Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
Hoàng Văn Chí
Trăm hoa đua nở trên đất Bắc
1 2 3 4 5 6 7
"... Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với ḿnh, th́ rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết." (Phan Khôi)
Mục lục
Lời tựa
Phần I: Cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc
Chương I: Nguyên nhân cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc
Chương II: Lịch tŕnh đấu tranh của trí thức ở miền Bắc
Chương III: Phương pháp đấu tranh của trí thức ở miền Bắc
Phần II: Tài liệu (Nhân vật và Tác phẩm)
I. Phái cựu học
Cụ Phan Khôi
Giới thiệu cụ Phan Khôi
Phê b́nh lănh đạo văn nghệ
T́m ưu điểm (ngụ ngôn)
Ông B́nh Vôi
Ông Năm Chuột (truyện ngắn)
Nắng chiều
II. Phái thanh niên
Trần Dần
Giới thiệu Trần Dần
Nhất định thắng (thơ)
Hăy đi măi (thơ)
Phùng Quán
Giới thiệu Phùng Quán
Chống tham ô lăng phí (thơ)
Lời mẹ dặn (thơ)
Tạ Hữu Thiện
Giới thiệu Tạ Hữu Thiện
Tôi t́m em (thơ)
Bùi Quang Đoài
Giới thiệu Bùi Quang Đoài
Lịch sử một câu chuyện t́nh (truyện ngắn)
Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị (bút chiến
Minh Hoàng
Giới thiệu Minh Hoàng
Đống máy (truyện ngắn)
Phùng Cung
Giới thiệu Phùng Cung
Con ngựa già của chúa Trịnh (truyện ngắn)
Trần Lê Văn
Giới thiệu Trần Lê Văn
Bức thư gửi một người bạn cũ
Hoàng Tích Linh
Giới thiệu Hoàng Tích Linh
Xem mặt vợ (kịch ngắn một hồi)
Cơm mới (kịch một hồi)
III. Các nhà văn đứng tuổi
Tồ Hữu
Giới thiệu Tố Hữu
Bài ca tháng Mười (thơ)
Đời đời nhớ Ông (thơ)
Nguyễn Tuân
Giới thiệu Nguyễn Tuân
Phở (tuư bút)
Phê b́nh nhất địnnh là khó
Nguyễn Tuân tự phê b́nh
Văn Cao
Giới thiệu văn Cao
Anh có nghe không (thơ)
Những ngày báo hiệu mùa xuân (trích trong bài thơ dài “Những người trên cửa biển”)
Trần Duy
Giới thiệu Trần Duy
Những người khổng lồ
Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ
Hoàng Cầm
Giới thiệu Hoàng Cầm
Em bé lên sáu tuổi (thơ)
Tiếng hát (trích 2 đoạn trong hồi thứ nhất vở kịch thơ dài Tiếng hát Trương Chi)
Hữu Loan
Giới thiệu Hữu Loan
Cũng những thằng nịnh hót (thơ)
Lộn ṣng (truyện ngắn)
Sỹ Ngọc
Giới thiệu Sỹ Ngọc
Làm cho hoa nở bốn mùa
Bất măn
Chu Ngọc
Giới thiệu Chu Ngọc
Chúng ta gắng nuôi con (hoạt cảnh)
Như Mai
Giới thiệu Như Mai
Thi sĩ máy
IV. Các nhà học giả
Đào Duy Anh
Giới thiệu Đào Duy Anh
Muốn phát triển học thuật
Trần Đức Thảo
Giới thiệu Trần Đức Thảo
Nội dung xă hội và h́nh thức tự do
Nỗ lực phát triển tự do dân chủ
Nguyễn Mạnh Tường
Giới thiệu Nguyễn Mạnh Tường
Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo
Vừa khóc vừa cười
Lời tựa
Trăm hoa đua nở, Trăm nhà [1] đua tiếng là dịch nôm câu chữ Hán: Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh, trong cổ văn.
Đây là một câu mà các học giả đời Hán đặt ra để vừa ca tụng vừa tỏ ư luyến tiếc nền văn học cổ điển của Trung Quốc, sáng ngời trong mấy thế kỷ trước, về thời Đông Chu.
Văn học Trung Hoa về thời Đông Chu quả thật xứng đáng cho các thế hệ sau ca ngợi, v́ trong ṿng ba thế kỷ (từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch kỷ nguyên), các học giả thời Đông Chu đă đưa nền văn học Trung Quốc từ chỗ thấp nhất đến chỗ cao nhất mà hai ngh́n năm sau, không tài nào vươn tới.
Gần như cùng một lúc, Lăo học, Khổng học và Mạc học đua nhau ra đời, tiếp theo là những học thuyết uyên thâm của Mạnh Tử, Tuân Tử và Dương Chu. Có thể nói được rằng hầu hết các lư thuyết hiện nay c̣n đương tranh giành ảnh hưởng trong nhân loại, như chủ nghĩa dân chủ, lăng mạn, vô chính phủ, duy vật, xă hội, quân chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến, phát xít, v.v... đều đă có đại diện từ thời bấy giờ. Tính theo thời gian th́ nền văn học Trung Quốc đă bỏ xa nền văn học Âu châu vào khoảng 20 thế kỷ.
V́ vậy nên ngày nay, những học giả nghiên cứu về lịch sử văn hoá Á đông đều phải thắc mắc về một điểm: Tại sao một nền văn hoá đương phát triển một cách tốt đẹp như vậy lại bỗng nhiên đứng dừng lại, khiến trong suốt hai ngh́n năm về sau, Trung Quốc chỉ có lùi mà không có tiến về phương diện tư tưởng?
Ông Tibor Mende, một nhà học giả Tây phương, chuyên nghiên cứu về các vấn đề Á đông, đă ví nền văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ như hai con sông lớn, đă mang sinh lực tưới khắp miền Đông Nam Á, bỗng dưng bị cạn hết nước. Nguyên nhân ǵ đă làm tịt ng̣i? Ông nêu ra câu hỏi mà không trả lời. [2]
Nói một cách rơ ràng hơn th́: Tại sao về thời Đông Chu lại có Khổng, Mạnh, Lăo, Mạc,.. mà hai ngh́n năm sau không có vị thánh hiền nào cả? Hoặc dùng một h́nh ảnh tượng trưng th́: tại sao trong một thời đại loạn ly như thời Xuân Thu, Chiến Quốc, trăm hoa lại đua nở mà từ thời ấy về sau hoa lại không nở?
Chúng tôi nghĩ rằng nếu ôn lại lịch sử chính trị Trung Quốc, chúng ta có thể t́m ra câu giải đáp.
Về thời Đông Chu, Trung Quốc bị phân chia thành nhiều nước chư hầu, luôn luôn đánh nhau để tranh giành ngôi bá chủ, nên nước nào cũng lo thu phục nhân tài để mở mang thế lực. V́ vậy nên kẻ sĩ đương thời được trọng đăi. Một mặt khác v́ nước nào cũng yếu, nên không ông vua nào có đủ quyền lực để thiết lập chế độ độc tài. Do đó ngôn luận không bị kiềm chế v́ các nhà học giả, nếu chẳng may bị vua chúa trong nước khủng bố v́ tội đă phát biểu một ư kiến trái ngược với đường lối của triều đ́nh, th́ cũng dễ dàng vượt biên giới chạy sang nước đối nghịch, có người sẵn sàng dung nạp ngay. V́ vậy nên mới có quang cảnh "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng". Nếu hoa không nở được ở khí hậu này, có thể nở được ở khí hậu khác. Nếu một học giả không phổ biến được tư tưởng của ḿnh ở Tề, th́ có thể di cư sang Sở chẳng hạn, để truyền bá học thuyết của ḿnh.
Thời Đông Chu tuy là một thời loạn lạc, nhưng chính v́ loạn lạc mà tư tưởng không bị kiểm soát.
Trái lại, sau khi Thương Ưởng đưa ra thuyết quân chủ chuyên chế và Lư Tư, học tṛ của Thương Ưởng giúp Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, th́ từ ngày ấy về sau không một vị thánh hiền nào xuất hiện trên đất Trung Quốc nữa. Một lẽ rất dễ hiểu là không có tự do tư tưởng th́ không có nhà tư tưởng, cũng như hễ không có nước th́ không thể nào có cá được.
Lư Tư, môn đệ của phái Pháp gia, được Tần Thuỷ Hoàng bổ làm Thượng thư, làm sớ tâu đại khái như sau:
"Từ trước tới nay, thiên hạ sống trong cảnh phân chia, nên tư tưởng bị hỗn loạn... Ngày nay Bệ hạ đă thống nhất sơn hà mà vẫn c̣n nhiều người ngang nhiên mở trường dạy học, mang ư kiến riêng của ḿnh ra chê bai luật pháp và chính sách của triều đ́nh... Nếu Bệ hạ không mau ngăn cấm th́ kỷ cương sẽ sụp đổ từ trên xuống dưới và đảng phái sẽ mọc từ dưới lên trên."
Năm 213 trước Tây lịch, Tần Thuỷ Hoàng nghe theo Lư Tư đốt hết sách vở có phương hại đến đường lối của Tần triều và chôn sống 460 nhà trí thức đối lập. [3] Họ bị chôn sống v́ bờ cơi của đế quốc Tần rộng quá, không tài nào chạy thoát. Từ ngày ấy Trung Quốc có một chính phủ duy nhất, một luật pháp duy nhất, nhưng cũng có một lối nghĩ duy nhất. Trăm hoa hết đua nở và trăm nhà đều im tiếng.
Sau Tần đến Hán. Các vua triều Hán, khôn ngoan hơn vua Tần, không cấm đoán tư tưởng, nhưng hạn chế tư tưởng bằng cách đưa Khổng giáo lên địa vị quốc giáo, khiến các học thuyết khác phải lùi bước. Triều đ́nh chỉ tuyển lựa những người thông hiểu Ngũ kinh, Tứ thư để bổ làm quan lại, nên Nho học trở thành bậc thang cho giới trí thức bước lên đàn sĩ hoạn. [4] Nhưng cũng v́ vậy mà triết lư của Khổng Tử bị xuyên tạc và Khổng học chỉ c̣n là một lợi khí của giới thống trị. Nói theo kiểu cụ Phan Khôi th́ "Trăm hoa" đă trở thành hoa cúc vạn thọ hết thẩy. [5]
Suốt trong 20 thế kỷ về sau, trí thức Trung Hoa luôn luôn bị khủng bố. Tư Mă Thiên bị thiến, Ban Cố bị chết trong ngục, Phạm Việp vị xử tử... cho đến người cuối là Lương Khải Siêu, phải chạy sang Nhật Bản mới thoát thân.
Từ ngày ông Mao Trạch Đông lên kế nghiệp Tần Thuỷ Hoàng, ông đă giết Hồ Phong, và nhiều học giả khác, nhưng gần đây ông lại tuyên bố cho phép "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng".
Không ai biết rơ chủ định của ông Mao như thế nào, nhưng mọi người đều nhận thấy rằng trên toàn cơi Trung cộng hiện nay, không có thứ hoa nào khác hơn là hoa Mác-Xít.
Tóm lại dù là chuyên chế kiểu quân chủ hay kiểu cộng sản, chế độ tập quyền vẫn tiêu diệt tự do tư tưởng. Ngày nay cũng như suốt hai ngh́n năm về trước, trí thức Trung Hoa vẫn bị bịt mồm, bịt miệng.
Từ ngày Bắc Việt trở thành một "vệ tinh" của khối cộng sản, trí thức ở Bắc Việt cũng lâm vào t́nh trạng chung của đồng bạn ở khắp trong bức màn sắt.
Nhưng "40 năm một thuở", trong dịp hạ bệ Stalin vừa qua, họ đều đứng dậy đấu tranh chống Đảng, đ̣i phục hồi quyền tự do tư tưởng. Trong phong trào quật khởi này, trí thức ở Bắc Việt cũng đă góp một phần quan trọng. Suốt trong thời gian hai năm, 1956 và 1957, trí thức ở miền Bắc đă sản xuất trên một trăm bản văn có giá trị. Cộng sản coi những bản văn ấy là những "cỏ độc", nhưng chúng tôi coi những tác phẩm của họ như một "trăm hoa" thực sự.
V́ vậy nên chúng tôi sưu tầm và kết lại thành một "bó hoa" để cống hiến độc giả, ḥng góp sức vào công việc làm sáng tỏ thêm nền văn học hiện đại của dân tộc Việt Nam.
Đối với độc giả trong Thế giới Tự do chúng tôi cũng muốn nói một câu: Không nên nghĩ rằng cần phải chuyên chế mới có đủ phương tiện để thực hiện những công tŕnh vĩ đại, v́ xưa kia Tần Thuỷ Hoàng cũng đă thực hiện những công cuộc vĩ đại, xây đắp Vạn lư Trường thành, thiết lập xa lộ, thế mà nhà Tần vẫn bị mất nghiệp; một mặt khác, chính v́ Tần Thuỷ Hoàng khởi đầu việc đàn áp tư tưởng mà văn hoá Trung Quốc đă bị đứng dừng trong hai ngàn năm nay. Lợi nhất thời không bằng hại muôn thuở.
Saigon, tháng Giêng 1959
Hoàng Văn Chí
Trưởng ban biên tập của
Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá
Phần I: Cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc
Chương 1: Nguyên nhân cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc
Trí thức ở miền Bắc Việt Nam đă nổi dậy chống lại chế độ cộng sản từ mùa Xuân năm 1956 mà măi đến cuối Thu năm ấy báo chí ở Sài G̣n mới được tin v́ nhà cầm quyền miền Bắc đă dùng mọi biện pháp để cố t́nh bưng bít một cuộc nội biến đánh dấu sự suy sụp của hệ thống tư tưởng cộng sản. Suốt trong thời gian mấy tháng, trong khi trí thức ở miền Bắc đă anh dũng vùng dậy đánh những đ̣n chí mạng vào uy tín của Đảng th́ báo chí và đài phát thanh của Đảng hoàn toàn làm ngơ. Đảng chỉ mải miết dùng lực lượng công an để đe doạ những người đọc báo, bán báo và ra lệnh cho công đoàn xui giục công nhân nhà in không in báo đối lập.
Cho măi đến khi những "đ̣n ngầm" đó không hạ nổi địch thủ, và cũng đến khi phe đối lập dồn Đảng vào chân tường, không có thế lui, Đảng mới chỉ thị cho các đoàn thể ở khắp mọi nơi viết kiến nghị đ̣i đóng cửa các báo đối lập. Chính những lúc kiến nghị đồng loạt đó xuất hiện trên mặt báo Nhân dân, th́ dư luận ở Sài G̣n mới biết là có báo đối lập ở miền Bắc. Chỉ một tháng sau thông tín viên hăng AFP ở Hà Nội loan tin cho thế giới biết việc nông dân ở Nghệ An đă bạo động nổi dậy, dùng gậy tre và những vơ khí thô sơ khác đánh nhau với bộ đội. Tin đó làm nhiều người sửng sốt.
Sửng sốt là phải, v́ trước đó một tháng các báo chí của Đảng và đài phát thanh Hà Nội hăy c̣n say sưa ca khúc khải hoàn sau đợt Cải cách ruộng đất "hoàn toàn thắng lợi".
Đùng một cái, ông Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng, ông Hồ Viết Thắng, Thứ trưởng phụ trách Cải cách ruộng đất đột nhiên bị cất chức: ông Vơ Nguyên Giáp phải đứng ra thay mặt Trung ương Đảng công khai thú nhận sai lầm và hứa hẹn sửa chữa. Tiếp đến là tin cán bộ tập kết phá bóp cảnh sát Bờ Hồ, tin học sinh tập kết khởi loạn ở Ngă Tư sở, và cuối cùng là "vụ Quỳnh Lưu".
Nhiều người ở Sài G̣n không ngờ có những chuyện lạ lùng như vậy. Ngạc nhiên trước tiên là số người trước kia có tham gia kháng chiến, và hiện c̣n lưu luyến chiến khu. Họ không phân biệt kháng chiến với cộng sản, nên cứ yên trí rằng chế độ miền Bắc thực sự là chế độ "dân chủ cộng hoà" và ông Hồ là một người chân thành ái quốc. Họ cũng đinh ninh rằng những phần tử nhiệt thành như họ, trước kia đă tích cực tham gia kháng chiến th́ ngày nay vẫn phục vụ chính sách của "Bác" cho đến cùng. Họ không ngờ rằng "giá" họ được đi tập kết th́ chính họ cũng sẽ phải dự vào cuộc phá bóp cảnh sát Bờ Hồ (Hà Nội) để giải thoát cho một số "tập kết" bị giam cùm trong đó.
Những người thông thường, có đôi chút kinh nghiệm đau xót với cộng sản, kể cả những đồng bào Bắc Việt di cư cũng không ngờ rằng trong một thời gian không đầy hai năm t́nh h́nh ở nơi quê cha đất tổ có sự thay đổi quá nhanh chóng như vậy. Họ nhớ ngày nào quân đội của "Cụ" kéo vào chiếm đóng Hà Nội, nhân dân thủ đô c̣n đón rước tưng bừng. Nào cờ quạt, nào biểu ngữ, nào cổng chào, nào kéo nhau đi xem văn công, [6] xem triển lăm. Họ không ngờ rằng chỉ một năm sau khi họ bỏ nhà cửa ra đi, bộ đội oai hùng đó lại bị chính ngay nông dân vác gậy phang vỡ đầu.
Giới quan sát ở Sài G̣n th́ không ngạc nhiên khi nhận được những tin tức kể trên. Họ đă tiên đoán rằng sớm muộn thế nào cộng sản cũng phải "sửa sai" để vớt vát ḷng dân v́ từ năm 1926 Mao Trạch Đông, trong bài "Cuộc đấu tranh của nông dân Hồ Nam" đă chủ trương rằng: "Muốn nắn một vật cong th́ phải nắn quá mức, để khi buông tay ra th́ vừa". Nhưng phải thú thực rằng ít người ngờ rằng khi buông tay ra, vật cong đó lại bật trở lại quá mạnh, và bật đúng vào mặt người đă "uốn quá mức".
V́ dân tộc Việt Nam vốn dĩ là một dân tộc có truyền thống chịu đựng để tồn tại. Trong khi chịu đựng, họ luôn luôn chăm chú chờ dịp kẻ thù yếu thế là lập tức quật trở lại. Đối với cộng sản ngày nay cũng như đối với phong kiến Trung Quốc thuở xưa, dân Việt Nam vẫn dùng chính sách dĩ nhu nhược thắng cương cường. Họ giả vờ găi đầu găi tai, vâng vâng, dạ dạ, làm cho kẻ thống trị ăn no ngủ yên, lâu ngày sinh ra chủ quan khinh địch. Bệnh chủ quan này người Hán, người Minh, người Pháp ngày xưa đă mắc phải. Ngày nay Việt cộng và các cố vấn "vĩ đại" cũng không sao tránh được.
V́ nếu thực dân và đế quốc có chủ quan của thực dân đế quốc, th́ cộng sản cũng có chủ quan đặc biệt của cộng sản. Mặc dù đă học thuộc biện chứng pháp, họ vẫn quên không nhớ rằng mọi vật đều biến chuyển, nên chi họ không ngờ rằng ngay trong hàng ngũ của họ đă phát sinh ra những "mâu thuẫn đối kháng" đưa dần đến sự "huỷ thể của huỷ thể".
Nói một cách khác, Việt cộng không tính đến hai việc: Một việc là giới trí thức đă tham gia kháng chiến dưới quyền lănh đạo của họ lại dám ngang nhiên nổi dậy chống họ, hai là họ không ngờ rằng đồng chí Khrushchev lại "nỡ ḷng" hạ bệ cố đồng chí Stalin vĩ đại.
Chúng ta thử xét xem hai việc này có liên quan mật thiết như thế nào.
*
Nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng đều có thể chia làm hai loại: Khách quan và chủ quan.
Những nguyên nhân khách quan là những biến chuyển quốc tế quốc nội đột nhiên làm giảm uy thế của giai cấp thống trị và nguyên nhân chủ quan là đời sống mỗi ngày một đen tối của giai cấp bị trị, bị áp bức và bóc lột tới một mức không thể chịu đựng lâu hơn.
A. Những nguyên nhân khách quan
Những nguyên nhân này có thể chia làm hai loại: Một là ảnh hưởng quốc tế do bài diễn văn của Khrushchev hạ bệ Stalin gây nên, hai là ảnh hưởng của chiến dịch Cải cách ruộng đất mà giới trí thức miền Bắc đă mệnh danh là một cuộc "ám sát tập thể".
a) Việc hạ bệ Stalin
Ngay sau khi Stalin nhắm mắt th́ những mâu thuẫn nội bộ đă phát sinh từ ngay trong bốn bức tường của điện Kremlin. Nào thanh trừng Beria, lật đổ Malenkov, rồi đến hạ bệ uy tín của mồ ma Stalin.
Hiện nay chưa ai biết đích xác tại sao Khrushchev lại giở cái tṛ hạ bệ uy tín của một người đă mồ yên mả đẹp một cách kỳ quặc như vậy. Nhưng phần lớn các nhà quan sát quốc tế cho rằng Khrushchev muốn làm khuây khoả ḷng dân Nga giữa lúc những nỗi khổ cực của họ đă chồng chất tới một mức họ không thể chịu nổi. Đổ tất cả tội lỗi lên đầu một kẻ đă quá cố là một diệu kế để xây dựng uy tín của người mới kế nghiệp và tạo cơ hội để thanh trừng nội bộ.
Các đại biểu dự cuộc Hội nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên sô quả đă giật ḿnh khi thấy Khrushchev kể ra nào Stalin đă lưu đầy các dân tộc thiểu số, thủ tiêu hàng vạn đảng viên đối lập, hàng ngàn sĩ quan của Hồng quân. Khrushchev vạch ra nào là sự u mê của Stalin trước hiểm hoạ xâm lăng của Đức Quốc xă, nào là sự ngu độn trong việc điều khiển chiến tranh. Lănh tụ mới tuyên bố trước Hội nghị rằng nguyên nhân duy nhất của tất cả những sai lầm và tội lỗi mà Nga-sô đă mắc phải trong triều đại Stalin là bệnh sùng bái cá nhân. Khrushchev định nghĩa sự sùng bái cá nhân là: đề cao một vị lănh tụ thành một thánh sống có tài triệt thấu mọi việc trong thiên hạ, giải quyết được mọi việc cho mọi người mà không hề mảy may sai lầm.
Hội nghị lần thứ 20 cũng sửa đổi lại luận thuyết Stalin, ấy là từ bỏ quan niệm quá khích của Stalin nói rằng "cách mạng nhất thiết phải bạo động và càng tiến tới xă hội chủ nghĩa th́ đấu tranh giai cấp càng quyết liệt". Thay v́ chính sách "quá tả" của Stalin, Khrushchev đưa ra một chính sách mềm dẻo hơn, đối ngoại cũng như đối nội, Khrushchev tuyên bố sẽ dân chủ hoá chế độ và hứa hẹn từ nay sẽ lănh đạo "tập thể". Đợi măi không thấy Khrushchev ban bố một biện pháp ǵ khả dĩ mang lại ít nhhiều dân chủ, ngoài việc Khrushchev đi đâu cũng cập kè với Bulganin cho có bạn đồng hành, các nhà văn Nga bắt đầu lên tiếng đ̣i hỏi. Người cầm đầu phong trào là Dundinsev. Ông viết một loạt bài báo lấy nhan đề là "Cơm áo không đủ", trong đó ông tŕnh bày những bất công của chế độ, nhưng khi xin phép xuất bản thành sách th́ nhà cầm quyền Nga không cho. Quyển sách này phải gửi sang Anh xuất bản.
So với các nước Đông Âu th́ phong trào đ̣i hỏi tự do ở Nga tiến chậm hơn, nên chưa kịp gây ảnh hưởng sâu rộng, th́ vụ Budapest đă xẩy ra, khiến Khrushchev vội vă trở lại chính sách cứng rắn của Stalin và thẳng tay đàn áp.
b) Khẩu hiệu "Trăm hoa đua nở"
Tuy các lănh tụ Trung cộng phải tuân theo chỉ thị của Đệ tam Quốc tế và công bố tân chính sách, nhưng v́ t́nh h́nh nội bộ không đến nỗi khẩn trương như ở Nga-sô, nên họ chỉ thi hành một cách hời hợt cho đủ lệ, nghĩa là chỉ tung ra một khẩu hiệu rất lờ mờ là "Trăm hoa đua nở". Ngoài ra họ tránh không áp dụng một biện pháp nào có tính cách nới rộng tự do dân chủ.
Ngày 25 tháng 5 năm 1956, cục trưởng cục Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Trung Quốc là Lục Định nhất triệu tập các nhà khoa học, xă hội học, các văn nghệ sĩ, các đại diện đảng phái bù nh́n và một số "nhân sĩ tiến bộ" đến viện Hoài Nhân đường ở Bắc Kinh để đọc cho họ nghe một bài diễn văn nhan đề là "Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh". Họ Lục nói rằng hai câu tám chữ đó là ông Mao đă trích ở cổ văn ra và giao cho ông công tác giải thích.
Họ Lục nói rằng:
"Nếu không có nhiều môn phái, nhiều chủ trương th́ văn nghệ không thể trở nên phong phú được."
Vừa mới nói ra, họ Lục lại vội vàng khép lại:
"Hai ngh́n năm về trước, trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, Trung Quốc có nhiều học phái khác nhau. Hồi đó các học phái đều tự ư phát triển, không phục ṭng một hệ thống tư tưởng nào cả, nhưng ngày nay... chính quyền của nhân dân đă thành lập và vững mạnh th́ sự tranh luận của bách gia ngày nay phải nằm trong khuôn khổ một chương tŕnh chung."
Nói về những tương quan giữa văn học và chính trị họ Lục cũng tuyên bố nước đôi như sau:
"Cần phải đề cao sự tự do tranh luận và bênh vực ư kiến trong mọi ngành học thuật nhưng đồng thời cũng không nên lẫn lộn những cuộc tranh luận xây dựng torng nội bộ Đảng với những cuộc tranh đấu để tiêu diệt những phần tử phản động... Có hai lối phê b́nh: Phê b́nh kẻ thù và phê b́nh những đồng chí phạm sai lầm. Phê b́nh kẻ thù là đập cho nó một truỳ vỡ sọ chết tươi, c̣n phê b́nh một một đồng chí phạm sai lầm là lấy khoan hồng đưa dần họ về với chính nghĩa."
Ông Lục Định Nhất nói rất nhiều, nhưng quên không định nghĩa thế nào là "kẻ thù" và thế nào là "phạm sai lầm" nên không ai dám đụng chạm đến Đảng, sợ nhỡ bị "một truỳ vỡ sọ chết tươi" như ông Lục đă cảnh cáo. V́ vậy nên phong trào chống đối ở Trung Quốc chậm phát hơn ở các nước cộng sản khác. Măi đến 1957 nhóm La Long Cơ mới khởi sự chống Đảng.
c) T́nh h́nh ở các nước Đông Âu, ở Ba Lan
Ba Lan vốn dĩ là một nước có truyền thống quốc gia rất mạnh, nên phong trào chống đối Nga bộc phát trước tiên. Sau vụ Poznan (28-6-56) các nhà cầm quyền Sô-viết nhận thấy sức mạnh của lư tưởng quốc gia nên cố t́m cách đàn áp phong tràọ Nhưng đảng Cộng sản Ba Lan tranh chấp quyền hành với Nga-sô, tự ư đón Gomulka từ nhà tù về và đưa lên nắm chính quyền. Đứng trước sự đă rồi, Khrushchev đành nuốt hận làm lành và tiếp đón Gomulka một cách gượng gạo. Về phần Gomulka, ông cũng khéo léo cố tránh không làm ǵ khiến Nga-sô phải bẽ mặt và kiếm cớ can thiệp.
d) Ở Hung Gia Lợi
Chỉ vài tháng sau các nhà lănh tụ Sô-viết phải đối phó ngay với cuộc khởi nghĩa của dân chúng Hung. Trong mấy ngày đầu họ yên trí rằng họ có thể thu hẹp phạm vi ảnh hưởng như việc đă xẩy ra ở Ba Lan, nhưng đến khi dân chúng đ̣i độc lập và dân chủ hoàn toàn th́ Khrushchev ra lệnh cho bộ đội quay trở lại đàn áp. Vụ Budapest đă vang dội khắp thế giới và có ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần dân chúng ở Bắc Việt.
e) T́nh h́nh ở Bắc Việt năm 1956
Nếu mang so sánh th́ chúng ta có thể nhận thấy các lănh tụ ở Bắc Việt trong năm 1956 quả đă vất vả hơn các vị đàn anh của họ ở Trung Quốc. Lư do là v́ Trung cộng đă hoàn thành chiến dịch Cải cách ruộng đất từ mấy năm trước khi Đệ tam Quốc tế ban hành đường lối mới nên t́nh h́nh chính trị tương đối đă được ổn định. Hơn nữa Trung cộng đă thanh trừng hết mọi phần tử trí thức đối lập trong vụ án Hồ Phong nên nắm vững được t́nh h́nh nội bộ để đối phó với làn sóng cách mạng từ Đông Âu tràn sang.
Trái lại, khi Mikoyan, sứ giả của điện Kremlin sang Hà Nội để giải thích về "tân chính sách" th́ cuộc cách mạng ruộng đất ở miền Bắc c̣n đang dở dang, và đang ở giai đoạn chót và mạnh nhất. Đứng trước t́nh thế đó ông Hồ Chí Minh đành tŕ hoăn việc ban bố chính sách mới và cứ để yên cho cuộc đấu tố tiếp diễn, v́ không có lư ǵ (theo lời ông Hồ) lại "dội một gáo nước lạnh vào đầu cán bộ".
Do đó măi đến tháng tám năm 1956 Việt cộng mới phổ biến quyết định quan trọng của Hội nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên sô, đồng thời tuyên bố "Sửa sai", v́ măi đến cuối tháng Bảy mới hoàn thành đợt chót của chiến dịch Cải cách ruộng đất, gọi là đợt Điện Biên Phủ. V́ để quá lâu mới mở "súp páp" nên khi mở th́ hơi x́ phải mạnh hơn. Những nỗi oan ức mỗi ngày một chồng chất thêm đă gây trong dân chúng một không khí căm thù đối với chế độ mỗi ngày một sâu rộng. Đồng thời t́nh h́nh Đông Âu mỗi ngày một căng thẳng. Vụ Poznan đă xẩy ra ngày 28-6-1956 và kế đến vụ Budapest, ngày 23-10-1956 làm rung chuyển bộ máy thống trị của Đệ tam Quốc tế ở khắp các nước chư hầu.
Chiến dịch sửa sai
Chiến dịch này bắt đầu bằng việc giải thích bằng báo chí và bằng "học tập" về quyết nghị của Hội nghị lần thứ 20, trong đó có nói đến "bệnh tôn sùng cá nhân" và "chính sách tập thể". Việc thứ hai là "hạ bệ" ông Trường Chinh và ông Hồ Viết Thắng, và thả ra 12 ngàn đảng viên bị cầm tù v́ bị quy lầm là địa chủ, trong số đó có nhiều người đă bị lên án tử h́nh.
Ảnh hưởng của "sửa sai" ở nông thôn
Sau khi các đảng viên trung kiên được tha từ nhà tù về, được khôi phục công quyền, khôi phục đảng tịch và chức vụ th́ họ t́m ngay đến các "đồng chí" đă "tố sai" để trả thù. Do đó t́nh trạng xung đột giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của Đảng bị sụp đổ, cán bộ đâm ra hoang mang. Trong dịp này nhà văn Nguyễn Sáng có nói một cách hài hước: "Lạc quan sai; bi quan cũng sai; chỉ có hoang mang mới đúng". Nhân đân được dịp đ̣i lại ruộng nương, nhà cửa bị tịch thu.
Ở nông thôn các đảng viên đi họp phải mang búa theo để "thảo luận" với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy t́nh trạng làng xóm như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đ́nh "tiểu tư sản" hồi kháng chiến đă trú ngụ tại nhà ḿnh. Các bần cố nông, trót nghe lời Đảng "tố điêu" nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp cyclo và đi ở. V́ vậy nên dân số ở Hà Nội, Nam Định đột nhiên tăng gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, lây cho công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức. Đáp lại vụ nổi loạn của nông dân ở Quỳnh Lưu, thanh niên và công nhân "Nam bộ tập kết" đập phá bót cảnh sát Bờ Hồ Hà Nội (bên cạnh ga tầu điện, đầu phố Cầu Gỗ).
B. Những nguyên nhân chủ quan
Trí thức ở miền Bắc trước kia đă chân thành hợp tác với cộng sản để kháng chiến mà ngày nay phải dứng dậy chống lại chính quyền cộng sản, một phần v́ nhiệm vụ thiêng liêng của họ bắt họ phải luôn luôn tranh đấu cho tự do dân chủ mà chế độ cộng sản cũng chỉ hẹn ḥ nhưng thực sự không mang lại. Một phần khác cũng v́ chính bản thân họ bị bóc lột và bị áp bức tới mức độ mà không ai chịu nổi. Nh́n xung quanh ḿnh, người trí thức chỉ thấy chém giết và khủng bố, dă man hơn cả những thời kỳ mà sử sách đă ghi chép, nh́n vào bản thân, họ thấy họ trở thành một thứ tôi đ̣i, vừa bị bóc lột vừa bị chà đạp. Từ giai cấp tiểu tư sản họ tụt xuống trở thành vô sản. Từ địa vị lănh đạo tư tưởng và học thuật họ đă trở thành một thứ người mà ông Mao ngang nhiên gọi là "không ích lợi bằng cục phân".
a) Đời sống vật chất của giới trí thức ở miền Bắc
Ai cũng biết trong thời gian kháng chiến giới trí thức đă phải sống một đời sống cơ cực. Câu chuyện cụ Phan Khôi khi trở về Hà Nội, được bạn thân đăi cơm có thịt gà, cầm đũa chỉ vào miếng thịt trên mâm mà nói đùa: "Chín năm nay tao lại mới gặp mày", đă trở thành một giai thoại.
Nhưng không phải tất cả văn nghệ sĩ về Hà Nội đều gặp được thịt gà. Một đoạn trong bản đề án của ông Hoàng Huế, một thi sĩ tập kết, gửi Đại hội Văn nghệ Toàn quốc, đăng trong tập Giai phẩm đă tả cho chúng ta biết t́nh h́nh sinh hoạt vật chất của đa số văn nghệ sĩ ở chiến khu trở về Hà Nội.
Ông Hoàng Huế viết:
"Ai cũng biết rằng đời sống của chúng ta thiếu thốn quá. Đây là một sự thật buồn bă vẫn hàng ngày đập vào mặt chúng ta làm cho những kẻ đơn giản nhất cũng phải suy nghĩ.
Chúng ta không thắc mắc về cảnh sống trong kháng chiến. Nhưng trở về Hà Nội, giữa những phố xá đầy nhung lụa, tủ kính và ánh đèn xanh đỏ, có lẽ chưa bao giờ người nghệ sĩ cảm thấy cay đắng như lúc này. Cần phải nói thẳng rằng ở một toà soạn báo văn nghệ, trong số 8 biên tập viên có vợ, th́ 6 người đă thất nghiệp hay bán thất nghiệp. Những trang giấy trắng đáng lẽ chỉ dùng để chép thơ cũng đă bao lần biến thành đơn xin việc. Những lá đơn ấy gởi đi rồi im lặng không nghe một tiếng trả lời.
Sự thật đă có những nhà văn viết đêm, không có một tách cà phê để uống. Đă có những thi sĩ không làm thế nào mua được dăm điếu thuốc lá trong cơn nghiện, và đă có một kịch sĩ bán chiếc đồng hồ đeo tay của ḿnh để bồi dưỡng viết cho xong cuốn sách, nhưng in ra không đủ tiền để chuộc chiếc đồng hồ.
Hữu Loan có thể nói cho chúng ta biết t́nh cảnh của anh. Nằm trong bóng tối của một gian nhà nhỏ ở ngoại ô Hà Nội khi không có tiếng vợ kêu con khóc, Hữu Loan chỉ mơ ước có một ngọn đèn dầu để thức mà viết. Văn Kư cũng có thể nói cho chúng ta biết t́nh cảnh của anh. Buổi sớm mai không có củ khoai luộc cho con ăn, nghe tiếng con kêu khóc mà đứt ruột."
Đoạn văn kể trên là lời phát biểu của thi sĩ Hoàng Huế về đời sống vật chất của giai cấp mà cụ Phan Khôi mệnh danh là "quần chúng văn nghệ". Căn cứ vào những lời tŕnh bày của ông Hoàng Huế th́ đời sống của văn nghệ sĩ sau khi họ về Hà Nội c̣n cực hơn thời kỳ họ nằm gai nếm mật ở chiến khu gấp bội lần. Nhưng không phải mọi văn nghệ sĩ đều sống một cách đen tối như vậy. Đây là lời ông Hoàng Huế tả về đời sống của cấp lănh đạo, một giai cấp mà Milovan Djilas gọi là "giai cấp thống trị mới":
"Hai năm hoà b́nh, chúng ta thấy có nhiều nhà văn (trước kia) có tài, (ngày nay) bị buộc chặt vào địa vị bằng những sợi lụa có tẩm thuốc độc. Tác phẩm của họ (ngày nay) chỉ là chỉ thị, kế hoạch, công văn, thông cáo. Họ trịnh trọng thắt cà vạt đỏ, đi giày da vàng, đọc đít cua và nhồm nhoàm ăn tiệc, rồi lại xách va ly, bay đó bay đây, trên mây trên gió."
Đây là thi sĩ Hoàng Huế muốn nói đến các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đ́nh Thi, Hoài Thanh, Xuân Diệu vân vân... Họ là cấp lănh đạo, chuyên môn ra chỉ thị, kế hoạch cho quần chúng văn nghệ thi hành, nghĩa là sản xuất theo "com măng" của Đảng đặt. C̣n bọn quần chúng văn nghệ th́ nai lưng sáng tác để bán rẻ văn chương cho Đảng lấy mỗi tháng vài chục kí lô gạo.
Hiện nay trong giới văn nghệ sĩ ở miền Bắc có hai giai cấp, sống hai đời sống quá chênh lệch. Cụ Phan Khôi gọi giai cấp trên là giai cấp lănh đạo và giai cấp dưới là giai cấp quần chúng văn nghệ. Cụ Phan Khôi gọi như vậy v́ cụ muốn nói cho có văn vẻ. Sự thực th́ nhiều người gọi một cách nôm na là "cai văn nghệ" và "cu ly văn nghệ". Gọi bằng hai danh từ đó mới thực sự nêu lên được t́nh trạng "người bóc lột người". Người bóc lột hiện nay không phải là một nhân vật cầm ba-toong, ngậm x́-gà mà là Đảng, một vật vô h́nh, bóc lột hàng triệu nô lệ làm việc bằng chân tay hay bằng trí óc, để nuôi một lũ cán bộ "thắt cà vạt đỏ và ăn tiệc nhồm nhoàm".
Đây quả thật là một cuộc đấu tranh giai cấp, giữa một giai cấp thống trị ngồi mát ăn bát vàng và một giai cấp bị trị, bị bóc lột đến tận xương tủy.
Trong khi bọn văn nghệ sĩ dám can đảm sống với lư tưởng của ḿnh để không có củ khoai mà ăn th́ Nguyễn Tuân sang Helsinki dự Hội nghị Hoà b́nh Thế giới, ở một khách sạn lớn vào bực nhất mà c̣n chê là cơm ở khách sạn đó không hợp khẩu vị. Nguyễn Tuân viết: "Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thăi bổ béo; nghi thức lúc ăn thực là sang trọng; đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại... Nhưng tôi ăn uống sao không thấy ngon...".
(Xem bài "Phở" của Nguyễn Tuân trong phần tài liệu.)
C̣n Nguyễn Công Hoan khi sang dự Hội nghị Văn hoá Á châu lại đương nhiên vào nằm ở khách sạn Asoka là khách sạn nổi tiếng là nơi trú ngụ của các bậc đế vương trên thế giới.
b) Đời sống tinh thần của văn nghệ sĩ ở miền Bắc
Sự chênh lệch không những chỉ thể hiện trên đời sống vật chất, mà c̣n thể hiện sâu sắc hơn trong cuộc sống tinh thần. Trong khi quần chúng văn nghệ phải làm việc như tôi mọi, th́ một thiểu số, vừa thiếu đức vừa thiếu tài, chỉ khéo nịnh hót để ăn trên ngồi chốc, tác oai tác quái. Một văn nghệ sĩ giấu tên đă làm bài thơ sau đây đăng trong báo Văn số 24 ngày 10-10-1957.
Ông "Vỗ ngực"
Học thuật văn chương chửa sạch nghề
Tập toè lên lớp cũng khen chê
Giáo điều khó nuốt lèn thô bạo
Lư luận không tiêu kéo nặng nề.
T́nh cảm khô khan như củi gộc
Phê b́nh nồng nặc tựa cơm khê.
Anh em vặn lại, cùng kỳ lư,
Vỗ ngực, ông giơ Đảng chực loè. [7]
Không phải chỉ có loè không mà c̣n mắng thực sự. Chứng cớ là Nguyễn Công Hoan, tên lư trưởng văn nghệ đă từng nằm ở khách sạn Asoka mắng cụ Phan Khôi, tên cu ly văn nghệ đáng tuổi bố.
Sự thể là nhân dịp cụ Phan Khôi thượng thọ 70 tuổi, giữa lúc cụ đương bị Đảng quy vào tội phản động, không một ai dám lai văng đến chúc thọ cụ v́ sợ bị liên quan, cụ bèn làm một bài thơ để kỷ niệm ngày thượng thọ của cụ. Trong bài thơ đó có hai câu như sau:
Lên bảy mươi rồi mẹ nó ơi!
Thọ ta, ta chúc lọ phiền ai.
Bài thơ này không xuất bản, nhưng cũng đến tai Nguyễn Công Hoan, Hoan liền làm một bài thơ hoạ lại như sau:
Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!
Thọ mi, mi chúc chớ ḥng ai.
Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc!
Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài
Lô-dích, trước cam làm kiếp chó,
Nhân văn, nay lại hít ǵ voi,
Sống dai thêm tuổi, cho thêm nhục,
Thêm nhục cơm trời, chẳng thấy gai.
Đại khái th́ toàn bộ giai cấp mới đều đểu cáng và hèn hạ như vậy.
Trên đây là thơ, c̣n những đoạn văn xuôi chứng nhận rằng hiện nay ở miền Bắc đă phát xuất những hạng người thô bạo và hống hách như vậy th́ có rất nhiều.
Cụ Phan Khôi, trong bài "Phê b́nh lănh dạo văn nghệ" (xem phần tài liệu) mang cộng sản ra so sánh với phong kiến và kết luận rằng cộng sản c̣n tàn bạo và quan liêu hơn phong kiến gấp nhiều lần.
Trần Duy trong bài "Những người khổng lồ" (xem phần tài liệu) ví bọn cán bộ cộng sản như một lũ người "không tim".
Ngoài ra ông c̣n vẽ bức tranh khôi hài nhan đề "Một phương pháp xây dựng văn nghệ", đăng trong báo Văn số 30 ra ngày 29-11-1957, trong đó ông chế giễu sự can thiệp thô bạo của chính trị vào lĩnh vực văn nghệ. (Xem tranh ở trang 35.)
Nhưng đặc biệt nhất là bài "Thi sĩ máy" của Như Mai đăng trong tờ Nhân văn số chót trong đó ông chế giễu sự ngu dốt của cán bộ cộng sản về văn nghệ và cách chúng đối xử với văn nghệ sĩ sau này như thế nào. Ông viết:
“... Nhạc sĩ Ảo Huyền được cử đi học lớp 'nghiên cứu nghề làm nước mắm’; hoạ sĩ Lập Thể được điều động sang Mậu dịch; nữ sĩ Trong Trắng ném bút làm nghề đỡ đẻ, thi sĩ Mây Nước ra Bờ Hồ làm nghề bói Kiều, tán róc về thành phần giai cấp cho những người có óc mê tín.
Văn sĩ Đắng Văn Cay phải ra chợ Giời làm nghề bán văn kiêm bán săm lốp. Săm lốp v́ cần được khuyến khích nên miễn thuế, c̣n văn của Đắng Văn Cay th́ bị liệt vào hạng vô dụng và phải chịu thuế bốn phần trăm. Rất ít người chịu quăng tiền ra mua. Đôi ba vị khó tính lại c̣n rỉa rói: 'Văn chương anh th́ ra cái đếch ǵ! Không ích lợi bằng chiếc đế dép cao su của tôi nữa ḱa!’.
Nhà đạo diễn Kinh Kha được chuyển sang ngành nuôi cá vàng, mỗi khi luyến tiếc sân khấu, thường ngắm cá bơi lội rồi tưởng tượng con cá vây bạc óng ả này là Điêu Thuyền, con cá mặt đen nọ là Bao Công, cặp cá đuôi cờ lồi mắt kia là đôi nhân vật tiểu tư sản v.v..."
(Xem trọn bài trong phần tài liệu)
Viết mấy ḍng này Như Mai có ư nhắn nhủ những trí thức nào c̣n mê "thiên đường cộng sản" th́ hăy nên biết trước số phận mà cộng sản sẽ dành cho ḿnh trên cơi thiên đường đó.
c) Tâm trạng của giới trí thức ở miền Bắc
Tâm trạng của đại đa số trí thức ở miền Bắc, nhất là những tir thức đă dày công theo đuổi kháng chiến, là thấy ḿnh bị lợi dụng tài năng, bị bạc đăi, khinh miệt và cuối cùng là ruồng bỏ, và khủng bố. Tâm trạng đó giống hệt tâm trạng một người đàn bà đẹp, bị rơi vào phận lẽ mọn, và bị chồng và vợ cả vùi dập. Nếu ngày xưa Hồ Xuân Hương đă cám cảnh vợ lẽ mà thốt ra câu:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Th́ ngày nay cụ Phan Khôi cũng phải ngán cảnh "kháng chiến ngơ ngoài" mà ngâm mấy vần thơ sau đây:
Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy thừa ta
Mối sầu như tóc bạc
Hễ cắt lại dài ra.
Ông Nguyễn Mạnh Tường trong bài diễn văn của ông nói về những sai lầm trong Cải cách ruộng đất cũng phải nêu lên câu hỏi sau đây:
"Có một chỗ nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền hay không? Tác dụng ‘hiếu hỉ’ hay ‘cười gật’ th́ có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai tṛ hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm ǵ không? Có quyền nói ǵ, làm ǵ không? Quần chúng đă biết và tôi miễn giả lời.”
(Xem trọn bài trong phần tài liệu.)
Trí thức "sống chung" với cộng sản, chỉ được đặt vào địa vị "hầu non" cưới về để tô điểm cho nhà cửa thêm sáng sủa, c̣n thực quyền th́ bao giờ cũng do vợ cả nắm. Vợ cả đây, ai cũng biết là bần cố nông, v́ cộng sản chẳng hề giấu diếm điều đó.
Tâm trạng thứ hai của trí thức là thấy sự hy sinh của ḿnh trong chín mười năm trời không đưa lại mảy may hạnh phúc. Trong chế độ "dân chủ cộng hoà" ngày nay vẫn đầy rẫy một lũ chuyên môn nịnh hót để chấm mút và tác oai tác quái.
Hữu Loan đă phải rên rỉ như sau:
Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ “Dân chủ Cộng hoà”
Những thằng nịnh hót c̣n thênh thang đất sống...
Rồi ông hô hào mọi người hăy đứng lên làm "tổng vệ sinh" quét sạch lũ chúng, ông hô:
Những người
đă đánh bại
xâm lăng;
Đỏ bừng mặt
v́ những tên quốc sỉ
Ngay giữa thời nô lệ
Là người, chúng ta
không ai biết cúi đầu
(Xem trọn bài trong phần tài liệu.)
V́ đỏ bừng mặt, không chịu được sự khinh mạn của cộng sản, nên họ phải vùng dậy. Cụ Phan Khôi phẫn uất quá chừng nên nói liều như sau:
Làm sao cũng chẳng làm sao,
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.
Làm chi cũng chẳng làm chi,
Dẫu có làm ǵ cũng chẳng làm sao.
Từ chỗ uất ức đó tiến tới chỗ ra báo để ngang nhiên chống lại Đảng chỉ có một bước.
[1]Nhà hoặc gia nghĩa là một học phái.
[2]Trong cuốn L’Asie du Sud-Est entre deux Mondes của Tibor Mende, bản dịch tiếng Pháp của René Guyonnet, trang 17, Edition du Seuil, Paris 1954
[3]Con số này trích trong cuốn A Short History of the Chinese People. Revised Edition của L. Carrington Goodrich, Harper and Brothers xuất bản 1951.
[4]Câu của Đào Duy Anh, trong cuốn Trung Hoa sử cương
[5]Câu của Phan Khôi trong bài “Phê b́nh lănh đạo văn nghệ”
[6]"Văn công": chữ Tàu, là văn nghệ công tác, nghĩa là công tác biểu diễn văn nghệ
[7]Trong nguyên bản, sau bài thơ này, ở trang 14 có tranh châm biếm “Một cái quái thai nịnh trên nạt dưới” của Trần Hưởng, Vân Tôn vẽ lại, trích báo Trăm hoa ngày 30.12.1956 (chú thích của talawas).
Nguồn: Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá xuất bản, Sài G̣n 1959. 318 trang. Nguyệt san Ngày về tái bản, Hướng Việt phát hành. In tại nhà in Lion Press, 3018 Akron Ct, Denver Co. 80231. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Chương 2: Lịch tŕnh đấu tranh của trí thức ở miền Bắc
Chúng ta đều biết rằng trí thức ở miền Bắc mới nổi dậy tấn công ào ạt vào lănh đạo từ mùa Xuân 1956, nhưng nếu ta kể cả những cuộc chống đối lẻ tẻ và ngấm ngầm th́ ta phải công nhận rằng cuộc đấu tranh giữa Đảng và quần chúng văn nghệ đă có từ lâu. Sở dĩ ta không nghe nói đến là v́ trong thời gian kháng chiến, các văn nghệ sĩ không dám đứng lên công khai chống chọi với Đảng, v́ hồi đó hơi một tí là Đảng có thể khép vào tội Việt gian phản quốc.
Vả lại, lúc bấy giờ đa số trí thức tham gia kháng chiến cũng chưa muốn công khai chống lại Đảng. Họ vẫn biết Đảng là Đảng Cộng sản, ông Hồ Chí Minh là tên nguỵ trang của Nguyễn Ái Quốc, nhưng v́ ḷng chân thành ái quốc, và v́ chưa ư thức được cái nguy cơ cộng sản, họ vẫn thụ động để cho cộng sản lănh đạo, v́ họ quan niệm rằng, sau khi đánh đuổi được Pháp ra khỏi bờ cơi, th́ sẽ quay trở lại chống cộng cũng vừa.
Điển h́nh của thái độ này là kỹ sư Hồ Đắc Liên, em ông Hồ Đắc Điềm. Ông Liên trong lúc mới tham gia kháng chiến có giơ cao nắm tay trước mặt người bạn thân mà tuyên bố rằng: "C̣n phải chống Pháp th́ tôi c̣n đi với chúng (ám chỉ cộng sản), khi nào độc lập rồi th́ chúng sẽ biết tay tôi".
Ông Liên là một trí thức du học ở bên Pháp về nên ngây thơ đến mức đó. Những người khác sinh trưởng trong nước, không đến nỗi ngây thơ như ông. Tuy nhiên, ai cũng mắc phải cái lỗi là không ngờ rằng chế độ cộng sản dă man quá mức. Nhiều người đă đọc cuốn Retour de l’ URSS của André Gide, nhưng ai cũng hy vọng rằng cộng sản ở Nga lúc xưa khác, cộng sản ở Việt Nam bây giờ khác.
Nói chung ai cũng nghĩ rằng Việt Minhh tuy là cộng sản, nhưng nhiêm vụ của họ là kháng chiến chống Pháp trước đă, khi nào độc lập rồi mà Việt Minh thực hiện chủ nghĩa cộng sản, lúc bấy giờ họ xoay sở cũng kịp. Ít ai ngờ rằng Cộng sản sẽ phản bội Quốc gia trước khi kháng chiến thành công, v́ không mấy người nhớ rằng ngày xưa, khi cộng sản Trung Hoa liên kết với Quốc dân Đảng trong cuộc Bắc phạt, họ đă bị Quốc dân Đảng trở tay trước và tiêu diệt họ.
Ít ai nhớ rằng Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ phải chạy long tóc gáy mới thoát nạn, nên rút kinh nghiệm, lần này họ liên kết với những người kháng chiến có tinh thần quốc gia, họ Hồ phải trở mặt trước. Cũng v́ sự xao nhăng đó nên giới trí thức ở miền Bắc, như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, là những người chỉ tham gia kháng chiến v́ lư tưởng quốc gia, ngày nay lâm vào t́nh trạng khó khăn.
T́nh h́nh văn nghệ trong vùng kháng chiến 1956-1954
Thời kỳ ấy là thời kỳ kháng chiến của nước ta, nhưng nếu đem so với lịch cộng sản quốc tế th́ có thể gọi thời đại ấy là Triều đại Stalin. Ngay từ thời bấy giờ văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến đă chia làm hai phái. Một phái đảng viên, và một phái không đảng viên. Tuy chưa có xung đột công khai, nhưng hai phái vẫn không ưa nhau.
Phần lớn những văn nghệ sĩ đảng viên như Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu đều tập trung ở Việt Bắc, gần Trung ương, gần Đảng để nắm vai lănh đạo. C̣n quần chúng văn nghệ sĩ th́ phần đông đều cố ư muốn tránh Trung ương, tránh Đảng, nên họ vẫn lẩn quất ở miền xuôi, miền đồng bằng, gọi là khu Ba, và sau khi khu Ba bị quân Pháp chiếm cứ th́ họ tản cư vào Thanh Hoá.
Lúc bấy giờ các văn nghệ sĩ không Đảng này được Nguyễn Sơn, một thiếu tướng Việt cộng trọng dụng, biệt đăi, nên họ có dịp tụ hội lại một nơi và gây thành một sức mạnh. Ngày nay nói đến vụ án Nhân văn tưởng cũng nên nói đến vai tṛ của Nguyễn Sơn, v́ nhóm Nhân văn coi Nguyễn Sơn như một ân nhân. Chứng cớ là hồi Nguyễn Sơn chết tháng 10 năm 1956, báo Nhân văn có đăng một bài khóc Nguyễn Sơn.
Tuy Nguyễn Sơn là một tay cộng sản đă nổi danh ở bên Trung Quốc, nhưng Nguyễn Sơn vẫn chưa gột hết tinh thần quốc gia. Thấy nước nhà kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Sơn nằng nặc xin với Mao Trạch Đông cho về để giúp nước, và khi về nước th́ chỉ chú trọng đến việc đánh Pháp, không chú trọng đến việc bành trướng Đảng. Sau này Nguyễn Sơn ngang nhiên chống lại Đảng v́ phản đối chủ trương nhận viện trợ của Trung cộng. Nói cho đúng th́ Nguyễn Sơn là một thứ Tito trong hàng ngũ cộng sản Việt Nam.
Khi Nguyễn Sơn làm khu trưởng khu Bốn, ông ta tập trung tất cả các văn nghệ sĩ ở khu Bốn lại một nơi rồi giúp cho họ phương tiện để sinh sống, để sáng tác v́ Nguyễn Sơn đề cao văn nghệ, và yêu mến văn nghệ. Nhưng từ 1950 trở đi, sau khi Nguyễn Sơn bị đuổi về Tàu th́ cuộc đời của nhóm văn nghệ sĩ khu Bốn bắt đầu đen tốị Họ bị bạc đăi nên họ không chịu sáng tác nữa.
Mỗi lần cấp bộ lănh đạo đ̣i hỏi th́ họ cứ khất lần, họ nói rằng họ c̣n "đương thai nghén" chưa sản xuất được, và cuối cùng trong mấy năm, từ 1950 cho đến 1954 chẳng có văn nghệ sĩ nào sản xuất ǵ hết. Thái độ "đ́nh công tập thể" này được chứng minh bằng một câu của cụ Phan Khôi trong bài: "Phê b́nh lănh đạo văn nghệ" của cụ. Nói về Thế Lữ, cụ viết: "C̣n Thế Lữ, có lần tôi hỏi tại sao anh không làm thơ như trước kia. Anh trả lời rằng đợi đến bao giờ anh 'chỉnh' được tâm hồn, cảm thông được với quần chúng cần lao, bấy giờ anh sẽ làm". Thái độ này không phải chỉ riêng Thế Lữ. Văn Cao, tác giả bài "Tiến quân ca" cũng đă thốt ra rằng: "Nay Đảng bảo phải, mai Đảng bảo sai, ai c̣n biết đường nào mà sáng tác".
Nói chung từ 1950 trở đi, nghĩa là từ khi chính sách của Việt cộng thay đổi và các cố vấn Tàu đă sang Việt Nam th́ các văn nghệ sĩ không Đảng đă đ́nh chỉ mọi công việc sáng tác. V́ vậy nên từ 1950 trở đi các văn nghệ sĩ kháng chiến không sản xuất được một tác phẩm nào có giá trị, ngoài những bài thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác, của nhóm văn nghệ sĩ thuộc thành phần lănh đạo viết. Tuy có viết, có xuất bản, nhưng những thơ văn nịnh hót đó cũng chẳng có ai đọc.
Đây là một bài Tố Hữu tán dương Hồ Chí Minh và Sít-ta-lin:
Hoan hô Hồ Chí Minh
Cây hải đăng vô sản
Băo táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ cách mạng
Hoan hô Sít-ta-lin
Đời đời cây đại thọ
Rợp bóng mát hoà b́nh.
Hoặc là:
Chúng ta có Bác Hồ
Thế giới: Sít-ta-lin
Đảng ta phải mạnh to
Thế giới phải đỏ ḿnh.
Ở một chỗ khác, thi sĩ khát máu hô:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung ḷng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin... bất diệt.
Trên đây là thơ của Tố Hữu, c̣n sau đây là thơ của Xuân Diệu:
Mỗi lần đấu tranh gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm,
Nghe lời Bác dạy khuyên răn,
Chúng con ước muốn theo chân của Người...
Chúng con thề nguyện một lời:
Quyết tâm thành khẩn... lột người từ đây .
Trên đây là thơ Xuân Diệu nịnh Bác, c̣n sau đây là lời Xuân Diệu nạt nhân dân. Ta hăy nghe lời ḥ hét:
Anh em ơi! Quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đ́nh làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đoạ đày chết thôi...
Đại khái th́ từ 1950 cho đến 1954, trong vùng cộng sản kiểm soát chỉ có một lối thơ khát máu như vậy thôi. Là những người văn nghệ sĩ chân chính, c̣n giữ vững bản tính cao quư của con người, dĩ nhiên ai cũng phải tạm thời gác bút, v́ không thể nào hoà điệu được với một hạng người như vậy.
Tóm lại, các văn nghệ sĩ ở vùng kháng chiến đă đ́nh công dài hạn từ 1950 trở đi, để tỏ ư không tán thành đường lối của Đảng, chế độ độc tài của Đảng, và nhất là chính sách "đấu tố" do các cố vấn Trung Quốc nhập cảnh vào Bắc Việt.
Những triệu chứng báo hiệu cuộc nổi loạn
Sau khi Việt cộng về Hà Nội, th́ báo chí, sách vở xuất bản ở Hà Nội vẫn đầy rẫy những bài ca tụng Đảng, ca tụng Bác, những bài "anh hùng ca" kêu gọi nông dân đứng dậy tàn sát địa chủ, phản động, lừng chừng. Nhưng h́nh như từ ngày bác Malenkov bị hạ bệ th́ uy tín của Đảng có bị giảm mất một phần. Trên mặt báo giới tuy chưa có bài nào công kích hẳn chế độ, nhưng báo Thời mới, một tờ báo của tư nhân c̣n sót lại nêu ra nhiều vấn đề để độc giả thảo luận, trong số đó có vấn đề "Yêu nhau có cần tiêu chuẩn hay không?", nghĩa là: Có nhất thiết phải là cán bộ Đảng mới đáng được các cô con gái yêu không? Ngụ ư của người đưa ra vấn đề này là đả phá cái tệ mới phát hiện ở Hà Nội là các cô gái chưa chồng đua nhau lấy cán bộ Đảng, cán bộ "Bốn túi" (Cán bộ bốn túi là cán bộ cao cấp, v́ cán bộ cấp dưới chỉ được mặc áo có hai túi). Lúc bấy giờ có khẩu hiệu "Phi bốn túi bất thành phu phụ".)
Những bài này không đả động đến đường lối chính sách của Đảng, nhưng một phần nào cũng đă làm giảm uy tín của cán bộ lănh đạo.
Thế rồi cụ Phan Khôi xuất đầu lộ diện. Nhà Nho bảy mươi tuổi bắt đầu đả kích chế độ bằng một mưu mẹo mà cán bộ cộng sản mắc ngay tức khắc. Cụ được cán bộ giao cho dịch một cuốn sách có chữ Pháp sang tiếng Việt, trong đó có một chữ "Pomme de terre", cụ dịch ngay ra là "khoai nhạc ngựa". Cuốn sách cụ dịch được xuất bản, và sau đó ít lâu báo Cứu quốc viết một bài phê b́nh cụ là lẩm cẩm, bảo cụ: "Sao không dịch là 'khoai tây' mà lại dịch là khoai nhạc ngựa. Khoai nhạc ngựa là cái quái ǵ?" Báo Cứu quốc cứ yên trí rằng cụ Phan đă 70 tuổi đầu nên cụ đă lẩm cẩm. Không ngờ trẻ mắc mưu già. Cụ trả lời ngay bài phê b́nh đó. Cụ nhận ngay là lẩm cẩm, nhưng cụ phân bua rằng: Cán bộ phụ trách lâu nay cấm cụ dùng chữ "tây". Có lần cụ dùng chữ "đường tây", chúng xoá đi mà thay vào chữ "đường kính". Cụ dùng chữ "chè Tàu" th́ chúng chữa là "chè Trung Quốc", chữ "thịt kho tàu" th́ chúng chữa là "thịt kho Trung Quốc". Lần này để chiều ư chúng, cái ǵ cũng phải Trung Quốc mới hay, th́ cụ dịch "pomme de terre" ra "khoai nhạc ngựa" v́ người Trung Quốc gọi nó là "mă linh thư".
Đấy là lần đầu tiên cụ Phan Khôi mang cái dốt của cán bộ ra giễu trên mặt báo chí. Việc này chứng tỏ rằng uy tín của cán bộ đă bắt đầu bị suy sụp.
Cuộc khởi nghĩa bắt đầu
Ngày 20 tháng 2 năm 1956 Khrushchev đọc bài diễn văn hạ bệ Stalin. Tuy bài diễn văn này đọc trong một khoá họp bí mật, nhưng tài liệu đó cũng lọt ra ngoài, và không bao lâu toàn thể thế giới đều biết. Việt cộng cố giấu, nhưng giới văn nghệ miền Bắc vẫn biết được, v́ họ đọc một vài tờ báo Pháp lọt vào tay họ. Không khí chống lại Đảng dưới h́nh thức chống tinh thần Stalin bắt đầu. Vào khoảng tháng 3 năm 1956 nhà xuất bản Minh Đức ở chiến khu về cho ra ngay một cuốn sách nhan đề Giai phẩm 1956. Trong cuốn này có nhiều bài nêu lên những thối nát của chế độ. Phùng Quán viết một bài nhan đề là "Cái chổi quét rác rưởi" trong đó anh nói rằng chệ độ miền Bắc đầy những rác rưởi dơ bẩn và anh, lấy tư cách là nhà văn, t́nh nguyện làm cái chổi quét cho sạch những rác rưởi đó. Cũng trong số đó Lê Đạt có viết một bài nhan đề là "Ông B́nh vôi" [1] , trong đó có câu:
Những kiếp người đă sống lâu trăm tuổi
Y như một cái b́nh vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Bề ngoài th́ bài này chỉ công kích những cán bộ nhiều tuổi Đảng, sống lâu lên lăo làng, nhưng kỳ thực người dân Bắc Việt có thể hiểu ngay là ám chỉ ông Hồ Chí Minh, càng sống, càng tồi, v́ ngày nay ông Hồ không c̣n thương nước thương ṇi như hồi ông c̣n là Nguyễn Ái Quốc nữa. Đấy là một thái độ láo xược vô bờ bến, nhưng Việt cộng không dám bắt bẻ, v́ nếu nêu bài thơ ấy ra th́ mất hết uy tín của ông Hồ. Bài mà họ nêu ra để khủng bố, là bài "Nhất định thắng" của Trần Dần, một nhà thơ trẻ tuổi. Bài thơ dài hơn năm trăm câu, tả sự khổ cực của hai vợ chồng tác giả, thiếu thốn, thất nghiệp, đi trong thành phố Hà Nội mà chỉ thấy "mưa sa và mầu cờ đỏ". Trong bài thơ ấy, tác giả cũng nêu lên sự đau xót khi thấy hàng vạn người cứ tiếp tục bỏ vùng Việt cộng mà di cư vào Nam. Không nói rơ nhưng ngụ ư của tác giả là: chế độ miền Bắc quá dă man nên họ phải xa lánh, chứ chẳng có ai dụ dỗ họ bỏ nhà bỏ cửa vào Nam như là tuyên truyền Việt cộng vẫn thường rêu rao. Tất cả trách nhiệm về cuộc di cư vĩ đại này Việt cộng phải chịu. Trong bài thơ đó có một đoạn như sau:
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng th́ thầm -
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ả -
Chúng phá hiệp thương! -
Liệu có hiệp thương! -
Liệu có tuyển cử? -
Liệu tổng hay chẳng tổng? -
Liệu đúng kỳ hay chậm vài năm?
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn kinh hoàng trước tương lai...
(Xem trọn bài trong phần giới thiệu.)
V́ chữ "Người" trong hai ḍng cuối bằng chữ hoa, nên cán bộ lănh đạo vịn ngay vào cớ đó để buộc cho Trần Dần có ư ám chỉ ông Hồ Chí Minh v́ xưa nay chữ Người viết hoa vẫn dành riêng cho ông Hồ. Như vậy là tờ Giai phẩm mùa Xuân bị tịch thu và Trần Dần bị bắt, bị mang ra đấu trước một cuộc họp đông đảo của toàn thể các văn nghệ sĩ trong "Hội các nhà văn". Trần Dần bị quy vào tội phản động và bị bắt giam. Phẫn uất quá, Trần Dần cứa cổ tự tử, nhưng không chết, sau này vẫn mang một cái sẹo ở cổ. Cái sẹo đó trở thành một dấu hiệu của sự áp bức văn nghệ dưới chế độ cộng sản miền Bắc.
Giai phẩm mùa Thu ra đời
Nhưng chẳng bao lâu th́ Mikoyan sang thăm Hà Nội để giải thích cho ông Hồ về sự cần thiết phải thay đổi chính sách, phải nới lỏng tay. Tiếp theo đó, ngày 26 tháng 5 năm 1956, họ Mao tuyên bố chính sách "Trăm hoa đua nở". Và chỉ một tháng sau, công nhân Ba Lan nổi loạn ở Poznan. Việt cộng lúng túng phái cán bộ đi giải thích về vụ Poznan, nhưng dân chúng Bắc Việt nhất thiết không tin lời giải thích của cán bộ.
Cũng vào dịp này, Đảng Lao động bắt đầu cho nhân dân học tập về chính sách mới của Khrushchev. Trong một bài đăng trong báo Nhân văn số 2 xuất bản ngày 20 tháng 9 năm 1956 có một đoạn nói về buổi họp đó như sau:
"Đợt học tập của giới văn nghệ tháng tám vừa qua đă là một cuộc tranh đấu sôi nổi của trên 300 người công tác văn nghệ. Phát triển sự việc như thế nào, chỉ trích bè phái như thế nào, xây dựng Trung ương Đảng như thế nào, Nguyễn Đ́nh Thi tổng kết quanh co như thế nào, Nguyễn Hữu Đang tham luận mạnh bạo như thế nào, Tố Hữu nhận lỗi qua loa như thế nào, anh chị em đă nghĩ những ǵ... báo Nhân dân biết rơ. Thế rồi bè phái lănh đạo văn nghệ vẫn cứ ngoan cố làm thinh... tuyệt nhiên không giải quyết một nguyện vọng nào của anh chị em."
Xem đoạn văn đó th́ chúng ta thấy rằng quần chúng văn nghệ đă tấn công mănh liệt vào "bè phái" lănh đạo, đă đẩy "bè phái" đó vào chỗ bí, không có đường thoát. Như vậy là quần chúng văn nghệ đă nắm được ưu thế, và họ không bỏ lỡ dịp tấn công luôn và liên tiếp.
Ngày 29 tháng 8, 1956 Giai phẩm mùa Thu tập 1 ra đời. Trong tập này cụ Phan Khôi giáng một chuỳ chí mạng vào đầu giai cấp lănh đạo. Bài của cụ nhan đề là "Phê b́nh lănh đạo văn nghệ". Bài này đă làm nhân dân Hà Nội xôn xao. Có người viết trên báo Thời mới, ví bài của cụ Phan như một "quả bom tạ" thả ngay giữa Hà Nội. Có người thốt lên rằng chín mười năm nay mới lại nghe thấy tiếng nói "sang sảng" của cụ Phan.
Tờ Nhân văn số 1 ra đời vào ngày 15 tháng 9. Giới sinh viên đại học cũng hưởng ứng sôi nổi và xuất bản một tờ báo chống Đảng lấy tên là Đất mới. Tờ tuần báo Trăm hoa của thi sĩ Nguyễn Bính, trước kia hiền lành, nay cũng hưởng ứng phong trào, ra một loạt mới đả kích Đảng. Phong trào lan rộng đến nỗi giọng công kích lan ra cả tờ Thời mới là tờ báo hàng ngày, lâu nay vẫn ngoan ngoăn đối với Đảng . Nó thâm nhập cả vào báo chí của Đảng. Báo Cứu quốc, cơ quan của Mặt trận Tổ quốc cũng nêu ra nhiều tệ hại của chế độ trong mục tự phê b́nh, nhan đề là Cuốn sổ tay. Mà đặc biệt là báo Nhân dân, cơ quan chính thức của Đảng cũng tiết lộ nhiều "sai lầm". Cho đến cả báo Học tập, cơ quan nghiên cứu lư thuyết của Đảng cũng nêu ra nhiều vụ hà lạm của cán bộ đảng viên. Nói chung th́ suốt trong ba tháng, nhân phong trào sửa sai, tất cả dư luận và toàn thể báo chí đều phàn nàn về bệnh "quan liêu" của bè phái lănh đạo. Khác nhau là ở chỗ các báo đối lập th́ nói thẳng tay, bổ những nhát búa chí mạng vào đầu giai cấp thống trị, c̣n các báo chí của Đảng th́ bất đắc dĩ, thấy người ta nói nhiều và đúng quá, cũng phải a-dua theo, bộc lộ chút ít sai lầm, để tỏ ra ḿnh không ngoan cố lắm, đó là nhất thời và cá biệt, c̣n nói chung th́ Đảng và Bác bao giờ cũng sáng suốt.
Mọi việc "sai lầm" đáng tiếc đều do cán bộ cấp dưới gây ra, c̣n cấp trên vẫn nắm vững chính sách. Nhưng các báo chí đối lập không thèm đếm xỉa đến cấp dưới mà lại chĩa mũi dùi vào cấp lănh đạo, nên cùng kỳ lư, Hồ Viết Thắng phải đứng ra tự đọc bản tự kiểm thảo về những sai lầm về Cải cách ruộng đất, Vơ Nguyên Giáp cũng phải thay mặt Đảng công nhận những "khuyết điểm".
Bút chiến với các báo của Đảng
Bị mất hết uy tín, và bị tấn công vào những chỗ yếu, không có cách ǵ đỡ, các cấp lănh đạo chỉ có cách là làm thinh. Hồ Chí Minh hoàn toàn không lên tiếng. Tố Hữu sang Bắc Kinh nằm yên trong ba tháng. Bọn "cai văn nghệ" như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư không dám hé răng. Những biến chuyển liên tiếp ở Đông Âu làm cho mấy "ông to" hoang mang, không biết địa vị của họ có c̣n được vững bền không. Tuy nhiên Đảng cũng phải t́m cách phản ứng bằng cách ra lệnh cho cán bộ chính trị viết những bài phản công trở lại. Bài đầu tiên là của Nguyễn Chương đăng trên mặt báo Nhân dân ngày 25-9-1956. Trong bài này Nguyễn Chương vu cho báo Nhân văn là tay sai của địch, v́ theo Nguyễn Chương th́ báo Nhân văn công kích địch th́ ít, mà công kích ta th́ nhiều. Báo Nhân văn liền đập lại bằng một bài như búa giáng. Bài đó do ba cây bút cứng của nhóm Nhân văn là Hoàng Cầm, Hữu Loan và Trần Duy viết và mang đầu đề là "Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị". Họ đốp chát với Nguyễn Chương từ lư luận một, và sau mỗi lư luận, nhóm Nhân văn lại hạ một câu hài hước như sau: " Bạn cố t́nh đến thế, chúng tôi c̣n biết nói sao?".
Mỗi lần bẻ găy lư luận của Nguyễn Chương, họ lại láy đi láy lại câu nói trên để nêu rơ tính cách "ngoan cố" của bọn cán bộ Đảng. Vừa bị đập mạnh vừa bị chế giễu, Nguyễn Chương cố gắng thanh minh bằng một bài thứ hai đăng trong báo Nhân dân th́ bị luôn Chu Ngọc, trong nhóm Nhân văn giáng thêm cho một chuỳ, bằng một bài nhan đề là: "Quần chúng đă chán ghét lối chặn họng đó rồi". Thế là Nguyễn Chương im bặt. Đến lượt Hoàng Xuân Nhị lên vơ đài tỷ thí.
Hoàng Xuân Nhị là giáo sư thạc sĩ có sẵn một mớ lư thuyết Mác-xít, mang từ Pháp về nên lôi cả ông Mác và Lê-nin ra để đối phó bằng cách dùng lời Lê-nin và Mác để chứng minh rằng văn nghệ phải có đảng tính và văn nghệ sĩ phải triệt để phục tùng sự lănh đạo của Đảng. Nhóm Nhân văn liền cử ngay một sinh viên đại học là Bùi Quang Đoài, học tṛ của ông Nhị lên đo sức với ông Nhị. Bùi Quang Đoài vạch ra rằng ông Nhị xuyên tạc lời nói của Lê-nin. Bùi Quang Đoài viết: "Một là ông Nhị không tiêu hoá được tài liệu, hai là ông Nhị đă lợi dụng tài liệu để xuyên tạc. Nó không đúng với tinh thần trung thực của người trí thức". Sau khi bẻ lư luận của vị giáo sư thạc sĩ, và chê vị giáo sư đó c̣n dốt lắm, Bùi Quang Đoài kết luận: "Tôi xin đề nghị với ông Nhị một điều... cố gắng nghiên cứu, suy nghĩ, để giữ bản chất trung thực của người trí thức". Từ đấy không thấy Hoàng Xuân Nhị trở lại vơ đài nữa. (Xem trọn bài trong phần tài liệu.)
Chiến thuật khủng bố ngầm
Chiến thuật đó lần lượt được Đảng mang áp dụng qua những thủ đoạn như sau :
Ra lệnh cho mậu dịch không bán giấy in báo cho nhóm đối lập. Thủ đoạn này không có kết quả ǵ v́ nhóm đối lập được nhân dân nhiệt liệt ủng hộ giúp tiền mua giấy ở chợ đen.
Khủng bố những người phát hành. Báo Nhân văn trong số 4 ra ngày 5-11-56 có tố cáo thủ đoạn đó như sau :
"Một khách hàng vào một hiệu sách ở khu Hồng Quảng. Khách hỏi: ‘Ở đây có bán báo Nhân văn không?’. Ông chủ hiệu vừa vuốt râu mép vừa trả lời: ‘Bán báo Nhân văn có mà chết sớm’."
Thủ đoạn này lại cũng không thành công v́ nhóm đối lập huy động sinh viên và học sinh đi bán.
Đảng cũng ra lệnh cho bưu điện không phân phát báo Nhân văn. Số báo Nhân văn kể trên cũng tố cáo hành động đó và viết một câu hài hước: "Biết đâu mấy ông ở bưu điện chẳng thích báo Nhân văn quá nên giữ lấy để đọc một ḿnh".
Khủng bố những người đọc. Hàng loạt cán bộ được tung ra khắp phố phường Hà Nội, xông vào từng nhà một để giải thích rằng báo Nhân văn là báo phản động. Báo Nhân văn có nêu lên một trường hợp rất hài hước là cán bộ đi nói xấu báo Nhân văn vào nhầm nhà một văn nghệ sĩ trong chính nhóm Nhân văn, và bị vợ nhà văn đó trả lời cho mấy câu đanh thép làm cho chị cán bộ phải câm miệng.
Vận động thợ in không in. Để thực hiện mưu mô này, Đảng phải huy động đến Hoàng Đạo là tay gián điệp số một, đă nổi tiếng trong vụ phá hoại chiếc tàu Amyot d’ Inville và trong việc điều tra "Vụ án Bái Thượng". Hoàng Đạo được tức khắc bổ sang công đoàn để dùng hệ thống công đoàn uy hiếp công nhân nhà máy in, bắt phải đ́nh công không in báo "phản động". Tuy nhiên, công nhân vẫn không nghe theo. Báo vẫn cứ ra đều, không hề bị gián đoạn.
Vu cáo chính trị
Sau khi phá ngầm không kết quả. Đảng chủ trương phá công khai bằng cách vu khống nhóm văn nghệ sĩ là tay sai của địch, của đế quốc. Để chứng minh việc đó, báo Nhân dân dựng đứng câu chuyện chính phủ miền Nam triển lăm báo Nhân văn ở Courtinat Sài G̣n (sic). Sự thực th́ lúc bấy giờ chính phủ miền Nam chưa có lấy một tờ Nhân văn trong tay, v́ măi đến tháng 11, khi tờ Nhân văn sắp bị đóng cửa mới có được mấy số lọt vào Sài G̣n, do kiều bào ở Paris gửi về. Báo Nhân dân chỉ được tin phong phanh rằng Bộ Thông tin ở Sài G̣n hồi tháng 6-1956 có tổ chức một cuộc triển lăm những tài liệu chứng tỏ Việt cộng không tôn trọng Hiệp ước Genève, tại Pḥng Thông tin Sài G̣n ở đường Catinat. Trong cuộc triển lăm này, ngoài những tài liệu chính trị và quân sự chứng tỏ rằng Việt cộng thực sự có cấu kết với B́nh Xuyên, Hoà Hảo để quấy rối miền Nam, cũng có một số báo chí Việt cộng, bắt được trong các hầm bí mật, cùng với cán bộ Việt cộng nằm vùng. Nhưng toàn là các báo chí của Đảng như Nhân dân, Tổ quốc v.v... không hề có Nhân văn, v́ lư do tờ Nhân văn lúc đó chưa ra đời. Báo Nhân dân lại chỉ nhớ mang máng nên lầm Catinat thành Courtinat, một cửa tiệm bán tạp hoá của người Pháp ở cùng phố.
Ngoài cái "chứng cớ" tưởng tượng kể trên, Đảng cũng không nại thêm được chứng cớ ǵ khác, nhưng cứ nhất định rêu rao rằng nhóm Nhân văn là tay sai của địch, là gián điệp của Pḥng Nh́, của Mỹ, là tờ-rốt-kít phá hoại, vân vân… đủ thứ danh từ mà trước kia Đảng đă rộng răi tặng cho giai cấp địa chủ.
Đóng cửa báo Nhân văn
Sau khi báo Nhân dân vạch tội "gián điệp" của nhóm văn nghệ sĩ đối lập th́ Đảng tổ chức học tập ở khắp mọi nơi, và sau kỳ học tập, tất cả các đoàn thể công nông binh, cho đến cả học sinh và dân "Nam bộ tập kết" đều phải kư vào bản kiến nghị lên án nhóm Nhân văn và đ̣i chính phủ phải có biện pháp trừng trị. Dựa vào kiến nghị của "mọi tầng lớp nhân dân", Đảng ra lệnh cho Uỷ ban Hà Nội kư giấy đóng cửa tờ báo Nhân văn và tịch thu tất cả mọi số đă phát hành kể từ số 1.
Ngày 15 tháng 12-1956, ông Hồ Chí Minh kư một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí và bắt phải phục vụ "công nông binh", phục vụ nền vô sản chuyên chính mệnh danh "chính thể dân chủ cộng hoà". Sắc lệnh cũng doạ phạt tù từ 5 năm đến khổ sai chung thân, kèm theo tịch thu một phần hay toàn bộ gia sản, nếu ai c̣n phạm vào những điều cấm.
Sau khi sắc lệnh được ban bố, những tờ báo khác như Trăm hoa, Đất mới, Giai phẩm đều chết không có cáo phó.
Sự thực th́ những điều cấm trong sắc lệnh ngày 15-12-1956 đă có ban bố trước, ngay từ khi Việt cộng mới về tiếp thu Hà Nội, hồi tháng 10 năm 1954. Nhưng hồi đó tất cả các báo chí đều là báo chí của Đảng, nên Việt cộng chủ quan, chỉ mở một cuộc họp báo ở Pḥng Thông tin, phố Tràng Tiền, rồi giao hẹn mồm về mấy điểm cấm đoán . Đại khái có 5 điều:
Không được chống chính phủ, chống chế độ;
Không được xúi giục nhân dân và bộ đội làm loạn;
Không được nói xấu các nước bạn;
Không được tiết lộ bí mật quân sự;
Không được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục.
Một lư do khác là lúc bấy giờ Việt cộng mới ở chiến khu về Hà Nội là nơi có tai mắt quốc tế, muốn tỏ ra có thái độ "yêu chuộng tự do" hơn "phe quốc gia", nên tránh không muốn cấm bằng sắc lệnh, sợ gây dư luận, nên chỉ đe doạ bằng mồm.
Họ không ngờ rằng "khẩu thiệt vô bằng", sau này nhóm văn nghệ sĩ đối lập cứ làm như quên không nhớ và cứ ra báo một cách rất tự nhiên để chống lại chế độ, chống lại Đảng.
Đảng ra báo Văn
Sau khi đóng cửa tờ báo Nhân văn, và bóp chết mấy tờ báo đối lập khác, Đảng thấy cần thiết phải cho ra một tờ tạp chí văn học để thay thế, v́ chả lẽ trong nước không có lấy một tờ báo nào chuyên về văn học. Đảng bèn chỉnh đốn lại Hội Văn nghệ, bắt bầu lại ban chấp hành, gạt những phần tử đối lập ra và đưa toàn những "cai văn nghệ" vào ban chấp hành mới. Lúc bấy giờ một ḿnh trên vơ đài, Đảng tha hồ chửi rủa nhóm Nhân văn là phản động, là gián điệp tay sai của địch. Đảng cho phép Hội Văn nghệ xuất bản tờ tạp chí Văn. Chủ bút là Nguyễn Công Hoan, phó là Nguyễn Tuân và Tổng thư kư toà soạn là Nguyên Hồng.
Báo Văn xuất bản mỗi tuần một kỳ. Một nửa số trang dành riêng cho những bài dịch tiểu thuyết Nga, một nửa khác gồm toàn những bài tán tụng văn học Trung Quốc vĩ đại. Kết quả là giá trị văn nghệ rất kém, không ai buồn xem. Lư do là v́ các văn nghệ sĩ có tài đều một ḷng tẩy chay, bất hợp tác với cơ quan ngôn luận của Đảng.
Báo Văn bị chỉnh
Thấy báo Văn nhạt nhẽo quá, Đảng lấy làm ngượng và tức bực, nên nóng mặt phải lên tiếng. Tờ Học tập, cơ quan nghiên cứu lư thuyết của Đảng viết một bài chê báo Văn là dở. Tác giả bài đó là Thế Toàn, một cán bộ chính trị c̣n ít tuổi viết:
"Qua 10 số đầu của tuần báo Văn, chúng tôi nhận thấy nội dung tờ báo c̣n nghèo nàn. Tờ báo hầu như xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng."
Nguyên Hồng, Tổng thư kư toà soạn của báo Văn bị mất mặt nên phải ứng ngay bằng một bài trả lời Thế Toàn, đăng trong báo Văn số 15 ra ngày 16 tháng 8-1957. Sau khi gạt phăng những lời buộc tội của đối phương, Nguyên Hồng phê b́nh trở lại Thế Toàn là công chức, là quan liêu và "trịch thượng".
Báo Văn quay ra chống Đảng
Sau đó người ta thấy báo Văn thay đổi thái độ. Những bài nịnh Đảng thấy bớt dần, và những bài xược với Đảng thấy mỗi ngày một nhiều thêm. Nh́n đến tên tác giả các bài có ngụ ư chống Đảng, thấy tên các nhà văn trước kia đă viết trong nhóm Nhân văn và Giai phẩm.
Người đầu tiên là Phùng Quán. Phùng Quán là một sinh viên trước kia đă viết bài "Chống tham ô lăng phí" đăng trong Giai phẩm mùa Thu. Lần này Phùng Quán viết bài "Lời mẹ dặn". Bà đó có những câu như sau:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă.
Bút giấy tôi, ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.
Đến tờ Văn số 24, độc giả lại thấy Hoàng Cầm xuất hiện. Hoàng Cầm là một chiến tướng của nhóm Nhân văn. Ở đây Hoàng Cầm viết một vở kịch thơ ngắn, nhan đề là "Tiếng hát", nói về chuyện Trương Chi. Nhưng Hoàng Cầm biến lời hát của Trương Chi thành tiếng gọi của Tự Do. Mỵ Nương tượng trưng cho giới văn nghệ bị ḱm hăm trong ngục tù, và ông Quận công, người cha của Mỵ Nương tượng trưng cho uy quyền độc đoán của Đảng.
Tiếng hát của Trương Chi kêu gọi mọi người bị cộng sản hành hạ, đấu tố, hăy đứng dậy. Trương Chi hát:
Nào người quả phụ trắng khăn tang
Nào đứa em mồ côi khát sữa
Nào ai sống nhục chết oan
Nào ai tan ĺa đôi lứa
Nghe tiếng hát này…
Trong khi đó th́ cha của Mỵ Nương (ngụ ư muốn nói Đảng):
… vừa truyền lệnh
khoá kín cửa lầu,
lấp cả sông
Để không c̣n tiếng hát!
Nhưng mặc dầu ngăn cấm bằng cách nào, tiếng kêu gọi Tự Do vẫn lọt tới ḷng người:
... cửa ngoài bằng đá tảng
Tiếng hát đẩy được vào
V́ đó là tiếng gọi của trời cao
Của đất rộng…
Và Mỵ Nương (ư muốn nói giới văn nghệ sĩ) vẫn gan góc:
Ta mở được, ta vượt qua tường đá
Ta chạy ra sông! Đi bốn phương trời
T́m tiếng hát... ta đi cùng thiên hạ…
(Xem trọn bài trong phần tài liệu)
Tóm lại, ư chính của Hoàng Cầm là nhất định chống lại sự áp bức của Đảng và quyết tâm phá tan mọi gông cùm xiềng xích.
Sau Hoàng Cầm đến lần Trần Duy xuất hiện. Trần Duy vẽ một bức tranh khôi hài chế giễu sự can thiệp thô bạo của Đảng vào văn nghệ. Ông vẽ một bức tranh tả một người hoạ sĩ đang vẽ một đoá hoa. Cán bộ bắt bẻ, bắt phải vẽ thêm hết thức này đến thức khác để cho hợp với đường lối chủ trương của Đảng. Sau khi tuân theo lời cán bộ vẽ thêm măi vào bức tranh, bức tranh biến thành một thứ hổ lốn, không có nghĩa lỳ mà cũng không c̣n mỹ thuật. (Xem tranh ở trang sau. [2] )
Cuối cùng là kiện tướng Phan Khôi ra mắt. Cụ viết một truyện ngắn về gia đ́nh cụ, nhan đề là "Ông Năm Chuột". Câu chuyện dài ḍng, nhưng ngụ ư của cụ là giai cấp thống trị thuở xưa cũng như giai cấp thống trị ngày nay, đều đầy dẫy những thối nát, nhưng cứ cố t́nh che đậy. Mặc dù khéo léo che đậy, trong dân gian vẫn có những người ranh mănh, nh́n thấy hết. Che đậy cũng vô ích. (Xem bài "Ông Năm Chuột" trong phần tài liệu.) Bài đó kết thúc số phận báo Văn. Đảng bắt Hội Văn nghệ phải đ́nh bản tờ báo ngay tức khắc.
Đấu tố văn nghệ sĩ
Lúc mới đóng cửa báo Văn th́ Đảng c̣n hy vọng có thể dàn xếp được, nên Hội Văn nghệ tuyên bố là chỉ tạm đ́nh bản một kỳ, lấy cớ là để sửa soạn số Tết. Nhưng suốt trong ba tháng, Hội không thể tái bản được tờ báo, v́ tất cả các văn sĩ đều tẩy chay. Đảng không c̣n cách ǵ hơn là khủng bố sắp lượt.
Việc đầu tiên là bắt 304 văn nghệ sĩ đi chỉnh huấn. Như thường lệ, mọi người đi chỉnh huấn đều bị dồn ép, áp bức tinh thần cho đến mức phải bộc lộ những sai lầm và viết bài "tự kiểm thảo".
Có bốn người không chịu đi dự lớp chỉnh huấn: Phan Khôi, Trương Tửu, Thuỵ An và Nguyễn Hữu Đang. Đảng ra lệnh bắt Thuỵ An và Nguyễn Hữu Đang giam vào nhà pha Hoả Ḷ. (Nguyễn Hữu Đang h́nh như đă tự tử sau khi bị bắt [3] ). Trương Tửu bị cất chức giáo sư ở trường Đại học Văn khoa, vợ con và cả gia đ́nh nhà vợ bị bao vây kinh tế, nghĩa là rút giấy phép buôn bán (gọi là giấy đăng kư).
Cụ Phan Khôi v́ đă 73 tuổi, và v́ có nhiều uy tín trong nước, nhất là đối với trí thức ở miền Nam, nên hiện được để yên. Tuy nhiên cụ bị "treo gị" không được giao thiệp với ai mà cũng không ai được lui tới thăm cụ. Mặc dù vậy, cụ nhất định không chịu đầu hàng. Ngồi nhà cụ vẫn viết một cuốn sách nhan đề là Nắng chiều gửi đến ban chấp hành Hội Văn nghệ để chửi cộng sản một cách thậm tệ (Xem phần tài liệu).
Trong khi mấy lănh tụ của nhóm Nhân văn bị cô lập, hoặc bị bắt th́ Đảng mở một chiến dịch chửi rủa họ, rộng lớn hơn tất cả mọi chiến dịch chửi rủa từ xưa tới nay. Chiến dịch này kéo dài măi đến nay vẫn chưa hết.
Đảng cũng c̣n nhận thấy "nọc độc Nhân văn" đă thấm nhiều vào đầu óc mọi người, nên bắt tất cả giới trí thức, công chức, cán bộ, học sinh và cả cán bộ bộ đội, phải tẩy năo sắp lượt.
Số phận hiện nay của các văn nghệ sĩ đối lập
Sau cuộc chỉnh huấn th́ mặc dầu đă thú tội, các văn nghệ sĩ ở miền Bắc đều bị đưa đi "học tập lao động". Mọi người đều phải đi và Đảng nhận thấy rằng trong cuộc "khởi nghĩa hụt" vừa qua, mọi người đều bị ảnh hưởng "xấu" của nhóm Nhân văn, không ít th́ nhiều. Tuy vậy sự trừng phạt cũng tuỳ theo tội trạng. Nhẹ th́ được lao động ít, phái đi những nơi gần. Nặng th́ bị đầy đi nước độc, phải lao động nhiều.
Một đoạn ngắn trong bài "Nắm chắc lấy vũ khí chiến đấu của chúng ta" đăng trong tạp chí Văn nghệ số 7, tháng 7-1958, để lộ chính sách đó:
"Mọi người đều thấy là cần thiết và rất hoan nghênh một việc quan trọng mà ban chấp hành hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật đă đề ra là tất cả các văn nghệ sĩ đều phải cố gắng, tích cực đi vào thực tế đời sống công nông binh ‘tham gia lao động’. Tất nhiên nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm cũng đi với chúng ta, nhưng việc làm của họ hoàn toàn có ư nghĩa khác".
Ư nghĩa khác đó, là không phải đi để "học tập lao động" mà là đi để "an trí", để được giao phó cho chính quyền và chi bộ địa phương quản thúc, để làm như một tên tù khổ sai và để muỗi độc chích thêm cho một liều vi trùng sốt rét, v́ Đảng cho rằng 9 năm vừa qua, lá lách của những người anh dũng đó, tuy có sưng nhưng chưa rụng hẳn. Vậy họ bị đưa đi những nơi đâu? Trở lại những nơi hẻo lánh, những nơi "ma thiêng nước độc" mà họ đă từng lặn lội trong chín năm trời. Trong thời gian trước họ không chết, v́ họ c̣n là chiến sĩ, là đảng viên, họ có trợ cấp, có thuốc thang. Khu Việt Bắc âm u, trước kia là trung tâm cách mạng, nay lại trở lại nơi giam cầm chính trị phạm.
Những trại giam được thiết lập ở đâu? Sinh hoạt trong trại ra sao? Và tội nhân khi tới nơi phải làm những công việc ǵ? Chúng ta hăy nghe Yến Lan, một văn sĩ tập kết kể lại. (Nên nhớ rằng Yến Lan chưa phải là đầu sỏ, chưa được xếp hạng vào loại "tử tù".)
Yến Lan kể: (Trích báo Văn học số 9, ngày 15-8-1958)
"... Đây là một vùng đồi trọc... không một quán, cũng không một mái chùa, một cây đa cổ thụ. Nhà dựng ở chân đồi, lúp xúp một kiểu... Huyện lỵ trông bề ngoài thật là nghèo khổ. Toàn là nhà tranh, lèo tèo, ngắn ngủn... Huyện lỵ cách thôn chúng ḿnh hơn ba trụ số. Đi vào ngang qua những cánh đồng, ŕa theo triền đồi và vượt qua sườn đồi. Lên cao xuống thấp, ḷng mỗi người lại nghĩ đến một cảnh nào như đă sống quen, hoặc có đi qua, và hái được một số kỷ niệm chiến khu, một cảnh nghỉ chân trên đường phiêu lăng cũ. Riêng Lan, sao mà tha thiết nhớ đến An Khê.
Ba hôm đầu, tổ ḿnh đă đi vào sản xuất, cùng theo xă viên ra đồng làm ruộng. Lan đă bừa trong ruộng nước. Lại cầy và tát nước. Mấy hôm nay cắt lá, vớt bùn ao làm phân xanh.
... Lúc mới về, hỏi ra t́nh h́nh sinh hoạt, thấy thừa người lớn, vắng trẻ con (ở đây đẻ nhiều nhưng nuôi được it), nhiều người chân phềnh ra như chân voi..." (Yến Lan)
Và đây là một cảnh khác, do Hoàng Chương, một cán bộ "văn công" khu V tập kết và bị "cưỡng bách lao động" kể lại: (cũng trích trong bài báo kể trên):
"... Từ nhà đến đồng Cống xa chừng ba cây số. Chúng tôi dậy thật sớm tranh thủ gánh phân để tránh bớt nắng trưa. Tôi nhớ năm nào tiếp tế bộ đội ở chiến trường, gánh lúa bốn mươi cân leo dốc, nhờ vui và thích mau gặp bộ đội nên quên mệt. [4] Cô Thu, người Hà Nội, trước chưa quen gánh, hôm nay cũng cố được hai mươi cân. Nh́n Hùng cởi trần gánh thoăn thoắt, ai biết đó là một sinh viên Hà Nội. Cuộc sống vui vẻ thân mật, tôi thấy như sống giữa gia đ́nh, làng xóm của ḿnh ở miền Nam!" (Hoàng Chương, Hội Văn công Liên khu V)
Không bút nào tả được tâm trạng của những con người yêu chuộng Tự Do, đă hy sinh tất cả để theo đuổi kháng chiến, đă vô t́nh giúp sức cho cộng sản thành công, và khi cùng nhau tới đích, mới sống ở Hà Nội chưa được bao nhiêu ngày lại bị cộng sản đưa trở lại "chiến khu" để sống nốt những ngày tàn. Phong kiến ngày xưa không bao giờ bội bạc với công hầu một cách "tập thể" như vậy.
Chương III: Phương pháp đấu tranh của trí thức ở miền Bắc
Lịch sử loài người đă ghi chép nhiều chế độ tàn bạo: Tần Thuỷ Hoàng, Néro, Hitler, vân vân. Nhưng chưa có một chế độ nào vô nhân đạo bằng chế độ cộng sản. Đây là một điểm cần phải nhận định. Điểm thứ hai là các chế độ bạo tàn từ trước tới nay đều chỉ dùng bạo lực để đàn áp dân chúng, không dùng đến thủ đoạn, do đó, dân chúng c̣n một lối thoát là dùng mánh lới để lừa dối chính quyền. Trong thời Pháp thuộc chúng ta đă nghe câu chuyện vợ lên huyện tố cáo chồng nấu rượu lậu, để sau khi chồng đi tù, vợ ở nhà yên tâm... nấu rượu lậu. Mưu mô, mánh lới, vốn dĩ là khí giới của kẻ yếu.
Ngày nay, dưới chế độ cộng sản, th́ thứ khí giới đó không c̣n hiệu nghiệm, v́ chính quyền cộng sản, mới xuất thân từ nơi dân chúng, không lạ ǵ thứ khí giới đó, và c̣n biết dùng nó một cách hiệu nghiệm hơn mọi người v́ cộng sản có phương tiện phổ biến kinh nghiệm, có cả một hệ thống tay sai để bố trí lừa bịp đại quy mô.
V́ vậy nên một cuộc cách mạng chống cộng, phát xuất ngay trong ḷng cộng sản phải có những chiến thuật tinh vi hơn những chiến thuật đă được áp dụng từ trước tới nay, trong mọi cuộc cách mạng khác.
Trong cuộc nổi dậy vừa qua của trí thức ở miền Bắc, những người tham gia đă áp dụng phương pháp ǵ, chúng ta là những người ngoại cuộc khó ḷng biết rơ. Tuy nhiên, theo rơi tin tức bằng báo chí và nhất là nghiên cứu các bản thú tội của một số nhân vật trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm, chúng tôi tạm ghi ở nơi đây một số ít nhận xét. Chúng tôi tạm phân tách đường lối chống đối của giới trí thức đối lập thành một số chiến thuật.
1. Chiến thuật bất hợp tác
Nói nôm là tẩy chay Đảng, không viết bài do Đảng "com-măng". Hễ cán bộ Đảng, những "cập-rằng văn nghệ" thúc giục th́ thoái thác nói rằng chưa nắm được thực chất vấn đề, c̣n đang t́m cảm hứng, hoặc dây dưa khất lần, nói rằng sắp sửa viết, hoặc c̣n đương "thai nghén". Nếu bị bức quá, bị doạ cắt sinh hoạt phí, hoặc đuổi ra khỏi trại th́ cầm bút viết quấy quá cho xong chuyện, hay dở không cần. Nếu bị khiển trách th́ lấy cớ là tại "chưa lột được xác". Đa số văn nghệ sĩ đă áp dụng chiến thuật này trong suốt thời gian kháng chiến. Bà Nguyễn Thị Kim, một điêu khắc gia có tài, nhận ba sào ruộng của chính phủ cấp để cày cấy sinh nhai, nhưng đến khi kiếm tạm đủ ăn th́ không nặn tượng nữa. Lănh đạo hỏi tại sao không nặn, th́ bà rêu rao rằng tại cày cấy khó nhọc, tay bị cứng rắn không nặn được tượng nữa.
Cũng v́ giới văn nghệ miền Bắc trường kỳ áp dụng chiến thuật đó, nên suốt trong thời gian kháng chiến nền văn nghệ của Việt Minh không phát triển. Trong chín năm liền, trừ một vài bài thơ ca ngợi Bác Hồ, ông Sít-ta-lin, của Tố Hữu, của Xuân Diệu, ngoài ra không có một tác phẩm nào đáng kể, trừ một số thi ca có tính chất lăng mạn bị cấm không cho phát hành.
Chúng ta thấy giới văn nghệ ở miền Bắc chỉ thực ḷng sáng tác khi họ cầm bút viết bài chống lại Đảng, trong hai năm 1956 và 1957. Những bài của họ mà chúng tôi sẽ trích trong phần tài liệu đáng được coi là những kiệt tác trong văn chương nước nhà và thế tất sau này phải ghi vào văn học sử. Một số bài được dịch ra ngoại ngữ và phổ biến ở nhiều nơi, đă làm ngoại quốc thán phục. Văn chương chống cộng ở miền Bắc đă được liệt vào hạng hiếm có nhất trên thế giới. Nhưng sau khi tờ Nhân văn và Giai phẩm bị đóng cửa th́ một lần nữa các văn nghệ sĩ ở miền Bắc lại rút lui vào thế tiêu cực. Khi Đảng cho ra tờ báo Văn để thay thế tờ Giai phẩm, họ tẩy chay không viết, cho đến lúc mấy ông cập-rằng văn nghệ phụ trách tờ Văn nổi loạn nốt, mời họ tiếp tay, họ lại cầm bút một lần nữa. Hiện nay chắc họ lại đương "thai nghén", nhưng họ sẽ không đẻ ra một tác phẩm "đề cao cộng" như Đảng mong muốn, mà trái lại, hễ gặp thời cơ thuận tiện họ sẽ đẻ ra những tác phẩm "chống cộng" c̣n mạnh mẽ hơn những tác phẩm trước.
Sự thực th́ cộng sản có thể cưỡng bách mọi người bắt phải lao động chân tay, nhưng không thể nào bắt một nhà văn phải sản xuất theo ư muốn, đúng phẩm, đúng chất, v́ sáng tác văn nghệ là một công việc chế biến trong đầu năo, không có phương thức ǵ thôi thúc hoặc lănh đạo được. Không danh, không lợi, những nhà văn đă từng sống nhiều năm "không một ngọn đèn, không một củ khoai", tất nhiên có thể "đ́nh công thụ động" một cách lâu dài. Chiến thuật "bất hợp tác" của các nhà văn Việt Nam đối với cộng sản cùng một sắc thái giống phong trào "bất hợp tác" của thánh Gandhi đối với thực dân Anh.
2. Chiến thuật "Vờ ca ngợi Đảng để công kích Đảng”
Chiến thuật này rất phổ thông. Không ai không áp dụng, nhưng người áp dụng chiến thuật đó một cách tài t́nh hơn mọi người là ông Nguyễn Mạnh Tường.
Trong suốt bài diễn văn dài tới 40 trang, [5] ông lên án khắt khao toàn bộ chính sách cộng sản, nhưng ông không để hở một dịp nào khiến Đảng có thể gán cho ông tội "chống Đảng" v́, xen lẫn vào những lời đả kích chính sách, thỉnh thoảng ông lại tỏ lời ca ngợi Đảng và tuyên bố rằng ông vẫn tin tưởng ở Đảng. Khôn ngoan hơn những người khác, ông Tường không mạt sát Trường Chinh, v́ ông biết trước rằng Trường Chinh c̣n có ngày trở lại địa vị lănh tụ. Trái lại, ông ca ngợi Trường Chinh, thường nhắc lại những lời thú nhận của Trường Chinh để bênh vực cho thái độ của ḿnh. Ư ông muốn nói: "Đây, chính ông Trường Chinh cũng phải công nhận là sai lầm, đâu phải chỉ có ḿnh tôi". Có thể nói là trong tất cả các tài liệu chống cộng sản suốt trong hai năm 1956 và 1957, bài diễn văn của ông Tường có kết quả tai hại nhất đối với cộng sản, được báo chí ngoại quốc chú ư đặc biệt, trích đăng, phê b́nh, sử dụng làm tài liệu nghiên cứu t́nh h́nh Bắc Việt, [6] thế mà Việt cộng không hề làm ǵ nổi ông Tường, không dám lên tiếng chửi rủa ông như họ đă chửi rủa những người khác, v́ không khép ông vào tội ǵ được. Lẽ dĩ nhiên, ông Tường là luật sư, nên ông có "mồm mép", vừa biết rào trước đón sau khho6ng như những người không học luật.
Người khôn khéo thứ hai là cụ Phan Khôi. Trong bài "Phê b́nh lănh đạo văn nghệ" [7] cụ mạt sát Đảng không nể lời, nhưng cụ vẫn cứ rêu rao là cụ sẵn ḷng chịu sự lănh đạo của Đảng.
Kế đến những nhà văn đứng tuổi khác như ông Đào Duy Anh, ông Trần Đức Thảo, ông Sỹ Ngọc, ông nào cũng biết dè dặt chỗ cần phải dè dặt. Công kích "quá tả" hoạ chăng chỉ có ông Nguyễn Hữu Đang và mấy ông ít tuổi hơn. Tóm lại, chiến thuật chung là vờ ca ngợi Đảng để công kích lại Đảng. Như vậy mới tránh được sự khủng bố của Đảng. Tránh khủng bố để duy tŕ lực lượng, để củng cố phong trào và để lôi cuốn một số đảng viên bị nhồi sọ lâu ngày, c̣n đang quá ư tin tưởng ở Đảng.
Trần Dần đă tả lại chiến thuật của ông bằng mấy lời sau đây:
"Viết bây giờ nên làm lối ‘xôi đỗ’, tức là đả kích xen ca ngợi th́ lănh đạo (Đảng) cũng phải chịu".
Riêng về trường hợp ông Trương Tửu th́ cả một nghi vấn đương được nêu lên. Ông công kích chính sách của Đảng một cách gắt gao hơn ai hết, nhưng không đứng trên lập trường "dân chủ" để công kích. Ông mang lư thuyết Mác-Lê chính thống ra để so sánh và kết luận rằng Việt cộng đă đi sai đường lối Mác-Lê, đă phản bội chủ nghĩa Mác-Lê. Nói một cách khác, ông Tửu vẫn đứng trên lập trường Đệ Tứ để công kích Đệ Tam.
V́ vậy mà Việt cộng hiện quy ông Tửu là Trotskiste. Điều đó cũng đúng một phần, v́ trước kia ông Tửu ở trong nhóm Hàn Thuyên. Nhưng với một người như ông Tửu, đă kinh nghiệm qua hơn mười năm chung sống với cộng sản, đă bị đấu tố [8] th́ khó ḷng tin được rằng ông không có dịp để nhận định rằng toàn bộ chủ nghĩa Mác-xít là sai. Biết đâu việc ông đề cao chủ nghĩa Mác-Lê chỉ là một chiến thuật. Ông Tửu xưa nay vẫn có tính thích lập luận một cách độc đáo, khác với mọi người.
3. Chiến thuật giai đoạn
Chia cuộc đấu tranh thành từng giai đoạn và ấn định cho mỗi giai đoạn một mục tiêu hợp với hoàn cảnh chủ quan và khách quan là một chiến thuật do cộng sản Đệ Tam khai sinh và áp dụng một cách thường xuyên. Ngày nay, những người trong hàng ngũ cộng sản được cộng sản đào tạo lại mang chính chiến thuật đó ra để chống lại cộng sản. Bắt chước cộng sản, họ t́m ra những điểm yếu nhất của cộng sản để đả phá trước tiên. Hễ phá vỡ được pḥng tuyến của đối phương họ mới t́m cách tấn công rộng ra một chỗ khác, dần dần đi tới chỗ bác bỏ toàn bộ chủ nghĩa cộng sản.
4. Chiến thuật "nhất điểm lưỡng diện"
Nhất điểm lưỡng diện là một chiến thuật quân sự của tướng Lâm Bưu, đă được mang ra áp dụng tại chiến trường Cao Ly. Lâm Bưu chủ trương không tấn công toàn diện mà dồn hết lực lượng tấn công một nhược điểm, mang trọng pháo đi đầu bắn phá tan hoang, mở lối cho công binh dọn đường vào trước rồi bộ binh kéo theo sau. Khi bộ binh đă đột nhập vào đồn trại của địch th́ đánh toả ra hai bên. Hạ xong một đơn vị pḥng thủ của địch th́ tức khắc phân tán lực lượng, tập trung tại một nơi khác để tấn công một vị trí khác.
Ngày nay nếu chúng ta nghiên cứu phương pháp tấn công của nhóm Nhân văn-Giai phẩm, ta phải công nhận rằng họ đă áp dụng một phương pháp tương tự. Họ kết hợp tất cả các lực lượng chống Đảng, học sinh, sinh viên, cán bộ cũ bị xử trí oan, cán bộ miền Nam tập kết, phối hợp tất cả các lợi khí tuyên truyền, thơ ca kịch, nhạc, truyện ngắn, truyện dài, để đại tấn công vào một điểm yếu của Đảng.
Lấy việc công kích mậu dịch làm tỉ dụ. Chúng ta thấy không biết bao nhiêu tài liệu nhằm đả kích mậu dịch. Nào là thơ trào phúng, truyện ngắn, tranh vẽ đều mang mậu dịch ra chế giễu. Ngay cả trong bài diễn văn của ông Nguyễn Mạnh Tường, chúng ta cũng thấy một đoạn dài nói về những tệ hại của mậu dịch. Các văn sĩ biết rằng công kích mậu dịch th́ vừa lôi cuốn thành phần công thương bị mậu dịch bóp chết, vừa hái được sự đồng t́nh của quảng đại quần chúng (trong đó có cả cán bộ cấp dưới) v́ mọi người đều bị điêu đứng mỗi khi phải đến mậu dịch mua hàng. Một mặt khác đánh vào mậu dịch tức là giáng một đ̣n vào nền kinh tế của Đảng, nên đối với các nhà văn chống Đảng, mậu dịch là pḥng tuyến cần phá vỡ trước tiên.
Lê Đạt đă bộc lộ rằng:
"Mậu dịch là chỗ yếu của Đảng, ai cũng biết, đánh vào đấy sẽ được quần chúng ủng hộ đấu tranh với Đảng, và báo chí của Đảng dù có muốn phản công lại cũng chịu."
Câu nói đó chứng minh một chiến thuật.
Về lănh vực văn nghệ th́ các văn nghệ sĩ tập trung mũi dùi vào một người. Người đó là Tố Hữu, trước kia đă được Việt cộng tôn là "thần tượng" của thi ca Việt Nam. Chỗ yếu của Tố Hữu là đă làm nhiều bài thơ ca ngợi Sít-ta-lin quá lời, gọi Sít đại nhân là "ông nội". Ngày nay "ông nội" bị bác Khrushchev quy cho đủ thứ tội, nên Tố Hữu không dám há miệng. Đứng trước t́nh h́nh đó, tấn công vào Tố Hữu trước tiên phải là thượng sách. Kẻ thù không có phương thế chống đỡ mà hạ được thần tượng đó tức là gạt bỏ một cục đá tảng ngăn đường tiến thủ của các mầm non trong văn nghệ. Về một mặt khác, Tố Hữu là một trong "thập bát tú" (mười tám Trung ương uỷ viên) nên đánh được Tố Hữu tức là hạ uy thế của Trung ương Đảng.
Tấn công xong Tố Hữu th́ mặt trận tấn công lan ra các "cập-rằng văn nghệ" như Hoài Thanh, Nguyễn Đ́nh Thi, quây quần xung quanh "vị thần tượng" Tố Hữu. Bài "Phê b́nh lănh đạo văn nghệ" của cụ Phan Khôi và nhiều bài khác của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, bài "Thi sĩ máy" của Như Mai đều nhằm mục tiêu này. Cứ như vậy rộng dần ra toàn thể "giai cấp mới", giai cấp cán bộ Đảng lộng hành và thối nát, nịnh trên nạt dưới, gây nên biết bao nhiêu tai hoạ trong dân gian. [9]
Về sự áp dụng chiến thuật này, Trần Dần đă bộc lộ rằng: "Viết về Cải cách ruộng đất bây giờ phải đánh Trung ương là chính, thứ nữa mới đánh cán bộ, thứ nữa mới đến cốt cán".
5. Chiến thuật bảo tồn lực lượng
V́ biết phong trào vừa mới manh nha, lực lượng tấn công c̣n yếu, đối phương c̣n nắm vững guồng máy cai trị, nên các văn nghệ sĩ đối lập phải thận trọng, vừa tấn công Đảng vừa cố gắng bảo toàn lực lượng. Do đó họ phân công mỗi người mỗi việc. Những nhà văn sẵn có tên tuổi như cụ Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang th́ đứng ra công khai để tranh đấu, c̣n những văn sĩ trẻ tuổi th́ nấp sau để phục kích, mỗi lần bị Đảng phản công. Trần Dần viết như sau:
"Nhóm Giai phẩm mùa Xuân hồi đó tạm thời phân tán, người nằm vào hẳn báo Nhân văn, như Hoàng Cầm, Lê Đạt. Người ném đá giấu tay như tôi, Tử Phác,... C̣n như Văn Cao, Đặng Đ́nh Hưng th́ đứng bên ngoài ủng hộ mà nhân đó hoạt động phối hợp bên Nhạc...”
Ở một đoạn khác trong bài kiểm thảo Trần Dần viết:
"Tôi nghĩ bây giờ cọ lắm sầy vẩy, phải t́m những cách khôn khéo hơn. Văn Cao có đề ra ư kiến: ‘Bây giờ cứ nắm cơ sở, tức là nắm các nhóm sáng tác, lâu dần nhân tâm sẽ hướng về ḿnh’. Từ đó tôi áp dụng một cái jeu serré (nước bài chặt chẽ) hơn trước. Tôi hay nói với anh em: ‘Vơ phải cho kín mới được’. Trước hở quá rồi, đấu tranh bộ đội, Giai phẩm mùa Xuân, Nhân văn dều manh động, vaines agitations cả. Chỉ có chui vào sáng tác tức là cái giáp trụ rắn nhất (Đảng) đánh cũng không chết.”
Đến khi nhận thấy phong trào đi quá nhanh, Đảng bắt đầu dùng bạo lực để khủng bố, th́ các văn nghệ sĩ đối lập phải t́m cách gh́m bớt phong trào lại để tránh tổn thất. Chúng ta hăy nghe Trần Dần kể lại:
"Khoảng số 2 Nhân văn. Lê Đạt lên trại Cải cách ruộng đất t́m tôi, tôi bảo trước sau phong trào cũng bị đổ vỡ thôi. Tôi xui Lê Đạt tham gia gh́m Nguyễn Hữu Đang lại và nói: ‘Mày làm như Các Mác với Ba Lê Công xă ấy’, biết là thất bại nhưng cứ xông vào giải bớt thất bại đi".
Cũng v́ áp đụng chiến thuật mềm dẻo này mà đa số các văn nghệ sĩ, sau khi phong trào chống đối bị tan vỡ, đều chịu đi chỉnh huấn và công khai bộc lộ. Họ áp dụng câu phương ngôn "tránh voi chẳng hổ mặt nào", để một lần nữa tránh tổn thất. Không phải là họ "ham sống sợ chết", nhưng nếu để cho cộng sản khủng bố rùng rợn quá th́ thế hệ sau sẽ một phần nào nhụt mất nhuệ khí. Những người được cộng sản Đệ Tam đào luyện không có thái độ như Nguyễn Thái Học, chủ trương "không thành công cũng thành nhân".
Có nhiều người ở miền Nam không tán đồng thái độ này. Họ cho rằng đầu hàng kẻ thù như vậy là không có "khí phách", không đủ tiết tháo. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng đối với cộng sản th́ không thể nào dựa vào khí phách và tiết tháo mà thắng được. Càng tỏ ra có khí phách chúng càng giết không nể tay. Hàng vạn người trước đây bị quy là địa chủ, chỉ v́ khí phách không chịu đầu hàng, nên bị chúng giết từng loạt. Hiện nay vấn đề chính không phải là nêu cao khí phách để cổ vơ tinh thần quần chúng, giác ngộ quần chúng v́ toàn thể nhân dân đă sẵn có tinh thần chống cộng. Vấn đề chính trong hiện tại là đấu tranh bền bỉ. Mỗi lần thất bại là phải cố gắng bảo tồn lực lượng để trù tính một cuộc đấu tranh kế tiếp. Cộng sản thắng lợi v́ áp dụng đường lối đó. Trong tương lai cộng sản tất nhiên sẽ bị thất bại cũng v́ đối phương biết áp dụng phương pháp đó.
Một mặt khác, sau khi tất cả các báo chí đối lập đă bị bóp chết, th́ chỉ c̣n một cách là công khai bộc lộ để nhờ báo chí của Đảng trích đăng tâm sự của ḿnh, ḥng để lại cho lớp sau một kinh nghiệm mà lịch sử chưa từng ghi chép.
Trên đây là ư kiến riêng của chúng tôi, v́ chúng tôi so sánh việc "đầu hàng" của nhiều địa chủ với việc "đầu hàng" của các văn nghệ sĩ. Đảng bắt phải đầu hàng để Đảng lên mặt với nhân dân, vậy th́ cứ "đầu hàng" v́ qua những vụ đấu tố địa chủ, phú nông, toàn thể nhân dân đều biết rằng những tṛ đó chỉ là một tấn đại bi hài kịch mà mọi người phải lần lượt lên sân khấu đóng vai tṛ Đảng đă ấn định cho ḿnh. Chúng tôi tin rằng những người như Trần Dần đă viết bài “Hăy đi măi” (xem phần tài liệu) hay Phùng Quán đă viết bài “Lời mẹ dặn” (xem phần tài liệu) là những người có dư thái độ bất khuất và có đủ gan dạ bền bỉ.
Ư kiến chúng tôi có đúng hay không, chỉ có tương lai mới có thể trả lời.
Trong khi chờ đợi, chúng ta hăy tin rằng Người là Người mà Vật là Vật. Không có thế lực nào có thể biến con người thành con vật. Người hơn vật ở chỗ biết nói, nên hễ biết nói là phải nói theo ư ḿnh. Người bao giờ cũng tranh đấu đ̣i cho được tự do ngôn luận, bảo đảm cho mọi thứ do khác.
Mạc Đ́nh
Sài G̣n, ngày 8-12-1958
[1]Thực ra đây là bài "Mới", tin trong Giai phẩm mùa Xuân 1956 (talawas)
[2]Bức tranh của Trần Duy nhan đề "Một phương pháp xây dựng văn nghệ" trên báo Văn số 30, ngày 29.11.1957, in lại trong sách này ở trang 35 (talawas)
[3]Thông tin này đă được chứng tỏ là không đúng. Ông Nguyễn Hữu Đang mất tại Hà Nội ngày 08.02.2007 tại Hà Nội (talawas).
[4]Ngụ ư bây giờ th́ không vui như vậy.
[5]Xem bài "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất" trong phần tài liệu.
[6]Giữa hôm ông Hồ sang Rangoon, báo The Nation là tờ báo lớn nhất của Miến Điện trích đăng bài diễn văn của ông Tường dưới đề: "Đây, hiện t́nh Bắc Việt".
[7]Xem bài trong phần tài liệu.
[8]Tháng hai năm 1953 ông bị cán bộ làng Quần Tín là nơi ông tản cư mang ông ra đấu, bắt ông phải quỳ và đánh ông mấy cái bạt tai.
[9]Xem bài "Cũng những thằng nịnh hót" của Hữu Loan trong phần tài liệu và bức hí hoạ ở trang 14.
I. Phái cựu học
Phái này trước kia gồm những nhà văn xuất thân từ Nho học, đồng thời với cụ Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng, ra đời vào khoảng cuối thế kỷ trước, lúc Pháp mới bắt đầu đặt nền đô hộ trên toàn cơi lănh thổ Việt Nam.
Nhưng tất cả các văn nhân trong thế hệ này đều đă qua đời, chỉ c̣n sót lại có hai cụ là Sở Cuồng Lê Dư và Chương Dân Phan Khôi. Cả hai cụ đều là người Quảng Nam và đều có tham gia phong trào Đông kinh Nghĩa thục và phong trào kháng thuế ở Trung kỳ.
Cụ Lê Dư đă mất hẳn trí nhớ nên từ lâu nay không c̣n sáng tác nữa, chỉ c̣n lại một ḿnh cụ Phan Khôi, có thể nói là đại diện cho cả một thế hệ, cho một hệ thống tư tưởng Nho giáo, đơn thương độc mă chống chọi với ư thức hệ Mác-xít và chế độ cộng sản. Tiếng nói của cụ là tiếng nói của một học phái từ hai ngh́n năm trước c̣n vang lại, nhắc chúng ta phải nhớ đến thời Xuân Thu, Chiến Quốc bên Tầu mà thực sự có "Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng". Phong trào này ngày xưa bị Tần Thuỷ Hoàng đàn áp và ngày nay bị ông Mao Trạch Đông và ông Hồ Chí Minh tiêu diệt. Phan Khôi là đồ đệ cuối cùng c̣n giữ đủ tinh thần tiết tháo của trên bảy mươi thế hệ Nho gia. [1]
Cụ Phan Khôi
Cụ sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, ông thân sinh ra cụ là Phan Trân, trước làm tri phủ, phủ Điện Khánh, sau từ quan về làm nghề dạy học. Bà mẹ cụ Phan Khôi là con gái cụ Hoàng Diệu, nguyên Tổng đốc Hà Nội, có lần đă đi sứ sang Tây Ban Nha và Anh Cát Lợi. Cụ Hoàng Diệu tuẫn tiết khi thành Hà Nội bị lọt vào tay Henri Rivière năm 1882.
Cụ Phan Khôi học chữ Nho rất giỏi và mới 19 tuổi đă đỗ tú tài (1905) tuy rằng sức học đáng để học cao hơn. Đỗ xong cụ tỏ ư chán khoa cử, v́ cụ được gặp cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh nên bị ảnh hưởng của hai nhà cách mạng này.
Năm 1907 cụ Phan Khôi ra Hà Nội, tham gia phong trào Đông kinh Nghĩa thục và viết cho tờ tạp chí Đăng cổ Tùng báo do phong trào này xuất bản. Chẳng bao lâu tờ tạp chí bị cấm và phong trào bị khủng bố. Cụ Phan liền rút lui về Nam Định rồi về Hải Pḥng ẩn náu. Ít lâu sau cụ lén về Quảng Nam hoạt động trong Phong trào Văn thân cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Trong một cuộc biểu t́nh đ̣i giảm thuế, cụ Phan bị bắt và giam tại nhà lao Quảng Nam cho măi đến năm 1914, v́ có chiến tranh Đức-Pháp, toàn quyền Albert Sarraut mới ân xá cho nhiều tù nhân, trong đó có cụ.
Trong thời gian bị tù, cụ Phan học chữ Pháp với những công chức cùng bị giam. Thoát khỏi tù, cụ ra Hà Nội làm nghề viết báo. Cụ viết cho tờ Nam phong, là tờ báo văn học duy nhất của thời bấy giờ. V́ bất b́nh với Phạm Quỳnh là giám đốc tờ Nam phong, cụ bỏ Hà Nội vào Sài G̣n viết cho tờ Lục tỉnh Tân văn.
Năm 1920 cụ lại trở ra Hà Nội viết cho tờ Thực nghiệp Dân báo và tờ Hữu thanh của cụ Ngô Đức Kế. Trong thời kỳ này cụ dịch thuê cuốn Kinh Thánh cho Hội Tin lành. Cuốn Nam âm thi thoại của cụ ra đời trong thời kỳ này.
Năm 1928, tờ Thực nghiệp Dân báo và tờ Hữu thanh bị đóng cửa, cụ Phan lại trở vào Sài G̣n viết cho tờ Thần chung và tờ Phụ nữ Tân văn, và gửi bài ra Hà Nội cho báo Đông Tây. Trong thời kỳ này cụ Phan bút chiến với Hải Triều, nhà văn cộng sản, về vấn đề duy tâm và duy vật. Cuộc bút chiến này sôi nổi dư luận trong toàn quốc.
Năm 1931, cụ Phan lại trở ra Hà Nội viết cho tờ Phụ nữ Thời đàm.
Năm 1936 cụ vào Huế viết cho tờ Tràng An và xin được phép xuất bản tờ Sông Hương. Cụ tái bản cuốn Nam âm thi thoại và đổi tên là Chương Dân thi thoại.
Năm 1939 tờ Sông Hương chết, cụ Phan lại trở vô Sài G̣n dạy học chữ Nho và viết tiểu thuyết. Thời kỳ này cụ viết cuốn Trở vỏ lửa ra.
Sau khi Sài G̣n bị phi cơ đồng minh oanh tạc dữ dội, cụ Phan rút lui về quê để tránh bom và sống an nhàn cho đến khi Việt Minh cướp chính quyền, năm 1945.
Cụ bất b́nh với chính sách khủng bố của Việt Minh thi hành ở Quảng Nam, Quảng Ngăi, nhất là về việc cán bộ địa phương định phá huỷ nhà thờ cụ Hoàng Diệu, nên cụ lớn tiếng công kích. Cán bộ địa phương toan bắt cụ, nhưng v́ nể Phan Thao là con cụ lúc bấy giờ làm cán bộ cao cấp trong uỷ ban Trung bộ, nên không dám bắt mà chỉ báo cáo lên cấp trên. Về phần cụ Phan, cụ cũng khôn khéo viết thư cho cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc bấy giờ giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ ở Hà Nội. Cụ Huỳnh vội vàng can thiệp. Hồ Chí Minh dàn xếp vấn đề bằng cách tự tay viết thư mời cụ Phan ra Hà Nội hợp tác, nhưng kỳ thực là giao cho em họ cụ là Phan Bôi, tức Hoàng Hữu Nam, Trung ương Uỷ viên và Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách quản thúc.
Ra đến Hà Nội, cụ Phan không chịu ở nhà Phan Bôi, cụ lên phố Quan Thánh ở nhà Khái Hưng, tức Trần Khánh Dư, là một nhà văn theo Quốc dân Đảng. Khi Việt Minh khủng bố Quốc dân Đảng và vây nhà Khái Hưng để bắt Khái Hưng th́ đồng thời cũng bắt được cụ Phan Khôi trong đó. V́ lúc bấy giờ Phan Thao con cụ làm chủ nhiệm báo Cứu quốc ở Hà Nội, nên một lần nữa Việt Minh lại không dám khủng bố cụ Phan. Chúng giao cụ cho Phan Bôi điệu lên chiến khu Việt Bắc. Cụ ở Việt Bắc suốt 9 năm kháng chiến.
Ở chiến khu cụ Phan được giao công tác phiên dịch sách chữ Hán hoặc chữ Pháp sang tiếng Việt. Tuy bất măn, nhưng cụ cũng làm tṛn nhiệm vụ. Ông Hồ lấy làm bằng ḷng và ban cho cụ một chiếc áo "bờ-lu-dông" Mỹ-
Sự thực th́ cụ Phan chỉ tán thành cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng cụ rất ghét Việt Minh. Hồi 1951 cụ làm bài thơ ví cuộc kháng chiến như hoa hồng và ví Việt Minh như gai. Đại ư cụ nói cụ v́ yêu kháng chiến mà phải phục tùng Việt Minh. Bài thơ như sau:
Hồng gai
Hồng nào hồng chẳng có gai
Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,
Là hồng th́ phải có hoa,
Không hoa chỉ có gai mà ai chơi?
Ta yêu hồng lắm hồng ơi!
Có gai mà cũng có mùi hương thơm.
(16-03-1951)
Cụ ghét Việt Minh về nỗi cấm đoán tự do ngôn luận nên cụ làm một bài thơ tả số phận con lợn như sau:
Đánh đùng một cái
Kêu éc éc ngay
Bịt mồm, bịt miệng,
Trói chân, trói tay
………………………
Từ dây đến cái dao
Chẳng c̣n xa là bao.
Cám cảnh cô độc ở Việt Bắc, cụ Phan làm một bài thơ chữ Hán mà Thế Lữ dịch ư như sau:
Một ḿnh trước cảnh xanh núi rừng
Ta ngồi ngạo nghễ với bầy chim bầy vượn
V́ ta chạy loạn mà t́nh cờ gặp cảnh lâm tuyền.
(Cụ ví Việt Minh là thú vật.)
Và một bài khác Thế Lữ dịch ư như sau:
Một ḿnh đêm giao thừa
Đến ngọn đèn làm bầu bạn cũng không có
Đắp lên thân suy tàn một tấm chăn kép
Chợp mắt mơ là nhằm miếng chua cay
Có vợ con mà sống chia cách
Không sinh kế đành phải ăn nhờ
Nghe tiếng gà mừng vùng dậy
Kháng chiến bốn lần gặp Xuân rồi
(1950)
V́ khí hậu độc nên cụ sinh ốm đau và phải vào bệnh viện nằm trong đó một thời gian. Ra khỏi bệnh viện, cụ đi hớt tóc và cảm hứng cụ làm bốn câu thơ:
Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy thừa ta
Mối sầu như tóc bạc
Cứ cắt lại dài ra.
(1952)
Cuối năm 1954 cụ Phan Khôi ở chiến khu về Hà Nội cùng với đa số các văn nghệ sĩ khác. V́ không có nhà cửa ở Hà Nội nên Hội Văn nghệ dành cho cụ một buồng ở tầng ba của nhà trụ sở hội đường Gambetta cũ. Cụ vẫn tiếp tục công việc phiên dịch.
Mùa Thu 1956 cụ viết bài "Phê b́nh lănh đạo văn nghệ" đăng trong Giai phẩm mùa Thu. Bài này gây nên ngọn lửa chiến tranh giữa trí thức miền Bắc với Đảng. Để nới rộng cuộc đấu tranh sang lĩnh vực chính trị, cụ Phan Khôi đứng ra làm chủ nhiêm kiêm chủ bút báo Nhân văn. Để tỏ ư chí đấu tranh đến cùng, cụ làm bốn câu thơ:
Nắng chiếu tuy có đẹp
Tiếc tài gần chạng vạng
Mặc dù gần chạng vạng
Nắng được th́ cứ nắng
(1956)
Nhận thấy thái độ chống đối của cụ Phan Khôi là một điều tối nguy hại cho chế độ, Việt cộng, một lần cuối cùng, cố sức mua chuộc cụ bằng cách mời cụ sang Bắc Kinh để dự lễ kỷ niệm nhà văn Lỗ Tấn. Chính quyền miền Bắc hy vọng rằng cho cụ đi thăm các xưởng máy đồ sộ của Trung Quốc, cụ sẽ phải khâm phục sự tiến bộ của nước đàn anh vĩ đại, và do đó sẽ thay đổi quan niệm, không chỉ trích cộng sản nữa. Một lần nữa, cộng sản lại thất vọng.
Một hôm cụ Phan được đưa tới thăm nhà máy An Sơn của Trung cộng, cụ làm ra vẻ tấm tắc khen ngợi những máy móc tinh xảo và phát biểu như sau:
"Ngày xưa ông Mác nói : Lao động sáng tạo, nhưng tôi nghĩ rằng nên nói trí thức và lao động sáng tạo, mới đúng."
Cán bộ Tàu lễ phép chữa lại:
"Thưa cụ, ông Mác nói là lao động là bao gồm cả trí thức trong đó chứ ạ!"
Cụ Phan trả lời ngay:
"Không đâu, ư ông Mác chỉ muốn nói công nhân thôi, c̣n trí thức th́ sau này người ta mới thêm thắt vào đó."
Cán bộ Trung cộng ứ hơi cứng họng không trả lời được.
Sau khi ở Trung Quốc về, cụ Phan lại tiếp tục công việc làm chủ nhiệm báo Nhân văn. Biết rằng Đảng sắp khủng bố đến nơi, cụ vẫn b́nh tĩnh tiếp tục cuộc đấu tranh. Hồi đó cụ làm bốn câu thơ hài hước như sau:
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm ǵ cũng chẳng làm sao
Việc cụ Phan Khôi chống đối Đảng trong hai năm vừa qua như thế nào, chúng tôi đă tŕnh bày tường tận trong mục: "Lịch tŕnh đấu tranh của trí thức ở miền Bắc". Chúng tôi cũng đă tường thuật việc cụ bị đả kích và chửi bới như thế nào. Họ bảo cụ là phản động Việt gian, phá hoại, tờ-rốt-kít, cụ hút thuốc phiện, chơi gái... và cụ "hủ hoá" cả với nữ sĩ Thuỵ An nữa (nên nhớ rằng khi cụ Phan gặp bà Thuỵ An, cụ đă ngoài 70 tuổi). Điều đó không làm cho chúng ta ngạc nhiên v́ tục ngữ của chúng ta đă sẵn có câu : Được là vua, thua là giặc.
Điều mà chúng ta cần chú ư là nhờ có sự chửi bới moi móc đó mà chúng ta biết thêm được một vài chi tiết về sự nghiệp văn chương của cụ Phan. Số là trong báo Văn nghệ số 15, xuất bản hồi tháng 8, 1958, Đoàn Giỏi, một cán bộ văn nghệ có viết một bài mạt sát cụ Phan, trong đó có nói nhiều đến cuốn Nắng chiều của cụ Phan mà từ trước tới nay chưa ai biết, v́ chưa xuất bản.
Cũng v́ không thể kiếm được nguyên bản nên chúng tôi tạm trích bài phê b́nh của Đoàn Giỏi để độc giả có thể có một khái niệm về tác phẩm cuối cùng của cụ và cũng để độc giả thử đoán xem Đoàn Giỏi có chủ tâm đả kích cụ Phan Khôi không, hay là chỉ mượn cớ chửi bới để phổ biến một tác phẩm mà từ lâu Đảng vẫn giấu kín trong tủ sắt. Chúng tôi không dám quyết định, chỉ biết rằng sau khi đăng bài đó, ban biên tập tờ Văn nghệ phải tự kiểm thảo và từ ngày ấy thấy vắng tên Đoàn Giỏi trên mặt báo. Chúng tôi cũng không dám phê b́nh cụ Phan Khôi v́ cụ là tiền bối. Những người đă có dịp quen biết với cụ trong cuộc đời bôn ba của cụ, tất nhiên biết về cụ rơ hơn chúng tôi.
*
Phê b́nh lănh đạo văn nghệ
Ngày 14 tháng 7 trước đây, một anh bạn trẻ đến với tôi, ngỏ ư muốn tôi viết một bài cho tập Giai phẩm mùa Thu, tôi nhận lời, và viết bài nầy.
Tôi không phải không nhớ nhập tâm rằng cái Giai phẩm mùa Xuân đă gây ra một cảm giác nặng nề cho giới văn nghệ [2] , nhưng mà tôi cứ viết. Là v́ tôi nghĩ thấy mùa Thu không thể giống được với mùa Xuân. Thầy Mạnh Tử nói rằng “Bĩ nhất thời dă, thử nhất thời dă”. “Thời” là mùa, mùa nào tiết khí ấy, mà cũng mùa nào thức ấy.
Huống chi cái tôi viết đây là viết bằng văn xuôi, có chi nói nấy, nói toàn những sự thực, tôi không làm thơ, trong đó không có cái ǵ nhiêu khê, bí hiểm, như “Cái b́nh vôi” của Lê Đạt, “Con chó đói” của Trần Dần, “Cái chổi quét rác rưởi” của Phùng Quán, nó như ruột voi, như phổi ḅ, suôn đuồn đuột mà xốp xồm xộp, ai đọc cũng thấy ngay tôi nói ǵ, khỏi phải hiểu ư nầy ra ư khác th́ tôi tưởng cũng nên viết lắm.
Tôi muốn nói sự thực. Nhưng có người bảo rằng “có những cái sự thực không nên nói”. Tôi không tin. Đó là ở dưới chế độ nào kia, chứ ở dưới chế độ của chúng ta, đă lấy phê b́nh, tự phê b́nh làm vơ khí, th́ c̣n có cái sự thực nào là cái sự thực không nên nói?
Tôi muốn phê b́nh. Nhưng có người khác lại bảo rằng “phê b́nh nội bộ th́ được, không nên viết trên sách báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc ra”. Tôi cũng không tin. Cái thời kỳ “đóng cửa dạy nhau” đă qua rồi, ngày nay chính là ngày có mâu thuẫn ǵ giữa nội bộ cần phải giải quyết trước mặt quần chúng nhân dân, không nhờ ánh sáng của quần chúng nhân dân soi dẫn cho, th́ không thể giải quyết nổi. Vả lại, đă nhận rằng ăn của nhân dân, làm việc cho nhân dân, nhân dân là chủ, có quyền kiểm tra mọi việc, th́ sao cứ im ỉm ta với nhau không cho nhân dân biết?
Bởi những lẽ đó, tôi viết bài nầy phê b́nh lănh đạo văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam, cái cơ quan mà tôi sống trong đó tám chín năm nay từ khi nó mới bắt đầu thành lập ở Việt Bắc tới giờ, và phê b́nh rất thẳng thắn.
Hồi c̣n ở Việt Bắc, đường lối văn nghệ có vẻ giản đơn lắm. Tóm lại là theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa hiện thực xă hội để phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, nhất là phục vụ cho cuộc kháng chiến trước mắt. Những người công tác văn nghệ lúc bấy giờ có làm đúng và đầy đủ như thế không, chưa nói đến; một điều có thể nói chắc là ai nấy đều cố gắng đi theo đường lối ấy. Đối với lănh đạo, họ có thắc mắc ǵ không? Hầu như không có thắc mắc ǵ cả. Nếu có th́ cũng đă chín bỏ làm mười, v́ trong thời gian đó, cái vĩ đại, cái gian khổ mà vinh quang của cuộc kháng chiến ngập trên người họ, họ đang để ḷng mà nghĩ đến kháng chiến, không nghĩ đến chuyện khác.
Ở đây tôi không đi sâu hơn, không đi t́m cái cớ tại làm sao mà sau khi thắng lợi trở về thủ đô, lănh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc đối với lănh đạo; tôi chỉ đưa ra cái hiện tượng không tốt ấy sau khi trở về Hà Nội hai năm nay.
Th́nh ĺnh tôi dùng cái danh từ “quần chúng văn nghệ” chắc có người thấy mà lấy làm chướng mắt. Nhưng không dùng th́ không lấy ǵ đủ chỉ rơ một cái hiện tượng: cái hiện tượng đối lập, một bên là lănh đạo văn nghệ, một bên là quần chúng văn nghệ. Trước kia, trong thời kháng chiến, lănh đạo với thứ quần chúng ấy là một, mà bây giờ là hai. Thêm một điều đáng chú ư, là cái thứ quần chúng ấy, hiện nay, không chỉ là văn nghệ sĩ theo kháng chiến ở Việt Bắc, mà c̣n văn nghệ sĩ ở vùng mới giải phóng, mà c̣n văn nghệ sĩ ở vùng Nam bộ, ở khu V ra tập kết nữa, một thứ quần chúng khá đông đảo, hễ lănh đạo không khéo th́ nó dễ thành ra đối lập.
Ở dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường: nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường… Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải đi đến không đối lập, hễ c̣n có đối lập, là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt.
Sở dĩ có cái hiện tượng ấy là bởi trong lĩnh vực văn nghệ chúng ta hai năm nay có những điều sai lệch về lănh đạo mà tôi sẽ cử đại khái ra như dưới đây. Đây là những việc nổi bật lên, tôi thấy rơ th́ tôi nói; c̣n những việc khác, về mặt tổ chức, về mặt hành chính tôi không biết cho lắm th́ tôi không nói.
1. Về vấn đề tự do văn nghệ sĩ
Sau khi về Hà Nội không lâu, giữa một cuộc toạ đàm ở trụ sở Hội Văn nghệ, một cán bộ cao cấp [3] lấy tư cách cá nhân đề ra cái vấn đề “tự do của văn nghệ sĩ”. Cái vấn đề ấy được giải thích là: Có một số văn nghệ sĩ nào đó đ̣i tự do hay là có ư đ̣i tự do, mà tự do một cách bừa băi, đến nỗi “ví như một kẻ kia đi trên đường phố, thấy có người ôm cái cặp da đẹp, giật ngang lấy đi, rồi nói rằng đó là tự do của ḿnh v́ ḿnh thích cái cặp da.” Do đó, kết luận là: phải có lănh đạo, văn nghệ sĩ phải ở dưới quyền lănh đạo.
Tôi thấy vấn đề đặt như thế không đúng. Sự thực trước mắt chúng ta không hề có như thế.
Bao nhiêu văn nghệ sĩ từng theo kháng chiến, không luận ở Việt Bắc, ở Nam bộ, ở Khu V, đều đă ở trong Hội Văn nghệ, đều đă bằng ḷng chịu lănh đạo rồi, nếu họ không bằng ḷng chịu lănh đạo th́ họ đă không ở trong Hội Văn nghệ. C̣n những văn nghệ sĩ ở vùng mới giải phóng, họ c̣n ở lại đây tức là họ rắp tâm chịu lănh đạo, nếu không th́ họ đă đi vào Nam. Tóm lại, văn nghệ sĩ hiện nay có mặt ở miền Bắc không ai đ̣i tự do bừa băi hết, không ai định “đánh giật cặp da” hết, tôi không biết v́ sao lại đặt ra vấn đề ấy.
Quả thật như vậy, văn nghệ sĩ của chúng ta chẳng những đáng yêu mà lại đáng thương nữa. Họ biết trước kia họ đă đi sai đường, họ ngoan ngoăn chịu lănh đạo. Mồ ma Tô Ngọc Vân [4] , anh là một hoạ sĩ cụp vẽ mỹ nhân, năm 1948, anh c̣n vẽ bức tranh màu đề là “Hà Nội đứng lên”, tŕnh bày một người thiếu phụ tuyệt đẹp đứng hiên ngang trong đống lửa, chung quanh là những cái nếp nhà đổ v́ bom đạn. Thế mà sau đó anh chừa hẳn cái vai cụp ấy. Ở Triển lăm Hội hoạ năm 1952, trong một bức tranh không có thể không có phụ nữ, th́ anh vẽ một đám đàn bà già và gái bé. C̣n Thế Lữ, có lần tôi hỏi tại sao anh không làm thơ như trước kia. Anh trả lời rằng đợi đến bao giờ anh “chỉnh” lại được tâm hồn, cảm thông được với quần chúng cần lao, bấy giờ anh sẽ làm. Thứ văn nghệ sĩ như thế, mà nói họ đ̣i tự do, dù chưa phải là tự do bừa băi, cũng đă oan họ lắm rồi, oan mà không có chỗ kêu.
Có lẽ bởi nh́n thấy ở một khía cạnh nào rồi nhận định hẳn như thế, nên từ đó lănh đạo gắt hơn, kỳ tiêu diệt thứ tự do ấy của văn nghệ sĩ. Nhưng, sự thực, thứ tự do ấy vốn không có để bị tiêu diệt, mà cái cá tính của văn nghệ sĩ, cái nghệ thuật tính của văn nghệ, nhân đó, tuy chưa đến bị tiêu diệt, chứ cũng đă bị thương.
Chưa nói đến cá tính và nghệ thuật tính. Ngay đến ư kiến, ngôn luận của quần chúng văn nghệ dù rất b́nh thường, không có ǵ hại, cũng bị ḱm hăm. Tôi là một người đă chịu cái điều khó chịu ấy, tôi nói ra đây tưởng không có ai ác đến nỗi bảo tôi là dựng đứng hay xuyên tạc.
Sau khi về Hà Nội mấy tuần lễ, có một cuộc họp mặt văn nghệ sĩ với mấy đồng chí văn nghệ Liên-sô. Một đồng chí nói rằng ḿnh v́ không đọc được tiếng Việt cho nên không biết văn học Việt như thế nào, chứ c̣n mấy ngành khác như nhạc, hoạ, kịch đều thấy có tiến bộ cả. Nhân đó, tôi phát biểu ư kiến, đại khái tôi nói văn học Việt v́ những điều kiện nào đó hạn chế, nên hiện thời nó c̣n thấp kém lắm, chưa theo kịp sự tiến bộ của mấy ngành kia. Lại trong một cuộc họp khác sau đó, nói về âm nhạc, có mấy người đề cao nhạc cổ Việt Nam. Tôi tuy dốt âm nhạc chứ cũng biết rằng nhạc cổ của ta không cao đến cái mức ấy, bèn lại phát biểu ư kiến. Tôi thuật lại chuyện nghe ở người khác rằng có một nghệ sĩ nước bạn phê b́nh điệu hát chèo, trong đó đệm nhiều những “a ư a”, “t́nh tính tang”, c̣n đeo tính chất nguyên thuỷ. Mấy hôm sau, tôi gặp ông Hoài Thanh [5] ở chỗ thang gác từng thứ hai của trụ sở Hội Văn nghệ, ông bảo rằng mấy lần phát biểu ư kiến của tôi đều đáng phê b́nh, nhất là lần sau, sao lại bằng vào lời một nghệ sĩ nước ngoài mà phủ định nhạc cổ? Tôi chưa kịp nói ǵ th́ ông đă đi xuống khỏi thang gác.
Tháng mười năm ngoái, tôi được cắt cử nói chuyện trong cuộc kỷ niệm Lỗ Tấn. [6] Trước khi nói, tôi phải viết ra tŕnh qua lănh đạo xem. Trong bài viết, có chỗ tôi nói Lỗ Tấn thông hiểu chủ nghĩa Mác lắm, nhưng trong văn chương của ông không hề dùng những danh từ mác-xít, mỗi khi đọc, làm tôi nghĩ đến con tằm: con tằm ăn dâu rồi nhả ra tơ, nếu nhả ra dâu th́ không phải là con tằm. Ông Nguyễn Tuân hỏi tôi: “Nói như thế là định viser (ám chỉ) ai?” Đề nghị tôi nên chữa. Tôi lấy làm lạ, tôi sao lại có tâm địa xỏ lá đến nỗi mỗi khi nói phải có ám chỉ ai mới được; tuy vậy, tôi cứ hứa sẽ chữa. Một chỗ khác, nói về lối phiên dịch, Lỗ Tấn chủ trương trực dịch. Ông Hoài Thanh bảo tôi phải chữa, lấy lẽ rằng phiên dịch có nhiều lối, nếu lấy Lỗ Tấn làm khuôn mẫu th́ Hồ Chủ tịch dịch Tỉnh uỷ bí mật [7] , không trực dịch, chẳng là không đúng hay sao? Tôi biết rơ rằng cái câu nói đó chỉ là thuật lại cái chủ trương của Lỗ Tấn, chẳng hề lấy làm khuôn mẫu, cũng chẳng hề đả động ǵ đến việc dịch của Hồ Chủ tịch hết, những tôi không căi, cũng cứ hứa sẽ chữa, mà thật, tôi đă chữa ngay trong bản thảo trước mặt ông Hoài Thanh.
Đó là cái thói kỵ huư trong văn chương của thời phong kiến c̣n rớt lại. Thuở Thiệu Trị, ở trường thi hương Thừa Thiên, Đặng Huy Trứ vào trường thi, trong văn có câu “vi gia miêu chi hại”, nghĩa là làm hại giống mạ tốt, nhưng “gia miêu” là tên làng các vua triều Nguyễn, quan trường sợ bóng sợ gió, sợ như thế có thể hiểu ra là làm hại làng của vua, bèn đánh rớt bay. Lại thuở Tự Đức, cũng trường thi Thừa Thiên, Lương Gia Hựu cũng vào trường thi, trong văn có câu “vi thiên tử chi ấp”, chữ “ấp” đó nghĩa là kinh đô, thế mà quan trường sợ có thể hiểu nôm na rằng thiên tử ôm ấp cô gái nào, cũng đánh rớt bay. Thử so sánh mà xem, có phải mấy ông lănh đạo của tôi cũng sợ bóng sợ gió, cũng kỵ huư như mấy ông quan trường ấy không? Người ta làm cho tôi cảm thấy qua việc ấy rằng nước Việt Nam ngày xưa, triều đại là triều đại Thiệu Trị, Tự Đức, cái nguồn văn chương là Tứ thư, Ngũ kinh, c̣n nước Việt Nam ngày nay, cũng là triều đại ǵ đó, chỉ khác cái nguồn văn chương là Mác-xít, chứ cái thói kỵ huư của quan trường th́ không khác.
Trở lại vấn đề “tự do của văn nghệ sĩ”.
Thực ra th́, như trên đă nói, văn nghệ sĩ không đ̣i tự do bừa băi, họ chịu ở dưới quyền lănh đạo, chỉ duy cái vấn đề họ đặt ra là lănh đạo phải như thế nào. Nói như thế cũng chưa hết ư. Phải nói rằng văn nghệ sĩ cũng muốn được tự do, nhưng họ chỉ yêu cầu được tự do trong nghệ thuật.
Đành rằng văn nghệ phục vụ chính trị, cho nên chính trị phải lănh đạo văn nghệ. Nhưng phải hỏi: chính trị nếu muốn đạt đến cái mục đích của nó, th́ cứ dùng những khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị, không được hay sao, mà phải cần dùng đến văn nghệ? Trả lời cho thành thật, e chính trị phải vỗ vai văn nghệ mà nói rằng: “Sở dĩ tao tha thiết đến mầy là v́ tao muốn lợi dụng cái nghệ thuật của mầy.” Đă cởi mở với nhau như thế rồi, văn nghệ đồng ư. Nhưng phần nghệ thuật nầy là phần riêng của văn nghệ, chính trị không bao biện được, nó phải đ̣i tự do trong phần ấy. Như thế, tưởng chính trị cũng lấy lẽ ǵ mà không đồng ư. “Hai bên đều có lợi”, cái nguyên tắc ấy, ở ngày nay, nó thích dụng trong bất cứ một sự hợp tác nào.
Nhưng hai năm nay, lănh đạo văn nghệ của chúng ta đă đi quá trớn mà không giữ đúng cái giao ước bất thành văn ấy. Lănh đạo đă xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ.
Trong văn nghệ, không cứ về ngành nào, sáng tác hay “sản xuất”, đều hầu như bị Ban Thường vụ của Hội xỏ sẹo dắt đi, hay quá lắm là nhúng tay vào. “Phục vụ công nông binh” và “phục vụ kịp thời”, cái đó đă đành rồi; “quần chúng văn nghệ” bực ḿnh v́ c̣n phải chịu mệnh lệnh của lănh đạo ngoài những cái đó.
Tức như trước đây trong việc chấm giải thưởng về nhạc. Có một bài nhạc, Ban chấm giải (gồm những nhạc sĩ chuyên môn) đặt vào hạng thấp, th́ Ban Thường vụ bảo phải nhấc lên hạng cao, lấy lẽ rằng “lời” nó hay và đúng chính sách. Ban chấm giải bầy rằng tuy “lời” hay mà “nhạc” tầm thường nên để hạng thấp, nhưng không được, rốt lại cũng phải nhắc lên hạng cao. Một anh nhạc sĩ trong Ban chấm giải thuật chuyện ấy cho tôi nghe và phàn nàn rằng thế th́ làm thơ làm văn cho hay và đúng chính sách cũng được, việc ǵ phải làm nhạc và phải giao cho nhạc sĩ chấm? Tôi cho phàn nàn như thế là có lư lắm, trừ ra khi nào Ban Thường vụ cũng là nhạc sĩ chuyên môn th́ vấn đề c̣n phải thảo luận lại.
Để rồi đến ngày Đại hội, trong mỗi ngành sẽ có người đứng lên nói những sự thực như thế ra. Tôi ở ngành văn, tôi đă kể một chuyện về viết như trên kia cũng đủ thấy là khó chịu rồi. Cái sự bẻ bai bẻ họe của bà già đối với nàng dâu, hà tất phải kể ra hàng tràng, thiên hạ mới biết.
Ông Nguyễn Tuân [8] và ông Hoài Thanh đều là nhà văn nổi tiếng, tôi không nói các ổng không có thẩm quyền về nghệ thuật viết văn. Nhưng các ổng có nghệ thuật của các ổng, c̣n tôi có nghệ thuật của tôi. Trong nghệ thuật ngụ cái cá tính của mỗi người một khác, do đó nghệ thuật tính của văn nghệ của mỗi tác giả một khác. Có thế th́ mới có được cái quang cảnh “trăm hoa đua nở”. Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với ḿnh, th́ rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết.
Mà nếu cứ thế nầy măi, than ôi, cái ngày ấy cũng chẳng xa đâu!
Cái tác phong lănh đạo ấy hiện đă truyền nhiễm khắp Hà Nội rồi. Một toà soạn nào đó cũng có quyền chữa bài của tôi, vứt bài của tôi. Mà phải chi đáng chữa mà chữa, đáng vứt mà vứt cho cam. Mới đây, trước ngày 20 tháng 7, có một nhà báo – giấu làm ǵ? Nói ngay là nhà báo Tổ quốc – nhà báo Tổ quốc viết thư cậy tôi viết một bài. “Viết một bài về chuyện miền Nam”, như thế là đă “ra đề” cho tôi “làm bài” đó, tưởng cũng đủ lắm rồi. Trong thư, ông đại chủ bút c̣n “dàn bài” cho tôi nữa: những là “yêu cầu” thế này, “mục đích” thế nọ, và hạn từ một ngàn rưởi chữ đến hai ngàn chữ. Tôi lấy làm đau xót quá (có lẽ đó v́ tôi tự ái, đáng kiểm thảo), bèn kiếm cách từ chối.
Cụ Đồ Chiểu ơi! Cụ Đồ Chiểu! Ở thời cụ, cụ đă kêu:
Ở đây nào phải trường thi
Ra đề, hạn vận một khi buộc ràng?
thế mà đến ngày nay, bảy tám mươi năm sau cụ, người ta c̣n ra đề, dàn bài, lại hạn chữ cho tôi nữa đó cụ ơi!
Tôi c̣n làm ăn ǵ được nữa cụ ơi! Tôi c̣n là tôi đâu được nữa cụ ơi!
2. Về vụ Giai phẩm mùa Xuân
Lănh đạo như thế cho nên mới có tập Giai phẩm mùa Xuân. Nói cho tiêu tội, mấy người viết Giai phẩm mùa Xuân, họ vốn không hề cho tôi biết ǵ cả, nhưng khi tôi đọc th́ tôi – có lẽ như tục ngữ nói: voi thuộc voi, ngựa thuộc ngựa, tôi biết ngay là v́ họ bất b́nh với lănh đạo.
Sáng hôm mùng Một Tết âm lịch năm nay, ông Tố Hữu [9] đến chơi trụ sở Hội Văn nghệ. Giữa anh em đông, ông hỏi ư kiến tôi về tập Giai phẩm mùa Xuân. Tôi nói trong đó chỉ có bài thơ của Trần Dần nói lôi thôi, có hơi không lợi [10] ; c̣n của Phùng Quán, của Lê Đạt, tôi thấy nói đúng đấy. “Chống công thức”, “quét rác rưởi tư tưởng” là việc chúng ta cần phải làm. Có điều cái ǵ là công thức, cái ǵ là tư tưởng rác rưởi, chẳng những nên bảo họ nói rơ ra, mà c̣n nên bảo họ viết lên báo cho rơ ra. Ông Tố Hữu nói một câu có đông anh em cùng nghe: “Giấy mực đâu mà phí để cho họ viết?”. Thế rồi làm thinh. Tôi làm thinh, nghĩa là tôi trải đời nhiều rồi, tôi tṛn lắm rồi, tôi không dại dột đến nỗi đă thế rồi mà c̣n cứ nói nữa.
Mấy hôm sau, nghe nói tập sách mỏng ấy bị thu về, tôi cho rằng sự thu về ấy là thất sách. Sao lại phải làm to chuyện cái chuyện không đáng làm to? Sao lại gợi cho những kẻ hiếu kỳ lén lút t́m mua tập sách ấy 3000 đ một tập mà đọc? Sao lại làm như là sợ nó? Ở Trung Quốc, Hồ Phong nói xấu lănh đạo văn nghệ đến thế nào, mà “Ba sắp tài liệu” của Hồ Phong vẫn được công bố ra, cả đến cái Ư kiến thư của hắn cũng được công bố ra, chẳng ai hề sợ.
Thế rồi một ngày xuân mới, ánh mặt trời ấm áp, tối lại, có mấy hạt mưa phùn để giúp cho những cây rụng lá mùa đông nứt lộc ra, th́ ở trụ sở Hội Văn nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê b́nh bài thơ Trần Dần, mà kư thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi tội độc một Trần Dần thôi, là cái ngón chính trị tài t́nh lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hoá lũ người trong Giai phẩm, cái ngón ấy đă thành công. Hết thảy có độ một trăm rưởi người, trong đó có vài chục người đứng lên nói, đại khái giống nhau và kết luận là Trần Dần có tội. Không phải không có những người thấy rằng Trần Dần dù có tội cũng không đến to như thế, nhưng mà họ đă làm thinh.
Tôi nhớ có một vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ “Người” viết hoa. Lấy lẽ rằng chữ “Người” viết hoa lâu nay chỉ để xưng Hồ Chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ “Người” không phải để xưng Hồ Chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ḿnh ở trong chiêm bao: chiêm bao thấy ḿnh đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê Mỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng, rằng trong phép viết, chỉ có chữ nào thuộc về hoàng thượng mới phải đài, thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn, dám đài chữ không phải thuộc về hoàng thượng. Nhưng may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là ḿnh ngồi trong pḥng họp Hội Văn nghệ.
Rồi đến ông Hoài Thanh viết một bài trên báo Văn nghệ, bằng giấy trắng mực đen, ghép Trần Dần vào tội phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta (Báo Văn nghệ số 110 ra ngày 17-3-56).
Thật cái tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép một cách dễ dàng quá. Hồ Phong bên Trung Quốc, c̣n phải điều tra bao nhiêu năm, công bố “Ba sắp tài liệu”, mới vạch mặt hắn là phản cách mạng, là tay sai của Tưởng Giới Thạch được. Tôi lại c̣n thấy một cái tài liệu, nói Hồ Phong từng bị bắt quả tang có một thanh gươm, ở cái nạm có bốn chữ “Tưởng Trung Chánh tặng”, ở cái lưỡi có ba chữ “Đảng Nhân hồn”. Như thế th́ phản động là đáng lắm, có đâu chỉ một bài thơ mà đă là phản động?
Tuy vậy, Trần Dần c̣n có phúc hơn cậu cử Nguyễn Thuyên con trai cụ lớn Tiền quân Nguyễn Văn Thành nhiều lắm. Trần Dần với bài thơ hàng hơn năm trăm câu mà chỉ mang tiếng là phản động thôi, không như cậu cử Thuyên, bài thơ chỉ có 56 chữ, ư tứ vu vơ, mà bị chết chém, và c̣n liên luỵ đến anh em, bè bạn, liên luỵ đến ông cụ bố phải uống thuộc độc mà chết. Trong chỗ đó, tôi thấy thời đại dân cộng hoà dân chủ rộng răi đối với văn nghệ hơn thời đại chuyên chế triều Gia Long rất nhiều.
Cuối cùng, ông Nguyễn Đ́nh Thi, thư kư toà soạn báo Văn nghệ viết liên tiếp ba bài đại cà sa phê b́nh tập Giai phẩm mùa Xuân. Sau khi ba số báo in ra xong, ông Thi đưa cả cho tôi xem và hỏi ư kiến tôi đối với ba bài ấy.
Đọc xong sau một hôm, hai chúng tôi nói chuyện với nhau. Tôi bảo ông Thi rằng ông đặt sai vấn đề. Vấn đề Giai phẩm là vấn đề lănh đạo, chứ không phải vấn đề quần chúng. Tôi phân tích rơ ràng cho ông thấy rằng tại lănh đạo văn nghệ có thế nào cho nên quần chúng văn nghệ mới bất b́nh mà phát biểu ra như thế. Ví dầu trong sự phát triển của họ có lầm lỗi cũng c̣n là cái ngọn, mà cái gốc, phải t́m đến ở chỗ do lănh đạo gây ra. Thế mà cả ba bài của ông Thi không có một chữ nào đụng đến lănh đạo hết, chỉ đổ lỗi cho mấy người viết trong Giai phẩm, thế là không công b́nh, thế là quá đáng. Khi viết đây, tôi ngồi dưới ngọn đèn điện 20 nến, tôi nói có mặt đèn làm chứng, ông Thi nhận cho lời tôi nói là đúng, hứa sẽ viết phê b́nh lănh đạo, nhưng măi tới nay chưa thấy viết.
Đọc trong bài thứ nhất của ông Nguyễn Đ́nh Thi, đến chỗ ông nói mấy người trong Giai phẩm là “cả vú lấp miệng em”, làm tôi nhớ lại một vài chuyện cũ mà tủm tỉm cười một ḿnh. Năm 1920, tôi làm thư kư kiêm kế toán cho công ty Bạch Thái ở Hải pḥng, tôi thấy ông Bạch Thái Bưởi bóc lột công nhân làm tàu của ông rơ ràng, thế mà một hôm ông chỉ vào mặt các anh làm tàu mà nói rằng: “Chính chúng mầy bóc lột tao”; năm 1930 hay 1931 ǵ đó, tôi viết báo ở Sài G̣n, biết thực dân Pháp khủng bố cộng sản dă man hết sức, thế mà trên báo Tây, chúng gọi Xô viết Nghệ An là “khủng bố đỏ” (terreur rouge). Nghề thế, hễ ḿnh muốn người khác đừng nói đến cái tật xấu của ḿnh, th́ ḿnh đem ngay cái tật xấu ấy đổ trên đầu người khác để đấm họng họ cho câm đi. Chính ông Nguyễn Đ́nh Thi “cả vú lấp miệng em” cho nên ông bảo trước rằng bọn Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt là “cả vú lấp miệng em”. Thực ra th́ bọn nầy có “vú” đâu mà “cả”, vả lại họ cũng không có ai là “em” họ hết.
3. Về vụ giải thưởng văn học 1954-1955
Sau khi giải thưởng nầy tuyên bố, ở đâu th́ không biết, chứ ở Hà Nội, dư luận bàn tán xôn xao, nhiều người không phục, cho rằng có mấy tác phẩm trong đó không xứng đáng được giải. Nói như thế, có thể bị coi là nói vu vơ, không có bằng chứng. Nhưng muốn có bằng chứng cũng không thể có được, v́ cả nước chỉ có một tờ báo Văn nghệ có thể đăng những bài phê b́nh văn nghệ, mà là của Hội Văn nghệ, thứ dư luận ấy có muốn phát biểu cũng không phát biểu vào đâu. Tuy vậy, bằng chứng cũng không phải toàn không có. Dạo trước, tờ Trăm hoa có ba bài của ba người công kích tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu, nhưng khốn nỗi, nó ra đến bài thứ ba th́ nó chết. Dù vậy, tôi thấy dư luận ấy là quả có, chẳng tin, ai thử làm một cuộc trưng cầu ư kiến mà xem.
Chính tôi là một người ở trong Ban Chung khảo chấm giải, tôi đă biểu đồng t́nh với thứ dư luận ấy trước khi nó xôn xao, nghĩa là trước khi tuyên bố kết quả giải thưởng.
Ban Chung khảo có mười người, tôi là một. Tôi quên lửng, không biết do ai công cử hay chỉ định, khi nhận được giấy triệu tập th́ cứ di dự vào, làm việc, lănh tiền thù lao, nhưng khi việc xong th́ tôi đâm ra trách ḿnh một cách bâng quơ: phải chi ḿnh đừng dự vào đó th́ hay.
Tác phẩm của mỗi ngành trong văn học, như thơ, tiểu thuyết, kịch bản… sau khi chuyền cho nhau đọc rồi, về mỗi ngành có một buổi họp toàn ban để b́nh định thứ bậc. Trong khi b́nh định, hễ đồng ư với nhau th́ thôi, bằng có mâu thuẫn th́ biểu quyết bằng lối giơ tay, “thiểu số phục tùng đa số”.
Hôm b́nh định về thơ, tôi phản đối tập Ngôi sao đứng giải nh́, tôi nói: có vớt vát lắm th́ cũng chỉ nên để nó đứng giải ba. Tôi cử ra những câu bí hiểm không thể hiểu nghĩa được, th́ ông Huy Cận (một trong Ban chung khảo) bảo rằng đó là tại tôi “muốn” không hiểu th́ không hiểu. Quái, tôi “muốn” làm sao được? Theo lẽ, ông Huy Cận nếu binh vực cho Ngôi sao th́ phải cắt nghĩa rạch ṛi những câu ấy ra, chứ sao lại bảo rằng tôi “muốn” không hiểu? Nhưng cả ban làm thinh, tự hồ ai cũng hiểu những câu ấy, không ai tỏ đồng ư với sự chỉ trích của tôi. Tôi c̣n cử ra những câu tầm thường quá, không xứng đáng là thơ, và nói rằng thơ Xuân Diệu ngày nay trở kém thơ Xuân Diệu ngày trước. Một ông trong ban (quên là ai) căi rằng nếu thế th́ bao lâu nay Đảng giáo dục Xuân Diệu không có hiệu quả ǵ sao? May mà một ông khác (quên là ai) lập tức đưa tay ngăn cản lại, nói đó không phải là cái luận cứ vững, đừng đưa ra. Nhưng đồng thời tôi trót đă vọt miệng thốt ra câu này: Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng, chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu, thật như đức Khổng tử đă dạy rằng: “Ngựa tứ chẳng kịp lưỡi”. Cũng v́ tôi nên có sự mâu thuẫn, phải biểu quyết, th́ tôi đứng về thiểu số, mà nhớ h́nh như thiểu số tuyệt đối.
Hôm khác b́nh định về tiểu thuyết. Tôi phản đối Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng đứng giải nh́. Tôi cử ra sáu bảy chỗ, kết luận rằng cái tiểu thuyết này nhiều chỗ không giống với sự thực, trái với chủ nghĩa hiện thực bước thứ nhất, nếu nó được giải cao th́ khi ngoại quốc dịch nó ra, nhất là khi bên địch đọc nó, bất lợi cho văn học của chúng ta. Cả ban không ai bác lại lời tôi, tuyệt nhiên không có một người nào bác lại tôi, nhưng thế nào không biết, cuối cùng cũng phải biểu quyết, và tôi vẫn đứng về thiểu số, và lại là thiểu số tuyệt đối.
Đến khi việc đă xong rồi, Ban Chung khảo không c̣n có buổi họp nào nữa rồi, tôi mới tiếp được hai tác phẩm về kư sự, đều đứng giải ba, có thông tri bảo đọc và cho ư kiến. Tôi thấy cái Nam bộ mến yêu của Hoài Thanh chỉ là bài viết chạy như bài đăng trên báo, không có ǵ là giá trị văn học, c̣n cái Lên công trường của Hồng Hà viết có công phu hơn. Tôi nhớ ra ḿnh đă từng hạ hai tác phẩm của hai ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng xuống mà không được, bây giờ không c̣n có đủ sức bướng để mà hạ của ông Hoài Thanh xuống nữa, bèn viết một mẩu giấy đề nghị đưa Lên công trường lên giải nh́. Nhưng mẩu giấy ấy về sau ch́m đi đâu mất, không ai nhắc đến.
Sau có một buổi họp giữa những người chấm giải với những người được giải. Đáng lẽ, một buổi họp như thế, thế nào Ban chấm giải cũng phải gợi cho những người được giải có thắc mắc ǵ th́ nói ra. Bởi v́ bây giờ không phải như thời phong kiến chấm trường thi, quan trường ăn tiền lấy đỗ bậy bạ rồi ai rớt nấy chịu. Nhưng mà không thấy đả động ǵ đến việc ấy. Gần rốt buổi họp tôi mới đề nghị xin cho nói thắc mắc. Thế rồi có mấy người nói thắc mắc của họ. Cuối cùng tôi cũng đưa ra thắc mắc của tôi về cái sự hai lần bị đứng về thiểu số như đă nói trên. Tôi nói quả quyết rằng mặc dầu tôi đứng về thiểu số, chứ cái sự định đoạt ấy của đa số, tôi cho là không đúng, tôi nhất định không phục. Trong những người được giải, có một người đứng lên phát biểu ư kiến, lấy làm lạ rằng sao trong Ban Chung khảo không nhất trí với nhau, xong việc rồi lại c̣n có người đưa ra thắc mắc? Tan buổi họp, tôi nghĩ mà cũng lấy làm lạ rằng sao cái ông lấy làm lạ đó lại không ở trong Ban Chung khảo?
Đến hôm phát giải thưởng ở Câu lạc bộ Đoàn kết, ban tổ chức đề nghị tôi làm một người trao giải. Tôi từ chối. Tôi sợ rằng trong khi trao giải hoặc rủi mà tôi gặp phải trao ba cái giải mà ḿnh phản đối th́ khổ cho ḿnh. Khi tuyên bố ba cái giải mà tôi phản đối ấy tôi nhất định không vỗ tay. Tôi nhất định tỏ thái độ phản đối đến cùng.
Hôm thượng tuần tháng 6, tôi nằm trong Bệnh viện C, thấy mấy anh bộ đội đọc tập thơ Người chiến sĩ của Hồ Khải Đại mà chê rằng dở quá, tôi bèn mượn xem th́ thấy quả thật là dở quá. Thế mà nó được giải ba văn học. Tập thơ nầy, tôi ở trong Ban Chung khảo chưa hề thấy mặt nó, sau cùng chỉ nhận được thông tri nói nó nguyên ở giải khuyến khích, nay tương lên giải ba. Ai tương lên? Thế có lạ không?
Ban Chung khảo theo đề nghị của ông Xuân Diệu, sau khi tuyên bố giải thưởng, phải làm nhiều cách tuyên truyền cổ động rầm rộ cho các tác phẩm được giải, và đă cắt cử người nào viết bài phê b́nh cho tác phẩm nào. Lâu mà không thấy mấy người viết. T́nh cờ tôi hỏi một ông, ông trả lời: “Khó viết quá”. Câu trả lời đúng hết sức: lấy nó trúng giải th́ dễ, chứ viết để tuyên truyền cổ động cho nó th́ phải khó.
Cho đến hết tháng bảy mà chỉ có hai bài phê b́nh trên báo Văn nghệ. Một bài ông Hoàng Xuân Nhị (một trong Ban Chung khảo) phê b́nh Truyện anh Lục, độc giả không lấy làm măn nguyện, có người đă nói, đọc nó chỉ thấy cái vẻ mô phạm hiền lành của một vị giáo sư đại học mà thôi. Một bài ông Hoài Thanh viết để binh vực cho Ngôi sao mà binh vực một cách gắng gượng quá, nhất là yếu, không hề chống căi lại những chỗ đả kích trong ba bài của báo Trăm hoa. Tôi rất không phục ông Hoài Thanh ở điểm này: ông viết bài ấy sau ba bài của Trăm hoa mà ông không hề nhắc tới Trăm hoa lấy một tiếng, ông cố d́m nó xuống cũng như Phạm Quỳnh đă d́m báo Hữu Thanh của Ngô Đức Kế. Nếu không d́m th́ là ông khinh, cũng như Phạm Quỳnh đă khinh báo Hữu Thanh của Ngô Đức Kế.
Về vụ này, có một điều, người ngoài không phải là tôi, không biết đến, th́ không lấy làm quái. Ấy là điều, ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong Ban Chung khảo. Nếu chỉ ở trong Ban Chung khảo mà thôi, c̣n khá; thử điều tra lại hồ sơ, th́ ba ông c̣n ở trong Ban Sơ khảo nữa. Sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến thuở xưa, tuy có ám muội ǵ bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn giữ sạch tiếng: Một người nào có con em đi thi, th́ người ấy vẫn có được cắt cử cũng phải “hồi tị”, không được đi chấm trường. Bây giờ cả đến chính ḿnh đi thi mà cũng không “hồi tị”: một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đă đổi mới, đă “liêm chính” cả rồi; một lẽ trắng trợn v́ thấy mọi cái “miệng” đă bị “vú lấp”.
Người ta cứ sợ “bên địch xuyên tạc”. Sao trong việc nầy không sợ? Nó cần ǵ phải xuyên tạc? Đọc mấy tác phẩm được giải thưởng nầy, tha hồ cho nó đánh giá văn học miền Bắc.
Gọi là phê b́nh, chỉ có thế; tôi chỉ tŕnh bày mấy hiện tượng không tốt trong giới văn nghệ. C̣n sửa chữa, mong ở Đại hội sắp tới, nếu toàn thể xét thấy lời tôi nói có đúng phần nào th́ xin tuỳ đó mà sửa chữa.
PHAN KHÔI (Viết xong ngày 30-7-1956 tại Hà Nội) [11]
*
T́m ưu điểm
Lời soạn giả: Bài này chính thực là của cụ Phan Khôi. Cụ viết bài ngụ ngôn này để chế riễu lối chấm giải thưởng văn nghệ mà cụ đă tả rơ trong bài trên.
Một dạo, giữa loài dở cạn dở nước, mở cuộc thi sắc đẹp.
Nhân có sự tranh chấp, ba con: Ếch, Cóc, Ễnh ương đấu khẩu với nhau. Tiếng Cóc nhỏ hơn hết, nhưng mà động đến Trời.
TrờI sai Nhái bén làm trọng tài. Nhái bén từ chối: “Con nhỏ hơn hết, con không dám có thẩm quyền trên ba chị ấy.”
Trời phán: "Chỉ có mày là đồng loại với chúng nó, mày sẽ làm vừa ư ta, không được từ chối."
Sau khi cực chẳng đă phải làm trọng tài, Nhái bén tâu kết quả: Ễnh ương giải nhất, Ếch giải nh́, Cóc không ở giải nào cả.
Trời tỏ dáng không vui, bảo Nhái bén: "Mày cố hết sức t́m ra ưu điểm Cóc xem."
Nhái bén tâu: "Chị ấy mụt mằn khắp cả người, con không t́m ra ưu điểm nào."
Trời phán: "Thôi, cho mày đi về."
Mấy hôm sau, có nghị định của Hà Bá sức về: "Nhái bén bị đày vĩnh viễn ở dưới nước, không được lên cạn nữa.”
Nhái bén gặp Cá trê, kể cảnh ngộ của ḿnh, Cá trê bảo: "Mày dại lắm. Đi đâu chẳng biết con cóc là cậu ông Trời. Tao đây mà cũng c̣n thua kiện nó nữa là..."
(Trích Giai phẩm mùa Đông)
*
Ông b́nh vôi
Lời soạn giả: Ngụ ư của tác giả trong bài này khá rơ ràng: Cụ Phan chê các cán bộ cao cấp, có lẽ cả ông Hồ, càng ngày càng “tồi”. Cụ nói như vậy là v́ cụ cho rằng ông Hồ ngày nay không thương nước thương ṇi như ông Nguyễn Ái Quốc ngày trước nữa.
Khắp nước Việt Nam có tục ăn trầu, cho nên ở đâu cũng có b́nh vôi.
Theo như tôi biết, ở vùng quê chúng tôi, có hai thứ b́nh vôi. Đều bằng đất nung cả, mà một thứ giống như cái hũ nhỏ, duy cổ eo, miệng loa, cho nhà trung thường dùng; một thứ h́nh tṛn mà đít bằng, trên có quai xách, miệng ở về một bên, toàn thân tô màu lục hoặc màu vàng, cho nhà sang dùng. Cả hai đều để đựng vôi trong ḷng nó. Nhưng mỗi khi cho vôi vào, người ta lại cũng dùng vôi đắp cái miệng nó cho cao lên.
Nhà tôi, hồi bà nội tôi c̣n sống, có một cái b́nh vôi hạng sang ấy. Mỗi khi mua vôi ở chợ về, bà tôi ngồi tỉ mỉ lấy cái ch́a quệt vôi nhét vào miệng nó, gọi là “cho ông b́nh ăn”. Và lâu lâu đắp thêm cái miệng nó một lần, hoá nên cái miệng càng ngày càng chêu vêu ra.
Thứ b́nh vôi thường, dùng ch́a bằng tre: nhưng thứ b́nh vôi sang, bao giờ cũng dùng ch́a bằng sắt, ở thân cái ch́a, đôi khi lại có đeo một lưỡi dao để rọc trầu.
Nhà khác thế nào tôi không biết, c̣n nhà tôi, tối lại, bà tôi cứ nhớ rút cái ch́a ra để ra một nơi khác. Làm như thế, bà tôi cắt nghĩa rằng “ông b́nh” linh lắm, đêm hôm có kẻ trộm đạo, “ông” sẽ mách cho ḿnh, mà nếu để cái ch́a lấp cái miệng th́ không mách được.
Tôi nói “nhà tôi có một cái b́nh vôi”, không đúng. Nói đúng là từ hồi tôi c̣n nhỏ cho đến năm tôi hai mươi lăm tuổi, bà tôi chết, nhà tôi có ba cái b́nh vôi kế vị nhau. Bởi v́ dùng lâu ngày, trong ḷng đầy vôi khô cứng, miệng nó v́ cứ đắp nên tum húm lại, không dùng được nữa, phải mua cái khác.
Lúc đó nhà tôi có một cái trang thờ Tam vị: ở giữa là Phúc đức chính thần, hai bên là Thổ công và Táo quân. Hễ cái b́nh vôi nào bị thải ra th́ bà tôi bảo đem đặt lên cái trang ấy, thờ nhân thể.
Sự thờ phượng như thế, không phải chỉ riêng một nhà tôi đâu. Cả làng, nhà nào có b́nh vôi thải ra, cũng đều đem đặt trên các tường thành đ́nh hoặc chùa; như thế, người ta cho rằng thờ “ông b́nh” đó.
Cái b́nh vôi, tại sao lại gọi bằng “ông”, đọc từ đầu đến đây, bạn đọc đă biết. Ở vùng quê chúng tôi, mà có lẽ cả nước Việt Nam cũng vậy, vật ǵ nó có thể làm hại ḿnh được th́ gọi bằng “ông”, vật ǵ nó to hay sống lâu năm th́ cũng gọi bằng “ông”.
Con cọp ăn thịt ḿnh được, gọi bằng ông Cọp, con khỉ phá hoại hoa màu của ḿnh được, gọi bằng ông Trưởng; con chuột, cắn quần áo của ḿnh được, gọi bằng ông Tí. Cái đầu rau, dùng năm mười năm mới thay cái khác, gọi bằng ông Núc; cái che, to, đường kính của nó có khi gần đến một mét, gọi bằng ông Che [12] . Người Việt Nam về sau thế nào chưa biết, chứ về trước, hễ vật ǵ làm hại được hoặc lớn hoặc nhỏ, vật ǵ sống lâu và to xác th́ đều gọi bằng “ông” để tỏ ḷng tôn kính, sùng bái.
Tôi có phạm một cái tội hồi mới mười tám tuổi, bây giờ tôi xin tự kiểm thảo và thú nhận.
Năm tôi mười tám tuổi, tôi không tin như bà nội tôi tin nữa. Một đêm mùa hè, gió Nam như băo, sáng trăng mờ mờ [13] , tôi rủ mấy thằng bạn lứa tuổi với tôi đi dọc đường cái làng, đi qua đ́nh vào chùa, bao nhiêu “ông b́nh vôi” thờ trên tường thành, chúng tôi đều hất một loạt xuống đất cả. Sao lại làm như thế? Chúng tôi cứ làm như thế, không cần có lư luận. Nhưng, vài hôm sau, trở lại xem, không biết là do tay ai, thấy đều đặt lại tề chỉnh trên tường thành.
Tuy vậy, đó không phải cái tội riêng một ḿnh tôi. Bấy giờ bọn thiếu niên chúng tôi hầu như đứa nào cũng có thể làm thế cả. Nếu ngày nay tôi phải tự kiểm thảo th́ lũ thiếu niên ấy, bạc đầu rồi, cũng phải tự kiểm thảo như tôi.
Tóm lại, cái b́nh vôi, v́ nó sống lâu ngày, ḷng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cú rũ trên trang hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, th́ người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng ông.
Tôi viết cái bài khảo cứu nhỏ nầy cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái b́nh vôi
Càng sống càng tồi,
Càng sống càng bé lại.
(Trích Giai phẩm mùa Thu tập II)
[1]Trang 51 trong nguyên bản: H́nh cụ Phan Khôi dự lễ kỉ niệm Lỗ Tấn ở Bắc Kinh năm 1956 (talawas)
[2]Tạp chí Giai phẩm mùa Xuân bị cấm và tác giả bài thơ "Nhất định thắng" đăng trong đó là Trần Dần bị đi tù (Xem đoạn sau).
[3]Người ấy là ông Trường Chinh.
[4]Chết ở Điện Biên Phủ năm 1954.
[5]Tên thật là Nguyễn Đức Nguyện.
[6]Nhà văn hào thiên tả của Trung Quốc, chết từ 1936.
[7]Bản tiếng Pháp đề là: L’ Obkom clandestin.
[8]Tác giả Vang bóng một thời
[9]Trung ương uỷ viên Đảng Lao động, giữ chức Cục trưởng Cục Tuyên huấn. Thi sĩ đă nổi tiếng về những bài ca tụng hoặc khóc cái chết c ủa Stalin.
[10]Xem bài “Nhất định thắng” ở phần tài liệu.
[11]Bản đăng trong cuốn sách này có lược bỏ vài đoạn. Xem toàn văn bài viết trong Tủ sách talawas: Giai phẩm mùa Thu tập I (talawas).
[12]Che, dùng để đạp mía, ở Bắc gọi là đội hàn (chú thích của Phan Khôi)
[13]Gió Nam là thứ gió nóng ở Trung bộ, đêm có gió Nam th́ trăng kém sáng (chú thích của Phan Khôi).
Tiếp chương I, phần II: Phái cựu học - Cụ Phan Khôi
Ông Năm Chuột
Lời soạn giả: Chính v́ bài này mà tờ báo Văn bị đóng cửa ngay tức khắc. Cộng sản đă tinh ư nhận ngay ra thâm ư của tác giả. Với một câu chuyện vu vơ, cụ Phan muốn nói: Giai cấp thống trị ở bất cứ thời đại nào cũng thối nát mà vẫn cứ cố che đậy. Mặc dù che đậy, trong dân gian vẫn có người thấy rơ.
Hồi tôi c̣n mười bốn tuổi, mười lăm tuổi, th́ đă nghe người làng nói nhiều về cái tên Năm Chuột. Về gốc gác của hắn, chỉ thấy nói là người làng Kỳ Lam, cái làng ở phía bắc làng tôi cách một con sông, về sau có cái ga xe hoả gọi là ga Kỳ Lam, c̣n mọi sự khác không biết rơ. H́nh như hắn cũng không có nhà cửa, cha mẹ, vợ con ǵ ở làng. Hắn làm thợ bạc, quanh năm đi làm nghề ở các nơi, nhất là các nơi đô hộ, như Huế, Đà Nẵng, Hội An.
Họ nói Năm Chuột là thợ bạc khéo nhất đời, ở Huế có nhiều thợ bạc danh tiếng cũng phải chịu thua. Nhưng lại nói hắn tổ làm đồ vàng giả, mỗi khi được gọi đến nhà làm đồ nữ trang cho người ta, nhà chủ dù ngồi cạnh một bên, hắn cũng cứ tráo bạc, tráo đồng vào, lấy vàng ra, không làm sao biết được. Bởi vậy cả vùng quê chúng tôi, những nhà giàu có, vốn biết Năm Chuột là thợ khéo, nhưng không ai dám thuê hắn làm việc ǵ về cái nghề của hắn cả. Nhiều người c̣n nói Năm Chuột đúc súng, đúc bạc giả được. Mỗi khi nói điều ấy, họ làm ra vẻ bí mật, h́nh như họ có ư ngờ cho Năm Chuột định làm một việc ǵ lớn, “làm giặc” chẳng hạn.
Nhưng không biết thế nào, người ta lại cho Năm Chuột là kẻ nói láo nói phét, vào cái hạng “mười voi không được bát nước xáo” tức là mắng người ấy đă lại nói láo nói phét rồi, có khi chỉ dùng độc một chữ: Chuột quá, tức là láo quá.
Lúc bấy giờ tôi đang đi học ở những nơi cách xa làng, mỗi khi về làng, lại thỉnh thoảng nghe người ta nói chuyện về Năm Chuột như thế, như thế, tôi cũng chỉ nghe làm tai mà thôi, không để ư mấy. Mà hẳn thế, cậu cả con quan phủ, học giỏi có tiếng, đang lo xôi kinh nấu sử để khoa tới đây đỗ thủ khoa, không th́ cũng cử nhân năm tên trở lên, việc ǵ mà phải để ư đến chuyện một anh thợ bạc.
Năm hai mươi tuổi, tôi thi đỗ tú tài - quái lạ, sao lại đỗ tú tài? - về nhà, cách mấy hôm th́ tôi đi về làng Xuân Đài thăm bà ngoại tôi và cậu tôi. Ở ăn một bữa cơm trưa, đến xế chiều, tôi cáo về th́ vừa có một người đến. Người trạc dưới bốn mươi tuổi, mặt trẹt, nước da xanh xám, mắt sáng, miệng rộng, hai môi trề ra, hàm và cằm như nguyên không có râu, không phải cạo, người thấp song cũng không thấp lắm, đầu trọc, quấn cái khăn vải đen, áo cộc cúc giữa, quần đến đầu gối, chân mang dép da sống. Người ấy lúc vào đến cửa, hai tay cắp cái nón lá ngang ngực cúi chào cậu tôi, khi bỏ cái nón lá ra, mới thấy trong tay c̣n cầm một cái nữa mà sau này tôi mới biết đó là cái dọc tẩu. Nó là cái ống tṛn mà dài, thấy thoáng như có khảm xà cừ và bịt bạc, bịt vàng ǵ đó. Cậu tôi như chào như không phải chào:
”Anh Năm phải?”
”Dạ, lâu lắm, có thể quan lớn quên tôi.”
Tôi nguyên đă cáo về rồi, cho nên dù có gặp một người khách mới vào hơi lạ như thế cũng cứ việc ra về. Không ngờ khi tôi ra khỏi cổng, lên đường về mới một chặng, nghe có người chạy theo đằng sau gọi tôi đứng lại, th́ ra là người thấy lúc năy. Anh ta tự giới thiệu:
”Tôi là Năm Chuột đây." Rồi đột ngột hỏi tôi:
"Nghe nói cậu đậu tú tài mà cậu khóc, có phải không? Giả sử cậu được đậu thủ khoa th́ cậu làm nên cái tṛ trống ǵ?"
Một gáo nước lạnh xối vào xương sống! Tôi bẽn lẽn, ấp úng, cười h́ h́ không trả lời được. Bởi v́ cái lẽ anh ta nói đó tôi cũng có nghĩ tới, nhưng không đi thi th́ thôi, đă đi thi th́ lại muốn đậu to. Thế rồi Năm Chuột đi cùng đường với tôi, vừa đi vừa nói chuyện.
Anh ta có đưa cái dọc tẩu lên, nói với tôi:
"Ông cậu của cậu thật là keo quá, cái dọc tẩu thế này mà cầm trả có 5 đồng bạc.”
"Hoặc giả cậu tôi không có nhiều tiền chăng?”
Tôi nói cho có nói, chứ không có ư ǵ cả. Nhưng anh ta căi phăng:
"Quan lớn hồi xưa (chỉ ông ngoại tôi) làm đến Tổng đốc Hà Nội vừa chi, mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đă tróc ngói; c̣n ông phủ (chỉ cậu tôi) mới làm Tri phủ có 3 năm về ‘chung dưỡng’, mua được những mươi mẫu ruộng, tôi biết là hạng đất tốt nhất, thế sao nói là không có nhiều tiền?”
Tôi thấy cái điều anh ta nói đó h́nh như đúng, tôi làm thinh. Bỗng dưng anh ta cất tiếng cười một cách rất xỏ lá, rồi nói tiếp:
"Ai có đời, cha chết v́ đánh Tây mà con trở đi làm quan với Tây!”
Nghe câu này tôi cảm động quá. Tôi không dám chống lại ư anh ta, chỉ nói như vớt vát một ít:
"Thấy bà ngoại tôi kể chuyện, lúc ông ngoại tôi mất rồi th́ cảnh nhà sa sút quá đỗi, nếu cậu tôi không làm như thế th́ đến lụn bại mất.”
Anh ta bĩu môi, cái môi đă trề rồi, c̣n bĩu nữa, rất khó coi:
"Ra chỉ có làm quan mới cứu văn được nghiệp nhà. Thế th́ bao nhiêu người không làm quan, họ đều đi ăn mày hết.”
Tôi lại làm thinh. Ngừng một lúc, anh ta nói tiếp:
"Hèn chi mà quan lớn chết ở Hà Nội năm Ngọ, năm Dậu thất thủ kinh đô, Nghĩa hội nổi lên đánh Tây, năm Hợi Tây kéo lên đóng đồn ở chùa Phi Phú, th́ ông cậu của cậu đă làm bang tá trong cái đồn ấy. Để làm ǵ? Cậu có biết không? Để đàn áp Nghĩa hội.”
Những chuyện ấy, thầy mẹ tôi có kể cho tôi nghe hồi c̣n nhỏ, tôi biết cả, nhưng tảng lờ nói:
"Tháng tám năm Hợi, mẹ tôi mới đẻ tôi ra, tôi làm ǵ biết được những chuyện ấy?”
Anh ta lại cười, nhưng không xỏ lá, nh́n vào mặt tôi:
"Thấy người ta nói cậu thông minh, nói chuyện với cậu, tôi cũng thấy cậu thông minh thật.”
Th́nh ĺnh anh ta nhảy mũi dặp hai ba cái, lấy khăn lau nước mũi, cả nước mắt nữa, rồi nói thêm:
"Như tôi, (anh ta lấy tay phải ấn vào ngực) ghiền thuốc phiện cho đáng, chứ ông cậu của cậu mà cũng hút th́ hết thảy những người nghiện chúng tôi đều phải lấy làm lạ.”
"Sao vậy?”
"Quan lớn hồi xưa có cùng mấy ông em lập một bản gia ước, trong đó có một điều cấm con cháu hút thuốc phiện, nếu phạm th́ trừng trị bằng những cách nào đó. Thế mà dám phạm. Đủ biết con người của ông cậu của cậu là vậy đó: cái ǵ cũng làm nghịch lại với cha.”
Cái gia ước mà anh ta nói đây, tôi không hề biết, v́ không hề nghe ai nói tới. Nhưng tôi nghĩ, nếu đúng như thế, th́ anh ta nói cũng có lư. Tôi lại làm thinh.
Đây đă đến chỗ con đường rẽ vào nhà tôi, tôi đứng lại, nói mấy lời từ biệt. Năm Chuột nắm lấy tay tôi và nói:
"Tôi nói năy giờ có làm mếch ḷng cậu không? Ở đời có thiếu ǵ chuyện nói, hà tất tôi gặp cậu lần đầu phải nói để làm mếch ḷng cậu, nhưng t́nh cờ gặp câu chuyện đáng nói th́ cứ nói.”
Rồi anh ta tỏ ư mong gặp tôi lần khác.
Tôi vừa đi về nhà vừa nghĩ, “à ra Năm Chuột là con người như thế đấy”. Là một anh thợ bạc, sao lại nói được những điều như thế, tôi lấy làm lạ.
Tối hôm ấy, tôi đem cả câu chuyện Năm Chuột nói với tôi kể lại cho thầy tôi nghe. Thầy tôi bảo:
"Cái thằng láo đến thế là cùng!”
"Nhưng những điều hắn nói, con thấy như cũng có cái đúng.” Tôi rón rén thưa lại.
"Đúng kia à? Mặc dầu đúng chăng nữa, cái hạng thằng Năm Chuột mà lại được nói thế à?”
Thấy thầy tôi nói hơi xẵng, tôi làm thinh. Một chặp tôi mới dịu giọng hỏi:
"Cái gia ước ông ngoại lập ra mà Năm Chuột nói đó, thầy có biết không?”
"Tao không biết. Thấy nói sự cấm hút ấy ở nhà Đông bàn (nhà quan thượng Phạm Phú Thứ) th́ có, c̣n nhà Xuân Tài, tao không nghe.”
Đến lúc tắt đèn, đi ngủ rồi, thầy tôi c̣n nói một ḿnh:
“Cái thằng láo quá!”
Đó về sau hơn mười năm, tôi không gặp lại Năm Chuột lần nào. Chừng vào khoảng 1920, một lần tôi ở Hà Nội về nhà, thấy người ta nói Năm Chuột bây giờ lập gia đ́nh ở ngụ tại làng tôi, tôi bỗng có cảm giác như là một vật ǵ ḿnh đă bỏ quên đi mà bây giờ thấy lại. Làng tôi có một chỗ gọi là cồn Mũi gươm, có một vạt đất gọi là đất Chó ỉa, theo lời th́ Năm Chuột đă xin làm cái túp tranh trên vạt đất ấy, và cưới vợ là con gái quá lứa của một nhà có môn bài bán rượu và thuốc phiện cũng ở làng tôi. Hắn vẫn làm thợ bạc.
Một hôm tôi đến thăm, thấy trong nhà chỉ có một căn ván nhỏ, trên đặt cái bàn đèn, một cái buồng che phên tre, ngoài ra là cái ḷ bễ bạc để ngay chỗ cửa ra vào. Bấy giờ gần đến Tết, trời hơi lạnh, hắn ở trần, ngồi cạnh cái ḷ bễ đang hơ cả người trên lửa. Hắn xin lỗi tôi và nói: “Người ta tắm bằng nước, nhưng tôi quanh năm tắm bằng lửa. Hơ thế này cho đổ mồ hôi ra, kỳ sạch ghét, th́ cũng chẳng khác tắm bằng nước.” Hắn mời tôi ngồi trên ván, tôi không ngồi, ngồi trên cái đ̣n kê đặt ở đất gần ḷ bễ, chỗ sắm cho bạn hàng ngồi xem hắn làm việc.
Anh ta không tắm nữa, mặc áo vào, cho than thêm vào ḷ bễ, bắc ấm nước lên, rồi gọi vợ súc cái b́nh tích trà hăm đi, cho trà khác vào, pha nước mời tôi uống và sưởi lửa, cũng nói chuyện. Lần này anh ta gọi tôi bằng ông, nói rằng:
“Mười năm về trước tôi mong lại gặp ông mà không được gặp, lần này gặp, tôi không có chuyện nói.”
“Ông mà thiếu ǵ chuyện, như chuyện nói với tôi năm nọ khi đi đường từ Xuân Đài đến Bảo An.”
Anh ta đưa tay lên khoát khoát, nói thật nhanh:
"Thôi thôi, đă lâu nay tôi không c̣n nói những chuyện như thế nữa. Nói không có người nghe mà c̣n có hại. Giá tôi c̣n cứ nói cái lối đó th́ không thể nào lấy vợ và lập gia cư ở làng ông được.”
Tôi nói:
“Đă thế th́ đến phiên tôi. Trước kia ông không sợ mếch ḷng tôi, th́ bây giờ tôi cũng không sợ mếch ḷng ông mà hỏi ông một vài điều.”
Anh ta cười một cách thẳng thắn.
“Được lắm, những nhà giàu làng tôi họ đều nói ông hay ăn cắp vàng nên họ không dám thuê ông làm cái ǵ hết, bây giờ ông vác ḷ bễ đến đây làm ǵ?”
Anh ta lại cười, nói dằn từng tiếng:
“Sở dĩ tôi ở đây là v́ có thể chữa đồng hồ, xe đạp, bút máy, khoá tây, nội những việc đó đủ cho tôi làm hàng ngày rồi, c̣n sự làm đồ vàng bạc th́ chỉ thỉnh thoảng mới có.”
“Nhưng tôi muốn biết ông quả có ăn cắp vàng không? Và ăn cắp như thế nào?”
Anh ta lại cười một cách xỏ lá:
“Thứ ăn cắp mà kể ǵ? Có những kẻ ăn cướp th́ không ai nói đến. Tôi có ăn cắp vàng thật đấy, nhưng cũng tuỳ chỗ tuỳ người, ở làng Bảo An đây th́ tôi không thèm.”
Rồi anh ta thuật lại chuyện ăn cắp vàng cho tôi nghe:
“Năm Thành Thái thập nhị, ông Nguyễn Hữu Thẳng làm Tổng đốc tỉnh ta, cô hầu ông ấy gọi là cô Hoá Mộc, tuy cô hầu mà oai quyền như bà lớn. Một hôm, tôi được trát đ̣i đến, lính bẩm báo rồi dắt vào nhà trong. Cô ta muốn tôi ở lại đây làm cho cô một đôi ṿng chạm y như đôi cô có sẵn, và hỏi tôi có thể làm được không. Tôi nói ‘được’, và xin cho xem đôi ṿng chạm sẵn có của cô. Cô ta mở tủ lấy ra, toan trao cho tôi. Tôi có một vuông lụa trắng tinh khiết bỏ sẵn trong túi, bèn lấy lót trên bàn tay, rồi mới nhận lấy đôi ṿng tự tay cô đặt lên vuông lụạ Tôi đem ra chỗ sáng, cô đi theo. Tôi nhắc nhắc xem thử đôi ṿng nặng bao nhiêu, và cầm tuổi vàng cho thật đúng, ngắm xem những nét chạm cho thật đâu ra đó, c̣n vặn chỗ cái cổ ra coi thử có chữ hay dấu hiệu ǵ không. Xong rồi, tôi trả đôi ṿng lại và nói: ‘Bẩm bà lớn, đôi ṿng này khéo lắm, chỗ cổ vặn ra vặn vô của nó có khắc cái chữ, bà lớn có để ư không?’ Cô ta nói: ‘Tôi biết, nó là chữ ngọc’. Tôi nói: ‘Con có thể làm đúng y như thế, nhưng hôm nay con có việc riêng, không ở lại được, mười ngày nữa con xin đến làm hầu bà lớn, không dám sai hẹn’. Cô ta đồng ư."
Nói đến đây, anh ta nổi ngáp một ngoi đôi ba cái, rồi xin lỗi tôi cho lên ván đốt đèn hút mấy điếu, và mời tôi nằm đối diện nghe nói tiếp.
“Tôi về nhà, cầy cục làm mất sáu bảy ngày mới xong một đôi ṿng cốt giả mạ vàng. Đáng lẽ làm bằng đồng th́ được lợi nhiều hơn nhưng v́ có chạm phải làm bằng bạc. Thành khi rồi, xem tuổi vàng nét chạm cho đến cái chữ ở trong đều y hệt như đôi ṿng của cô Hoá Mộc, đem mà đánh tráo, có thánh cũng không biết…”
Tôi ngắt:
“Đành rằng ông làm một cái rất giống, c̣n như đồng cân của đôi ṿng, tức là sức nặng của nó, ông biết là bao nhiêu mà làm cho đúng được?”
"Ấy thế mới là tài." Anh ta cười híp mắt mà không ra tiếng. "Chính ăn người là ở chỗ đó. Bất kỳ thử kim khí ǵ, tôi nhắc nhắc trên tay khắc biết đồng cân của nó đúng không sai. Chẳng tin, ông tháo cái dây chuyền đồng hồ đưa đây xem.”
Tôi tháo ngay cái dây chuyền để trước mặt anh ta. Kéo xong điếu thuốc anh ta đằng hắng một cái, ngồi dậy, cầm dây chuyền trên nhắc nhắc một cái rồi đứng dậy đi lấy cái cân tiểu ly đưa cho tôi, nói quả quyết:
“Ông biết mặt cân chứ? Cân xem. Cái dây chuyền này nếu nó là vàng th́ nó nặng hơn, nhưng nó là đồng mạ vàng cho nên nó chỉ có ba chỉ tám.”
Tôi cân, quả thật, ba chỉ tám hơi yếu một chút, song đem vào chỗ ba chỉ th́ hơi vát. Tôi kêu lên:
“Thế th́ tài thật. Xin chịu.”
Anh ta lại nói:
“C̣n một chỗ bí quyết nữa. Ông biết, vàng nặng hơn các thứ kim khí khác, nghĩa là vàng, bạc, đồng, ch́ cùng một thể tích th́ lượng của vàng phải nhiều hơn. Vậy th́ ḿnh muốn cho đồng cân của đôi ṿng giả bằng đôi ṿng thật, mà cái vóc của nó cũng chỉ bằng đôi ṿng thật, không to hơn, thế mới là khó. Nhưng cái đó có thực hành mới cắt nghĩa được, nói bằng miệng sợ ông cũng không hiểu.”
Nghỉ một lát anh ta kể tiếp đến cuộc đánh tráo:
“Đúng mười ngày tôi lại đến. Hai bên thoả thuận với nhau về điều kiện làm việc rồi, cô ta mở tủ lấy đôi ṿng và vàng diệp ra đặt trên sạp, rồi gọi tôi đến đứng bên cạnh xem cô cân. Cân đôi ṿng nặng một lạng hai - tôi chắc dạ lắm, v́ đôi ṿng giả của tôi cũng đúng một lạng hai - cho nhích một chút, định giao cả cho tôi. Tôi chưa nhận, xin cho xem đôi ṿng đă. Cô ta đứng dậy cầm bó vàng diệp cả chỗ một lạng hai cất vào tủ. Trong lúc đó tôi lấy đôi ṿng giả ra đặt trên bàn tay trái, đậy vuông lụa trắng lên trên. Khi cô ta quay ra đưa đôi ṿng cho tôi, tôi ch́a bàn tay có vuông lụa trắng ra nhận lấy cũng như lần trước. Tôi đi ra chỗ sáng ngồi xuống làm bộ xem lại đôi ṿng, cô ta cũng đi theo. Xem xong tôi đứng lên. Cô ta sấp lưng đi về chỗ sập. Tôi đi sau, lật cả ṿng và vuông lụa từ bàn tay trái qua bàn tay phải, thành ra đôi ṿng giả nằm trên, cứ thế mà trả lại cho cô ta, và tôi gấp nhanh vuông lụa có đôi ṿng thật ở trong mà bỏ vào túi. Cô ta hỏi: ‘Chứ chú thợ không giữ lấy để làm mẫu à?’. Tôi nói: ‘Bẩm bà lớn, con xem hai lần như thế đủ rồi, xin bảo đảm làm thật đúng’. Cô ta khen: ‘Hèn chi mà nổi tiếng là thợ khéo. Tôi nhờ ông Phủ Điện viết trát đ̣i chú là v́ có bà Phủ mách miệng’. Bấy giờ chừng mười giờ sáng, tôi xin đi ra mua thuốc phiện rồi trở lại nhận vàng diệp bắt đầu làm. Ra đến chợ Vĩnh Điện, tôi đem đôi ṿng chạm vàng mười chính hiệu của bà lớn gửi cho một người anh em đồng đạo. Tôi không quên câu tục ngữ: ‘Có gian phải có ngoan’.”
“Ông ăn cắp chỉ có thế, hay là lúc trở lại làm c̣n ăn cắp nữa?” Tôi hỏi.
“Không, tôi dại ǵ mà ăn cắp nữa. Trong những ngày làm, cô ta ngồi giữ một bên, không phải v́ thế mà tôi không ăn cắp được, có điều tôi đă định bụng không ăn cắp. Khi làm xong, tôi hỏi muốn khắc chữ ǵ. Cô ta ngẫm nghĩ rồi bảo: ‘Tôi là người Hoá Mộc, khắc chữ mộc cho tôi’. Tôi khôn ở chỗ đó. Bởi v́ hai đôi ṿng giống nhau như hệt, có khắc chữ khác nhau để làm dấu th́ mai sau đôi giả có x́ ra, hắn mới không có thể ngờ được là đôi do tay tôi làm. Cho đến bây giờ tôi cũng c̣n ân hận là, như thế, sẽ làm cho ông bạn đồng nghiệp nào của tôi đă làm cho hắn đôi ṿng thật đó hoá ra là người bất lương thiện, nhưng ông tính, đă giết người ai c̣n gớm chảy máu!”
“Ông làm cái việc như thế có nhiều lần không?”
“Kể ra cũng không ít. Nhưng tôi đều ăn cắp ở bọn ăn cướp như Tổng đốc, Bố chánh, Án sát, Phủ, Huyện, chính cái bà Phủ nói lúc năy đă mất với tôi mấy lạng vàng mà không biết, đi mách miệng cho người khác. Những việc như thế tôi cũng chẳng giấu, cứ hay đem nói với người ta cũng như nói với ông đây, cho nên mang tiếng, chứ thuở nay đă có ai bắt được tôi ăn cắp đâu.”
Hỏi đến sự đúc súng, làm bạc giả, anh ta bảo:
“Ta có nấu sắt được đâu mà đúc súng? Nhưng chữa súng th́ có. Hồi tôi ở Đà Nẵng, các thứ súng liệt máy của Tây thường đem thuê tôi sửa. Bạc giả th́ tôi có làm, nhưng tính ra không có lợi ǵ mấy, về sau tôi không làm nữa.”
Năm Chuột c̣n nói cho tôi nghe về tính chất của các thứ loài kim và phép hợp kim, như đồng và kẽm, mỗi thứ bao nhiêu, hợp nhau thành ra thứ ǵ, đồng và thiếc bao nhiêu, hợp nhau th́ thành ra thứ ǵ, nghe ra thông thạo như người có học chuyên môn. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi:
“Ông có học với thầy nào mà biết được những điều ấy là những điều mà các thợ bạc khác hầu như không biết?”
Anh ta vùng ngồi dậy, cười, ra điều đắc ư, vỗ vào đùi tôi:
“Xưa nay mới có một người hỏi tôi câu ấy, là ông! Tôi chẳng học với thầy nào hết, tôi chỉ đọc có một cuốn sách là cuốn Kim thạch chí biệt.”
Tôi sửng sốt, nghĩ bụng: té ra anh này c̣n biết chữ nữa ḱa. Cái tên sách ấy tôi chưa hề nghe, cũng không dám ngờ là anh ta bịa đặt. Một hôm khác tôi hỏi thầy tôi có biết cuốn Kim thạch chí biệt không, thầy tôi cũng chịu không biết, và hỏi tôi nghe ở đâu, tôi kiếm đường nói trớ, chứ không dám nói nghe ở Năm Chuột. Cho măi đến gần nay, đọc Lỗ Tấn toàn tập, tôi mới thấy trong đó có nhắc đến tên cuốn sách ấy. Tôi nghĩ mà lấy làm thẹn, sao ḿnh đă không biết mà lúc bấy giờ không hỏi ngay anh ta, chỉ v́ nghĩ ḿnh là người học thức viết báo viết biếc, mà tỏ cái dốt trước mặt một anh thợ bạc th́ ê quá.
Đó về sau mấy năm, mỗi năm tôi ở Hà Nội hoặc Sài G̣n về thăm nhà, đều có đến với anh ta. Anh ta c̣n in trong đầu tôi mấy câu chuyện lư thú và bất ngờ nữa.
Năm Chuột từng nói với tôi rằng từ rày anh ta không nói những chuyện như đă phê b́nh cậu tôi một cách không nể nang, nhưng rồi lại chứng nào tật ấy, vẫn không cải nết.
Một lần, phê b́nh nhân vật làng tôi, anh ta chê ông Tú nọ dốt, ông Bá kia keo kiệt, cuối cùng anh ta nói: “Tôi chỉ phục có hai người, một là ông Biện Chín, một là ông Tám Thứ.”
Ông Tám Thứ, người Minh hương, ở ngụ làng tôi, nghèo chuyên nghề làm thuốc, ít hay giao du với ai, tôi không biết ông ta cho lắm. C̣n ông Biện Chín, tên thật là Phan Định, chú ruột tôi, cha của Phan Thanh, Phan Bôi. Chú tôi là dân tráng, nghèo, cố gắng lắm mới cho con đi học được, nhưng đúng là người cần kiệm liêm chính lại khẳng khái nữa, chính tôi, tôi cũng phục chú tôi mà sợ thầy tôi.
Tôi không tham gia ư kiến ǵ, chứ ngấm ngầm chịu anh ta là biết người, phê b́nh đúng. Nhưng, trước mặt tôi mà nói như thế, tôi ngờ anh ta có ngụ một thâm ư, là anh ta không phục thầy tôi. Thầy tôi đă đỗ đại khoa, làm quan, bỏ quan về ở làng, cầm cân nẩy mực cho cả làng, cả tổng, không có mang tai mang tiếng ǵ, nếu anh ta không lấy làm đáng phục, chắc anh ta thấy về khía cạnh nào đó. Từ đó tôi đâm ra áy náy, hoặc giả cha ḿnh cũng có khuyết điểm ǵ như cậu ḿnh, làm cho người ngoài phi nghị mà ḿnh không biết chăng. Tôi có đem hỏi chú tôi và thuật lại lời Năm Chuột khen phục chú, th́ chú tôi trách tôi sao lại đi nghe chuyện của Năm Chuột. Th́ ra chú tôi cũng có thành kiến đối với Năm Chuột như thầy tôi, như những người làng.
Lần khác, bỗng dưng anh ta hỏi tôi:
“Quan lớn nhà ta (chỉ thầy tôi) sao lại không làm quan nữa? Ông có nhớ lúc ngài bỏ quan mà về là bao nhiêu tuổi không?”
Tôi lấy làm lạ sao hắn lại hỏi ḿnh điều ấy. Song cũng cứ theo ḿnh biết mà trả lời:
“Thầy tôi tuổi Tuất, cái năm cáo bệnh mà về là năm Kỷ Hợi, mới có ba mươi tám tuổi. Sở dĩ không làm quan nữa, có lẽ là tại không chịu làm với Tây.”
Cho đến lúc tôi ngoài hai mươi tuổi, thầy tôi vẫn coi tôi như trẻ con, những việc như thế chưa hề đem nói với tôi. Có điều một đôi khi tôi nghe thoảng qua dư luận bên ngoài, nhất là lúc ở Hải Pḥng gặp Lê Bá Cử, ông ấy có kể cho tôi nghe khi ông làm phán sự toà án Nha Trang, thầy tôi làm tri phủ, có lần căi nhau kịch liệt với viên công sứ, chính ông đứng làm thông ngôn, th́ tóm tắt mà trả lời như vậy. Nhưng Năm Chuột hỏi vặn tôi một câu rất oái ăm:
“Ở làng này c̣n có hai ông nữa đều làm đến tri huyện, đều bỏ quan mà về trước tuổi hưu trí, vậy th́ ông cũng cho rằng hai ông ấy cũng không chịu làm quan với Tây hay sao?”
"Thằng cha khó chịu thật”, tôi nghĩ bụng. Không biết đối đáp thế nào với hắn, tôi phải nói một câu mà tự ḿnh cũng thấy là non nớt quá:
“Việc hai ông ấy th́ tôi không biết.”
Anh ta vẫn cười cái lối xỏ lá rất khả ố. Ngớt cơn cười mới b́nh tĩnh nói:
“Tôi cũng có nghe và biết về chánh tích và nhân phẩm của quan lớn nhà ta, nhưng tôi lại có một sở kiến khác, nói ra, ông đừng tưởng tôi cố ư làm đôi ṿng thật thành ra đôi ṿng giả th́ tôi mới nói.”
“Th́ ông cứ nói đi.”
“Làng Bảo An, người ta nói, không có đất phát quan lớn, mà kinh nghiệm xưa nay rành rành như thế. Từ trước bao nhiêu ông làm đến tứ phẩm trở lên đều bị cách tuột hết. Cho nên Đồng Khánh, Thành Thái đến giờ, ông nào cũng làm đến phủ huyện rồi kiếm cách từ chức mà về. Nếu nói không chịu làm quan với Tây th́ không làm từ đầu, chứ không có lẽ lúc mới ra làm, không biết rằng ḿnh sẽ làm với Tây. Hai ông huyện kia cầy cục măi đến ngoài bốn năm mươi tuổi mới về, c̣n quan lớn nhà ta về sớm là v́ mới 38 tuổi đă làm Tri phủ.”
Tôi làm như không để ư gật gật nh́n anh ta, kỳ thực tôi cho là cái sở kiến của anh ta đó, không biết chừng, là độc đáö. Làng tôi, tây giáp làng Đông Mỹ, đông giáp làng Xuân Đài, hai làng này đều có Tổng đốc, mà làng tôi, thi đỗ th́ đông, đại khoa cũng có, nhưng không có quan to. Thuở Tự Đức ông Nguyễn Duy Tự, làm đến Phủ doăn Thừa Thiên, ông nội tôi làm đến Án sát Khánh Hoà, cũng đều bị cách. Tôi không tin phong thuỷ, nhưng đó là sự thực. Hoặc giả các ông quan làng tôi, trong đó có thầy tôi, thấy thế mà sợ, làm đến phủ huyện lo rút lui cũng nên. Huống chi cái luận chứng của Năm Chuột rơ ràng mà đanh thép lắm, tôi bấy lâu trau dồi cái đức tính ngay thực của người viết báo, tôi không thể căi chày căi cối được.
Tôi thấy chắc chắn lắm, v́ tôi biết chịu chuyện cho nên anh ta thích nói chuyện với tôi, c̣n anh ta, hay nói cái lối móc ruột móc gan người ta như thế, cho nên họ mắng anh ta là nói láo nói phét.
Có một sự rất lạ. Một lần tôi đến chơi, vẫn ngồi trên đ̣n kê xem anh ta làm việc, liếc thấy trong cái thùng đựng đồ nghề có quyển sách, tôi tḥ tay lấy xem, th́ là một cuốn Thương Sơn thi tập không có b́a, đă xé mất nhiều trang. Tôi hỏi:
“Ông cũng có sách này à? Nó là một bộ đến mười cuốn, sao ở đây chỉ c̣n một cuốn?”
“Tôi có mà tôi xé để quấn thuốc lá hết, chỉ c̣n một cuốn, bởi v́ in bằng giấy quyến, quấn thuốc tốt lắm.”
“Ông có xem qua chứ?”
“Thơ của ông Hoàng ḿnh xem thế nào được? Tôi chỉ xem được có mỗi một bài ‘Mại trúc diêu’.”
Tôi phát lạnh người. Tôi có đọc thơ Thương Sơn rồi, tôi cũng không thích, nhưng cái bài “Mại trúc diêu” là bài thế nào, tôi có biết đâu? Chỉ v́ dấu dốt, tôi lại cứ làm thinh, không hỏi anh ta.
Về nhà, tối hôm ấy, tôi lật bộ thơ Thương Sơn ra t́m, t́m được bài “Mại trúc diêu”. Về sau, tôi dịch ra đăng báo Phụ nữ Tân văn, sau nữa, đem in trong Chương Dân thi thoại. Lục ra đây để bạn đọc thưởng thức cái mức thưởng thức văn học của anh thợ bạc:
Bài hát bán tre
Ngày đốn hai cây trúc
Bán đi để dằn bụng
Trong cửa tre đầy kho
Ngoài cửa tiền chẳng cho
Không nói th́ cũng khổ
Nói th́ roi dài sẽ quật chú
Rày về sau đừng đốn tre nữa
Đói nằm trong tre chết cũng đủ!
Từ khi biết Năm Chuột có biết chữ Hán nhiều, xem sách xem thơ được rồi, tôi có lúc đem văn học nói với anh ta, anh ta chỉ nghe và hỏi chứ không tỏ ư kiến. Tôi có ư trách. Anh ta giải thích thế này: “Người ta, cái ǵ biết ít th́ chỉ nên nghe chứ không nên nói, tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho tôi.”
Anh ta làm thợ bạc, nhưng cũng kiêm luôn thợ rèn nữa mà là thợ rèn rất khéo. Những dụng cụ của anh ta như cái ḱm, cái búa, cái kéo, anh ta đều đi đến ḷ bễ rèn, ngồi mà tự đánh lấy. Cái đó th́ ở làng tôi có nhiều người biết, cái ḱm của anh ta đánh, ai cũng chịu là không kém của Tây.
Năm 1944, tôi ở Hà Nội, về nhà được mấy hôm th́ thầy tôi mất. Làm đám xong, tôi ở luôn trong nhà ba bốn tháng không ra khỏi cổng. Buồn quá, một hôm tôi đi t́m anh ta. Đến nơi, cái túp tranh không có nữa. Hỏi th́ người ta nói Năm Chuột dọn đi đâu đă lâu rồi. Từ đó tôi mất Năm Chuột của tôi.
Một lần, trước mặt ông Tú già, anh Giáp trong làng gọi Năm Chuột bằng ông, ông Tú già đập bàn quở: “Mầy gọi thằng Năm Chuột bằng ông, th́ gọi tao bằng ǵ?” Tôi nghe mà tức ḿnh, cho nên bài này, tôi nêu đầu đề là “Ông Năm Chuột”.
PHAN KHÔI
*
Nắng chiều
Lời soạn giả: Nắng chiều là tên một tập sách cụ Phan mới viết gần đây, nhưng v́ chính quyền miền Bắc cấm, không cho phép xuất bản nên chúng tôi không thể nào kiếm được bản chính. May nhờ có bài đả kích cuốn sách ấy đăng trong báo Văn nghệ số 15, xuất bản trong tháng 8-1958, nên chúng ta có thể biết những nét chính về tác phẩm sau cùng của cụ Phan. Chúng tôi xin trích nguyên văn bài báo đả kích để tạm thời thay thế cho bản chính không có.
Tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi
Tháng 12-1957, Phan Khôi đưa đến nhà xuất bản Hội Nhà văn một xấp bản thảo dày, bên ngoài đề hai chữ Nắng chiều. Cái nhan đề gợi nhiều man mác bâng khuâng ấy, chứa đựng bên trong một nội dung ǵ? Người có thể nghĩ rằng đây là kết quả sáng tác vào những ngày gần cuối, lúc tuổi trời đă xế của Phan Khôi. Nó gồm nhiều bài bút kư, tạp văn viết từ đầu kháng chiến ở Việt Bắc đến hoà b́nh lập lại, và mấy bài viết sau khi về thủ đô.
Vào đầu, Phan Khôi ghi lại đời sống của những người nuôi vịt, cách chăm, cách lấy trứng v.v... gọi theo tiếng miền Nam là "Cầm vịt". Cuộc sống phiêu lưu, nay ở vùng này mai ở vùng khác, chủ cũng như người làm công, đều làm lụng cực khổ như nhau, ăn uống có thịt gà như nhau, không có chi là phân biệt đối xử, không ai bóc lột ai cả.
"Tôi thấy làm cái nghề này tuy vất vả mà ăn ở như thế th́ đầy đủ lắm, giữa chủ và bạn cũng không có chi khác nhau. Ông chủ nói rằng nếu không thế th́ không thuê được người, chẳng những phải trả tiền thuê mỗi tháng mà cuối mùa c̣n phải chia hoa hồng cho anh em nữa, v́ thế, tuy được lăi nhiều mà vào tay người chủ không c̣n mấy."
Quả như thế, th́ xă hội này, vấn đề đấu tranh giai cấp, quan hệ giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột, quan hệ giữa chủ và người làm công đặt ra cho có chuyện chăng? Chủ và khách quí và người làm công cùng ngồi uống chè Tân Cương, mua tận bên Thái, nói chuyện tự do mang sẵn gà theo để thay đổi thức ăn cho người làm công khỏi chán, chẳng những trả tiền công mỗi tháng mà cuối mùa c̣n chi hoa hồng cho người làm công: "Tuy được lăi nhiều mà vào tay người chủ không c̣n mấy". Ở ngay bài đầu Phan Khôi muốn đặt một vấn đề ǵ? Phải chăng, Phan Khôi muốn đánh vào một vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin? Xă hội không có đấu tranh giai cấp, không có chuyện ai bóc lột sức lao động của ai cả.
Tiếp theo là bài “Tiếng chim”. Phan Khôi dẫn ra một số chuyện cổ tích về một vài giống chim ở Việt Bắc, h́nh dáng, tiếng kêu của nó v.v... Trong đó phần chính nói về con quạ. Ở một đoạn Phan Khôi viết:
"Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ ŕnh bắt gà con, một con bắt được bay ra đứng ở bờ ruộng, xé con gà ra ăn; c̣n con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được cũng bay đi tuốt, nó không hề nói: ‘Mầy phải cho tao với!’."
Vấn đề thứ nhất Phan Khôi đặt ra là không có người bóc lột người. Vấn đề thứ hai là của ai người nấy ăn. Cho đến thứ quạ kia c̣n biết giành giật cái miếng không phải của nó là không ổn, và không hề nói: "Mày phải chia cho tao với". Phan Khôi mỉa mai, xuyên tạc vấn đề đấu tranh giai cấp là một sự đ̣i chia phần của kẻ khác.
Đến bài “Cây Cộng sản”. Bài này đă lột trần ra tư tưởng chống cộng của Phan Khôi. Nhân đây, tôi cũng xin nhắc lại để thấy rơ rằng đó là một tư tưởng phản động có hệ thống của Phan Khôi, chứ không phải là bất măn, hằn học với một vài cá nhân lănh đạo sai lầm như có người lầm tưởng. Phan Khôi trước kia đă từng viết báo khinh miệt chế giễu "phong trào cộng sản giống như đống lửa rơm" và đă cho Sô-viết Nghệ An là "cái loạn cộng sản". Sau Cải cách ruộng đất, lúc cán bộ ta đang tích cực sửa chữa những sai lầm khuyết điểm th́ lúc nào gặp đồng bọn, Phan Khôi cũng hỏi: "T́nh h́nh thế nào? Có chuyện ǵ lạ không?". Rồi cả bọn tranh nhau nói xấu Cải cách ruộng đất, và mong cho ta đừng sửa sai được. Phan Khôi lần nào nghe xong cũng cười thích chí. Y đọc ngay hai câu ca dao: "Bao giờ có được tự do/ Ngày nay Đảng đă thay vua trị v́" và nói là của đồng bào đâu trong Khu Tư.
Một lần, ở nhà Minh Đức, trong một cuộc họp bàn bạc để in một số thơ giữa bọn chúng với nhau, Phan Khôi khoe rằng mới sưu tầm hai câu ca dao nữa: "Cộng sản ở tại nước Nga/ Chính danh thủ phạm tên là Lê-nin". Liền lúc ấy, bọn họ làm một bài thơ "kịp thời" tên là cây cau, khen Phan Khôi người "trung thực, tiết tháo" thẳng như cây cau, càng già càng cứng, giông băo chỉ làm cong thôi chứ không thể bẻ gẫy được.
Trở lại bài “Cây Cộng sản”, ngay câu đầu, Phan Khôi đă chỉ ngay vào Việt Bắc, quê hương cách mạng:
"Có một thứ thực vật nữa cũng như sen Nhật bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu th́ tôi chưa thấy, chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc, không chỗ nào là không có."
Đầu tiên, Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại "như rừng, ken kít nhau". Nơi gọi là “Cỏ Bù-xít” v́ nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là “Cây Cứt lợn”, nơi gọi là “Cây Chó đẻ". Tên đều không nhă tí nào hết, thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản. Phan Khôi bịa rằng trước kia xứ ta không có cây này (cứt lợn dại), người Pháp mang đến trồng ở các đồn điền cà phê, cao su, để che đất cho mát gốc.
"Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái t́nh trạng ấy bắt đầu có trong những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản Đảng bắt đầu hoạt động, phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là "herbe communiste" , đáng lẽ dịch là Cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là Cây Cộng sản. Nó c̣n một tên nữa rất lạ...”
Phan Khôi bịa ra rằng y gặp một ông già người Thổ:
"Hỏi ông tên nó là cây ǵ, ông nói tên nó là "Cỏ cụ Hồ". Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lănh đạo cách mạng, th́ thấy thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đống, người ta không biết tên nó là ǵ, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về th́ gọi nó như vậy."
Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ xít, "toàn những tên không nhă tí nào hết" để gọi nó là Cây Cộng sản, và Cỏ cụ Hồ? Cái con người vẫn tự cho ḿnh là học giả, bản chất phản phúc, con người đă đưa ra thứ triết lư "con chó th́ phải ăn cứt" th́ việc mượn tên xấu của một giống cây cỏ, để xỏ xiên nói móc chửi cạnh chửi khoé cộng sản là cái sở trường của y!
Phần thứ hai là tạp văn, ngoài đầu, Phan Khôi có viết:
"Cả hai phần đều có một ít bài mà mấy người đọc qua, cho là giống như truyện ngắn. Nếu có vậy nữa th́ tôi cũng không biết làm sao được. Tôi chỉ ghi chép sự thực chứ không hề viết tiểu thuyết.”
"Sự thực" mà Phan Khôi ghi chép, là những sự thực ǵ? Là những "sự thực" kiểu Năm Chuột.
Mở đầu phần này là "Thái Văn Thu", Thái Văn Thu là tên một thằng ăn trộm trùng tên với một nhân vật trong Thuỷ hử, mà Phan Khôi quen biết và kính phục hắn đă lâu, nay mới có dịp chép lại…
Phan Khôi kể lúc y "bị tù Văn Thân" bọn Pháp có đưa vào giam chung một anh có tướng học tṛ - can vào tội ăn trộm của Tây.
"Theo lời Thu th́ nhà hắn cũng đủ ăn, hắn đi ăn trộm không phải v́ túng thiếu mà không muốn làm nghề ǵ hết. Cái nhân sinh quan hắn đại khái là người annam phải làm giặc, đánh Tây mà không làm được, th́ đi ăn trộm, ăn trộm của Tây."
Có phải đó chính là nhân sinh quan, tư tưởng của Phan Khôi đă bộc lộ trân tráo như trên kia chăng? Phan Khôi c̣n mượn lời Thu để phê b́nh Phan Chu Trinh, bảo cụ đi sai đường, "nói phải, nói không với Tây làm chi, đưa điều trần cho Toàn quyền làm chi để bây giờ nó đày đi Côn Đảo?". Và cũng mượn lời Thu để Phan Khôi tỏ rơ quan điểm của y từ trước đến nay không tán thành sự đấu tranh chống Pháp. Thu tủm tỉm cười nói về chúng tôi: "Các thầy cũng vậy. Giá như Thu này ở tù cho đáng, các thầy ở tù không đáng". Thu kể một vụ ăn trộm ở nhà Tây và biểu diễn vài môn nghề khiến Phan Khôi rất phục. Sau đó, nhân một trận băo, tù phá ngục ra. Có trát sức nă, đặc biệt là nghiêm nă Thái Văn Thu, tên cầm đầu.
"Nhưng có người nói với tôi, có phải phá ngục ǵ đâu, băo từ sáng đến chiều, không đưa cơm vào, đói th́ họ mở cửa họ ra, chứ có phá phách ǵ?”
Phan Khôi viết truyện này với một thâm ư ǵ? Chúng ta cứ liên hệ đến t́nh h́nh văn nghệ sau lớp học 18 ngày, sẽ thấy Phan Khôi hiện lên nguyên h́nh trong Thái Văn Thu.
"Khi gió càng ngày càng to, quá giờ ăn đă lâu rồi mà cơm không có. Thu đứng ra diễn thuyết bảo anh em cứ đi ra. Không tội chi mà nhịn đói. Rồi tự tay lấy ch́a khoá mở cửa, đội đề lao và lính canh không dám cản lại, cả mấy trăm người đều đi theo Thu đi ra hết.”
Nhân lúc Cải cách mắc sai lầm nghiêm trọng, cán bộ ta đang tích cực sửa sai th́, trong giới văn nghệ, bọn đầu cơ Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi đứng lên đả vào lănh đạo văn nghệ. Trong cuộc họp tổng kết lớp 18 ngày Phan Khôi đứng lên phản đối đồng chí Tố Hữu và sau đó Phan Khôi cùng một nhóm Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt v.v... tập họp lại ra báo Nhân văn.
Chính Hoàng Cầm đă tự thú: Ban đầu Phan Khôi định đặt tên báo là Cái chổi, là Thượng vàng hạ cám đều không ổn... tên Nhân văn là do Nguyễn Hữu Đang t́m ra sau. Phan Khôi nói rằng: "Nếu chỉ ra báo văn nghệ không th́ hẹp lắm. Bây giờ nhiều vấn đề lắm. Phải làm báo văn hoá xă hội. Tôi c̣n gọi là chính trị nữa. Tôi sẽ c̣n nói về nhiều vấn đề thế giới…” Xưa nay, Phan Khôi vẫn lấy làm ngông nghênh khoái trá ở chỗ hắn xỏ xiên, nói móc nói cạnh ta mà ta không làm ǵ được hắn: "Ăn trộm, không bắt được, mọi người biết cả nên cũng không giấu."
Báo Nhân văn bị quần chúng phản đối, công nhân không in, mọi người yêu cầu chính phủ phải đóng cửa để ngăn chặn sự nguy hại của nó. Bọn Nhân văn đă rêu rao lúc bấy giờ: "Gọi cả làng ra đánh một con chuột", "Giết con chim sẻ không cần dùng đến dao mổ trâu", "Ăn cướp chỉ đông người vào hùa với nhau, ỷ thế đánh người lấy của, là khiếp nhược". Phan Khôi đă gọi phong trào Sô-viết Nghệ An là "cái loạn cộng sản", đă nói rằng: "Chính danh thủ phạm tên là Lê-nin" cũng là những người làm loạn lớn mà kết tội hắn là một người loạn nhỏ.
Viết bài này, Phan Khôi đă hiện nguyên h́nh trong tên ăn trộm Thái Văn Thu mà y hết sức tán dương, đề cao. Cũng như kế đó là bài "Ông Năm Chuột". Phan Khôi mượn lời xảo hoạt, ranh vặt của một tên thợ bạc gian hùng nghiện ngập để đ̣i trả văn nghệ cho văn nghệ, trả chuyên môn cho chuyên môn. Văn nghệ chuyên môn phải tách rời chính trị. Bọn phá hoại tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo, bọn Nguyễn Hữu Đang và Phan Khôi cùng bè lũ chống Đảng đă hợp xướng điệp khúc của Năm Chuột:
"Người ta cái ǵ biết ít th́ chỉ nên nghe chứ không nên nói. Tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho tôi."
Truyện thứ ba là “Chuyện ba ông vua Kiền Long, Quang Trung và Chiêu Thống”.
Trước kia, lúc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quân Nhật vào Đông Dương, chủ nghĩa phát-xít vươn móng sắt ra để doạ nhân dân ta, Đảng Cộng sản đă kêu gọi mọi người chống Pháp đuổi Nhật, dùng những gương anh hùng liệt nữ xưa động viên ḷng ái quốc của đồng bào, th́ bọn tờ-rốt-kít cũng đă giở cái thủ đoạn của Phan Khôi ngày nay là xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ Hai Bà Trưng, cho rằng Hai Bà Trưng chống phong kiến Trung Quốc cũng như Trung Quốc chống Nhật bây giờ là trái qui luật tiến hoá của loài người... Và đưa luận điệu "Nhật không vào Đông Dương" để làm lạc hướng đấu tranh của nhân dân v.v... Phan Khôi đưa ra chuyện "Ba ông vua" này nhằm xuyên tạc và đả vào t́nh đoàn kết quốc tế, t́nh hữu ái giai cấp của nhân dân ta và Trung Quốc, theo đúng cái hướng đả vào Liên-sô, Trung Quốc của đế quốc Mỹ và Ngô Đ́nh Diệm hiện nay. Đây là bài dài nhất trong toàn tập, Phan Khôi trích dẫn nhiều sách, nhiều tài liệu suy diễn lung tung. Xin chỉ lược ra đây mấy câu, để thấy cái xương sống của bài ấy, và cái tâm thuật xảo quyệt của Phan Khôi:
"Ư tôi cốt muốn cho người đọc qua sẽ thấy ngay ba ông ấy một ông là đểu giả, một ông là quay quắt, một ông là khờ khạo. Tư cách ba người thấy chung trong một tiệc. Vả lại cũng thấy được rất rơ ràng trong bọn vua chúa phong kiến, giữa thiên tử với chư hầu, bề ngoài làm bộ nhân nghĩa trung thuận, quang minh chính đại lắm lắm, mà bề trong không khác ǵ một tụi buôn hàng xách, một tụi ba que xỏ lá gặp nhau, đứa nào gian ngoan th́ chiếm phần thắng, đứa nào ngu đần th́ chịu thiệt."
Có thể có người nhẹ dạ tin và cho là Phan Khôi viết bài này, nhằm đả vào bọn phong kiến, bọn vua chúa ngày xưa. Can chi đến ta mà vơ lấy, vặn vào. Không phải thế. Phan Khôi đă từng tuyên bố: "Nước Việt Nam ta làm ǵ có phong kiến? Đánh đổ phong kiến chỉ là câu chuyện bịa đặt vu vơ..." th́ đả vào phong kiến, không thể có được. Cái dă tâm của Phan Khôi muốn gợi lại hận thù dân tộc cũ (Măn Thanh bắt Chiêu Thống và bọn tùng vong cạo đầu thắt bím, đày đi v.v...) và so sách cái quan hệ ngoại giao giữa Quang Trung và Kiền Long ngày xưa không khác ǵ quan hệ hữu nghị giữa ta và Trung Quốc ngày nay, "một con cáo và một con sói đồng t́nh vật chết một con dê". Nhân dân ta và nhân dân Trung Quốc đoàn kết trên cơ sở thống nhất về những quan điểm chung của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Phan Khôi cho rằng Trung Quốc ngày nay cũng chỉ là một thứ kiểu xâm lược như Măn Thanh xưa. Chẳng vậy, sao khi sang thăm Trung Quốc, trong cuộc triển lăm kỹ nghệ ở Măn Châu, Phan Khôi đă phát biểu: "Theo tôi nghĩ th́ nước ngoài phục Trung Quốc không phải v́ chủ nghĩa cộng sản mà vi nền kỹ nghệ Trung Quốc. Ngày kia Trung Quốc sẽ chiếm thị trường thế giới".
Ờ bài “Giới thiệu Nguyễn Trường Tộ” càng lộ ra trắng trợn cái ư Phan Khôi muốn so sánh chế độ ta với cái triều đại ngày xưa. Không khác ǵ thời đại chuyên chế hồi Gia Long. Nước Việt Nam ngày nay cũng là triều đại ǵ đó; người ta đặt bài viết cho báo tất nhiên phải có yêu cầu của toà soạn, y cũng gọi "Cụ Đồ Chiểu ơi, Cụ Đồ Chiểu!" bù lu bù loa đấm ngực nói rằng bảy tám mươi năm sau cũng không khác ǵ ngày xưa.
Đưa Nguyễn Trường Tộ ra trong bài này vừa khen vừa chê - một mặt để tỏ rằng "cậu tú Phan Khôi" hơn "danh Tộ" nhiều, một mặt là đả vào chế độ ta. Nguyễn Trường Tộ, đi đạo Thiên Chúa (từ đời cha) sau v́ Tự Đức cấm đạo, Tộ theo một linh mục sang Pháp và lưu học ở Paris. Năm 33 tuổi trở về, có dâng nhiều bài điều trần yêu cầu cải cách nhiều vấn đề trong nước. Tộ là người tin Đạo, coi Đức Chúa Trời là chủ vạn vật và cũng đồng thời rất tôn trọng Nho giáo. Phan Khôi nói rằng: "Người có tài như thế, sinh gặp thời cần dùng cái tài ấy, mà không thi thố ǵ được, ôm mối thất vọng mà chết là v́ lẽ ǵ?"
Phan Khôi cho Tự Đức là một ông vua nhu nhược, làm việc ǵ cũng sợ, không dám làm mà lại coi ḿnh là thần thánh, khinh người.
"Tự Đức có phê vào một bổn điều trần của Nguyễn Trường Tộ do quan tỉnh dâng lên, một câu: ‘Dùng được đấy, hay là cho nó một chức quan để lấy ḷng nó, dùng sức nó.’ -
’Một chức quan! Ông ấy tưởng người ta báu cái chức quan của ông ấy lắm đấy!’”
Tại sao Phan Khôi hằn học đến như vậy? Bởi v́:
"Vua th́ như thế, c̣n đám quan liêu từ triều đ́nh đến ở các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn, cũng đều là hủ nho, dưới vua, hai hạng người này nắm quyền lợi một nước trong tay họ, họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi, th́ c̣n ai mà làm ǵ được?”
Chúng ta có nắm và giữ lấy quyền lợi một nước không? Có. Nhiệm vụ của cách mạng, của vô sản chuyên chính đề rơ yêu cầu phải chuyên chính đối với bọn giai cấp bóc lột, đối với bọn đi ngược và phản lại quyền lợi dân tộc. Bọn chúng không thể có tự do trong chế độ ta, thứ tự do áp bức bóc lột, tự do buôn lậu, đầu cơ tích trữ, tự do cấu kết với phần tử phản động trong nước và bọn đế quốc ngoài nước để phá rối trật tự xă hội, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, xây dựng lại chế độ phong kiến và thực dân đă bị nhân dân đánh đổ.
Phan Khôi nói: "Không phải đợi đến ngày nay, từ trước chúng ta cũng đă biết rằng có tại làm sao... người ta mới giấu đinh giấu điền, trốn lính!". Trong thời đại phong kiến, dưới chế độ thực dân Pháp, người ta làm như thế là đúng. Người ta không muốn đóng góp phục vụ cho bọn thống trị, chỉ có mục đích vơ vét cho vào túi chúng. Dưới chế độ ta, những người khai man diện tích ruộng đất, không đi dân công, trốn thuế công thương, không thi hành nghĩa vụ quân sự th́ chỉ là những kẻ ích kỷ sâu mọt của xă hội, những kẻ đào ngũ và chống chế độ.
Cũng cần nói vào mặt Phan Khôi rằng: V́ chính sách đoàn kết của Mặt trận Dân tộc, v́ Đảng ta sẵn ḷng quên những tội lỗi cũ của một người và tạo mọi điều kiện để đưa họ về con đường chính, v́ ḷng nhân của Đảng muốn nhặt những kẻ ở dưới bùn lên mà chùi rửa cho, giúp cho họ trở lại làm người, v́ thế mà Phan Khôi vẫn được đăi ngộ rộng răi, ăn lương nhân sĩ, không phải làm ǵ cả, viết hay dịch sách th́ hưởng tiền nhuận bút. Để rồi chửi Đảng, chửi chế độ. "Một chức quan, ông ấy tưởng nguời ta báu cái chức quan của ông ấy lắm đấy". Phan Khôi ăn cháo đá bát, hợm hĩnh, tự đánh giá ḿnh là cao to, nhưng cái mặt thật của y không ai lạ ǵ. Phan Khôi chống lại cái chế độ đă cứu vớt cho ḿnh, th́ Phan Khôi rơi nguyên h́nh là một tên chống cách mạng.
Bây giờ - mà có phải mới bây giờ đâu - cái bộ mặt thật của Phan Khôi đă bị lột trần ra, cũng nhiều khi tự y lột trần ra. Phan Khôi là một tên giảo quyệt, phản phúc, một tên làm tay sai cho đế quốc, lợi dụng sự khoan hồng của cách mạng và chính sách đăi ngộ rất tốt của Đảng để chống lại Đảng, chống lại chế độ. Không có cơ hội th́ nằm yên, dùng cách nói bóng nói gió, xuyên tạc xách mé; có cơ hội th́ vùng lên ra mặt chống đối hẳn ḥi như thời kỳ tác quái của báo Nhân văn.
Lẻ tẻ từng lúc, từng bài, y lập lờ đánh tráo, vờ vịt để cho mọi người lầm tưởng rằng ḿnh là một "học giả" một tay "lăo thành cách mạng", một người "ngay thẳng, bộc trực", một "nhà văn khí tiết". Do đó, cũng có đôi người bị mắc lừa. Nhân văn-Giai phẩm bị đánh tan bước đầu hồi cuối năm 1956. Cả bọn rút vào bóng tối "phục xuống sáng tác". Phan Khôi gom góp tất cả sáng tác của y, đem tàn lực hy vọng, có thể đánh được ta một đ̣n cuối cùng trước khi xuống lỗ. Y đặt tên tập sách là Nắng chiều. Ngờ đâu, chính tập sách này đă phơi bày rơ rệt nhất toàn bộ hệ thống tư tưởng phản động của Phan Khôi và cái nắng quái ấy mới định kịp hửng lên, đă bị nhân dân làm cho tắt phụt!
Chỉ đứng riêng về phương diện văn học mà nói, Phan Khôi không c̣n chỗ đứng nữa, đă bị khai trừ ra khỏi Hội Nhà văn. Chỗ đứng của y ở đâu, để cho y tự biết mà tự phong. Chưa nói đến hành động phá rối về chính trị, không thuộc về thẩm quyền kết luận của những người cầm bút như chúng ta.
Chú thích: Đoàn Giỏi bị kiểm thảo sau khi viết bài này và bị quy vào tội: vờ đả kích Phan Khôi để công bố những nét đại cương của một tác phẩm mà Đảng đă cấm không cho xuất bản.
II. Phái thanh niên
Phái này gồm tất cả các nhà văn trẻ tuổi, lớn lên trong khói lửa của cuộc kháng chiến dân tộc và đă được rèn luyện đầy đủ trong hệ thống tư tưởng Mác-xít. Tất cả đều là đảng viên và đa số đă tích cực tham gia bộ đội. Trẻ nhất trong bọn là Phùng Quán (năm nay mới 25 tuổi) và nhiều tuổi nhất là Hoàng Tích Linh (năm nay chừng 45 tuổi).
Điều đáng chú ư nhất là hiện nay không có một nhà văn thanh niên nào theo Đảng, mặc dù Đảng đă đào tạo nên họ.
Họ chống lại học thuyết Mác-xít và chế độ cộng sản không phải v́ quyền lợi giai cấp hoặc v́ họ đă bị tiêm nhiễm những triết lư phong kiến hoặc tư sản, mà chính v́ bản chất trong con người thiên nhiên của họ phải có phản ứng tự vệ để khỏi bị tiêu diệt. Tiếng nói của họ là tiếng nói của con người "nhân chi sơ", không đại diện cho một học phái nào cả, tiếng nói của những linh hồn c̣n trong trắng.
Trần Dần, một nhà thơ đă tham dự trận Điện Biên Phủ có thể coi là điển h́nh cho thế hệ này.
Trần Dần
Tiểu sử: Trần Dần sinh năm 1924 [1] ở Nam Định, học tiểu học ở tỉnh Nam rồi sau lên học trung học ở Hà Nội. Khi ông học văn chương Pháp để thi tú tài, ông bị ảnh hưởng Baudelaire và Verlaine, trở thành một thi sĩ làm thơ tiếng Việt theo lối "tượng trưng" (symbolisme) của Pháp. Cho tới ngày nay ông vẫn giữ lối thơ đó v́ ông chủ trương rằng ḿnh lời văn không đủ mà phải dùng cả âm điệu trong câu mới diễn tả được những rung động trong tâm hồn của thi nhân.
Ông mới xuất hiện là một nhà thơ th́ cuộc chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ. Trở về Nam Định, ông tham gia kháng chiến và đảm nhận công tác tuyên truyền. Sau khi Nam Định thất thủ, ông xung phong gia nhập bộ đội và được cử lên mặt trận Sơn La. Ở đây, ông phụ trách điều khiển đoàn văn công, được các văn nghệ sĩ trong trung đoàn rất quư mến và được kết nạp làm đảng viên. Nhưng là một văn nghệ sĩ, ông không chịu nổi sự chèn ép của các cán bộ chính trị cấp trung đoàn, nên đến năm 1951, ông xin về Trung ương, nhận công tác viết báo cho Cục Quân huấn.
Trong thời kỳ này, ngoài việc viết báo, ông c̣n phụ trách giảng về văn nghệ nhân dân và chính sách lănh đạo văn nghệ của Đảng đối với văn nghệ sĩ trong những lớp đào tạo cán bộ văn công. Bị phê b́nh là giảng sai đường lối của Đảng, ông tức ḿnh xin đi công tác tiền tuyến và được cử lên mặt trận Điện Biên Phủ. Xúc cảm trước sự tấn công ào ạt của quân đội kháng chiến vào thành luỹ của Pháp, nhất là trước cái chết thê thảm của Tô Ngọc Vân, bạn đồng hành của ông, Trần Dần sáng tác cuốn Người người lớp lớp. Nhờ cuốn sách này ông được Đảng yêu chuộng trở lại và năm 1954 được cử đi Trung Quốc để viết bản dẫn giải bằng tiếng Việt cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ, là cuốn phim Việt Minh đóng lại trận Điện Biên Phủ do cán bộ Trung cộng sang quay và mang sang Tàu thu thanh.
Nhân chuyến du hành này, Trần Dần được tiếp xúc với nền văn hoá của Trung cộng. Ông lấy làm thất vọng nên khi trở về, ông nói nhỏ với bạn bè: "Chớ nên theo đường lối văn nghệ của Trung Quốc".
Cùng đi với ông sang Trung Quốc có một cán bộ chính trị phụ trách về đường lối giải thích, nhưng tên cán bộ này mặc dầu dốt đặc về văn chương cũng cứ nhất định dùng quyền lực chính trị của ḿnh để sửa chữa từng câu, từng chữ của Trần Dần, mà có khi ngang nhiên đọc lời giải thích của ḿnh cho Trần Dần viết. Ông lấy làm bất măn, nên khi về đến Việt Nam, ông cùng một số văn nghệ sĩ đảng viên khác như Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh và Đỗ Nhuận, cùng trong cảnh ngộ, viết kiến nghị lên cấp trên yêu cầu hạn chế sự can thiệp của cán bộ chính trị vào lănh vực văn nghệ.
Kiến nghị c̣n đang được cứu xét th́ xẩy ra một việc quan trọng hơn. Đó là việc Trần Dần tự tiện lấy vợ, bất chấp sự cấm đoán của Đảng. Theo một đạo luật bất thành văn mà Đảng đă đặt ra, các đảng viên cấp xă phải báo cáo cho cấp trên biết trước mỗi khi dự định lấy vợ, lấy chồng; các đảng viên huyện (trường hợp của Trần Dần) phải xin phép Đảng mới được cưới xin hoặc yêu đương, c̣n về phần các đảng viên cấp tỉnh trở lên th́ việc dựng vợ gả chồng là đo Đảng quyết định.
Trần Dần tuy là đảng viên, nhưng vẫn giữ tính chất văn nghệ sĩ, không chịu nổi luyến ái quan Mác-xít. Hồi ở chiến khu bao nhiêu lần Đảng "xây dựng" cho ông với các nữ đồng chí, ông dều không chịu và khi hoà b́nh trở lại, ông t́nh cờ gặp và mê ngay một thiếu nữ tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, sống bơ vơ một ḿnh, v́ bố mẹ họ hàng di cư vào Nam không kịp mang theo.
Trần Dần xin phép Đảng để cưới người yêu, nhưng Đảng nhất định không cho v́ một lư do căn bản: người con gái đó theo đạo Thiên chúa. Tuy vậy, Đảng không nêu lên lư do tôn giáo để từ chối mà chỉ giải thích rằng người con gái đó sống về tiền thuê nhà mà bố mẹ để lại nên thuộc vào thành phần bóc lột, và một đảng viên không thể lấy vợ thuộc giai cấp "địch".
Trần Dần không chịu cắt đứt t́nh yêu nên khuyên ư trung nhân mang nhà cửa bố mẹ để lại giao cho Uỷ ban quản trị tài sản của những người vắng mặt trông coi và thu hoa lợi; hai người đều cam chịu sống trong cơ cực để yêu thương nhau. Đảng bèn rẽ duyên bằng cách điều động Trần Dần lên Việt Bắc công tác, nhưng Trần Dần lấy cớ ốm đau xin về Hà Nội nghỉ dài hạn và tự ư xin ra khỏi Đảng, ngang nhiên đến phố Sinh Từ sống với t́nh nhân không cần cưới xin. Đảng toan trừng trị, nhưng ngặt v́ lúc đó đang có phong trào di cư, nên không dám khủng bố bất cứ ai sợ làm náo động nhân tâm khiến cuộc di cư bành trướng thêm. Đảng bèn nuốt giận làm lành, chỉ gây dư luận là Trần Dần đă sa đoạ, rơi vào hố tư sản phản động.
Nhưng sau khi đóng cửa Hải Pḥng, Trần Dần lại làm một việc táo bạo thứ hai là phê b́nh đả kích cuốn thơ Việt Bắc của Tố Hữu, một thi sĩ giữ chức trung ương uỷ viên, phụ trách lănh đạo văn nghệ. Tố Hữu liền ra lệnh bắt cóc Trần Dần mang nhốt trên một nhà giam ở Việt Bắc. Vợ Trần Dần lại sống bơ vơ giữa Hà Nội một lần nữa, hỏi thăm chồng ở đâu, không ai biết, vẫn thất nghiệp, lại thêm bụng mang dạ chửa. Bạn bè của Trần Dần phải chung tiền giúp đỡ và thay phiên đến thăm hỏi nâng đỡ tinh thần.
Tin Trần Dần bị bắt mang đi biệt tích lan ra khắp Hà Nội và gây dư luận sôi nổi trong giới trí thức kháng chiến. Để dẹp yên dư luận, Đảng bèn sửa sai bằng cách đưa Trần Dần về mạn xuôi, bắt đi theo chiến dịch Cải cách ruộng đất. Đảng cũng gọi vợ Trần Dần đến cho công việc may vá cho mậu dịch.
Không được bao lâu, xẩy ra vụ Khrushchev hạ bệ Stalin. Nhóm văn nghệ sĩ kháng chiến nổi lên đấu tranh chống Đảng bằng cách xuất bản tập Giai phẩm 1956 (sau này gọi là Giai phẩm mùa Xuân). Lúc này Trần Dần không có mặt ở Hà Nội, nhưng Hoàng Cầm là bạn thân, biết Trần Dần hồi 1954 có viết bài "Nhất định thắng" có giá trị, nên đến nhà bảo vợ Trần Dần đưa bản thảo và mang in trong tập Giai phẩm.
Tờ tạp chí vừa in xong th́ bị tịch thu ngay. Đảng ngờ rằng Trần Dần đă bị nằm tù mà c̣n dám viết bài chống Đảng nên gọi Trần Dần về, mang ra đấu giữa một cuộc hội nghị của đông đủ các văn nghệ sĩ, quy Trần Dần vào tội phản động, lấy cớ là trong các bài thơ ông có dùng chữ "Người" viết hoa nên gán cho ông có ư đả kích cụ Hồ và ra lệnh tống giam vào nhà pha Hoả Ḷ ở Hà Nội. Trần Dần uất ức quá dùng lưỡi dao cạo cứa cổ, nhưng không chết, sau này vẫn mang cái sẹo ở cổ.
Năm tháng sau, Việt cộng tuân theo chỉ thị của Đệ tam Quốc tế phát động phong trào sửa sai. Giới trí thức được dịp phát động phong trào đấu tranh chống Đảng. Họ xuất bản tờ Giai phẩm muà Thu và tờ Nhân văn, lên tiếng phản đối vụ tịch thu tờ báo Giai phẩm mùa Xuân và việc khủng bố Trần Dần. Cụ Phan Khôi có nêu hai vấn đề này trong bài "Phê b́nh lănh đạo văn nghệ” đăng trong Giai phẩm mùa Thu và Hoàng Cầm viết một bài nhan đề "Con người Trần Dần" đăng trong tờ Nhân văn số đầu. Bị công kích không có thế đỡ, Đảng bèn thả Trần Dần về và phục hồi danh dự bằng cách ra lệnh cho Hội Văn nghệ viết bản tự kiểm thảo đăng trên các báo. Nhóm Giai phẩm bèn tái bản tờ Giai phẩm mùa Xuân trong đó có bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần.
Nhưng sau khi Nga-sô đàn áp cuộc khởi nghĩa Budapest th́ Việt cộng cũng đóng cửa tờ Nhân văn và Giai phẩm. Một lần nữa, Trần Dần lại bị quy là phản động và bị "treo gị" không được viết văn. Nhưng đến tháng cuối năm 1957, nhân báo Văn trở lại chống Đảng, Trần Dần gửi đăng một bài thơ nhan đề là "Hăy đi măi" nói lên ư chí cương quyết đấu tranh đ̣i tự do đến cùng.
Về thơ, ông c̣n sáng tác những bài:
"Nói thật", trong đó ông lư luận rằng chỉ v́ cán bộ hèn nhát không dám nói thật với Đảng nên mới xảy ra vụ "sai lầm" trong Cải cách ruộng đất.
"Nhân văn làm lớn con người", trong đó ông đề cao nhân văn.
"Một bài thơ chưa có đề", trong đó ông ám chỉ Tố Hữu là nhà thơ "ti tỉ đờn bầu”.
Về truyện, ông viết:
"Chú bé làm văn" để chỉ trích nền giáo dục cộng sản chuyên môn tập cho trẻ em nói dối từ thuở bé để sau này nói dối thuê cho Đảng.
"Mâu thuẫn với cả nước" tả một nhạc sĩ bất tài (ám chỉ Lương Ngọc Trác) dùng thế lực Đảng, quy cho một nhạc sĩ có tài hơn ḿnh vào tội "mâu thuẫn với cả nước".
"Lăo Rồng" tả một nông dân hiền lành bị bọn "lư trưởng mới" chà đạp.
Nhưng đặc biệt hơn cả là truyện “Anh C̣ Lắm”, tả sự khổ cực của nông dân trong cải cách ruộng đất. Trong truyện đó có đoạn như sau:
"Tôi đi thẳng vào nhà C̣ Lắm. Vắng cả, nhà chả có ai, nhưng có tiếng trẻ khóc. Ba gian nhà nhỏ vẫn một cái giường, một cái chơng, có thêm một lá cờ đỏ rắt mái nhà rủ trước mặt bức ảnh Hồ Chủ tịch. Một đứa bé con độ lên hai ḅ giữa nhà, giời rét mà độc một manh áo nâu, c̣n cởi chuồng, chân tay lắm mụn, bôi phẩm xanh lè cả người. Thấy tôi nó càng khóc, giơ tay quẹt má. Tôi nh́n: Tay nó có cái ǵ vàng vàng? À ra cứt, nó ỉa một đống c̣n kia, cổ chân nó lại buộc một cái dây bằng vải khá dài, một đầu dây buộc vào cột nhà, chắc hẳn mẹ nó buộc nó vào dây cho nó chơi một ḿnh.”
Trừ có hai bài thơ “Nhất định thắng” và “Hăy đi măi” ông kư tên thật, c̣n tất cả những bài khác đều kư bằng bí danh, sau này bị tra khảo trong tù ông mới nhận là chính ông viết.
Sau đây chúng tôi chỉ trích hai bài: “Nhất định thắng” và “Hăy đi măi” vừa điển h́nh cho lối thơ của ông, vừa nói lên tâm sự của thế hệ mới ở Bắc Việt. [2]
Nhất định thắng
Lời soạn giả: Bài thơ này đă gây nên cuộc đấu tố tác giả, khiến tác giả phải cứa cổ tự tử. V́ vậy nên tuy dài, chúng tôi cũng đăng trọn bài. Đại ư của tác giả là nêu sự đói rét của đất Bắc và nỗi u buồn trong ḷng người phương Bắc hiện nay.
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui?
Tổ quốc hôm nay
tuy gọi sống hoà b́nh
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta c̣n muôn việc rối tinh...
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm th́ lo đẫy giấc
Vợ con đau th́ rối ruột thuốc men
Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt.
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng c̣n đương bày kế hại đời ta?
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tă mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi dao cùn!
Không đứt được - mà đau!
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hăy nh́n xem: có phải vết dao?
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ quốc hôm nay rớm máu
Tôi đă sống ră rời cân năo
Quăng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những con mưa rơi măi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đă trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi.
- Dừng lại!
- Đi đâu?
- Làm ǵ?
Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh Nam chị Nữ kêu buồn
- Ở đây
Khát gió thèm mây...
Ô hay!
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?
Sau đám mây kia là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
Bỏ tôi ư? - Từng vạt áo - Gót chân
Tôi muốn kêu lên - những tiếng cộc cằn...
- Không! Hăy ở lại!
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng c̣n hơn
non bồng Mỹ
triệu lần...
Mảnh đất dễ mà quên?
Hỡi bạn đi Nam
Thiếu ǵ ư? Sao chẳng nói thực thà?
Chỉ là:
- thiếu quả tim, bộ óc!
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa băo.
Họ vẫn ra đi.
Nhưng sao bước ră rời?
Sao họ khóc?
Họ có ǵ thất vọng?
Đất níu chân đi
gió cản áo bay về
Xa đất Bắc tưởng như rời cơi sống.
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Giăng giối lại: - mỗi lùm cây - hốc đá
Mỗi căn vườn - gốc vả - cây sung
Không nói được chỉ c̣n nức nở
Trắng con ngươi nh́n lại đất trời
Nh́n cơn nắng lụi, nh́n hạt mưa sa
Nh́n con đuờng cũ, nh́n ngôi sao mờ
Ôi đất ấy - quên làm sao được?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió dập vùi
- Mưa đổ măi lên người xa đất Bắc...
Ai dẫn họ đi?
Ai?
Dẫn đi đâu? - mà họ khóc măi thôi!
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống - quỳ xin mưa băo
Chớ đổ thêm lên đầu họ
- khổ nhiều rồi!
Họ xấu số - chớ hành thêm họ nữa
Vườn ruộng hoang sơ - Cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thiu
Họ đă đi nhưng trút lại tâm hồn
Ôi đất Bắc! Hăy giữ ǵn cho họ.
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên mầu cờ đỏ
Gặp em trong mưa
Em đi t́m việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ!
họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói ǵ ư?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bă
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi, mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên mầu cờ đỏ
Đất nước khó khăn này
sao không thấm được vào Thơ?
Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách - h́nh như khá chạy
À quyển kia của bạn này - bạn ấy
Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm
Nó đang mơ: - nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đă biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đ̣i thống nhất, phải đ̣i từ việc nhỏ
- từ cái ăn
cái ngủ
chuyện riêng tư
- từ suy nghĩ
nựng con
và tán vợ.
Trời mưa măi lây dây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua băo gió
Nhưng hôm nay
tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất?
Sao chúng không chắp được cơi bờ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
tôi làm thơ chính trị
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên mầu cờ đỏ
Em ơi ! - ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện ǵ vui hử
À cái tin trên báo - Ừ em ạ
Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!
Vượt qua đầu chúng nó
mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thơ, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới danh ǵ?
Ư muốn dân ta
là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xoá nhoà giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng Trời mưa to lụt cả gian nhà
Ôm tất cả che mưa cản gió
Con chó mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ - nó gầy - lông xấu quá
Nó thiếu ăn - Hay là giết đi ư?
Nó đỡ khổ - Cả em đỡ khổ.
Em thương nó - Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra
Anh đă biến thành người định kiến
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên mầu cờ đỏ
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng th́ thầm
Tiếng người nói xen tiếng người ầm ả.
- Chúng phá hiệp thương
Liệu có hiệp thương?
- Liệu có tuyển cử?
- Liệu tổng hay chẳng tổng?
- Liệu đúng kỳ? hay chậm vài năm?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy.
Người vẫn vội - Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông!
A tiếng kèn vang
quân đội anh hùng
Biển súng
rừng lê
bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà...
Lá cờ ấy là cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được Chiến tranh
Giữ được Hoà b́nh
Giặc cũ chết - lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy kẻ thù sợ hăi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đă nhiều
Ai có Lư? Và ai có Lực?
Tôi biết rơ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
Không biết sợ
Hôm nay cả nước chỉ có một lời hô:
THỐNG NHẤT!
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đ̣i
- Giả miền Nam
Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng - bỗng mầu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rớt vào tôi
Dân ta ơi!
Những tiếng ta ḥ
Có sức đâm trời chảy máu
Không địch nào cưỡng nổi ư ta
Hiền hậu lắm - Nhưng mà đi cả quyết...
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đă giống lưỡi lê: đâm
Giống viên đạn: xé
Giống băo mưa: gào
Giống t́nh yêu: thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đă bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của ḷng tin.
Sao bỗng đêm nay
tôi cúi mặt trước đèn?
Gian nhà vắng - chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện h́nh ra.
Hừ! Chúng nó đă biến thành tảng đá
chặn đường ta!
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
vẫn có phút giây ngờ vực
Ai có lư? Và ai có lực?
Ai người tin? Ai kẻ ngă ḷng tin?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
cả nước
cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương lao lực
Anh gạch xoá tranh thơ hằn nét mực
Bỗng mặt anh nh́n thấy! Lạ lùng thay!
Tảng đá chặn đường này!
Muôn triệu con ngườI
muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!
Anh đă nghĩ: Không có con đường nào khác
Đem ngă ḷng ra
mà thống nhất Bắc Nam ư?
Không không!
Đem sức gân ra!
Em ơi em!
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT.
(Bài thơ này lúc đầu lấy nhan đề là "Bài thơ thống nhất" và chỉ có đến đây là hết. Hoàng Cầm khuyên Trần Dần nên làm thêm một đoạn nữa để "giữ vững lập trường" mới có thể xuất bản được. V́ vậy nên mới có đoạn văn sau này và bài thơ cũng đổi nhan đề là "Nhất định thắng".)
Hôm nay Trời đă thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!
Bây giờ
Em khuân đồ đạc ra phơi
Em nhớ đừng quên
Em khuân tất cả tim gan chúng ḿnh phơi nắng hết
Em nh́n cao tít trời xanh
Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!
Hôm nay em đă có việc làm
Lương ít - Sống c̣n khó khăn
Cũng là may...
Chính phủ muôn lo ngh́n lắng
Thực có tài đuổi băo xua mưa, không th́ c̣n khổ
Em treo cờ đỏ đầu nhà
Lá cờ trừ ma
Xua được bóng đen chúng nó!
Những vết thương kháng chiến đỏ ḷm
Đă mím miệng, lên da lên thịt
Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni
và nhiều phố khác
Anh đă sống ở Sài G̣n thuở trước
Cảnh miền Nam thành một góc tim anh
Chúng đốt tận đâu
mà lửa xém tim ḿnh
Tim nó bị đen thui một nửa
Từ dạo ấy
mà em chẳng rơ.
- Em hăy đỡ cho anh khỏi ngă
Đứng đây
Một lúc!
Cờ bay
đỏ phố
đỏ nhà
Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh
Ai thắng ai thua?
Ai có lư? Và ai có lực?
Em ơi
Hôm nay
trời xanh
xanh đục
Nắng lên
đỏ phố
đỏ cờ
Cuồn cuộn mít tinh
Những ngày thương xót đă lùi xa
Hoà b́nh
thêm vững
Anh bước đi
đă thấy phố
thấy nhà
Không thấy mưa sa
Chỉ thấy nắng lên
trên màu cờ đỏ.
Ta ở phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
đóng cửa
Cả nhà ra phố
mít tinh
Vung cờ đỏ
hát ḥ
vỡ phổi.
Hỡi những người
thành phố
thôn quê
Đói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả!
Ra đường !
Đi!
Hàng đoàn
hàng đoàn
Đ̣i lấy tương lai:
HOÀ B̀NH
THỐNG NHẤT
ĐỘC LẬP
DÂN CHỦ
Đó là tim
là máu đời ḿnh
Là cơm áo! Là ái t́nh
Nhất định thắng!
(Trích Giai phẩm mùa Xuân 1956) [3]
*
Hăy đi măi
Lời soạn giả: Ngụ ư của tác giả trong bài này là kêu gọi những người yêu chuộng tự do hăy tranh đấu đến cùng, bất chấp mọi sự đe dọa.
Khi trái đất c̣n đeo bom
trước ngực
thắt lưng
c̣n lựu đạn, bao xe;
Khi bạo lực c̣n khua
môi mơm mốc x́,
khẩu đại bác mỏi đừ
vẫn sủa;
Khi bóng tối
c̣n đau như máy chém
những lời ca đứt cổ
bị bêu đầu
Lũ đao phủ tập trung
h́nh cụ
mặt trời lên
phải mọc giữa rừng gươm;
Khi thế kỷ c̣n rung
chuông lừa bịp
Những canh gà
báo trượt rạng đông.
Con rắn lưỡi cắn người như cắn ngoé;
Khi xe tăng
chửa đi cấy đi cày,
như
một lũ tội nhân cần cải tạo;
Khi
con tḥ ḷ ngày đêm hai mặt đói meo,
c̣n quay tít
trên kiếp người hạ giá;
Những khi ấy
sẵn sàng
nổi giận,
loài người
c̣n tổ chức nhau đi.
Hăy đi măi như người
cộng sản
có thể mỏi mọi điều
không mỏi: tấn công!
Phải làm lại chúng ta, tất cả -
không tha,
để đừng có một ai lần lữa,
khi nào
chân lư gọi tên đi.
Hăy đi măi! –
dù mưa băm nát mặt
Sương rơi, hơn đạn xưa
đau đầu.
Dù bốn mùa
nhưng nhức nắng mưa
mùa băo tuyết thế chân
mùa gió độc.
Hăy đi măi! –
dù mưa đông phục kích
hay
lửa hè đánh trộm sau lưng
Dù những đêm
buồn như sa mạc hoang vu
Đoàn du mục tủi thân
vùi băi cát.
Dù
những ngày, mũi kiếm heo may
đi hành hạ
những tâm tư trằn trọc
Hăy đi măi! –
Dù trên biển cả
sóng như người vật vă
khắp đại dương.
Dù những con tầu
bỗng nhớ bến b́nh yên.
c̣i rúc măi những tiếng kêu rùng rợn
Hăy đi măi! –
Dù khi cần thiết
người ta cần đói khát
vượt b́nh sa.
Ta bỗng có thể nhịn lâu
hơn cả lạc đà
đi
đến tận những kinh thành no ấm.
Hăy đi măi! –
Dù có phen chót ngă
Hăy bó đôi chân lầm lỡ
mà đi.
Hăy tin chắc
rồi ta
xứng đáng
một ṿng hoa đỏ nhất
phủ quan tài
Tôi chửa có khi nào quên táo bạo
chửa khi nào quên hát
quên đau.
Tôi yêu đất mẹ đây –
có cỏ hoa làm chứng
Tôi yêu chủ nghĩa này
cờ đỏ căi cho tôii.
Nhưng
chẳng thể rúc kèn củ rích,
vác loa mồm kêu:
"Hiện tại rất thiên đường!"
Không!
Thiên đường chúng ta
là nối đuôi nhau
vô tận triệu Thiên đường.
Đi măi
chẳng bao giờ thoả.
Tôi có thể mắc nhiều
tội lỗi,
chẳng bao giờ quá ngu đi
mắc tội: nằm ́
Han rỉ
khác ǵ cái chết?
Chết con tim chẳng c̣n dám
đau thương.
Chết khối óc
chẳng c̣n dám nghĩ!
Nếu
tôi chửa đến ngày thổ huyết
phổi tôi c̣n xâu xé măi
lời thơ.
Tôi có thể mặc thây
ngàn tiếng chửi tục tằn
trừ tiếng chửi: -
"Sống không sáng tạo!"
Nếu tôi bị gió sương
đầu độc,
một hôm nào ngă xuống
giữa đường đi
tôi sẽ ngă
như người lính trận
hai bàn tay chết cứng
vẫn ôm cờ.
Nếu vầng nhật
thui tôi làm bụi,
nắng oan khiên đốt lại
làm tro.
Bụi tôi sẽ
cùng tro –
vẫn sống
vẫn chia nhau gió bấc
xẻ mưa phùn.
Nếu dĩ văng đè trên lưng
hiện tại
nặng nề
hàng tạ đắng cay,
tôi sẽ nổ tung
ngàn kho đạn tiếng kêu
tan xác pháo
mọi cái ǵ cũ rích,
Nếu
hàm răng chuột nhắt của gia đ́nh
gậm nhấm
cả t́nh yêu cùng dự định
tôi sẽ biến thân tôi thành
thép nguội
làm thất bại
mọi thứ rũa đă quen rũa người
tṛn trặn quá ḥn bi.
Ở trong tôi
nếu c̣n sức mạnh ǵ
chính là sức những ai
nghèo khổ nhất.
những ai
lao lực nhất –
địa cầu ta.
Tôi vẫn nâng chiếc đầu lâu
nặng nề sáng tạo
như
nâng một viễn vọng đài
trên cuộc sống hàng ngày
nhí nhách
Tôi vẫn cháy
ngọn hải đăng con mắt
ở trong biển sống
từng đêm.
Tôi vẫn đóng những câu thơ
như người thợ
đóng tàu,
chở khách
đi về phía trước,
nói
loài người –
đă biết sống chung nhau.
Nói
tất cả -
chẳng c̣n ai bần tiện,
chẳng c̣n lo
cơm áo
nợ nần
(Trích báo Văn số 28, xuất bản ngày 15-11-1957)
*
Phùng Quán
Phùng Quán, năm nay 25 tuổi, là một thanh niên nghèo. Trước đi bộ đội, sau được giới thiệu về trường Dự bị Đại học để học thêm. Về Hà Nội anh lại tiếp tục công tác văn nghệ trong quân đội.
Anh viết văn theo lối hiện thực xă hội và được coi là Triệu Tử Long trong nhóm đối lập. Những bài thơ của anh được dư luận gọi là những "bom nguyên tử".
Chúng tôi trích đăng bài "Chống tham ô lăng phi" đăng trong Giai phẩm mùa Thu, tháng 10-1956 và bài "Lời mẹ dặn" đăng trong tờ Văn, tháng 9-1957.
Anh không đ̣i hỏi ǵ khác hơn là quét sạch những rác rưởi trong xă hội và yêu cầu các nhà văn phải trung thành với tâm hồn của ḿnh: "Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét". [4] Anh bị khủng bố chỉ v́ dám nói như vậy. Phùng Quán bị lôi đi chỉnh huấn và phải viết bài thú tội. Trong bản này nhà thơ trẻ tuổi thú nhận rằng sau khi nhóm Nhân văn-Giai phẩm bị giải tán th́ suốt ngày chỉ chơi với một con bú dù. Các bạn hỏi tại sao thích nuôi bú dù, Phùng Quán trả lời: "Chơi với người chán lắm rồi, thành phải chơi với bú dù".
Một chế độ đă đào luyện cho thanh niên một tâm trạng như vậy đủ làm cho chúng ta suy nghĩ về chân giá trị của chế độ đó vậy.
Thơ cái chổi - Chống tham ô lăng phí
Ta đă đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt:
Tôi đă gặp
Những bà mẹ già quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu chảy ṛng
Bởi đồn giặc trồng ngô tỉa lúa.
Tôi đă gặp
Những cô gái trồng bông
Hai mươi? Ba mươi?
Tôi không nh́n ra nữa.
Mồ hôi sôi trên lưng
Mặt trời như mỏ hàn x́ lửa
Đốt đôi vai cháy hồng.
Tôi đă đi qua
Nhiều xóm làng vùng Kiến An Hồng Quảng.
Nước biển dâng lên ướp muối các cánh đồng
Hai mùa lúa không có một bông.
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ.
Tôi đă gặp
Những đứa em c̣m cơi
Lên năm lên sáu tuổi đầu.
Cơm tḥm thèm độn cám với rau
Mới tháng ba đă ngong mong đến Tết
Để được ăn cơm no có thịt
Một bữa một ngày…
Tôi đă đi
Giữa Hà Nội những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm
Tôi đă gặp
Chị em công nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xắn quá gối
Run lẩy bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con.
Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của quần chúng anh hùng lao động
Đang buộc bụng thắt lưng để sống
Để xây dựng kiến thiết nước nhà
Để yêu thương nuôi nấng chúng ta.
V́ lẽ đó
Tôi quyết tâm rời bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa
Những vần thơ xanh đỏ sáng loà
Như trang giấy kim
Dán lên quân trang
Đẫm mồ hôi và máu tươi của cách mạng
Như công nhân
Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
Các đồng chí ơi!
Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem.
Đài xem lễ [5] họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng thiếu tiền bỏ dở.
Mười một triệu đồng dầm mưa dăi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.
Những con chó sói lăng phí quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng!
Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ “đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước chúng ta không đếm hết người nghèo
Đêm nay thiếu cơm thiếu áo.
Những tên quan liêu Đảng đă phê b́nh trên báo
Và bao nhiêu tên chưa ai biết ai hay
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gày
Khắp mặt đất
Như ruồi nhặng
Ở đâu cũng có!
Đảng muốn phê b́nh tất cả
Phải một ngh́n số báo Nhân dân!
Tôi đă đến thăm nhiều hố xí cầu tiêu
Giấy trắng nửa mặt, xé toang chùi đít
Những người này không bao giờ họ biết
Ở làng quê con cái nhân dân ta
Rọc lá chuối non đóng vở học i-tờ!
Tôi đă đến dự những phiên toà
Họp suốt ngày luận bàn xử tội
Những con chuột mặc áo quần bộ đội
Đục cơm khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói
Những mẹ già, em trai, chị gái
C̣ng lưng, rỏ máu lấn vành đai!
Trung ương Đảng ơi!
Lũ chuột mặt người chưa hết
Đảng lập đội quân trừ diệt
- Có tôi!
đi trong hàng ngũ tiền phong.
(Trích Giai phẩm mùa Thu tập II 1956) [6]
*
Lời mẹ dặn
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đ̣n.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi –
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
Mẹ ơi, chân thật là ǵ?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nh́n tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! Những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời
In lên vết son đỏ chói
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(Trích báo Văn số 21 ra ngày 27-9-1957)
[1]Trần Dần sinh năm Bính Dần 1926 (talawas).
[2]Sau phần giới thiệu Trần Dần, trong nguyên bản có h́nh chụp b́a tập Giai phẩm mùa Xuân 1956, trong đó có đăng bài "Nhất định thắng" của Trần Dần (talawas).
[3]Xem nguyên văn bài thơ gồm 9 đoạn trong Giai phẩm mùa Xuân 1956. Bản đăng trong cuốn sách này có lược bỏ một số câu và nguyên đoạn 6 (talawas).
[4]Trong cuốn Bác sĩ Zhivago, Boris Pasternak có viết: "Muốn chiều cộng sản th́ dể lắm. Cứ nói là yêu cái ḿnh ghét, và cứ nói là ghét cái ḿnh yêu".
[5]Đài xem lễ do ủy Ban thành phố Nam Định dựng lên để các đại biểu đứng xem lễ. Việc này đă bị phê b́nh ở báo Nhân dân.
[6]Bài thơ c̣n có một đoạn cuối bị lược bỏ trong sách này. Xem nguyên văn trong Giai phẩm mùa Thu tập II 1956 (talawas)
Tiếp chương II, phần II - Phái thanh niên: Tạ Hữu Thiện, Bùi Quang Đoài
Tạ Hữu Thiện
Tạ Hữu Thiện là một sinh viên mới lớn lên trong kháng chiến. V́ được rèn luyện dưới chế độ mới nên anh viết theo lối hiện thực xă hội.
Trong bài “Tôi t́m Em” mà chúng tôi trích theo đây, tác giả ta thán về nỗi đau t́m không ra vợ. Điều kiện đưa ra th́ rất chi là dễ dàng, tác giả chỉ cần gặp một tâm hồn “biết ghét và biết yêu”, thế mà t́m khắp ở các từng lớp trong xă hội miền Bắc đều không thấy.
Tác giả không nói tại sao, nhưng người đọc có thể hiểu rằng nền giáo dục cộng sản đă làm khô cạn tâm hồn con người, nhất là tâm hồn của phụ nữ.
Những người ở ngoài ṿng thường ít nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề, nhưng thực t́nh, đối với người con trai chưa vợ hiện nay ở Bắc Việt th́ đó là một t́nh trạng vô cùng bi đát. Một xă hội loài người mà không c̣n t́nh yêu, chỉ c̣n xác thịt là một viễn ảnh rùng rợn. Viễn ảnh này đă được một nhà văn Anh, Georges Orwell, tŕnh bày trong cuốn 1984 và một nhà văn Mỹ mà chúng tôi quên tên tŕnh bày trong cuốn Body Snatcher. Đề tài này đă được đóng thành phim và chiếu tại Sài G̣n.
Tôi t́m Em
Có phải Em là người không bao giờ tôi gặp
Mới là người tôi ấp ủ trong tim?
Ai lớn lên không từng yêu đương
Ai biết yêu không từng ḥ hẹn
Việc ấy lẽ thường.
Tôi đă từng yêu, từng chán nản
Không bao giờ thấy nguội con tim
Không bao giờ thoả măn
Khát khao Em, tôi vẫn gắng công t́m.
Có phải Em là người không bao giờ tôi gặp
Mới là người tôi ấp ủ trong tim?
Nửa đời người tôi đă đi khắp cả
Kiếm t́m Em, sao chửa thấy Em đâu?
Em yêu dấu, sao mà xa lạ
Đến bao giờ thoả ước hẹn ḥ nhau?
- Hỡi cô bạn gương tṛn bỏ túi
Quần sồi áo nâu
Tháng năm dài vất vả
Cuốc bẫm cày sâu.
- Hỡi cô bạn công trường nhộn nhịp
Góp đôi tay, đôi vai
Vào chương tŕnh kiến thiết
Nằm mộng thấy ngày mai
- Hỡi các cô đẩy xe, gánh vải
Quét rác, đổ thùng,
Lao động mang đầy nhựa sống
Nở ngực, thon lưng
- Hỡi cô bạn quầy hàng, tủ kính
Thoắt mua về lại thoắt bán đi
Cuộc sống là trăm ngàn con tính
Kệ đời lắm chuyện thị phi
- Hỡi cô bạn ngồi trong công thự
Ngày ngày chép chép ghi ghi
Sôi nổi như đả máy chữ
Rộn ràng giấy má đến, đi.
- Hỡi cô bạn văn công nhảy múa
Dưới ánh đèn lộng lẫy ánh tiên
Mắt biếc môi t́nh chan chứa
Đời như không có ưu phiền
- Hỡi cô bạn sinh viên trường đại học
Đă cùng tôi luận luận bàn bàn
Kiến thức hai ta dù góp lại
So với đời chỉ độ tấc gang.
- Hỡi tất cả các cô bạn gái
Tôi đă biết hay là tôi chưa quen
Tôi chả bị cái ǵ làm lạc hướng
Nhằm áo hồng, phụ áo vá vai
Cũng bất chấp lối luận bàn sống sượng
Khen chê tóc ngắn, tóc dài
Tôi thấy: đă là con gái
Vào tuổi dậy th́
Cô nào trông cũng đẹp
Mỗi người một vẻ kém chi.
Tôi đắm đuối nh́n đầu môi khoé mắt,
Nét ngực đường lưng
Hàm răng mái tóc
Mộng đời những tưởng đắp chăn chung.
Thực thà tôi chẳng biết
Cân nhắc thành phần,
Cũng chẳng dại làm điều vô ích
Xem cỗi nguồn có vẹn mười phân.
Tôi cũng chẳng đo tài gạn đức
Ra điều kén cá chọn canh
V́ t́nh yêu đời đời đâu có phải
Là bốn bài trừ cộng chia nhân.
Trong các bạn có chăng người yêu dấu
Mà bấy lâu tôi vẫn gắng công t́m?
Đó chính là người tôi chửa gặp
Mới là người tôi ấp ủ trong tim.
Trên tất cả thành phần lư lịch
Trên cao sang, trên sắc đẹp diễm kiều
Em, trọn cuộc đời tôi kiếm gặp
Chỉ là người biết ghét, biết yêu.
(Trích báo Trăm hoa ngày 6-1-1957)
*
Bùi Quang Đoài
Bùi Quang Đoài là một sinh viên nghèo theo học trường Nguyễn Thượng Hiền ở Khu Ba, sau về trường Dự bị Đại học ở Thanh Hoá, rồi khi Việt cộng tiếp thu Hà Nội anh học trường Văn khoa Đại học.
Anh lănh đạo phong trào sinh viên chống Đảng, làm chủ bút tờ Đất mới là cơ quan tranh đấu của sinh viên. Tờ Đất mới chỉ ra được một số th́ bị bóp chết. Sau vụ đó th́ anh bị đuổi khỏi trường. Số phận hiện nay ra sao chúng tôi không rơ.
Bài “Lịch sử một câu chuyện t́nh” của anh đăng trong tờ Đất mới mà chúng tôi trích sau đây, tả không khí sinh hoạt trong khu học xá ở Hà Nội và kể lại một vụ cán bộ Đảng dùng uy quyền chính trị chiếm đoạt t́nh yêu của một nữ sinh viên tiểu tư sản người Hà Nội. Câu chuyện có thực, và đă làm sôi nổi dư luận trong giới sinh viên đại học.
Lịch sử một câu chuyện t́nh
Em hăy đếm những v́ sao trên trời được bao nhiêu th́ anh yêu em c̣n hơn thế nữa…
Nếu có thế và chỉ có thế thôi.
Đường trăng mà không sáng! Bóng mây đă che mờ hẳn trăng đêm. Ánh đèn trong những gian pḥng khu học xá chiếu hắt ra như những v́ sao thứ tự. Tân bước vội lên thềm. Một anh bạn sinh viên ngồi đó nh́n theo dáng anh mệt nhọc.
Kém 15 phút nửa là đúng 10 giờ đêm. Bây giờ phải họp tổ hội tự kiểm thảo. Mà kiểm thảo cái ǵ, đêm nào cũng một luận điệu "Tôi thấy trong ngày hôm nay..."
Qua pḥng họp lớn, Tân lấy tay kéo xệch chiếc ghế dựa đi một quăng. Tiếng ồn làm mấy người bạn đang chúi mũi học bài nh́n lên. Có cái nh́n của Bằng qua đôi kính trắng gọng nạm vàng. Mắt Tân bắt gặp mắt Bằng trong thoảng chốc. Và Tân càng thấy bực ḿnh thêm v́ cứ bị măi đôi mắt kính vô lư kia ám ảnh. Một thằng người hay một... thế thôi! Cần ǵ nói hết ư nghĩ của ḿnh trong khoảnh chốc. Tân lấy đàn violon ra kéo chơi một bài cho ḷng khuây khỏa. Âm thanh của bản đàn "Thais" réo rắt và dồn dập làm rối bời thêm tâm trí anh.
"Ê, Tân đi họp tổ chứ ‘ôm’ đàn măi à!”
Tân cười nhẹ và ngoan ngoăn như em bé bỏ cây đàn vào hộp. Bước đi vẫn nặng nề, do dự. Tiếng đàn c̣n vẳng bên tai anh. Họp! Có ǵ? - Phê b́nh và kiểm thảo, kiểm thảo và phê b́nh. Mười phút qua và tối mai đúng 10 giờ kém 15 lại cứ thế. Tân lên dây đồng hồ cho tiếng máy chạy đều sỗng đến 10 giờ đêm mai. Không biết con người có như vậy không, nhưng cứ kéo dài như vậy th́ quả thật là mệt mỏi quá rồi! Bao giờ sẽ được lau dầu?
Một hồi kẻng vang lên. Mười giờ đúng. Ánh điện đồng loạt ở các gian pḥng khu học xá tắt phụt. Có vài cái trễ nải cố sống thêm vài phút. Mười giờ và đi ngủ. Nội quy của khu học xá là như vậy và không một ai có thể thức lâu, trừ "trường hợp" đặc biệt nào đó. Tân mân mê hộp đàn violon trong đêm tối. Anh muốn kéo thêm một bản đàn và thực t́nh anh cũng chưa buồn ngủ. Nhưng đêm tối của toàn gian pḥng bắt anh phải tôn trọng một giấc ngủ chung của tập thể. Tiếng đàn như ĩân c̣n vẳng lên kéo anh về một kỷ niệm. Anh nghĩ đến một người ở năm thứ nhất ban Sử:
Trang sách mở rồi
Một tờ thư nho nhỏ
Thương anh muôn vạn thuở
Gửi chùm hoa lư phần anh...
Tự nhiên anh nhớ lại mấy câu thơ đó của người bạn và mong cho nỗi ḷng ḿnh có một sự cảm thông. Câu chuyện gặp gỡ anh không thể quên được...
Đôi mắt của An và thân h́nh của An. Màu áo tím hoa cà trong nắng vàng của buổi chiều hè làm Tân có cái cảm tưởng Tân đang bước trên một đài mây. Gió thoảng bay về vờn qua nếp lụa mỏng. Một cái ǵ lôi cuốn cả tâm hồn Tân, anh tŕu mến nh́n người bạn gái sinh viên chưa quen thuộc đó. An đang vui cười tṛ chuyện với mấy người bạn gái khác, không chú ư đến một chàng trai si t́nh của năm thứ ba văn khoa. Ai lại yêu quá vội vàng như thể nhỉ! Nhưng nói sao được tuổi thanh niên và nói sao được cái rung động buổi đầu trước một người đẹp. Tân nh́n An trong nắng vàng của chiều hè, nhịp máu chảy vươn lên. Tự nhiên An cũng nh́n hướng về phía Tân. Và An nh́n hướng như vậy luôn mấy lần. Đôi mắt Tân và đôi mắt An đă gặp nhau trong một cuộc hẹn ḥ không ước hẹn.
Yêu! Tân thấy cuộc đời như rộn hẳn lên và cái ǵ cũng hoa là hoa, ánh sáng là ánh sáng. Yêu đời đẹp quá đi thôi và đưa người thanh niên đến một lạc quan say đắm: "Em ơi! Em hăy đếm những v́ sao trên trời được bao nhiêu th́ anh yêu em c̣n hơn thế nữa..."
Chiều đó Tân đă gặp lại An. Lần này anh không dám nh́n thẳng vào mắt An nữa. Anh muốn nói một câu mở đầu nhưng ḷng anh bối rối. Anh đang lúng túng t́m một ư nghĩ ǵ thật là văn hoa để mong diễn đạt nỗi ḷng thầm kín của ḿnh một cách xa xôi bóng bẩy th́ Hạnh đến. Hạnh là người bạn gái khá tốt và tế nhị trong vấn đề t́nh cảm. Hơn nữa Hạnh là người đă đứng tuổi, có con rồi. Tân đă có lần tâm sự với Hạnh về cảm t́nh của ḿnh đối với An, nên bây giờ trong một sự t́nh cờ hai người đứng gần nhau trước hiên nhà, Hạnh đă nắm được sự bối rối của Tân. Hạnh nói như sực nhớ một điều ǵ:
"À, anh Tân đây rồi! Chị An mượn tôi cuốn Số đỏ của Vũ Trọng Phụng nhưng anh lại mượn mất rồi. Thôi hai người điều đ́nh với nhau vậy. Tân hơi ngạc nhiên v́ anh không định mượn cuốn Số đỏ của Hạnh bao giờ. Nhưng thoáng cái, anh hiểu ngay ư nghĩa câu nói, anh nh́n thẳng vào mắt An hỏi:
“Chị An bên Sử mà cũng thích đọc sách bên Văn cơ à? Thế mà tôi cứ tưởng…"
"Tưởng ǵ nào ?"
Hạnh cười ngắt ngang câu nói làm Tân hơi lúng túng.
An cũng vậy, nàng đă bắt gặp rất nhiều lần Tân nh́n nàng, nên hôm nay nàng cũng không giữ được vẻ tự nhiên thường ngày. Nàng hỏi lại: "Thế anh tưởng bên Sử th́ không thể và không dám hiểu một ư sâu của câu văn hay sao? Anh quên rằng các anh bên Văn là rất cần Sử để có thể phân tách t́nh trạng xă hội qua tác phẩm văn học đó nhé!"
Hạnh cười:
“Vâng rất cần Sử…"
Câu chuyện đang vui th́ Bằng đến. Bằng nh́n Tân rồi nh́n An qua đôi kính trắng gọng nạm vàng nói như cố ư pha tṛ nhưng quá nước ốc:
“Chứ cái chi chi đây mà tụ họp vui quá nhỉ."
Tân muốn bỏ đi ngay. Anh nói hất hàm:
"À, một chuyện đời!"
Bằng lại giữ đúng thái độ "Đào kép mới" của Nguyễn Công Hoan, cười lố bịch :
"Chà, chứ quan trọng vậy ư? Nhưng chuyện đời ǵ mà chỉ có ba người, tôi tham gia có được không?"
An vô t́nh nói với Bằng:
“Sao lại chuyện đời? Em hỏi mượn chị Hạnh cuốn Số đỏ đó thôi." Tân nhún vai:
"Th́ Số đỏ cũng là chuyện đời, chuyện đời của thằng Xuân biết lừa đời, sống trong một h́nh thức giả tạo để mà lên đến ghế gọi là ‘anh hùng’!"
Tân nói xong cười tinh nghịch nh́n vào đôi mắt kính của Bằng. Anh thấy Bằng đă đến, tất nhiên nước có thể đục. Mà anh, cuộc đời trước mắt anh đang cần những cái ǵ trong mát, tươi thắm hơn, nên anh trở về pḥng.
Lát sau anh đưa cuốn Số đỏ cho An. Hai người cùng nói chuyện với nhau nhiều hơn trong cuộc đời sinh viên, giữa người ở vùng tự do, kháng chiến trở về thủ đô và người thủ đô cũ. Tân kể lại những ngày vất vả ở cầu Kè, Thanh Hoá, đêm ngồi nghe giáo sư giảng bài bên ngọn đèn dầu lù mờ và cả cuộc đời g̣ bó, khuôn khổ. Ngoài th́ tàu bay của giặc thường đi khủng bố, trong th́ cả một sự hạn chế... Anh không muốn nói hết những t́nh cảm và tư tưởng của ḿnh trong những ngày đă qua. Anh muốn t́m hiểu hơn ở người bạn gái Hà Nội có mái tóc quăn này. Anh đă hỏi An là sao An đă vào Sư phạm mà chịu ở kư túc xá. Qua những câu nói của An, anh hiểu tâm trạng của một người thanh niên học sinh Hà Nội hơn, những phút sống lao đao của họ trong bàn tay địch và cuộc đời như không có tương lai. Tất cả xung quanh đều là những bước đường có thể sa ngă, bàn tay của truỵ lạc, của đen tối luôn t́m lôi kéo mọi người thanh niên mới lớn lên. Cho nên trên cái bơ vơ đó của cuộc đời, phải chăng người thanh niên của thủ đô Hà Nội cũ đă hướng về vùng tự do kháng chiến. An cũng đă sống trong cái tâm trạng đó nên lúc hoà b́nh được lập lại, nàng như thấy rơ cuộc đời ḿnh đang bắt đầu đi vào con đường giải phóng mới rộng răi và tươi sáng hơn. Trên ư nghĩ đó, An thấy ḿnh chưa phục vụ cho nhân dân, cho đất nước được một cái ǵ rơ rệt, hơn nữa trong nhu cầu cần thiết của nhân dân, nàng quả quyết theo ngành sư phạm. Mặc dầu Trâm, bạn nàng, hôm thi đỗ được vào trường Đại học Sư phạm Văn khoa đă nói đùa: "Thế này thật là mới vững lập trường!", nhưng An không khe khắt với bạn. Nàng cho ư nghĩ ấy cũng có thể được chứ có sao đâu: lập trường của ḿnh là dứt khoát đứng về phía nhân dân lao động và phục vụ cho nhân dân lao động cơ mà! Học sư phạm ra đi dạy là ư nghĩa cụ thể nhất của một người thanh niên.
An đă nói với Tân là An mến những chị bạn ở vùng tự do kháng chiến mới về. An muốn gần họ và mong hiểu được nhiều hơn cuộc sống của con người kháng chiến mà nàng không là một con số trong đó. Tân hỏi đùa An:
“Nhưng sao người ở Hà Nội mới được giải phóng lại cứ hay gọi vùng tự do kháng chiến là 'hậu phương’?"
An không trả lời. Qua câu chuyện của Tân, nàng thấy Tân là một thanh niên rất thành thật. Nàng mến Tân hơn và có thể tin ở người bạn trai có một tâm hồn nghệ sĩ nàỵ An nhớ lại những bản đàn mà Tân thường chơi vào lúc 10 giờ đêm trước giờ kiểm thảo. Tiếng đàn những lúc đó bao giờ cũng vội vàng, hấp tấp. Tân kéo bản đàn này qua bản đàn khác như người đang cố t́m hưởng lấy một phút sống vui trước giờ hấp hối (và không biết 10 giờ nội quy đi ngủ của khu học xá có phải cũng đúng là giờ hấp hối hay không). Tiếng đàn buổi sáng bao giờ An cũng thấy thoải mái, thánh thoát hơn. Tiếng đàn lắng sâu vào tâm sự con người trong buổi b́nh minh rực rỡ, đọng trên mí mắt người ta như châu ngọc, ban cho tuổi thanh niên một hứa hẹn của ngày mai. An rất thích nghe tiếng đàn b́nh minh của Tân. Một sáng đầy nắng mới, Tân lại đi kéo bài "Khúc ca ban chiều", "Sérénata" - làm An và các bạn khác, vẫn thích nghe đàn của Tân, bật cười:
“Ông tướng quên cả ngày rồi!”
Nếu chỉ thế thôi!
Tân đă ghi vào trang đầu của cuốn nhật kư: "Em ơi ! Em hăy đếm những v́ sao trên trời được bao nhiêu th́ anh yêu em c̣n hơn thế nữa".
T́nh yêu đă bắt đầu chớm nở giữa hai người. Tiếng đàn của Tân vui hơn, nhộn nhịp hơn. Anh không ăn bận b́nh thường như trước nữa. Anh chải hắt mớ tóc lên theo làn sóng uốn và thỉnh thoảng anh lại thắt cả "cravate". Mọi người đều thấy ở Tân có một sự thay đổi và ai cũng biết câu chuyện giữa Tân và An.
Bước đầu đang được t́m hiểu xây dựng th́ một hôm người ta thấy Bằng đang bàn chuyện trong buồng riêng với hai nữ sinh viên, Chi và Phụng. Nét mặt của Bằng rất quan trọng và qua đôi kính trắng gọng nạm vàng của Bằng người ta lại càng có thể đoán cái quan trọng của câu truyện hơn. Không ai hiểu chuyện ǵ đă hay đang xẩy ra. Người ta - nghĩa là anh em sinh viên - đều biết Bằng là bí thư chi bộ Đảng của tổ chức sinh viên. Một lát Chi ở pḥng riêng ra, c̣n Phụng ở lại với Bằng. Cửa đóng kín mít trong gian pḥng của hai người, một trai và một gái. Người ta không có quyền ṭ ṃ v́ đó là Bằng "đảng viên" đang giải quyết" công việc.
Đến chiều An vội từ trên gác xuống t́m đến pḥng riêng nơi Bằng làm việc. Mặt nàng hơi tái. Bằng hỏi nàng:
“Chắc Chi và Phụng đă nói chuyện với chị rồi phải không? Chị có cảm t́nh với Tân? À, cái ấy chị có quyền tự do luyến ái...”
An thấy thái độ của Bằng quá trắng trợn, toan "thắc mắc" nhưng nàng vội nhớ ngay đến địa vị và chức vụ của Bằng. Nàng lo sợ ngồi yên lặng cúi đầu xuống, tay cuộn tṛn mẩu giấy nhỏ. Tự nhiên nàng thấy ḿnh như đang phạm vào một tội ǵ đó trong "nội quy" t́nh yêu ở khu học xá. Nàng đang phân vân th́ Bằng lại nói:
“Chị đă t́m hiểu ǵ nhiều về anh Tân chưa? Cứ nói thật th́ anh chị em người ta giúp ư kiến cho chứ ngại ǵ mà vụng trộm. Ở đây chúng ta có đủ mọi quyền, trong đó có quyền yêu cơ mà.”
Rồi Băng cười độ lượng tiếp:
“Cái khuyết điểm của chị là sao lại không hỏi ư kiến tôi hay tập thể. Tất cả sinh viên của ta ở đây có một việc ǵ, dù là việc tâm t́nh kín đáo mấy mà lại không hỏi qua ư kiến tôi. Nhưng may là có mấy chị ấy báo cáo cho tôi rơ, nên tôi mới gọi chị đến đây để giúp đỡ thêm ư kiến về hạnh phúc lứa đôi. Chắc chị cũng biết những tiêu chuẩn luyến ái quan chứ ǵ? Tôi không nhắc lại hết, chỉ nêu lại với chị một điểm của tiêu chuẩn luyến ái là vấn đề tư tưởng. Vâng, vấn đề tư tưởng là chính yếu: giá trị của con người ta là qua vấn đề tư tưởng đó. Mà Tân th́ chắc chị đă hiểu, Tân chưa phải là thanh niên Cứu quốc, riêng chị là cảm t́nh của Đoàn.”
Sự việc xảy ra quay cuồng trước mắt An. Chiều hôm đó nàng bỏ không ăn cơm, cáo ốm xin nghĩ học tối. Trước kia nàng là một người hồn nhiên, nh́n mộng đẹp của đời như bông hoa buổi sáng mở cánh đón ánh nắng b́nh minh. Nàng rất tin ở chế độ Dân chủ Cộng hoà và con đường tiến lên của nó. Nàng rất tin con người trong chế độ đó và chưa một lần hoài nghi. Người ta có thể hoài nghi với cuộc đời, với cả t́nh yêu. Nhưng riêng An nàng nghĩ người đời cũng có thể có những t́nh cảm như ḿnh. Nay trang giấy trắng của tuổi ḷng đang bắt đầu lật qua một mặt khác, nàng đă yêu Tân. T́nh yêu của nàng đang vừa độ chớm nở. Nàng có thể tha thứ cho Tân những điều mà Tân đă lầm lỗi trong t́nh cảm trước kia. Đó là một chuyện rất có thể mà thôi, tuy chưa thú thực nỗi ḷng của ḿnh với Tân, nhưng nàng có thể tin Tân.
Đôi mắt của Bằng qua đôi kính trắng gọng nạm vàng như đă nh́n rất sâu vào tâm tư An. Nàng không thể quên được những cái tiêu chuẩn - không biết có vô lư không - mà Bằng đă nêu ra: vấn đề tư tưởng. Mà tư tưởng tức là lập trường chính trị rồi. Thế nhưng anh Tân đă chiến đấu ở bộ đội về, đă ở kháng chiến cơ mà! An lại càng phân vân. Cuộc đời quả thật là vô cùng phức tạp. Tại sao Tân không phải là Thanh niên Cứu quốc? Tại sao Tân đă chiến đấu cho Cách mạng nhiều như vậy, 6, 7 năm ở bộ đội - mà lại không là một đảng viên cộng sản? Tại sao? Nếu quả ư nghĩa câu nói của Bằng th́ có thể là Tân thiếu lập trường cách mạng, tư tưởng kém. Do đó suy rộng ra không biết có nên chụp mũ không - là tư cách đạo đức kém. Mà nếu là quần chúng th́ đó là một sự dĩ nhiên. Ư nghĩ dồn dập trong tâm trí An. Nàng thấy ở trường học cũng có cơ quan đoàn thể của chính phủ, những người lănh đạo đều là đảng viên cộng sản cả. An rút ra một kết luận đơn giản: đảng viên cộng sản người nào cũng tốt hết v́ họ có lập trường tư tưởng vững, c̣n quần chúng mặc dù anh ở thành phần nào, năng lực công tác cao đến đâu nếu anh chưa là đảng viên cộng sản th́ ư thức lập trường của anh đều kém. Như vậy, nếu đưa vấn đề tự do luyến ái ra trong đó có tiêu chuẩn tư tưởng - sao lại tiêu chuẩn? - qua ư của Bằng là con gái nên lấy chồng đảng viên cộng sản v́ họ có lập trường tư tưởng. Thật là rủi ro cho ai lấy phải những người chồng quần chúng như Tân hay sao? Nhưng hiện nay một số đảng viên cộng sản đă phủ nhận vai tṛ của quần chúng, không tin ở quần chúng (cơ quan tổ chức nào họ cũng nắm toàn quyền lănh đạo và đảng bộ quyết định tuyệt đối), họ khinh thường quần chúng. V́ vậy An đă nghi ngờ ngay cả khả năng của bản thân ḿnh.
An càng thấy băn khoăn hơn trong ư nghĩ, mấy ngày luôn nàng tránh không muốn gặp Tân, nàng sợ cái nh́n của Tân, sợ cả tiếng đàn của Tân. Tiếng đàn trước kia quen thuộc, thân ái như lời tâm sự, bây giờ đối với nàng như tiếng than năo ruột.
Chính nó đă xé că ḷng nàng. Nàng thấy như tiếng đàn cũng mất lập trường, thiếu căn bản tư tưởng. Ừ, giá cũng bản đàn đó, nếu là một người đảng viên cộng sản kéo th́ có phải vững lập trường biết bao. An cho ḿnh nghĩ như vậy là máy móc, nhưng chính ḷng nàng qua buổi nói chuyện với Bằng, nàng không biết cái ǵ là đúng, cái ǵ là sai nữa. Nàng đang đứng trước một ngă ba đường mà chân lư đối với nàng c̣n quá mơ hồ. Người bí thư chi bộ cộng sản ở trường đă đưa nàng vào con đường sương mù của một buổi sáng Luân Đôn.
Không yêu có được không? An để tay lên tim ḿnh nghe rơ tiếng đáp dồn dập. Nàng yêu Tân, yêu nhưng chưa qua một lần hứa hẹn. Như thế cũng hay? Chi bằng ta gấp cuộc đời lại, ta chờ đợi một cái rủi may. Mấy lần An đến gặp Bằng, nói rơ nỗi khổ của ḷng ḿnh. Bằng đă thương hại nàng, lấy tư cách là một người anh, tư cách một người cán bộ lănh đạo đi sát quần chúng, an ủi nàng. Nàng rất cảm động v́ ḷng tốt của Bằng. Có lần Bằng đă để tay lên vai nàng, vuốt nhẹ tóc nàng, khuyên nàng không nên đau khổ. Thời gian sẽ trôi qua và kỷ niệm kia cũng sẽ dần dần nhạt phaị Nàng thấy Bằng luôn săn sóc đến nàng cũng như các người bạn gái khác của nàng. Trong toàn trường sư phạm văn khoa, không một người nào thắc mắc cái ǵ là không phải qua tay Bằng giảI quyết. Bằng đă giúp đỡ cho nhiều chị nh́n rơ đời tư của người bạn trai si t́nh nào đó và như vậy chị mới có thể dứt khoát cắt đứt dây t́nh cảm đang định giăng buộc hai người. May có Bằng, nếu không th́ biết bao nhiêu là chị sẽ vô t́nh yêu lầm phải những chàng sinh viên quần chúng thiếu tiêu chuẩn tư tưởng trong vấn đề luyến ái quan.
Thật t́nh An đă cám ơn Bằng, người cán bộ trung kiên đă giúp cho nàng một con đường thoát. Nàng thấy Bằng thật quả xứng đáng là một sinh viên gương mẫu của trường đại học, gương mẫu cả trong cách thức giảI quyết t́nh cảm.
Từ đó An nh́n Tân bằng con mắt khác, cố tránh xa Tân. Tuy nhiên, nhiều khi ngồi suy nghĩ một ḿnh, An tự hỏi ḷng ḿnh đă dứt khoát hẳn với câu chuyện của đời ḿnh hay chưa. Cái kỷ niệm trong mối t́nh đầu tiên chưa hợp đă tan kia, làm sao nàng có thể quên được.
Có vài mẩu chuyện tung ra trong dư luận sinh viên năm thứ ba làm An ngạc nhiên. An đă biết thờI gian vừa qua Tân rất đau khổ. Tiếng đàn b́nh minh thường lệ càng như tha thiết hơn, lo lắng hơn. An rất khó chịu về tiếng th́ thầm cho rằng Tân hay diện: "Trong lúc An là người Hà Nội muốn trút bỏ cái áo Hà Nội để đi xuống th́ Tân lại t́m khoác cái áo ấy vào". Tại sao người ta lại quá nghiêm khắc với ngay cả cách thức ăn mặc? Thế chiến đấu để làm ǵ, cứ sống thật với ḷng ḿnh có hơn không?
Một hôm An được Bằng gọi xuống có chuyện riêng. Thoáng thấy bóng Tân ở pḥng Bằng ra, nàng đă đoán được phần nào câu chuyện. Cái làm nàng ngạc nhiên nhất là Tân lại đi cầu cạnh Bằng mong giúp đỡ trong vấn đề t́nh cảm. Nàng chắc Tân không bao giờ có thể làm một việc cầu cạnh như thế. Nhưng biết đâu, trong đau khổ của con tim, người ta có thể đi thử một nước cờ. Nhưng nước cờ đó của Tân, chính Bằng là người dàn quân tính nước và An cũng đă chỉ là một quân cờ. Nước cờ của Tân qua tiêu chuẩn tư tưởng trong vấn đề luyến ái của Bằng đă thất bại. An từ chối Tân.
Và nếu cũng chỉ có thế thôi!
Câu chuyện chưa phải là bỏ dở. Ngày qua rất chóng. An không đọc lại những trang nhật kư đă ghi; An cũng không t́m trở lại một kỷ niệm. Nàng sống hồn nhiên như một ngày nào...
Có lần đi sau Chi và Phụng, hai người đang bàn về t́nh yêu, An đă thoáng nghe: ... "Nữ-sinh Hà Nội dễ chinh phục như chơi... Anh ấy quan niệm rằng người ta có thể yêu một lần bốn cô..." An lao đao cả tâm hồn. Anh ấy là ai? Chắc hẳn phải là một anh cán bộ nào đó gần gũi với mấy cô nữ sinh viên. Nhưng tại sao người ta lại có một quan niệm lạ đời như vậy? Họ khinh thường người con gái Hà Nội quá đi: họ đă quan niệm nữ sinh Hà Nội như một người đàn bà dễ dăi trong t́nh yêu. Và một lần bốn cô. Rơ ràng đó là ư nghĩ của một tư tưởng bệnh hoạn, lưu manh.
An nghĩ đến Tân, so sánh giữa Tân với một số cán bộ sinh viên lănh đạo. Tân sống với t́nh cảm của ḿnh quá nhiều, nhưng Tân chưa bao giờ lừa dối ai. Phải sống thật với ḷng, sống thật với con người chân chính... Trong đời c̣n bao nhiêu là rơm rác, bao nhiêu là sâu bọ, làm sao mà biết được cái chân chính của một con người. Bằng đă giải thích và xây dựng cho nàng rất nhiều trong cuộc sống chung đụng giữa sinh viên. Những cô bạn của nàng cũng đă có cái hân hạnh đó và tất cả coi Bằng như một người anh. Bằng có đủ mọi quyền, kể cả quyền về t́nh cảm. Nhưng với quyền hành, Bằng có xứng đáng với ḷng tin của quần chúng không? Qua câu chuyện giữa Chi và Phụng, An bắt đầu đặt một câu hỏi. Nàng biết Phụng rất được Bằng chú ư và thường hay bàn bạc riêng với nhau. Có hôm Bằng và Phụng ở trong buồng riêng th́ thầm đến quá nửa đêm, mà nộI quy nhà trường th́ 10 giờ đúng là đi ngủ. Đó là một "trường hợp" đặc biệt và không ai có thể ṭ ṃ về Bằng trong khi anh ta đang "giải quyết vấn đề" ǵ đó cần thiết cho một cô sinh viên. Bằng gần Phụng nhiều cũng đúng, v́ chính Phụng đang thắc mắc nhiều về chồng con. Bằng vuốt tóc Phụng, xoa dịu lên vai Phụng cũng là đúng vậy thôi. Phụng cần được an ủi và Bằng là một người anh, đồng thời là cán bộ lănh đạo. Có hôm chính mắt An đă thấy Bằng đùa nghịch với Phụng trước mấy người bạn gái khác. Bằng đă tha thiết muốn xin cái huy hiệu Tiệp Khắc trên ngực Phụng. Phụng không cho và như thế là có cuộc giằng co "vui vẻ" cái huy hiệu trên ngực Phụng. An thấy khó chịu v́ ngực của một người con gái, dù là bạn trai thân đến đâu cũng không nên đùa quá trớn như vậy. Nhưng Bằng là cán bộ lănh đạo th́ hành động ấy phải chăng Bằng có thẩm quyền? Cũng như Bằng đă thắc mắc trước mọi người là Duyên có mang. Lúc ấy Duyên đang yêu Thái. Thế là do thắc mắc của Bằng phát sinh ra một dư luận. Người ta nh́n Duyên bằng con mắt hay hay, chờ đợi một cái ǵ sẽ đổi ở con người. Thế nhưng mấy tháng qua và năm học hết, Duyên vẫn thấy là Duyên lành mạnh, không "to" như ư nghĩ thắc mắc của Đảng.
An càng nghĩ sâu về sự săn sóc của Bằng nàng càng thấy khó chịu. Bằng dễ dăi và quá thân mật, với chị em. Thường ngày Bằng chỉ gần nữ mà xa nam. Hành động như trên đối với Phụng và Duyên, An không hoàn toàn đồng ư. Hơn nữa như câu chuyện giữa cô Chung và anh Bảo. Hai người đă yêu nhau bốn năm gần cưới, bỗng dưng Chung tuyên bố cắt đứt với Bảo. Chung bảo Chung không yêu Bảo nhưng Chung lại mới yêu Duy là một người học cùng lớp, ngồi chung bàn. Đây cũng không thể tŕnh bày qua vấn đề t́nh cảm mà cũng chỉ là trong tiêu chuẩn lập trường: Duy là đảng viên và Bảo chỉ là quần chúng. Chung có một sinh mệnh chính trị làm bậc thang cho đời ḿnh nên t́m yêu Duy. Bằng đă giải quyết cho hai người cắt đứt nhau, đồng thời có kiểm thảo Duy. Việc xảy ra, An cho là vô lư. Cách giải quyết của Bằng, dung thứ cho Duy phá t́nh yêu của bạn, thừa nhận sự phản bội t́nh cảm của Chung và quy kết khuyết điểm về Bảo, cho Bảo là không biết duy tŕ t́nh yêu. Bảo đă đau khổ, Chung th́ tự đắc về sai lầm mù quáng của ḿnh như một kẻ thắng thế, c̣n Duy th́ lại tỏ thái độ dửng dưng: "Chuyện tôi với Chung sở dĩ xẩy ra v́ tôi sống gần một người đàn bà. Tôi lại chưa có vợ... À đàn bà!". Đó là quan niệm luyến ái của một cán bộ lănh đạo hay sao?
H́nh ảnh Bằng với đôi kính trắng gọng nạm vàng và h́nh ảnh Duy với một mắt to, mắt nhỏ luôn ám ảnh An. Đó là hai người trong những người lănh đạo. Tại sao những sự việc xẩy ra vô lư như vậy mà hai người lại quan niệm một cách quá giản dị, cái chân chính của con người là thế hay sao? Nàng nhớ lại câu nói của Tân đă trả lời Bằng về cuốn Số đỏ: "Th́ Số đỏ cũng là một chuyện đời, chuyện đời của một thằng Xuân biết lựa đời sống trong một h́nh thức giả tạo để mà lên đến ghế gọi là anh hùng".
Th́ đây ngoài cái giả tạo đó, c̣n có cái giả tạo lừa lọc, phá hoại trắng trợn t́nh cảm của con người ta nữa.
An đau khổ từ trong tận cùng tâm hồn. Nàng nghĩ đến Tân, Tân không thể có những cái t́nh cảm bệnh hoạn như vậy. Tân không che giấu t́nh cảm của ḿnh và qua tiếng đàn của Tân người ta cũng có thể thấu rơ tiếng nói của con tim Tân. Tiêu chuẩn tư tưởng hay tiêu chuẩn t́nh cảm trong t́nh yêu? Cuộc sống như bị đóng khung, uốn theo cái nh́n của một số người lănh đạo. Họ - như hạng Bằng - không c̣n có trái tim biết xúc cảm nữa. Họ sống theo một h́nh thức giả tạo, một đạo đức lừa dối, trong đó họ có thể đề cao địa vị đảng viên của họ lên, đồng thời là đề cao cá nhân họ. Họ muốn quần chúng tôn sùng họ; họ là một ông thần nhỏ trong phạm vi hoạt động. Trong số những người đảng viên ít ỏi giữa quần chúng đông đảo, ai là người chân chính, ai là người đau xót cho da thịt của ḿnh có những phần rữa nát?
Không! An vẫn tin, ḷng tin vô cùng mănh liệt ở sự lănh đạo của Đảng Lao động, Đảng đă đưa nàng đến ánh sáng, với cuộc sống ư nghĩa - với con người. Nhưng An không thể chịu được một số đi sai lệch, sống t́m dựa vào một quyền uy. Mọi sự giải quyết t́nh cảm, phá hoại sức sống tuổi trẻ và bao việc đen tối, mập mờ khác của Bằng làm An thêm khó chịu. Nếu quần chúng mà sai lầm như vậy th́ không biết sẽ được kiểm thảo, được thành kiến, được quy kết tội lỗi đến một thời vực nào…
An bị giày ṿ trong ư nghĩ. Nàng chưa thể nh́n thấy chân lư của một vấn đề khi lực lượng xă hội đang ngày càng phát triển trong sức sống mới của dân tộc. Ngày qua, nàng mệt mỏi, choáng váng đầu óc như một người bị bệnh thần kinh. Nàng tự đấu tranh giữa lẽ phải và sai lầm. Nàng nghĩ hiện nay trong rất nhiều cơ quan hạng người như Bằng không phải là ít. Trong một giấc mơ, nàng thấy một người chiến sĩ tay cầm ngọn cờ hồng, ḿnh đẫm máu, nét mặt vô cùng đau khổ, nhưng cương quyết đang d́u bước nàng đi. Đàng sau là đêm tối, và đàng trước là ánh sáng b́nh minh rực rỡ. Người chiến sĩ đó đă nh́n An âu yếm:
“Đàng kia là b́nh minh của ngày mai. Em tiến tới đi, can đảm mà tiến tới!”
Nàng cảm động gục vào tay người anh hùng đó của dân tộc và khóc nấc lên…
Trong thoảng chốc , nàng có ư nghĩ là không thể có một hạng người như Bằng tồn tại trong cuộc sống của con người. Phải tẩy rửa đi, thanh toán đi. Tuổi trẻ và t́nh yêu không muốn và không thích có những bóng đen của lănh đạo, quan liêu, bè phái, hẹp ḥi bao trùm lên trên t́nh cảm của ḿnh, làm cho người ta hiểu lầm nhau, chia rẽ nhau.
Tuổi trẻ và t́nh yêu không muốn và không thích có những hạng "Lư Thông", có những hạng cây tầm gởi sống bám vào cuộc sống đầy hoa mộng của ḿnh.
An muốn sống thật với ḷng ḿnh, sống với nhịp sống của con tim, với chân lư cuộc đời và trái tim của con người chân chính.
An mong đuợc gặp Tân nói với Tân rằng: "Em đă đếm những v́ sao và em đă đếm măi; đếm măi qua tận cùng của vũ trụ nhưng có một lần em đă không t́m thấy anh!"
An đi dài trên đường cỏ rộng, t́m nhớ lại kỷ niệm thoáng qua. Nhưng... An bỗng lùi bước lại. Một bóng đen lù lù đi tới choán rộng cả không gian. Ai? An bàng hoàng như cơn mê loạn, không nhận rơ được bóng đen đó. Nàng chỉ thoáng thấy qua ánh đèn chiếu hắt ra vội vă, đôi mắt kính và gọng nạm vàng. Toàn thân nàng run lên lo lắng. Ư nghĩ trở về với Tân chỉ c̣n mong manh như sợi tơ trời. Không! Đừng động mạnh bàn tay, hăy giữ cho sợi tơ kia bền chắc, hăy quấn nó, trộn nó với ḍng máu của con tim.
An lảo đảo đi trong đêm tối. Nàng không dám giữ lại h́nh ảnh Tân v́ bóng đen kia vẫn sừng sững. Nàng cố t́m cách xua đuổi nó đi…
An gục xuống một bên đường cỏ rộng, vẫn cái bóng đen với đôi kính gọng nạm vàng choán rộng cả không gian, choán rộng cả tâm hồn nàng.
Mây đen vẫn che mờ cả trăng đêm; và đường trăng mà không sáng…
Một cơn gió thổi về, xua tan những đám mây mờ ám. Ánh sáng xanh mát của trăng đêm lan dần trên cảnh vật mênh mông. Ánh sáng đó toả nhẹ trên da thịt An, thấm tận tâm hồn An, như đưa lại cho nàng sức sống. An vùng đứng lên hít mạnh khí trời ấm áp. Nàng nh́n theo ánh sáng của con đường nàng đi tới. Cuộc sống phải chăng vừa qua một cơn ác mộng, câu chuyện xẩy ra đă là quá khứ?
An hát một bài ca của tuổi trẻ, tiếng hát hoà theo nhịp đập của con tim. Có tiếng cười nghịch phá của mấy cô bạn đang đùa tới:
"À, An đây rồi! Thế mà t́m măi." Mấy người xúm lại quanh An, ríu rít trong từng câu nói. Cuộc đời... nếu không có những bóng đen!
10/56
(Trích Đất mới số 1, 1956)
*
Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị
Lời soạn giả: Sau khi báo Nhân văn ra được mấy số th́ Đảng cử ông Hoàng Xuân Nhị, thạc sĩ triết học, viết bài công kích nhóm Nhân văn. Sau đây là bài của Bùi quang Đoài trả lời ông Nhị. Từ khi ấy không thấy ông Nhị trả lời mà Đảng cũng lờ đi không trả lời những điều mà tác giả bài này đă nêu lên.
Trên báo Nhân dân ngày 16 và 17-10-56 có đăng bài “Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta” của ông Hoàng Xuân Nhị.
Bài này trên căn bản cũng không khác ǵ những bài của các ông Nguyễn Chương, Xuân Trường, Quang Đạm cũng đăng trên báo Nhân dân và cùng nằm trong phạm trù những ư kiến là có ư đổ cho anh em Nhân văn và Giai phẩm là muốn tách rời văn nghệ khỏi chính trị, chịu ảnh hưởng của nhân văn tư sản, không chịu sự lănh đạo của Đảng, nói xấu chế độ v.v…
Sau đây là những ư kiến tôi đặt lại vấn đề với ông Hoàng Xuân Nhị. Trong nhận thức sai lầm của ông và ư kiến văn học của Lê-nin.
Trong bài “Tổ chức của Đảng và văn học của Đảng” mà ông Hoàng Xuân Nhị dịch là “tổ chức của Đảng và văn học có Đảng tính” của Lê-nin đă nêu lên hai vấn đề:
1. Vấn đề văn học của Đảng nghĩa là văn học tuyên truyền cho những nguyên lư tư tưởng và tổ chức của Đảng Bôn-sê-vik.
2. Vấn đề đảng tính trong sự sáng tác văn học, theo nghĩa rộng của nó. (Những ư kiến này chúng tôi dựa vào tập Lê-nin và những vấn đề văn học Nga của Boris Meilakh. Nhà xuất bản Xă hội 4-4-56).
Sự phân biệt hai vấn đề này rất quan trọng, nếu không rất dễ đi đến những hành động máy móc, hẹp ḥi, thô bạo.
Trong vấn đề văn học của Đảng, Lê-nin viết: “Tất cả văn học của Đảng, dù là địa phương hay Trung ương phải phục tùng một cách vô điều kiện Hội nghị của Đảng và những tổ chức địa phương hay trung ương của Đảng. Sự tồn tại của một văn học của Đảng mà không liên hệ với Đảng theo tổ chức th́ không thể dung nạp được.” (Lê-nin toàn tập cuốn X, trang 144). Đó là thời kỳ trước cách mạng 1905-1907, Đảng Bôn-sê-vik tích cực hoạt động chống bọn Men và báo chí của chúng đang tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác-xít dưới danh nghĩa “mác-xít”. Ông Hoàng Xuân Nhị đă máy móc đưa thời gian lịch sử của thời kỳ trước cách mạng 1905-1907 đem áp dụng vào hoàn cảnh xă hội ta hiện nay. Chính trong nguyên tắc căn bản đó, Lê-nin đă nhắc nhở các nhà văn của Đảng là “Sự nghiệp văn học phải trở thành một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô sản, phải trở thành một bộ phận cấu tạo trong công tác của Đảng…” Theo tinh thần nguyên tắc đó các nhà văn của Đảng, các nhà văn đảng viên, các nhà văn viết trên báo chí của Đảng, tuyệt đối phải chịu sự lănh đạo trực tiếp của Đảng, của tổ chức của Đảng, không được nhân danh Đảng để tuyên truyền những quan điểm chống Đảng (cuốn X, trang 31), và khi Lê-nin viết “đả đảo những nhà văn học phi Đảng” (mà ông Hoàng Xuân Nhị chú thích sai là chống lại Đảng thời ấy) chính là nhằm phản đối những nhà văn đảng viên chủ trương đứng trên tổ chức của Đảng, phản đối những nhà văn Men-sơ-vích tán thành sự công tác của nhà văn xă hội dân chủ với các tờ báo tư sản (lúc bấy giờ là giai cấp cầm quyền). Nó hoàn toàn không giống một chút nào với trường hợp của anh em Nhân văn và Giai phẩm đương đấu tranh đ̣i mở rộng tự do dân chủ chống những tệ lậu của lănh đạo. Gán ghép như ông Hoàng Xuân Nhị tỏ ra rằng một là ông Nhị không tiêu hoá được tài liệu, hai là ông Nhị đă lợi dụng tài liệu một cách xuyên tạc. Nó không đúng với tinh thần trung thực của người trí thức.
Ông Nhị c̣n đề nghị:
“Bài của Lê-nin được viết ra cuối năm 1905 thời mà Đảng chưa lên nắm chính quyền. Đến lúc Đảng đă nắm chính quyền rồi th́ lẽ cố nhiên nguyên tắc Đảng lănh đạo và tổ chức lănh đạo chuyên môn lại càng chặt chẽ hơn nữa”.
Sáng tỏ và chặt chẽ hơn, đồng ư. Nhưng chặt chẽ như thế nào? Có phải chặt chẽ là văn học nhất cử nhất động phải tuân theo ư kiến của một phái, chặt chẽ là chuyên môn vâng theo những ư kiến về chuyên môn của một số lănh đạo không am hiểu về chuyên môn không?
Danh từ chặt chẽ buông xuôi như thế, rất có thể dẫn đến những sai lầm tai hại.
Vấn đề thứ hai là vấn đề đảng tính trong văn học.
Lê-nin đă giải thích văn học có đảng tính như thế nào? Trong sự đấu tranh chống lại văn học tư sản địa vị chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ v.v… “Lênin đă đề nghị sáng tạo ra một nền văn học xă hội chủ nhĩa, thực sự tự do và liên hệ công khai với văn học của giai cấp vô sản. Theo ư Lê-nin th́ nền văn học đó phải thấm nhuần tư tưởng xă hội chủ nghĩa. Nó phải phục vụ cho hàng triệu triệu người lao động, những người con ưu tú, sức mạnh và tương lai của đất nước. Nền văn học đó phải là mối dây nối giữa kinh nghiệm quá khứ và cuộc đấu tranh hiện đại của giai cấp vô sản.” (B. Leilakh)
Văn học có đảng tính là như thế. Nó là một nền văn học “thấm nhuần tư tưởng xă hội chủ nghĩa, công khai bênh vực quyền lợi của nhân dân đứng trên lập trường của Đảng”. Cho nên văn học có đảng tính tuyệt đối không có nghĩa là văn học của những nhà văn trong tổ chức của Đảng. Càng tuyệt đối không có nghĩa là bắt buộc tất cả mọi nhà văn phải vào tổ chức của Đảng. Một tấm thẻ đảng viên không thể bảo đảm được đảng tính của một tác phẩm văn học. Trái lại một tác phẩm văn học có đảng tính rất có thể là của một nhà văn đứng ngoài tổ chức của Đảng.
Ví dụ: Mai-a-cốp-ski, Lỗ Tấn v.v…
Văn học có đảng tính nghĩa là văn học có lập trường đấu tranh rơ rệt trong “ư nghĩa thống nhất và tự nguyện” của những người sáng tác văn học xă hội chủ nghĩa. Như thế th́ người sáng tác có đủ mọi quyền tự do của ḿnh, tất nhiên cả quyền tự do tư tưởng, có quyền đi sâu vào từng sở thích riêng của ḿnh. Lê-nin đă viết:
“Trong lănh vực đó, tuyệt đối cần phải bảo đảm một sự tự do rộng lớn cho sáng kiến cá nhân, cho các khuynh hướng cá nhân, bảo đảm sự tự do tư tưởng và sức tưởng tượng, sự tự do về h́nh thức và về nội dung.” (Cuốn X trang 28)
Ta thấy ngày trước Lê nin đă có một quan niệm rộng răi trong sự sáng tác văn học. Chính Lê-nin đă khiêm tốn trả lời Clara Zetkin khi hoạ sĩ này hỏi ư kiến Lê-nin về hoạ lập thể và vị lai:
"Tôi không biết nhiều về lănh vực đó, nhưng tôi nghĩ rằng nếu những nhà nghệ sĩ trẻ tuổi biểu lộ nhiều cảm xúc của ḿnh trước những xu hướng đó th́ nó phải có một lư do hợp lư và người ta cần phải phân tích cái lư do đó theo quan điểm xă hội học." (Les Lettres Francaices số 609)
Lê-nin đă không kết án phái hoạ đó và Lê-nin đă đặt vấn đề cần phải phân tích nghiên cứu nội dung xă hội của nó…
Do sự không phân biệt nổi hai vấn đề văn học của Đảng và văn học có đảng tính trên, nên chỉ quan niệm về tự do tư tưởng ông Nhị cũng đă ngă vào những sai lầm nghiêm trọng:
Hoàng Xuân Nhị chứng minh rằng sở dĩ các nhà văn nghệ được tự do tư tưởng là nhờ Đảng. Ông đă đem ví dụ con chim bay trên bầu trời xanh để làm chân lư phổ biến muôn đời. Trong lịch sử tư tưởng của con người, người văn nghệ sĩ cũng như người khoa học, triết học qua bao chế độ khác nhau, dù bị giai cấp thống trị hành hạ, giết chết cũng không v́ quyền uy mà huỷ bỏ ư kiến sáng tạo của ḿnh: M. Servet và L. Vanini trên giàn củi lửa cũng không từ bỏ tư tưởng khoa học của ḿnh; Cao Bá Quát đâu có v́ lưỡi đao bạo lực của triều Nguyễn mà mất cái khí thế ngang tàng bất khuất của kẻ sĩ biết tự trọng.
Xuất phát từ lệch lạc đó, Hoàng Xuân Nhị cho rằng nhờ có Đảng mới có tự do tư tưởng. Như ư kiến tôi vừa tŕnh bày, tôi hỏi lại ông Nhị là có Đảng rồi mới có quần chúng hay có quần chúng rồi mới có Đảng? Như thế th́ rơ ràng là không phải có Đảng người văn nghệ sĩ mới có tự do tư tưởng mà ngay những thế kỷ trước cũng như thời kỳ trước cách mạng, mặc dầu thực dân đàn áp khủng bố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan vẫn kiên quyết tự do tư tưởng, tố cáo "cái xă hội chó đểu" buộc tội giới cầm quyền bấy giờ. Lúc ấy họ ấy họ có là đảng viên đâu; chỉ có là sáng tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong trào đấu tranh cách mạng mà thôi.
Như thế th́ tự do tư tưởng không phải là một vấn đề do Đảng ban ơn cho quần chúng như ông Nhị đă lầm tưởng. Sở dĩ quần chúng văn nghệ sĩ mến Đảng, tin Đảng, thừa nhận sự lănh đạo là v́ Đảng là người lính tiền phong trong đội quân tự do tư tưởng đó, đă đấu tranh v́ quyền lợi của nhân dân lao động cũng là mục đích của họ đấu tranh trong sáng tác văn học. Đảng tạo điều kiện tốt cho người ta tự do tư tưởng.
Trên đây, tôi đă trả lời ông Hoàng Xuân Nhị về một điểm lư luận chủ chốt trong bài của ông.
Tôi xin nói qua một số điểm khác. Để chứng tỏ những non yếu trong kiến thức của ông Nhị, và đề nghị ông nên khiêm tốn học hỏi hơn.
Dưới cái đầu đề rất to "Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta", dưới những đề mục có vẻ khoa học ông Nhị đă có những lập luận nông cạn và sơ đẳng.
Chẳng hạn trong mục "Quan điểm khoa học" ông viết: "Không sùng bái cá nhân v́ bản thân ḿnh quá sùng bái cá nhân ḿnh th́ không hay ho ǵ hơn và chắc cũng đă kém hay ho hơn là sùng bái lănh tụ".
Thật là lư luận buồn cười. Theo ông Nhị th́ có lẽ khuyết điểm sùng bái cá nhân nặng nhẹ tuỳ theo cấp bực, sùng bái cán bộ cao cấp th́ hay ho hơn sùng bái cán bộ trung cấp v.v… Thật là phê b́nh bệnh sùng bái cá nhân mà bệnh sùng bái cá nhân nó lại tḥ ra ngay từ túi ḿnh. Quan điểm ông đưa ra không khoa học như ông tưởng.
Đấy là về khoa học. Bây giờ về nghệ thuật. Nói về chủ nghĩa lập thể và Picasso, ông Nhị viết: "Trong khoảng 8 năm hoạ sĩ đă tiến nhiều… chúng ta không hoan nghênh phần lập thể hoặc đa đa chủ nghĩa nơi hoạ sĩ là đúng thôi" (thật là oan cho Picasso v́ Picasso có theo chủ nghĩa đa đa bao giờ đâu, có lẽ ông Nhị nên nghiên cứu thêm về văn học và nghệ thuật thế giới hồi đầu thế kỷ XX để nắm vững hơn) "… Và phần tiến bộ của hoạ sĩ vượt khỏi hẳn chủ nghĩa đa đa, như con chim bồ câu hoà b́nh…"
Chết thật! Nói về tác phẩm nghệ thuật của Picasso mà chỉ nhắc đến con chim bồ câu hoà b́nh thôi th́ tai hại quá. Chúng ta không phủ nhận giá trị của con chim bồ câu, nhưng không biết ông Nhị có biết đến bức Guernica hồi chiến tranh Tây Ban Nha và bức Chiến tranh và Hoà b́nh hồi gần đây không? Nó vẫn lập thể đấy ông Nhị ạ! Mà hội hoạ thế giới vẫn công nhận nó, mà Aragon người phụ trách văn nghệ của Đảng Cộng sản Pháp vẫn ca ngợi nó.
Ông Nhị thường hay dẫn Lê-nin, sao ông Nhị không học Lê-nin về thái độ khiêm tốn, tôn trọng tự do sáng tác và nghệ thuật độc đáo, tôn trọng cá tính con người? Ông Nhị đă vội vàng chê trách người ta là quá ư nông nổi…
Ông Nhị sa vào sai lầm đó cũng dễ hiểu. Bởi lập luận như Palisse th́ nguyên nhân chính là v́ Lê-nin là Lê nin và ông Hoàng Xuân Nhị mặc dầu luôn nhắc đến Lê-nin cũng vẫn chỉ là ông Hoàng Xuân Nhị.
Trong một bài báo ngắn tôi đă cố gắng tŕnh bày vài sai lầm hoặc vài thiếu sót của ông Nhị về mặt kiến thức. Tôi xin đề nghị với ông Nhị một điều mà ông Nhị đă từng đề nghị với anh em Nhân văn và Giai phẩm: cố gắng nghiên cứu, suy nghĩ để giữ cho được bản chất trung thực của người trí thức.
(Trích báo Nhân văn số 4 ngày 5-11-1956)
Tiếp chương II, phần II - Phái thanh niên: Minh Hoàng, Phùng Cung, Trần Lê Văn
Minh Hoàng
Minhhoàng tên thật là Vũ Tuyên Hoàng, năm nay mới 28 tuổi, là một sinh viên du học ở Tiệp Khắc về. V́ biết tiếng Tiệp Khắc nên anh được làm thông ngôn cho phái đoàn chuyên viện Tiệp Khắc ở Hà Nội.
V́ thường có dịp đi thăm các xưởng máy mới thành lập với các chuyên viên kỹ thuật Tiệp Khắc, nên anh có dịp quan sát t́nh h́nh sử dụng máy móc của ngoại quốc viện trợ. Anhviết bài "Đống máy" mà chúng tôi trích sau đây để tố cáo đời sống cơ cực của công nhân và thái độ quan liêu của giai cấp lănh đạo.
Đống máy
Trưa nào cũng vậy, cứ lúc vầng thái dương c̣n đang gay gắt cúi gầm mặt phả sức nóng xuống những chiếc ḥm gỗ chồng chất ở trước cửa nhà máy, là y như rằng Thang, chỉ huy trưởng công trường xây dựng nhà máy, cũng đương ở đó, hai ngón tay gơ cốc cốc lên những nắp ván, thành gỗ, hoặc dán mắt vào một khe hở, hoặc ghé mũi qua một lỗ hổng đen ng̣m, hai cánh mũi căng ra khịt khịt. Nắng quá. Nắng như dội lửa. Nắng cháy da cháy thịt.
Những chiếc ḥm gỗ ngất ngưởng bắt đầu rạn nứt.
Cứ cái đà này, những khe rạn nứt kia ngày một toang hoác măi ra, nắng xuyên vào, những lớp sắt bắt đầu hoen rỉ, thế là đi đứt tất cả số máy. Mà đi đứt thật chứ chả chơi đâu! Đứng gió thế này chưa biết chừng mưa ập xuống lúc nào không biết, nước rỏ tong tong vào ḥm, hơi ẩm tha hồ xông lên, luồn vào khắp các ngóc các ngách mà ra sức xoắn xuưt cḥng ghẹo những khối sắt tṛn trĩnh, sáng choang kia, th́ có mà ăn cứt cho giời! Đời thuở nhà ai, vô duyên vô cớ cho khuân ầm ầm một lô một lốc tinh những máy đắt tiền về chất một đồng sù sụ giữa trời nắng chang chang thế kia, rồi phó thác cho Thang với hai bàn tay trắng hoàn toàn cai quản. Nói cho cùng th́ đây cũng là một nhiệm vụ. Một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Thang đă phải cúi rạp ḿnh xuống để đỡ lấy cái nhiệm vụ nặng nề ấy lên vai, như mỗi lần cấp trên trao cho anh bất cứ một nhiệm vụ ǵ. Công việc của Thang đang gặp nhiều khó khăn: cấp trên không chịu xuất tiền mua bạt che máy. Thang giục th́ bảo là: “Nay mai khuân máy vào nhà rồi, mua làm ǵ". Đến lúc Thang hỏi: "Ai khuân? Khuân bằng cách nào?" th́ chỉ ừ ừ ào ào: "Đến lúc đó hẵng hay". Bực dọc, Thang trở nên cáu kỉnh, nét mặt sa x́. Về đến công trường, anh em hỏi, Thang chỉ văng ra một tiếng gọn lỏn: "Trên không cho", rồi lại cúi đầu trầm lặng. Bây giờ Thang đấm bôm bốp lên một cái nắp ván vênh, cảu nhảu một ḿnh: "Mẹ kiếp! Hôm đếch nào cũng hết réo điện thoại lại vác mặt đến, hết vác mặt đến lại réo điện thoại mà ông ấy cứ lờ đi. Khắc phục! Khắc phục cái mẽ ǵ! Cứ nắng, mưa, mưa, nắng ngập ngụa măi thế này, đến lúc máy móc mọc thành cứt sắt cả, ngồi trơ mắt ếch một lũ với nhau, mới chạy đến đây mà khắc phục chắc? Là máu là thịt của nhân dân mà sao các "bố" ấy cứ nhởn nhơ như không, chả thấy xót xa là ǵ, chỉ lúc nào cũng "khắc phục... chịu đựng... thông cảm!" Khổ cái lỗ tai lắm rồi. Xin tiền mua bạt th́ đôi co kỳ kèo từng ngh́n bạc một, mà việc quái ǵ cũng thúc như trống vật ấy, bố thằng nào c̣n biết mở mắt vào đâu. Trăm dâu đổ đầu tằm. Làm thằng cán bộ thời này ai bảo dễ?
Thang miên man theo đuổi ư nghĩ của ḿnh, mặc cho mổ hôi lă chă rơi xuống cổ, xuống ngực. Những ngày mới bắt tay xây dựng công trường, anh chị em công nhân ở đây chưa được cấp trên chăm sóc tới đầy đủ, nên đời sống c̣n eo hẹp, lẻ tẻ, chui rúc; nhưng nào họ có biết cấp trên là ai, chỉ biết nọc Thang ra mà mổ xẻ. Có người phản ứng mạnh, đập bàn đập ghế nói toang toang: "Các anh coi mạng người không bằng cục sắt của các anh phỏng? Con trâu con ḅ ngủ c̣n có chuồng, ăn c̣n có máng, chứ chúng tôi bảy tám mạng người không có nổi miếng đất trong nhà, tối phải cắp chiếu ra ngủ ngoài hiên, ỉa cũng cắp đít ra bờ ruộng, cả tháng không họp lần nào... Thế đấy phỏng?" Mười lăm cây số từ cơ quan đến công trường, chả ngày nào là Thang không chạy long tóc gáy, cứ đến cơ quan là y như rằng: "Đồng chí phải về đả thông cho anh em, nước nhà hiện c̣n gian khổ thiếu thốn nhiều... Phải khắc phục khó khăn! Phải... Phải... Đồng chí hiểu chưa? Khắc phục khó khăn! Khắc... phục... khó khăn...!" Rồi cứ về đến công trường là y như rằng: "Khắc phục cái chó ǵ. Tay rớm máu đau bỏ mẹ đây, găng chả có, cấp trên nào biết?" Những phút xốc nổi, có anh thợ trẻ không gh́m nổi bồng bột ghé sát tai bạn th́ thầm: "Phải 'cự’ một trận nên thân các bố ấy mời chịu để vào lỗ tai". Kỳ thực, lần nào lên gặp ông Bảo, tổng công tŕnh sư của công trường, Thang chẳng phản ảnh cho nát nước ra đấy chứ. Rốt cục đâu vẫn vào đấy. Nhiều khi ông ấy c̣n xạc cho Thang một trận cẩn thận và rồi Thang lủi thủi ra về. Những là "nhu nhược", "dựa dẫm cấp trên", "dốt",... Một lần, hai lần, ba lần, Thang bắt đầu cảm thấy ḿnh hơi khép nép trước khuôn mặt bầu bầu, hai má hơi xị xuống, đôi mắt ti hí và hai càng ria mép vểnh cong luôn động đậy, nổi lên một vẻ lành lạnh, sắc sảo, hà khắc khác thường của người tổng công tŕnh sư ấy. Đứng về danh nghĩa, ông Bảo là người được cơ quan giao phó trông nom toàn bộ công tŕnh xây dựng nhà máy này, tức là người chỉ huy trực tiếp của Thang. Song Thang không hề nhận được một sự chỉ huy nào gọi là có, trái lại càng cảm thấy ngài ngại muốn xa lánh sự chỉ huy ấy.
Thang vẫn đấm bôm bốp lên cái nắp ván vênh, bên tai vẫn văng vẳng giọng nói hùng hồn và không kém phần trống trải của người tổng công tŕnh sư ngồi ở văn pḥng kia, trực tiếp chỉ huy Thang. "Phải khắc phục khó khắn chứ". Nắp ván không suy suyển. Thang ngẩng đầu lên gạt mồ hôi, Bỗng anh thấy từ đằng xa, một chiếc xe com-măng-ca bon bon lầm bụi xốc tới. Nhác trông Thang đă nhận ra ngay đó là xe của ông tổng công tŕnh sư, có lẽ do linh tính báo cho biết trước.
Ông tổng công tŕnh sư khoan thai bước xuống, niềm nở bắt tay Thang. Hai càng ria mép vểnh cong, động đậy.
"Hề hề, máy móc để những đâu, đồng chí?"
Không đợi Thang trả lời, ông ta đă chỉ tay vào đống ḥm gỗ kêu lên:
"Đây à? Chết! Chết! Để thế này đấy hở? Chậc chậc. Rỉ hết, rỉ hết mất!"
"Dạ thưa anh, tôi đă nhiều lần viết đơn xin tiền mua bạt để căng lều che, nhưng anh vẫn bảo là… chưa có. Mà nhà máy th́… chưa khô."
"Phải kiếm cách chứ. Chậc chậc. Sao không chuyển bớt vào những gian đă khô rồi? Sao không dồn bớt nhà ngủ, dành ra một gian xếp bớt những ḥm nhỏ kia vào? Chậc chậc. Rỉ hết. Rỉ hết mất. Đồng chí loan báo anh em đến họp ngay nhé, ta bàn luôn vấn đề này một thể."
"Vâng."
Họ bắt đầu ngồi vào bàn họp. Gần chục cánh tay nhao nhao vung qua đầu:
"Tôi có ư kiến!"
"Ư kiến!"
"Ư kiến!"
"Tôi"
"Tôi xin phát biểu."
Một anh thợ trẻ không đợi chủ toạ chỉ định, nói phăng phăng:
"Ḿnh c̣n lần khân đợi cái quái ǵ nữa. Theo tôi, cứ là khuân. Ǵ th́ ǵ cũng phải khuân. Không có ô-tô th́ có người. Thiếu người th́ phải nặn đủ người mà khuân. Nhất định khuân."
Một anh thợ trẻ khác nhỏm dậy tiếp lời, mặt sần sùi trứng cá:
"Và nếu chưa t́m được con lăn, ta có thể tạm dùng đ̣n bẩy kia mà."
"Máy móc đâu có phải cục sắt cục thép mà cứ một nắng hai sương măi thế này, e sau này chỉ c̣n là một đống sắt mùn đem đánh tà vẹt thôi!"
"Tôi hỏi, đồng chí chỉ huy có thể đứng phơi nắng suốt mười bốn hôm liền không? Huống hồ máy?"
"Đồng chí Thang lănh đạo c̣n lờ mờ lắm. Tôi lấy thí dụ: Như hôm qua họp chuyên môn, anh em đề nghị xin thêm ba mươi dân công khuân máy vào nhà, đồng chí Thang độc bàn rùn: ‘Không có phương tiện. Khiêng như thế xảy ra tai nạn chết người ai chịu trách nhiệm…’ khiến cho công việc cứ đọng lại măi. Đồng chí khăng khăng không chịu khuân, nói là sẽ xin bạt đậy lên nóc máy rồi chờ vài hôm nữa dọn đường cho ô-tô chuyển. Mười bốn hôm rồi, bạt ở đâu ?"
Từ góc giường, một đôi mắt sáng trợn tṛn dưới hàng mi rậm long lên, rọi thẳng vào mắt Thang, gịong nói như liên thanh rào rào nhả đạn:
"Tôi thấy là phải khuân. Khuân ngay chiều nay. Và tôi cũng xin nói toạc ra rằng: lănh đạo như thế th́ đồng chí Thang chưa đủ tư cách lănh đạo chúng ta. Tôi xin hết."
Mắt người than niên đỏ ngầu long lanh. Câu nói ngắn gọn, đập bôm bốp vvào mặt Thang như những cái bạt tai vô h́nh. Từng mạch máu trong cơ thề Thang rung mănh liệt. Vấp phải ánh mắt lầm lầm như tổ lửa của người thanh niên ấy, Thang vội lảng sang ḍ thái độ của ông tổng công tŕnh sư. Ác thay, râu mép ông càng vểnh cong như một dấu chấm hỏi khổng lồ trên vẻ mặt càng lạnh lùng hơn, nghiêm hơn, đáng sợ hơn. Những bàn tay khác lại đă vung lên không ngớt:
“Tôi thêm ư kiến.”
“Ư kiến đây…”
Những tiếng quát hằn học bắt Thang phải giật ḿnh. Sợ? Thang cũng chẳng biết tại sao ḿnh lại sợ? Sợ cái ǵ? Có một thứ đáng sợ hơn cả là những tiếng quát hằn học ấy hôm nay được lọt vào tai một người mang cái chức vụ mà Thang chỉ biết là cấp trên ḿnh. Ông Bảo mà tai tái mặt thế kia là khéo lại có chầu! H́nh như hai tiếng “khắc phục… khắc phục” đă ŕnh sẵn bên tai Thang, suốt đêm ngày ong ong, văng vẳng. Thang liếc càng râu mép một lần nữa.
“Trong việc này…”
Thang giật ḿnh ngẩng đầu lên. À, th́ ra bác thợ tiện phát biểu. Thang trấn tĩnh ngay. Bác là một người đĩnh đạc, đứng đắn, làm nhiều hơn nói, lại hiểu Thang, thường bào chữa cho Thang khi những anh em thợ trẻ hiểu lầm đâm cự Thang. Tỷ dụ trong việc khuân máy vào nhà máy chẳng hạn. Thang không dám để ba bốn mươi người xúm vào kích những ḥm máy khổng lồ từ trên cao trượt xuống bằng ba tấm ván đặt dốc, v́ sáu bảy năm kinh nghiệm khuân vác trên bến Sáu Kho đă dạy anh: Làm thế không xuôi đâu, chết người như bỡn đấy! Bác là người đầu tiên ủng hộ Thang. Thang hồi hộp chờ sự ủng hộ của người thợ cả ấy.
“… Đồng chí Thang chỉ huy c̣n mơ hồ lắm. Đồng chí chuyên gia dặn đi dặn lại là phải xin bạt căng lều che ngay đi, kẻo nắng này mục hết máy đấy. Thế mà đồng chí Thang rặt chạy những chuyện đâu đâu. Cứ như tôi nghĩ th́ ta nên thúc vào đít các ông giữ ‘két’ ấy mới được. Người chỉ huy là người cầm càng, chúi mũi vào một việc là hỏng bét cả.”
Thang điếng người. Thật không ngờ bác thợ tiện cũng “trù” Thang đến như thế.
Ư kiến càng ngày càng chảy theo ḍng liên miên dài vô tận. Người đến lượt nói th́ lại nói một thôi một hồi, thao thao bất tuyệt. Quanh đi quẩn lại chỉ những: “Đồng chí Thang lănh đạo vụng về, thiển cận, nhu nhược”, và cuối cùng là “Yêu cầu xét lại chỉ huy trưởng”. Rơ ràng là Thang không được số đông tin cẩn nữa.
Thang gục đầu đau đớn, máu sôi lên trong tim, những âm thanh lao xao, ù ù, nhức nhối. Bao nhiêu tháng ngày cặm cụi làm việc, dốc hết sức lực ra để sự cặm cụi của ḿnh đem lại nhiều cống hiến hơn nữa cho đất nước kiến thiết, bao nhiêu gian truân cực nhọc đă vượt qua, việc ǵ Thang cũng xông vào làm hăng hái không quản ngại. Việc ǵ người khác kêu khó bỏ dở là Thang lại nhặt lấy làm, làm say mê. Bây giờ chỉ c̣n lại đây, ong ong bên tai Thang, hai chữ “xét lại”. Xét lại ban chỉ huy, xét lại chỉ huy trưởng, xét lại Thang. Có lẽ họ chưa hiểu Thang? Thang nghĩ: người cặm cụi không phải chỉ để phô trương rằng ta cặm cụi đây? Song, Thang vẫn khó hiểu, có khi nào người ta càng cặm cụi, th́ quần chúng lại càng xa lánh người ấy không? Như Thang chẳng hạn. Thế mà chỉ trong việc xin bạt che máy, Thang đă mất hẳn uy tín trong quần chúng.
Thang thở dài. Đôi mắt thiếu ngủ lừ đừ, đỏ ngầu những tia máu. Hội nghị vẫn xôn xao. Những người chưa được nói vẫn nhăn mặt giơ tay xin phát biểu. Ông tổng công tŕnh sư từ năy độc hư hoáy ghi ghi chép chép, thỉnh thoảng liếc sang ban chỉ huy một cái, lại cúi xuống trang sổ, lật đi lật lại tờ giấy, gạch gạch xoá xoá. Hai lỗ mũi không ngừng thả ra hai ḍng khói trắng vằn vèo. Hai càng râu mép đôi cụp xuống cum cúp như hai cái gọng ô. Một chàng thợ trẻ vui tính đă ghi vọi hai càng râu mép ấy trên mảnh giấy trắng. Mải phát biểu quá anh đă bỏ quên mảnh giấy ấy ở giữa bàn. Mấy cậu khác trông thấy tờ tranh bấm nhau cười khúc khích. Bấy giờ ông ta mới găi găi vầng trán hói, giọng khàn khàn chậm răi:
“Đủ rồi đấy. Các đồng chí nói đến thế là đủ. Có phải không? Có nhiều ư kiến hay. Chúng tôi sẽ nghiên cứu. Việc xét lại ban chỉ huy cũng cần nghiên cứu thêm. Việc khuân máy, theo đồng chí chuyên gia cho biết, máy của ta nguy ngập rồi đấy. Hề hề, ông bảo ‘máy mọc râu’ rồi. Tôi thấy là phải khuân. Nhưng khuân bằng cách nào? Một vấn đề. Ai khuân? Hai vấn đề. Khuân đi đâu? Ba vấn đề. Ban năy có đồng chí hơi nóng nảy đ̣i thuê ngay ba bốn chục dân công, tưởng dễ dàng có thể xúm đông xúm đỏ lại ghé vai vào nhấc bổng lên là đi? Không phải. Mà lại tốn kém nữa. Ta thử làm con tính nhẩm xem trong hai ngày, mỗi ngày ba mươi dân công, phải chi hết bao nhiêu tiền?… Hơn bảy vạn.”
Ông tổng công tŕnh sư lắc đầu. “Không. Chi bằng… theo tôi là dựa trên ư kiến của đồng chí chuyên gia bạn th́ ta nên chuyển bằng ô-tô, nghĩa là phải dọn một khúc đường từ đống máy đến cửa nhà máy. Già lắm là mất bốn công dọn đường với tám người bốc vác một buổi sáng là xong. Vả lại máy để ngoài trời đă nửa tháng nay, chậm lại hai ngày cũng chửa thành vấn đề lắm. Như vậy ta không cần mua bạt căng lều che máy nữa. Các đồng chí thấy thế nào?
Một phút suy nghĩ. Cán bộ ngồi im phăng phắc. Măi bác Ba thợ điện mới uể oái cất tiếng:
“Nhưng mà nền xi măng ướt nhẹp, xếp vào đâu? Cứ cái thái độ khăng khăng không cho khuân máy vào nhà của Ban Nhà cửa là tôi tức điên ruột.”
Ông tổng công tŕnh sư tháo cặp kính trắng đặt xuống bàn găi găi vầng trán hói theo một thói quen.
“Không sao, không sao. Tôi hạ lệnh cho các anh cứ vác máy xếp vào những pḥng đă khô đó. Việc nhà nước cả, không cho là cái quái ǵ. Cứ khuân đi. Có thế nào tôi chịu tất."
"Thế th́ được"
"Được mê đi chứ lỵ."
"Ta khuân ngay chiều nay chứ đồng chí?"
Ông tổng công tŕnh sư nghiêm nét mặt đổi giọng:
"Công tŕnh xây dựng nhà máy của chúng ta đang gặp nhiều khó khăn trắc trở. Theo tôi và dựa trên ư kiến các đồng chí chuyên gia, th́ lực lượng lănh đạo của ta quả là non. Có thể nói chúng ta chưa biết lănh đạo. Tôi cũng thế. Ban chỉ huy công trường bảo thủ dựa dẫm vào cấp trên. Chúng ta c̣n vấp, c̣n ỳ ạch, c̣n mệt nhiều. Song càng vấp, càng thất bại, ta càng phải tin vào ḿnh, tin người lănh đạo, tin Đảng. Cấp trên đề ra phương án tác nghiệp, thiết kế tiến độ thi công, để chúng ta dựa theo quy tŕnh và đơn phái công làm đúng quy cách, chứ không phải đế chúng ta ỷ vào thiết kế đó không chịu động năo. Có thế thôi. Các anh làm được không?”
Có những khuôn mặt đực ra như vịt nghe sấm. Những khuôn mặt sạm cháy chất phác cố căng óc ra suy nghĩ về những cái chữ “quy tŕnh, tiến độ thi công” mơ hồ như lạc vào chốn nào xa lạ. Đáng lạ thay họ vẫn đồng thanh trả lời ông tổng công tŕnh sư rằng:
“Làm được!”
Hai chữ “làm được” đặt phịch xuống óc Thang như một mồi lửa đốt bùng lớp không khí bị ép đến cao độ. Những câu hỏi theo nhau ùa ra trong óc Thang: “Ai làm? Làm từ đâu? Làm bằng cách nào?” Rồi Thang tự kết luận: không làm được! Thang nghĩ, ông Bảo chỉ được khoa bẻm mép. Nói như thánh tướng. Hơi tư là đồng chí bạn nói thế này, đồng chí bạn nói thế kia. Mai có réo điện thoại lên xin bạt lại “đồng chí thông cảm” cho mà xem. Trăm tội đổ cho nợ, lúc ấy làm thế nào? Giơ đầu chịu lỗi cả với cấp trên ư? Không. Nếu vậy th́ hèn quá. Thang toan giơ tay phân trần những khó khăn cụ thể của công việc với cấp trên trước hội nghị, nhưng h́nh như cánh tay Thang nặng nề đến nỗi không nhắc lên nổi. Phải biết rằng bao nhiêu cái mũ “nhu nhược”, “hoài nghi lực lượng quần chúng”, “không biết lănh đạo”, “dốt”, “dựa dẫm cấp trên”… lúc nào cũng lăm le chực úp xuống đầu Thang. Thang lúng túng. Hai ḷng trắng mắt đỏ ngàu những tia máu đảo đi đảo lại, hớt hải như t́m kiếm một cái ǵ. Hay là Thang muốn t́m đường chạy ra khỏi hội nghị? Không. Thang đă giơ thẳng cánh tay:
“Tôi… tôi xin có ư… kiến”, Thang ấp úng. “Theo tôi, dọn con đường từ đống máy vào kho ít ra cũng phải mười hôm. Trời lại sắp mưa… Và không thể dùng hai bàn tay không lăn ập những thùng tố lô như thế xuống đất được đâu. Phải làm cái giá ba chân cất lên như cần trục cất nhịp cầu ấy mới đỡ nguy hiểm. Làm giá ba chân th́ phải mất tám ngày. Trời lại sắp mưa…. Không! Không thể lần khân nấn ná măi…”
Từng câu từng câu nói như trút cho Thang thêm nghị lực. Giọng điệu càng trở nên cả quyết:
“Tôi yêu cầu giải quyết ngay vấn đề bạt. Bằng không, tôi xin trao lại hoàn toàn trách nhiệm về số máy này cho cấp trên. Tôi không thể hứa hăo. Tôi không thể nhắm mắt làm những việc tôi không muốn làm…. Tôi yêu cầu… Tôi… hết!”
Mặt người chỉ huy trưởng đỏ gay, bừng bừng. Thang h́nh dung lại vẻ mặt đồng chí bạn không giữ nổi b́nh tĩnh khi đứng nh́n đống máy rạn nứt dưới trời nắng chang chang, nói với Thang: “Nếu anh có một cái ra-đi-ô tốt, anh có cam tâm quẳng nó ở một xó vuờn kia không?” Và ông vỗ vai Thang: “Anh Thang ạ, máy của chúng ḿnh c̣n tinh vi hơn cá những cái ra-đi-ô tinh vi ấy chứ?” Thang lạnh người. Thế mà bây giờ ông tổng công tŕnh sư lại hạ lệnh: “Cứ để đấy dăm bảy hôm nữa!”
Buổi họp vẫn ồn ào.
Có tiếng động cơ ŕ ŕ xa xa, rơ dần, rồi tiếng c̣i toe toe thét lên ba tiếng. Một chiếc xe ô-tô bóng lộn chạy thẳng vào địa hạt công trường, dừng lại trước cửa nhà máy. Ông tổng công tŕnh sư xin phép hội nghị ra yết kiến các đồng chí chuyên gia về vấn đề này. Cái cặp da đen dày cồm cộm bây giờ lại dày thêm một mớ giấy ghi chép t́nh h́nh công trường trong suốt ba tháng vừa qua. Ông sửa lại ngay ngắn chiếc mục kỉnh cho hơi sệ xuống sống mũi, châm một điếu thuốc, gật gật đầu chào mọi người rồi ra đi.
Ba bốn đồng chí chuyên gia đứng nh́n đống máy, chỉ trỏ cười nói líu lô. Thấy ông Bảo và Thang ra, họ niềm nở đi lại bắt tay, bập bẹ nói bằng tiếng Việt Nam. Một đồng chí vỗ vai ông Bảo, cố sức vận dụng tiếng Việt Nam, vừa nói vừa khua tay ra hiệu.
Không cần qua phiên dịch Thang cũng hiểu được ư nghĩa của câu nói. Vẫn những câu nói hôm nọ lại lạo xạo bên tai Thang: “Khuân chứ?”. Câu hỏi sao mà oái oăm. Những cái thùng tố lô ấy ba bốn chục người xúm vào đă chắc khuân nổi. Vô phúc phải cái ḥm đầu nặng đầu nhẹ, nó lộn tùng phèo một cái th́ chẳng những vỡ máy mà c̣n đi đứt bảy tám nhân mạng như chơi. Nhưng vẫn không thấy ông tổng công tŕnh sư nói lại hay bàn bạc ǵ cả. Ông chỉ gật đầu. Và rồi Thang, người chỉ huy công trường, vẫn cứ phải lănh đạo một công việc mà theo ư Thang việc đó nhất định không thành. Thang lại thấy những làn gai ốc nổi dựng lên ở sau gáy, những thớ thịt run bắn lên, như sắp phải làm một công việc tội lỗi, và, đôi mắt như tung toé những đốm lửa nhảy nhót, v́ tức giận. Thang ngửa cổ, xoáy mắt vào những khe ḥm gỗ hở nứt toác và những cái nắp cong tớn như cặp môi bĩu ra sều sệu mai mỉa. Những miếng nước dăi cứ ừng ực trong cổ Thang.
Sao những lớp sơn mịn màng óng mượt kia bỗng chốc trở nên mốc rêu mốc thếch thế kia?
Sao ta có thể bàng quan khi thùng máy yêu quư, máu thịt của ta sắp sửa nát rỉ ra như bùn đất được?
Sao?
Choáng váng cả người, Thang hấp tấp chạy vào nhà máy t́m ông tổng công tŕnh sư để tŕnh bày ư kiến dựng giá ba chân và yêu cầu xin bạt của ḿnh. Bước chân Thang lạo xạo đạp trên cát sỏi…
Nhưng rồi những bước chân hăm hở ấy bỗng như vấp phải một bức tường vô h́nh, đứng sững lại, ngẩn ngơ: cánh cửa ô-tô bắt đầu khép lại, liền với tiếng rú ga ù ù, tiếng động cơ bành bạch. Xe “pho” đi trước, xe “com-măng-ca” rượt theo, nối đuôi nhau vun vút ra khỏi công trường. Bụi lầm xoáy một ṿng đỏ lự xoắn theo đít xe. Thang rút mùi xoa đắp vào mũi che bụi, thở khỏ khè.
Một đám mây đen ở đâu lù lù ập đến. Gío thổi lên lồng lộng. Những tầu lá chuối điên cuồng quật lên quật xuống rối tít như những bàn tay xoè ra khua giữa không trung. Một tia chớp dài nhằng loé lên ở tận chân trời xa tít, điểm theo những tràng sấm ù ù có lúc sôi lên ùng ục. Thang có cảm giác đó là những tràng liên thanh đang xả đạn không từ một xó xỉnh nào trên khắp cả công trường. Hạt mưa bắt đầu quất lên mái nhà và nóc ḥm lộp độp. Những nắp ván vênh vổng ra như những cặp môi nhăn nhó giữa cơn cuồng phong khủng khiếp và trong làn mưa xối xả, phũ phàng.
Những hạt mưa quất đen đét lên mặt Thang.
“Máy! Máy ôi!” Người chỉ huy trưởng buột miệng thốt lên. “Anh em ơi khuân máy! Khuân máy đi các đồng chí ơi!”
Nhưng mà ai khuân? Khuân vào đâu bây giờ?
Dưới làn mưa, người chỉ huy trưởng cung cúc chạy về nhà, lột cái áo mưa của ḿnh, lại cung cúc chạy ra hối hả đắp lên thân máy.
Mưa vẫn xối xả, phũ phàng.
(Trích báo Văn số 34 ngày 27-12-57)
*
Phùng Cung
Phùng Cung là một văn sĩ trẻ tuổi mới xuất hiện. Có lẽ bài "Con ngựa già của Chúa Trịnh” mà chúng tôi trích sau đây là bài đầu tiên có giá trị trong các tác phẩm của ông.
Bài này do ông viết, nhưng Hoàng Cầm có giúp thêm ư kiến và sửa chữa lời văn. Chúng tôi biết như vậy v́ trong bản thú tội của Hoàng Cầm có một đoạn như sau: "Tôi đi động viên Phùng Cung viết truyện, và khi Phùng Cung viết 'Con ngựa già của Chúa Trịnh’ đưa tôi xem bản thảo đầu tiên, tôi có góp ư kiến rào việc diễn tả: 'Chỗ con ngựa vào cung vua, nên tả cho đáng ghét hơn’. Khi Phùng Cung đưa bản thảo lần thứ hai, tôi chữa văn và thêm nhiều câu diễn tả cảnh đẹp, diễn tả con ngựa càng ngày càng béo..."
Ngụ ư của bài này là đả kích bọn văn sĩ trước kia có tài như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Cù Huy Cận, chỉ v́ ham miếng đỉnh chung mà cam tâm làm tôi mọi cho chế độ và đời sống tôi mọi đă tiêu diệt hết tài năng trước kia của bọn họ. Cứ xét thấy khả năng văn nghệ của mấy ông Xuân Diệu, Hoài Thanh, Cù Huy Cận, lâu nay gần như mất hẳn, chúng ta thấy lời phê b́nh của tác giả quả có đúng. Sự thật th́ bất cứ nhà văn nào đă dùng ng̣i bút ca tụng chế độ để mong vinh thân ph́ gia th́ văn chương của họ không thể nào hay được.
Con ngựa già của chúa Trịnh
Phương Lộ là một làng nhỏ hẻo lánh, nằm lọt trong một thung lũng phía Nam chân núi Tản, cách chợ Đan Lâm chừng bẩy dặm. Từ Đan Lâm vào Phương Lộ, trên con đường đất ṃn, ngoằn ngoèo men theo ḍng suối phải qua một chiếc cầu bằng đá vắt ngang suối, bên cạnh một ngôi đền nhỏ. Trong làng có lăo già họ Nông, hai đời chuyên nghề buôn ngựa. Ông cụ sinh ra lăo ngày trước là mă phu của triều Trần; khi măn lính, trở về làng làm nghề buôn ngựa. Năm mười bốn tuổi, lăo đă theo cha ra chợ Đan Lâm học nghề. Lớn lên, lăo đă nổi tiếng khắp vùng về môn xem tướng ngựa.
Lăo Nông có con ngựa trắng, ḿnh kim, lông trắng như bông, lại lấp lánh như có nạm kim cương, nên lăo đặt tên nó là Kim Bông. Lăo thường khoe con ngựa này lăo t́m mua được từ lúc nó chưa phát nha ở tận miền Nước Hai. Lăo đă từng đi nhiều nơi mà chưa thấy có con nào tướng phách toàn mỹ như nó; có sức vượt hàng ngh́n dặm với cái thế "cao đầu phóng vĩ" của ṇi ngựa chiến.
Từ khi con Kim Bông bắc yên, ngày ngày lăo cưỡi nó đi các nơi để buôn ngựa. Hàng năm những cuộc đua ngựa miền này, không cuộc đua nào vắng lăo. Không cuộc đua nào con Kim Bông không đoạt giải nhất. Từ đó tiếng con ngựa hay, mỗi ngày được truyền rộng ra khắp nơi và lọt đến tai Chúa Trịnh.
Thuở ấy Chúa Trịnh đang cần tuyển mộ một đoàn kỵ binh để b́nh định đất nước, nên liền ủy một viên quan hầu cận, t́m đến tận nơi hỏi mua.
Lăo Nông tuy luyến tiếc con Kim Bông, nhưng nghĩ đến cái tài của nó lăo sẵn sàng trao lại cho viên quan mà rằng: "Con ngựa của bần dân thuộc loại quư mă, là vật, nhưng nó hiểu tiếng người. Bấy lâu nay nó sống với bần dân ở nơi sơn lâm hẻo lánh này, ăn cỏ núi, uống nước suối, tài nó có mà không được dùng, thật ḷng bần dân cũng tiếc cho đời nó lắm! Nay chúa công lại cho vời nó về chốn triều đ́nh để dùng nó xông pha chiến trận, bần dân cũng được hả dạ v́ đă làm vừa ư con quư mă và cũng bơ công nuôi nấng tập luyện". Lăo Nông miệng nói tay trao cương cho viên quan. Con Kim Bông cũng dỏng hai tai gật gật cái đầu như biết ḿnh sắp được từ giă cảnh sơn lâm hiu quạnh, để về vùng vẫy chốn kinh thành.
Trên đường về, viên quan hết lời khen ngợi con quư mă; Kim Bông phi như gió, giả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đă về đến Thăng Long.
Viên quan vào tâu với Chúa Trịnh, hắn tả lại tướng phách cùng nước bay, nước kiệu của con ngựa. Chúa Trịnh lấy làm toại nguyện, và truyền cho các tướng tá chọn ngày mở hội đua để kén ngựa chiến.
Một buổi sáng, trên các ngả đường, nhân dân các vùng lân cận nghe tin, lũ lượt đổ về xem như nước chảy. Hàng ngh́n ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tề chỉnh bên cạnh những kỵ binh nai nịt gọn gàng. Con Kim Bông ngơ ngác trước quang cảnh mới lạ, ḷng nó rộn ràng, mắt nó đăm đăm nh́n thẳng phía cuối đua trường như để dương oai với đồng loại, nó nín hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh nghe sởn óc. Người kỵ binh đứng bên cạnh, bỗng né sang một bên, lao đao tưởng ngă. Bọn ngựa trố mắt nh́n Kim Bông và cũng cất tiếng hí theo.
Sau ba hồi trống lệnh, các kỵ binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch. Đoàn ngựa lồng lên trong bụi lốc mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía như mưa rào, nhân dân reo ḥ vang dậy. Chỉ trong chớp mắt, con Kim Bông đă vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất. Ở phía xa người ta nh́n nó chỉ c̣n thấy một bóng trắng lấp lánh, oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng uốn khúc. Nó bay tới phía nào là tiếng reo ḥ phía ấy vang lên không ngớt. Hàng loạt ngựa thấy sức ḿnh không sánh kịp con Kim Bông, bỏ dở cuộc đua, đứng dừng cả lại, hí hí nh́n theo cái bóng trắng nhỏ dần trong bụi nắng loà của kinh thành. Khi dứt hồi trống, con Kim Bông dừng lại, tai nó ù đi v́ tiếng reo ḥ ca ngợi của xung quanh, nó càng nức ḷng, chân nó giậm xuống đất cồm cộp như muốn bay thêm hàng ngh́n ṿng nữa mới phỉ sức.
Khi tiếng trống lệnh chuyển sang phi nước kiệu, con Kim Bông rời vạch một cái, là bốn chân nó băm liền trên mặt đất như guồng nước, tiếng chân vỗ rồn ră như mơ đổ hồi, đuôi trải ra trắng như một ḍng nước chảy xối. Nó chạy hết một ṿng mà trên lưng nó một kỵ binh bưng một bát nước đầy, bát nước không sánh ra ngoài một giọt.
Lúc này nó thấy tất cả đua trường đều hướng nh́n về nó, trầm trồ ca ngợi tài nó. Nó lại hí lên một tiếng thật dài kiêu hănh.
Sau cuộc đua này, nó được cả đua trường tặng danh là "Bạch long Thiên lư mă" và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều đ́nh. Cho nên chẳng bao lâu các đồng loại của nó cũng trở thành những chiến mă lành nghề. Và từ đó nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sanh ra tử. Nó nhớ nhất là trận quần chiến bên bờ sông Gianh. Thế địch mạnh, quân địch đă thắt ṿng quanh nó, nhiều đồng loại nó đă phơi thây. Nó gắng hết sức mạnh, vùng lên như hổ đói, phá vỡ ṿng vây, hạ thủ tướng địch, giành toàn thắng. Sau trận này, nó được Chúa Trịnh chọn làm mă lệnh và được vào ở trong phủ Chúa.
Chúa Trịnh truyền cho quân lính, xây một chiếc hồ bán nguyệt, phía Nam vườn Thượng uyển, để làm chỗ tắm cho mă lệnh, và cử hai mươi mă phu ngày ngày trong nom săn sóc ngựa quư của Chúa.
Lần đầu tiên con "Thiên lư" đặt chân tới Hoàng cung. Trước mặt nó toàn những lâu đài nguy nga tráng lệ, trông phía nào cũng thấy vàng son chói lọi. Dưới chân nó toàn những đá xanh nhẵn bóng. Những cảnh vật mới lạ khiến nó sợ hăi. Nó toát mồ hôi, run lên cầm cập, khi đặt chân lên những phiến đá hoa, được dịp đưa mắt nh́n hai hàng thị vệ tả hữu, đứng cắp gươm trần bên hành lang. Nó rụt rè, co cổ lại khi mă phu dắt nó vào mă đài, nó tưởng mă phu đưa nhầm nó vào nơi ở của một tướng lĩnh.
Con Thiên lư được vào ngự hẳn trong mă đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Mỗi buổi chiều nó phải đứng một chỗ để dăm bảy mă phu mang kéo tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôi. Nó càng cảm thấy bận bịu, tù cẳng. Nó bắt đầu mơ ước những cảnh sống khi c̣n ở bên ngoài cung cấm: "Ôi chao! C̣n đâu những buổi sáng ta cùng đồng loại trên đua trường hàng vạn người ca ngợi tài ba? Với cái sức khỏe bay hàng ngh́n dặm, với cái thế "cao đầu phóng vĩ" hùng dũng như ta, đă bao phen sông pha trận tuyến, đời ta tù túng như thế này th́ ta sống sao được? Sao Chúa không cho ta được đem tài ra vùng vẫy trên chiến trường? Hay Chúa đă quên ta là kẻ có tài?".
Một buổi sáng, nó đang đứng trong mă đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài bức thành cao ngất, nó bỗng thấy một mă phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến giắt nó ra đứng dưới mái hiên, phía tả hành lang. Nó sửng sốt, tưởng phen này lại được xung trận. Một mă phu khác trải lên lưng nó một tấm gấm điều, xung quanh thêu kim tuyến. Nó ngoái cổ lại, bỗng thấy ḿnh đẹp như phượng hoàng. Hai mă phu nữa mang đến đàng sau nó một vật ǵ vuông vắn giống như một nhà lầu, gấm vóc xanh đỏ phủ quanh. Một mă phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quư giá và đẹp đẽ làm sao? Đời nó chưa từng thấy. Hàm thiếc bằng bạc: hai đầu nạm vàng sáng lóe. Nó sung sướng gục đầu xuống nạp hàm thiếc một cách ngoan ngoăn. Khi mă phu buông tay: lạ lùng lắm, nó thấy hai vật ǵ to bằng hai cái lá đa che ngang hai bên mắt khiến nó chỉ có thể nh́n thẳng phía trước mà thôi. Rồi một mă phu đẩy nó lùi lại, đứng giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng. Ủa, lạ quá chừng, những cái ǵ mà đẹp thế này? Ta sẽ làm ǵ đây? Nó rùng ḿnh, thấy hănh diện như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước.
Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngóc được lên th́ dây cương đă gh́m thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bềnh bồng nhẹ đi một chút, nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống. Nó phải cố lấy gân bốn bó mới giữ được cái thế đứng đường bệ. Rồi bỗng có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ đi. Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt đá, nó mới biết là nó đang kéo xe cho Chúa.
Nó gục đầu xuống lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt nó lờ đờ nh́n thẳng, mỏi mệt, chán ngán.
Nhưng chẳng bao lâu, những chậu thóc trộn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân tử vừa thơm vừa ṛn sậm sựt đă cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên lư dần dần quen với chức vị. Nó thấy ḿnh phải pḥ Chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên lư mă.
Trong những buổi chầu nó thấy hàng trăm đôi hia, ủng và đủ các loại ống quần, tà áo, văn có, vơ có, lướt đi lướt lại trước mắt, nó càng thấy chức vị nó to tát ghê gớm! Chốn thâm nghiêm cung cấm nào mà chân nó không bước tới? Có việc quốc sự triều đ́nh nào vắng mặt nó? Nó đi đến đâu cũng thấy người chắp tay khấu đầu tung hô vạn tuế. Đời nó quả là đă sang một bước đường hiển hách, hơn tất cả những lúc oai phong chiếm giải đầu trên các trường đua.
Một buổi chiều, trên cổng thành đă nổi trống thu không, mặt trời đă khuất hẳn mái lầu tây, mặt hồ đă gợn lên một mầu đỏ nhạt của giáng chiều, nó sung sướng kéo Chúa cùng bà phi đi ngoạn cảnh. Đi chẳng cần đến đâu, nó được đôi lúc thong dong đứng lại, soi bóng dưới nước. Chà! Mặt nh́n mặt, ta uy nghi lộng lẫy đến thế này ư? Ḱa hai lá đa che mặt ta có khác ǵ hai cánh mũ của vị đại thần? Hai càng gỗ khác ǵ tay ngai ngày ngày Chúa vẫn ngự! Phải chăng giời đă an bài cho số phận ta! Nó càng nh́n càng thấy bóng nó dưới nước to ra, to măi, uy nghi trong sắc nước lẫn sắc trời.
Nó đang say sưa ngắm bóng bỗng dây cương lại giật mạnh. Mép nó găng thẳng ra, nó lại bắt đầu cất bước. Xe tới đầu vườn Thượng uyển, có lệnh dừng lại. Tức th́ hai bên tay ngai d́m mạnh cổ nó xuống rồi lại bềnh lên nhẹ bỗng. Nó vừa ngóc đầu lên th́ một luồng gió mát, lướt đưa vào lỗ mũi nó những hương thơm ngào ngạt của muôn hoa. Nó phồng hai cánh mũi, hớn mặt lên th́ gấu xiêm mầu thiên thanh của bà phi phất nhẹ qua mặt nó. Nó cảm thấy một vị thơm đầm đậm. Nó đưa mắt nh́n theo chỉ thấy từ ngang lưng trở xuống của Chúa và bà phi. Gió hồ lồng vào vạt áo Chúa và dải xiêm bà phi, làm căng phồng lên và đú đởn múa may trước mặt nó. Nó cảm động, đứng ngẩn ra, hai mắt dương thao láo: "Chà! Thật là ngoạn mục! Ôi! Giời đă ban cho ta đôi nhăn ngọc để riêng ta được nh́n những vưu vật của trần gian, ta đội ơn Trời".
Càng nh́n theo càng thấy ngoạn mục, nó càng thấy hối hận với những sự việc ngày trước. Nó giậm chân xuống đất cộp cộp, mắt nó nhắm lại, đầu nó đập vào hai càng xe như để nhận lấy một h́nh phạt xứng đáng với tội lỗi của ḿnh. Vừa đập đầu vừa kể tội: "Tội thứ nhất là khi chưa vào phủ Chúa ta đă để cho Chúa và bà phi phải vất vả khó nhọc biết chừng nào! Tội thứ hai: Sao ta dám đem một việc nhỏ bé tầm thường so sánh với chức mă lệnh đáng tôn kính của Chúa đă ban cho như thế chẳng phải trước đây ta đă phụ ơn Chúa hay sao? Tội ta thật là đáng phanh thây mới phải. Nếu ta chỉ nghĩ đến cuộc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến những lúc cùng đồng loại đua tranh, th́ lấy ai để cùng Chúa gánh vác giang sơn, làm cho trăm họ được an cư lạc nghiệp! Ơn hưởng lộc Chúa, sức ta ngày một cường tráng, th́ cái vượt hàng ngàn dặm đối với ta có ǵ đáng kể". [1]
Sống một cuộc đời lặng lẽ trong phủ Chúa, bằng sự kiêu hănh với chức mă lệnh, chẳng bao lâu trên bờm, mao con Thiên lư đă trồi lên một lớp lông vàng oè. Trước mă đài nó đă nh́n thấy những cây cảnh bao lần đổi lá. Nhưng nó không biết đời nó đă chuyển dần về già. Tài nó cũng đă ṃn mỏi. Nó vẫn tưởng nó c̣n sức chạy dư ngàn dặm!
Có một buổi sáng, nó được kéo xe để Chúa cùng bà phi ra ngoạn cảnh ngoại thành. Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoài. Nó ước ao được thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nh́n thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi: "Làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này!". Đi được một quăng nó nh́n lên phía trên, lại dừng lại tự hỏi: "Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rơ ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ lại nhỏ bằng con đường ta đang đi là nghĩa làm sao?". Tất cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nh́n cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một con đường thẳng. Rồi cây cỏ, núi đồi cho đến mầu giời xanh cũng chỉ thu nhỏ lại là một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nh́n được một chiều.
... Xe đi măi. Lúc gần đến một thao trường, nó bỗng nghe tiếng hí của đồng loại. Tự dưng nó hớn hở: "Chắc các chú em bao lâu không gặp ta, sẽ khấu đầu chúc tụng". Vừa nghĩ nó vừa cất nhanh bước. Xe vừa tới th́ đồng loại nó cũng nhảy bổ đến trước mặt nó, miệng hí chân cất tiền, cất hậu như chê bai nước đi và tướng mạo của nó. Nó tím gan, hí lên một tiếng như để quở mắng: "Bọn nhăi kia, tội các chú đáng chặt đầu làm lệnh! Các chú không biết ta là ai ư? Đă quên tài của anh đấy rồi sao?". Tất cả đồng loại nó, nhe cả răng, và í í lại trong cổ: "Chúng tôi biết bác lắm, biết bác ngày xưa là kẻ có tài nhưng bây giờ chúng em nh́n qua đă thấy bật cười về tài của bác. Thôi bác ạ! Đừng khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa! Rời ra th́ thóc kia trộn mật ai ăn?".
Con Thiên lư uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỷ sức, nhưng trên xe lại giật cương. Nó bực lắm nhưng cũng phải cắm đầu đi. Vừa đi vừa nghĩ: "Những kẻ ngu si hèn mạt kia, ở đời này bay chỉ nh́n có một chiều. Bay không biết được ta làm đây dễ mấy kẻ đă làm được! Sức bay được mấy nả mà vội kiêu ngạo, bay chạy được vài dặm đă phờ mao sều dăi. Rồi đây ta sẽ cho bay biết tài ta!".
Và h́nh ảnh một trường đua gió lộng, bụi cuốn, cờ bay, bỗng hiện ra, như thách thức. Con Thiên lư mă vẫn tin ḿnh c̣n đủ sức phi lên hàng đầu.
Sự đời biến đổi. Sau đó ít lâu, Chúa Trịnh được tin nhiều tướng tá thua trận ở bên bờ sông Gianh. Chúa định thân chinh đi, nên truyền cho viên tướng trông coi về kỵ binh mang mă lệnh ra đua trường để ôn dượt trước khi xung trận. Viên tướng liền cúi đầu tâu lại: "Muôn tâu Chúa công, hiện nay trong triều đ́nh thiếu ǵ ngựa chiến có dư sức vượt hàng ngh́n dặm, và đă từng dự trên dưới một trăm trận. Xin Chúa công để tiểu tướng được chọn dâng một con mă chiến có sức khỏe vào bực nhất. C̣n như con mă lệnh, cứ nên để nó kéo xe; v́ từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn th́ nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước. Nếu Chúa công dùng con mă lệnh để ra trận, tiểu tướng áy náy lắm!".
Nghe tâu tŕnh, Chúa Trịnh cũng thấy viên tướng là có lư, nhưng Chúa vẫn c̣n tin ở tài con mă lệnh, Chúa bèn hạ lệnh cho mang con mă lệnh ra tỉ sức cùng các chiến mă khác để tiện bề kén chọn.
Con Thiên lư mă được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cái lá đa đă được cất đi. Nó bàng hoàng nh́n giời, nh́n đất, mắt nó hoa hoa, đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố dóng hai tai, tóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của nó vừa ré lên th́ cụt lủn như vật ǵ nút lấy mơm. Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đă lồng lên, tức th́ các đồng loại của nó cũng bỏ vạch rượt theo. Tiếng trống liên hồi, con Thiên lư càng cắm cổ chạy. Nó đă tưởng ḿnh thắng cuộc, nó đắc chí ngoáy đầu lại th́ bọn ngựa chiến đă tới sát đàng sau. Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh. Nó ngă vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng: "Tiếng tăm lừng lẫy của ta chỉ có thể chết ở chiến trường. Nhưng, than ôi! Băi cỏ này cũng là băi chiến trường, chết thế này cũng là chết v́ giang sơn, v́ Chúa!".
Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế "cao đầu phóng vĩ".
Hà Nội, 10-1956
(Trích báo Nhân văn số 4)
*
Trần Lê Văn
Trần Lê Văn, năm nay 37 tuổi, quê ở Nam Định, là cháu nhà văn Trần Kế Xương, tức Tú Xương. Ông từng làm giáo học ở Thuận Châu thuộc Sơn La, và nhân dịp đó lấy một cô gái Thái làm vợ. Trong thời gian kháng chiến, ông dạy học ở một trường tư thục, trong tỉnh Thanh Hoá. V́ bà vợ là người thiểu số, không đủ khả năng để buôn bán dưới đồng bằng, nên gia đ́nh ông chỉ sống vỏn vẹn bằng số lương hằng tháng của ông là gần một tạ gạo. V́ vậy nên suốt trong thời gian kháng chiến ông rất cơ cực. Sự nghèo túng của ông đă trở thành thành ngữ.
Tính nết ông rất hiền lành. Ông ưa chịu đựng hơn là phản kháng. Giọng văn của ông lúc nào cũng có vẻ "thủ thỉ".
Tuy vậy gần đây, chịu khhông nổi, ông có viết mấy bài đả kích chế độ một cách kịch liệt, đăng trong Nhân văn và Giai phẩm.
Chúng tôi chọn bài "Bức thư gửi một người bạn cũ" để giới thiệu ông v́ bài này có nhiều tính chất văn nghệ hơn những bài tham luận về chính trị.
Trong bài "Bức thư gửi một người bạn cũ" ông đă dùng một giọng văn nhẹ nhàng để tả một cán bộ cộng sản điển h́nh, đồng thời ông cũng phơi bày những nỗi khổ cực ông đă phải chịu đựng trong suốt chín mười năm.
Chắc chắn là ông không tránh khỏi cảnh tù đày mạn rừng núi.
Bức thư gửi một người bạn cũ
Hà Nội tháng 8 năm 1956
Thân gửi anh Nguyễn Vinh Hoa
Tiết trời vừa mới vào thu. Tối nay lại là tối thứ bảy. Tôi định ngồi vẩn vơ trên ghế công cộng, thưởng thức cảnh ái t́nh… của người khác và trở về làm thơ ca ngợi cuộc đời. Thế mà, chẳng biết nghĩ ngợi ra sao, tôi rảo cẳng về nhà cặm cụi ngồi trong gian pḥng vừa hẹp vừa thấp, không khí oi bức như trong một cái hầm, viết thư này cho anh. Bức thư này, tôi băn khoăn đă lâu lắm, hôm nay mới hạ bút viết. Những điều sắp nói với anh, tôi đă định tŕnh bày dưới một h́nh thức khác: thơ ngụ ngôn kiểu La Phông-ten hay chuyện cổ tích kiểu An-đéc-sen. Tôi không có tài làm thơ ngụ ngôn hay viết chuyện cổ tích. Vả tôi nghĩ: viết như vậy có lẽ sẽ là một thái độ úp mở. Tính rụt rè đă từng làm cho tôi có thái độ úp mở đó. Chính anh và một số ít người giống anh đă tạo cho tôi cái tính rụt rè đáng bỉ ấy. Tôi không giận anh nữa đâu. Lúc này tôi thấy ḷng ḿnh b́nh tĩnh như mặt biển sau trận băo. Ví như vậy chắc anh thấy là quá đáng v́ mấy ai ở đời dám ví ḷng ḿnh như biển cả. Và chính biển cả, ngay giữa lúc mặt nó b́nh tĩnh nhất, biết đâu ḷng nó chẳng quay cuồng những luồng sóng ngầm!
Tôi biết do thói quen lâu năm, anh sẽ nhíu đôi mày, nghiêm sắc mặt, nhô g̣ má lên để làm cho tôi “biết điều hơn”, nghĩa là co rúm người lại chui vào cái vỏ như một con ốc sên hoặc anh sẽ ban tặng một cái cười rất có nghiên cứu, một cái cười khoan dung độ lượng để tôi thấy “mọi sự đều vui vẻ” và đêm ngủ khỏi giật ḿnh.
Thực ra, hai vẻ mặt khác nhau của anh đều đưa nhầm tới một kết quả là làm cho người khác giấu diếm ư kiến thực của ḿnh. Một nhà văn bi quan nào của thời xưa có nói: “Ngôn ngữ vốn dùng để che đậy những ư nghĩ thực”. Tôi không cho câu ấy là đúng, nhất là trong thời đại của chúng ta. Người ta lúc c̣n sống cạnh nhau nếu không nói thật với nhau th́ đợi đến cuộc Phán xét Cuối cùng mới nói thật hay sao?
Trải bao thế kỷ, nhất là trong cái phần đă qua của thế kỷ này, máu đă đổ nhiều, xương đă rơi nhiều cũng chỉ là để đưa tới một cuộc sống thật, với những con người thật biết cảm nghĩ thật.
Anh định góp sức với loài người tạo nên cuộc sống thật, sao anh lại cứ làm một người giả trong cái xă hội đang hy sinh nhiều để vươn mạnh lên cái thật này?
Thời cũ, có những kẻ coi cuộc đời như một hí trường, rắp tâm đội mũ đeo râu chứ không thích làm một vai chạy hiệu. Lại có những kẻ coi cuộc đời như canh bạc, muốn xông vào thi thố những ngón xảo trá để ăn to. Thậm chí có kẻ quan niệm cuộc sống là một thương trường. Từ những cái rẻ giá nhất như áo cũ, đồng nát cho đến những cái cao siêu nhất như đạo lư của các đấng triết nhân, bọn họ đều có thể dùng để làm ra lợi lộc được cả. Tôi nói cho văn vẻ theo kiểu Vũ Trọng Phụng thế thôi, chứ chẳng có dụng tâm ám chỉ ǵ anh v́ anh cũng không đến nỗi mang đủ các tàn tích xấu xa đến thế. Mặt khác, tôi không ưa ǵ cái thói ám chỉ, nó là thói quen của thời nô lệ.
Trong thư này, tôi gọi anh bằng cái tên cũ Nguyễn Vinh Hoa, anh cũng đừng nên lấy thế làm mếch ḷng. Chỗ bạn bè thân t́nh, tôi mới dám suồng să thế. Anh cho phép nhắc lại một kỷ niệm: hồi chúng ta cùng học trường Bưởi, có lần anh kể tôi nghe rằng nhà ta vốn ḍng trâm anh thế phiệt. Ông cụ nhà ta đêm đêm nằm cạnh khay đèn hay kể hai câu Kiều:
Vinh hoa phú quư ai b́
Vườn xuân một thuở để bia muôn đời.
Khi anh ra đời, ông cụ đặt cho anh cái tên đẹp đẽ ấy, làng xóm ai cũng phục. Anh lớn lên hănh diện v́ cái tên ấy, kiêu kỳ với mọi người và v́ cái gia thế ấy. Là bạn cùng đèn, cùng sách mà hồi đó đối với anh tôi đă thấy tủi thân lép vế trước thái độ mục hạ vô nhân của anh. Ấy là v́ tôi chưa được Cách mạng dạy cho hiểu rằng: giá trị con người đâu phải ở cái tên đẹp và ḍng họ sang!
Sau tháng Tám 45, gặp anh th́ anh không c̣n là Nguyễn Vinh Hoa nữa mà đă trở thành Lê Hùng Tiến. Giả sử một nhà cách mạng chân chính đổi tên đổi họ để kẻ địch khỏi t́m ra tung tích th́ ai cũng thấy phải lẽ. Nhưng đằng này, anh đổi tên, xét ra chỉ để có một cái nhăn hiệu mới thay cho cái nhăn hiệu cũ mà anh cho là quá thời. Với cái nhăn hiệu mới này, anh nghênh ngang, nghễu nghện bước vào cuộc đời mới, che mắt thế gian bằng một thứ trang sức mạ vàng. Anh cắt nghĩa cho tất cả mọi người: Hùng là anh hùng, Tiến là tiến bộ. Thiên hạ bắt đầu nể anh. Anh lại phân bua với quần chúng rằng anh đă tự ư chia cả gia sản cho dân nghèo ngay khi giành chính quyền ở huyện Thái Ninh, quê nhà anh, và hôm nhân dân xông vào chiếm lấy huyện đường, anh vác khẩu súng chim đi đầu... hô khẩu hiệu. Thiên hạ càng nể anh hơn nữa. Thế là, mập mờ đánh lận con đen, dùng danh từ, khẩu hiệu làm lá chắn và bùa hộ mệnh, anh có đủ can đảm chơi tṛ trịch thượng với đời. Cái chất sống bừng bừng chứa đựng trong các danh từ khẩu hiệu của thời đại mới, anh đang tâm bóp méo, vắt kiệt nó đi theo trí tưởng tượng kỳ quặc, bệnh năo của anh, ḥng bóp méo con người, vắt kiệt chất sống của con người mà Cách mạng đă đổ bao nhiêu máu mới giành lại được.
Anh thường hay bảo người khác “liên hệ bản thân”. Bây giờ anh thử “tự liên hệ” xem sao?
Ở đây tôi không có đủ quyền hạn làm một việc kiểm thảo hay lên mặt quan toà buộc tội anh như anh vẫn thường buộc tội người khác. Nhưng là một con người, lại là bè bạn anh, tôi tưởng có quyền góp một vài “hiện tượng” giúp anh nh́n lại con người ḿnh. Dụng ư tốt nhưng lời nói có vụng về, xúc phạm đến ḷng tự ái cũng mong anh thế tất cho.
Nhớ lại c̣n thấy buồn cười với cái tên “Ông Khẩu hiệu” người ta tặng cho anh.
Ngày đầu kháng chiến có khẩu hiệu “quần chúng hoá sinh hoạt”. Anh nắm luôn lấy nó để đóng một vai kịch khá lư thú. Hồi ấy mới về nông thôn, anh tuyên bố ầm ỹ là “cương quyết bỏ cái khoản xà-pḥng trong sổ chi tiêu riêng” v́ cớ “nông dân có dùng xà-pḥng đâu mà vẫn sống được”. Ra đường, anh ăn mặc tồi tàn và đi chân đất, tối về không rửa chân trước khi đi nằm. Chủ nhà vốn người chất phác, tin ngay anh là người tốt và nhường cho anh căn nhà rộng nhất, cái giường vững nhất, tấm chiếu lành nhất, lại để anh sai khéo con người ta làm những công việc vặt cho anh.
Mặc áo vá, đi chân đất, ly dị với… xà-pḥng, trút bỏ cái lốt “Vinh Hoa” cũ với cổ cồn ca-vát, anh đă tự nhủ thấy ḿnh là hiện thân của đạo đức mới, đạo đức của quần chúng và thấy có quyền phẫn uất với mọi cái mà anh cho là trái với nền đạo đức ấy. V́ hay phẫn uất, anh hay lên giọng kẻ cả mắng người. Người bị mắng đầu tiên là chủ nhà, kẻ đă nhường nhà cho anh ở. Nhân ngày giỗ mẹ, ông bà ấy mời chúng ta ăn cỗ. Cỗ đây có nghĩa là cơm không độn như thường lệ, lại có vài đĩa thịt và cả tí “nước cay” nữa. Chủ khách đang vui vẻ, anh mượn hơi men, nửa đùa nửa thật, luận thuyết về sự “không nên phạm chính sách tiết kiệm – cần phải ăn cơm độn – một giọt rượu là một giọt máu”. Bà chủ nhà thừa lúc anh ra ngoài, ghé tai tôi nói bằng một giọng sợ sệt: “nhà cháu có điều ǵ sai phạm, ông làm ơn nói với ông Tiến bỏ quá đi cho”. Tôi phải lấy lời lẽ giải thích, an ủi măi người ta mới yên ḷng. Đó là một lối: “quần chúng hoá” đặc biệt của anh. Anh căm thù nhất “cái bệnh tiểu tư sản”. Tôi cũng biết anh đă hiểu rộng câu “tẩy rửa đầu óc tiểu tư sản” trong sách vở. Những tàn tích tiểu tư sản như đồng hồ, bút máy, nhẫn vàng, anh giấu biệt một chỗ. Một buổi sáng, chị ấy lấy hộp gíp ra đánh răng, tự nhiên anh thấy nộ khí xung thiên, quẳng luôn hộp gíp xuống ao v́ “dùng gíp đánh răng là đầu óc tiểu tư sản”. Chủ nhà nh́n anh, kinh ngạc. Dần dần ba tiếng “tiểu tư sản” trở nên những tiếng anh quen dùng để kháng cự mọi sự anh không đồng ư. Đại khái người ta mặc cái áo đẹp, hoặc giữ ảnh nhân t́nh trong túi hay buổi tối chơi ngắm trăng đều là “tác phong tiểu tư sản cả”. Thậm chí cô bé con nhà hàng xóm chạy sang khoe với bạn cái mùi xoa thêu cành hoa con bướm cũng bị anh phê b́nh ngầm là “ảnh hưởng tiểu tư sản”. Anh quên hẳn cái áo gấm lam của anh c̣n giữ từ ngày cưới vợ cất ở đáy ḥm, thỉnh thoảng vắng người anh đem ra phơi. Giá lúc ấy phát động quần chúng rồi th́ khối người vô cớ bị anh liệt phăng vào loại địa chủ gian ác chứ không bỡn!
Anh có thấy không? Lối sống giả tạo ấy cứ theo cái đà tự phụ, tự măn của anh mà phát triển lên. Năm bắt đầu có chỉnh huấn, anh xung phong đi ngay. Khi đó chúng ta cùng công tác ở một cơ quan. Anh là một trưởng ban, tôi là một nhân viên. Tôi cùng đi dự lớp chỉnh huấn với anh. Trong lớp có khẩu hiệu “Thành khẩn phê b́nh và tự phê b́nh”. Một số đồng chí có khuyết điểm nặng, can đảm nói ra. Có người khóc v́ hối hận. Ai chẳng cảm động trước sự nói thật, khóc thật. Anh ngồi lầm ĺ mấy ngày trời, tỏ ra nung nấu ghê lắm. Một đêm mọi người đang ngủ yên, anh tung chăn vùng dậy, lay gọi đồng chí tổ trưởng và khóc thét lên, bộc lộ một tội tầy đ́nh: một năm nào đó, sau Cách mạng tháng Tám, anh có tổ chức một đáng phát-xít lấy tên là đảng “Quạ đen” âm mưu làm những việc khuynh đảo. Sau khi “tranh đấu bản thân” anh nói ra “sự thật” với một niềm đau xót vô cùng. Anh xếp đặt câu chuyện có t́nh tiết hẳn hoi, ly kỳ như chuyện trinh thám. Hôm sau được “báo cáo điển h́nh” ở hội trường. Thỉnh thoảng anh khóc nấc lên, oằn người như con sâu bị ném vào lửa, tỏ vẻ ăn năn hối lỗi đến cao độ. Gần hết báo cáo, tự nhiên huỵch một cái, anh ngă lăn xuống đất, ngất đi. Anh em xúm lại vực anh dậy, gọi y tá đến tiêm thuốc hồi sinh. Người đời vốn tốt bụng nên cả tin, xôn xao khen ngợi, “anh học viên thành khẩn gương mẫu”. Tôi cũng có tính cả tin, đâu dám ngờ anh bịa chuyện cho ra dáng yêng hùng. Tôi lại phục anh về cả hai mặt: một là “to gan lập đảng phát–xít” hai là “lầm lỗi đến thế mà dũng cảm nói ra”. Tuy nhiên, tôi cứ loay hoay tự hỏi: “Quái, hắn lập đảng phát-xít lúc nào mà ḿnh ở sát nách cũng không biết?”.
Ngày qua tháng lại, anh cũng làm đến chức trưởng ty. Chẳng hiểu duyên nợ tiền kiếp thế nào mà tôi cứ phải ở gần anh măi. Chuyến này anh lập nghiêm hơn trước nhiều. Trước anh cũng có những lúc vui tính và biết cười to như mọi người. Nhưng khi tự cảm thấy ḿnh quan trọng quá rồi th́ anh cười càng ngày càng ít. Khi chào ai th́ chỉ vừa kịp nhếch nửa cái mép lại đóng lại ngay. Đây cũng lại là một cách anh áp dụng bốn chữ “thái độ nghiêm túc”. Tŕnh độ “nghiêm túc” của anh càng lên cao th́ h́nh thù anh càng thay đổi. Người khô đét lại, thẳng đuỗn như một cái áo quan, mắt chỉ biết trợn chứ không biết nh́n, mặt tái đi v́ luôn luôn giận dữ với các loại khuyết điểm trên đời, hai hàm răng xít lại, dẫu có cậy cũng chẳng ra một nụ cười.
Từ khi trong pḥng anh dán khẩu hiệu “đặt lợi ích chung trên lợi ích riêng” th́ quả anh tỏ ra gương mẫu không ai b́ kịp. Ở đâu và lúc nào anh cũng chỉ nói toàn chuyện công tác, không bao giờ đả động tới chuyện vợ con, gia đ́nh. Anh kiêng những chuyện đó như bậc chân tu kiêng phạm giới. Thành thử chúng tôi mỗi khi thèm khát nói về đời tư của nhau một chút, thường phải chờ khi vắng mặt anh mới dám nói v́ ngại bị phê b́nh là “cá nhân chủ nghĩa”, “gia đ́nh chủ nghĩa” và nhiều chủ nghĩa tồi tệ khác nữa. Cũng v́ thế mà trong năm sáu năm trời công tác ở cơ quan, dưới quyền điều khiển của anh, tôi chỉ dám đánh bạo xin về thăm nhà một lần, khi nghe tin đứa con đầu ḷng của tôi bị thương hàn nặng. Quả thực trông bộ mặt thiểu năo của tôi lúc ấy, anh cũng cho phép nhưng không quên kèm theo một câu: “đồng chí không nên nặng đầu óc gia đ́nh nhiều quá!”. Tôi về đến nhà, thằng bé suưt qua đời. Nếu không nhờ hàng xóm láng giềng cứu sống nó th́ tôi oán hận anh biết ngần nào! Thú thật có một lần tôi bắt gặp anh cũng “nặng đầu óc gia đ́nh” nghĩa là anh viết thư gửi về nhà cho chị ấy. Đang đề phong b́, chợt trông thấy tôi, anh giấu bức thư xuống dưới một chồng sách. Tôi suưt ph́ cười nhưng cũng hơi mến anh, chính v́ cái việc nhỏ mọn “viết thư cho vợ” đó.
Chừng cảm thấy ḿnh cô độc, bất giác một hôm anh dán trên tường một khẩu hiệu mới “phải hoà ḿnh với quần chúng” và lập tức thực hiện ngay. Mỗi ngày anh để ra mười lăm phút (có ghi trong thời khoá biểu) để săn sóc mọi người. Săn sóc đây có nghĩa là đến vỗ vai từng người rồi hỏi: “ăn cơm chưa?” hoặc “có khỏe không?” hoặc chỉ gọn lỏn có hai tiếng “thế nào?”. Người được hỏi, thấy cảm động, sắp bắt đầu kể lể tâm sự th́ anh đă vội chạy sang phía người khác và hỏi nhưng câu đúng như vậy. Chẳng lẽ những lúc ấy chúng tôi lại nói thật với anh rằng: thà anh tặng chúng tôi mỗi thằng một nhát dao c̣n hơn ngày nào cũng vỗ vai thăm hỏi kiểu ấy. Chiều chiều cơm nước xong là có một giờ để dân vận (cái này cũng được ghi trong thời khoá biểu). Đồng bào đă thuộc ḷng những câu dân vận của anh: cụ bao nhiêu tuổi? Cụ có mấy con? Con cụ làm ǵ? Người ta chưa kịp đáp câu này, anh đă hỏi sang câu khác. Có người đă bị anh hỏi như vậy hàng mấy chục lần. Sau những giờ dân vận, anh về ngủ yên giấc như đă làm tṛn một nghĩa vụ lớn đối với giống ṇi. Hồi ấy anh cũng có một người bạn thân. Đó là một sự lạ. Bạn anh tôi không nhớ tên là ǵ. Anh chàng ấy giống anh như tạc. Hai anh em gặp nhau mỗi tuần một lần vào chiều thứ bảy, rất đúng giờ (chắc là việc này cả hai đều có ghi trong thời khoá biểu). Tṛ chuyện tâm giao giữa hai anh cũng có “chương tŕnh nghị sự”. Phần thứ nhất: phân tích t́nh h́nh thế giới, phần thứ hai: phân tích t́nh h́nh trong nước, phần thứ ba: phàn nàn về những kẻ sai lập trường. Khi các anh có vẻ đă ngấy nhau rồi th́ bắt tay nhau và hẹn chiều thứ bảy sau lại gặp nhau. Thường lệ cứ sau đúng một tiếng rưỡi đồng hồ tâm sự là các anh ngấy nhau.
Tôi vừa nói tới hai chữ “lập trường”. Ái chà! Về vấn đề này th́ thiết tưởng cả thế giới dân chủ khó ḷng t́m ra một người “đúng lập trường” như anh. Tôi có nhiều dịp thấy rơ điều này. Anh thường nói: lập trường tỏ rơ nhất trong ngôn ngữ. V́ vậy ở điểm này anh ráo riết lắm. Đồng chí cấp dưỡng một hôm kho thịt, gọi món ấy là “thịt kho Tàu”, anh “chỉnh” đồng chí ấy ngay tại chỗ: “sao không gọi là thịt kho Trung Quốc?” Những tiếng ghép quen dùng như chè Tàu, giày Tàu… anh đều nhất thiết đổi là chè Trung Quốc, giày Trung Quốc v.v… Có lúc tôi đánh bạo góp ư kiến: “Ta gọi nước bạn là Trung Quốc th́ đúng lắm rồi, nhưng có một vài trường hợp thiết tưởng có thể linh động được chứ!”. Anh trừng mắt: “tư tưởng này là tư tưởng phá hoại tinh thần hữu nghị!”. Trong một phút đùa cợt, tôi ví cái dáng điệu lấc cấc của một anh bạn như dáng điệu “ét ô tô” thời Pháp. Thế là tôi bị phê b́nh nghiêm khắc ngay là “xúc phạm tới giai cấp công nhân”. Chẳng những chúng tôi mà cả quần chúng đông đảo cũng lắm phen được anh giáo dục về lập trường rất chu đáo. Từ sau phát động quần chúng có những vở kịch tŕnh bày những cảnh địa chủ áp bức nông dân. Khán giả nhiều khi cảm động không cầm được nước mắt. Nghe nói thế, anh cũng chuẩn bị nước mắt từ ở nhà mỗi khi đi xem kịch. Thường thường anh khóc đúng lúc. Nhưng cũng đôi khi khóc hơi bừa băi. Thí dụ một buổi đi xem chèo, giữa lúc tên địa chủ trên sân khấu đánh nông dân mạnh quá, rơi cả râu th́ anh hu hu khóc. Những người xung quanh đang cười th́ bị anh mắng ngay là “thương địa chủ, giễu nông dân”. Mọi người lấm lét nh́n anh và cho đến khi hạ màn không ai dám cười nữa.
Về vấn đề phê b́nh và tự phê b́nh, anh cũng rất triệt để và có nhiều sáng kiến.
Mỗi tối trước khi đi ngủ, có mười lăm phút “tự tu” nghĩa là kiểm điểm lời ăn, tiếng nói, việc làm trong một ngày: anh này chót chê tác phẩm của một nhà văn nước bạn là kỹ thuật kém, anh kia chót để cho một người bạn thân ở xa biết địa chỉ cơ quan, anh thứ ba chót sang xin nước uống của một bà hàng xóm, hại cho chính sách dân vận, đều phải kiểm điểm và truy động cơ tư tưởng cả. Chúng tôi ngồi xếp chân bằng tṛn như những pho tượng trên chùa xung quanh ngọn đèn dầu lạc, ánh sáng hắt lên những nét mặt đăm chiêu, tiếng nói lầm rầm như đọc kinh sám hối. Ngày chủ nhật thường được nghỉ nửa buổi. C̣n nửa kiểm thảo hàng tuần. Việc này làm kỹ hơn tự tu hàng ngày và phải vận dụng lư luận để phê phán lỗi lẫm. Anh ngồi điều khiển, mặt đầy sát khí, cất tiếng rè rè như cái máy hát cũ đem những bài lư luận ra “đối chiếu với thực tế” và phê phán những khuyết điểm để xây dựng cho từng đồng chí. Anh có một lối “phân tích, tổng hợp, quy kết” các loại tư tưởng một cách rất khoa học. Một anh có bệnh ngủ gật trong khi học tập, bị anh phê phán như thế này: ngủ gật là coi nhẹ học tập, coi nhẹ học tập là coi thường lư luận của ta, coi thường lư luận của ta là đứng về phe phản động. Kết luận: ngủ gật là phản động. Tôi không tin rằng thâm tâm anh cũng nghĩ như thế. Tôi nhớ chuyện người của ông Goóc-ki cứ cuối tuần lễ tập trung các cháu lại hỏi tội và vác roi quật những đứa nghịch ngợm. Ở điểm này quả anh giống người ông của Goóc–ki.
Nói đến Goóc-ki, tôi lại nhớ chuyện văn nghệ. Nói cho công bằng anh cũng là người có khiếu văn nghệ và có quan điểm văn nghệ riêng. Anh chủ trương rằng: văn Liên Xô nhất thiết hay hơn văn Trung Quốc, văn Trung Quốc nhất thiết hay hơn văn Việt Nam. Ở trong nước th́ văn sĩ cấp khu giỏi hơn văn sĩ cấp tỉnh, văn sĩ cấp tỉnh giỏi hơn văn sĩ cấp huyện. Hay hơn tất cả văn chương các cấp là ca dao ở các bích báo. Lư luận như thế cũng hơi đảo lộn trật tự nhưng thấy đúng quan điểm quần chúng anh lại yên tâm.
Chúng tôi sống luẩn quẩn với anh trong sáu năm trời đằng đẵng. Cơ quan cũng có chuyển địa điểm nhiều lần. Nhưng bất cứ ở đâu, con người anh cũng lù lù như một cái bóng đen đè nặng lên cuộc đời chúng tôi. Chúng tôi đếm từng bước đi, nén từng hơi thở, gh́m từng lời nói. Chúng tôi sống thầm lặng, khép nép, như những người đàn bà tu kín, sắc mặt vàng vọt dần, mạch máu khô kiệt dần ở một nơi thiếu ánh sáng mặt trời.
Không biết trong bấy nhiêu năm, chúng tôi đă làm lợi ǵ cho ai? Và chính anh nữa, anh đă làm lợi ǵ cho ai?
Chúng tôi hồi đó chỉ có cái thú tai ác là ŕnh lúc nào rảnh việc, t́m chỗ nào vắng nhất cùng nhau bàn về anh để giải trí. Có lúc chúng tôi ví anh như “ông Hít-le” (v́ anh cũng đă bộc lộ là đă có phen định làm ông Hít-le con cơ mà) có lúc ví anh như một gă thơ lại hách dịch, hoặc một cụ đồ gàn tưởng cách mạng toàn là chuyện chi, hồ, giả, dă… Chúng tôi vẽ bức biếm hoạ ngộ nghĩnh: anh xếp các khẩu hiệu làm bực thang leo lên ghế thủ trưởng. Chúng tôi c̣n làm vè đề dưới bức hoạ.
Anh định làm cho chúng tôi sợ th́ quả thật anh đă đạt được kết quả mỹ măn: chúng tôi hàng ngày ngồi trước mặt anh làm việc như những cái máy, nói đúng hơn như những viên tiểu thơ lại. Nói chuyện với anh th́ chỉ biết xă giao bằng những câu rất “đúng lập trường” rồi mong mỏi những phút được bá cổ nhau chạy ra chỗ vắng nói tếu cho nở phổi. Cộng lại những phút này cũng hiếm lắm. Trong giấc ngủ h́nh ảnh của anh cũng không để chúng tôi được nghỉ ngơi thật sự. Có đêm tôi mơ thấy hai cánh tay gầy guộc của anh có móng nhọn nắm cổ tôi lôi xuống một cái hầm tối om, đậy nắp lại. Có đêm lại thấy anh hoá ra con quạ đen quắp tôi bay đi như con đại bằng quắp nàng công chúa trong truyện cổ tích. Tôi thường kêu ú ớ hoặc nghiến răng trong những giấc mơ kinh hăi đó…
Hồi tưởng lại cho kỹ trong ngần ấy năm cũng có một đôi lần, tôi thấy có cảm t́nh với anh. Cái lần đồng chí Mẫn ở Khu về có việc ở Ty, làm cho chúng tôi và cả anh ngẫm nghĩ.
Đồng chí ấy, kể ra không “oai nghiêm” bằng anh. Đồng chí ấy xuề xoà vui tính, thỉnh thoảng cũng nói tếu như chúng tôi. Tôi lấy làm lạ rằng trong những ngày tiếp đồng chí Mẫn, h́nh thù dáng dấp anh có đổi khác. Anh nhũn nhặn lắm. Bộ mặt trở nên hiền lành lại có vẻ đứa trẻ ngoan ngoăn. Đồng chí ấy nói đùa anh cũng vâng vâng dạ dạ v́ lâu ngày anh quên cả nói đùa. Sau khi đồng chí Mẫn đi, anh bắt chước tác phong của đồng chí ấy được vài hôm nhưng ngượng ngập trông thật tội nghiệp.
Trước kia anh đă lên cấp bằng con đường nghiêm khắc nay anh lại định lên cấp bằng cách vui tính nhưng than ôi! tre già uốn dễ gẫy, lụa đen khó nhuộm hồng.
Một kỷ niệm khó quên nữa là cái lần anh ốm nặng. Ngồi bên giường bệnh săn sóc anh, tôi được nghe anh kể chuyện nhà chuyện cửa. Anh nhớ bà cụ, nhớ chị và các cháu. Lại tả cảnh quê hương với những con đê rặng nhăn. Tôi có ư nghĩ hơi tệ: giá anh ốm măi lại hoá hay. May sao khi anh khỏe lại th́ tôi được điều động sang cơ quan khác…
Bây giờ nửa mừng nửa sợ được biết tin anh. Tôi hỏi chuyện anh em, có người tặc lưỡi nói: “Hắn vẫn như trước…”. Tôi không tin nhưng vẫn thấy ngài ngại. Đêm nay tôi cố gắng b́nh tĩnh để quên mọi bực dọc cũ, viết thư cho anh. Việc đă qua thuộc về dĩ văng. Tôi không trách anh đă làm phao phí tuổi trẻ và năng lực của một số người trong bấy nhiêu năm. V́ trách nhau cũng chẳng có lợi ǵ. Anh không phải là một người lẩm cẩm đâu. Anh rất khôn ngoan nhưng đă tính toán lầm. Dựa vào một danh nghĩa lớn, anh làm toàn những việc tủn mủn. Cách mạng đấu tranh cho cái thật, anh dựa vào đấy để làm cái giả. Cách mạng yêu con người, anh không biết yêu con người. Cho nên có lúc xung quanh anh như lạnh lẽo toàn là tử khí. Xác chết toát ra thế nào được hơi nóng. Người khỏe mạnh, ai thích đến gần xác chết, kể cả xác chết người yêu. Anh chưa phải là một xác chết hẳn đâu. Thời đại c̣n có thể tiêm thuốc hồi sinh cho anh được. Anh nên sống cho trọn vẹn, cùng với mọi người xây dựng cuộc sống. Người ta sẽ yêu mến anh, anh cũng sẽ biết yêu mến mọi người. Cuộc sống sẽ thú vị biết bao! Tôi nói có vẻ nhà mô phạm lắm nhỉ! Đó là thói quen của nghề nghiệp. Anh hiểu cho ḷng chân thành là quư.
(Trích Giai phẩm mùa Thu - Tập I) [2]
[1]Đoạn này giễu lối thú tội và ăn năn trong các lớp chỉnh huấn.
[2]Bản đăng trong sách này thiếu một số câu. Xem toàn văn trong Giai phẩm mùa Thu - tập I (talawas)
Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
The Beatles. French Music . Nhạc Pháp . Dalida . Jaune. Ngọc Lan. Thanh Lan. Elvis Phương. Best English1
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures. Dancing Music. 2015
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám
Federation of American Scientist
Người Việt Seatle