra, những dục-vọng và sở-thích của người c̣n ảnh-hưởng đến kư-ức đó, và làm biến tánh những kỷ-niệm của người.

 

Sau hết, những nhu-cầu của người c̣n hướng trí óc người đến chỗ khái-quát-hóa và sắp đặt các tri-thức của người về ngoại-giới. Sự lợI-ích bao giờ cũng là tiêu-chuẩn để cho người nhận-thức sự tương- đồng giữa các sự vật, và sắp các sự vật ấy thành hệ-thống. Người có thể sắp chung các sự vật có thể tác-động đến cơ-thể ḿnh với một hiệu-quả như nhau. Người cũng có thể sắp chung các sự vật có thể dùng làm phương-tiện để giúp người đạt được một mục-đích.

 

Những điều trên này chỉ tỏ rằng sự hoạt-động của tâm-trí người dựa vào sự chú-ư, mà người chỉ chú-ư đến cái ǵ hữu-ích cho ḿnh.

 

4.- SỰ VỊ-KỶ TRONG TRI-THỨC CỦA NGƯỜI VÀ KHOA HỌC.

 

Người sở-dĩ chịu khó quan-sát và học-tập thêm măi không ngừng, là v́ người muốn tác-động trên sự vật. Tri-thức bao giờ cũng là điều-kiện đầu tiên để giúp người chọn lựa một cách đúng đắn, và hành-động một cách có hiệu-quả.

 

Người chỉ có thể thỏa-măn những nhu-cầu của minh khi người có thể phân-biệt được cái lợi cái hại, và phản-ứng một cách thích-hợp với hoàn-cảnh. Không biết ai là thù, ai là bạn, không hiều món ăn nào bổ, món ăn nào độc, người rất khó tự-tồn. Sự phân-biệt này là một vấn-đề sống chết đối với người. V́ đó, người cần một sự tin tưởng chắc chắn nơi tri-thức của ḿnh.

 

Vốn lấy hành-động làm mục-đích, tri-thức người hướng về tương-lai. Người sở-dĩ nhớ đến hậu-quả những cách cư-xử quá-khứ của ḿnh hay đồng-loại là để suy-luận về những việc sẽ xảy ra, hầu ứng- phó lại một các đúng đắn. Con người thắng-lợi trong sự cạnh-tranh sinh-tồn là con người dự-đoán trúng tương-lai, và đưa ra những kế-hoạch gồm những hoạt-động đắc-lực, thích-hợp với t́nh-thế.

 

Những tri-thức khái-quát, những tư-tưởng và ư-niệm, hết sức hữu-ích cho người ; nó giúp cho người thấy xa trong tương-lai, và chẳng những dự-đoán được những việc xảy ra, mà c̣n tưởng-tượng được những điều ḿnh sẽ làm, và cả hậu-quả của những việc làm ấy. Do đó, người có xu-hướng khái-quát hóa những tri-thức và gói nó trong những công-thức gọn ghẽ dễ nhớ.

 

Vậy, những tri-thức của người đều nhắm vào mục-đích phụng-sự chính cá-nhơn người. Khoa-học nào cũng bắt đầu bằng những nghệ-thuật, tức là phép áp-dụng một số tri-thức khái-quát ra hành-động. H́nh-học thoát-thai từ khoa đạc-điền, thiên-văn-học bắt nguồn từ sự quan-sát vơ-trụ để biết thờI-tiết hay định phương-hướng. Do sự so sánh những phương-pháp hành-động của ḿnh với những kết-quả thâu-hoạch, người nhận-thức được những mối tương-quan hằng-cửu và rút ra được những lư-thuyết, với những cách-thức hoạt-động có hiệu-lực hơn. Khoa-học nhờ sự tập-hợp và hệ-thống-hóa các kinh-nghiệm ấy mà phát-sanh.

Khi khoa-học đă thành h́nh rồi, nhiều người cho rằng hoạt-động khoa-học hoàn-toàn không vụ-lợi. Theo những người này, nhà khoa-học yêu sự thật v́ sự thật chớ không phải v́ mục-đích ǵ khác.

 

Nhưng thật ra, vai tuồng khoa-học bao giờ cũng là dạy cho người những tri-thức rộng-răi và chánh- xác về các hiện-tượng thiên-nhiên, để giúp người đối-phó với những hiện-tượng ấy một cách đắc-lực hơn. Phần lớn những sự t́m ṭi nghiên-cứu của các nhà khoa-học đều hướng về việc giải-quyết những vấn-đề thực-tiễn. Ư-tưởng về những ích-lợi mà công-tŕnh ḿnh mang đến những người đồng-loại, làm cho các nhà khoa-học hăng hái hơn trong sự làm việc.

 

Thêm nữa, những người không nhắm mục-đích ǵ trong sự nghiên-cứu, cũng giúp cho nhơn-loại về sau. Nhiều định-luật khoa-học phát minh từ đời cổ, măi đến ngày nay mới được đem ra ứng dụng. Vả lại, chính những người không nghĩ đến sự áp-dụng những tri-thức của ḿnh mới có thể đi đến những thuyết tổng-hợp cao-siêu, về sau phụng-sự nhơn-loại một cách đắc-lực hơn. Những giả-thuyết khoa-học đă đóng một vai tuồng rất lớn trong sự xây dựng những chủ-nghĩa chánh-trị, và những hệ-thống triết-lư chi-phối cả đời sống loài người.

 

Vậy, khoa-học không phải là không có tánh-cách vụ ích-lợi. Đối với những người chủ-trương khoa-học vị khoa-học, một triết-gia Pháp đă nhắc lại rằng : « Không phải người sanh ra để phụng-sự khoa-học, mà trái lại, khoa-học đă được tạo ra v́ người, và giá-trị một phát minh chỉ do nơi sự ích-lợi của nó mà ra ».

 

Về phần những nhà khoa-học, ta cũng nhận thấy rằng sự t́m ṭi khảo-cứu, họ vẫn có phụng-sự cá-nhơn họ. Gác qua một bên những người nhắm vào mục-đích t́m danh t́m lợi, ta hăy xét về những nhà khoa-học đặt việc khảo-cứu lên trên hết mọi sự. Những nhà khoa-học này thật ra cũng có một cao- vọng, cao-vọng hiểu được thiên-nhiên để chế-ngự nó, hầu giúp ích đồng-bào. Cao vọng này có tôn-quí thật, nhưng vẫn là cao-vọng cá-nhơn.

 

Thêm nữa, sự khảo-cứu khoa-học làm phát-triển nhiều khả-năng trí tuệ và nhiều đức-tánh của người. Nó làm cho giá-trị nhà khoa-học được nâng cao lên, và do đó, nó rất hữu-ích cho nhà khoa-học. Nó trả lời cho sự cần dùng phát-triển của nhà khoa-học, và không thể xem là hoàn-toàn không vị-kỷ được.

 

Một mặt khác, một số nhà khoa-học khi đă quen với công việc t́m ṭi khảo-sát rồi, th́ có một nhu-cầu t́m ṭi khảo-sát rất mănh-liệt. Ư muốn hiểu-biết, khám phá, phát-minh của họ trở thành dục-vọng thu hút hết nghị-lực họ. Bắt họ ngừng làm việc, họ sẽ thấy khổ-sở vô-ngần. Ngay những nhà khoa-học có một mục-đích vụ-lợi thiển-cận, về sau cũng có thể tự ḿnh thấy sung sướng khi t́m ṭi khảo-cứu.

 

Một bằng cớ chỉ-tỏ tánh-cách vị-kỷ của nhà tư-tưởng là sự cố-gắng của họ để làm cho thiên-hạ chấp-nhận ư-kiến họ. Từ trước đến giờ, các nhà khoa-học và triết-học nổi danh đều có một thái-độ biệt- phái cứng rắn, và nhiều người đă tỏ ra hết sức cuồng-nhiệt trong sự binh vực hệ-thống lư-thuyết của ḿnh.

 

Nói tóm lại, những nhà bác-học, dầu cho không đeo đuổi một mục-đích vụ-lợi thiển-cận, cũng không phải là không vị-kỷ, chỉ v́ cái vị-kỷ của họ cao hơn cái vị-kỷ thấp kém của những kẻ tầm-thường cho nên người ta thường không nhận ra được nó mà thôi.

 

5.- SỰ VỊ-KỶ TRONG NGHỆ-THUẬT CỦA NGƯỜI.

 

Đối với chủ-trương « khoa-học vị khoa-học », người ta thấy phát-hiện mấy thế-kỷ sau đây chủ-trương « nghệ-thuật vị nghệ-thuật ». Những người theo chủ-trương này cho rằng nhà nghệ-sĩ chỉ có mục-đích phụng-sự cái đẹp cũng như nhà khoa-học chỉ có mục-đích phụng-sự chơn-lư. Nhưng thật-sự, như ta thấy, hoạt-động khoa-học không thoát khỏi tánh-cách vị-kỷ ; hoạt-động nghệ-thuật cũng thế.

 

Khi thưởng-thức một tác-phẩm nghệ-thuật, người ta t́m, hoặc một tri-thức để học thêm, hoặc một sự kích-thích, hoặc một phút xuất-thần hay một khoảnh-khắc mơ mộng giúp ḿnh quên cuộc đời ô- trọc, nói tóm lại, người t́m một cảm-xúc, tức là một t́nh-cảm làm rung động được tâm-hồn ḿnh. Và thật-sự, cái mà người ưa thích trong một tác-giả chính là cá-nhơn ḿnh, chính là những cử-chỉ hành-động, chính là cả một cuộc đời mà người đă sống, hoặc thích sống và không sống được. Nói một cách khác, người t́m trong mỹ-thuật, hoặc một sự sinh-tồn quá-khứ, hoặc một sự sinh-tồn tưởng-tượng, để thay thế sự sinh-tồn thiệt-thọ hiện-tại chưa đủ làm toại được chí người.

 

Như vậy, những h́nh-ảnh mà nhà nghệ-sĩ gợi ra, sở-dĩ làm xúc-cảm được người, phần lớn v́ nó có liên-lạc với cá-tánh người, với thân-thế thật-sự hay tưởng-tượng của người.

 

Về phần những nghệ-sĩ, họ thường đem phổ vào tác-phẩm  họ cả bản-ngă họ. Có khi họ tự tả họ một cách trực-tiếp. Nhưng cũng có thể biểu-lộ một cách gián-tiếp ; họ gán cho những nhơn-vật họ tạo ra, những khuynh-hướng, những t́nh-cảm của họ. Nguyễn Du đă nhờ nàng Kiều để bày tỏ thân-thế thật-sự của ḿnh, và nhờ Từ Hải để phác ra vai tuồng xă-hội ḿnh muốn đóng. Người ta đă nhận thấy rằng nhà nghệ-sĩ càng có nhiều dục-vọng, càng có nhiều tâm-sự u-ẩn th́ càng sản-xuất những tác-phẩm tân-kỳ. Đối với họ, sự cần dùng phải sản-xuất cũng khắc-nghiệt như sự cần dùng khảo-cứu t́m ṭi của nhà khoa-học.

 

Sự quan-sát về đời sống các nghệ-sĩ đă cho chúng ta biết rằng những động-lực thúc đẩy họ là sự thỏa-măn những nhu-cầu tinh-thần, tánh tự-tôn, tự-đại, ḷng ham muốn danh-vọng, tiền tài, ư muốn được người hiểu biết hay mến phục. Những động lực trên này đều có tánh-cách vị-kỷ không ít th́ nhiều.

 

6.- SỰ VỊ-KỶ TRONG HOẠT-ĐỘNG TÔN-GIÁO.

 

Trong sự hoạt-động tôn-giáo, ta cũng nhận thấy sự vị-kỷ xuất-hiện. Người thời xưa v́ không rơ nguyên-nhơn những hiện-tượng thiên-nhiên chung quanh ḿnh, nên cho rằng những hiện-tượng đó do ư muốn những nhơn-vật vô-h́nh mà ra. Họ gán cho những nhơn-vật vô-h́nh này một linh-hồn như họ, và tạo ra những ma quỉ, thánh thần. Đọc những thần-thoại của tất cả các dân-tộc, ta có thể nhận thấy rằng ma quỉ, thánh thần ngày xưa có những t́nh-cảm, nguyện-vọng như người, với những khả-năng hành-động cao hơn. Vậy, người đă nhờ tôn-giáo để biểu-diễn những nguyện-vọng và mơ ước của ḿnh.

 

Một mặt khác, trong tôn-giáo, người c̣n t́m một phương-tiện để tự-vệ chống giữ những lực-lượng vô-h́nh có thể pḥ-hộ hay giết hại ḿnh. Người đă thờ cúng lễ-bái các vị thần-minh, để cho họ thương ḿnh mà tha cho, hoặc hơn nữa, binh vực giùm ḿnh. Các bộ-lạc, các chủng-tộc thuở xưa đều thờ một vị thần bảo-hộ đoàn-thể ḿnh. Những cá-nhơn cũng cầu-đảo để được mạnh khỏe, được thành-công trong việc làm, được giàu sang sung sướng.

 

Ngay đến khi tôn-giáo có một tánh-cách cao-thượng hơn, phần lớn loài người vẫn giữ thái-độ vụ- lợi trên đây trong sự thờ phụng thần thánh. Phúc, lộc, thọ, danh, đó là những điều mà người mong ước thần thánh ban-bố cho ḿnh hay cho thân-nhơn ḿnh.

 

Một điều rơ rệt chứng tỏ sự vị-kỷ của người trong sự thờ phụng thần thánh, là người chỉ thiết-tha cầu-khẩn khi khổ-sở, khi gặp những hoạn-họa gớm ghê mà sức người không đương trở nổi. Lúc những phương-tiện hoạt-động của người được mở mang, lúc người được an-toàn và sung-túc, người rất ít khi nghĩ đến Phật Trời.

 

Ta phải công-nhận rằng trong nhơn-loại, có một số người có một tinh-thần mộ-đạo rơ rệt hơn. Nhưng hạng người này thật ra cũng chỉ nghĩ đến họ ; họ muốn được sống an-toàn ở trần-thế, và khi trút linh-hồn, lại được lên thiên-đường sống một cuộc đời vĩnh-cửu, đầy lạc-thú. Nếu họ cố-gắng để có những đức-tánh cần-thiết như ḷng từ-bi bác-ái, sự đại-lượng đối với kẻ khác th́ cũng v́ mục-đích vị-kỷ trên này.

 

Những người có óc thần-bí, muốn ḥa-hợp hồn ḿnh với Thượng-Đế cũng không thoát khỏi sự vị-kỷ. Sở-dĩ họ muốn được trở về với Thượng-Đế, là v́ Thượng-Đế có một quyền-năng vô-hạn, có một sự từ-ái minh mông. Một điều ta nên lưu-ư, là những người thần-bí này chỉ tin nơi Thượng-Đế riêng của ḿnh. Nói đến tôn-giáo khác, họ chỉ có ḷng khinh-bỉ, thù hằn. Hơn nữa, họ cũng không tha những kẻ cùng thờ một Thượng-Đế với họ, nhưng có một quan-niệm khác họ về sự thờ cúng Thượng-Đế ấy. Những sự tàn-sát nhau giữa các tôn-giáo, những tôn-giáo pháp-đ́nh đă lưu lại cho nhơn-loại bao trang sử rùng rợn, đều là công-tŕnh những nhà thần-bí cuồng-tín, không ngại dùng đến những phương-pháp tàn-bạo nhứt để binh-vực giáo-lư ḿnh.

 

C.- SỰ VỊ-KỶ TRONG NHU-CẦU PHÁT- TRIỂN CỦA NGƯỜI.

 

Sự sinh-tồn, như ta đă thấy, không phải chỉ thâu vào việc duy-tŕ sự sống dưới h́nh-thức hiện-tại. Nó c̣n gồm ư muốn nâng cao sự sống lên và mở rộng nó ra. Bất cứ ở địa-vị nào, người cũng muốn vượt lên trên nữa.

 

Một vị Thiên Hoàng ngự-trị trên một nước Nhựt đang lúc hùng-cường, đă viết trong một bài thơ làm khi ngự-giá  dự một cuộc thao-diễn hải-quân :

 

Hà thời đạt đắc b́nh-sanh chí

Nhứt dược đằng phi ngũ đại châu ?

 

(Biết bao giờ ta đạt được chí b́nh-sanh, phóng một bước nhảy qua cả năm đạI-châu ?)

 

Giấc mộng bá-chiếm hoàn-cầu này, những tay thống-lănh các đại đế-quốc từ trước đến nay đều có mơn trớn. Giá như một ngày kia có người đạt được nó, người ấy sẽ không ngừng lại đó. Họ sẽ nghĩ đến việc chinh-phục thời-gian sau khi chinh-phục không-gian. Họ sẽ t́m cách được trường-sanh bất-tử như Tần Thủy-hoàng ngày trước, và như Staline gần đây. Ngay bây giờ, mộng bá-chiếm hoàn-cầu chưa thực-hiện được, mà đă có người nghĩ đến việc chinh-phục mặt trăng và các hành-tinh gần địa-cầu rồi.

 

Vậy, nền tảng của sự sinh-tồn là sự bành-trướng. Ngay ở những sanh-vật sơ đẳng, sự bành-trướng cũng hết sức mạnh mẽ. Nhiều loại vi-khuẩn trong một ngày đă sanh ra đến 70 đời. Nếu có đủ lương-thực để sống, khối vi-khuẩn này có thể nặng đến 5.000 tấn. Trong ṿng 15 năm, hậu-duệ của một cặp chim lên đến số 10 triệu con, trong khi một con cá chép thường có thể sanh ra 100 triệu trứng.

 

Loài người tự xưng là chủ-nhơn-ông của địa-cầu kể ra không hổ với danh-hiệu này, v́ sức bành- trướng sự sống của người thật vô-cùng mạnh mẽ. Người đă thay đổi cả mặt quả đất, người đă chế-ngự được cả muôn loài.

 

Chẳng những muốn nô-lệ-hóa loài thú và điều-khiển vật-chất, người c̣n muốn xử-dụng đồng-loại theo ư ḿnh nữa. Người luôn luôn cố-gắng vượt lên trên kẻ khác và ngự-trị kẻ khác.

 

Người nào cũng tự cho ḿnh là « rún của quả đất », xem cá-nhơn ḿnh là trên cả, nghề-nghiệp ḿnh là cao quí hơn hết, đẳng-cấp ḿnh là quan-trọng nhứt. Nhà khoa-học, nhà triết học, nhà nghệ sĩ, nhà tôn-giáo, nhà chánh-khách, đều cho rằng chỉ có ngành hoạt-động ḿnh phụng-sự mới có thể mang hạnh-phúc lại cho nhơn-loại, và do đó, nó phải được đặt lên trên hết. Trong mỗi nước, hạng nông-dân thường cho rằng ḿnh hữu-ích hơn cả, trong khi thợ thuyền quả-quyết rằng chính họ mới là phần-tử cần-thiết bậc nhứt.

 

Ư muốn trở thành một nhơn-vật quan-trọng là một nhu-cầu thiết-yếu của mọi người. Trong phạm-vi hoạt-động của ḿnh, người luôn luôn muốn tỏ rằng ḿnh tài giỏi hơn kẻ khác. Ḷng ham quyền-chánh, tham danh-vọng, thích nịnh bợ, có thể nói chung cho hầu hết loài người.

 

Chủ-trương b́nh-đẳng do nơi ḷng tự-ái của người mà ra. Người không bao giờ muốn hạ ḿnh xuống cho bằng kẻ thấp hơn, trái lại, muốn leo lên cho bằng kẻ ở trên ḿnh. Khi nhận thấy ḿnh không lên trên được, người lại thầm muốn cho người ở cấp trên bị khốn khổ, hoặc bị giáng xuống địa-vị ḿnh. Như thế, xét tâm-lư con người, ta thấy rằng người luôn luôn hiểu sự b́nh-đẳng theo một nghĩa có lợi cho ḿnh.

 

Một mặt khác, ngay những người hô-hào b́nh-đẳng cũng tự-nhiên hướng về sự bất-b́nh-đẳng. Người bao giờ cũng thèm khát những đặc-quyền, đặc-ơn, và sự tôn-ty xuất-hiện trong mọi tổ-chức. Giáo-hội nào cũng có cấp bậc trên dưới, và đảng Cộng-sản Đệ Tam Quốc-tế, vốn chủ-trương một sự b́nh-đẳng triệt để giữa loài người, chẳng những đă đặt một hệ-thống phân-biệt phẩm-trật nhiều hơn trong bất cứ tổ-chức nào khác, mà c̣n đặt ra chế-độ đặc-táo, tiểu-táo để chánh-thức-hóa những sự bất- công mà những tổ-chức khác chỉ dung-nạp một cách bán-chánh-thức mà thôi.

 

Về phương-diện trí-tuệ, người muốn cho ư ḿnh thống-trị kẻ khác. Những người đă tạo ra những hệ-thống lư-thuyết chánh-trị, những chủ-nghĩa cách-mạng, những tôn-giáo, đều có ư muốn uốn nắn tất cả đời sống mọi người. Họ muốn phát-huy những sở-kiến của họ để bắt buộc mọi người phải theo những kế-hoạch, những mộng-tưởng của họ : đó là ư-chí ngự-trị của người phát-hiện dưới danh-nghĩa của tư-tưởng.

 

Những nhà tư-tưởng chịu sống một cuộc đời khổ-sở để đạt mục-đích, đă bị sự chi-phối của ư-chí ngự-trị này mà bỏ qua những xu-hướng vật-chất bị xem là tầm-thường nhỏ mọn.

 

Trong ư-chí bành-trướng sự sống kể trên đây, ta có thể nhận thấy ḷng ham muốn một mực sống cao hơn về vật-chất hay về tinh-thần. Và như thế, tánh-cách vị-kỷ của người trong sự bành-trướng ấy không ai có thể phủ-nhận được.

 

D.- SỰ VỊ- KỶ VÀ SỰ HY-SINH TÁNH-MẠNG.

 

Sự sinh-tồn của người làm cho người muốn sống và bành-trướng sức sống của ḿnh. Nhưng người cũng có khi dám liều chết, dám hy-sinh tánh-mạng ḿnh. Sự hy-sinh này có thoát khỏi tánh-cách vị-kỷ hay không ?

 

Trước hết, ta có thể nhận thấy rằng, sự sống hàm sự hoạt-động, mà sự hoạt-động bao giờ cũng có nguy-hiểm. Do đó, muốn sinh-tồn, người phải nhận nguy-hiểm. Nhiều khi chính sự liều chết lại làm cho người sống : phá một con đường máu trong một khối địch-quân đông đảo hơn ḿnh là phương-pháp duy-nhứt giúp người thoát khỏi bị chúng bắt và hành-hạ trước khi xử tử.

 

Một mặt khác, người mạnh mẽ b́nh-thường cần phải vận-động, phải sử-dụng hết nghị-lực của cơ-thể ḿnh. Một số người chỉ có thể t́m thấy được sự vui thú trong sự lộng-hiểm ; những nhà thể-tháo, những nhà săn bắn, lắm khi tự ḿnh t́m lấy sự sung sướng trong việc tiêu-phí nghị-lực đó. Nhưng cũng có khi ḷng ham danh-vọng, ư muốn nêu gương cho thiên-hạ khiến cho người quên những mối nguy-hiểm mà lăn ḿnh tới trước. Cũng có khi người liều tánh-mạng để đạt được một mục-tiêu, thâu-hoạch một kết-quả. Sự thực-hiện một nguyện-vọng, quả tim một người yêu, có thể là phần thưởng người mong chờ khi có những tác-động dơng-cảm liều thân.

 

Sau hết, người có thể hủy mạng sống của ḿnh khi cuộc đời trở thành một cực-h́nh cho người. Sự xấu hổ, sự nhục-nhă, sự tuyệt-vọng có thể đưa người đến chỗ quyết-định từ giă trần-thế để t́m hạnh-phúc ở thế-giới bên kia. Người tự-tử là để giải-thoát lấy ḿnh khỏi những dây oan-nghiệt làm khổ-sở cho ḿnh.

 

Ngoài ra, lại c̣n một số người tự-hủy ḿnh v́ nhiệm-vụ. Đó là trường-hợp những người liều mạng hy-sinh cho Tổ-Quốc, cho tôn-giáo ḿnh. Sự dơng-cảm của họ rất đáng kính-phục.Tuy-nhiên, ta không thể bảo rằng họ không vị-kỷ chút nào trong sự hy-sinh ấy.

 

Bảo-vệ quê-hương hay tôn-giáo ḿnh, tức là bảo-vệ những h́nh thức sống c̣n mà người chấp-nhận hay tôn-kính. Đối với người, không sống c̣n được theo h́nh-thức ấy th́ thà chết c̣n hơn. Trong trường-hợp nầy, người xem những yếu-tố làm cho cuộc đời đầy ư-nghĩa có giá-trị cao hơn chính cuộc đời. Nhưng dầu sao, người vẫn hy-sinh v́ một chủ-kiến của ḿnh.

 

Những nhà ái-quốc không thể chịu được cái nhục mất nước, cái khổ thấy đồng-bào nô-lệ cho người ngoạI-bang, những người tử v́ đạo v́ muốn được lên thiên-đường theo vị Thượng-Đế ḿnh tôn thờ. Họ đă từ khước cái sống thừa khổ nhục, để chọn lấy cái sống vĩnh-cửu và an-ổn của tâm-hồn. Vậy, họ không phải là không vị-kỷ.

 

Đ.- SỰ VỊ- KỶ TRONG NHỮNG HÀNH-ĐỘNG VỊ- THA.

 

Ngoài những bản-năng hoàn-toàn vị-kỷ khiến cho người chỉ lo đến ḿnh, chỉ mưu-đồ sự sinh-tồn cho cá-nhơn ḿnh và có những hành-động vị-kỷ, người lại c̣n có những bản-năng t́nh-dục và bản-năng xă-hội. Những bản-năng sau này khiến cho người có xu-hướng gần gũi và sống chung với đồng-loại. Nó đă đóng một vai tuồng quan-trọng trong sự thúc đẩy người hợp nhau lại thành đoàn-thể.

 

Thật-sự th́ người không phải chỉ có thiện-cảm với người đồng-loại. Đứng trước một kẻ lạ người thường e dè và giữ miếng, ít khi thông-cảm họ. Ngay trong ṿng những kẻ liên-lạc mật-thiết với người, mối giao-t́nh nhiều khi lợt lạt, hời hợt lắm. Nhưng chúng ta không thể phủ-nhận được rằng khuynh-hướng hợp-quần của người cũng rất mạnh, nó khiến người tự-nhiên thấy buồn bă khi cô-độc, và luôn luôn t́m cách liên-lạc với đồng-loại, muốn cho họ ưa thích và nể nang ḿnh.

 

Trong sự sống chung với đồng-loại, người nhiều khi biết nghĩ đến họ, đến quyền-lợi của họ, và có những hành-động mà ta gọi là hành-động vị-tha. Đối với một số nhà tư-tưởng và đạo-đức, vị-tha là một t́nh-cảm hoàn-toàn tốt đẹp của người, nó đối chọi hẳn với sự vị-kỷ. Tuy nhiên, con người vốn có một cơ-thể, một tâm-hồn, một bản-ngă mạnh mẽ. Họ không bao giờ có thể tự quên ḿnh được một cách hoàn-toàn. Do đó, những hành-động vị-tha của họ vẫn mang dấu hiệu của bản-ngă họ, và do đó, vẫn c̣n dựa vào sự vị-kỷ không ít th́ nhiều.

 

1.- SỰ VỊ-KỶ TRONG T̀NH YÊU.

 

T́nh yêu là một t́nh-cảm rất mạnh có thể đưa người đến những hành-động vị-tha. Nó bắt nguồn từ những nhu-cầu sanh-lư khẩn thiết của người. Đàn ông và đàn bà đều bị bản-năng t́nh-dục chi-phối, khiến cho họ tự thấy cần dùng nhau và đi t́m kiếm nhau.

 

Nhưng ngoài ra nhu-cầu t́nh-dục, t́nh yêu c̣n dựa vào sự cần dùng nương tựa nhau : người đàn ông cũng như người đàn bà đều phải sống chung nhau để binh vực cho nhau. Đó là một yếu-tố phần nào có hơi hướng vị-kỷ rồi.

 

Một mặt khác, t́nh yêu cũng dính dáng đến bản-năng tư-hữu. Tánh ghen tuông – nhiều khi tồn-tại sau khi t́nh yêu đă chết – là một biểu-hiệu chỉ tỏ rằng người muốn được độc quyền với người ḿnh yêu. Sự vị-kỷ của kẻ si-t́nh thật là hiển-hiện trong thái-độ họ ; họ thà thấy người họ yêu chết ngay trước mắt, c̣n hơn biết rằng người ấy có hạnh-phúc với một người khác.

 

Người có thể hy-sinh nhiều cho kẻ được người yêu dấu, song người cũng chờ đợi nơi người ấy một  sự ban thưởng là ḷng yêu của người ấy,  hay ít nhứt là cái quyền được yêu người ấy. Lời than thở của một nhà thi sĩ :

 

« Yêu là chết ở trong ḷng một ít,

« Cho rất nhiều, song được chẳng bao nhiêu »

( Xuân -Diệu )

 

đă diễn-tả một cách rơ rệt tánh-cách vị-kỷ của t́nh yêu. Như thế, chung-qui, nếu có hy-sinh, người cũng chỉ hy-sinh cho dục-vọng của ḿnh.

 

Thuở người c̣n man-dă, t́nh yêu dựa vào sự cần dùng sanh-lư, và sự cần dùng nương tựa nhau nhiều hơn hết. Trong xă-hội văn-minh, nó có thể gồm thêm yếu-tố khác ; sự tương-đồng quyền-lợi, t́nh-cảm, tư-tưởng và sau đó, những thói quen, những công-ước xă-hội.

 

Sự ḥa-hợp giữa hai vợ chồng rất hữu-ích cho cả hai ; nó vừa tăng-gia sức mạnh tuyệt-đối của họ, vừa tăng-gia hiệu-lực của sự làm việc nhờ sự phân-công. Tục ngữ ta có câu : « Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn ». Như thế, t́nh yêu có mang nhiều mối lợi vật-chất đến cho người. Về mặt tinh-thần, sự cộng-tác chặt chẽ giữa vợ chồng giúp cho họ nhân-nhượng nhau và sửa chữa lỗi nhau. Do đó, họ có thể đạt nhiều đức-tánh giúp họ thành-công trong xă-hội một cách dễ dàng hơn.

 

Như thế, t́nh yêu chung-qui vẫn có lợi cho người, và ta có thể bảo rằng, nền tảng nó dựa vào sự vị-kỷ của người rất nhiều.

 

2.- SỰ VỊ-KỶ TRONG T̀NH GIA- Đ̀NH.

 

Bản-năng t́nh-dục khi mở rộng ra đă đưa người đến những t́nh-cảm gia-đ́nh, trong ấy, mạnh mẽ nhứt là t́nh cha mẹ yêu con. Kể ra, th́ ḷng thương nhau giữa cha mẹ với con có một nền tảng sanh-lư tự-nhiên, v́ đứa con do cha mẹ sanh ra, và mang một phần xương thịt cùng đặc-tánh của mẹ với cha. Tuy vậy, yếu-tố huyết-thống riêng nó cũng không được mạnh mẽ lắm.

 

Nhiều loài vật không hề biết đến con. Trong những xă-hội mọi rợ, nhiều trẻ con bị cha mẹ ăn thịt. Người thái-cổ có thể giết con trẻ v́ những lỗi rất nhỏ hay v́ nó là miệng ăn vô ích. Cũng có khi cha mẹ đem con tế-thần cầu lợi, hay đổi lấy một món hàng.

 

Nhiều dân-tộc, khi đă đạt được một tŕnh-độ văn-minh khá cao mà c̣n vẫn giữ những tục-lệ man- dă đối với con trẻ. Người Hy-lạp, người La-mă và người Trung-Hoa ngày trước, hay giết hại những đứa bé tàn-tật, ươn yếu, có khi đem bán trẻ sơ sanh. Con gái thường bị bạc-đăi hơn con trai. Nếu không bị thảI-trừ hồi nhỏ, chúng cũng được nuôi trong một chế-độ khắc-nghiệt,  đến lớn, bị cha mẹ gả bán đi theo ư riêng, không cần đến sự ưng-thuận của chúng.

 

Trong xă-hội văn-minh hiện đại, những tục-lệ man-dă trên đây không c̣n nữa. Con trẻ được săn sóc kỹ càng hơn, được nuông ch́u hơn. Cha mẹ thường sẵn sàng hy-sinh, chịu thiếu thốn, chịu cực khổ cho con. Ở đây, ta có thể công-nhận rằng ḷng vị-tha đă có xuất-hiện. Tuy thế, trong ḷng vị-tha này, sự vị-kỷ vẫn hăy c̣n.

 

Quan-sát hành-động mọi người chung quanh ta, ta có thể nhận thấy rằng, người thường đem ḷng thương yêu những cái ǵ do chính tay ḿnh săn sóc, chăm nom. Người bao giờ cũng chuộng kẻ chịu ơn ḿnh hơn kẻ làm ơn cho ḿnh. Những con vật do chính người nuôi nấng, những cây cối do người trồng hay bón xới, những đồ vật do chính người tạo ra, người bao giờ cũng tŕu mến, ưa thích. Người nông-dân suốt năm chăm chút đến mảnh ruộng mảnh đất ḿnh cày cấy, rất yêu mảnh đất mảnh ruộng ấy, mặc dầu nó không phải của họ. Nhiều người tá-điền đă đánh nhau chí-tử để bảo-vệ một tài-sản thật-sự là của kẻ khác.

 

Người thợ sở-dĩ không yêu hăng xưởng chỗ ḿnh làm bằng người nông-dân yêu đất, là v́ họ chỉ là một phần-tử nhỏ nhặt trong một bộ máy khổng-lồ, và thường chỉ coi sóc việc sản-xuất những bộ phận của một đồ vật. Họ không tự tay tạo ra một món hàng đầy đủ, và không thể tự-hào mà cho rằng món hàng nào đó do ḿnh sản-xuất ra. Do đó, họ dễ dàng phá-hoại những hăng xưởng dùng họ những khi cần, và sẵn sàng hơn người  nông-dân để theo chủ-trương cộng-sản.

 

Sự thích mến những món do tự tay ḿnh chăm nom hay chế-tạo ra là một xu-hướng chung cho mọi người, nó hàm sự vị-kỷ bên trong. T́nh cha mẹ thương con một phần thuộc vào trường-hợp trên này. Đứa bé, chẳng những do cha mẹ sanh ra, lại c̣n được cha mẹ nuông ch́u, chăm nom từng chút. Công cha mẹ đối với con thật là không sao kể xiết được. Như thế, cha mẹ tự-nhiên phải yêu con nhiều. Trong sự sanh-dưỡng đứa bé, người mẹ đóng vai tuồng quan-trọng hơn, thành ra mẹ thường yêu con hơn cha.

 

Ḷng thương con của cha mẹ thật là mạnh mẽ ; nhưng không phải v́ đó mà nó mất tánh-cách vị-kỷ. Người mẹ nhiều khi yêu con đến nỗi không muốn cho ai chia xẻ sự thương yêu đó với ḿnh. Những bà mẹ chồng đông-phương hành-hạ con dâu, cũng như những bà mẹ vợ tây-phương không ưa chàng rể, v́ trong mắt họ, con dâu hay chàng rể thu hút hết t́nh yêu của con họ. Nhiều người mẹ bị lao, nhưng không chịu rời con, thành ra chúng bị lây bịnh ấy.

 

Trong sự dựng vợ gả chồng, cha mẹ cũng thường nhắm vào sự môn-đường hộ-đối, vào mục-đích của cháu bế, hơn là vào hạnh-phúc của con. Thêm nữa, ta cũng nhận thấy rằng, trong một bầy con, cha mẹ yêu thương những đứa thông-minh, lanh lợi, có thể làm rạng rỡ tông-môn hơn những đứa con ngu đần, khó thành-công ngoài xă-hội.

 

Những điểm trên này là những luận-cứ chứng-minh rằng t́nh cha mẹ thương con  tuy hết sức cao quí, vẫn có phần vị-kỷ bên trong. Về phần con, ai cũng nhận thấy rằng, chúng không thương yêu cha mẹ bằng cha mẹ thương yêu chúng. Sở-dĩ Nho-giáo nhấn mạnh trên đạo hiếu, là v́ ḷng hiếu-thảo không phải là t́nh-cảm tự-nhiên mạnh mẽ bằng t́nh yêu nhau giữa vợ chồng, hay t́nh cha mẹ thương con. Nếu mọi người đều tự-nhiên yêu mến và phụng-dưỡng cha mẹ hết ḷng, và bao giờ cũng lo cho cha mẹ hơn lo cho vợ con, th́ truyện « Nhị thập tứ hiếu »  không có lư-do tồn-tại.

 

Một mặt khác, ta có thể nhận thấy rằng, trong một bầy con, đứa thương yêu cha mẹ nhứt là đứa đă từng chịu cực khổ với cha mẹ. Trái lại, những đứa được cha mẹ nuông ch́u quá lại ít yêu cha mẹ hơn. Người Việt-nam khi nói đến sự kiện này thường cho rằng trong mấy đứa con ấy, đứa th́ đ̣i nợ, đứa th́ đi trả nợ. Nhưng thật-sự, đây chỉ là một biểu-lộ của một bẩm-tánh ta đă thấy trên này : con người yêu những kẻ chịu ơn ḿnh hơn những kẻ làm ơn cho ḿnh.

 

Trong sự hiếu-thân, người ta cũng có thể nhận ra ḷng ham muốn được thiên-hạ ngợi khen, nếu không phải là ḷng sợ hăi dư-luận chê cười. Những kẻ tống-táng giỗ chạp cha mẹ một cách linh-đ́nh, thường nghĩ đến danh-vọng ḿnh nhiều hơn là nghĩ đến  việc báo ơn cha mẹ.

 

Về t́nh anh em đối với nhau, nó tự-nhiên lợt lạt hơn t́nh cha mẹ với con. « Giàu cha, giàu mẹ th́ ham, giàu anh, giàu chị ai làm nấy ăn » là một câu hát diễn tả một sự thật hiển-hiện. Việc anh chị em kiện nhau để tranh gia-tài là một việc thường thấy, và những bực thánh-hiền đă phải cố-gắng hết sức để dạy anh em chị em ăn ở phải đạo với nhau. Thật ra, th́ cũng có nhiều người anh em chị em thương mến nhau một cách đậm đà, nhưng trường-hợp này cũng giống như truờng hợp những người kết bạn với nhau.

 

3.- SỰ VỊ-KỶ TRONG T̀NH BẠN.

 

Nếu trong t́nh yêu giữa cha mẹ với con, sự vị-kỷ c̣n lộ ra cho ta thấy, th́ trong t́nh bạn bè, nó lại c̣n rơ rệt gấp mấy nữa. Người ta chỉ có thiện-cảm với người khác khi người ấy hợp-ư ḿnh. Những người bạn thân-thích với nhau thường là những người giống nhau hoặc là bổ-túc nhau. Thêm nữa, muốn cho t́nh bạn được lâu dài, người phải có những sở-thích, những nguyện-vọng chung nhau, khiến cho người cùng có những mối cảm-xúc như nhau, và có một thái-độ gần như nhau trong một hoàn-cảnh chung.

 

Một mặt khác, sự cùng chia sung sướng, mà nhứt là chia gian-lao với nhau, cũng như sự chơi đùa, giải-trí chung nhau, làm cho người khắn khít với nhau. Trong người bạn, người có thể nào t́m được một phần nào cá-nhơn ḿnh. Vả lại, một người bạn chơn-thành rất hữu-ích cho người ; người có thể học hỏi, có thể vui chơi, có thể nhờ sự giúp đỡ của bạn. Do đó, người có một xu-hướng kết bạn khá mạnh, và có bạn trong hầu hết mỗi giai-đoạn của đời ḿnh : bạn đồng song trong lúc cắp sách đến trường, bạn đồng ngũ khi tùng-chinh, bạn đồng-nghiệp khi ra vật lộn với đời để mưu-sanh, bạn tâm- t́nh khi có dịp ở chung nhau.

 

Ta nên lưu-ư rằng t́nh bạn phải vun bồi mới sống được. Những người bạn thân-thiết nhau có thể trở thành xa lạ với nhau nếu không gặp gỡ nhau thường. Nhiều người bạn học lúc nhỏ rất gần nhau, nhưng về sau không được gặp gỡ nhau và không c̣n chơi thân nhau nữa. « Cách mặt th́ xa ḷng », đó là một sự thật mà dân-tộc nào cũng thấy.

 

Trái lại, những người sống cạnh nhau và giao-du với nhau, nhiều khi không hoàn-toàn giống nhau, cũng có thể trở thành thân-thiết được. « Bà con xa không bằng láng giềng gần », đó là một sự nhận xét chứng tỏ trong t́nh bạn sự gần nhau, và do đó, sự cùng nhau chia xẻ nỗi vui buồn đóng một vai tuồng rất quan-trọng.

 

Qua những điều-kiện trên này, ta có thể nhận thấy rằng t́nh bạn phải dựa vào nền tảng vị-kỷ một phần nào.

 

4.- SỰ VỊ-KỶ VÀ L̉NG THƯƠNG XÓT.

 

Ḷng thương xót cũng là một t́nh-cảm tự-nhiên của người. Nó do nơi thiện-cảm mà ra. Thoạt-kỳ-thủy nó làm cho người tham-dự một cách thụ-động vào sự lo âu khổ-sở của kẻ khác, nó khiến người đau đớn khó chịu. Sau đó, nó trở thành tích-cực hơn, và xui người giúp đỡ kẻ đau khổ khó chịu đó.

 

Người ta thường xem sự thương xót là một t́nh-cảm vị-tha hoàn-toàn. Nhưng nếu xét kỹ về nó, ta cũng thấy sự vị-kỷ ẩn núp bên trong.

 

Trước hết, người ta nên lưu-ư rằng, người không hề thương xót cục đất hay tảng đá. Người chỉ bắt đầu động-tâm khi thấy một cành hoa héo, một nhánh cây khô. Sự thương xót của người ta tăng-gia với loài cầm thú mở rộng ra đến tuyệt-độ đối với người đồng-loại. Điều này chứng tỏ rằng người chỉ thương xót nhiều những kẻ giống ḿnh, v́ tự nghĩ rằng ḿnh có thể ở vào địa-vị kẻ ấy.

 

Nhiều người thường nhắc đến « quả tim vàng » của hạng người nghèo. Những văn-gia, thi-sĩ đă hết sức ca tụng tinh-thần tương-thân tưong-trợ giữa những người xấu số với nhau. Điều này cũng phần nào đúng với sự thật, chớ không phải hoàn-toàn chỉ dựa vào trí tưởng-tượng của những kẻ hay mơ mộng. Nhưng tại sao những người nghèo khó lại sẵn sàng giúp đỡ nhau hơn những người giàu có, trong khi họ có ít phương-tiện hơn ? Lư-do rất giản-dị : họ đă trải qua những t́nh-cảnh khổ-sở và có thể sẽ phải trải qua những t́nh-cảnh ấy nữa trong tương-lai. Họ giúp đỡ kẻ khác để kẻ khác sẽ giúp đỡ lại họ khi họ gặp sự khó khăn. Người giàu, trái lại, không từng trải qua cảnh khổ của kẻ nghèo, và không hiểu cái khổ ấy ; họ cũng không lo ngại nhiều cho họ trong tương-lai. V́ đó, họ dửng dưng trước sự đau đớn của những hạng người xấu số trong xă-hội.

 

Những người có của, đứng ra tổ-chức những việc làm từ-thiện thường có mục-đích quảng cáo cho tên tuổi ḿnh. Trong sự giúp đỡ kẻ khác, một số lớn t́m sự khen ngợi của đồng-bào, hoặc sự ban thưởng của chánh-phủ. Cũng có một số người hiểu rơ rằng nâng đỡ người nghèo khổ là hàn gắn bớt những vết thương xă-hội, và như thế là đóng góp một phần vào công việc làm cho xă-hội được ổn-định, điều-kiện cần-thiết để duy-tŕ quyền-lợi họ. Sau hết, một số người t́m thấy sự sung sướng trong việc giúp đỡ người khác. T́nh-cảm này là kết-quả của một bản-năng xă-hội mở mang. Nó hết sức cao-thượng, nhưng thật-sự bên trong, người cũng có t́m sự thỏa-măn cho chính tâm-hồn ḿnh.

 

5.- SỰ TƯƠNG-QUAN GIỮA L̉NG VỊ-THA VÀ L̉NG VỊ-KỶ.

 

Ta đă thấy rằng những động-lực làm cho người hành-động đều có một nguồn gốc duy-nhứt : sự thỏa-măn những bản-năng của người. Bên những bản-năng vị-kỷ hoàn-toàn, người vẫn có những bản-năng đặc-biệt khiến người mở mang tâm-hồn ḿnh ra để ḥa-hợp với kẻ khác. Nhưng dầu sao, những bản-năng đó cũng của người, và sự thỏa-măn nó cũng hữu-ích cho người trước hết. V́ thế, tất cả những hành-động của người đều có tánh-cách vị-kỷ, ngay đến những hành-động được gọi là vị-tha.

 

Ta có thể bảo rằng, sự vị-tha bắt nguồn từ nơi ḷng vị-kỷ. Không có những nhu-cầu, không có ư muốn và hy-vọng thỏa-măn nhu-cầu ấy, th́ người không có những hành-động vị-tha.

 

Sự hoạt-động vốn để thỏa-măn ư-chí sinh-tồn của người, mà ư-chí này càng mạnh th́ phạm-vi và tŕnh-độ sinh-tồn lư-tưởng của người lại càng rộng, càng cao. Do đó, những người có một sức sinh-tồn dồi dào, có nhiều nhu-cầu, th́ lại càng hướng về đồng-loại và càng lo lắng cho họ.

 

Hạng người hào-hiệp nhứt trong xă-hội bao giờ cũng là hạng thanh-niên. Họ dễ dàng hy-sinh hơn người già cả gần đất xa trời. Lúc nào họ cũng sẵn sàng để chiến-đấu và cảI-tổ lại thế-giới. Nhưng kỳ thật, sự hăng hái và khuynh-hướng phụng-sự của những người thanh-niên chỉ là một h́nh-thức chưa ổn-định của thị-dục và hy-vọng minh mông của họ. Họ muốn tạo ra một khung cảnh phù-hợp với sự sinh-tồn lư-tưởng họ nêu ra. Dưới chủ-trương nâng đỡ nhơn-loại, ta có thể nhận thấy rơ ràng ư muốn ngự-trị lên trên thiên-hạ và phát-triển sự sinh-tồn cá-nhơn của họ.

 

Vả lại, người thanh-niên vốn có nhiều nghị-lực, và nghị-lực này bắt buộc họ phải hành-động, phải phao-phí sức ḿnh. Đó là một nhu-cầu hữu-ích, v́ sau cùng, sự hoạt-động làm cho người thanh-niên giỏi dang mạnh mẽ hơn. Nhưng muốn thực-hiện được nguyện-vọng ḿnh, người không phải chỉ cần ra khỏi cá-nhơn ḿnh, mà c̣n phải chịu thiệt tḥi chút ít để người khác có thể chấp-nhận sức bành-trướng của ḿnh. Vậy, sự phát-triển bắt buộc người phải có tánh đạI-lượng. Sự vị-tha thật ra là sự phát-triển bản-ngă của người, và như thế, nó chỉ là một h́nh-thức đặc-biệt của vị-kỷ. Nó là một sự vị-kỷ hiểu một cách sáng suốt.

 

Những điều trên này, chỉ tỏ rằng vị-tha và vị-kỷ không phải là hai t́nh-cảm trái ngược nhau. Thật-sự, vị-tha và vị-kỷ ḥa-hợp nhau làm một và chung-qui, vấn-đề vị-tha và vị-kỷ chỉ là một vấn-đề quan-điểm.

 

Người ta có thể cho rằng tất cả những hoạt-động của người ngay đến hoạt-động vị-kỷ, đều có tánh-cách vị-tha, v́ hoạt-động của người do thị-dục, tức là sự ưa thích mà ra.

 

Người si-t́nh yêu t́nh-nhơn, mẹ yêu con, nghệ-sĩ yêu nghệ-thuật, nhà bác-học yêu khoa-học, người nông-dân yêu mảnh đất ḿnh cày cấy, người ghiền á-phiện mê ả phù dung, những người tranh-danh đoạt lợi mê quyền-chánh danh-vị. Tất cả những người này đều sẵn sàng hy-sinh sự an-ổn, sự sung sướng, có khi cả cuộc đời ḿnh cho những cái ḿnh yêu.

 

Bù lại, người ta cũng có thể cho rằng tất cả những hoạt-động của người, ngay đến những hoạt-động vị-tha, đều có tánh-cách vị-kỷ, v́ người chỉ ưa thích cái ǵ người có thể dùng để thỏa-măn một thị-dục, một nguyện-vọng, một nhu-cầu của ḿnh và thật-sự, người chỉ yêu lấy ḿnh mà thôi.

 

Như vậy, trong sự vị-tha, có ḷng vị-kỷ, và trong sự vị-kỷ cũng có ḷng vị-tha. Nhưng chúng ta phải nhận thấy rằng lấy sự vị-kỷ  làm gốc hợp-lư hơn, v́ thật-sự người có một bản-ngă và không lúc nào có thể gạt qua một bên cái bản-ngă ấy được. V́ đó, sự vị-tha của người bao giờ cũng chỉ là một giai-đoạn trung-gian, cứu-cánh của nó luôn luôn vẫn là bản-ngă của người.

 

Sự quan-sát đă cho ta thấy rằng, sự vị-tha của người không hề đi đến những kẻ người không quen biết, những kẻ hoàn-toàn xa lạ với người. Người bao giờ cũng yêu con ḿnh hơn con người dưng, yêu công-tŕnh ḿnh hơn công-tŕnh kẻ lạ. Hơn nữa, người chỉ vị-tha khi người cần thỏa-măn một nhu-cầu, một bản-năng. Như thế, sự vị-tha bao giờ cũng có tánh-cách vụ-lợi, dầu mối lợi người nhắm vào chỉ là một mối lợi tinh-thần.

 

Tánh vụ-lợi vốn do dục-vọng người mà ra. Muốn cho người không vụ-lợi, ta phải hủy bỏ dục-vọng người. Nhưng khi người không c̣n dục-vọng, người cũng không c̣n sống, bởi lẽ, thiếu dục-vọng, sự hoạt-động của người không c̣n lư-do tồn-tại nữa.

 

Vậy, sự vị-tha luôn luôn bắt nguồn từ sự vị-kỷ. Trong trường-hợp đó, lấy vị-tha chọi lại vị-kỷ là một điều lầm lạc rất to. Những người chủ-trương hủy bỏ sự vị-kỷ, thật-sự lại làm cho họ vị-kỷ hơn. Một số học phái theo chủ-trương thế-giới cho rằng ḷng yêu thân-thuộc khiến cho người quên lăng người dưng và ḷng thương đồng-bào làm cho người bất-công với người ngoại-quốc. Họ dạy người nên hủy bỏ những ḷng thương thiên-vị ấy đi để lo cho nhơn-loại.

 

Nhưng thật-sự, những người hủy-diệt ḷng thương gia-đ́nh, tổ-quốc của ḿnh được rồi th́, lại hóa ra dửng dưng với mọi người. Không thương cha mẹ, vợ con, đồng-bào, họ không c̣n thương ai cả và dưới những khẩu-hiệu có vẻ vĩ-đại, nhưng kỳ thật th́ trống rỗng như « phụng-sự nhơn-loại », « phục-vụ nhơn-dân », họ chỉ nghĩ đến cá-nhơn họ. Sự tàn ác của những đảng-viên cộng-sản một phần do nơi chỗ họ diệt những t́nh-cảm tốt với người gần họ và thay v́ trở thành hoàn-toàn vị-tha, lại hóa ra vị-kỷ một cách hẹp ḥi.

 

Về phương-diện này, ta có thể bảo rằng Nho-giáo đă có một chủ-trương hợp-lư hơn khi dạy người đi từ chỗ gần đến chỗ xa, từ cái vị-kỷ đến cái vị-tha, bắt người tu-thân và tề-gia trước khi trị-quốc, b́nh thiên-hạ.

 

Nói tóm lại, sự vị-kỷ là một kết-quả tự-nhiên của sự sinh-tồn. Sự sinh-tồn, băt người phải vị-kỷ. Dầu muốn, dầu không, người cũng không sao thoát khỏi sự vị-kỷ ấy. Nhưng ta nên nhớ rằng có sự vị-kỷ ngu độn và sự vị-kỷ sáng suốt, có sự vị-kỷ hữu-ích và sự vị-kỷ tai-hại, có sự vị-kỷ hẹp ḥi và sự vị-kỷ rộng răi. Giá-trị đạo-đức của mỗi người thật ra chính ở chỗ người vị-kỷ một cách khôn-ngoan hay ngu dại mà thôi.

 

Một mặt khác, ta cũng không nên cho rằng, phủ-nhận sự vị-tha hoàn-toàn là không công-nhận những t́nh-cảm tốt đẹp của người. Trái lại, hiểu-biết nguồn gốc những t́nh-cảm tốt đẹp ấy là một điều cần-thiết để khêu gợi và tăng-cường nó. Không công-nhận qui-tắc dùng sự vị-kỷ để bồi đắp ḷng vị-tha th́ chẳng khác nào lấy cớ rằng phân không được thơm tho để vun bón hoa quả ḿnh trồng.

 

Cái lầm lạc của những chánh-khách và những nhà đạo-đức từ trước đến nay, là bài-xích sự vị-kỷ, và kêu gọi người phụng-sự quyền-lợi chung v́ nghĩa-vụ. Thật-sự, muốn cho người phụng-sự quyền-lợi chung, không ǵ bằng chỉ cho họ thấy rằng quyền-lợi riêng của họ nằm trong quyền-lợi chung ấy. Những chế-độ luân-lư, luật-pháp, không dựa vào sự vị-kỷ của người sẽ không có một nền tảng vững chắc và không sao phụng-sự được con người, cũng như cây cối không bón phân không thể sản-xuất được những hoa thơm quả ngọt vậy.

 

III.- ĐIỀU-KIỆN CỐT-YẾU CHO SỰ SINH-TỒN CỦA NGƯỜI : LUẬT TRANH-ĐẤU.

 

Ta đă nhận thấy rằng v́ kết-cấu của cơ-thể và tâm-hồn ḿnh, v́ bản-tánh ḿnh, người luôn luôn hoạt-động để sinh-tồn. sự sinh-tồn là cái động-lực duy-nhứt, cái mục-đích hồn-nhiên đại-đồng và vĩnh- viễn của loài người, dầu họ có ư-thức hay không cũng vậy. Giờ ta hăy xem người phải làm ǵ và phải tuân theo những điều-kiện ǵ trong sự hoạt-động để đạt mục-đích ấy. Sự quan-sát đời sống quanh ta giúp ta thấy ngay cái định-luật thiên-nhiên chi-phối sự hoạt-động của người : luật tranh-đấu.

 

A.- LƯ-DO TRANH-ĐẤU VÀ ĐỐI-THỦ CỦA NGƯỜI.

 

Vật-chất vốn tự nó không bao giờ bất-động. Trên thế-giới, ta không bao giờ t́m được một thế quân-b́nh ổn-định. Mọi sự vật đều gồm có những lực khác nhau hướng theo nhiều lối khác nhau và tác-động lẫn nhau.

 

So với các vật-chất thường, sanh-vật lại càng hoạt-động nhiều hơn, v́ sự sống cốt là một hoạt-động định hướng nhắm vào mục-đích tự phát-triển. Trong một đám rừng, các loài thảo mộc cầm thú đều có tự-động để bành-trướng. Người tự-nhiên không thoát khỏi công-lệ hoạt-động này.

 

Đời sống sanh-lư của người chung-qui chỉ là một chuỗi dài giao-hoán hóa-hợp. Nó bị sự chi-phối của những cuộc xung-đột giữa các lực khác nhau. Nền tảng đời sống tâm-lư của người là những bản-năng tạo ra nhiều nhu-cầu dục-vọng, nhiều ư-lực cạnh-tranh nhau để chiếm địa-vị ưu-thế. Đứng về phía trí-tuệ mà nói, người chỉ có ư-thức được nhờ sự hiện-diện của hai yếu-tố khác nhau. Một cảm-giác đồng đều măi th́ người không thể nhận-thức được. Muốn cho ư-thức người chổi dậy, phải có sự thay đổi, phải có sự đụng chạm giữa trạng-thái đương-hữu, và một trạng-thái mới. Xét về mặt đạo-đức, lưong-tâm người thường phải chứng-kiến sự xung-đột giữa những nhiệm-vụ khác nhau, những tư-tưởng đối chọi nhau. Sau hết, muốn tự duy-tŕ, cá-tánh người cũng phải đương đầu với những yếu-tố ngoại lai và những nguyên-nhơn nội-bộ làm cho nó biến-đổi. Những điều-kiện trên này chỉ rằng con người đă tự ḿnh gồm nhiều lực khác xung-đột lẫn nhau.

 

Trong sự hoạt-động của người để sinh-tồn, sự xung-đột lại càng rơ rệt hơn nữa. Muốn sống, trước hết, người phải bảo-vệ thân ḿnh và nuôi dưỡng nó. Người muốn chống chọi lại các mối nguy có thể làm hại mạng ḿnh và t́m những món ăn uống cho no đủ.

 

Những lực-lượng có thể làm hại đến người, cũng như những vật-liệu cần-thiết cho sự bảo-dưỡng thân người đều ở trong thiên-nhiên, trong loài cầm thú, với những vật-chất hữu-h́nh và những lực-lượng vô-h́nh của nó, vừa có thể hại đến mạng người, vừa có thể cung-ứng những vật-liệu cần-thiết cho người. Người một mặt phải t́m cách chống lại những vận-động của thiên-nhiên có hại đến ḿnh, một mặt phải ra công t́m kiếm trong thiên-nhiên những món cần cho sự sống của ḿnh và bắt buộc nó phải cung-nạp cho ḿnh.

 

Đối với những loài động-vật khác, cũng như đối với thiên-nhiên, người vừa phải giữ cho nó không hại đến ḿnh, vừa phải t́m cách giết nó hay chế-ngự nó để lấy xác thịt nó mà dùng, hay bắt nó phụng-sự ḿnh.

 

Những vật-liệu cần-thiết cho người không phải luôn luôn phong-phú, có đủ cho tất cả mọi người. Muốn giành lấy phần cần-thiết cho ḿnh, người phải tranh nhau với người khác.

 

Nhưng sự cần dùng của người không phải chỉ thâu vào trong phạm-vi vật-chất. Ngay trong sự t́m lấy những vật-liệu hữu-ích cho ḿnh, người bao giờ cũng có xu-hướng muốn được cái ngon nhứt, đẹp nhứt.

 

Trong lănh-vực tinh-thần, người có những ư-tưởng, những t́nh-cảm. Những ư-tưởng, những t́nh-cảm của người này không phải luôn luôn giống những ư-tưởng, t́nh-cảm của người khác. Người không những muốn được tự-do phát-biều những ư-tưởng, những t́nh-cảm của ḿnh, mà c̣n lại muốn rằng những ư-tưởng ấy được người khác noi theo, những t́nh-cảm ấy được người khác kính nể. Điều này cũng bắt buộc người tranh nhau với người khác.

 

Nói tóm lại, muốn sống người phải tranh nhau, mà muốn cho sức sống ḿnh tràn ra ngoài bản-thân ḿnh, người cũng phải tranh nhau.

 

Như thế, trong sự hoạt-động để sinh-tồn, người luôn luôn gặp những phản-động-lực. Dầu cho người hoạt-động một ḿnh hay hoạt-động chung với nhiều người khác, bao giờ người cũng gặp những trở-lực hay những địch-thủ chống lại ḿnh. Điều này đúng cho đến nỗi người ta có thể lấy sự tranh-đấu làm đặc-điểm cho sự sinh-tồn. « Sống, tức là tranh-đấu ». Đó là một sự thật có một giá-trị tuyệt-đối muôn đời.

 

Từ khi xuất-hiện trên thế-giới đến giờ, người phải luôn luôn tranh-đấu chưa lúc nào ngừng. Người phải tranh đầu với thiên-nhiên, với loài cầm thú, với người đồng-loại. Ba sự tranh-đấu này có một lượt với nhau chớ không phải chia ra thành thời-kỳ, trong mỗi thời-kỳ người phải tranh-đấu với một lực-lượng như Tôn Văn đă nói trong chủ-nghĩa Dân-quyền. Một người dă-man thuở trước cũng như một người văn-minh hiện giờ vừa phải t́m cách tránh mưa nắng, bịnh tật, vừa phải ăn thịt những loài cầm thú và giữ cho nó khỏi ăn thịt ḿnh, vừa phải cạnh-tranh với đồng-loại để t́m đủ những nhu-cầu thiết-yếu cho ḿnh, để khỏi phải tùng-phục họ và bắt họ tùng-phục ḿnh. Người từ trước đến nay đă phải tranh-đấu với ba lực-lượng ấy, người hiện đương phải tranh-đấu và sau này sẽ tranh-đấu măi măi với nó để sinh-tồn.

 

Ngoài ra, lại c̣n h́nh-thức tranh-đấu nữa dành cho những người có một tŕnh-độ khá cao rồi : ḿnh tranh-đấu với ḿnh để chế-ngự những khuynh-hướng thấp kém của ḿnh, để tự bắt buộc ḿnh theo một qui-phạm ḿnh nêu ra. Tánh-cách tranh-đấu của sự tự tu đă hiện ra rơ rệt trong những kinh sách của các tôn-giáo. Người ta đă dùng nhiều từ ngữ chiến-tranh để dạy người theo đạo. Người ta đă nói đến việc dùng gươm trí-tuệ cắt đứt trần-duyên, việc diệt-trừ lục-tặc, việc đấu-tranh với ác-quỉ để giữ thiên-lương.

 

B.- NHỮNG H̀NH-THỨC TRANH-ĐẤU.

 

1.- NHỮNG CUỘC TRANH-ĐẤU BẠO TỢN.

 

Đời sống của người từ ngàn xưa đến giờ, chỉ duy-tŕ được bằng cái chết của bao nhiêu cầm thú, cây cỏ, bằng sự hủy-diệt không biết bao nhiêu vật-liệu. Người phá-hoại để tự-vệ, để tự dinh-dưỡng, tự điều-trị, để trang-phục, để xây dựng và trang-hoàng nhà cửa, để học hỏi và để quảng-bá tư-tưởng ḿnh. Người lại c̣n phá-hoại để vui chơi : những cuộc săn bắn câu kéo bao giờ cũng có người mê thích.

 

Đối với đồng-loại, người cũng có bao nhiêu lư lẽ để tấn công : người đă công kích đồng-loại để ăn thịt họ, để bắt họ làm nô-lệ cho ḿnh, để cướp bóc họ, để thỏa-măn ḷng căm hận, để có quyền được yêu, để giành lấy chánh-quyền và hưởng những mối lợi to tác mà chánh-quyền đem đến. Người đă nhơn danh-nghĩa của những ư-tưởng tôn quí, những tín-ngưỡng cao-siêu mà giết nhau. Người đă xung-đột nhau v́ tôn-giáo, v́ lư-tưởng, v́ đạo-đức. Người đă từng đánh nhau v́ tánh hiếu-chiến, người đă đánh nhau để xây dựng ḥa-b́nh.

 

Những cuộc chiến-tranh đẫm máu giữa các dân-tộc, các quốc-gia thật là không kể xiết : nó là yếu-tố chánh của lịch-sử loài người từ đời thái-cổ cho đến ngày nay. Sự chiến-tranh có tánh-cách cần-thiết đối với người cho đến người xem nó là một định-luật thiên-nhiên. Trong hầu hết các tôn-giáo ngày xưa, những vị thần oai-quyền nhứt là những vị chủ về việc chiến-tranh.

 

Những cuộc chiến-đấu giữa người trong một nước để giành chánh-quyền, để có một địa-vị ưu-thắng, để giải-phóng những kẻ bị áp-bức, để chinh-phục tự-do, để bành-trướng tôn-giáo cũng tàn ác và thường xảy ra như những cuộc chiến-tranh giữa các chủng-tộc.

 

2.- NHỮNG CUỘC TRANH-ĐẤU ÔN-H̉A.

 

Kế bên những cuộc chiến-tranh có tánh-cách bạo tợn trên này, lại c̣n những cuộc tranh-đấu ôn-ḥa hơn.

 

Việc xây dựng nhà cửa để tránh mưa tránh nắng cũng như việc canh-tác để có nông-sản làm lương-thực hay làm vật-liệu kỹ-nghệ, đều bắt buộc người phải cố-gắng đối chọi lại thiên-nhiên. Đối với cầm thú, người không phải chỉ sát-phạt mà thôi, người c̣n biết chăn nuôi nó để nhờ nó giúp ḿnh trong nhiều công việc.

 

Giữa người với người, sự hoạt-động không phải luôn luôn đưa đến chỗ giết hại nhau. Các dân-tộc có thể cạnh-tranh nhau về mặt kinh-tế ; họ cố tranh thị-trường, cố tạo những hàng-hóa rẻ và đẹp để bán chạy hơn nước khác.

 

Bên trong một dân-tộc, người cũng có thể tranh-đấu nhau một cách ḥa-b́nh. Những chánh-khách ở càc nước dân-chủ cạnh-tranh nhau trong những cuộc vận-động tuyển-cử, những đoàn người khác nhau đều cố-gắng để đưa đại-biểu vào nghị-viện hay đưa nhơn-viên vào chánh-phủ hầu bảo-vệ quyền-lợi ḿnh. Ngay trong các tu-viện, những tu-sĩ cũng cố để hơn nhau, mặc dầu họ đă từ khước cuộc đời và hướng về Thượng-Đế.

 

Ta có thể nói tóm lại, rằng trong bất cứ sự giao-thiệp nào giữa người với người cũng có sự tranh-đấu. Ngay đến vợ chồng, cha con trong nhà cũng phải có sự tranh-đấu với nhau để binh vực cá-tánh ḿnh.

 

C.- HIỆU-QUẢ CỦA SỰ TRANH-ĐẤU VÀ SỰ QUAN-TRỌNG CỦA NÓ.

 

Tất cả những cuộc tranh-đấu của người, tranh-đấu bạo tợn cũng như tranh-đấu ôn-ḥa, đều gồm có hai yếu-tố sau đây : sự hiện-hữu của hai hay nhiều lực khác nhau, về một ư-tưởng về một hay nhiều mối lợi làm phần thưởng cho sự tranh-đấu. Dầu dùng phương-tiện ǵ, những đối thủ tranh-đấu nhau cũng nhờ sự tranh-đấu quyết-định xem kẻ nào được quyền hưởng những mối lợi họ thèm muốn như nhau. Và kết-quả, ngay trong những cuộc tranh-đấu có tánh-cách ôn-ḥa, hay là sự suy-vi của  người thất-bại.

 

Thật-sự, th́ người bị dồn vào một t́nh-thế quyết-liệt không thể tránh được ; chiến-thắng hay chết nếu không thể sống nhục. Người không thắng được thiên-nhiên th́ thiên-nhiên hại mạng người, người không săn ác thú th́ ác thú ăn thịt người, người không chế-ngự được sự hoạt-động của đồng-loại th́ sự sinh-tồn của người phải bị uy-hiếp. V́ lẽ sự sinh-tồn của người bắt buộc người phải triệt-hạ đối-thủ, nó có tánh-cách xâm lấn và thường đưa đến sự sát-phạt.

 

Trong một cuộc tranh-đấu quyết-liệt có quan-hệ đến sự sống c̣n của người, thường người ta thấy có thể xuất-hiện một thời-kỳ gọi là thời-kỳ khủng-hoảng. Trong thời-kỳ này, sanh-vật thấy nguy-hiểm đến ḿnh hay cảm thấy mất tất cả sự cần dùng thủ thắng. Bản-năng sinh-tồn của nó bị kích-thích mănh-liệt. Tất cả sanh-lực của nó tập-trung lại và giúp nó đánh một phát cuối cùng để thủ thắng hay tháo thân.

 

Nhờ sự tập-trung sanh-lực này, sanh-vật có thể làm được những việc khó khăn mà b́nh-thường nó không làm được. Một bài thơ ngụ-ngôn Pháp kể chuyện con chiên gặp mưa, nghe tiếng sấm sét ́ ầm th́ hoảng-hốt chui vào bụi gai, không sợ đau đớn. Đến khi mưa tạnh, nó sợ gai móc không dám chun ra.

 

Trong chuyện tiếu-lâm của ta cũng có chuyện anh học nghề ăn trộm bị chủ nhà rượt, phải chun vào bụi gai, rồi không ra được. Đến sáng, anh ta gặp thầy đi kiếm, mới năn nỉ ông này phác sạch gai cho ḿnh ra. Nhưng ông này chỉ cần la to lên : « Bớ người ta, thằng ăn trộm đây rồi ! " để khiến cho anh ta vọt ra khỏi bụi gai mà chạy về nhà.

 

Những câu chuyện trên đây không phải chỉ là chuyện bịa, nó miêu-tả một trạng-thái có thật của cuộc chiến-đấu. Trong khi người say mê tranh-đấu và bị kích-thích, những khả-năng tiềm-thế của người có thể bộc-phát và làm người tự vượt lên trên giá-trị b́nh-thường của ḿnh. Những kẻ nhảy xuống sông hay xông vào lửa để cứu người, những chiến-sĩ xông xáo trên băi chiến-trường mặc dầu đă bị thương, đều ở vào t́nh-trạng trên đây.

 

Như vậy, sự tranh-đấu có thể đem nguy-hiểm đến cho người, nếu có khiến cho người sát-phạt sanh-vật khác, cũng mang đến cho người ngoài cái lợi mà sự chiến-thắng đưa đến cho người : đó là sự tiến-hóa của người. Nó làm phát-triển những khả-năng tiềm-thế, và khiến cho người giỏi hơn, tự-tin nơi ḿnh hơn.

 

Sự xung-đột giữa các khuynh-hướng cao và thấp của người có ư-thức, có thể kiện-toàn tinh-thần đạo-đức của người. Sự xung-đột giữa các ư-tưởng khác nhau trong trí óc người cũng làm cho trí-tuệ người mở mang thêm. Về phương-diện xă-hội, ta có thể bảo rằng, chính sự cần dùng tranh-đấu đă bắt con người hợp-quần nhau lại. Các bộ-lạc, tiểu-bang, quốc-gia, dân-tộc, chỉ thành-lập được nhờ sự cần dùng phải tự vệ đối với các đoàn-thể người khác, hay để tấn-công các đoàn-thể ấy.

 

Trong lịch-sử, quá-khứ, những chủng-tộc đă đóng một vai tuồng trong sự tiến-hóa của nhơn-loại đều là những chủng-tộc tổ-chức theo lối quân-sự. Sự vận-dụng hết nhơn-lực và tài-lực của đoàn-thể để đối-phó với địch-thủ đă làm cho cả xă-hội tiến lên về phương-diện tổ-chức, cũng như về phương-diện kết-quả vật-chất và tinh-thần thâu-hoạch được. Như thế, ta có thể quả-quyết rằng sự tranh-đấu không những là điều-kiện căn-bản của sự sinh-tồn, mà c̣n là điều-kiện cốt-yếu của sự tiến-hóa nữa.

 

Sự tranh-đấu tất-yếu cho sự sinh-tồn đến nỗi nó tạo cho người một bản-năng đặc-biệt là bản-năng tranh-đấu. Nó gây cho người ư muốn chiến-thắng trong mọi hoạt-động, ngay trong những tṛ chơi, ngay trong những hành-động có vẻ không vụ-lợi. Thật ra, đối với một số đông người, không có ǵ thích- thú mê say cho bằng sự tranh-đấu. Ta chỉ cần nh́n một người cờ bạc, tay run run khi dở mấy quân bài th́ thấy rơ sự quan-trọng của tinh-thần tranh-đấu ngay trong sự vui chơi. Ḷng ganh tị, sự thèm muốn bằng hay hơn kẻ khác, tánh hay châm-biếm để hạ kẻ khác đều dính dáng đến bản-năng tranh-đấu này và thấm nhuần tất cả hoạt-động của người.

 

Nói tóm lại, sự tranh-đấu sinh-tồn là một định-luật cốt-yều của đới sống con người. Đó là một hiện-tượng đại-đồng, tuy có thể mang nhiều tên khác nhau : xung-đột, cạnh-tranh, chiến-đấu, tranh-đấu. Thật ra, nó có hiện-tượng duy-nhứt có tánh-cách đại-đồng trong lịch-sử. Nó là định-luật bao quát được tất cả các thời-đại. Nó là cái động-lực đă hướng-dẫn tất cả những hành-vi của loài người, nó là cái ch́a khóa giải-thích tất cả những biến-cố lịch-sử.

 

Giai-cấp tranh-đấu chỉ là một phần của cuộc sinh-tồn tranh-đấu mà thôi. Nó chỉ là sự tranh-đấu giữa người với người bên trong xă-hội. Nó sở-dĩ phát-sanh là v́ sự sinh-tồn của một số đông người bên trong xă-hội bị uy-hiếp thái quá. Vậy, nó chỉ là một cái bịnh của sự sinh-tồn, chớ không phải là một nguyên-động-lực làm trung-tâm-điểm cho sự hoạt-động của con người. V́ thế, nó không giải-thích được những cuộc tranh-đấu đă xảy ra trong lịch-sử loài người, giữa những dân-tộc, những tư-tưởng, những tôn-giáo khác nhau. Chỉ có sự sinh-tồn tranh-đấu mới giải thích đủ được hết các cuộc xung-đột giữa loài người ; nó bao gồm cả giai-cấp tranh-đấu, dân-tộc tranh-đấu, tư-tưởng tranh-đấu, tôn-giáo tranh-đấu v.v…

 

IV.- ĐIỀU-KIỆN THẮNG-LỢI TRONG CUỘC TRANH-ĐẤU : SỨC MẠNH VÀ QUAN-NĂNG     BIẾN-CẢI.

 

A.- LUẬT SỨC MẠNH.

 

Muốn sinh-tồn, người phải tranh-đấu. Sự thất-bại trong cuộc tranh-đấu, dầu là cuộc tranh-đấu ôn-ḥa, nhứt-định đưa người đến chỗ suy-vi. V́ thế, người không phải chỉ cần tranh-đấu mà thôi, người c̣n phải thắng-lợi trong sự tranh-đấu nữa. Sự tranh-đấu vốn hàm ư xung-đột giữa hai hoặc nhiều lực, và trong sự xung-đột này, tất-nhiên lực nào mạnh hơn phải thắng-thế. Vậy, khi đă chấp-nhận rằng tranh-đấu là cần-thiết, ta cũng phải chấp-nhận luật thắng-lợi của kẻ mạnh. Vấn-đề sức mạnh thật ra chỉ có thể là một vấn-đề tương-đối : kẻ thắng là kẻ mạnh hơn người bại « mạnh được, yếu thua », đó là một công-lệ xưa nay, không ai phủ-nhận được.

 

1.- ĐẠI-LƯỢC VỀ SỨC MẠNH.

a)- LỰC VẬT-CHẤT.

 

Nói đến sức mạnh, người ta nói đến sức mạnh vật-chất trước hết, v́ trên đời, chỉ có những tác-động vật-chất mới đưa đến những hậu-quả rơ ràng. Lẽ cố nhiên là sức mạnh này ở ngay trong vật-chất. Cứ như lời các nhà vật-lư th́ thế-giới vật-chất hoàn-toàn bị sự chi-phối của các lực.

 

Ư-niệm về lực thật ra chỉ là một quan-niệm siêu h́nh. Theo định nghĩa của các nhà khoa-học, lực là cái nguyên-nhơn có thể làm cho các vật-chất hoạt-động. Như thế nó không phải là một vật cụ thể.

 

Tuy nhiên, ta vẫn có thể chấp-nhận ư-niệm về lực, v́ ta có thể qui các lực về những biểu-lộ vật-chất mà ta kiểm-soát, đo lường được. Về phương-diện khoa-học, người ta nhận-định ra các lực nhờ sự gia- tốc, sự thay đổi tốc-độ, và đo lường các lực ấy bằng số công cung-cấp .

 

Như thế, thật ra, người chỉ nhận-thức và đo lường những hiện-tượng do lực gây ra, nhưng điều này đủ cho ta thấy rơ rằng lực vốn có.

 

Sự quan-sát chỉ tỏ rằng các hiện-tượng biểu-hiệu của lực kể ra trên này đều có trong nền tảng của mọi thực-tại. Một đồ vật có thể xem như là một tổng-số của những đặc-tánh vật-lư, tức là những khả-năng tác-động và phản-động của nó đối với ngoại-giới. Thêm nữa, tất cả các đơn chất đều có thể qui-định được nhờ một đặc-tánh chung : trọng-lượng nguyên-tử, vốn cũng là một lực. Sau hết, người ta cũng đă phân-tích đến nguyên-tử và t́m thấy rằng nó là một hệ-thống điện-lực.

 

Vậy, lực là một yếu-tố làm cơ-sở cho cả vật-chất. Mọi vật tác-động được đều do lực, mà các vật ta thấy bất-động, thật ra cũng do lực chi-phối, v́ sự bất-động chỉ là một trạng-thái quân-b́nh tạm-thời giữa các lực đồng sức nhau và chế-ngự nhau. Một số nhà bác-học cho rằng những phản-ứng hóa-hợp cũng chỉ là sự cảI-tổ những nhóm lực đặc-biệt. Như thế trong giới vật-chất, tất cả đều qui về lực vật-chất. Đối với những nhà khoa-học, nó là thực-tại nguyên-thủy vậy.

 

b)-SỨC MẠNH THỂ -CHẤT VÀ TINH -THẦN CỦA NGƯỜI.

 

Người vốn có một cơ-thể, tức là một khối vật-chất có thể tác-động trên các vật-chất khác. Ta đă thấy rằng, lực là cái nguyên-nhơn làm cho các vật hoạt-động. Với tay, chơn, thân-thể ḿnh, người có thể làm cho những vật quanh ḿnh di-động hay biến-tánh đi. Vậy, cơ-thể người có một cái lực, lực đó là sức mạnh thể-chất của người. Nó tùy theo kết-cấu của bắp thịt, của bộ xương, của các khí-quan, tùy theo sự di-truyền, sự phát-dục và sự tập-luyện của người mà to nhỏ khác nhau cho từng người một.

 

Nh́n người đang cử-động, ta thấy sức mạnh thể-chất trước hết. Do đó, khi  nói đến sức mạnh của người, người ta thường nghĩ đến sức mạnh thể-chất ấy. Nhưng người vốn là một sanh-vật cao-đẳng và những khả-năng đặc-biệt của người c̣n giúp cho người một sức mạnh khác nữa mà ta gọi là sức mạnh tinh-thần.

 

Ta đă biết rằng, về phương-diện tâm-lư, hành-động của người bị các bản-năng và khuynh-hướng chi-phối. Bản-năng là nguyên-lư hoạt-động của người, chính nó điều-khiển và sử-dụng được sức mạnh thể-chất của người trong các hành-động vô ư-thức cũng như các hành-động ư-thức.

 

Những khả-năng của tâm-hồn người vốn cũng tùy-thuộc các bản-năng, và cũng có đóng một vai tuồng trong sự thúc đẩy người hoạt-động. Lư-trí người không phải chỉ phân-biện, phán-đoán mà thôi, nó c̣n biết chọn lựa tức là hướng người về một đối-tượng sau khi phán-đoán. T́nh-cảm người thường giữ nhiệm-vụ của một yếu-tố điều tiết để kích-thích hay kềm chế các năng-lực của người và thúc giục người hành-động. Ư-chí của người, một mặt, giúp lư-trí trong sự quyết-định việc chọn lựa đối-tượng, một mặt, giúp t́nh-cảm trong sự vận-dụng các năng-lực của người, và duy-tŕ sự tác-động của người đến một mực nào đó.

 

Nếu ta dựa vào định-nghĩa đă nêu ra trên đây, theo đó, lực là cái nguyên-nhơn làm cho các vật hoạt-động, ta có thể bảo rằng, bản-năng của người cùng với lư-trí, t́nh-cảm và ư-chí của người có thể đều được xem là những lực, v́ nó khiến cho người hoạt-động. Một số những lực này có tánh-cách đặc-biệt mà vật-chất ngay đến các loài động-vật khác đều không có. Như thế, người ta rất hữu-lư mà nhận rằng người có một sức mạnh đặc-biệt gọi là sức mạnh tinh-thần.

 

Sức mạnh tinh-thần của người tự-nhiên có liên-quan  với sức mạnh thể-chất một cách chặt chẽ. Nó phải dựa vào cơ-thể người mới biểu-lộ ra được, và muốn ảnh-hưởng đến ngoại-giới, nó phải nhờ đến sức mạnh thể-chất của người. V́ đó, sự phân-biệt phần sức mạnh thể-chất với phần sức mạnh tinh-thần trong một cử-động của người hết sức khó khăn. Tuy nhiên, không phải v́ thế mà ta có thể qui sức mạnh tinh-thần của người về sức mạnh thể-chất.

 

Trước hết, nếu sức mạnh thể-chất là cái lực tác-động ra ngoại-giới, sức mạnh tinh-thần lại có thể xem như là cái lực tác-động trên con người, để người sử-dụng sức mạnh thể-chất của ḿnh.

 

Một mặt khác, v́ cơ-thể người có những tánh-cách đặc-biệt làm cho nó phân-biệt với vật-chất thường, sức mạnh tinh-thần của người cũng có những tánh-cách đặc-biệt làm cho nó phân-biệt với các lực vật-chất.

 

Các lực vật-chất vốn diễn-tiến một cách máy móc, không cứu-cánh, không ư-thức, và thúc đẩy các khối vật-chất với một hiệu-quả luôn luôn đồng đều, làm cho người ta có thể dự đoán những kết-quả một cách dễ dàng. Trong khi đó, sức mạnh tinh-thần của người chẳng những nhắm vào một cứu-cánh mà lại có thể nhờ ư-thức mà thay đổi các mục-tiêu cần đạt, để sau cùng tiến đến cứu-cánh trên đây. Nó lại có thể huy-động hết sức mạnh thể-chất hiện có của người, và làm phát-khởi những khả-năng tiềm- tàng trong cơ-thể để tăng-gia sức mạnh thể-chất của người. Ta có thể bảo rằng, sức mạnh tinh-thần của người gán thêm cho sức mạnh thể-chất một chỉ-số  đặc-biệt tùy người, khiến cho hiệu-quả của sức mạnh thể-chất không cân-phân với sức mạnh cân-lực mà ta phỏng-đoán nơi mỗi người.

 

Xét về bản-chất, sức mạnh thể-chất của người có thể so sánh với lực vật-chất được, v́ người ta có thể đo lường nó như người ta đă đo lường các lực vật-chất. Sức mạnh tinh-thần của người v́ tánh-cách đặc-biệt của nó nên không thể đo lường được. Nó biến sức mạnh thể-chất thành một sức mạnh đặc-biệt khác với lực vật-chất ở chỗ hiệu-quả nó thay đổi tùy lúc một cách bất ngờ. Trong sự tác-động trên thế-giới vật-chất, sức mạnh tinh-thần của người giúp người nhận-thức các lực thiên-nhiên, và dùng sức mạnh thể-chất của ḿnh mà vận-dụng những lực thiên-nhiên ấy trong sự đối-phó với những lực thiên-nhiên khác để đem phần thắng-lợi về ḿnh.

 

2.- VAI TUỒNG CỦA SỨC MẠNH TRONG SỰ TRANH-ĐẤU.

 

Thế-giới vật-chất có thể qui về các lực vật-chất, c̣n người th́ có sức mạnh thể-chất và sức mạnh tinh-thần. Như thế, cả thực-tại đều lấy lực hay sức mạnh làm gốc, và sức mạnh tự-nhiên trở thành một yếu-tố quan hệ trong sự tranh-đấu.

 

Trong những cuộc tranh-đấu bạo tợn giữa loài thú, ta phải công-nhận sức mạnh thể-chất là yếu-tố đáng kể hơn hết. Giữa hai con thú tranh-đấu nhau, con nào có một thể-xác to hơn, có một sức mạnh cơ-thể dồi dào hơn thường nắm phần thắng-lợi. Tuy nhiên, ta đă có thể nhận thấy, trong đó có một vài yếu-tố khác phụ thêm vào như sự hướng về một chủ-đích, trí khôn, và ḷng can-đảm. Những yếu-tố này là mầm mống của sức mạnh tinh-thần. Nhưng ở loài thú, nó chưa phát-triển đến mức cải-biến sức mạnh thể-chất và đóng một vai tuồng trọng-yếu như ở con người.

 

Trong sự tranh-đấu của người, sức mạnh thể-chất vẫn c̣n quan-trọng. Những người có một cơ-thể cường-tráng th́ chống chọi lại thiên-nhiên với nhiều hy-vọng thắng-lợi hơn những người ươn yếu. Họ đương đầu với sự thay đổi thời-tiết, với mưa nắng, với bịnh tật, và thực-hiện những dự định của họ trong sự chế-ngự thiên-nhiên, bắt buộc thiên-nhiên cung-ứng cho ḿnh những món ḿnh cần dùng một cách dễ dàng hơn.

 

Tuy thế, với người, vai tuồng của trí óc đă mở mang đến một mức hết sức rộng răi. những tri-thức, kỹ-thuật, sự khéo léo, óc sáng-kiến là những yếu-tố giúp người rất nhiều trong sự thắng-lợi. Những đức-tánh tốt như ḷng can-đảm, óc nhiệt-tín, tánh kiên-nhẫn, sự phục-tùng kỹ- luật cũng vô-cùng hữu-ích cho người. Như vậy, sức mạnh tinh-thần của người đă tham-dự một phần lớn vào sự tranh-thắng của người. Nó làm cho những người yếu đuối có thể thâu-hoạch một kết-quả tốt hơn những người mạnh khỏe. Một người nhỏ bé khôn ngoan và kiên-nhẫn thường tạo được nhiều công-tŕnh hữu-ích hơn một người to lớn, nhưng đần độn hoặc không tŕ chí.

 

Người ta có thể bảo rằng trong phần lớn những cuộc tranh-đấu giữa người với thiên-nhiên, thật-sự chỉ có những lực-lượng vật-chất chống lại lực-lượng vật-chất : chính những dụng-cụ, mày móc và những năng-lực vật-chất mà dụng-cụ và máy móc ấy cung-cấp  cho người đă chế-ngự được những lực-lượng thiên-nhiên đối thủ của người.

 

Nhưng thật-sự, việc chế-tạo và sử-dụng những dụng-cụ, máy móc, việc nhận-thức được những lực-lượng thiên-nhiên và phương-pháp ích-dụng những lực-lượng ấy một cách có lợi cho người, không thể xem là một tác-động của sức mạnh thể-chất được.

 

Một mặt khác, cùng với những dụng-cụ máy móc như nhau, những người có một sức mạnh thể-chất ngang nhau có thể đi đến những kết-quả khác nhau, v́ trí tuệ và đức-tánh họ không bằng nhau.

 

Sau hết, có những trường-hợp trong đó sức mạnh tinh-thần đóng một vai tuồng quyết-định : nhiều người bịnh nặng hoặc tàn-tật chỉ nhờ một nghị-lực cương-cường mà thoát chết, hay cử-động một cách gần như b́nh-thường được.

 

Như vậy, ta không phủ-nhận được vai tuồng cốt-yếu của sức mạnh tinh-thần trong sự tranh-đấu giữa người với thiên-nhiên.

 

Vai tuồng cốt-yếu càng hiện ra rơ rệt trong sự tranh-đấu giữa người và loài cầm thú. Sức mạnh thể-chất của người vốn kém cỏi hơn sức mạnh thể-chất nhiều loài khác. Lúc hăy c̣n thấp kém như các thú ấy, người phải chật vật vô-cùng mới khỏi phải chết v́ chúng. Nhưng nhờ sự mở mang của trí khôn, nhờ những đức-tánh tinh-thần quí báu, người đă lần lần tiến lên địa-vị ưu-thắng. Hiện nay, người có thể tiêu-diệt các loài thú dữ một cách dễ dàng và bắt được nhiều loài thú khác phục-dịch ḿnh.

 

Trong những cuộc tranh-đấu giữa người với người, giá-trị của sức mạnh tinh-thần lại càng gia-tăng vạn-bội. Ta có thể bảo rằng, không có cuộc tranh-đấu nào giữa người với người mà không có sự tham-dự của sức mạnh tinh-thần. Theo lư đương-nhiên th́ hai người đánh nhau, người to lớn hơn, nắm phần ưu-thế hơn, và trong hai khối người tranh-chiến nhau, khối đông hơn có nhiều hy-vọng thắng-lợi hơn. Nhưng với ḷng can-đảm, với chí quyết-thắng, với kỹ-thuật tranh-đấu cao hơn, một người yếu đuối có thể hạ được một người to lớn hơn. Với một kỹ-luật chặt chẽ hơn, một tinh-thần tác-chiến cao hơn hoặc những khí-giới tinh-xảo hơn, một đạo quân nhỏ có thể thắng một đạo quân lớn hơn ḿnh. Tài những người chỉ-huy quân-sự ngày xưa đến nay vẫn làm cho binh-sĩ phấn-khởi lên, mang hết năng-lực ḿnh ra bỏ vào cuộc chiến-đấu, và tập-trung các năng-lực này ghép lại vào sức tàn-phá do khí-giới cung-cấp  cho ḿnh, rồi điều động khối lực-lượng trong tay ḿnh như thế nào cho nó có hiệu-lực tối-đa, tràn ngập cả lực-lượng của địch.

 

Nếu trong những cuộc tranh-đấu bằng bạo-lực, sức mạnh tinh-thần đă có đóng một vai tuồng quan-trọng và nhiều khi chuyển bại thành thắng được, th́ trong những cuộc tranh-đấu ôn-ḥa, sức mạnh tinh-thần càng trở thành chủ-yếu.

 

Sự học hỏi, t́m ṭi, sự khảo-cứu phát-minh, phần lớn dựa vào trí-tuệ và những đức-tánh của người. Những hoạt-động kinh-tế có mục-đích vận-dụng vật-chất, những sự cạnh-tranh kinh-tế càng ngày càng có tánh-cách kỹ-thuật và kêu gọi đến sức mạnh tinh-thần nhiều hơn thể-chất của người.

 

Trong những cuộc hoạt-động chánh-trị ở các nước dân-chủ, sự thắng-lợi nghiêng về số đông. Nhưng muốn cho số đông theo ḿnh, một chánh-đảng cần phải có tổ-chức, có kỷ-luật, có một chương-tŕnh hoạt-động thích-hợp với t́nh-thế, một hệ-thống lư-luận chặt chẽ và hấp-dẫn. Xă-hội càng tiến-bộ th́ sự tổ-chức và lư-thuyết chánh-trị càng cần-thiết để nắm được số đông, hầu thắng-lợi trong trường chánh-trị.

 

Sau hết, trong xă-hội loài người, lại c̣n một sức mạnh minh mông là sức mạnh của dư-luận. Ḷng tin tưởng chung có thể thúc đẩy hàng triệu người đương đầu với sự nguy-hiểm để tranh-chiến nhau, hay để đeo đuổi những công việc vĩ-đại, lắm khi điên rồ. Bầu không khí hăng hái hay thất-vọng, làn sóng căm hận hay cảm kích tràn lan trên một dân-tộc có thể  đưa đến những biến-cải khổng-lồ. Những cuộc thánh-chiến thời xưa là kết-quả ḷng cảm-kích của những dân-tộc cuồng-tín muốn mở rộng mối đạo của ḿnh. Phong-trào duy-tân mấy thế-kỷ gần đây đă làm thay đổi hẳn xă-hội nhiều nước vùng Trung-Đông và Viễn-Đông.

 

Dư-luận c̣n tạo ra phong-tục tập-quán, uốn nắn con người theo khuôn khổ ḿnh. Nó đă đóng một vai tuồng quan-trọng trong sự chế-ngự và điều-khiển sự phát-hiện các bản-năng của người. Mặc dầu đều có bản-năng t́nh-dục như nhau, người dân-tộc này có thể hoàn-toàn khác người dân-tộc kia trong sự phát-biểu ḷng yêu đương và trong sự thiết-lập gia-đ́nh. Chính dư-luận trong nhiều xă-hội đă bắt người con gái phải giũ tiết-trinh, người đàn bà trung-thành với chồng, và người quả-phụ thủ-tiết với chồng quá-văng. Ở Ấn-Độ ngày xưa, dư-luận cho rằng người quả-phụ xứng đáng phải tự thiêu theo chồng, và mặc dầu luật-pháp không hề bắt buộc, rất nhiều quả-phụ đă noi theo tục-lệ ấy. Đối với những quả-phụ ấy, thà chết thảm-khốc như thế c̣n hơn là sống mà bị dư-luận khinh bỉ chê bai.

 

Người bị dư-luận bài-xích thật là khốn-nạn vô-cùng. Những lời chế giễu, những cử-chỉ khinh-thị của thiên-hạ gây cho họ một bầu không khí khó thở, và luật-pháp hoàn-toàn bất-lực trong sự binh vực họ. Trái lại, người được dư-luận tán-thành có một thế-lực rất mạnh. Những chỗ dở, chỗ xấu của họ được thiên-hạ bỏ qua và một ư-kiến của họ nhiều khi có một hiệu-quả rất to.

 

Dư-luận có thể hiếp-chế được người, những tánh-cách tinh-thần của nó hết sức là rơ rệt. Nó là một khí giới vô-cùng lợi hại để giúp người chiến-thắng. Bởi đó, người sống trong xă-hội đều phải cố-gắng để chinh-phục dư-luận về ḿnh.

 

3.- THÁI-ĐỘ CỦA XĂ-HỘI ĐỐI VỚI SỨC MẠNH.

 

Trong lịch-sử tranh-đấu của loài người từ ngàn xưa đến giờ, sức mạnh bao giờ cũng là yếu-tố chánh, mang sự thắng-lợi đến cho người. Do đó, mặc dầu trên thế-giới, có rất nhiều người lên tiếng phản-đối cường-quyền và bạo-lực – tức là phản-đối sức mạnh – thật-sự, xă-hội không phản-đối sức mạnh. Ngay đến những người chủ-trương đả-đảo cường-quyền và bạo-lực cũng chỉ phản-kháng sức mạnh nói một cách trừu-tượng mà thôi. Về phương-diện thực-hành, người ta đă vô-t́nh hay cố ư, hưởng-ứng theo sức mạnh.

 

Tất cả mọi người đều thán-phục sức mạnh một cách ư-thức hay vô ư-thức, và lấy nó làm tiêu-chuẩn cho mọi phán-đoán của ḿnh. Những kẻ yếu luôn luôn sẵn sàng chạy theo người mạnh, người mà họ cho là đủ sức bảo-vệ họ, mang đến cho họ những mối lợi họ mong ước, hay đủ sức trừng-trị họ. Trong giới nào cũng vậy, người ta thường hay tuân-lịnh những kẻ nhảy ra gánh vác lấy việc khó khăn thế cho ḿnh.

 

Một bằng cớ chắc chắn chỉ tỏ rằng người công-nhận sức mạnh là ḷng tín-phục những kẻ thành-công. Ở bất cứ xă-hội nào, người ta cũng đều theo chủ-trương « được là vua, thua là giặc ». Quần-chúng thường tự-nhiên kính-trọng những kẻ chiến thắng, dầu họ là quân-nhơn, là bác-học, là nghệ-sĩ, là nhà thể-thao hay là nhà chánh-khách cũng vậy.

 

Phần lớn dân-chúng đều kính nể những nhà chức-trách thi-hành được trọn vẹn quyền-hành khiển- chế xă-hội. Người ta chỉ phản-đối chánh-phủ khi chánh-phủ tỏ ra bất-lực. Và những kẻ phản-đối chánh-phủ cũng chỉ phản-đối với ḷng tin rằng ḿnh sẽ gây được một sức mạnh khả-dĩ đánh đổ chánh-phủ sau này.

 

Ḷng tôn thờ sức mạnh cũng hiển-hiện trong óc thích được làm quan của hầu hết mọi người. Những sắc-phục, cấp-hiệu của sĩ-quan, những lễ-phục của những công-chức, có một sức hấp-dẫn rất lớn đối với đám đông. Tiền-tài vốn là một phương-tiện để được gần những người có oai thế nên lần lần cũng được người trọng-vọng. Những người giàu có, nếu không được người ta ưa thích, cũng được họ kiêng nể hay sợ hăi.

 

Trong những hội-nghị quốc-tế, những dân-tộc hùng-cường bao giờ cũng có thế-lực hơn và được kính nể hơn những dân-tộc nhược-tiểu. Ảnh-hưởng của một dân-tộc đối với các dân-tộc khác do nơi sức mạnh của dân-tộc ấy rất nhiều. Thuở xưa, dân-tộc Trung-Hoa hùng-cường nhứt Á-Châu và dân-tộc Việt-nam cũng như các dân-tộc Viễn-Đông khác, hết sức tôn-trọng nền văn-hóa Trung-Hoa. Nhưng đến thế-kỷ thứ 20, khi các cường-quốc Âu Mỹ tràn vào Á-Châu và tỏ ra hùng-cường hơn Trung-Hoa rất nhiều, nền văn-hóa Trung Hoa đă bị xem thường và tiếng « ba tàu » trong ngôn-ngữ Việt-nam lại hàm ư-nghĩa chế giễu và khinh bỉ.

 

Vậy, xă-hội thường tôn-trọng những kẻ thành-công. Mà như ta đă thấy, sự thành-công do nơi sức mạnh mà ra. Và hoan-hô kẻ chiến thắng, tức là chấp-nhận tôn thờ sức mạnh.

 

Điều mà người ta phản-đối, chính là việc dùng sức mạnh thể-chất một cách cục mịch và không phương-pháp, không theo một đường lối, một kỷ-luật nào. Trái lại, một sức mạnh khôn ngoan, áp-dụng một cách đồng đều và có qui-củ, luôn luôn được người tán-thành. Bởi đó, thật-sự, xă-hội không phải chọi lại sức mạnh, mà chỉ muốn qui-định cách dùng sức mạnh như thế nào cho nó có một hiệu-lực tối-đa.

 

Những người dùng mưu mẹo gian-hùng, sở-dĩ bị người ta thóa-mạ là v́ họ không dựa vào sức mạnh thể-chất hay tinh-thần thật-sự của họ, họ chỉ lợi-dụng trong một thời-gian những sức mạnh ở bên ngoài họ. Thêm nữa, việc họ bị thóa-mạ chỉ tỏ rằng họ đă bị thất-bại một phần nào trong sự hoạt-động của họ, hoặc v́ mưu mẹo họ không đủ khéo léo để che giấu dụng-ư sâu sắc của họ, hoặc v́ những lực-lượng họ huy-động chưa đủ sức để chế-ngự hẳn những lực-lượng đối-lập.

 

Một số nhơn-vật lịch-sử đă từng thành-công rực rỡ, nhưng về sau, lại bị hậu-thế nhiệt-liệt bài-xích. Tần Thủy-hoàng, Thành-cát-tư-hăn, Hitler đă bị nhơn-loại thán-oán vô-cùng. Điều này có vẻ nghịch lại luật thắng-thế của sức mạnh. Kỳ thật, nó chỉ đặt vấn-đề thành-công trong một phạm-vi rộng lớn hơn mà thôi. Những nhơn-vật kể trên này quả thật có thành-công lúc sanh-thời, nhưng sự thành-công của họ chỉ thâu vào một thời-gian ngắn. Sự thắng-lợi do sức mạnh đem đến cho họ chưa hủy-diệt được hết các đối-thủ của họ, và không uốn nắn được quần-chúng theo khuôn khổ tư-tưởng của họ.

 

Những sĩ-phu Trung-Hoa sống sót sau những cuộc « phần thơ khanh nho » đă huy-động được quần-chúng Trung-Hoa lật đổ nhà Tần. Thành-cát-tư-hăn và hậu-duệ ông chỉ xây dựng  một triều-đại ngắn ngủi ở Trung-Hoa, và dân-chúng ông về sau lại bị người Trung Hoa chinh-phục về mặt văn-hóa và tinh-thần, Hitler đă bị thóa-mạ v́ nước Đức đă thảm-bại trong trận thế-giới đại-chiến vừa qua.

 

Trong lịch-sử của nhơn-loại, những người đă hoàn-toàn thắng đối-phương, dầu có tàn-nhẫn, cũng không hề bị chỉ-trích. Các lănh-tụ Hán-tộc đă tiêu-diệt Miêu-tộc vẫn được tôn-kính : Huỳnh-đế được xem là một vị thánh-nhơn trong khi Xuy-vưu bị cho là tướng giặc. Nếu trong lịch-sử Việt-nam Ngô Quyền không thành-công trong việc giảI-phóng dân-tộc và những triều-đại tiếp theo ông không giữ được nền độc-lập, dân-tộc ta hẳn đă bị Hán-tộc đồng-hóa và người ta đă chấp-nhận quan-niệm của Lê Tắc theo đó, Mă Viện và các tướng Trung-Hoa sang chinh-phục nước ta là những bực anh-hùng, trong lúc bà Trưng, bà Triệu và những người hiện được chúng ta sùng-bái v́ công-nghiệp cứu-quốc của họ bị xem như là tội-nhơn.

 

Giả-sử, ngày mai, các lănh-tụ cộng-sản chinh-phục được thế-giới, chế-ngự được cả hoàn-cầu, đào-luyện được mọi người theo khuôn khổ họ, và bộ máy cai-trị họ dựng lên không đến nỗi tan vỡ v́ sự cạnh-tranh của họ, nhơn loại sau này sẽ nâng những con người tàn-nhẫn vô-nhơn-đạo của thế-giới đỏ ấy lên mực thánh-thần y như dân-chúng Nga đang làm hiện giờ, cho đến khi nào chế-độ cộng-sản bị đánh đổ.

 

4.- LUẬT-PHÁP VÀ SỨC MẠNH.

 

Sức mạnh là điều-kiện thắng-lợi trong sự tranh-đấu sinh-tồn của người. Mặc dầu nhiều người đă nhơn-danh đạo-đức mà phản-kháng cường-quyền, hầu hết mọi người đă vô-t́nh hay cố-ư thán-phục kẻ mạnh, tức là kẻ thắng-lợi. Do đó, sức mạnh đóng một vai tuồng rất quan-trọng trong đời sống xă-hội của người; hơn nữa, ta có thể bảo rằng nó là nền tảng của xă-hội.

 

Xét lịch-sử thế-giới và quan-sát đới sống của các xă-hội loài người hiện-tại, ta có thể nhận thấy rằng các quốc-gia chỉ thực-hiện và duy-tŕ được nhờ vơ-lực. Hai yếu-tố quan-trọng tất-yếu để định-nghĩa một quốc-gia là chánh-quyền và chủ-quyền. Cả hai đều hàm-ư rằng quốc-gia có những khả-năng rất lớn, một mặt để chế-ngự nhơn-dân, một mặt để đối-phó với các quốc-gia khác. Quốc-gia nhỏ nào không đủ sức mạnh th́ có thể bị ngoại-quốc uy-hiếp và mất cả chủ-quyền, tức là bị diệt. Không như thế, dân-chúng có thể lật đổ chánh-quyền để tạo nên một chánh-quyền khác, và quốc-gia phải bị biến-cải đi. Vậy, chánh-quyền và chủ-quyền của quốc-gia vẫn lấy sức mạnh làm nền tảng, và những chế-độ xă-hội đều phải dựa vào sức mạnh của quốc-gia.

 

Ngay đến những ư-niệm luật-pháp và công-lư mà người ta nêu ra để đối chọi lại nguyên-tắc sức mạnh, thật ra, cũng phải nhờ sức mạnh mới có hiệu-quả. Người Pháp đă có câu nói « Không có những người hiến binh, những vị thẩm-phán chỉ là những anh chàng mơ mộng mà thôi ».

 

Xét nguồn gốc luật-pháp, ta lại càng thấy rơ yếu-tố sức mạnh bên trong. Thời-kỳ tiền xă-hội, con người sống hoàn-toàn theo ư ḿnh và giải-quyết mọi xung-đột với kẻ khác theo sức mạnh riêng của ḿnh. Sự giết hại nhau là một việc tự-nhiên, và cuộc tranh-đấu sinh-tồn hết sức là rùng rợn. Điều này có hại nhiều, không những cho cá-nhơn, mà c̣n cho chủng-loại nữa. Cá-nhơn có thể bị giết hại bất cứ lúc nào, và chủng-loại bị suy yếu nhiều v́ cuộc tương-tàn giữa người đồng-loại.

 

Khi người họp nhau lại sống chung nhau, những bản-năng xă-hội lần lần nảy nở. Một mặt khác, những nhóm người c̣n giữ những tập-quán của đời sống cô-độc ngày xưa, và giết hại nhau hằng ngày bên trong đoàn-thể, tất-nhiên phải yếu sức, và bị các nhóm người có một tổ-chức nội-bộ vững chắc hơn tiêu-diệt đi. Do sự đào-thải đó, bản-năng xă-hội của những người sống sót càng ngày càng mạnh lên. Sau cùng, những bản-năng xă-hội này hợp với bản-năng tự-vệ của cá-nhơn để đưa đến ư-niệm công-lư và luật-pháp.

 

Công-lư và luật-pháp theo nguyên-lư th́ ngược lại xu-hướng của người muốn tự ḿnh dùng sức mạnh đối-phó với đồng-loại khi có sự xích mích. Tuy thế, nó không phải bỏ ư-niệm sức mạnh. Nó chỉ hợp-thức-hóa sự dùng sức mạnh. Nó lấy quyền sử-dụng sức mạnh của cá-nhơn giao cho đoàn-thể. Mà người cầm đầu đoàn-thể trong thời-kỳ mù mịt của buổi xă-hội mới lập thành  là con người mạnh, đủ sức chế-ngự những con người khác để giữ oai-quyền ḿnh.

 

Xă-hội về sau mở mang tiến-bộ thêm ; cách tuyển chọn người cầm đầu các đoàn-thể loài người có thay đổi. Nhưng chung-qui, nguyên tắc oai-quyền tuyệt-đối của quốc-gia vẫn giữ măi cho đến bây giờ. Công việc làm luật-pháp và xử kiện có thể giao cho một cơ-quan đặc-biệt khác với cơ-quan hành-pháp, nhưng dầu sao, người ta cũng phải nhờ có cơ-quan hành-pháp mới thi-hành được luật-pháp. Vậy, chỉ có thủ-tục là thay đổi, c̣n nộI-dung vấn-đề vẫn c̣n nguyên vẹn, không biến-chuyển chút nào.

 

Với ư-niệm công-lư và luât pháp, việc dùng sức mạnh để giải-quyết mọi xung-đột giữa cá-nhơn được dành cho xă-hội. Ta đă thấy rằng, sự thật, th́ cũng chỉ có những kẻ mạnh mới nắm được quyền-chánh mà điển-chế và thi-hành luật-pháp. Trong những vụ kiện-tụng, những kẻ mạnh này nhờ sự trung-gian của các nhơn-viên tư-pháp mà quyết-định phần thắng-lợi cho những người tranh-chấp nhau. Do đó, sức mạnh được dùng của những kẻ đưa nhau ra trước tụng-đ́nh có một tánh-cách xă-hội rơ rệt hơn. Nó không phải dựa vào thể-chất, trí khôn ngoan hay đức-tánh của họ mà dựa vào qui-chế do quốc-gia tạo ra. Tuy  nhiên, thế-lực của tiền-tài, danh-vọng và sự khôn ngoan trong việc theo thủ-tục pháp-lư cùng việc trả lời cho những câu hỏi của ṭa-án cũng có đóng một vai tuồng khá quan-trọng.

 

Thêm nữa, thật-sự th́ luật-pháp đặt ra để hợp-thức-hóa những oai-quyền của kẻ mạnh. Những người nắm được quyền-chánh – tức là những kẻ mạnh nhứt trong xă-hội – tất-nhiên phải điển-chế những luật-lệ trong xă-hội như thế nào cho quyền-lợi của chính họ, của gia-đ́nh thân-thuộc họ, và của hạng người ủng-hộ họ được bảo-vệ một cách đắc-lực nhứt. Ngay đến những nhóm người chủ-trương xây dựng một xă-hội cộng-sản không giai-cấp cũng không thoát khỏi công-lệ trên này.

 

Quyền-lợi những hạng người cầm-quyền-chánh có thể thay đổi. Do đó, luật-pháp có thể thay đổi theo dân-tộc, theo thời-đại.

 

Sau  những sự thay đổi luật-pháp, nhiều khi sự thay đổi những mối tương-quan lực-lượng giữa các hạng người trong nước hiện ra một cách rơ ràng. Trước kia, sự lập hội và đ́nh-công phá sở của thợ thuyền là một trọng-tội, bị trừng-phạt năng nề. Đến khi hàng-ngũ thợ thuyền đông đảo, họ họp nhau thành những chánh-đảng cách-mạng tranh-đấu đẻ đ̣i quyền lập hội, các chánh-phủ dân-chủ lần lần công-nhận cho người vô-sản có quyền lập nghiệp-đoàn và đ́nh-công để bảo-vệ quyền-lợi họ. Ở nhiều nước dân chủ tự-do, thợ thuyền đă đi quá mức ấy, và những cuộc đ́nh-công của họ nhiều khi có tánh-cách vận-động chánh-trị hơn là tánh-cách binh vực quyền-lợi nghề-nghiệp. Nhưng sau đó, ở nước Đức Quốc-xă, nước Ư Phát-xít cũng như ở những nước mà đảng Cộng-sản Đệ Tam nắm được chánh-quyền, thợ thuyền lại bị khép vào một kỷ-luật khắc-nghiệt. Các nghiệp-đoàn vẫn tồn-tại, nhưng quyền đ́nh- công lại bị hủy-diệt đi và chung-qui, những tổ-chức thợ thuyền chỉ được dùng để phụng-sự chánh-phủ.

 

Về phương-diện quốc-tế, các luật-pháp cũng đặt nền tảng trên sức mạnh quốc-gia. Những hiệp-ước kư-kết chỉ dựa vào sự tương-quan lực-lượng giữa các nước, và những tổ-chức quốc-tế lấy làm lư-tưởng việc phụng-sự nhơn-loại, phụng-sự ḥa-b́nh trong công-lư, cũng vẫn long-trọng nh́n nhận các hiệp- ước bất-b́nh-đẳng do các nước đế-quốc dùng vơ-lực mà bắt các dân-tộc nhược-tiểu kư-kết với ḿnh. Hội Quốc-liên trước kia, và Liên-hiệp-quốc hiện thời đều ở vào t́nh-trạng đó. V́ thế, các dân-tộc nhược-tiểu, nếu có đem vấn-đề nước ḿnh ra trước hội-nghị quốc-tế, cũng chỉ để lợi-dụng sự xung-đột quyền-lợi giữa các cường-quốc mà đem sự thắng-lợi về cho ḿnh. Chớ không thể tin tưởng nơi tinh-thần công-lư của các tổ-chức quốc-tế.

 

B.- LUẬT BIẾN-CẢI.

 

Sức mạnh đă đóng một vai tuồng trọng-hệ và trong lịch-sử vơ-trụ, lúc nào ta cũng thấy nó hiện ra. Tuy thế, có nhiều trường-hợp, yếu-tố sức mạnh không đủ để giúp cho sanh-vật được sinh-tồn chắc chắn.

 

Khoa cổ-sanh-vật-học cho ta biết rằng, thời tiền-sử, có không biết bao nhiêu giống thú khổng-lồ. Sức mạnh của chúng so với những thú khác trong ấy có tiên-tổ loài người – lúc đó hăy c̣n là một thứ thú tầm-thường chưa có trí tuệ – thật là lớn hơn vạn bội. Nhưng những con thú ấy đă bị tiêu-diệt từ lâu, trong khi nhiều loại bọ nhỏ hơn người rất nhiều – và tất-nhiên có một sức mạnh không đáng kể so với các thú khổng-lồ kia – hăy c̣n tồn-tại đến ngày nay.

 

Hơn nữa, theo một số ước-lượng của một số nhà khoa-học, nhiều loại bọ và vi-khuẩn có một sức sống mănh-liệt vô-cùng. Chúng sanh-sản rất nhiều và đương đầu lại sự sát-hại của người một cách có hiệu-lực. Một vài người đi xa hơn nữa, tỏ ư lo ngại rằng những loài ấy sẽ là một mối nguy cho nhơn-loại sau này.

 

Dầu không theo chơn những nhà khoa-học quá bi-quan đó, chúng ta cũng phải nhận rằng những điều-kiện trên này có thật, và sức mạnh riêng nó chưa đủ mang sự thắng-lợi về cho các sanh-vật tranh-đấu nhau. Ngoài sức mạnh ra, các sanh-vật c̣n có một khả-năng khác. Khả-năng ấy là khả-năng biến-cải của sanh-vật. Nó giúp cho sanh-vật uốn ḿnh theo hoàn-cảnh, tự thay đổi năng-lực ḿnh để ứng- phó với những điều-kiện bất-thuận-lợi, và dùng sức mạnh của ḿnh một cách thích-hợp với t́nh-thế.

 

Trong sự sinh-tồn của các chủng-loại, sự biến-cải đóng một vai tuồng cũng quan-trọng không kém sức mạnh, mặc dầu vai tuồng này chỉ được các nhà khoa-học nhận-thức, chớ không được quảng-đại quần-chúng biết đến. Trong giới khoa-học sanh-vật, vấn dề biến-cải trở thành một trong những vấn-đề căn-bản, và các lư-thuyết gia tiến-hóa không ít th́ nhiều đều phải dựa vào ư-niệm biến-cải này.

 

Nói một cách khái-quát, sanh-chất tự nó đă có khuynh-hướng biến-cải, và sanh-vật nào cũng có quan-năng biến-cải, chỉ khác nhau về phần phẩm mà thôi. Tuy vậy, đối với người, quan-năng biến-cải có tánh-cách vô-cùng phức-tạp. Để cho tiện sự khảo-sát, ta có thể phân-biệt hai loại biến-cải, biến-cải của loài thú, biến-cải đặc-biệt của người.

 

1.- QUAN-NĂNG BIẾN-CẢI CỦA LOÀI THÚ.

 

Vơ-trụ là một khối vật-chất biến động không ngừng v́ bị sự chi-phối của nhiều lực khác nhau. Sự sống vốn cũng là hoạt-động. Nhưng phải có một số điều-kiện mới có thể duy-tŕ được. Do sự biến-đổi không ngừng của vơ-trụ và của thời-tiết, các sanh-vật luôn luôn bị đặt vào hoàn-cảnh mới. Muốn khỏi bị tiêu-diệt, nó phải tự biến-cải để ứng-phó với hoàn-cảnh mới ấy. Ví đó, sanh-vật tự-nhiên có khả-năng biến-cải và lịch-sử những cuộc biến-cải không ngừng.

 

Trước hết, các nhà sanh-vật-học cho biết rằng lịch-tŕnh tiến-hóa của các loài gồm có nhiều ngẫu- biến. Đó là những sự thay đổi đột ngột trong các vi-nhơn của những tế-bào sanh-dục, làm cho sanh-vật con c̣n có những tánh-cách thể-chất khác sanh-vật sanh ra nó rất xa. Chính những ngẫu-biến đă làm xuất-hiện nhiều loại sanh-vật khác nhau từ những sanh-chất nguyên-thủy.

 

Tuy thế, những tác-nhơn gây những ngẫu-biến hiện nay chưa được biết một cách rơ ràng. Thêm nữa, những ngẫu-biến không phải hướng cả về sự bảo-vệ sự sinh-tồn của các loài. Nếu nó có thể đưa một sanh-vật đến một h́nh-thức cao hơn, nó cũng có thể làm cho sanh-vật tuyệt-chủng được. Sau hết, nó có tánh-cách ngẫu-nhiên và không thể xem là một khả-năng.

 

Khả-năng biến-cải theo đúng nghĩa của nó, chỉ giúp sanh-vật thay đổi h́nh-thức trong một phạm-vi nhỏ hẹp và nhứt là thay đổi cách ứng-phó với hoàn-cảnh bên ngoài. Những thay đổi này có tánh-cách di-truyền, nhưng thường th́ chỉ đạt được trong phạm-vi cá-nhơn mà thôi.

 

Ngay trong giới thực-vật và động-vật hạ-cấp, người ta đă nhận thấy có sự biến-cải rồi.

 

Những loài cây ở chỗ nóng và ít mưa đă biến-đổi những cơ-quan của ḿnh để rút được nước vào thân ḿnh và đồng-thời giữ cho hơi nước ít bốc ra. Rễ nó thường ăn sâu xuống đất, c̣n lá th́ nhỏ lại, có khi biến thành gai để cho diện-tích phơi ra nắng và giữ nhiệm-vụ đưa hơi nước ra ngoài nhỏ bớt đi. Nhiều loại trùng khi gặp hoàn-cảnh sanh-hóa bất-thuận-lợi th́ hóa thành những bào-tử-nang, có một lớp vỏ cứng chắc bọc lại, đủ sức bảo-vệ nó chống những nguy-cơ tiêu-diệt. Đến khi hoàn-cảnh thuận-tiện trở lại, bào-tử-nang lại trở thành con vi-trùng. Vi-trùng cũng có thể tự tạo những khả-năng chống lại các chất có thể giết hại nó. Những thứ thuốc sát-trùng, nếu dùng không đủ lượng rất có hại, v́ chẳng những không giết được vi-trùng, nó c̣n tập cho vi-trùng quen với thuốc, và về sau, có thể đương cự lại thứ thuốc ấy, dầu số lượng có đủ cũng vậy.

 

Đối với những động-vật có một cơ-thể phức-tạp hơn, và hoạt-động trong một phạm-vi rộng hơn, sự biến-cải càng rộng hơn. Cơ-thể những động-vật này vừa phải tự điều-chỉnh những khí-quan của ḿnh cho nó ḥa-hợp nhau, vừa phải tự thay đổi để ứng-phó với sự thay đổi thời-tiết. Nhiều loài vật ở xứ lạnh phải tổ-chức đời sống một cách phù-hợp với phong-thổ. Ở những xứ này, mùa đông trời lạnh lẽo, cây cỏ trơ trụi, việc kiếm ăn rất khó. V́ đó, một số động-vật mùa hè th́ ăn rất nhiều để tạo những chất trừ-bị trong thân, đến mùa đông, chúng t́m chỗ ẩn náu và ngủ suốt mấy tháng. Trong thời-kỳ này, cơ-thể chúng sanh-hoạt rất ít và tiêu-thụ những chất trừ-bị chúng đă chế-tạo được.

 

Sự biến-cải của các loài thú, hoặc chỉ là những phản-ứng tự-nhiên của cơ-thể, hoặc thực-hiện dưới sự điều-khiển của các bản-năng. Trí khôn của thú nếu có một vai tuồng th́ vai tuồng này cũng ít và không đáng kể. Ví đó, quan-năng biến-cải của loài thú là một quan-năng biến-cải tự-nhiên.

 

Một trong những biểu-lộ quan-năng biến-cải này là năng-lực nghĩ-thái. Đó là một xu-hướng của loài vật khiến cho nó bắt chước h́nh dáng những đồ vật hay sanh-vật ở quanh nó  để có thể ẩn núp trong khung cảnh một cách dễ dàng.

 

Năng-lực nghĩ-thái có nhiều cách phát-biểu khác nhau. Chúng ta có thể phân-biệt những loại nghĩ-thái sau này.

 

a) NGHĨ-THÁI BẮNG THÁI-ĐỘ HAY BẰNG SỰ XỬ-DỤNG CÁC PHÂN-TIẾT TỰ- NHIÊN.

 

Những côn-trùng bay dở thường hay giả chết để gạt các địch-thủ, hoặc gieo ḿnh xuống đất rồi nằm im không cựa cạy giữa đám cỏ, giữa các lớp lá cây khô, hay giữa các mẩu đất vụn, thành ra người ta khó t́m thấy nó. Con mèo khi gặp kẻ địch th́ xù lông ra cho có vẻ lớn hơn để giống h́nh dạng con beo hay con cọp, làm cho kẻ địch khiếp-đảm.

 

Nhiều loại côn-trùng thường tiết ra những chất nước bay mùi khó chịu, làm cho những sinh-vật khác không muốn lại gần nó. những con gịi, con nhộng của một thứ côn-trùng bán-si thuộc loại ve ve, bao ḿnh bằng một thứ bọt từ trong hậu-môn tiết ra, giống hệt như đờm dăi, thành ra rất dễ gớm.

 

b) NGHĨ-THÁI BẰNG CÁCH MANG ĐỒ VẬT LẠ VÀO M̀NH.

 

Những con gịi, con nhộng của nhiều giống nhện nhỏ thuộc loại sâu ghẻ, giữ luôn trên ḿnh những lớp da đă lột, che giấu hết cả chi-thể. Nhiều con bọ ở bờ sông mang trên lưng một viên bùn có dính những mẩu vụn lặt vặt, thành ra giống như cục đất thật vậy. Con nhộng loài thạch-tàm ở dưới nước mang theo ḿnh một cái vỏ bằng bùn hay bằng cây mục. Con ốc ma th́ ở trong một cái vỏ ốc trống để tự-vệ dễ hơn.

 

c) NGHĨ-THÁI BĂNG CÁCH BIẾN M̀NH CHO TIỆP VỚI KHUNG-CẢNH CHUNG QUANH.

 

Nhiều loài nhộng sống giữa rông rêu, xem giống hệt như rông rêu. Những loài sâu sống trên cây lá có khi giống hệt như cây lá ấy : con th́ h́nh cái lá, con th́ tựa như các mầm cây non, con th́ y  như một nhánh nhỏ. Nhiều thứ sâu khác có màu tiệp với màu cây lá nó ăn. Ta có câu tục ngữ : « Rau nào sâu nấy » chỉ rằng mỗi thứ rau có một giống sâu đặc-biệt và giống sâu này h́nh tích giống như hoa lá cây rau hay có màu tiệp với cây rau.

 

Thú vật cũng có sắc lông hợp với khung cảnh trong đó nó sống. Những loài thú, loài chim vùng địa- cực, như gấu, sói, chồn, thỏ, chim ục, v.v… đến mùa đông băng tuyết phủ khắp nơi th́ bộ lông trắng tinh, tiệp hẳn với màu tuyết. Con sư-tử, con báo-đà, con linh-dương, con thỏ nhảy ở sa mạc th́ lông màu vàng lợt, giống như màu cát vậy. Con ngựa vằn, con cọp ở những cánh đồng cỏ mọc cao th́ ḿnh vằn vện, khi đứng trong đám cỏ, rất khó trông thấy. Con beo thường sống trên cành cây th́ bộ lông có đốm y như bóng mặt trời chiếu qua khe lá. Nhiều loài chim sống dưới lùm bụi có bộ lông có màu xanh tiệp với lá cây.

 

Những loài cá ḿnh dẹp như cá đuối, cá lờn bơn, lưng màu y hệt như màu đáy biển trên đó nó nằm.

 

Đặc-biệt nhứt là con cắc-kè và con cá chim hoa có thể thay màu một cách dễ dàng cho tiệp với khung cảnh mỗi lúc.

 

d) NGHĨ-THÁI BẮNG CÁCH BIẾN H̀NH CHO GIỐNG NHỮNG THÚ KHÁC.

 

Nhiều thứ bướm ở lưu-vực sông Amazone thuộc Nam Mỹ-châu, có màu sắc sặc sỡ và mùi rất hôi, các giống chim ăn bọ luôn luôn chừa nó ra. Cũng ở trong vùng đó, có một giống bướm khác, không có mùi hôi, nhưng màu cánh cũng sặc sỡ như loài bướm trên, thành ra các giống chim thấy nó cũng lánh xa, không bắt. Người ta lại c̣n gặp nhiều thứ rắn không độc, nhưng h́nh-tích giống như thứ rắn độc, làm cho các giống khác cũng sợ nó như sợ thứ rắn độc kia vậy.

 

Nói tóm lại, năng-lực nghĩ-thái được phát-biểu ra nhiều cách khác nhau. Nhưng mục-đích nó vẫn luôn luôn là giúp cho sinh-vật những điều-kiện thuận-tiện để tranh-đấu sinh-tồn.

 

Đối với những loài sinh-vật nhỏ bé th́ năng-lực nghĩ-thái có tánh-cách tự vệ nhiều hơn : sự giả chết, sự ẩn núp dưới những chất phân-tiết tự-nhiên, hay dưới những đồ vật lạ chung quanh, sự biến h́nh cho giống đồ vật chung quanh ḿnh hay có màu sắc tiệp với màu sắc những đồ vật ấy, sự biến h́nh cho giống những thú khác, cốt để cho sanh-vật nhỏ bé có thể trốn tránh hay gạt gẫm những kẻ địch mạnh hơn ḿnh.

 

Năng-lực nghĩ-thái của những giống vật mạnh th́ có tánh-cách xâm hại : con thú mạnh sở-dĩ cần ẩn núp trong khung cảnh tự-nhiên một cách có hiệu-lực là để cho con mồi không thấy con thú mạnh để con thú mạnh săn nó một cách dễ dàng hơn.

 

Năng-lực nghĩ-thái làm cho sinh-vật có hai cá-tánh : một cá-tánh do thiên-nhiên phú sẵn cho nó, và một cá-tánh mà bản-năng sinh-tồn giúp cho nó để nó đối-phó với những kẻ thù có thể hại mạng nó. Cùng với luật mạnh được yếu thua, luật lưỡng-cá-tánh của năng-lực nghĩ-thái đă đóng một vai tuồng rất quan-trọng trong sự đào-thải thiên-nhiên.

 

2.- QUAN-NĂNG BIẾN-CẢI CỦA NGƯỜI.

 

a)- ĐẠI-LƯỢC VỀ QUAN-NĂNG BIẾN-CẢI CỦA NGƯỜI.

 

Trong các loài động-vật, người là giống có quan-năng biến-cải cương-kiện nhứt. Trong quyển « Con người, kẻ lạ chưa ai biết » đă cho chúng ta rất nhiều tài-liệu để hiểu về con người, bác sĩ Alexis Carrel, đă nghiên-cứu kỹ càng về quan-năng biến-cải này.

 

Theo bác sĩ, cơ-thể của người gồm toàn những chất mềm bở, dễ hư hỏng và có thể tan ră trong vài giờ đồng hồ. Tuy vậy, nó lại tồn-tại lâu dài như là đúc bằng thép cứng vậy. Chẳng những tồn-tại được, nó lại c̣n có thể vượt qua nhiều khó khăn và những nguy-cơ do thế-giới bên ngoài đưa đến. Hơn bất- cứ loài thú-vật nào khác, con người đă ứng-biến một cách thích-hợp với những điều-kiện thường biến của ngoại-giới. Trước t́nh-thế mới, cơ-thể người tạo ngay ra một phương-tiện để đối-phó. Phương-tiện này luôn luôn hướng đến chỗ kéo dài đời sống của người đến mực tối-đa. Ta có thể bảo rằng tất cả những diễn-tiến sanh-lư trong thân người đều có mục-đích bảo-đảm sự sinh-tồn của người và đều có tánh-cách biến-cải.

 

Nơi người, sự biến-cải gần như là thường-trực, và có rất nhiều h́nh-thức khác nhau. Tuy thế, chúng ta có thể gom nó về hai loại : sự biến-cải nội-quan, tức là sự biến-cải bên trong những cơ-quan nội-tại của người, và sự biến-cải ngoại-quan, tức là sự biến-cải của thân người để đối-phó với hoàn-cảnh bên ngoài.

 

1.- SỰ BIẾN-CẢI NỘI-QUAN.

 

A) SỰ ĐIỀU-CHỈNH NỘI- GIỚI CỦA NGƯỜI.

 

Nội-giới của người gồm những tổ-chức, những thể-dịch và huyết-dịch rất ổn-định. Tiết-điệu những cơ-quan của người không thay đổi bao nhiêu. Tế-bào và thể-dịch của người luôn luôn tiếp-tục những sự trao đổi hóa-hợp của ḿnh. Máu người châu-lưu trong các huyết-quản và các mao-quản của các tổ-chức với một tốc-độ gần như bất-biến.

 

Sự ổn-định của nội-giới không phải là một trạng-thái an nghỉ, cũng không phải là một trạng-thái quân-b́nh. Nó là kết-quả của một sự hoạt-động không ngừng của toàn cơ-thể.

 

Muốn cho máu người giữ được bản-chất và châu-lưu một cách đều đặn, cơ-thể phải thi-hành không biết bao nhiêu vận-động sanh-lư. Và tất cả những hệ-thống cơ-quan của người đều phải tập-trung hết sức cố-gắng của ḿnh lại, mới làm cho những tổ-chức của thân người được an-ổn.

 

Máu người luôn luôn nhận thêm hay là mất bớt nước một cách bất-thường. Trong khi người ăn uống, nước trong thức ăn thức uống cùng với những thức nước do các tuyến tiêu-hóa tiết ra đổ vào trong máu, thành ra máu thêm rất nhiều nước. Trái lại, trong khi người tiêu-hóa vật-thực, các cơ-quan tiêu-hóa lại rút trong máu một phần nước cần-thiết cho sự làm việc của ḿnh. Khi người vận-dụng cơ-thể một cách mạnh bạo, khiến cho mồ hôi đổ ra, hay khi người uống thuốc tẩy và đi đạI-tiện nhiều, máu người lại mất đi một phần nước của ḿnh. Để cho sự thêm bớt nước này không làm biến-cải áp- lực và tổng-lượng của máu, cơ-thể người phải vận-dụng nhiều cơ-cấu điều-chỉnh khối máu.

 

Áp-lực của máu không phải tùy tổng-lượng tuyệt-đối của khối máu, mà tùy sự tương-quan giữa tổng-lượng khối máu với dung-lượng của bộ máy tuần-hoàn. Những huyết-quản của bộ máy này vốn không phải là những ống cứng rắn, nó có thể biến-đổi khẩu-kính của ḿnh. Nó giăn ra hay co lại tùy theo khối máu nhiều hay ít. Thêm nữa các mao-quản lại có tánh thông-thấu, nghĩa là có thể để cho chất nước trong máu và trong các tổ-chức thấm qua lại với nhau. Sau hết, nước trong máu có thể do thận, do các tuyến ngoài da, do ruột, do phổi mà bài tiết ra ngoài thân người. Khi máu tụ về phía hữu quả tim nhiều quá, tâm-nhĩ bên hữu phản-ứng lại làm cho tim đập mau hơn, đồng-thời huyết-thanh thấm qua các mao-quản để lọt vào các thớ thịt và các tổ-chức. Nhờ đó, bộ máy tuần-hoàn loại trừ phần nước dư trong khối máu đi. Trái lại, khi tổng-lượng và áp-lực của máu hạ xuống, các huyết-quản tự-nhiên co lại, đồng-thời những chất nước trong các tổ-chức do các mao-quản mà thấm vào máu. Nhờ những tác-động này, và nhiều tác-động khác phức-tạp hơn, tổng-lượng và áp-lực máu trong cơ-thể người gần như là luôn luôn ở vào một mực bất-biến.

 

Sự kết-cấu của máu cũng hết sức ổn-định. Trong trạng-thái b́nh-thường, số lượng của huyết-cầu, huyết tương, chất diêm, chất đản bạch tinh, chất mỡ và đường không thay đổi bao nhiêu. Các tổ-chức của người luôn luôn lưu trữ nước, diêm, mỡ, đản bạch tinh và đường để pḥng khi thiếu thốn nên những biến cố bất ngờ thường không biến-đổi được bản-chất nội-giới của cơ-thể.

 

Cương-lực của dưỡng-khí và thán-toan trong máu cũng luôn luôn bất-biến, nhờ nhiều tác-động khác nhau. Sự trao đổi dưỡng-khí cùng thán-toan giữa các tổ-chức và máu do những tánh-chất hóa-học của hồng-huyết-tố, của đản-bạch-tinh và các chất trong huyết-thanh điều-chỉnh.

 

Một sự diễn-tiến sanh-lư đặt dưới sự điều-khiển của những tế-bào thần-kinh qui-định số lượng dưỡng-khí và máu mang từ phổi đến các tổ-chức cho vừa đủ với sự cần dùng của cơ-thể.

 

Ngoài ra, c̣n nhiều tác-động vừa có tánh-cách lư-hóa vừa có tánh-cách sanh-lư, giữ cho nội-giới không bị toan-hóa đi. Những chất toan do các tổ-chức tiết ra thấm vào các thể-dịch, nhờ các chất diêm trong huyết-thanh chế-ngự, nên không biến-đổi bản-chất của máu. Tuy thế, cơ-thể cũng bài-tiết bớt các chất toan thừa thăi của ḿnh. Thán-toan do nơi phổi và những chất toan không huy-phát do nơi thận mà bị bài-tiết ra ngoài.

 

 

Tất cả những tác-động giữ cho nội-giới của người bất-biến đều do thần-kinh-hệ kiểm soát và điều-khiển.

 

B.- SỰ H̉A-HỢP CÁC CƠ-QUAN NỘI-TẠI.

 

Những cơ-quan nội-tại của con người đều nhờ sự liên-lạc của nội-giới và thần-kinh-hệ mà ḥa-hợp với nhau để hoạt-động cho những mục-đích chung. Mỗi yếu-tố trong thân người dường như biết rơ những sự cần dùng hiện-tại và tương-lai của toàn cơ-thể và tự biến-đổi để trả lời cho sự cần dùng đó.

 

Khi một quả thận của người bị cắt  đi, quả c̣n lại tự-nhiên lớn thêm ra, mặc dầu một quả thận b́nh-thường đă đủ để giữ nhiệm-vụ bài-tiết nước tiểu. Như thế, là để trong tương-lai, khi cơ-thể cần dùng một sự cố-gắng nhiều hơn của quả thận, cơ-quan này có đủ sức cung-cấp  sức làm việc thêm ấy.

 

Khi người bị xuất-huyết vá mất máu nhiều, các huyết-quản của người co lại và điều này làm tăng thêm tổng-lượng tương-đối của khối máu c̣n lại. Nhờ đó, áp lực của máu trong huyết-quản vẫn đủ cho máu tiếp-tục châu-lưu. Đồng-thời nước trong các tổ-chức và trong các bắp thịt thấm qua các mao-quản để vào trong hệ-thống tuần-hoàn, người bị xuất huyết thấy khát dữ dội và nước anh ta uống vào làm cho huyết-thanh của anh ta lần lần đạt được tổng-lượng cũ. Những huyết-cầu trừ-bị trong các cơ-quan được đổ vào máu. Các tủy xương th́ lo chế-tạo những yếu-tố tế-bào để hoàn-thành lại việc bồi đắp khối huyết. Như vậy, trong cả thân người ta, ta nhận thấy có một loạt những hiện-tượng sanh-lư, lư-hóa và kết-cấu cùng hợp lại để giúp cơ-thể ứng-phó với sự xuất-huyết.

 

Dưới con mắt nhà khảo-sát, những bộ-phận khác nhau của một cơ-quan cũng có vẻ ḥa-hợp nhau lại để thực-hiện một mục-đích nhứt-định. Khi bộ năo người tự kéo dài ra phía ngoài da thành một cái thần-kinh thị-giác và cái vơng-mô, da chỗ ấy thành ra trong suốt. Nó tạo ra cái giác-mô và cái thủy-tinh-thể để hợp với vơng-mô và thần-kinh thị-giác làm ra cơ-quan thị-giác của con người. Trước cái thủy-tinh-thể, cái màng của mống mắt lập thành cái cách-mô. Tùy theo sức chói của ánh sáng nhiều hay ít, cách-mô mở rộng ra hay thâu hẹp lại, và sức cảm-xúc của vơng-mô tăng-gia hay giảm-thiểu đi. H́nh thể của thủy-tinh-thể có thể biến-đổi để cho người nh́n xa hay nh́n gần tùy ư. Như vậy tất cả những bộ-phận trong con mắt người đều tương-quan nhau và tự-nhiên ḥa-hợp nhau trong sự trông nh́n.

 

C.- SỰ TU-BỔ TỔ-CHỨC.

 

Khi người bị một vết thương v́ đụng chạm, v́ phỏng cháy, v́ trúng tên đạn, thành ra da, thịt, huyết-quản và xương cốt một vùng trong thân-thể bị tổn-hại, cơ-thể người cấp-tốc ứng-phó với t́nh-thế mới. Nhiều tác-động rất khác xa nhau cùng ḥa-hợp nhau lại để tu-bổ phần cơ-thể bị tổn-hại đó.

 

Khi một huyết-quản bị cắt đứt, máu do huyết-quản đó mà chảy ra nhiều. Áp-lực của máu trong huyết-quản hạ xuống. Người bị nạn ngất đi. Máu tự-nhiên bớt chảy. Một cục máu cứng hiện ra trong vết thương, và nhiều sợi huyết bao bọc lấy miệng huyết-quản, thành ra máu bị cầm lại. Trong những ngày kế tiếp theo đó, những bạch huyết-cầu và những tế-bào của các tổ-chức len vào trong cái nút bằng sợi huyết và vá lại cái huyết-quản bị cắt đứt.

 

Khi một chi-thể bị găy, những đầu nhọn của các đốt xương vỡ thường xé các thớ thịt và các mao-quản. V́ đó, chung quanh các đầu nhọn này có một khối nhầu nát gồm có sợi huyết, mảnh xương và thớ thịt. Sự lưu-thông của máu ở đây liền trở nên linh-hoạt hơn. Chi-thể sưng tấy lên. Máu mang đến vùng bị thương-tổn những chất bổ-dưỡng cần-thiết cho sự tu-bổ các tổ-chức. Ở trung-tâm-điểm và ở những vùng bao quanh vết thương, các tổ-chức quây quần lại để vá những chỗ hư hỏng. Những tổ-chức này tùy theo sự cần dùng của vết thương mà biến-hóa không cùng. Một thớ thịt gần chỗ xương găy có thể biến thành một mẩu sụn mềm, nối các đầu xương găy. Mẩu sụn này lần lần thành ra xương thật. Như vậy trong một khoảng thời-gian sau ngày chi-thể bị găy, một loạt nhiều hiện-tượng hóa-học, thần-kinh, tuần-hoàn và kết-cấu cùng phát-xuất và liên-lạc nhau để tu-bổ những nơi bị thương-tổn và làm cho chi-thể lành mạnh trở lại.

 

Trong sự vá lành những vết thương ngoài da, người ta cũng nhận thấy tánh-cách biến-cải của cơ-thể. Khi da bị lột mà người ta che chở những thớ thịt bị phơi ra ngoài chống vi-trùng, chống không-khí, và mọi nguyên-do kích-thích một cách hoàn-toàn quá, sự lành lặn không c̣n cần-thiết cho cơ-thể và vết thương không lành được. Nhưng nếu người ta để cho vi-trùng hay mảnh vải băng làm cho vết thương bị kích-thích, nó lần lần lành lặn. Tổ-chức liên-kết mọc ra để lấp vết thương và làm cho miệng vết thương nhỏ lại. Trong khi đó, tổ-chức biểu-b́ tạo ra lớp da non bao bọc vết thương.

 

Những tác-động của các cơ-cấu để tu-bổ những vết  thương luôn luôn ḥa-hợp nhau để đạt mục-đích, nhưng trong trường-hợp một trong những hiện-tượng ấy v́ một lư-do ǵ mà khiếm-khuyết hẳn đi, những hiện-tượng c̣n lại cũng vẫn tiếp-tục công việc làm của nó và t́m cách bù vào hiện-tượng khiếm-khuyết ấy.

 

D) SỰ TRỊ-LIỆU CÁC BỊNH-TẬT.

 

Khi các vi-trùng hay tinh-độc lọt được vào trong nội-giới của cơ-thể, các quan-năng của người liền thay đổi tức khắc. Người ngọa bịnh, và tánh-cách của căn bịnh người mắc phải tùy theo cách các tổ-chức người biến-cải để đối-phó với những bịnh-tố.

 

Sự biến-cải của cơ-thể để đối-phó với các căn bịnh có hai trạng-thái khác nhau. một mặt nó hướng đến chỗ ngăn cản các tác-nhơn sanh bịnh, không cho chúng vào cơ-thể, hoặc diệt trừ nó nếu nó đă vào cơ-thể rồi. Một mặt khác nó tu bổ những vết thương do những tác-nhơn sanh bịnh này gây ra trong thân-thể, và tiêu-hủy những độc tố do những loại vi-trùng hay chính các tổ-chức tiết ra.

 

Hoặc nhờ sự trợ-lực của những huyết-thanh thích-hợp, những chất thuốc hóa-học, hay những cách điều-trị vật-lư, hoặc với sức riêng của ḿnh, cơ-thể người chống với các vi-trùng xâm-lược. Trong khi đó, bạch-dịch và huyết-dịch của người chứa đầy những độc-tố của vi-trùng và những cặn bă của sự tiêu-hóa trong cơ-thể. Toàn thân người trải qua những sự biến-động lớn, và nhiều khi các cơ-quan bị thương-tổn rất nặng. Lúc ấy, các tế-bào phát-biểu ra những năng-lực đặc-biệt không hề xuất-hiện trong khi cơ-thể b́nh-thường. Nó cố-gắng làm cho nội-giới của người trở thành độc-hại cho vi-trùng, và đồng-thời kích-thích các cơ-quan hoạt-động. Bạch-huyết-cầu sanh thêm nhiều, tiết thêm nhiều chất mới. Nó biến-cải theo những điều-kiện bất ngờ của chứng bịnh do sự công-kích của các tác-nhơn sanh bịnh, do sự suy yếu của các cơ-quan hay do sự tập-trung của vi-trùng trong một bộ phận gây ra. Ở những nơi hư thúi, nó hóa thành mủ chứa những chất đặc-biệt có thể tiêu-hóa các vi-trùng, và làm tan những tổ-chức tế-bào sống để dọn đường chạy ra phía ngoài da hay vào một cơ-quan trống rỗng có thể bài-tiết được các chất dơ ra ngoài.

 

Trong những chứng bịnh do sự suy yếu của cơ-thể gây ra, quan-năng biến-cải cũng đóng một vai tuồng quan-trọng. Khi một cái tuyến làm việc ít quá, những tuyến khác tăng-gia hoạt-động để bù vào. Khi cái van lấp vào lỗ thông giữa tâm-nhĩ và tâm-thất bên tả yếu đi và để cho máu chạy dội lại, quả tim to ra và sức mạnh nó tăng-gia. Nhờ đó nó có thể tống vào chủ-động-mạch một tổng-lượng máu đầy đủ như thường, và người bịnh có thể tiếp-tục sống thêm hàng năm như người không bịnh tật.

 

2.- SỰ BIẾN-CẢI NGOẠI-QUAN.

 

Sự biến-cải ngoại-quan là sự biến-cải giúp cho cơ-thể người ứng-phó với thế-giới vật-chất và hoàn-cảnh xă-hội bên ngoài. Chính nhờ nó mà người ta có thể sinh-tồn được qua những điều-kiện bất- thường của hoàn-cảnh.

 

A) SỰ BIẾN-CẢI ĐỂ ỨNG-PHÓ VỚI THẾ-GIỚI VẬT-CHẤT.

 

Sự biến-cải ngoại-quan giúp cơ-thể người ḥa-hợp t́nh-trạng nội-giới của ḿnh với những sự biến-chuyển của hoàn-cảnh bên ngoài. Nhờ nhiều vận-động khác nhau, cơ-thể người giữ cho đời sống sanh-lư  và tâm-lư của ḿnh được ổn-định và thống-nhứt.

 

Mỗi khi hoàn-cảnh bên ngoài thay đổi, những quan-năng biến-cải đều có một cách đối-phó thích-hợp. Nhờ đó, con người có thể chịu được những sự biến-đổi của ngoại-giới.

 

Không khí bao giờ cũng nóng hay lạnh hơn thân người. Tuy thế, những thể-dịch thấm nhuần các tổ-chức và máu chảy trong huyết-quản của người luôn luôn giữ một nhiệt-độ hầu như bất-biến.

 

Nhiệt-độ người trong thân người thường tăng-gia lúc không khi bên ngoài nóng lên. Lúc ấy, sự tuần-hoàn trong phổi và sự vận-động hô-hấp trở nên nhanh hơn. Trong các phế-nang, số nước bốc thành hơi nhiều hơn lên. Do dó, nhiệt-độ của máu trong phổi hạ xuống. Đồng-thời, các huyết-quản dưới da giăn ra, máu dồn về mặt ngoài thân-thể nhiều, và nhờ tiếp-xúc với không-khí bên ngoài mà mát bớt. Trong trường-hợp không-khí nóng quá, các tuyến mồ hôi tiết mồ hôi ra, và mồ hôi này, khi bốc thành hơi, làm cho nhiệt-độ của thân người hạ xuống. Lúc ấy thần-kinh-hệ được vận-dụng, khiến tim nhảy nhanh lên, căng các huyết-quản ra, làm cho người thấy khát và uống nước vào để thay số nước trong máu đă bốc thành hơi ở phổi và bị tiết ra thành mồ hôi. Trái lại, khi không-khí bên ngoài lạnh, các huyết-quản  ngoài da co lại, da thành tái đi. Máu dồn về phía trong các cơ-quan nội-tại ; nơi đó, sự tuần-hoàn và các trao đổi hóa-hợp được tăng-gia để thêm sức nóng cho cơ-thể.

 

Như vậy, thân-thể người chống chọi lại với thời tiết nóng lạnh bằng những biến-đổi thần-kinh, tuần-hoàn và dinh-dưỡng của toàn thân.

 

Ngoài ra, cơ-thể cũng đối-phó lại những kích-thích của ngoại-giới một cách tinh-diệu. Ánh sáng chói lọi quá rất có hại cho cơ-thể. V́ đó, cơ-thể có nhiều cơ-cấu chống lại sức chói quá mạnh của ánh sáng. Mí mắt và cách-mô của mống mắt che đậy mắt khi người gặp một ánh sáng chói lọi quá. Đồng-thời, sức cảm-xúc của vơng-mô cũng hạ xuống để cho người đỡ nhọc mắt.

 

Sự giảm-thiểu tính mẫn-thụ là một phương-pháp mà cơ-thể dùng rất thường để đối-phó lại sự kích-thích quá mạnh của ngoại-giới. Khi người sống trong một bầu không-khí xú-uế, mũi người bớt thính đi, và trong một thời-gian, người không ngửi thấy mùi hôi ấy, mặc dầu nó vẫn c̣n như trước. Ngoài ra, người c̣n có thể quen với những tiếng động ầm ĩ nếu những tiếng động này tiếp-tục hay đều đặn.

 

B)- SỰ BIẾN-CẢI ĐỂ ỨNG-PHÓ VỚI HOÀN-CẢNH XĂ-HỘI.

 

Đối với hoàn-cảnh xă-hội cũng như đối với thế-giới vật-chất, người phải biết biến-cải để ứng-phó lại.

 

Những hoạt-động tâm-lư của người cũng như những tác-động sanh-lư đều có xu-hướng biến-cải để giúp cho người dễ sinh-tồn. Nó luôn luôn t́m cách làm cho người ḥa-hợp được với hoàn-cảnh.

 

Nói một cách khái-quát, người không bao giờ tự-nhiên vô-cớ mà chiếm được địa-vị người ước muốn trong đoàn-thể xă-hội chấp chứa người. Bản-năng sinh-tồn của người làm cho người muốn chiếm-hữu, hiểu biết, điều-khiển, hưởng-thụ. Nó làm cho người ưa thích tiền bạc, có tham-vọng, có tánh ṭ ṃ và có t́nh-dục. Nhưng người lại sống trong một hoàn-cảnh hửng hờ với người, nhiều khi lại cừu-địch với người. Người nào cũng tự-nhiên hiểu rằng ḿnh phải tranh-đấu để chinh-phục những cái ǵ ḿnh tự-nhiên ước muốn. V́ đó, ư-thức người cũng biến-cải để đối-phó với hoàn-cảnh xă-hội. Sự biến-cải này tùy theo thể-cách của cá-nhơn mà khác nhau vô-cùng.

 

Người có thể ứng-phó với xă-hội bằng cách chinh-phục nó, hoặc bằng cách trốn tránh nó. Nhưng như ta đă thấy, dầu sao, thái-độ tự-nhiên nhứt của người đối với xă-hội và đồng-loại cũng là sự tranh-đấu.

 

Ư-thức người đối-phó với sự cay nghiệt của hoàn-cảnh xă-hội bằng cách cố gắng để chống chọi lại hoàn-cảnh ấy. Do đó, trí thông-minh của người nảy nở ra, người biết suy tính, mưu mẹo, biết dụng-tâm chú-ư, biết ham muốn học-tập, biết tận-lực làm lụng, biết cương-quyết chiếm-hữu và chế-ngự. Những điều này gây cho người cái sức mạnh tinh-thần cần-thiết để giúp người chiến-thắng.

 

Dục-vọng chiếm-hữu của người tùy theo hoàn-cảnh mà có nhiều h́nh-thức khác nhau, nhưng bao giờ nó cũng đóng vai tuồng chủ-động trong những việc làm xuất-chúng. Chính nó đưa những nhà bác- học đến sự t́m ṭi phát-minh khoa-học vĩ-đại, những nhà cách-mạng và chánh-khách đến những công cuộc cải-tạo xă-hội mạnh mẽ, những nhà triết-học, văn-hào, đến những công-tŕnh, tư-tưởng bất-hủ. Nhưng nó cũng đưa những kẻ đạo-tặc đến việc giết người cướp của, những kẻ gian-hùng đến những vụ lường gạt, những người tham-ô đến sự bóc lột dân-chúng. Nó thúc giục người xây dựng những bịnh- viện, những pḥng thí-nghiệm, những nhà đại-học, những miếu-đường. Nó xô đẩy người đến sự vinh- quang và đến chỗ chết, đến sự anh-dơng và đến tội ác.

 

Người cũng có thể đối-phó với hoàn-cảnh xă-hội bằng sự trốn tránh. Một số người hèn kém không có can-đảm tranh-đấu đă hạ ḿnh xuống một mực sinh-tồn không cần đến sự cạnh-tranh nữa. Đó là những kẻ cam-tâm sống cuộc đời nô-lệ, những người cùng-đinh khép thân trong địa-vị ti-tiện của ḿnh.

 

Một số người khác, lấy ngay tâm-hồn ḿnh làm nơi ẩn náu để trốn tránh hoàn-cảnh xă-hội. Đó là những người ẩn-sĩ, những nhà tu-hành, những bậc triết-nhơn khắc-kỷ. Nhờ một đời sống nội-tại cường-kiện, những người này nhiều khi nâng trí thông-minh ḿnh và đức-hạnh của ḿnh lên một mực rất cao và do đó, họ có thể ảnh-hường mạnh mẽ đến xă-hội. Ta có thể bảo rằng họ chinh-phục được xă-hội một phần nào. Tuy thế, họ không lăn lộn trong xă-hội, và thật-sự ra, họ không thuộc về ngoại-giới, v́ đời sống nội-tại của họ đă chiếm hết sự hoạt-động của họ rồi.

 

Ngoài ra, c̣n nhiều người khác t́m cách lăng quên hoàn-cảnh xă-hội bằng cách làm việc không ngừng. Sự làm việc là phương-tiện có hiệu-lực nhứt giúp người chịu đựng những điều-kiện bất lợi của hoàn-cảnh.

 

Cũng có nhiều người sống trong sự mơ ước, trong sự hy-vọng về tiền-tài, sức khỏe, danh-vọng và hạnh-phúc. Những sự mơ ước, hy-vọng này hoặc giúp cho người trốn tránh hoàn-cảnh xă-hội, hoặc làm cho người hăng hái lên để hoạt-động mạnh hơn lên. Nó cũng là một yếu-tố rất mạnh mẽ để ḥa-hợp tâm-hồn người với một hoàn-cảnh không thuận-tiện.

 

Sau cùng, người cũng có thể ḥa-hợp với hoàn-cảnh bằng thói quen. Sống trong cảnh khổ măi rồi, người ta lần lần không c̣n thấy đau khổ nữa.

 

b) TÁNH-CÁCH CỦA NHỮNG QUAN-NĂNG BIẾN-CẢI  VÀ ẢNH-HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI.

 

Sự quan-sát đời sống con người chỉ cho ta thấy rằng, cơ-thể của người gặp bao nhiêu t́nh-thế mới th́ quan-năng biến-cải của người có bao nhiêu h́nh-trạng. Quan-năng biến-cải này không phải là một biều-lộ đặc-biệt của một hệ-thống cơ-quan nào. Ta chỉ có thể định tánh-cách nó bằng mục-đích nó đeo đuổi mà thôi. Phương-tiện của quan-năng biến-cải khác nhau vô-cùng, nhưng cứu-cánh nó chỉ có một: cứu-cánh đó là sự sinh-tồn của con người.

 

Xét quan-năng biến-cải qua tất cả những biểu-lộ của nó, ta có thể cho rằng nó là một tác-nhơn để ổn-định và tu-bổ các cơ-quan, để cải-lương các cơ-quan bằng cách xử dụng cơ-quan ấy, để liên-lạc giữa các tổ-chức và các thể-dịch làm cho thân người thành ra một toàn-thể kiên-cố giữa biến-chuyển của ngoại-giới, và để giúp cho người ứng-phó với mọi kích-thích của ngoại-giới.

 

Quan-năng biến-cải của người không bao giờ hạn-định ở một bộ-phận hay một cơ-quan của người. Trong sự tác-động sanh-lư cũng như trong sự tác-động tâm-lư của ḿnh, quan-năng biến-cải vận-dụng toàn-thân người để đi đến cứu-cánh của nó. Khi cần chống chọi với sự rét chẳng hạn, nó huy-động hết bộ máy tuần-hoàn, hô-hấp, tiêu-hóa, cân-nhục và thần-kinh. Lúc người giận dữ tất cả những hệ-thống cơ-quan đều biến-đổi cả : các thớ thịt đều co lại, những thần-kinh giao-cảm làm tăng áp-lực của huyết-quản cùng tiết-điệu của quả tim và khiến cho gan đưa ra một số đường gờ-lu-cốt để cho bắp thịt dùng làm nhiên-liệu.

 

Tất cả những yếu-tố trong cơ-thể người đều họp nhau lại hoạt-động cho ích-lợi chung của toàn cơ-thể, và đều có khả-năng biến-đổi để đối-phó với hoàn-cảnh, lại có thể dự-định những hoàn-cảnh có thể xảy ra trong tương-lai và chuẩn-bị để giải-quyết những vấn-đề do hoàn-cảnh tương-lai ấy đặt ra.

 

Sự biến-cải có thể thay đổi hẳn cơ-thể và ư-thức con người. V́ thế, hoàn-cảnh có ảnh-hưởng rất lớn đến đời sống con người. Sự tác-động lâu dài của hoàn-cảnh đối với con người từ lúc trẻ có thể in những dấu vết không phai trên người ấy. Do đó, nhiều trạng-thái mới có thể xuất-hiện trong cơ-thể và ư-thức của cá-nhơn, nhiều khi của cả chủng-loại nữa. Những tế-bào sanh-dục của người tự-nhiên cũng chịu ảnh-hưởng của hoàn-cảnh và làm cho những trạng-thái mới này lần lần có tánh-cách di-truyền.

 

Chính quan-năng biến-cải đă khiến cho loài người phân ra làm nhiều chủng-tộc khác nhau. Sự tiêu-thụ một món lương-thực bắt buộc người phải có một sự biến-cải nội-quan làm cho những chất hóa-hợp chứa đựng trong lương-thực ấy đồng-hóa với cơ-thể ḿnh. Để đối-phó với những điều-kiện khí-hậu, cơ-thể người cũng phải nhờ một sự biến-cải ngoại-quan thích-hợp. Như ta đă thấy, những sự biến-cải này huy-động tất cả những hệ-thống cơ-quan của người, và nếu tác-động một cách thường-trực, nó có ảnh-hưởng đến ư-thức và thể-chất của người một cách sâu xa. Những giống dân trên mặt địa-cầu đă sống trong những điều-kiện dinh-dưỡng và khí-hậu khác nhau tự ngàn xưa đến giờ, tự-nhiên không thể giống nhau về thể-chất và tâm-lư. Sự phân-biệt những dân-tộc có những tánh-cách thể-chất và tâm-lư đặc-biệt v́ đó mà thành ra một điều không thể tránh được.

 

Ngay bên trong dân-tộc, những người sống ở những địa-phương khác nhau, có những thổ-sản và khí-hậu khác nhau, cũng có những thể-chất và tâm-tánh khác nhau. Trong thời-kỳ mà dân-chúng mỗi vùng chỉ sống với những thổ-sản của ḿnh, người mỗi tỉnh đều có những đặc-điểm địa-phương rơ rệt. Bởi đó, ta có thể bảo rằng người nào cũng mang dấu hiệu của quê-hương ḿnh trên thân-thể ḿnh.

 

Nhiệm-vụ người trong xă-hội và hoàn-cảnh kinh-tế của người cũng ảnh-hưởng đến đời sống của người. V́ đó, ngoài cái dấu-hiệu của quê-hương, người lại c̣n mang dấu hiệu của gia-đ́nh, của nghề- nghiệp ḿnh nữa.

 

Sau cùng, lối biến-cải riêng của mỗi người để ứng-phó với hoàn-cảnh chung lại c̣n làm nổi bật cá-tánh của người lên trong số bao nhiêu người khác cùng cảnh-ngộ với ḿnh.

 

c)- SỰ MỞ MANG QUAN-NĂNG BIẾN-CẢI CỦA NGƯỜI.

 

Những quan-năng biến-cải của người luôn luôn hướng đến mục-đích bảo-vệ đời sống của người và kéo dài sự sinh toàn của người đến mực tối-đa. Tuy thế, không phải là nó luôn luôn thành-công. Nó chỉ hoạt-động trong một phạm-vi nhứt-định.

 

Cơ-thể người chỉ có thể dung-nhận một số vi-trùng hạn-định và chỉ có thể chống lại sự công-phạt của các vi-trùng này đến một mực độ hạn-định. Trên số lượng đó và ngoài mực độ công-phạt đó, những quan-năng biến-cải của người không c̣n đủ sức chiến-thắng nữa. Trong sự chống chọi lại sự suy yếu, thời-tiết nóng lạnh, cũng như trong sự đối-phó với hoàn-cảnh xă-hội, quan-năng biến-cải cũng chỉ có hiệu-lực trong một phạm-vi nào đó mà thôi.

 

Phạm-vi hiệu-lực của quan-năng biến-cải tùy theo mỗi người mà khác nhau. Tuy thế, cũng như quan-năng sanh-lư khác, quan-năng biến-cải có thể được tăng-cường nhờ sự thường vận-động và luôn luôn bị giảm sút nếu không được sử-dụng.

 

Có những người to lớn vạm vỡ, nhưng bị bịnh-tật giết hại một cách nhanh chóng. Trong khi đó, nhiều người gầy yếu hơn lại có thể lành được khi mắc phải những bịnh-tật ấy. Như thế là v́ người to lớn vạm vỡ kia từ xưa không biết bịnh-tật là ǵ, và không quen tranh-đấu với các thứ vi-trùng nên quan-năng biến-cải rất bạc-nhược, và khi gặp một giống vi-trùng độc-hại, nó không thể chống chọi được, c̣n cơ-thể người gầy yếu nọ từ trước đă được vận-dụng nhiều lần để chống chọi các tác-nhơn gây bịnh nên có một quan-năng biến-cải cường-kiện hơn, giúp nó đối-phó với giống vi-trùng này một cách thắng-lợi.

 

Ngoài ra, người lại c̣n nhận thấy rằng, có nhiều chứng bịnh như bịnh đậu trời, bịnh thương-hàn chẳng hạn, một khi người đă mắc phải và chữa lành rồi th́ khó mà mắc phải một lần nữa. Tánh miễn dịch này sở-dĩ có được là v́ cơ-thể người mắc bịnh đă chiến-thắng được giống vi-trùng của chứng bịnh ấy một lần rồi, th́ có đủ điều-kiện để đối-phó với nó một cách dễ dàng khi gặp nó một lần nữa. Sự nhận xét về tánh miễn-dịch đă đưa những nhà y-học tây-phương đến phương-pháp chủng-độc để ngừa bịnh.

 

Một bắp thịt càng vận-động th́ lại càng nở nang. Sự làm việc đă không làm cho nó hao ṃn mà lại c̣n làm cho nó mạnh thêm. Trái lại, nếu không được sử-dụng, bắp thịt teo đi và càng ngày càng yếu. V́ đó, những người làm việc chơn tay nhiều bao giờ cũng khỏe hơn kẻ ăn không ngồi rồi.

 

Những hệ-thống cơ-quan của người cũng như những bắp thịt : nó chỉ mạnh mẽ khi nó làm việc điều -ḥa. Những cơ-quan ít hoạt-động luôn luôn mất sức và yếu hẳn đi.

 

Những giống người ở những địa-phương khí-hậu nghiêm-khắcv́ phải vận-dụng hết các quan-năng của cơ-thể ḿnh để ứng-phó với thời-tiết nên có một sức chịu đụng bền bĩ dẻo dai hơn những giống người ở những địa-phương khí-hậu ḥa-hoăn.

 

Những quan-năng  tâm-lư của người cũng chịu chung một định-luật với những cơ-quan sanh-lư. Trí thông-minh, ư-chí và tinh-thần đạo-đức của người phải được vận-dụng thường th́ mới được cường-kiện. Có hăng hái, siêng năng, khắc-kỷ, biết tự khép ḿnh vào một qui-phạm gắt gao và mạnh dạn đương đầu với những cảnh-ngộ khó khăn, người mới mong đạt được những đích cao của lư-trí, tinh-thần và đạo-đức. Những người lười biếng, uể oải, trốn công việc, tránh nhiệm-vụ, luôn luôn là những kẻ bạc-nhược, hèn nhát, và chiếm những địa-vị sau cùng trên bảng giá-trị tinh-thần.

 

Những người từ trẻ đă bị vất ra đời, phải đương đầu với những khó khăn liên-tiếp thường bặt-thiệp, lanh lẹ, xốc vác hơn những người thuở bé được nuôi trong nhung lụa và lớn lên th́ sống trong những hoàn-cảnh thuận-tiện dễ dàng.

 

Trong lịch-sử thế-giới, chúng ta có thể lọc ra không biết bao nhiêu gương về sự suy-đồi của một gia-đ́nh hay một chủng-tộc.

 

Nhà vua khai-sáng một triều-đại thông-minh và anh-dơng bao nhiêu th́ những nhà vua cuối cùng của gịng họ ông ta lại ngu dại và hèn nhát bấy nhiêu. Giữa những người kéo ngọn cờ tiền-phong trong sự khai-thác đất đai hay kinh-dinh kỹ-nghệ và bọn công tử bột, con cháu họ, cũng có một sự cách-biệt to rộng tương-tự. Như thế, là v́ những người khai-sáng cơ-nghiệp đă phải luôn luôn vật lộn với cảnh- ngộ khắc khe một cách cực nhọc và do đó mà phải luôn luôn huy-động hết quan-năng biến-cải của ḿnh, làm cho những đức-tánh của ḿnh được phát-triển đến cực-độ. Lũ con cháu của họ sanh trong cảnh giàu sang và lớn trong những điều-kiện dễ dăi không hề biết đến sự tranh-đấu với những cảnh- ngộ khó khăn. Quan-năng biến-cải của chúng v́ đó mà suy giảm đi và những đức-tánh di-truyền của ông cha chúng hao ṃn lần trong sự sung sướng. Chúng trở nên ươn hèn, ủy-mị. Đến khi v́ một biến- cố ǵ mà những đặc-quyền do ông cha để lại không c̣n được duy-tŕ nữa chúng phải nhận lấy phần thất-bại trong cuộc tranh-đấu sinh-tồn.

 

Nhiều dân-tộc sau thời-kỳ hùng-cường phú-thạnh lại phải ôm hờn bại-nhục trước một giống dân khác trước kia thần-phục ḿnh. Nguyên-nhơn sự biến-thiên này – mà nhiều người cho là hợp với lẽ tuần-hoàn quả báo của Tạo-hóa – chỉ là sự suy-giảm của quan-năng biến-cải chung do sự trù-phú mà ra.

 

d)- QUAN-NĂNG BIẾN-CẢI CỦA NGƯỜI SO VỚI  QUAN-NĂNG BIẾN-CÀI CỦA LOÀI THÚ.

 

Nói một cách khái-quát, quan-năng biến-cải của người cường-kiện hơn quan-năng biến-cải của loài khác.

 

Riêng về mặt vật-chất, cơ-thể người đă phức-tạp hơn các thú khác  nhiều. Thật ra, th́ các loài khác cũng có nhiều khả-năng mà người không có. Đối với nhiều loài bọ, sự găy mất một chi-thể không có ảnh-hưởng to tát đến châu-thân như người. Một vài loài có thể mọc ra chi-thể khác thay vào chi-thể bị găy. Nhưng xét chung, cơ-thể người có một sức chịu đựng to lớn hơn : người là động-vật duy-nhứt có thể sống với mọi khí-hậu và mọi khung cảnh thiên-nhiên. Địa-bàn của người lan rộng khắp nơi trên địa-cầu, từ những đất đai minh mông phủ đầy tuyết trên địa-cực cho đến những sa-mạc ở xích-đạo, từ những đồng lầy nước mặn đến những rừng rậm âm-u, từ những bờ biển cả đến những đỉnh non cao, chỗ nào người cũng có thể sống được. Người cũng đă chống chọi nổi những thay đổi khí-hậu hay địa- h́nh đă xảy ra trên mặt địa-cầu. Nhiều loài thú tiền-sử to lớn hơn người rất nhiều nhưng đă bị loại trong những cuộc biến-động ấy.

 

Về mặt tinh-thần, trí thông-minh của người vượt hẳn trí khôn loài thú một trời một vực. Những đức-tánh cá-nhơn và xă-hội của người có thể xem như là một phương-tiện của quan-năng biến-cải, nhưng khi thực-hiện xong, nó lại tăng-cường thêm quan-năng biến-cải chung.

 

Với trí thông-minh và ư-thức của ḿnh, người lại có một ư-niệm về sự sinh-tồn của ḿnh, về những mục-đích của ḿnh và những hoạt-động cần-thiết để đạt những mục-đích ấy. Đứng trước một công việc phải làm hay một t́nh-thế mới lạ hoặc khó khăn phải đối-phó, người biết suy nghĩ để t́m một đường lối thuận-tiện, một giải-pháp thích-hợp, một phương thế có hiệu-quả, người lại biết huy-động những đức-tánh tinh-thần của ḿnh và vận-dụng thể-chất của ḿnh để noi theo đường lối ấy, đeo đuổi theo giải-pháp ấy, làm theo phương-thế ấy đến cùng. Vậy, người đă làm chủ quan-năng biến-cải ḿnh một phần nào, và điều này giúp cho quan-năng biến-cải ấy có hiệu-lực thêm lên. Chẳng những khiến cho những khả-năng sẵn có của người phát-triển mạnh lên, nó c̣n giúp cho người bổ-túc những khuyết-điểm của người.

 

Không có được một bộ lông mao hay lông vơ dày ấm để che đỡ ḿnh khỏi lạnh, người đă biết lột da thú để mặc trước khi bện chỉ cây hay dệt vải, dệt hàng. Không có những móng nhọn cứng rắn như loài hùm beo, người đă biết dùng những khí giới bằng đá, bằng gỗ, bằng kim khí để tấn-công và tự-vệ. Thiếu năng-lực nghĩ-thái tự-nhiên của thú-vật người đă biết nghĩ ra trăm mưu ngàn kế để trá-h́nh, để cải-trang, để ẩn núp. Như thế, người có nhiều điều-kiện tự-nhiên tranh-thắng hơn các loài vật khác và lần lần vượt lên trên tất cả để làm chúa địa-cầu.

 

V.- SỰ TIẾN-HÓA CỦA NGƯỜI.

 

A.- KHÁI-QUAN VỀ SỰ TIẾN-HÓA CỦA NGƯỜI.

 

Trong tất cả các loài sống trên mặt địa-cầu, người là loài cao hơn hết. Địa-vị ưu-tiên của người, như ta đă thấy, không phải được ban-bố cho người ngay từ lúc sự sống mới phát-hiện. Nó chỉ đạt được sau một cuộc tiến-hóa dài dặc hằng triệu năm.

 

Những cơ-cấu và phương-thức tiến-hóa của loài người từ buổi sơ-thủy của sự sống cho đến lúc người có h́nh người, những nhà khoa-học hiện-thời vẫn chưa biết được một cách tường-tận. Họ chỉ nêu ra những giả-thuyết làm nền tảng cho sự khảo-cứu, và điều duy-nhứt mà ai ai cũng công-nhận là sự tiến-hóa náy có thật.

 

Về sự tiến-hóa của người từ khi đạt được h́nh-thức hiện-hữu, ta có thể nhận-thức được dễ dàng hơn. Từ địa-vị một động-vật trần trụi yếu đuối, người đă trở thành người, chủ-nhơn ông của địa-cầu.

 

Sức mạnh thể-chất của người thật ra không tăng-cường thêm, có lẽ người thời nay c̣n yếu kém người thuở trước là khác. Nhưng về mặt trí-tuệ, bước tiến của người có thể gọi là vô-cùng. Đứng về phương-diện kết-cấu sanh-lư và khả-năng tiềm-thế mà nói, có lẽ bộ óc của người thời xưa và bộ óc của người thời nay cũng chẳng khác nhau bao nhiêu. Con một nhà bác-học vào rừng từ nhỏ th́ cũng thành người rừng. Tuy nhiên, về mặt trí-thức, người đă thâu góp được những kho tàng vô giá. Nhứt là trong mấy thế-kỷ sau này, tinh-thần khoa-học mở mang, các tri-thức ấy chẳng những được chánh-xác hơn, chắc chắn hơn, mà lại c̣n được sắp đặt thành một hệ-thống hợp-lư hơn và được tŕnh-bày một cách dễ hiểu hơn. Người đă hiểu-biết vơ-trụ và chính ḿnh một cách rơ ràng, đúng đắn hơn. Những dụng-cụ, máy móc, những kỹ-thuật làm việc do những tri-thức đó mà ra và tăng-cường sức mạnh của người vạn- bội.

 

Song song với sự mở mang trí-tuệ, đạo-đức của con người cũng có phần tăng-tiến hơn. Những ư-niệm về nhơn-đạo, về sự công-b́nh, về đạo-đức, bắt nguồn từ những bản-năng xă-hội của con người, lần lần mạnh mẽ lên. Những ư-niệm về danh-dự, về bổn-phận, về trách-nhiệm, về ḷng tương-thân tương-ái, cũng nảy mầm và không ngớt phát-triển.. Những sở-kiến của người về các vấn-đề ấy thật ra khác nhau vô-cùng theo thời-đại và theo địa-phương, nhưng ta không có thể chối căi được rằng,  bên trên, luôn luôn vẫn có một nguyên-tắc bất-di bất-dịch làm lư-tưởng cho người.

 

Kết-quả sự tiến-hóa của người biểu-hiệu một cách rơ rệt trong sự tranh-đấu giữa người với thiên-nhiên và cầm thú. Người thời nay chẳng những không c̣n sợ hăi những lực-lượng thiên-nhiên thái-quá như người thời trước, mà c̣n chế-ngự được một số những lực-lượng ấy, bắt nó cung-phụng ḿnh. Trong sự trị bịnh, ngừa bịnh, trong sự xây dựng những nơi trú-ẩn, trong sự lưu-thông cũng như trong sự bắt buộc thiên-nhiên cung-cấp  những vật-liệu cho ḿnh, người đă nắm phần thắng-lợi một cách dễ dàng hơn trước nhiều. Những loài ác-thú độc-trùng nếu không bị người tiêu-diệt cũng phải sống ở chốn rừng rậm non cao và không c̣n là một mối nguy cho loài người nữa. Người đă chứng tỏ sự thắng-thế hoàn-toàn của ḿnh ở chỗ chủ-trương bảo-vệ loài thú, giữ cho chúng không bị tuyệt-diệt.

 

Nhờ sự thắng-thế của ḿnh trên thiên-nhiên và cầm thú, đời sống của người đă được nâng lên một mực rất cao. Người càng ngày càng sống đầy đủ, sung sướng và an-ninh hơn. Một người trung-lưu ở một xă-hội văn-minh hiện-đại được hưởng nhiều tiện-nghi hơn một nhà vua thời trung cổ.

 

Về mặt tinh-thần, tri-thức của người mở rộng rất nhiều. Những hoạt-động văn-hóa của người không phải dành riêng cho một thiểu-số nữa mà lần lần có tánh-cách phụng-sự  đại-chúng. Về mặt này, một người tầm-thường trong xă-hội tân-tiến cũng hơn những người thượng-lưu của xă-hội ngày xưa.

 

Sự cư-xử giữa người với nhau mất dần tánh-cách man-dă để trở thành nhơn-đạo hơn. Việc ăn thịt người cũng như nhiều thủ-tục vô-nhơn-đạo bị trừ-diệt ở những xă-hội văn-minh. Nhiều chế-độ đă được dựng lên để nhơn-đạo-hóa chiến-tranh. Tuy không thành-công một cách hoàn-toàn, những chế-độ ấy cũng giúp cho người thuần-lương bớt.

 

Như thế, nói một cách khái-quát, loài người đă có tiến-hóa về cả hai mặt vật-chất lẫn tinh-thần. Tuy nhiên, so sánh xă-hội văn-minh và xă-hội man-dă, người ta có thể thấy nhiều điểm bất-thuận-lợi cho xă-hội văn-minh. Truyền thuyết Trung-Hoa về đời Nghiêu Thuấn, thần-thoại của những triết-gia Âu- châu sống vào thế-kỷ 17 và 18 về những con người dă-man bẩm sanh tốt không phải hẳn là vô-căn-cứ. Chủ-trương rằng về phương-diện đạo-đức, người hiện giờ thoái-bộ hơn người xưa thật ra không đúng, nhưng ta phải công-nhận rằng sự mở mang của trí-tuệ và ư-thức người đă có hại đến sự cư-xử giữa người với người bên trong một đoàn-thể với nhau.

 

Người cổ-sơ sống một cách vô ư-thức và không suy nghĩ ǵ nhiều về những cứu-cánh của hành- động ḿnh. Họ lại sống chung lộn nhau nhiều hơn người văn-minh. Sự uy-hiếp mạnh mẽ của các nguy-cơ bên ngoài đưa đến làm cho họ luôn luôn sát cánh nhau để tranh-đấu chung. Họ không có th́ giờ cũng không có cơ-hội để sống một đời sống riêng rẽ. Cá-tánh họ không có tánh-cách rơ rệt mạnh mẽ như người văn-minh. Trong sự tự-vệ cũng như trong sự mưu-sanh, họ phải khép ḿnh vào đoàn-thể một cách chặt chẽ. Những điều này gây ra một bầu không-khí thuận-tiện cho sự phát-triển của các bản-năng xă-hội. Người giúp đỡ nhau, binh vực nhau, chiến-đấu và hy-sinh cho quyền-lợi chung một cách rất tự-nhiên.

 

Sự xung-đột giữa cá-nhơn và cá-nhơn bên trong những đoàn-thể cổ-sơ ấy tất-nhiên không thể tránh được. Nhưng v́ sự chi-phối của hoàn-cảnh, và v́ người chưa đủ khôn ngoan để nghĩ ra những mưu-kế thâm-hiểm, nó thường được giải-quyết một cách thẳng thắn hơn.

 

Nói một cách khái-quát th́ sự tranh-đấu hướng về bên ngoài đoàn-thể nhiều hơn và người bên trong đoàn-thể cố-kết  nhau một cách chặt chẽ. Nếu có nhóm người nào trái với những thể-thức trên này, nó cũng bị đào-thải v́ không cạnh-tranh lại những đoàn-thể khác.

 

Tinh-thần phục-vụ đoàn-thể trên đây, không phải chỉ xuất-hiện ở những con người cổ-sơ. Ta c̣n có thể nhận thấy nó ở các xă-hội văn-minh hơn, ở những nhóm người bị bạc-đăi, bị uy-hiếp, như những kẻ thuộc giới giang-hồ hoặc thuộc làng dao búa. Những nhà văn nhiều mơ mộng rất cảm-động khi nhận thấy sự thương mến và giúp đỡ nhau giữa những hạng người ấy mà họ cho là hơn hẳn những con người giả dối của giai-cấp trưởng-giả. Kỳ thật, tinh-thần đoàn-thể của những người dă-man cũng như những kẻ xấu số trong xă-hội văn-minh không phải là kết-quả của đạo-đức hay của ư-thức, nó chỉ là kết-quả của đời sống tập-thể giữa những sự uy-hiếp to tát của ngoại-giới.

 

Những người văn-minh b́nh-thường có nhiều nhu-cầu hơn người cổ-sơ. Trí óc họ lại mở mang hơn nên họ biết lo xa hơn. Do đó, ư muốn tư-hữu của họ phát-triển rất mạnh và họ thành ra tham-lam, ích- kỷ hơn người cổ-sơ. V́ thế, đời sống văn-minh của người tương đối an-ổn hơn. Những cơ-hội làm cho họ chen vai sát cánh nhau trở thành thưa thớt, và họ có nhiều điều-kiện để sống một cuộc đời riêng biệt. Điều này thêm vào sự phân-công, sự giáo-dục, làm cho cá-tánh họ rất mở mang. Thêm nữa, người có ít nhiều ư-thức về hành-động của ḿnh và biết suy nghĩ, tính-toán trước khi hành-động. Sự suy nghĩ tính-toán đó thường được thực-hiện khi con người sống riêng rẽ, lúc các bản-năng xă-hội không có điều-kiện tác-động một cách mạnh mẽ, và tất-nhiên có tánh-cách phụng-sự cá-nhơn nhiều hơn. Một điều ai cũng có thể nhận thấy là những người trí-thức, những giống dân có một nền văn-hóa lâu đời, hướng đến chỗ tính-toán cho quyền-lợi riêng của ḿnh rất nhiều và hóa ra vừa tham vừa nhát.

 

Những điều trên này đă làm cho các bản-năng xă-hội của những người văn-minh nhiều khi suy- nhược đi, không đủ sức chế-ngự những bản-năng vị-kỷ hoàn-toàn của người. Do đó, người văn-minh chẳng những tranh-đấu với các dân-tộc khác mà c̣n xâu xé nhau một cách mănh-liệt ngay trong đoàn-thể ḿnh. Kết-quả là người phân nhau thành giai-cấp, và bóc lột nhau một cách tàn-nhẫn. Với sự mở mang của trí thông-minh, người biết nghĩ ra những mưu-kế thâm-hiểm để triệt-hạ nhau, đề hành-hạ nhau, để gạt gẫm, lừa dối nhau. Chính những hành-động này làm cho một số triết-gia bất-b́nh và có cảm-giác rằng người văn-minh tàn-ác và thoái-hóa hơn người dă-man.

 

Ngoài ra, những người b́nh-thường v́ sự mở mang của trí tuệ và ư-thức mà ích kỷ thái-quá, ta c̣n có thể gặp một số người khác không khép ḿnh vào xă-hội được. Những người này có những bản-năng vị-kỷ quá mạnh không sao có thể chế-ngự nó để sống một cuộc đời b́nh-thường của một công-dân tuân pháp-luật. Họ luôn luôn sống bên lề xă-hội. Dầu xă-hội có tốt đẹp, có an-ổn, họ cũng t́m cớ mà chống chọi lại nó. Họ là đám người lúc nào cũng tự xem là bất-đắc-chí và có ư muốn chọc trời khuấy nước với riêng mục-đích thỏa-măn tánh dọc ngang của ḿnh. Họ là những tướng lục-lâm kiểu Trung- Hoa, những tướng cướp điệu Huê-Kỳ, những tay buôn lậu quốc-tế. Họ là những  chiến-sĩ t́nh-nguyện của giới đầu trộm đuôi cướp, mà cũng là chiến-sĩ t́nh-nguyện của những cuộc cách-mạng, những cuộc bạo-động. Sự hỗn-loạn mới là t́nh-thế thích-hợp cho họ. Trong sự hỗn-loạn này, họ giong ruỗi một cách thích-thú. Nếu sự t́nh cờ xui họ ở vào một hàng-ngũ chơn-chánh, hay một tổ-chức thắng-lợi, họ có thể trở thành những bực anh-hùng. Nhưng khi xă-hội ổn-định lại, họ trở về bản-chất cũ, và trừ trường-hợp được tôn lên một địa-vị cao quí, họ thường hóa ra những kẻ phá rối trật-tự.

 

Bù lại, ở những xă-hội văn-minh, ta cũng có thể gặp những kẻ nhờ một bản-năng xă-hội mạnh mẽ mà có mợt tinh-thần phụng-sự đoàn-thể hết sức cao quí. Họ rất sung sường mà được hy-sinh cho đoàn-thể, và nhiều khi sự thành-công trong vinh-quang không làm cho họ thích bằng sự chết một cách thảm- khốc cực-nhục cho đại-nghĩa.

 

Những hạng người không thể khép ḿnh vào xă-hội cũng như hạng người có bản-năng xă-hội hết sức mở mang thật ra không có bao nhiêu, và đại-đa-số quần-chúng các nước là đám người b́nh-thường có những đức-tánh tốt, nhưng cũng có tánh xấu. Nói một cách khái-quát th́ những hạng người này thuần-lương hơn người cổ-sơ vá ư-niệm đạo-đức của họ mở mang hơn. Nhưng v́ các bản-năng xă-hội không chi-phối họ được một cách thường-trực và mạnh mẽ nên sự hành-động của họ nhắm vào mục-đích phụng-sự cá-nhơn của họ nhiều hơn vào mục-đích phụng-sự xă-hội, và do đó mà có một tánh-cách vị-kỷ hẹp ḥi. Điều này làm cho sự hợp-quần trong đoàn-thể bị thương-tổn khá nhiều. Những nhà đạo-đức đă hết sức cố-gắng chống chọi lại sự vị-kỷ đó, nhưng họ không khi nào thành-công được một các mỹ-măn, nhứt là đối với những con người đă có ư-thức về sự sinh-tồn cá-nhơn của ḿnh.

 

Muốn cho hành-động của mọi người nhắm vào mục-đích phụng-sự xă-hội nhiều hơn lo cho cá-nhơn của người, ta phải hủy-diệt cá-tánh người. Điều này chỉ có thể thực-hiện được khi ta chận đứng sự suy tưởng của người bằng sự khủng-bố, bằng sự nhồi sọ, bằng cách tổ-chức cho người sống thành bầy như thời cổ-sơ. Đó là những phương-pháp mà đảng Cộng-sản Đệ Tam Quốc-tế áp-dụng những nơi họ chiếm-cứ.

 

Kế quả của chánh-sách trên này là tổ-chức xă-hội được chặt chẽ và phần lớn sự hoạt-động của người qui về việc phụng-sự đoàn-thể. Nhưng làm như thế, người ta tất-nhiên phải khinh rẻ giá-trị con người. Tánh-mạng người bị xem như cỏ rác, nhơn-cách người bị chà đạp, trí-tuệ người bị khép vào bốn bức tường đen tối, đạo-đức người bị suy-đồi. Người quả có phụng-sự xă-hội, nhưng với tư-cách là con trâu, con ngựa, không phải với tư-cách con người. Và chung-qui, chỉ có một thiểu-số được hưởng những mối lợi mà sự nô-lệ hóa nhơn-loại đưa đến cho xă-hội. Trong trường-hợp đó, đại-đa-số nhơn-loại tuy không c̣n vị-kỷ một cách hẹp ḥi, nhưng cũng không phải tiến-bộ mà lại thoái-bộ một bước rât dài.

 

Như Pascal đă nói, người không phải là thiên-thần, nhưng cũng không phải là ác-thú, và cái khổ cho nhơn-loại là chính những kẻ muốn làm thiên-thần lại hóa ra làm ác-thú. Người cộng-sản đă nêu ra một lư-tưởng cao quí : họ muốn cho người hoàn-toàn tốt như thiên-thần. Nhưng muốn đi đến mục-đích, họ phải kềm chế người thái-quá, và cuối cùng chẳng những không thành-công được, họ lại c̣n hạ con người xuống hàng súc-vật. Thiết tưởng, những ai có chút lương-tri đều không thể chấp-nhận giải-pháp cộng-sản nếu họ biết rơ sự thật về giải-pháp ấy.

 

Nhưng, nói như thế không phải là ta không thể sửa chữa những khuyết-điểm của xă-hội. Ta đă nhận thấy rầng sự vị-kỷ là tánh-cách căn-bản của sự sinh-tồn và không sao hủy-diệt được. Một mặt khác, với sự mở mang của trí tuệ và ư-thức của người, cá-tánh của người đă phát-triển đến một mực rất cao, và người ta không thể tiêu-trừ nó mà không phạm đến giá-trị con người. Nhưng với một sự giáo-dục thích-hợp, với một tổ-chức khéo léo, ta có thể làm cho người hiểu rằng quyền-lợi cá-nhơn của người có dính dáng mật-thiết đến quyền-lợi chung của xă-hội. Do đó, bảo-vệ quyền-lợi xă-hội là bảo-vệ quyền-lợi sâu xa của chính ḿnh. Sự vị-kỷ thái-quá của người nhứt-định đưa xă-hội đến chỗ suy-vi hay hỗn-loạn, và điều này tự-nhiên có hại cho quyền-lợi cá-nhơn của người. Lịch-sử hưng vong của các dân-tộc tự cổ chí kim và từ đông sang tây là những gương sáng đủ để giác-ngộ con người.

 

Thật-sự th́ những nền luân-lư đều không ít th́ nhiều, dạy người nên hiểu quyền-lợi một cách sáng suốt. « Điều ḿnh không muốn, đừng làm cho kẻ khác », « Điều ḿnh muốn, hăy làm cho kẻ khác ». Đó là những huấn-thị nhắc người nên nghĩ đến quyền-lợi người khác, để bù lại, người khác nghĩ đến quyền-lợi của chính ḿnh.

 

Chủ-trương nhơn nghĩa của Mạnh tử nếu hiểu một cách đúng đắn th́ cũng có một tánh-cách tương tự. Cuộc đàm thoại giữa ông á-thánh đạo Nho với Lương Huệ-vương đă chỉ rơ bản ư Mạnh tử về vấn-đề này. Khi Mạnh tử đến yết kiến Lương Huệ-vương, nhà vua hỏi ông đem cái lợi ǵ đến cho nước ḿnh, Mạnh tử giảng ngay cho nhà vua biết rằng, nếu nhà vua nghĩ đến cái lợi của nước ḿnh, các quan to sẽ nghĩ đến cái lợi của nhà họ, dân-chúng sẽ nghĩ đến cái lợi của thân họ, trên dưới tranh mối lợi với nhau th́ nước phải nguy-khốn và nhà vua tất-nhiên phải thiệt-hại nhiều. Trái lại, nếu mọi người đều nghĩ đến việc nhơn-nghĩa th́ nước được phồn-thịnh an-ổn, và quyền-lợi mọi người đều được bảo-vệ. Vậy, thật-sự cái nhơn-nghĩa của thầy Mạnh tử không có chi khác hơn là quyền-lợi hiểu một cách sáng suốt sâu xa.

 

Ở những xă-hội văn-minh ngày trước, sự giáo-dục chưa phổ-thông, và những nhà đạo-đức hướng-dẫn tinh-thần nhơn-loại, không dám nhấn mạnh đến vấn-đề quyền-lợi, e rằng thị-dục người bành-trướng thái-quá, làm hại cho xă-hội. Do đó, thật-sự, đại-chúng không có một ư-thức rơ ràng về đời sống xă-hội và vẫn nghĩ đến những quyền-lợi cá-nhơn thiển-cận một cách mù quáng. Một số người có học thấy chủ-trương nhơn-nghĩa có vẻ vu-khoát quá cũng không theo nó, và sự điều-ḥa của xă-hội dựa vào một thiểu-số ưu-tú. Thiểu-số này c̣n đủ sức để nắm lấy cương-thường th́ xă-hội thạnh, nó mà yếu sức đi th́ xă-hội lại hỗn-loạn suy-vi.

 

Với một sự giáo-dục phổ-thông, dám nói đến vấn-đề quyền-lợi và chỉ rơ sự chánh-đáng của quyền- lợi hiểu một cách sáng suốt, người có thể vừa giữ cá-tánh ḿnh và đồng-thời mở rộng sự vị-kỷ của ḿnh ra đến phạm-vi xă-hội. Họ sẽ phụng-sự một cách có ư-thức để được hưởng lợi trong đó. Những khuyết-điểm của xă-hội văn-minh có thể nhờ đó mà bồi-bổ được.

 

Như vậy, người vẫn có thể tiến-hóa được về phương-diện tinh-thần. Sự tiến-hóa này không phải thực-hiện một cách vô-ư-thức như người hăy c̣n man-dă, mà dựa vào ư-thức nhiều hơn.

 

B.- NGUYÊN-NHƠN LÀM CHO NGƯỜI TIẾN-HÓA.

 

Động-lực căn-bản của sự tiến-hóa là ư-chí sinh-tồn của người, nó làm cho người cố-gắng tranh-đấu để duy-tŕ và khuếch-trương sự sống của ḿnh. Trong sự cố-gắng tranh-đấu này, người đă nhờ một yếu-tố rất mạnh giúp đỡ ḿnh : đó là quan-năng biến-cải.

 

Trong thời-kỳ tiền-sử, quan-năng biến-cải tự-nhiên đă giúp cho những động-vật thủy-tổ của người thay đổi h́nh-thể và tánh-cách cho thích-nghi với hoàn-cảnh và vượt qua những nguy-cơ uy-hiếp ḿnh. Kết-quả của những sự biến-cải liên-tiếp nhau trong hàng triệu năm, đó là cơ-thể người dưới h́nh-thức hiện-tại, và những khả-năng tiềm-thế về sanh-lư và tâm-lư, phong phú vô-cùng.

 

Sau khi đạt được h́nh-thể hiện-tại, quan-năng biến-cải tự-nhiên của người vẫn tiếp-tục giúp người trong sự ứng-phó với hoàn-cảnh. Quan-năng biến-cải này là kết-quả của cơ-cấu thể-chất con người, với tất cả những kinh-nghiệm của đời sống quá-khứ ghi lại trong các vi-nhơn của tế-bào. Nó có một tánh-cách cá-nhơn rơ rệt. Tuy-nhiên, khi người hợp nhau lại sống thành xă-hội, sự biến-cải đă xoay qua một chiều hướng khác.

 

Sự hợp-quần đă tự nó gây thêm sức mạnh cho người. Nó giúp người đương đầu lại các giống khác một cách có hiệu-lực hơn. Nhờ nó, sự sản-xuất vật phẩm được tăng-gia rất nhiều, đời sống vật-chất của người do đó mà được đầy đủ hơn, và người được rảnh rang hơn. Một mặt khác, sự hợp-quần làm cho người sống chung lộn nhau và tạo những điều-kiện để người được mở mang những quan-năng tinh-thần của ḿnh.

 

Một trong những biểu-lộ bản-năng xă-hội là tánh hay bắt chước. Tánh này làm gốc cho sự giáo-dục của người.

 

Theo quan-niệm của nhiều ngưới, nói đến giáo-dục là nói đến cả một vấn-đề chương-tŕnh, phương-pháp và tổ-chức để dạy dỗ người. Đối với những người này, sự giáo-dục chỉ có  thể xuất-hiện ở những xă-hội văn-minh, khi người đă có th́ giờ rảnh rang để nghĩ đến những vấn-đề cao-thượng chớ không phải chỉ chăm chăm chú chú vào việc mưu-sanh.

 

Nhưng nếu xét bản-chất sự giáo-dục, ta sẽ thấy ngay rằng nó không có ǵ khác hơn là sự truyền dạy những tri-thức, kinh-nghiệm, những biến-cải đă từng đem thắng-lợi lại cho người khác. Hiểu như thế, sự giáo-dục là sự kiện căn-bản của đời sống con người. Nó không phải xuất-hiện khi người có ư-thức, mà đă có ngay khi người chưa có ư-thức rơ rệt về sự sống của ḿnh.

 

Trong thời-kỳ cổ-sơ, sự giáo-dục qui về sự bắt chước.  Đó là cái khả-năng mà cũng là cái nhu-cầu khiến cho trẻ con làm y theo người lớn. Trong những xă-hội mộc mạc ngày xưa, đứa bé vừa đủ sức th́ đă được lôi kéo vào đời sống của người lớn. Trai th́ theo cha, gái th́ theo mẹ, chúng tham-dự vào những công việc hằng ngày : đi săn bắn, đi chài lưới, đi chăn nuôi, làm công việc nhà hay đi gặt hái. Cuộc sống và sự hoạt-động là trường học của chúng. Đó là một sự giáo-dục tự-nhiên bắt đầu bằng những tṛ chơi của trẻ con bắt chước người lớn và tiếp-tục với những công-tác của kẻ thành-niên.

 

Sự tham-dự đời sống chung bên cạnh người lớn trong tất cả những hoạt-động làm cho đứa trẻ lần lần am-hiểu, quen thuộc những ư-tưởng, phong-tục, cách cư-xử của xă-hội trong đó nó sống. Những điều nên làm, những điều phải tránh, những cử-chỉ hành-động cấn-thiết ăn sâu vào đầu óc đứa trẻ nhờ sự thực-hành. Lẽ cố-nhiên là cá-tánh người chưa nảy nở được trong thời-kỳ này và sự giáo-dục chỉ có mục-đích làm cho các cá-nhơn giống nhau và sống ḥa hợp nhau được trong đoàn-thể.

 

Một số bộ-lạc, khi đă tiến đến một tŕnh-độ văn-hóa cao hơn, th́ bày ra tục-lệ đánh dấu thời-kỳ trưởng-thành của trẻ con. Lúc đứa trẻ đến tuổi thành-niên, người ta tổ-chức những cuộc lễ nh́n nhận nó đă nên người. Trong những cuộc lễ này,  những người trai thanh-niên có thể trải qua những cuộc thử-thách vừa có tánh-cách thực tiễn vừa có tánh-cách thần-bí, cốt để gây một ấn-tượng mạnh mẽ trong đầu óc chúng và làm cho chúng thấy rơ sự thành-công của chúng.

 

Sự giáo-dục trong thời-kỳ xa xôi này có cái lợi rất là thực-tiễn và làm cho con người được luyện-tập từ nhỏ để giống y như người khác. Điều này làm cho tánh-cách đồng-nhứt của nhơn-viên trong đoàn-thể được bảo-vệ một cách chắc chắn, và người tự-nhiên khép ḿnh vào đoàn-thể không cần phải cố-gắng. Tuy thế, nó không tăng-cường được cá-tánh người phải khép người vào bên trong một ṿng xă-hội nhỏ hẹp không thông với đoàn-thể khác.

 

Sau nhiều thế-kỷ cố gắng và ṃ mẫm, nền văn-minh đột nhiên xuất-hiện ở lưu-vực sông Nil, hai con sông Euphrate và Tigre, Ấn-hà (Indus) và Hoàng-hà. Với những nền văn-minh này, ta mới thấy phát-hiện những phương-pháp giáo-dục đặc-biệt. Những chế-độ giáo-dục của các xă-hội nầy có nhiều điểm khác nhau, nhưng cũng có chỗ chung nhau.

 

Nói một cách khái-quát th́ với những nền văn-minh nầy, bắt đầu có sự phân-biệt giữa quần-chúng và hạng ưu-tú. Quần-chúng thường vẫn được giáo-dục về những tri-thức cần-thiết cho đời sống hàng ngày và cho sự làm việc để mưu-sanh. Sự giáo-dục này phần lớn có tánh-cách tự-nhiên như sự giáo-dục cổ-sơ và chỉ thi-hành trong phạm-vi gia-đ́nh hay phường nghề-nghiệp. Những người ưu-tú tự-nhiên được giáo-dục một cách kỹ càng hơn và được hấp-thụ những tri-thức cao-đẳng, tinh-túy của văn-minh.

 

Sự tổ-chức giáo-dục của những xă-hội văn-minh nầy không làm cho mọi người hướng đến chỗ giống nhau hoàn-toàn nữa, cá-tánh đă bắt đầu nảy nở và sự đồng-nhứt của xă-hội không c̣n duy-tŕ được. Tuy nhiên, cứu-cánh của giáo-dục bao giờ cũng là bảo-vệ xă-hội và giữ cho xă-hội an-ổn vững vàng. Do đó, tinh-thần của nền giáo-dục luôn luôn phù-hợp với chế-độ xă-hội.

 

Những dân-tộc theo chế-độ phân chia giai-cấp như Ấn-độ và Ai-cập th́ dành những tri-thức cao đẳng cho nhơn-viên của giai-cấp trên, người của giai-cấp hạ tiện không được phép học hỏi. Những nhơn-viên các giai-cấp trung gian chỉ được hấp-thụ một sự giáo-dục sơ-đẳng : họ chỉ được học đọc, học viết, học các phép toán và một ít tri-thức thông-thường.

 

Những dân-tộc hướng đến một chế-độ b́nh-đẳng hơn như dân-tộc Trung-Hoa và một số dân-tộc Viễn Đông bị ảnh-hưởng Trung-Hoa th́ cho mọi người được học-tập. Thật-sự, số người đi học đến nơi đến chốn không có được bao nhiêu, và sự giáo-dục không có tánh-cách phổ-thông. Nhưng dầu sao, nhờ chỗ mọi người đều có quyền đi học, nền văn-hóa của những dân-tộc nầy có những gốc rễ sâu xa trong đại-chúng chớ không qui-tập về một thiểu-số như ở các dân-tộc theo chế-độ phân chia giai-cấp.

 

Ở nước Ba-tư thời cổ, sự giáo-dục là độc quyền của chánh-phủ. Ở Ai-cập và Ấn-độ, độc quyền này thuộc về giai-cấp giáo-sĩ, c̣n ở Trung-Hoa, sự giáo-dục được tự-do : mỗi người đều có thể mở trường dạy học-tṛ, miễn là ông thầy không đưa ra những chủ-trương trái với đạo-lư đương-hành.

 

Chương-tŕnh giáo-dục cao-đẳng rất khác nhau tùy theo tâm-tánh và lư-tưởng mỗi dân-tộc. Người Ba-tư xây dựng và duy-tŕ đế-quốc họ bằng vơ-lực nên nhắm mục-đích đào-luyện chiến-sĩ. Họ dạy các thanh-niên về vơ-thuật, về các tri-thức quân sự và cố mở mang tinh-thần thượng-vơ cùng các đức-tánh cần-thiết cho sự chiến-đấu. Người Ấn-độ có óc thần-bí, nên hướng các khoa-học siêu-h́nh : triết-học, thần-học. Người Ai Cập ngoài sự giáo-dục về thần-học, lại c̣n đào-luyện những kỹ-thuật gia và do đó mà hướng về khoa-học. Người Trung-Hoa có tinh-thần thực-tiễn hơn hết và nhắm vào cứu-cánh đào-luyện những công-dân : trong chương-tŕnh giáo-dục của họ, phần quan-trọng nhứt là phần biết dạy người biết nhiệm-vụ họ đối với vua , với nước.

 

Trong tất cả những xă-hội trên này, tôn-giáo đóng một vai tuồng quan-trọng. Nó là yếu-tố thống-nhứt các tư-tưởng của người và mỗi người đều phải có những tri-thức căn-bản về quan-niệm Thượng-Đế được lưu-hành. Một mặt khác, sự giáo-dục thời đó dựa vào nguyên tắc tôn-trọng tư-tưởng các thánh-nhơn và kinh-điển trước hết. V́ lẽ sách vở chưa được phổ-thông, mà những ư-niệm của thánh hiền lại được xem là những luận-cứ vững chắc nhứt trong cuộc tranh-luận, nên những học-sinh phải học thuộc ḷng tất cả những kinh sách điển cố. Điều này làm cho kư-ức rất mực mở mang, trong khi óc phán-đoán phê-b́nh bị kềm thúc nên không phát-triển được.

 

Sau những nền văn-minh cổ trên này, trên thế-giới lại thấy phát-hiện nhiều nền văn-minh khác, trong đó quan-trọng nhứt là hai nền văn-minh Hy-lạp và La Mă. Những nền văn-minh nầy có một ảnh-hưởng rất to đến các xă-hội Âu Mỹ và do các xă-hội này mà ảnh-hưởng đến phần lớn nhơn-loại hiện thời.

 

Với người Hy-lạp, ta thấy xuất-hiện ư-tưởng tôn thờ cái đẹp của thể-chất thiên-nhiên. Nền thể-dục hết sức mở mang và đi đôi với các nghệ- thuật, các khoa-học để đào-tạo những con người gương mẫu, có một cá-tánh mạnh mẽ và một tinh-thần tự-do cường-kiện.

 

Người La-mă có tinh-thần kỷ-luật và thực-tiễn hơn người Hy-lạp. Sự giáo-dục của họ hướng về mục-đích đào-luyện những công-dân tốt. Những khoa-học thực-dụng, cũng như những đức-tánh cần-thiết cho đời sống quốc-gia rất được tôn-trọng và mở mang. Nhờ những đức-tánh đặc-biệt của ḿnh, người La-mă đă xây dựng được một đế-quốc hùng-cường to rộng. Họ đă mang nền văn-hóa riêng của họ và nền văn-hóa Hy-lạp truyền bá khắp Âu-châu.

 

Sau khi đế-quốc La-mă sụp đổ, Âu-châu bị đắm ch́m trong sự tối tăm hỗn-loạn một thời-gian khá dài. Dưới sự chi-phối của Thiên-chúa-giáo, người ta hướng về lư-tưởng khổ-hạnh và tinh-thần tôn-trọng kinh điển rất mực mở mang. Chỉ đến thời-kỳ Phục-hưng Văn-Nghệ, ḷng yêu đời vui sống của người cổ Hy-lạp mới tái-hiện và lôi cuốn dân-chúng Âu-châu vào một chiều hướng mới. Sự giáo-dục tự-nhiên được mở mang hơn, đồng-thời, khoa-học thực-nghiệm bắt đầu nảy mầm và phát-triển.

 

Từ thời-kỳ Phục-hưng Văn-Nghệ trở đi, xă-hội Âu-châu tiến mạnh trên con đường cải-tổ giáo-dục. Trong sự cải-tổ này, ta có thể nhận thấy một khuynh-hướng mới.

 

Trước hết, sự giáo-dục lần lần có tánh-cách đại-chúng hơn : không những chỉ dành riêng cho hạng thượng-lưu, nó mở ra cho tất cả mọi người, ít nhứt là ở cấp tiểu-học. Kế đó, nó không qui về một qui- phạm hẹp ḥi mà lan rộng ra tất cả mọi ngành hoạt-động của người : chánh-trị, khoa-học, văn-chương, nghệ-thuật, nghề nghiệp v.v… Sự đào-luyện thân-thể và đức-tánh được đề cập đến chung với sự mở mang trí-tuệ. Người ta lại chú-ư đến việc làm phát-triển trí phán-đoán và sự phát-minh chớ không phải chỉ nhắm vào việc đào-luyện kư-ức và sự bắt chước như trong xă-hội cổ.

 

Tuy nhiên các dân-tộc Âu-châu không phải tổ-chức sự giáo-dục của ḿnh như nhau. Mặc dầu có những khuynh-hướng chung như nhau, mỗi dân-tộc đều có một tổ-chức riêng biệt với những tánh-cách khác nhau.

 

Người Anh có một tổ-chức hướng về sự đào-luyện tánh-khí và mở mang thể-chất, trí-tuệ cùng đức- hạnh một cách đồng đều nhau. Người Đức th́ hướng về sự thực dụng và tinh-thần kỷ-luật quốc-gia, trong khi người Pháp hăy c̣n thiên về lư-thuyết và sự mở mang trí-tuệ nhiều.

 

Với sự mở mang của khoa-học, tôn-giáo lần lần kém thế, và không c̣n bao trùm sự giáo-dục như trước. Nhưng v́ khoa-học chưa phát-triển đến mức chi-phối hết cả đời sống tinh-thần của người nên những tri-thức của người không qui tập vào một hệ-thống như trước.Chỉ sau này, khi các chế-độ độc-tài đặt nền tảng trên một chủ-nghĩa được thiết-lập ở một vài nơi trên thế-giới, người ta mới cố-gắng thực-hiện lại sự thống-nhứt tinh-thần theo nguyên-lư của chủ-nghĩa ḿnh tôn thờ.

 

Lẽ cố nhiên là những chế-độ độc-tài nói trên đây t́m cách đào-luyện những thế-hệ người theo quan-niệm ḿnh. Liên-bang Sô-viết đă thực-hiện một chương-tŕnh giáo-dục đặc-biệt trong đó mọi tư-tưởng và hành-động của người được hướng về mục-đích cộng-sản và được uốn nắn theo lư-luận Karl Marx. Trong thời-kỳ ngự-trị trên nước Đức và nước Ư, các đảng Quốc-xă và Phát-xít cũng ráng sức cải-tổ nền giáo-dục theo chủ-trương ḿnh.

 

Nói một cách khái-quát th́ sự giáo-dục hết sức hữu-ích cho người. Nó tập-trung và truyền dạy những kinh-nghiệm, ư-tưởng người đạt được trong cuộc tranh-đấu sinh-tồn của ḿnh. Một mặt, nó giúp cho những trẻ biết được một số tri-thức cần-thiết cho đời sống, một mặt, nó khuếch-trương thêm các tri-thức này và cải-lương kỹ-thuật hoạt-động của người. Như thế, nó là một yếu-tố căn-bản của quan-năng biến-cải có ư-thức và do đó, nó cũng là một động-lực cho sự tiến-hóa của người.

 

Tuy nhiên, sự giáo-dục một phần nào cũng có thể có hại cho xă-hội. Sự đào-luyện con người theo khuôn khổ khắc-nghiệt, ḷng tôn-sùng cổ-nhơn quá độ thường làm ngưng-kết tư-tưởng và chận đứng sự tiến-bộ. Những nền văn-hóa đông-phương ngày xưa cao hơn văn-hóa tây-phương, nhưng v́ chế-độ giáo-dục chỉ hướng về quá-khứ nên không tiến-hóa được, và về sau phải chịu phần thấp kém hơn những nền văn-hóa tây-phương, nhờ sự cạnh-tranh nhau, nhờ chủ-trương hướng về tương-lai mà vượt lên trên được.

 

Như thế, được tạo ra với mục-đích truyền dạy các kinh-nghiệm của chủng-loại lại cho những cá-nhơn trẻ tuổi, và do đó mà điều-khiển sự biến-cải của người trong sự tranh-đấu sinh-tồn, giáo-dục có khi đi đến kết-quả trái ngược lại. Nó có thể ngưng-kết sự tiến-hóa của tư-tưởng người và đào-tạo ra những hạng người thuộc nhiều sách vở mà thiếu hẳn óc thực-tiễn. Những người này thường lại là những người nắm vận-mạng của xă-hội trong tay, và sự bất-lực của họ hết sức có hại cho sự sinh-tồn của đoàn-thể.

 

Thật-sự th́ trong tương-lai của một xă-hội tùy-thuộc chế-độ giáo-dục của xă-hội ấy rất nhiều, và đối với những người có ư-thức, giáo-dục là yếu-tố quan-trọng hơn hết cho sự tranh-đấu sinh-tồn và sự tiến-hóa của người.

 

 

0

0  0

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

www.nguyenkinhdoanh.com

www.nguyenkinhdoanh.net

www.lesyminhtung.net

www.diendantheky.net

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: