MINH THỊ

DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN  QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG  CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI  THẢM HẠI,ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.  

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Một Trang Lịch Sử /details

֎ Một Trang Lịch Sử /djvu.txt

֎ Một Trang Lịch Sử /org/3

֎ Một Trang Lịch Sử/pdf

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

֎֎֎֎֎֎

◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửChính NghĩaTinh HoaKim ÂuCongress US HouseVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

White House National Archives .

Federal Register Associated Press

Reuter News Real Clear Politics  

MediaMatters C-SPAN .

Videos Library Judicial Watch

New World Order Illuminatti News   

New Max CNS Daily Storm

Observe American Progress 

The Guardian Political Insider

Ramussen Report  Wikileaks 

The Online Books Page

American Free Press

National Public Radio

National Review - Public Broacast

Federation of Anerican Scientist

Propublica Inter Investigate

ACLU Ten  CNBC  Fox News 

CNN  FoxAtlanta

Indonesian News Philippine News

Nghiên Cứu Quốc Tế  Nghiên Cứu Biển Đông 

Thư Viện Quốc Gia 1  Thư Viện Quốc Gia 

Học Viện Ngoại Giao  Tự Điển Bách Khoa VN  

Ca Dao Tục Ngữ Học Viện Công Dân

Bảo Tàng Lịch Sử Nghiên Cứu Lịch Sử

Dấu Hiệu Thời Đại Viêt Nam Văn Hiến   

QLVNCH Đỗ Ngọc Uyển 

Thư Viện Hoa Sen  Vatican? Roman Catholic  

Khoa HọcTV  Sai Gon Echo

Viễn Đông Người Việt

Việt Báo   Việt List   Xây Dựng

Phi Dũng  Việt Thức Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên Việt Mỹ

Việt Tribune Saigon Times USA

Người Việt Seatle Cali Today

Dân Việt Việt Luận  Thơ Trẻ

Nam Úc DĐ Người Dân

Tin Mới Tiền Phong Xă Luận

Dân Trí Tuổi Trẻ Express

Lao Động Thanh Niên Tiền Phong Tấm Gương

Sài G̣n Sách Hiếm Thế Giới  Đỉnh Sóng

Chúng Ta   Eurasia  ĐCSVN Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng Ba Sàm

Văn Học  Điện Ảnh Cám Ơn Anh TPBVNCH 1GĐ/1TPB Bia Miệng

 

 

 

 

 

 

 

 

MINH THỊ

DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN  QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG  CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI  THẢM HẠI,ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.  

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Một Trang Lịch Sử /details

֎ Một Trang Lịch Sử /djvu.txt

֎ Một Trang Lịch Sử /org/3

֎ Một Trang Lịch Sử/pdf

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

֎֎֎֎֎֎

◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửChính NghĩaTinh HoaKim ÂuCongress US HouseVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

White House National Archives .

Federal Register Associated Press

Reuter News Real Clear Politics  

MediaMatters C-SPAN .

Videos Library Judicial Watch

New World Order Illuminatti News   

New Max CNS Daily Storm

Observe American Progress 

The Guardian Political Insider

Ramussen Report  Wikileaks 

The Online Books Page

American Free Press

National Public Radio

National Review - Public Broacast

Federation of Anerican Scientist

Propublica Inter Investigate

ACLU Ten  CNBC  Fox News 

CNN  FoxAtlanta

Indonesian News Philippine News

Nghiên Cứu Quốc Tế  Nghiên Cứu Biển Đông 

Thư Viện Quốc Gia 1  Thư Viện Quốc Gia 

Học Viện Ngoại Giao  Tự Điển Bách Khoa VN  

Ca Dao Tục Ngữ Học Viện Công Dân

Bảo Tàng Lịch Sử Nghiên Cứu Lịch Sử

Dấu Hiệu Thời Đại Viêt Nam Văn Hiến   

QLVNCH Đỗ Ngọc Uyển 

Thư Viện Hoa Sen  Vatican? Roman Catholic  

Khoa HọcTV  Sai Gon Echo

Viễn Đông Người Việt

Việt Báo   Việt List   Xây Dựng

Phi Dũng  Việt Thức Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên Việt Mỹ

Việt Tribune Saigon Times USA

Người Việt Seatle Cali Today

Dân Việt Việt Luận  Thơ Trẻ

Nam Úc DĐ Người Dân

Tin Mới Tiền Phong Xă Luận

Dân Trí Tuổi Trẻ Express

Lao Động Thanh Niên Tiền Phong Tấm Gương

Sài G̣n Sách Hiếm Thế Giới  Đỉnh Sóng

Chúng Ta   Eurasia  ĐCSVN Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng Ba Sàm

Văn Học  Điện Ảnh Cám Ơn Anh TPBVNCH 1GĐ/1TPB Bia Miệng

 

 

 

Sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm,

 

cuộc thanh trừng năm 1967,

 

và di sản của sự bất đồng chính kiến

 

 

 

03/10/2013 by The Observer

 

Nguồn: Zachary Abuza (2001). “The Nhan Van–Giai Pham Affair, the 1967 Purge, and the Legacy of Dissent”,  in Z. Abuza, Renovating Politics in Contemporary Vietnam (London: Lynne Rienner Publisher). [1]

Biên dịch: Vương Thảo Vy | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Bài liên quan: 46 – “Chủ nghĩa xét lại” ở Việt Nam DCCH: Bằng chứng mới từ kho tư liệu Đông Đức

 

Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị.

– Hồ Chí Minh

 

Nhà soạn nhạc Xô Viết phải t́m kiếm những giá trị anh hùng, vĩ đại và cao đẹp, phải chiến đấu chống lại chủ nghĩa hiện đại mang tính phá hoại lật đổ, điển h́nh cho thời kỳ suy tàn của nền nghệ thuật tư sản. [Âm nhạc phải] mang tính dân tộc về mặt h́nh thức và xă hội chủ nghĩa về mặt nội dung.

– Maxim Gorky, “Bàn về chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa”, 1934

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái b́nh vôi,                                

Càng sống càng tồi.                                

Càng sống càng bé lại.

 – Phan Khôi

 

Từ ngày đất nước thống nhất năm 1975 đến Đại hội Đảng lần thứ Sáu vào tháng Mười Hai năm 1986 khi chương tŕnh cải cách kinh tế được tiến hành, hầu như không tồn tại bất cứ mối bất đồng nào trên cả nước, ngoại trừ những cựu thành viên chống cộng sản của chế độ Việt Nam Cộng ḥa. Nhưng ngay cả mối bất đồng này cũng bị hạn chế v́ sự độc đoán và những cuộc trừng trị không nương tay ngày càng mở rộng của chính phủ đối với những kẻ thù trước đây. Những người không bị “học tập cải tạo” và đưa đến “những vùng kinh tế mới” (hơn 300.000 người) sẽ bị hăm dọa buộc phải phục tùng nhà nước. Những nguyên nhân của mối bất đồng xuất hiện trong suốt thời kỳ đổi mới có nguồn gốc từ trước ngày đất nước thống nhất, và cũng cần xem xét một bối cảnh lịch sử đặc biệt liên quan đến hai sự kiện nhằm giải thích cho mối bất đồng trong thời kỳ đương đại.

Sự kiện đầu tiên liên quan đến việc đối xử đối với các trí thức gia, tác giả, nhà thơ, và văn nghệ sỹ – những người đă gia nhập hàng ngũ Việt Minh trong những năm 1940-1950 nhưng sau đó đă bị thanh trừng v́ yêu cầu đ̣i mở rộng quyền tự do trí thức, bao gồm quyền được xuất bản các tác phẩm độc lập. Thực tế cho thấy rất nhiều trong số những nhà trí thức này vẫn là những nhân vật đi đầu trong các hoạt động chống đối trong thời điểm hiện tại trong khi những vấn đề và yêu sách tương tự tiếp tục vẫn c̣n dư âm.

Sự kiện thứ hai là cuộc thanh trừng nội bộ Đảng vào giữa đến cuối những năm 1960 mà trong đó những người chống lại chính sách leo thang chiến tranh chống Mỹ sẽ bị thanh trừng v́ đă vi phạm những nguyên tắc của chế độ tập trung dân chủ. Những đảng viên nào đưa ra bất cứ phương án khác cho cuộc chiến ở miền Nam mà đi ngược lại với chủ trương không khoan nhượng của những nhà cầm quyền sẽ bị ngược đăi không thương xót, điều này đă vô h́nh chung chấm dứt những cuộc tranh luận công khai và ư nghĩa trong nội bộ đảng. Từ năm 1967 đến khi chính sách Đổi Mới được thực hiện, tất cả quá tŕnh ra quyết định bị giữ độc quyền trong tay của những nhà lănh đạo mà không ai dám chống đối hoặc có ư nghi ngờ, do đó đă tạo ra sự tŕ trệ trong chính sách nhà nước và chính sách đối ngoại. Mặc dù sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm và cuộc thanh trừng nội bộ đảng vào năm 1967 đă được phân tích một cách thấu đáo trong các tác phẩm khác, nhưng tác giả vẫn sẽ bàn luận hai sự kiện trên trong bài viết này.

Chúng chính là những sự kiện đầu tiên và mang tính cấu thành nhất đối với t́nh trạng bất đồng chính kiến dưới sự cầm quyền của Đảng Cộng sản, và những vấn đề được những người chống đối đưa ra vào những năm 1950-1960 cho đến giờ vẫn không thay đổi. Di sản của những sự kiện này mang tính thu hút, và chúng đă trở thành điểm quy tụ cho những người chống đối ngày nay: sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm như là một biểu tượng của sự thất bại của đảng trong lời hứa sẽ mang lại tự do cho giới trí thức, và cuộc thanh trừng nội bộ đảng chính là dấu chấm hết cho nền dân chủ nội đảng và dập tắt tư duy trong quá tŕnh ra quyết định. Cuối cùng là, cách thức mà chế độ đáp trả đối với những sự kiện này, ngay cả thời điểm hiện tại, cho ta thấy về t́nh trạng cải cách chính trị tại Việt Nam.

 

Sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm

 

Bối cảnh sự kiện

Năm 1950, vào giữa cuộc chiến chống Pháp của Việt Minh, Hồ Chí Minh đến Trung Quốc và kư kết thỏa thuận viện trợ quân sự với nhà lănh đạo cộng sản mới của Bắc Kinh. Khi viện trợ quân sự được đưa vào, th́ ḍng chảy ồ ạt các thể chế, cải cách và lực lượng cố vấn mang phong cách Trung Quốc cũng từ đó mà tràn vào. Một chiến dịch gấp gáp được khởi động để học tập kinh nghiệm cách mạng của Trung Quốc, và 200.000 bản sao của 43 cuốn sách của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đă được dịch và in ra. Các thể chế kinh tế và chính trị Trung Quốc ngày càng phổ biến. Trước năm 1952, có gần 7.000 binh sĩ và cố vấn Trung Quốc hiện diện tại Bắc Bó (một chiến khu phía Bắc). Trong giai đoạn 1949-1954, Trung Quốc huấn luyện và trang bị cho gần 50.000 bộ đội Việt Nam tại các doanh trại ở Vân Nam và Quảng Tây thành lập vào mùa xuân năm 1950. Theo đề xuất của Trung Quốc, Đảng Lao Động mang tính xă hội chủ nghĩa được công khai thành lập vào tháng Hai năm 1951, sự kiện này đă chấm dứt cáo buộc cho rằng Việt Minh là một tổ chức chống thực dân có cơ sở rộng khắp mà lại không có điểm tựa về mặt tư tưởng.[2] Theo như một nhà sử học, Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh, tác phẩm đặt ra cuộc cách mạng ba giai đoạn cho chiến tranh, lại “gần như ăn cắp ư tưởng của chủ nghĩa Mao.”[3] William Duiker đă ghi nhận một cách súc tích rằng đường hướng lănh đạo của Việt Minh đơn thuần là để “vuốt ve cái tôi của những nhà lănh đạo Trung Quốc” bởi v́ sự trợ giúp của họ là hoàn toàn thiết yếu.[4]

Chiến dịch chỉnh huấn khổng lồ trong nội bộ Đảng (hay Cheng feng theo tiếng Hoa), lấy h́nh mẫu của chiến dịch Diên An tại Trung Quốc, đă được khởi động và hàng ngàn cán bộ bị thanh trừng; số lượng Đảng viên giảm từ 50.000 trong năm 1950 xuống c̣n 40.000 vào năm 1954. Chiến dịch cải cách ruộng đất hai giai đoạn bắt chước mô h́nh của Trung Quốc cũng được tiến hành. Giai đoạn ôn ḥa từ năm 1953 đến năm 1954 nổi bật là việc giảm tô, theo sau đó là giai đoạn thay đổi rơ rệt hơn từ năm 1954 đến năm 1956 với việc tái phân phối một khối lượng lớn tài sản ở phía Bắc.[5] Đây là hồi chuông cảnh báo giới trí thức bởi v́ hầu hết trong số họ đều có vài mối liên hệ đến tầng lớp có ruộng đất “phong kiến” và “phản động”.[6] Vào tháng Ba năm 1953, chính phủ quyết định và ban hành một danh sách đặt tên các giai cấp trong xă hội, trong đó chính phủ nỗ lực làm dịu đi nỗi sợ hăi bằng cách khẳng định rằng “giới trí thức không tự họ h́nh thành nên một tầng lớp riêng” mà địa vị của họ dựa trên “thành phần” của gia đ́nh. Bởi v́ nhiều trí thức gia được xếp vào thành phần “kẻ thù giai cấp”, nên ngược lại cũng có một thành phần mới được tạo ra, đó là “cá nhân tiên tiến”, danh hiệu này sẽ được cấp cho ai ngoài việc phục vụ cho cách mạng c̣n t́nh nguyện giao nộp toàn bộ của cải cho chính phủ.

Trong khi sự trợ giúp về mặt hậu cần từ phía Trung Quốc là cần thiết, th́ một nhiệm vụ cũng không kém phần quan trọng đối với công cuộc đấu tranh chống thực dân của Việt Minh là thu phục được sự đồng ḷng của giới trí thức. Nhiều trí thức gia cảm thấy họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải lên Việt Bắc và tham gia cách mạng; nếu không làm như vậy, họ sẽ bị đánh đồng với việc bắt tay với giặc Pháp. Một số lượng lớn các trí thức gia tham gia Việt Minh v́ ḷng yêu nước, chứ không phải v́ chủ nghĩa cộng sản. Thực tế cho thấy v́ các nhà lănh đạo Việt Minh cố gắng che giấu đi những mối liên hệ với chủ nghĩa cộng sản của tổ chức này, bằng cách trên danh nghĩa giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương vào năm 1946, nên rất có thể nhiều nhà trí thức tin theo lời Hồ Chí Minh từng công khai cho rằng đây là một tổ chức theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải cộng sản. Thật vậy, một học giả miền Nam Việt Nam có luận điểm cho rằng giới trí thức “được động viên bởi hy vọng rằng họ có thể dùng tổ chức kháng chiến này để tập hợp các phần tử dân tộc và tạo nên một lực lượng có thể điều chỉnh cán cân chống lại những người cộng sản trong số những thành viên tham gia kháng chiến.[7] Dù cho lư do có là ǵ đi nữa th́ các nhà trí thức cũng tham gia cuộc đấu tranh chống thực dân với đầy nhiệt huyết.

Ngay từ buổi ban đầu, [các nhà văn] đă dốc hết tâm huyết và sức lực cho tất cả các hoạt động mà đất nước kêu gọi sự giúp sức của họ trong thời chiến. Họ sát cánh với những người phu và nông dân để chiến đấu chống lại kẻ thù của đất nước. Họ chia sẻ với những con người này đời sống khổ cực trong rừng rậm, và cũng như thế, họ sống và làm việc trong bầu không khí ngập tràn ḷng yêu nước.[8]

Nhưng ngay từ buổi ban đầu, Đảng đă kiên quyết kiểm soát giới trí thức và ngăn cản họ khỏi t́nh trạng quá độc lập. Dựa trên tác phẩm của Mao, Lenin, và Maxim Gorky,[9]các văn nghệ sỹ Việt Nam bị bắt buộc phải chấp nhận những nguyên lư của chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa và phải xem xét lại lập trường tư tưởng của ḿnh. Trong một bài phát biểu năm 1948, Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Trường Chinh đă yêu cầu văn học và văn hóa “phải duy tŕ ḷng trung thành hoàn toàn với Tổ quốc và cuộc kháng chiến.”[10]

 

Năm 1951 chứng kiến hai ràng buộc sâu sắc hơn đối với giới trí thức: Ràng buộc đầu tiên chính là việc đưa vào “chế độ tập trung dân chủ” như là quy tŕnh hoạt động trung tâm của Đảng. Nguyên tắc này trở thành mối liên kết giữa giới tinh hoa và quần chúng: một khi Đảng đă đưa đến một quyết định nào đó th́ không có bất cứ sự chống đối nào được chấp nhận. Sau đó, trong một bức thư gửi đến giới nghệ sỹ và trí thức vào năm 1951, Hồ Chí Minh đă sử dụng ngôn từ mà Mao đă sử dụng trong buổi nói chuyện với giới trí thức tại Diên An, trong đó nhà lănh đạo Trung Quốc đă làm rơ rằng “thực tế không có nghệ thuật vị nghệ thuật, không có nghệ thuật đứng trên giai cấp, không có nghệ thuật tách rời hoặc độc lập với chính trị. Văn học và nghệ thuật vô sản là một phần của toàn bộ lư tưởng đấu tranh cách mạng của giới vô sản.”[11] Ông giải thích cho giới trí thức về khái niệm của chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa. “Để hoàn thành nhiệm vụ của ḿnh, người chiến đấu trên mặt trận văn hóa cần có một lập trường chính trị vững vàng và một hệ tư tưởng đúng đắn: Nói tóm lại, anh phải đặt lợi ích của cuộc cách mạng, của quốc gia và dân tộc lên trên tất cả.”[12] Để thực hiện được mục tiêu này, Hồ Chí Minh lập luận rằng “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị.”[13] Kết quả là, những h́nh thức thay đổi sự thật hoặc nguyên tắc từ ngữ ngữ pháp tiêu chuẩn trong các tác phẩm nghệ thuật bị hạn chế, và theo như học giả người Pháp Georges Boudarel, “những tác phẩm của họ được kỳ vọng xoay quanh những đặc tính điển h́nh và phục vụ kịp thời cho các đ̣i hỏi về mặt chính trị của phong trào. Từ phổ biến hay dùng là từ “căm thù”: căm thù đế quốc nước ngoài và phong kiến bản địa hoặc những điền chủ.”[14]

Những bó buộc đối với giới văn nghệ sỹ này, cùng với việc thi hành những khía cạnh khác của chủ nghĩa cộng sản, “đă đẩy một làn sóng trí thức gia khổng lồ tới khu vực thuộc quyền kiểm soát của Pháp.”[15] P.J.Honey khẳng định rằng “càng áp dụng nhiều nguyên lư từ những người cộng sản Trung Quốc, th́ hàng ngũ những trí thức gia bị vỡ mộng ngày càng nhiều, điều này loại bỏ đi những thành phần tham gia hoạt động kháng chiến.”[16] Những người nào c̣n trụ lại gần như chỉ có việc sáng tác cho chiến dịch văn chương của Việt Minh và phải chịu đựng những nguyên lư khắt khe của chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa.

Trong một nỗ lực lớn hơn nhằm bắt giới tri thức phải chịu sự kiểm soát của Đàng, người ta đă gây áp lực để giới này phải gia nhập đảng. “Họ bị đe dọa rằng nếu từ chối tư cách thành viên, họ sẽ bị lên án là những kẻ phản động, cùng lúc đó, họ cũng được dụ dỗ gia nhập bởi lời hứa về những ưu đăi đặc biệt.”[17] Tuy nhiên, ngay cả những người trí thức ở lại chiến khu và gia nhập Đảng cũng phải chịu đựng chiến dịch học tập cải tạo dẫn đầu bởi “những cán bộ văn hóa cộng sản đặc biệt” – những người đă từng được “chỉ dẫn bởi ‘những người đàn anh ở phía bên kia đường biên giới’ [các cán bộ Trung Quốc] trong ‘hệ thống nghệ thuật và văn chương Trung Quốc.’”[18]

Nh́n chung, hầu hết các trí thức gia trụ lại là do những lư do xuất phát từ ḷng yêu nước. Cuộc kháng chiến chống Pháp chính là một động cơ thúc đẩy thực sự. V́ muốn giành độc lập, các văn nghệ sỹ sẵn sàng chấp nhận chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa và mệnh lệnh của đảng buộc công việc của họ phải là một phần trong toàn bộ phong trào kháng chiến lănh đạo bởi Đảng Lao Động. Họ chấp nhận sự kiểm soát, kiểm duyệt của Đảng và hy sinh một phần tự do cho nền độc lập dân tộc. Như một nhà chống đối hàng đầu từng viết:

 

Khi Hội [văn hóa cứu quốc] ở Việt Bắc th́ đường lối hoạt động dường như rất đơn giản. Để phục vụ đất nước dân tộc, và trên hết là cuộc kháng chiến cấp bách, th́ phải tuân theo chủ nghĩa Mác. Không thể cho rằng các văn nghệ sỹ lúc bấy giờ hoàn thành đúng và đủ hoàn toàn các nhiệm vụ được giao, nhưng có một điều chắc chắn rằng họ nỗ lực hết ḿnh để đi theo đường lối hoạt động nói trên. Liệu họ có bao giờ cảm thấy bất măn với cấp trên của ḿnh? Rất hiếm hoi. Hoặc nếu có đi chăng nữa, họ cũng không để tâm lắm đến điều đó v́ tâm hồn của họ đă đắm ch́m trong cuộc kháng chiến gian khó mà vĩ đại. Họ không có th́ giờ rỗi răi để nghĩ đến các vấn đề khác nữa.[19]

 

Con người họ tràn ngập niềm tự hào và lửa nhiệt t́nh với mong muốn xây dựng một Việt Nam mới độc lập, và họ tin rằng chính việc phục vụ cách mạng sẽ mang lại cho họ tự do sáng tác. Họ mong muốn rằng, sau cuộc kháng chiến, họ sẽ nhận được tự do nhiều hơn cả dưới thời Pháp và sự can thiệp của đảng vào văn học nghệ thuật cũng sẽ chấm dứt.

Vào thời kỳ đầu t́nh h́nh cho thấy họ có vẻ sẽ được tự do. Đảng Lao Động gửi các cán bộ văn hóa đến Hà Nội vào tháng Chín năm 1954 để thuyết phục những người đă rời khỏi Việt Bắc thôi không chuyển vào miền Nam trong khoảng thời gian 300 ngày như hiệp định Geneva đă cho phép. Để lấy lại sự ủng hộ của giới trí thức, vào năm 1954-1955 Đảng Lao Động đă thực hiện một đường lối mang tính tự do đối với những trí thức và chuyên gia đă phục vụ cho Pháp; những người nào ở lại miền Bắc được đối xử rất tốt, thường kiếm được nhiều hơn những người cùng với Đảng Lao Động vào Hà Nội vào năm 1954.[20] Tố Hữu, một trí thức hàng đầu của đảng, đă thông báo một chính sách ḥa giải vào năm 1955: “Đảng có thể cung cấp sự lănh đạo trí thức để chống lại kẻ thù, nhưng hiện nay là giai đoạn cho công việc mang tính xây dựng. Đảng có thể sẽ không lănh đạo nữa, mà nên nhường đường cho giới trí thức.”[21] Nhưng cùng thời điểm đó, Đảng Lao Động buộc tất cả văn nghệ sỹ phải gia nhập Hội Văn Nghệ chính thức. Cuộc trấn áp bắt đầu.

 

Loạt đạn mở màn

T́nh trạng bất đồng bắt đầu khi Trần Dần, một tác giả quân đội đồng thời là Đảng viên, đă viết một cuốn sách phóng sự về trận chiến Điện Biên Phủ vào tháng Hai năm 1955. Sau này Bảo Ninh và Dương Thu Hương có các tác phẩm tương tự vào những năm 1990, các nhân vật trong tác phẩm của ông không phải là những h́nh mẫu anh hùng chủ nghĩa xă hội mà đảng đă ra lệnh phải theo. Quyển sách là bức chân dung phác họa cuộc sống khổ cực bên trong chiến hào nơi hầu như không thấy bằng chứng cho thấy sự thắng lợi của cuộc chiến hay tính đúng đắn của sự nghiệp xă hội chủ nghĩa. Tuy nhiên ông đă được cử đến Trung Quốc để viết kịch bản phim; ở đó ông đă trải qua một cuộc tranh căi quyết liệt với viên chính ủy người đă được gửi đến làm việc với ông. Trần Dần trở về nước với tâm trạng thất vọng và đă tập hợp một nhóm các nhà trí thức có cùng tư tưởng trong nội bộ quân đội mà mục tiêu của họ là thuyết phục các lănh đạo đảng trả lại cho họ sự tự do sáng tác. Họ mong muốn đ̣i lại sự tự do không chỉ từ các nhân viên kiểm duyệt quân đội mà c̣n từ các viên chính ủy của đảng. Theo như cương lĩnh được soạn thảo và đệ tŕnh cho Ban chấp hành Trung ương vào năm 1955 của Trần Dần và gần 30 các trí thức gia khác,

Biểu hiện cao nhất về trách nhiệm của một tác giả là sự tôn trọng và trung thành của anh ta đối với sự thật… Sự thật, với phạm vi của nó, vượt qua tất cả những chỉ thị, tất cả lư thuyết…Nếu nó đi ngược lại một kế hoạch hoặc mệnh lệnh nào đó, các tác giả cần bám theo sự thật, không bóp méo nó cũng như không được ép sự thật vào khuôn khổ chính trị… Cách mạng không cần bất cứ nhà tông đồ nào để đốt hương và ca tụng các kế hoạch và cũng chẳng cần đến các vị pháp sư cúng tế khi họ vỗ chiêng và tụng kinh cầu…Ngày nay, người ta t́m thấy trong văn chương của chúng ta khá nhiều kỹ xảo (và ngay cả bộ mặt đạo đức giả).[22]

Ông lập luận rằng “một tác giả phải được cho phép sự tự do gần như hoàn toàn trong việc lựa chọn chủ đề, nhân vật, phong cách thể hiện thái độ và cảm xúc. Tất cả trở ngại và hạn chế phải bị bài trừ như những kẻ thù của chủ nghĩa hiện thực.” Trong thời gian ở Trung Quốc, Trần Dần chịu ảnh hưởng bởi một nhân vật trong nền văn chương Trung Quốc là Hồ Phong, người muốn mở rộng những biên giới có thể chấp nhận được của văn học. Khi trở về, Trần Dần đă viết, “Tại sao không có ai viết về các quan chức chính phủ chẳng hạn? Hoặc về t́nh yêu? Tại sao cứ phải giới hạn các nhân vật vào vai những cá nhân mang thân phận người công nhân hoặc nông dân? Chủ nghĩa hiện thực khuyến khích hàng trăm trường phái cùng phát triển mạnh.”[23] Những lời tấn công thẳng thắng như vậy vào sự kiểm soát của đảng đă khơi dậy khí phách trong ḷng giới trí thức, những người đă tập hợp lại để bảo vệ cho ông. Phan Khôi, cha đẻ của nền thơ ca hiện đại Việt Nam,[24] khi đó 70 tuổi, đă viết “mỗi người trong chúng ta sở hữu nghệ thuật của chính bản thân ḿnh và phản ánh tính cách của chúng ta trong đó. Chỉ có loại h́nh nghệ thuật và tính cách này mới có thể tạo ra quang cảnh trăm hoa đua nở. Trái lại, nếu các tác giả bị ép buộc phải viết theo cùng một phong cách, th́ sẽ có ngày tất cả loài hoa đó sẽ trở thành hoa cúc vạn thọ hết thảy.”[25]

Một nhà trí thức khác, Lê Đạt, đă than phiền rằng hiện thực xă hội chủ nghĩa giống như:

Việc đặt các đồn cảnh sát và máy móc thiết bị vào giữa trái tim con người

Việc buộc cảm xúc phải thể hiện theo như một bộ quy tắc mà chính phủ ban hành.

Phản ứng ban đầu của đảng đối với Trần Dần và những nhà chống đối khác là đặt họ trong chế độ quản thúc tại gia và sau đó cải tạo họ.[26] Tố Hữu, nhà thơ của chính phủ, sau đó đă phát động một chiến dịch nhằm tái củng cố đời sống của giới trí thức với những nguyên lư của chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa. Tố Hữu yêu cầu các nhà trí thức phải tuân thủ nghiêm ngặt các tham số được quy định trong bài phát biểu của chủ tịch Mao tại Diên An: “những nhân vật mang tính tích cực,” “những anh hùng cách mạng,” “nông dân và công nhân như lực lượng tiên phong.” Nói tóm lại, Tố Hữu kêu gọi sự tổng hợp không thỏa hiệp giữa chính trị và nghệ thuật bởi v́ “nội dung quyết định h́nh thức.”

Trong khi nhiều nhà trí thức ư thức được tương lai không lành sẽ xảy ra và tuân theo đường lối của đảng th́ những người khác lại tạm lánh mặt cho đến đầu năm 1956 khi tuyển tập mang tên Giai Phẩm Mùa Xuân được xuất bản. Tính táo bạo của tạp chí này, trong đó bao gồm một bài thơ Trần Dần viết nhằm miêu tả t́nh trạng tệ hại không thể chấp nhận được ở miền Bắc, đă làm chất xúc tác cho các nhà trí thức khác.[27] Khi đảng trao giải Nhất Giải thưởng Văn học vào năm 1954-1955 cho một tác phẩm chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa tầm thường của nhà thơ trung thành với đảng – Xuân Diệu, giới trí thức nổi dậy.[28]

 

Tại Hội nghị tháng Tám năm 1956 của Hội Văn nghệ, các nhà trí thức công khai đ̣i quyền tự do nhiều hơn, cũng giống như đồng sự của họ ở Trung Quốc và Liên Xô tại thời điểm đó. Ở Trung Quốc, Lục Định Nhất kêu gọi “phá vỡ sự tŕ trệ trong hoạt động của giới trí thức ở Trung Quốc” trong bài phát biểu “Trăm hoa” của ông. Cụ thể là ông đă yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc cho phép “sự tự do trong suy nghĩ độc lập về hệ tư tưởng, các hoạt động nghiên cứu khoa học và nghệ thuật; tự do ngôn luận; tự do tham gia vào các công việc sáng tạo và phê b́nh tác phẩm của những người khác; tự do bày tỏ ư kiến; và tự do thu lại ư kiến.” Các học giả cũng bàn luận về những thay đổi trong chính sách của Xô Viết đối với giới trí thức kể từ Đại hội lần thứ Hai mươi của Đảng Cộng Sản Liên Xô khi Khrushchev đưa ra bài phát biểu phi Stalin hóa của ḿnh.

Trong một nỗ lực nhằm ngăn chặn làn sóng chỉ trích, Hoài Thanh – một quan chức cao cấp của đảng đă xuất bản một bài viết tự phê b́nh trong tuần báo Văn Nghệ. Nhưng đă quá trễ, giới trí thức bắt đầu xuất bản tạp chí riêng của họ dựa trên triết lư của trí thức gia đối kháng Trung Quốc Hồ Phong, người đă cho rằng “chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa cần phải chuyển sang khía cạnh con người và khẳng định bản thân như một loại h́nh của chủ nghĩa nhân văn.” Vào ngày 15 tháng Chín năm 1956, tạp chí Nhân Văn độc lập đă được cấp phép xuất bản. Biên tập bởi Phan Khôi, Nhân Văn xuất bản năm lần từ 20 tháng Chín đến 20 tháng Mười Một năm 1956. Trong giai đoạn đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam đă chấp nhận trong thời gian ngắn sự thẳng thừng của các tác giả và biên tập viên.

Càng nhiều thứ thay đổi…

Ngoài nhu cầu tự do sáng tác và quyền tự do thành lập các ấn phẩm độc lập mà không chịu sự kiểm soát và kiểm duyệt của đảng, những người bất đồng ư kiến c̣n có rất nhiều khiếu nại khác. Cũng giống như nhiều đồng nhiệp của họ vào những năm 1990, giới trí thức những năm 1950 rất cẩn trọng trong việc thách thức chủ nghĩa xă hội hoặc sự độc quyền về quyền lực của đảng. Theo Georges Boudarel, một học giả hàng đầu trong nghiên cứu phong trào này: “Nhưng họ không đồng ư việc đánh đồng chủ nghĩa xă hội với chủ nghĩa nhất thể (monolithism), và chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa toàn trị (totalitarianism).”[29]

Phần lớn nhu cầu của họ tập trung vào vấn  đề “sự thật” và tính hợp pháp của các nguồn thông tin độc lập và thay thế. Các nhà đối kháng hiểu sự cần thiết của công tác tuyên truyền, nhưng họ cũng cảnh giác trước việc Đảng sẽ diễn dịch sai hoặc nói dối về các sự kiện nhằm thúc đẩy các mục tiêu của ḿnh. Phùng Quán đă yêu cầu một cách rơ ràng về sự minh bạch trong một bài thơ nổi tiếng (Lời mẹ dặn – ND):

Con ơi một người chân thật

Thấy vui muốn cười cứ cười

Thấy buồn muốn khóc là khóc.

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêụ.[30]

Tương tự như vậy, Trần Lê Văn giải thích cho sự thiếu thốn các nguồn thông tin thay thế là do tính thiếu trách nhiệm tai hại và lạm dụng quyền lực của đảng. “Nếu như các cuộc phê b́nh công khai được áp dụng sớm hơn trong công chúng và báo giới, mà trong đó ai cũng có thể thẳng thắn nói ra điều họ nghĩ để các nhà lănh đạo của chúng ta dần dần nói ra sự thật từ những dối trá trong việc thực hiện các chính sách, th́ nhiều thảm họa đă có thể tránh được.”[31]

Sai lầm tối quan trọng chính là chương tŕnh cải cách ruộng đất đặc trưng bởi “sự nổi lên của phong trào nông dân bạo lực.” Những người chống đối quan tâm đến thực tế là có ít tính hợp pháp ở khu vực nông thôn hơn là ở Hà Nội – khu vực trong tầm kiểm soát của Pháp: Bài xă luận của Nguyễn Hữu Đang trong kỳ 4 tạp chí Nhân Văn, vào ngày 5 tháng 11 năm 1956, đă nhắc lại lời tố cáo của Khrushchev về việc sử dụng bạo lực và khủng bố của Stalin và Beria, nhưng đồng thời cũng khẳng định rằng “Điều này ở xă hội ta không phải ai cũng công nhận dễ dàng. V́ ḷng khinh bỉ của chúng ta đối với pháp lư tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đă trở thành ḷng khinh bỉ pháp lư nói chung… Ít luật lệ là một điều thuận tiện cho sự lạm quyền, độc đoán. [32]

 

Để thúc đẩy tạo dựng nên xă hội mang tính pháp trị hơn, giới trí thức đă kêu gọi chỉnh sửa Hiến pháp, yêu cầu đảng trao tự do cho quốc hội, và mong muốn một nhánh tư pháp được độc lập. Vị luật sư nổi tiếng, Nguyễn Mạnh Tường, đă vạch ra bốn cuộc cải cách pháp lư cơ bản vào tháng 10 năm 1956 cần phải được thực hiện để tránh những việc lạm dụng ngoài ṿng pháp luật như đă xảy ra trong suốt chiến dịch cải cách ruộng đất: thiết lập thời hiệu khởi kiện; chấm dứt việc xử tội đồng lơa của gia đ́nh và các thế hệ liên quan đến phạm nhân; thiết lập một tiêu chuẩn cao hơn cho chứng cứ; và cung cấp quyền lợi cho người bị khởi tố trong suốt thời gian điều tra. Theo ông, những trở ngại thêm vào đó là “sự khinh bỉ đối với pháp lư – thứ đứng dưới quyền lực chính trị – và sự khinh bỉ đối với các chuyên gia.”[33]

Các nhà phê b́nh cũng đề cập rất nhiều đến sự thiếu dân chủ, sự chiếm hữu quyền lực trong tay một số ít nhân vật, và t́nh trạng tŕ trệ của chính trị nói chung. Hai tác phẩm táo bạo nhất là của Phan Khôi và Lê Đạt, hai tác giả viết về “ông b́nh vôi,” ống nhổ mà người nhai trầu vẫn sử dụng, được lấp đầy bởi vôi để ngăn mùi; đến lúc vôi tích tụ, làm cho b́nh vôi trở nên vô dụng. Sự ám chỉ Hồ Chí Minh và những nhà lănh đạo hàng đầu của đảng trong tác phẩm này đă làm cho đảng giận dữ:

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái b́nh vôi,

Càng sống càng tồi.

Càng sống càng bé lại.

Phan Khôi đă viết một bài khảo cứu nhỏ dựa trên bài thơ bốn câu này, đặt tên là “Ông b́nh vôi,” nhằm bổ sung thêm cho h́nh ảnh phúng dụ của Lê Đạt. Trong bài viết này, ông kể khi c̣n là một cậu bé 18 tuổi ông đă “hất một loạt ‘ông b́nh vôi’ thờ trên tường thành xuống đất. Sao lại làm như thế? Chúng tôi cứ làm như thế, không cần có lư luận.” Ông đả kích những nhà lănh đạo đảng vô dụng và già cỗi: “Tóm lại, cái b́nh vôi, v́ nó sống lâu ngày, ḷng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cũ rũ trên tran hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, th́ người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng ‘Ông’.”[34]

Đối tượng của sự đả kích rất rơ ràng. Hồ Chí Minh và các nhà lănh đạo đảng hàng đầu đă trở nên quá cứng nhắc và bảo thủ, cũng giống như những b́nh vôi cũ, đă mất đi tính hữu dụng. Đă đến lúc cất họ vào kệ. Ở đó họ sẽ được kính trọng, nhưng họ sẽ được thay thế bởi “những b́nh vôi” mới và có ích hơn. V́ điều này mà Phan Khôi bị tố là kẻ phản động và người theo chủ nghĩa xét lại, một người con người già nua suy yếu không thể vượt qua được “tâm tính tư sản” của ḿnh, nhưng bất chấp những sự tấn công này, ông tiếp tục biên tập tờ Nhân Văn và Giai Phẩm để hỗ trợ cho những tác giả và trí thức trẻ. Để đáp lại lời cáo buộc của nhiều người trong đảng rằng ông là kẻ phản cách mạng, ông đă viết một bài thơ trong tạp chí Giai Phẩm kỳ số ba (tháng mười 1956):

 

Hồng nào hồng chẳng có gai,

Miễn đừng là thứ hồng rài không hoa.

Là hồng th́ phải có hoa,

Không hoa chỉ có gai mà ai chơi?

Ta yêu hồng lắm hồng ơi!

Có gai mà cũng có mùi, hương thơm.

 

Tuy nhiên, Lê Đạt và Phan Khôi đứng trong hàng ngũ thiểu số khác biệt, và rất ít người sẵn sàng đối kháng công khai với hệ tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng vẫn có một ngoại lệ, đó là Giáo sư sử học Đào Duy Anh, người đă khẳng định rằng sự tuân thủ cứng nhắc của đảng đối với ư thức hệ sẽ giới hạn lại phạm vi nghiên cứu và tri thức của đất nước và do đó làm chậm quá tŕnh tăng trưởng và phát triển. Trong một đoạn văn sẽ làm tấm gương cho các công tŕnh vào gần bốn thập kỷ sau đó của Phan Đ́nh Diệu và Hà Sĩ Phu, Đào Duy Anh có viết:

Ở nước ta th́ bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại c̣n trầm trọng hơn, khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề ǵ, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Mác-Ăng-ghen và Lê-nin, hoặc những ư kiến của Sta-lin hay các lănh tụ khác, để, hoặc phát triển thêm những ư kiến ấy, hoặc g̣̣ bó tài liệu, xoay sở thế nào để gán vào khuôn khổ của những công thức rút ra tự những ư kiến ấy. Xin chỉ một cái tỷ dụ gần đây. Như vấn đề phân kỳ của lịch sử Việt Nam và vấn đề h́nh thành dân tộc, chúng tôi nhận thấy rằng nhiều người nghiên cứu không dám có ư kiến ǵ mới ngoài những điều các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác hay các vị lănh tụ đă nói về các vấn đề ấy. Hễ thấy ai có ư kiến ǵ vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn có th́ người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ, như cái danh hiệu cải biến chủ nghĩa chẳng hạn, những mũ như thế rất dễ bịt mồm bịt miệng người ta…Trong thực tế th́ sự thảo luận đă bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề ǵ, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo th́ chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy, công tác học thuật trở thành tṛ xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợi dây căng của người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật. Phải áp dụng chính sách “bách gia tranh minh” mà Đảng Cộng sản Trung Quốc thi hành đối với công tác nghiên cứu khoa học.”[35]

Tư tưởng chính thống không chỉ dẫn đến t́nh trạng tŕ trệ về mặt tri thức và chủ nghĩa giáo điều, mà nó c̣n tạo ra một tầng lớp tinh hoa hoàn toàn mới, một tầng lớp “bà la môn” bao gồm các đảng viên nào bắt đầu tách ḿnh ra khỏi quần chúng. Là cơ sở cho những tác giả những năm 1990, Hữu Loan tấn công tầng lớp mới này qua bài thơ “Cũng những thằng nịnh hót,” trong đó ông cáo buộc giai cấp thống trị mới, những người đă hành động cũng tương tự như những kẻ thống trị thời phong kiến và thực dân mà họ đă thay thế, về việc trở thành một thứ ǵ đó mà lẽ ra không nên tồn tại trong xă hội không giai cấp này.[36]

 

Phản ứng của Đảng

Các nhà lănh đạo đảng bị chia rẽ trong việc giải quyết tờ Nhân Văn, Giai Phẩm và những tạp chí chống đối khác. Nhiều người muốn miễn tội cho giới trí thức này. Đặc biệt, quân đội khá cảm thông với nhu cầu của những nhà trí thức có lẽ bởi v́ bản thân Quân đội Nhân dân (QĐND) cũng cảm thấy đảng can thiệp quá nhiều vào công việc riêng của ḿnh. Nhiều người trong QĐND, cũng như các nhà trí thức, cảm thấy lo lắng về sự quỵ lụy một cách mù quáng đối với các mô h́nh và học thuyết Trung Quốc.[37] Thật vậy, một chính ủy tư tưởng trong QĐND, Trần Độ, sau này trở thành người bất đồng chính kiến dẫn đầu vào những năm 1990, đă cố gắng dàn xếp một thỏa hiệp với những người theo đường lối cứng rắn của đảng đứng đầu bởi Tố Hữu và trợ lư của ông là Hoài Thanh.

Những người khác hoàn toàn không tin rằng giới trí thức có thể là mối đe dọa với chế độ: những cuộc tấn công gay gắt từ trong nội bộ giới này đă chọc giận nhiều người của đảng, nhưng dân chúng không mấy ai biết đến các nhà trí thức cùng với những lời phê b́nh chỉ trích của họ. Bùi Tín cho rằng phong trào được dung thứ v́ tính cô lập của nó. Chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa, thường dưới dạng sách và phim Trung Quốc và Xô Viết, dễ tiếp cận với người dân Việt Nam có tŕnh độ trung b́nh hơn nhiều so với các tác phẩm của Lê Đạt và Phan Khôi. Như Bùi Tín ghi lại, “Những ngày đó không ai có thể sở hữu các bản Nhân Văn hoặc Giai Phẩm để có thể tự hiểu được vấn đề ồn ào lúc bấy giờ.”[38] Lời kêu gọi của những nhà bất đồng chính kiến phần nào không tới được phần lớn dân chúng bởi v́ gần 90 phần trăm dân cư là nông dân mù chữ hoặc bán mù chữ.

Tuy nhiên, những người theo đường lối cứng rắn trong đảng đă giành phần thắng, vào tháng Hai năm 1956 cuộc đàn áp không nương tay bắt đầu với việc bắt giam Trần Dần và các đồng nghiệp của ông. Mặc dù đảng tiến hành hàng loạt các chiến dịch công khai bài trừ các tác phẩm của ông, nhưng để theo kịp trào lưu của thế giới cộng sản như bài phát biểu phi Stalin hóa của Khruschev và bài “Trăm hoa” của Lục Định Nhất, đảng đă cho phép Nhân Văn, Giai Phẩm và các tạp chí khác được xuất bản vào mùa hè và mùa thu năm đó (Nhân Văn được xuất bản năm lần từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 11). Học giả người Nhật Hirohide Kurihara đă lập luận rằng trong suốt giai đoạn này thật ra đảng đă thừa nhận những sai lầm trong chính sách văn chương.[39] Ví dụ, tạp chí lư thuyết của đảng, Học Tập, đă công nhận những vấn đề nêu ra trong Nhân Văn và Giai Phẩm “phần nào phản ánh được thực tế,” và một bài viết trong nhật báo của đảng, Nhân Dân, đă nói rằng chính sách “Trăm hoa” “nh́n chung là đúng.”[40]

Việc đơn thuần khơi lên những vấn đề văn chương không thể đe dọa được những người trong đảng. Điều làm cho đảng sợ là việc phong trào đang t́m cách biến ḿnh thành một tổ chức đối lập với đảng một cách độc lập, lâu dài, trung thành và có tổ chức. Như Chu Ngọc – một biên tập viên – đă tổng kết lại trong tờ Nhân Văn kỳ ba: “Chúng tôi cố gắng đấu tranh trong tổ chức, song liên tục chúng tôi bị chế ngự, nguyện vọng của chúng tôi lên tới Trung ương Đảng đă bị thay thế bằng nguyện vọng của bè phái họ.”[41] Khi các chỉ trích trên các tạp chí mang tính chính trị nhiều hơn và định hướng văn chương ít lại th́ nhiều thành viên trong đảng muốn khơi dậy một cuộc đàn áp.

Những tác nhân bên ngoài đă thay đổi t́nh h́nh trong nội bộ đảng khi chính quyền Xô Viết nghiền nát cuộc nổi dậy tại Hungari vào tháng Mười Một năm 1956, trong khi đó Trung Quốc đang ở giữa phong trào “chống cánh hữu.” Trong kỳ báo Nhân Dân ra ngày 16 tháng Chín năm 1956, Lê Duẩn cho xuất bản một bài viết có tên “Đập tan phe cánh hữu,” bài viết này là một sự mô phỏng rơ ràng lại cuộc đấu tranh được phát động tại Trung Quốc chống lại Đinh Linh và các trí thức gia đă lên tiếng chỉ trích trong suốt phong trào Trăm hoa. Trong bài báo, Lê Duẩn đă ghi “quyền [chính trị] là một loài cỏ dại độc hại và [chúng ta cần] biến nó thành phân bón để cải thiện đất trồng lúa của chúng ta.”[42] Vào tháng Mười Một, báo Nhân Dân đă đặt tên cho phong trào nổi dậy ở Hungary là cuộc phản cách mạng,[43] và một hội nghị vào tháng Mười Hai của các đảng cộng sản tại Matxcơva đă dẫn đến kết quả là các hệ tư tưởng trở nên cứng rắn hơn và việc đàn áp tất cả kẻ thù của chế độ chuyên chính vô sản được biện minh.

 

Các nhân tố bên trong cũng có tác dụng, cụ thể là công cuộc cấp tiến hóa của xă hội trong suốt chiến dịch cải cách ruộng đất tàn bạo giai đoạn 1954-1956. Đảng Lao Động “giải phóng sức mạnh của quần chúng để tiêu diệt tầng lớp địa chủ,” đây là một chiến dịch làm cho nhiều người căm phẫn và tổn hại rất nhiều đến khu vực nông thôn. Quá tŕnh tập thể hóa nông nghiệp được thực hiện vào năm 1956 dưới sự lănh đạo của Trung Quốc, và các chiến thuật của Trung Quốc như ṭa án nhân dân, chiến dịch chống lại địa chủ, vận động quần chúng, đặt tên giai cấp, và hành quyết hàng loạt đă được áp dụng một cách sốt sắng.[44]

Và tất nhiên tồn tại một mối quan ngại về việc thống nhất đất nước vốn đă bị chia cắt từ giữa năm 1954. Có người lo sợ rằng nếu các trí thức gia trở nên quá thẳng thắn và tập hợp được một diễn đàn công cộng th́ họ sẽ sử dụng nó để xúc tiến các quan điểm của họ, và sau đó họ sẽ bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ở miền Nam sử dụng cho hoạt động tuyên truyền và làm mất uy tín chính phủ Bắc Việt Nam.[45] Theo Hiệp định Geneve kư năm 1954, các cuộc bầu cử sẽ được tổ chức trong ṿng hai năm – đây là một quyết định mang tính thỏa hiệp, bởi v́ trước đó Hà Nội đă muốn tổ chức bầu cử ngay lập tức nhằm tận dụng thế áp đảo của Việt Minh. Mặc dù các cuộc bầu cử ngày càng khó xảy ra, nhưng hy vọng vẫn chưa bị dập tắt, Đảng vẫn muốn duy tŕ sự ủng hộ cao độ của nhân dân – đặc biệt là ở miền Bắc – kể từ khi mạng lưới Việt Minh và cơ sở hỗ trợ nhanh chóng bị xóa sổ bởi Diệm và em trai của ông là Ngô Đ́nh Nhu ở miền Nam.

Ảnh hưởng thực của sức ép quốc tế và nhu cầu chính trị trong nước là một phản ứng hai mũi nhọn tấn công. Đầu tiên là cuộc đàn áp đối với những người bất đồng chính kiến, bao gồm cả việc các ấn phẩm của họ bị tịch thu và những nhà lănh đạo phong trào bị bắt và cho đi cải tạo. Hai là chiến dịch văn học mạnh mẽ dẫn đầu bởi giới trí thức trung thành với đảng và mệnh lệnh của chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa.

Chiến dịch bắt đầu khi tạp chí Nhân Văn bị đóng cửa vào tháng Mười Một năm 1956 sau một cuộc đ́nh công có tổ chức của công nhân xưởng in, trước khi số báo thứ sáu được xuất bản. Tạp chí Giai Phẩm cũng bị đóng cửa chỉ sau khi phát hành bốn số (Tháng Ba, Tháng Tám, Tháng Mười, Tháng Mười Hai năm 1956). Các nhà xuất bản của cả hai tờ báo đều bị bắt, c̣n Phan Khôi qua đời tại Hà Nội vào đầu năm 1960, chỉ vài ngày trước khi ông bị triệu tập xét xử v́ tội “đi chệch đường lối.” Các nhà lănh đạo khác bị cáo buộc là đă “âm mưu kích động quần chúng thực hiện những cuộc biểu t́nh phản cách mạng nhằm lật đổ chế độ dân chủ nhân dân và sự lănh đạo của đảng.”

Trong bài nói chuyện với giới trí thức vào tháng Bảy năm 1956, Hồ Chí Minh đă nhấn mạnh “Đảng và chính phủ cần hỗ trợ giới trí thức bằng cách giáo dục để họ có được một lập trường giai cấp vững vàng, một quan điểm đúng đắn, một suy nghĩ hợp lư và những cách cư xử mang tính dân chủ.”[46] Theo lời dẫn dắt này, vào tháng Mười Hai năm 1956, một cuộc họp của các quan chức cao cấp của đảng chịu trách nhiệm về giáo dục và nghệ thuật đă được triệu tập nhằm “thống nhất các quan điểm và suy nghĩ của đảng về chủ đề văn học nghệ thuật, để đưa ra một quyết định cho tạp chí Nhân Văn và chỉ ra những hướng phát triển cho tương lai.”[47] Buổi họp này đă đưa ra quyết định biên dịch ra tiếng Việt tất cả tài liệu tiếng Trung và tiếng Nga về việc quản lư giới trí thức.

….

Bài học kinh nghiệm

Cuộc thanh trừng 1963 – 1967

Gốc rễ của cuộc thanh trừng

T́m hiểu lại cuộc thanh trừng

Di sản của sự bất đồng chính kiến

Download phần c̣n lại của văn bản tại đây: Su kien Nhan Van – Giai Pham.pdf

[1] Ghi chú của Ban Biên tập: 1. Tài liệu mang tính chất tham khảo, thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phải quan điểm của người dịch và Ban Biên tập Nghiencuuquocte.net; 2. Do không thể t́m được tất cả các văn bản gốc để đối chiếu, một số trích dẫn được dịch từ tiếng Anh có thể không đúng như nguyên văn tiếng Việt. Một số thông tin (như về tên riêng, nhân thân, chức danh… của các nhân vật) trong bài mà tác giả đưa ra có thể không chính xác.

[2] Hồ Chí Minh đă giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1946 khi các cuộc đàm phán với Pháp về quyền tự trị đă thất bại và ông chuẩn bị cuộc chiến chống Pháp. Để làm cho các nhóm dân tộc khác, đặc biệt là Việt Nam Quốc Dân Đảng – những người kiên quyết chống cộng, gia nhập vào tổ chức chung là Việt Minh, Hồ Chí Minh đă giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông t́m cách làm giảm bớt những lo ngại cho rằng Việt Minh là một tổ chức do cộng sản lănh đạo hoặc chi phối. Tuy nhiên, các cán bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đă chiếm ưu thế trong những vị trí lănh đạo của Việt Minh.

 

[3] Melvin Gurtov, The First Indochina War: Chinese Communist Strategy and the United States (New York: NXB ĐH Columbia, 1967), 16.

[4] William Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam (Boulder, Colo.: Westview Press, 1981), 141.

[5] Andrew Vickerman, The Fate of the Peasantry: The Premature “Transition to Socialism” in the Democratic Republic of Vietnam (New Haven, Conn.: Yale Center for International and Area Studies, Chuyên khảo số 28, 1986). Tham khảo thêm Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1993), 224.

[6] Như Phong, “Intellectuals, Writers and Artists,” trong P. J. Honey, biên tập., North Vietnam Today: Profile of a Communist Satellite (New York: Praeger, 1962), 77.

[7] Như Phong, “Intellectuals, Writers and Artists,” 73.

[8]  Đặng Thai Mai, “Văn học Việt Nam,” tạp chí Châu Âu, 187-388 (Tháng Bảy – Tháng Tám 1961), 91.

[9] Mao Trạch Đông, “Talks at the Yenan Forum on Literature and Art,” Tháng Năm 1942, trong Mao Trạch Đông,  Tuyển tập, tập 3 (Peking: NXB Ngoại Ngữ Hà Nội, 1965), 69–98; Vladimir Lenin, “Party Organization and Party Literature,” 1905, trong Robert C. Tucker, biên tập và dịch, The Lenin Anthology (New York: Norton, 1975), 148–153; Maxim Gorky, “Soviet Literature,” Bài nói chuyện tại Đại hội đầu tiên các nhà văn Xô Viết của toàn liên bang 17 tháng Tám 1934, trong Maxim Gorky, On Literature: Selected Articles (Moscow: Foreign Language Publishing House, n.d.), 228–268.

[10] Trường Chinh, “Chủ nghĩa Mác và Văn hóa Việt Nam” (Báo cáo trong Hội nghị Văn hóa Toàn Quốc lần hai, tháng Bảy 1948) trong Trường Chinh, tuyển tập (Hà Nội: NXB Ngoại Ngữ, 1977), 286

[11] Mao Trạch Đông, “Talks at the Yenan Forum on Literature and Art,” 86.

[12] Hồ Chí Minh, “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lăm hội họa 1951,” trong Hồ Chí Minh, tuyển tập (1920-1949) (Hà Nội: NXB Ngoại Ngữ, 1973), 133

[13] Cùng tác phẩm, 134

[14] Georges Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s: The Nhan-Van Giai Pham Affair,” Vietnam Forum 13, 155.

[15] Như Phong, “Intellectuals, Writers and Artists,” 74.

[16] P. J. Honey, “Introduction,” in Honey, ed., North Vietnam Today: Profile of a Communist Satellite (New York: Praeger, 1962), 6.

[17] Như Phong, “Intellectuals, Writers and Artists,” 75.

[18] Như trên, 76.

[19] Phan Khôi, “Phê b́nh Lănh đạo Văn nghệ,” Giai Phẩm Mùa Thu (Tháng Chín 1956) trong Hoàng Văn Chí, biên tập, Giai cấp mới ở miền Bắc Việt Nam (Sài G̣n: NXB Công Dân, 1958), 75.

[20] Như Phong, “Intellectuals, Writers and Artists,” 80.

[21] Trích trong Như Phong, “Intellectuals, Writers and Artists,” 80.

[22] Trích trong Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s,” 157.

[23] Trích trong C. K. Nguyễn, “Prophets without Honour,” Far Eastern Economic Review (sau đây viết tắt là FEER), 4 Tháng Tư 1991, 31.

[24] Phan Khôi là cháu trai của huyền thoại Hoàng Diệu (người đă treo cổ tự vẫn khi người Pháp chiếm thành Hà Nội) và là cha đẻ của thơ hiện đại, một nhà cách mạng kỳ cựu, người đă trải qua chín năm bị giam cầm trong nhà tù Côn Đảo và tám năm trong những khu rừng Việt Bắc cùng với lực lượng kháng chiến. Ông qua đời trong tủi nhục, và bị gán cái mác kẻ thù của quốc gia.

[25]Giai Phẩm, Tháng Chín 1956, trích trong Jamieson, Understanding Vietnam, 258

 

[26] Hoàng Văn Chí khẳng định rằng Trần Dần cuối cùng cũng bị đem ra xét xử, nhưng “không có lời bào chữa nào của ông được nhắc đến,” qua đó chứng minh rằng “tất cả miệng của họ đă bị lắp đầy.” Tham khảo Hoàng Văn Chí, The New Class in North  Vietnam (Sài G̣n, NXB Công Dân, 1958), 81-83

[27] Tham khảo Nguyễn Ngọc Bích, biên tập, One Thousand Years of Vietnamese Poetry (New York: NXB ĐH Columbia, 1975), 187–189.

[28] Tác phẩm giành giải của Xuân Diệu “Ngôi sao.” Xuân Diệu trở thành trí thức gia hàng đầu của đảng, liên kết chặt chẽ với Tố Hữu – nhà thơ cách mạng và sau này trở thành ủy viên Bộ chính trị.

[29] Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s,” 164.

[30] Trích trong Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s,” 164. Khi đảng cảnh cáo ông về những tác phẩm này, Phùng Quán đă trả lời một cách ngang ngược:

Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă.

Bút giấy tôi, ai cướp giật đi?

[31] Trần Lê Văn, “Fear Not that the Enemy Shall Benefit,” Nhân Văn số 2 (30 tháng Chín 1956): 164; trích trong Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s.”

[32] Trích trong Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s,” 166.

[33] Như trên.

[34] Trích trong Jamieson, Understanding Vietnam, 261.

[35] Trích trong Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s,” 167.

[36] Bài thơ xuất hiện trong Giai Phẩm mùa Thu phiên bản ra vào Tháng Mười năm 1956 và có thể t́m thấy trong Hoàng Văn Chí, The New Class in North Vietnam.

[37] Bùi Tín, Following Ho Chi Minh: Memoirs of a North Vietnamese Colonel (Honolulu: University of Hawaii Press, 1995), 14-16.  Tác phẩm này nhấn mạnh sự bất đồng giữa Vơ Nguyên Giáp và Trường Chinh. Ông Giáp, người chiến thắng trong trận chiến Điện Biên Phủ, đă đạt được điều đó bằng cách lờ đi lời khuyên từ các cố vấn Trung Quốc của ḿnh. Một điểm thú vị là trong hồi kư của ḿnh về cuộc chiến, ông rất hiếm khi nhắc đến sự ủng hộ của Trung Quốc hoặc trợ giúp mà ông nhận từ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Tham khảo thêm trong Cecil Currey, Victory at Any Cost (Washington, D.C.: Brassey’s, 1997), esp. 145–212.

[38] Tín, Following Ho Chi Minh, 35.

[39] Hirohide Kurihara, “Changes in the Literary Policy of the Vietnamese Workers’ Party, 1956-1958,” in  Indochina in the 1940s and 1950s (Ithaca, N.Y.: NXB ĐH Cornell, Southeast Asia Program, 1992), 165–196.

[40] Ví dụ, tham khảo Nguyễn Chương, “Có căn cứ hay không có căn cứ,” Nhân Dân, 15 tháng Mười 1956. Và Nguyễn Chương, “Mấy điểm sai lầm chủ yếu trong báo Nhân Văn và tập Giai Phẩm Mùa Thu,” Nhân Dân, 25 tháng Chín 1956.

[41] Chu Ngọc, Nhân Văn, Kỳ 3. Trích trong Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s,” 164.

[42] Trích trong Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s,” 171.

[43] “Phất cao ngọn cờ yêu nước và xă hội chủ nghĩa, nhân dân Hung-ga-ri đă đè bẹp bọn phản cách mạng, tay sai của đế quốc,” báo Nhân Dân, 5 tháng Mười Một 1956

[44] Chiến dịch cải cách ruộng đất tàn bạo và gây ra cuộc nổi loạn công khai tại Nghệ An, điều này đă đe dọa đến sự sống c̣n của đảng – Ngay cả sự trung thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng bị nghi ngờ. Hồ Chí Minh bị buộc phải cách chức Trường Chinh (người đă trải qua việc tự phê b́nh trước công chúng) và nắm quyền điều hành đảng. Bản thân Hồ Chủ tịch nhận ra được sự thái quá, và đă tiến hành một cuộc vận động chỉnh đốn. Ban chấp hành Trung ương Đảng thừa nhận “đă mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng trong suốt cuộc cải cách ruộng đất,” và hàng ngh́n tù chính trị đă được thả như một động thái thể hiện thiện chí. Nhưng những cuộc thanh trừng của đảng đă gieo rắc sự ngờ vực sâu sắc. Tại Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng Lao Động đă thông báo sẽ “mở rộng dân chủ, bảo vệ tự do dân chủ và mở rộng hệ thống pháp lư dân chủ.” Lincoln Kaye, “A Bowl of Rice Divided: The Economy of North Vietnam,” trong P. J. Honey, biên tập, North Vietnam Today, 107–108. Lịch sử đầy đủ của chiến dịch cải cách ruộng đất có thể t́m đọc trong Vickerma, The Fate of the Peasantry.

 

[45] Ví dụ, tham khảo, Hoàng Văn Chí, The New Class in North Vietnam.

[46] Hồ Chí Minh, “A Talk with Intellectuals,” trong Hồ Chí Minh, Tuyển tập các bài báo và phát biểu, 1920–1967, Jack Woddis, biên tập (New York: International Publishers, 1969), 109.

[47] Tạp chí Văn Nghệ, 13 (Tháng Sáu 1957)

http://nghiencuuquocte.org/2013/10/03/su-kien-nhan-van-giai-pham/#sthash.iVOsMgL1.dpuf