at Capitol. June 19.1996
with Sen. JohnMc Cain
with Congressman Bob Barr
with General John K Singlaub
CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.
CaliToday .NVR .Phê Bình . TriThucVN
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU
CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS
BIÊTKÍCH -STATENATION - LƯUTRỮ -VIDEO/TV
DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢOCỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO - VĂNHỌC - MỤCLỤC-POPULATION - WBANK - BNG ARCHIVES - POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION
VẤN ĐỀ - LÀMSAO - USFACT- POP - FDA EXPRESS. LAWFARE .WATCHDOG- THỜI THẾ - EIR.
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
ADVERTISEMENT
Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic
https://www.intelligencesquaredus.org/
Space - NASA - Space News - Nasa Flight - Children Defense
Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam.US History
World History - Global Times. Treasury. AsiaSociety
World Timeline - EpochViet - Visual Capitalist
with Ross Perot, Billionaire
with General Micheal Ryan
US DEBT CLOCK .WORLDOMETERS .TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC-COVERTACTION. EPOCH ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS - AP - NTD REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR
POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS PROPUBICA -INVESTOPI-CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEER- TASS- DAWN
NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM
Sức mạnh của Mỹ trên thế giới
Ngày 8 tháng 5 năm 2003
Hoa Kỳ hiện có sức mạnh chưa từng có. Cách Hoa Kỳ khai thác sức mạnh đó sẽ có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với thế hệ tiếp theo của người Mỹ và thế giới. Lee Hamilton giải thích cách Hoa Kỳ có thể lãnh đạo như một cường quốc nhân từ.
Mỹ chiếm một vị trí chưa từng có trong lịch sử quan hệ quốc tế. Sự thật thiết yếu của thế giới ngày nay là Hoa Kỳ có sức mạnh để đạt được mục tiêu của mình theo cách mà các quốc gia khác không làm được.
Người Mỹ phải tự hỏi họ muốn làm gì với quyền lực này. Mỹ sẽ tự bảo vệ mình như thế nào? Chúng ta sẽ bảo vệ bạn bè và đồng minh của mình như thế nào? Tương lai của hợp tác quốc tế, an ninh và toàn cầu hóa kinh tế là gì? Hoa Kỳ muốn được nhìn nhận như thế nào trên thế giới và nhận thức đó sẽ giúp ích hay cản trở khả năng hoàn thành công việc của chúng ta như thế nào?
Khi trả lời những câu hỏi này, người Mỹ sẽ quyết định nhiều hơn kết quả của cuộc chiến chống khủng bố; Người Mỹ sẽ xác định loại quốc gia nào – và thế giới nào – họ muốn con cái họ sinh sống.
sức mạnh Mỹ
Đầu tiên là đôi lời về sức mạnh Mỹ.
Sự vượt trội của Hoa Kỳ được thể hiện ở hầu hết mọi khía cạnh của sức mạnh – quân sự, kinh tế, công nghệ, văn hóa và đạo đức. Nhưng quyền lực được phân bổ khác nhau trong các vấn đề khác nhau và điều này ảnh hưởng đến cách chúng ta hành động trên thế giới.
1. Quân sự: Ưu thế quân sự của Hoa Kỳ là không cần bàn cãi và đang tăng lên.
Đó là lực lượng quân sự mạnh nhất mà thế giới từng biết.
Ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ nhiều hơn chi tiêu của 15 quốc gia tiếp theo cộng lại. Các công nghệ vũ khí của Hoa Kỳ đã mở ra một khoảng cách lớn giữa lực lượng vũ trang Hoa Kỳ và các quốc gia khác - tên lửa dẫn đường chính xác, nhóm siêu tàu sân bay, sức mạnh không quân áp đảo, hỏa lực khủng khiếp, máy bay không người lái, sự thống trị trong không gian quân sự và hệ thống vệ tinh tiên tiến, tất cả đều cho phép sự linh hoạt to lớn và khả năng tuyệt vời trong kế hoạch quân sự.
Chúng tôi đang phóng chiếu sức mạnh này ra nước ngoài hơn bao giờ hết. Chúng tôi có nhân viên quân sự ở khoảng 140 quốc gia. Sự can thiệp lớn ở Iraq, đặt căn cứ ở Afghanistan và Trung Á, và các hoạt động chung ở các quốc gia như Colombia và Philippines chỉ là một phần trong tư thế quân sự hiếu chiến của chúng ta sau sự kiện 11/9.
Về mặt quân sự, thế giới đang ở trong thời điểm đơn cực thực sự – không có kẻ thách thức nào đối với ưu thế vượt trội của Hoa Kỳ, và chính sách đã nêu của chính quyền Bush là giữ mọi thứ theo cách đó.
2. Kinh tế: Mỹ là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.
Nền kinh tế Mỹ lớn bằng ba nền kinh tế tiếp theo – Nhật Bản, Đức và Anh – cộng lại. Chỉ với 5% dân số thế giới, Hoa Kỳ chiếm 43% sản lượng của thế giới, 40% sản lượng công nghệ và 50% nghiên cứu và phát triển của thế giới. Chúng tôi cũng có tiếng nói lớn nhất trong các tổ chức tiền tệ quốc tế như WTO và IMF.
Nhưng sự thống trị về kinh tế của Mỹ không rõ rệt bằng sự thống trị về quân sự của chúng ta. Ví dụ, Liên minh châu Âu có sản lượng gần như tương đương với Hoa Kỳ, và – không giống như về các vấn đề chính sách đối ngoại và an ninh – EU thường có tiếng nói thống nhất về các vấn đề kinh tế.
Nhưng ngay cả trong thế giới đa cực của nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Mỹ vẫn đi đầu trong nền kinh tế thế giới.
3. Văn hóa: Sức mạnh của Mỹ bao gồm việc xuất khẩu văn hóa Mỹ.
Mọi người từ khắp nơi trên thế giới đến các trường học và đại học của Mỹ. Phương tiện truyền thông và công nghệ ngày càng phát triển đã truyền bá văn hóa đại chúng Mỹ và ngôn ngữ tiếng Anh ra khắp thế giới – thanh thiếu niên giờ đây nghe nhạc pop Mỹ ở Iran, xem phim Mỹ ở Trung Quốc, uống Coca-Cola ở Indonesia và học tiếng Anh ở Ai Cập.
4. Quyền lực mềm: Quyền lực của Mỹ bao gồm “quyền lực mềm”.
Tương tự như vậy, sức mạnh mềm của chúng ta – khả năng khiến người khác muốn những gì chúng ta muốn mà không ép buộc họ, bởi vì họ ngưỡng mộ những thành tựu của chúng ta và muốn bắt chước chúng ta – là vô song.
Đây là sức mạnh của ví dụ và thuyết phục.
Mọi người ngưỡng mộ sự thịnh vượng, tự do và công nghệ của Mỹ. Chúng ta đã đạt được vị trí ưu việt một phần vì các quốc gia tin tưởng chúng ta làm việc vì các giá trị dân chủ, pháp quyền, kinh tế thị trường và nhân quyền.
Những giá trị này là nền tảng đạo đức của sức mạnh Mỹ; và họ được ngưỡng mộ và săn lùng rộng rãi, ngay cả bởi những người không đồng ý với các chính sách của Mỹ.
5. Sự cần thiết của sự lãnh đạo của Mỹ: Nước Mỹ phải lãnh đạo.
Vì vậy, trong thế giới ngày nay, Hoa Kỳ đơn giản là quá lớn và quá quan trọng để ngồi bên lề. Nó phải dẫn đầu. Nó thực sự không thể làm khác. Nếu Hoa Kỳ không bước tới, sẽ không có gì xảy ra.
Có sự đồng thuận ở quốc gia này rằng Hoa Kỳ nên sử dụng sức mạnh của mình một cách mạnh mẽ để định hình lại thế giới.
Nghịch lý của quyền lực: Nhưng có một nghịch lý đối với quyền lực của Mỹ. Nước Mỹ vươn cao hơn thế giới hơn bao giờ hết, nhưng bản thân người Mỹ chưa bao giờ dễ bị tổn thương hơn thế.
Về mặt quân sự, đó là một thế giới đơn cực của quyền bá chủ của Hoa Kỳ; về kinh tế đó là một thế giới đa cực với sự lãnh đạo của Hoa Kỳ; nhưng về nhiều vấn đề xuyên quốc gia – chẳng hạn như chủ nghĩa khủng bố quốc tế, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, di cư của người dân, dịch bệnh, ma túy và suy thoái môi trường – chúng ta đang sống trong một thế giới chỉ còn thiếu một hoặc hai bước nữa là hỗn loạn.
Làm thế nào để chúng ta giải quyết những mối đe dọa này đối với an ninh và lối sống của chúng ta? Làm thế nào để chúng ta sử dụng sức mạnh của mình để theo đuổi một thế giới không bị đe dọa bởi bạo lực và hỗn loạn?
Hoa Kỳ là một cường quốc lành tính
Vì vậy, câu hỏi trở thành – làm thế nào Hoa Kỳ có thể lãnh đạo một cách hiệu quả để đáp ứng những thách thức này?
1. Quyền lực lành tính: Câu trả lời ngắn gọn là chúng ta phải là, và phải được coi là một quyền lực lành tính.
Nhưng điều đó không dễ dàng như vậy trong một thế giới nguy hiểm.
Chắc chắn chúng ta đúng khi lo ngại về các mối đe dọa mới. Chủ nghĩa khủng bố quốc tế và vũ khí hủy diệt hàng loạt trong tay những kẻ độc tài nguy hiểm đặt ra những thách thức nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia của chúng ta. Cơn ác mộng thảm khốc của chúng ta là một cuộc tấn công khủng bố vào Hoa Kỳ hoặc các đồng minh của chúng ta bằng vũ khí hạt nhân.
Chắc chắn chúng ta phải bảo lưu quyền hành động để bảo vệ lợi ích và an ninh của chính mình, và chúng ta phải bảo lưu quyền hành động một mình, nếu cần. Và chắc chắn, trách nhiệm chính của các nhà lãnh đạo của chúng tôi là đối với người dân Mỹ và Hiến pháp Mỹ – không phải với các thể chế quốc tế.
Nhưng chúng ta phải nói và hành động như một cường quốc nhân từ, tạo ra một cách tiếp cận đồng thuận hướng tới một thế giới hòa bình, phát triển và tự do – một thế giới khó đạt được. Để giành chiến thắng trong cuộc chiến chống khủng bố và duy trì vai trò lãnh đạo quốc tế của chúng ta, sức mạnh của Mỹ phải đi kèm với sự hào phóng và quan hệ đối tác của Mỹ.
Giống như chúng ta hy vọng rằng các quốc gia khác nhạy cảm với những thách thức do vị thế độc nhất của chúng ta đặt ra cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải cố gắng đảm bảo rằng chính sách của chúng ta được thông báo bằng sự đánh giá sâu sắc hơn về cách những người khác nhìn nhận nó.
Chúng tôi thường thể hiện sức mạnh của nước Mỹ; không phải lúc nào chúng ta cũng thể hiện lòng tốt của nước Mỹ. Chúng tôi thường mang theo cây gậy lớn; không phải lúc nào chúng ta cũng nói nhẹ nhàng.
Thách thức đối với chúng tôi là thuyết phục các quốc gia khác thấy rằng họ và người dân của họ sẽ được lợi khi hợp tác với Hoa Kỳ. Sức mạnh của chúng ta có thể mang lại sự sợ hãi và tôn trọng, nhưng trừ khi được sử dụng với kỹ năng tuyệt vời, nó sẽ không mang lại sự ngưỡng mộ và yêu mến, và nó sẽ không tự nó xây dựng nên thế giới mà chúng ta muốn sống.
Thách thức của chúng tôi là cho mọi người biết rằng chúng tôi là một quốc gia vĩ đại bởi vì chúng tôi cố gắng mang lại sự nở rộ cho các cá nhân, giúp họ trở thành người giỏi nhất mà họ có thể trở thành.
2. Can thiệp quân sự: Khi nói Mỹ là một cường quốc nhân từ, chúng ta không được từ bỏ vũ lực quân sự.
Chúng ta cố gắng trở thành một cường quốc nhân từ, nhưng đôi khi, chúng ta phải là một cường quốc cứng rắn. Chúng ta phải sẵn sàng can thiệp quân sự khi đối mặt với các mối đe dọa nguy hiểm.
Một chính sách đối ngoại ôn hòa của Mỹ không có nghĩa là Mỹ tránh sử dụng sức mạnh quân sự.
Trong cuộc đời của tôi, gần 400.000 người Mỹ đã thiệt mạng trong chiến tranh. Tôi đã tham gia vào nhiều cuộc thảo luận dẫn đến một số cái chết này, và cho dù tôi nghĩ những cuộc chiến này có hợp lý đến đâu, thì việc đặt sinh mạng của người Mỹ vào nguy hiểm là một gánh nặng không hề nhỏ. Không ai có thể buộc tội chúng ta ác cảm với việc sử dụng quyền lực.
Và trong nhiều trường hợp, chúng ta đã chứng kiến quyền lực đó có tác dụng với những người khác cũng như vì an ninh quốc gia của chính chúng ta – cho dù đó là việc bảo vệ châu Âu trong Chiến tranh Lạnh hay là nơi các cô gái trở lại trường học ở Afghanistan.
Sử dụng vũ lực đôi khi là một lựa chọn tốt hơn ngoại giao trong việc đối phó với những bạo chúa như Hitler hay Milosevic. Nhưng việc sử dụng sức mạnh quân sự sẽ khiến chúng ta tạm dừng. Như Woodrow Wilson đã nói, dẫn đất nước này vào chiến tranh là một điều đáng sợ. Chúng ta phải cực kỳ cẩn thận khi thảo luận và áp dụng học thuyết chiến tranh phủ đầu hoặc phòng ngừa chống lại các mối đe dọa không rõ ràng sắp xảy ra.
Chúng ta sẽ không – và không nên – đợi đến khi quá muộn để tự bảo vệ mình. Vì lý do này, công cụ phủ đầu luôn là – và nên duy trì – một yếu tố trong chiến lược an ninh của Mỹ - không tổng thống Mỹ nào từ chối hành động khi đối mặt với một cuộc tấn công sắp xảy ra nhằm vào Hoa Kỳ hoặc các lợi ích của nước này.
Một sự tôn trọng lành mạnh đối với sức mạnh quân sự của Mỹ cũng có thể là một biện pháp ngăn chặn các quốc gia bất hảo phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt và đe dọa lợi ích của Mỹ.
Nhưng can thiệp quân sự chỉ là một công cụ trong số nhiều công cụ khác, và nó là một công cụ nên được sử dụng một cách tiết kiệm. Chúng ta không nên đánh giá quá cao những gì sức mạnh quân sự có thể đạt được.
Chiến tranh gợi lên đau khổ, đam mê và những hậu quả không lường trước được; chúng ta phải luôn nhạy cảm với nhu cầu biện minh về pháp lý và chính trị cho các hành động của mình, nên chú ý đến dư luận thế giới và nên tìm hiểu thấu đáo các giải pháp phi quân sự trước khi sử dụng vũ lực.
Theo lời của Thượng nghị sĩ Daniel Patrick Moynihan, chúng ta không nên chạy vòng quanh thế giới để tìm kiếm lý lẽ. Chúng ta cũng không nên phớt lờ những đồng minh, những bạn bè vỡ mộng, hay chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Khi chúng ta hành động, chúng ta phải chắc chắn bỏ lại phía sau những quốc gia và cuộc sống tốt đẹp hơn. Nếu chúng ta muốn lợi ích của mình phát triển mạnh ở nước ngoài, dù ở Afghanistan hay Iraq, chúng ta phải có ý chí chính trị để tiếp tục tiến trình và trả giá.
3. Hợp tác: Chúng ta phải theo đuổi các bước phi quân sự chống khủng bố và các mối đe dọa nguy hiểm với sức mạnh tương tự như chúng ta tiến hành chiến tranh.
Sức mạnh quân sự của chúng ta là tuyệt vời và cần thiết, nhưng nó không đủ để làm cho thế giới trở thành một nơi an toàn hơn. Kỹ năng ngoại giao và chính trị của chúng ta phải phù hợp với sức mạnh quân sự của chúng ta.
Sự lãnh đạo của chúng ta phải bao gồm quan hệ đối tác và hợp tác. Chúng ta mạnh mẽ hơn và các vấn đề của chúng ta nhỏ hơn khi chúng ta hành động thống nhất với các đồng minh.
Điều đó nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa là chúng tôi tiếp tục các hoạt động thực thi pháp luật chung với các quốc gia khác đang truy quét mạng lưới al Qaeda. Hiện tại, các vụ bắt giữ quan trọng đã được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau như Đức, Pakistan và Indonesia.
Điều đó có nghĩa là chúng tôi làm việc với hơn 80 quốc gia trên toàn cầu có sự hiện diện của al Qaeda bên trong biên giới của họ. Chỉ bằng cách hợp tác với họ và thường xuyên chia sẻ thông tin tình báo với họ, chúng ta mới có thể ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố trong tương lai – cả trên bờ biển của chúng ta và bên ngoài chúng.
Điều đó có nghĩa là chúng tôi hợp tác với các quốc gia khác để cắt đứt nguồn tài chính khủng bố. Mạng lưới tài chính của Al Qaeda trải rộng, phức tạp và đa dạng. Chúng ta phải hợp tác với các chính phủ, tổ chức từ thiện và ngân hàng nước ngoài để minh bạch hơn trong các giao dịch tài chính và cắt đứt các nguồn lực cho phép hoạt động khủng bố.
Điều đó có nghĩa là các nhà ngoại giao của chúng tôi làm việc với các đối tác nước ngoài của họ để thiết lập một môi trường quốc tế thù địch với chủ nghĩa khủng bố. Chúng ta phải đạt được sự đồng thuận bác bỏ việc giết hại thường dân vô tội như một hoạt động chính trị có thể chấp nhận được, và cô lập chủ nghĩa khủng bố như một hoạt động bất hợp pháp và bất hợp pháp.
Và điều đó có nghĩa là chúng tôi cung cấp viện trợ và đào tạo cho các quốc gia sẵn sàng cắt giảm khủng bố trong biên giới của họ. Chuyên môn, nguồn lực và khả năng công nghệ của chúng tôi sẽ giúp các quốc gia trấn áp chủ nghĩa khủng bố bản địa.
Các hoạt động quân sự không nên là phần chính trong chiến dịch chống khủng bố của chúng ta. Chỉ riêng bom và súng sẽ không tiêu diệt được chủ nghĩa khủng bố quốc tế - chúng thậm chí có thể tiếp thêm nhiên liệu cho nó.
Ưu thế quân sự phải được củng cố bằng chính sách ngoại giao đa phương. Vì vậy, chúng ta phải lãnh đạo các liên minh ngoại giao, pháp lý và kinh tế. Chúng ta phải cố gắng chiếm ưu thế của mình và sử dụng nó – không phải để thống trị hay ra sắc lệnh – mà để thúc đẩy sự hợp tác quốc tế cần thiết cho an ninh quốc tế.
Chúng ta phải xác định lợi ích của mình theo cách mà các quốc gia khác chấp nhận và nắm lấy. Bằng cách đó, chúng ta sẽ mở rộng quyền lực và duy trì ảnh hưởng của mình. Chỉ hành động vì lợi ích cá nhân của chúng ta là hành động chống lại lợi ích cá nhân của chúng ta.
Quá khứ của chúng ta có nhiều điều để dạy chúng ta. Chúng tôi lãnh đạo tốt nhất khi chúng tôi lãnh đạo bằng sự đồng thuận. Làm việc với sự hỗ trợ rộng rãi của các đồng minh và xây dựng các thể chế quốc tế, chúng tôi đã đạt được nhiều mục tiêu. Trong sáu mươi năm qua, chúng tôi đã dẫn đầu trong việc tạo ra:
-- NATO, để đối mặt và đánh bại mối đe dọa của Liên Xô;
-- Liên Hợp Quốc, để cung cấp một diễn đàn quốc tế cho đối thoại, hợp tác và luật pháp quốc tế để giải quyết vô số vấn đề toàn cầu;
-- và các tổ chức tiền tệ đa phương như Ngân hàng Thế giới, IMF và WTO để mở rộng thương mại, thị trường, phát triển và ổn định tài chính trên toàn cầu.
Sức mạnh của Mỹ hoạt động hiệu quả nhất khi được liên kết với sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế. Thành công vượt trội của chúng ta - thực sự là thiên tài của chúng ta - dù trong Thế chiến II, Chiến tranh Lạnh hay giai đoạn đầu của cuộc chiến chống khủng bố, đều là xây dựng các liên minh và liên minh để hỗ trợ các mục tiêu chung và rõ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, chúng ta không chọn xây dựng một đế chế mà là xây dựng một thế giới của các liên minh, thể chế và ngoại giao. Những nỗ lực này chắc chắn phục vụ lợi ích của chúng tôi. Nhưng đó là một sự tư lợi giác ngộ, thậm chí cao cả, biết tính đến lợi ích của người khác. Bởi vì điều này, Mỹ không chỉ được coi là một cường quốc hào phóng và nhân từ, mà còn là một cường quốc đáng tin cậy và không sợ hãi.
Tất nhiên, hợp tác, hay cách tiếp cận đa phương, tự nó không phải là mục đích. Chúng ta nên yêu cầu các thể chế quốc tế thực hiện đúng trách nhiệm của mình, nâng cao hiệu quả và đáp ứng những thách thức mới của thế kỷ 21. Chúng tôi không muốn tham gia vào các hiệp định đa phương đe dọa lợi ích của chúng tôi.
Nhưng chúng ta cũng không muốn sống trong một thế giới không có luật pháp và chuẩn mực quốc tế – một thế giới nơi chúng ta đơn độc chống lại mối đe dọa này đến mối đe dọa khác, hết bạo chúa này đến bạo chúa khác.
Hành động với sự hỗ trợ quốc tế rộng rãi nhất giúp đơn giản hóa mọi thứ cho chúng tôi. Nó mang lại tính hợp pháp, làm xói mòn sự phản đối và hạ thấp mức giá. Khi chúng ta hành động một mình, gánh nặng, rủi ro và chi phí mà chúng ta phải gánh chịu còn lớn hơn nhiều.
Phong cách rất quan trọng trong quan hệ quốc tế – thật vậy, phong cách thường là chất trong ngoại giao. Vì vậy, chúng ta phải chú ý lắng nghe những mối quan tâm của bạn bè và đồng minh của chúng ta; chúng tôi phải nỗ lực giải thích các chính sách của mình, đồng thời đưa ra các giải pháp thay thế cho các chính sách mà chúng tôi từ chối.
Thành công trong cuộc chiến chống khủng bố và thế giới mới sắp tới phụ thuộc vào kỹ năng chính trị và ảnh hưởng nhiều như đối với sức mạnh quân sự. Chúng ta sẽ cần sự giúp đỡ để xây dựng một thế giới hòa bình và dân chủ hơn.
4. Chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân: Hoa Kỳ phải cung cấp sự lãnh đạo để chống lại sự phổ biến vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học.
Nhu cầu cấp bách đối với chúng tôi là phát triển một cách tiếp cận toàn diện để ngăn chặn sự lây lan của WMD. Đánh phủ đầu quân sự đôi khi có thể hợp lý, nhưng nó không nên là công cụ chính của việc không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Lực lượng quân sự một mình không thể ngăn chặn sự phổ biến của vũ khí nguy hiểm nhất thế giới. Các chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân quốc tế mạnh mẽ - cả về mặt pháp lý và đạo đức - là cần thiết.
Các công cụ khác bao gồm đảm bảo an ninh, sáng kiến kinh tế, hệ thống cảnh báo sớm, cơ chế xác minh và thực thi, kiểm soát xuất khẩu, kiểm tra và nỗ lực ngăn chặn các vật liệu nguy hiểm ở Liên Xô cũ và các nơi khác rơi vào tay kẻ xấu.
Cần mở rộng các chương trình hợp tác giúp Nga dỡ bỏ vũ khí hạt nhân và các địa điểm sản xuất hạt nhân; vật liệu cấp vũ khí được đảm bảo và việc làm thay thế được cung cấp cho các nhà khoa học thất nghiệp, những người có thể bán kỹ năng của họ cho người trả giá cao nhất.
Sự thiếu sót trong các thỏa thuận vũ khí không đòi hỏi phải từ bỏ các chế độ toàn cầu; ngược lại, giờ đây chúng ta phải đi đầu trong việc xây dựng các chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân mạnh mẽ hơn, phát triển các công nghệ và quy trình mới để thực thi các sáng kiến kiểm soát vũ khí, đồng thời hợp tác với các bên khác để bảo đảm và dỡ bỏ các loại vũ khí nguy hiểm nhất thế giới.
5. Giải quyết xung đột: Chúng ta phải dẫn đầu những nỗ lực mạnh mẽ để giải quyết những xung đột rắc rối và khó giải quyết nhất trên thế giới.
Chúng ta nên đi đầu trong việc theo đuổi hòa bình trong:
-- Xung đột Israel-Palestine, gây mất ổn định ở Trung Đông, đe dọa an ninh của Israel, và nuôi dưỡng sự phẫn nộ của người Hồi giáo ở phương Tây.
-- Tranh chấp về Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan, đe dọa thế giới với viễn cảnh khủng khiếp về chiến tranh hạt nhân ở Nam Á.
-- và cuộc khủng hoảng trên Bán đảo Triều Tiên, nơi có khả năng xảy ra một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân, một khu vực bất ổn và là nguồn cung cấp cho những kẻ khủng bố và các chế độ bất hảo đang tìm cách mua công nghệ vũ khí.
Một nỗ lực quốc tế do Mỹ đứng đầu nhằm giải quyết những xung đột đang sôi sục này, nhằm cố gắng khiến mọi người ngừng giết hại lẫn nhau và đe dọa nhau bằng vũ khí khủng khiếp, có thể góp phần vào sự ổn định toàn cầu và an ninh của hàng tỷ người, đồng thời nâng cao nhận thức về người Mỹ. quyền lực.
Thái độ của chúng ta phải là hòa bình có thể đạt được nếu chúng ta tham gia, làm việc với các đối tác quốc tế và quyết tâm đầu tư ý chí chính trị để tìm ra giải pháp.
6. Hội nhập và phát triển kinh tế: Chúng ta phải dẫn dắt sự phát triển kinh tế thế giới.
Hội nhập kinh tế:
-- hỗ trợ nền kinh tế Hoa Kỳ, tạo cơ hội mới cho đầu tư và tăng trưởng;
-- giúp các nước đang phát triển, bằng cách mở ra những thị trường rộng lớn cho hàng hóa của họ;
- thắt chặt mối quan hệ giữa các quốc gia, bằng cách thiết lập các liên kết thương mại;
-- truyền bá các giá trị của chúng ta, bằng cách mang lại cơ hội tự do cho các quốc gia vốn chỉ biết đến các nền kinh tế đóng cửa, bị kiểm soát và đàn áp.
-- và giải phóng tiềm năng của toàn bộ quần thể. Thật vậy, không có gì có thể làm được nhiều hơn để chống lại những nguyên nhân gốc rễ của chủ nghĩa khủng bố ngoài việc cung cấp cho hàng triệu người trẻ và những người thất nghiệp ở Trung Đông cơ hội và việc làm.
Để đi đầu trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, Hoa Kỳ không được trợ cấp quá mức cho nông dân, công nhân và nhà máy của mình; chúng ta phải mở cửa thị trường cho hàng hóa từ các nước đang phát triển, thúc đẩy mạnh mẽ các hiệp định thương mại mới, đầu tư ra nước ngoài và cố gắng biến chủ nghĩa tư bản Mỹ trở thành một hình mẫu mà thế giới có thể tin tưởng và noi theo.
Người ta thường nói rằng các nền dân chủ không gây chiến với nhau; cũng đúng là các quốc gia có lợi ích kinh tế chung ít có khả năng gây chiến với nhau.
Chúng ta cũng nên tăng viện trợ nước ngoài và làm việc để giảm nghèo và bất bình đẳng trên toàn thế giới.
Là một quốc gia phản ánh sự hào phóng và nhân đạo của người dân Hoa Kỳ, chúng ta nên đi đầu trong việc xây dựng thị trường, cung cấp thực phẩm cho người nghèo, chữa trị cho người bệnh, giáo dục trẻ em và chào đón sinh viên và học giả nước ngoài đến với đất nước của chúng ta.
Thông qua các sáng kiến song phương như Tài khoản Thách thức Thiên niên kỷ và các sáng kiến đa phương như nỗ lực toàn cầu để chống lại bệnh tật, chúng ta có thể củng cố cam kết của mình với các nước đang phát triển và cho cả thế giới thấy chúng ta thực sự là người như thế nào.
Viện trợ, được đưa ra trong những hoàn cảnh thích hợp, có thể cải thiện các mối quan hệ, xây dựng xã hội dân sự và cơ sở hạ tầng của các quốc gia, đồng thời giải quyết các vấn đề xuyên quốc gia rắc rối như HIV/AIDS, nạn đói và tình trạng di cư của các dân tộc.
Bằng cách nhấn mạnh rằng những người nhận viện trợ phải đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định về trách nhiệm giải trình và khuyến khích các quốc gia cải cách, chúng ta có thể cải thiện quản trị ở nước ngoài.
Tất nhiên, có những giới hạn đối với những gì chúng ta có thể làm với viện trợ. Cho dù chúng ta có thiện chí hay hào phóng đến đâu, chúng ta cũng không thể chiếm Haiti và biến nó thành Thụy Điển. Nhưng chúng ta có thể đưa ra lời hứa về cơ hội và làm việc với các quốc gia nhận viện trợ sẵn sàng và có khả năng thực hiện những cải cách cần thiết để cải thiện cuộc sống của người dân họ.
7. Các giá trị của Mỹ: Trong tất cả những gì chúng ta làm, chúng ta phải phản ánh các giá trị cơ bản của mình.
Chúng ta đang và nên là những nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ, tự do kinh doanh, nhân quyền và pháp quyền. Sống đúng với những giá trị này cần có kỹ năng tuyệt vời, pha trộn giữa chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa hiện thực. Nhưng chính sách đối ngoại của chúng ta luôn đạt được thành công lớn nhất khi chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa hiện thực của chúng ta kết hợp với nhau. Chủ nghĩa lý tưởng – cũng như tư lợi – là một thành phần cần thiết của lợi ích quốc gia Mỹ.
Các quốc gia và người dân khác tin tưởng chúng tôi làm việc vì các giá trị của chúng tôi. Sự tin tưởng này là tài sản quan trọng nhất của chúng tôi; để đạt được mục tiêu của mình, chúng ta phải xứng đáng với sự tin tưởng đó.
Mặc dù không hoàn hảo, đất nước chúng ta là một lực lượng dân chủ và tiến bộ. Vào cuối ngày, chính sách đối ngoại của chúng ta phải nhìn xa hơn các mối đe dọa và nguy hiểm, sự bất đồng và bất hòa, đồng thời lên tiếng và hành động vì những mục tiêu đại diện cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của người dân Mỹ.
Kết luận: Những thách thức và cơ hội trước mặt chúng ta thật đáng kinh ngạc và thú vị. Thật vậy, chúng ta phải đối mặt với những thử thách ở mọi nơi chúng ta đến.
Chúng ta sống trong một thế giới, phần lớn là do chính chúng ta tạo ra - sản phẩm của ý tưởng, sức mạnh của chúng ta và - trên hết - tầm nhìn lạc quan và nhân từ của chúng ta về một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Chúng ta phải tìm cách sử dụng sức mạnh to lớn của mình để đối mặt với những thách thức và hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn.
Sức mạnh của Mỹ, nếu được sử dụng một cách thận trọng, có thể tốt cho người Mỹ – và tốt cho thế giới.
Quyền bá chủ của Hoa Kỳ và những nguy cơ của nó
2023-02-20 16:28
Quyền bá chủ của Hoa Kỳ và những nguy cơ của nó
tháng 2 năm 2023
nội dung
Giới thiệu
I. Quyền bá chủ về chính trị—Vung tay ra xung quanh
II. Quyền bá chủ quân sự—Sử dụng vũ lực tùy tiện
III. Quyền bá chủ kinh tế—Cướp bóc và bóc lột
IV. Quyền bá chủ công nghệ—Độc quyền và đàn áp
V. Quyền bá chủ văn hóa—Truyền bá những câu chuyện sai sự thật
Phần kết luận
Giới thiệu
Kể từ khi trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thế giới sau hai cuộc chiến tranh thế giới và Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã hành động táo bạo hơn để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác, theo đuổi, duy trì và lạm dụng quyền bá chủ, tiến hành lật đổ và xâm nhập, và cố ý tiến hành chiến tranh. , gây hại cho cộng đồng quốc tế.
Hoa Kỳ đã phát triển một vở kịch bá quyền để dàn dựng “các cuộc cách mạng màu”, xúi giục tranh chấp khu vực và thậm chí trực tiếp phát động chiến tranh dưới chiêu bài thúc đẩy dân chủ, tự do và nhân quyền. Bám vào tâm lý Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã đẩy mạnh chính trị khối và châm ngòi cho xung đột và đối đầu. Nó đã phóng đại quá mức khái niệm an ninh quốc gia, lạm dụng kiểm soát xuất khẩu và áp đặt các biện pháp trừng phạt đơn phương đối với các nước khác. Nó đã thực hiện một cách tiếp cận có chọn lọc đối với luật pháp và quy tắc quốc tế, sử dụng hoặc loại bỏ chúng khi thấy phù hợp, và đã tìm cách áp đặt các quy tắc phục vụ lợi ích của mình dưới danh nghĩa duy trì một "trật tự quốc tế dựa trên các quy tắc".
Báo cáo này, bằng cách trình bày các sự kiện có liên quan, tìm cách vạch trần việc Hoa Kỳ lạm dụng quyền bá chủ trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, công nghệ và văn hóa, đồng thời thu hút sự chú ý của quốc tế nhiều hơn về những nguy cơ mà các hành vi của Hoa Kỳ gây ra đối với hòa bình và ổn định thế giới và hạnh phúc của tất cả các dân tộc.
I. Quyền bá chủ chính trị -- Tung ra sức nặng của nó
Hoa Kỳ từ lâu đã cố gắng nhào nặn các quốc gia khác và trật tự thế giới bằng các giá trị và hệ thống chính trị của riêng mình dưới danh nghĩa thúc đẩy dân chủ và nhân quyền.
◆ Có rất nhiều trường hợp Mỹ can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Dưới danh nghĩa "thúc đẩy dân chủ", Hoa Kỳ đã thực hiện "Học thuyết Tân Monroe" ở Mỹ Latinh, kích động "các cuộc cách mạng màu" ở Âu Á và dàn dựng "Mùa xuân Ả Rập" ở Tây Á và Bắc Phi, mang đến hỗn loạn và thảm họa đến nhiều quốc gia.
Năm 1823, Hoa Kỳ công bố Học thuyết Monroe. Trong khi chào mời một "nước Mỹ cho người Mỹ", điều nó thực sự mong muốn là một "nước Mỹ cho nước Mỹ".
Kể từ đó, chính sách của các chính phủ liên tiếp của Hoa Kỳ đối với Châu Mỹ Latinh và Vùng Caribe đầy rẫy sự can thiệp chính trị, can thiệp quân sự và lật đổ chế độ. Từ sự thù địch kéo dài 61 năm đối với và phong tỏa Cuba cho đến việc lật đổ chính phủ Allende của Chile, chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực này đã được xây dựng dựa trên một châm ngôn - những người phục tùng sẽ thịnh vượng; những người chống lại sẽ chết.
Năm 2003 đánh dấu sự khởi đầu của một loạt các "cuộc cách mạng màu" - "Cách mạng Hoa hồng" ở Gruzia, "Cách mạng Cam" ở Ukraine và "Cách mạng Hoa Tulip" ở Kyrgyzstan. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công khai thừa nhận đóng một "vai trò trung tâm" trong những "thay đổi chế độ" này. Hoa Kỳ cũng can thiệp vào công việc nội bộ của Philippines, lật đổ Tổng thống Ferdinand Marcos Sr. vào năm 1986 và Tổng thống Joseph Estrada vào năm 2001 thông qua cái gọi là "Cuộc cách mạng Quyền lực Nhân dân".
Vào tháng 1 năm 2023, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo đã phát hành cuốn sách mới Never Give An Inch: Fighting for the America I Love. Ông tiết lộ trong đó rằng Hoa Kỳ đã âm mưu can thiệp vào Venezuela. Kế hoạch nhằm buộc chính phủ Maduro phải đạt được thỏa thuận với phe đối lập, tước bỏ khả năng bán dầu và vàng để đổi ngoại tệ của Venezuela, gây áp lực lớn lên nền kinh tế và gây ảnh hưởng đến cuộc bầu cử tổng thống năm 2018.
◆ Hoa Kỳ áp dụng tiêu chuẩn kép đối với các quy tắc quốc tế. Đặt lợi ích của mình lên hàng đầu, Hoa Kỳ đã bỏ qua các hiệp ước và tổ chức quốc tế, đặt luật pháp trong nước lên trên luật pháp quốc tế. Vào tháng 4 năm 2017, chính quyền Trump tuyên bố sẽ cắt mọi khoản tài trợ của Hoa Kỳ cho Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) với lý do tổ chức này "ủng hộ hoặc tham gia quản lý chương trình cưỡng chế phá thai hoặc triệt sản không tự nguyện." Hoa Kỳ hai lần rời khỏi UNESCO vào năm 1984 và 2017. Năm 2017, Hoa Kỳ tuyên bố rời bỏ Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Năm 2018, họ tuyên bố rời khỏi Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, với lý do tổ chức này "thiên vị" chống lại Israel và không bảo vệ nhân quyền một cách hiệu quả. Năm 2019, Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi Hiệp ước Lực lượng hạt nhân tầm trung để tìm kiếm sự phát triển tự do của vũ khí tiên tiến. Vào năm 2020, nó tuyên bố rút khỏi Hiệp ước về Bầu trời Mở.
Hoa Kỳ cũng là một trở ngại đối với việc kiểm soát vũ khí sinh học bằng cách phản đối các cuộc đàm phán về một giao thức xác minh cho Công ước Vũ khí Sinh học (BWC) và cản trở việc xác minh quốc tế về các hoạt động của các quốc gia liên quan đến vũ khí sinh học. Là quốc gia duy nhất sở hữu kho dự trữ vũ khí hóa học, Mỹ đã nhiều lần trì hoãn việc tiêu hủy vũ khí hóa học và chần chừ trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Nó đã trở thành trở ngại lớn nhất để hiện thực hóa "một thế giới không có vũ khí hóa học".
◆ Hoa Kỳ đang tập hợp các khối nhỏ lại với nhau thông qua hệ thống liên minh của mình. Nó đã và đang áp đặt "Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương" lên khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tập hợp các câu lạc bộ độc quyền như Five Eyes, Quad và AUKUS, đồng thời buộc các nước trong khu vực phải đứng về phía nào. Những hành động như vậy về cơ bản nhằm tạo ra sự chia rẽ trong khu vực, châm ngòi cho sự đối đầu và phá hoại hòa bình.
◆ Mỹ tự ý đưa ra phán quyết về dân chủ ở các quốc gia khác và bịa đặt một câu chuyện sai lệch về "dân chủ so với chủ nghĩa độc tài" để kích động bất hòa, chia rẽ, kình địch và đối đầu. Vào tháng 12 năm 2021, Hoa Kỳ tổ chức "Hội nghị thượng đỉnh vì dân chủ" đầu tiên, đã thu hút sự chỉ trích và phản đối từ nhiều quốc gia vì đã chế giễu tinh thần dân chủ và chia rẽ thế giới. Vào tháng 3 năm 2023, Hoa Kỳ sẽ tổ chức một "Hội nghị thượng đỉnh vì dân chủ" khác, điều này vẫn không được hoan nghênh và sẽ lại không nhận được sự ủng hộ nào.
II. Quyền bá chủ quân sự -- Sử dụng vũ lực bừa bãi
Lịch sử của Hoa Kỳ được đặc trưng bởi bạo lực và bành trướng. Kể từ khi giành được độc lập vào năm 1776, Hoa Kỳ đã không ngừng tìm cách bành trướng bằng vũ lực: tàn sát người da đỏ, xâm lược Canada, tiến hành chiến tranh chống Mexico, xúi giục Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha và sáp nhập Hawaii. Sau Thế chiến II, các cuộc chiến do Hoa Kỳ kích động hoặc phát động bao gồm Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh vùng Vịnh, Chiến tranh Kosovo, Chiến tranh ở Afghanistan, Chiến tranh Iraq, Chiến tranh Libya và Chiến tranh Syria, lạm dụng quyền bá chủ quân sự của mình để mở đường cho các mục tiêu bành trướng. Trong những năm gần đây, ngân sách quân sự trung bình hàng năm của Hoa Kỳ đã vượt quá 700 tỷ đô la Mỹ, chiếm 40% tổng số của thế giới, nhiều hơn 15 quốc gia phía sau cộng lại. Hoa Kỳ có khoảng 800 căn cứ quân sự ở nước ngoài, với 173,
Theo cuốn sách America Invades: How We've Invaded or been Military Involved with most Every Country on Earth, Hoa Kỳ đã chiến đấu hoặc can dự về mặt quân sự với gần như tất cả 190 quốc gia lẻ được Liên Hợp Quốc công nhận chỉ với ba trường hợp ngoại lệ. Ba quốc gia được "tha" vì Hoa Kỳ không tìm thấy chúng trên bản đồ.
◆ Như cựu Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter đã nói, Hoa Kỳ chắc chắn là quốc gia hiếu chiến nhất trong lịch sử thế giới. Theo một báo cáo của Đại học Tufts, "Giới thiệu Dự án can thiệp quân sự: Bộ dữ liệu mới về các can thiệp quân sự của Hoa Kỳ, 1776-2019", Hoa Kỳ đã thực hiện gần 400 cuộc can thiệp quân sự trên toàn cầu trong những năm đó, 34% trong số đó là ở Châu Mỹ Latinh và Châu Mỹ Latinh. Caribê, 23% ở Đông Á và Thái Bình Dương, 14% ở Trung Đông và Bắc Phi, và 13% ở Châu Âu. Hiện nay, sự can thiệp quân sự của nước này vào Trung Đông, Bắc Phi và châu Phi cận Sahara đang gia tăng.
Alex Lo, một nhà bình luận của South China Morning Post, đã chỉ ra rằng Hoa Kỳ hiếm khi phân biệt giữa ngoại giao và chiến tranh kể từ khi thành lập. Nó đã lật đổ các chính phủ được bầu cử dân chủ ở nhiều nước đang phát triển trong thế kỷ 20 và ngay lập tức thay thế chúng bằng các chế độ bù nhìn thân Mỹ. Ngày nay, tại Ukraine, Iraq, Afghanistan, Libya, Syria, Pakistan và Yemen, Hoa Kỳ đang lặp lại các chiến thuật cũ của mình là tiến hành các cuộc chiến tranh ủy nhiệm, cường độ thấp và máy bay không người lái.
◆ Quyền bá chủ quân sự của Hoa Kỳ đã gây ra những thảm kịch nhân đạo. Kể từ năm 2001, các cuộc chiến tranh và hoạt động quân sự do Hoa Kỳ phát động dưới danh nghĩa chống khủng bố đã cướp đi sinh mạng của hơn 900.000 người, trong đó có khoảng 335.000 dân thường, hàng triệu người bị thương và hàng chục triệu người phải sơ tán. Chiến tranh Iraq năm 2003 đã khiến khoảng 200.000 đến 250.000 dân thường thiệt mạng, trong đó có hơn 16.000 người bị quân đội Hoa Kỳ trực tiếp giết chết và khiến hơn một triệu người mất nhà cửa.
Hoa Kỳ đã tạo ra 37 triệu người tị nạn trên khắp thế giới. Kể từ năm 2012, riêng số người tị nạn Syria đã tăng gấp 10 lần. Từ năm 2016 đến 2019, 33.584 thường dân thiệt mạng đã được ghi nhận trong các cuộc giao tranh ở Syria, trong đó có 3.833 người thiệt mạng do các vụ đánh bom của liên quân do Mỹ đứng đầu, một nửa trong số đó là phụ nữ và trẻ em. Dịch vụ Phát thanh Công cộng (PBS) đưa tin vào ngày 9 tháng 11 năm 2018 rằng các cuộc không kích do lực lượng Hoa Kỳ phát động chỉ riêng ở Raqqa đã giết chết 1.600 thường dân Syria.
Cuộc chiến kéo dài hai thập kỷ ở Afghanistan đã tàn phá đất nước này. Tổng cộng có 47.000 dân thường Afghanistan và 66.000 đến 69.000 binh sĩ và sĩ quan cảnh sát Afghanistan không liên quan đến các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 đã thiệt mạng trong các chiến dịch quân sự của Hoa Kỳ và hơn 10 triệu người phải di dời. Cuộc chiến ở Afghanistan đã phá hủy nền tảng phát triển kinh tế ở đó và đẩy người dân Afghanistan vào cảnh cùng cực. Sau "sự cố ở Kabul" vào năm 2021, Hoa Kỳ tuyên bố sẽ đóng băng khoảng 9,5 tỷ đô la tài sản thuộc ngân hàng trung ương Afghanistan, một động thái được coi là "cướp bóc thuần túy".
Vào tháng 9 năm 2022, Bộ trưởng Nội vụ Thổ Nhĩ Kỳ Suleyman Soylu đã nhận xét tại một cuộc biểu tình rằng Hoa Kỳ đã tiến hành một cuộc chiến tranh ủy nhiệm ở Syria, biến Afghanistan thành cánh đồng thuốc phiện và nhà máy sản xuất ma túy, đẩy Pakistan vào tình trạng hỗn loạn và khiến Libya rơi vào tình trạng bất ổn dân sự không ngừng. Hoa Kỳ làm bất cứ điều gì cần thiết để cướp và biến người dân của bất kỳ quốc gia nào có tài nguyên dưới lòng đất thành nô lệ.
Hoa Kỳ cũng đã áp dụng các phương pháp kinh khủng trong chiến tranh. Trong Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh vùng Vịnh, Chiến tranh Kosovo, Chiến tranh Afghanistan và Chiến tranh Iraq, Hoa Kỳ đã sử dụng một lượng lớn vũ khí hóa học và sinh học cũng như bom chùm, bom nhiên liệu-không khí, bom than chì. và bom uranium cạn kiệt, gây thiệt hại to lớn cho các cơ sở dân sự, vô số thương vong dân sự và ô nhiễm môi trường kéo dài.
III. Quyền bá chủ kinh tế -- Cướp bóc và bóc lột
Sau Thế chiến II, Hoa Kỳ đã dẫn đầu các nỗ lực thiết lập Hệ thống Bretton Woods, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, cùng với Kế hoạch Marshall, hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế xoay quanh đồng đô la Mỹ. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng đã thiết lập quyền bá chủ về thể chế trong lĩnh vực tài chính và kinh tế quốc tế bằng cách thao túng các hệ thống bỏ phiếu có trọng số, các quy tắc và thỏa thuận của các tổ chức quốc tế bao gồm "sự chấp thuận của đa số 85 phần trăm" và các luật và quy định thương mại trong nước. Bằng cách tận dụng vị thế của đồng đô la với tư cách là đồng tiền dự trữ quốc tế chính, Hoa Kỳ về cơ bản đang thu thập "quyền sở hữu" từ khắp nơi trên thế giới; và sử dụng quyền kiểm soát của mình đối với các tổ chức quốc tế,
◆ Hoa Kỳ khai thác của cải của thế giới với sự trợ giúp của "chủ quyền". Chỉ tốn khoảng 17 xu để sản xuất một tờ 100 đô la, nhưng các quốc gia khác phải trả 100 đô la hàng hóa thực tế để có được một tờ. Hơn nửa thế kỷ trước, người ta đã chỉ ra rằng Hoa Kỳ được hưởng đặc quyền và thâm hụt quá mức mà không có nước mắt do đồng đô la của mình tạo ra, đồng thời sử dụng tờ tiền vô giá trị để cướp bóc tài nguyên và nhà máy của các quốc gia khác.
◆ Quyền bá chủ của đồng đô la Mỹ là nguồn gốc chính của sự bất ổn và không chắc chắn trong nền kinh tế thế giới. Trong đại dịch COVID-19, Hoa Kỳ đã lạm dụng quyền bá chủ tài chính toàn cầu của mình và bơm hàng nghìn tỷ đô la vào thị trường toàn cầu, khiến các quốc gia khác, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi, phải trả giá. Vào năm 2022, Fed đã chấm dứt chính sách tiền tệ siêu nới lỏng và chuyển sang tăng lãi suất mạnh mẽ, gây ra tình trạng hỗn loạn trên thị trường tài chính quốc tế và khiến các đồng tiền khác như đồng Euro mất giá đáng kể, nhiều đồng trong số đó đã giảm xuống mức thấp nhất trong 20 năm. Kết quả là, một số lượng lớn các nước đang phát triển đã phải đối mặt với lạm phát cao, đồng tiền mất giá và dòng vốn chảy ra nước ngoài. Đây chính xác là điều mà bộ trưởng ngân khố John Connally của Nixon đã từng nhận xét, với sự tự mãn nhưng chính xác sắc bén, rằng "
◆ Với sự kiểm soát của mình đối với các tổ chức kinh tế và tài chính quốc tế, Hoa Kỳ áp đặt các điều kiện bổ sung đối với sự hỗ trợ của họ đối với các quốc gia khác. Để giảm bớt những trở ngại đối với dòng vốn và đầu cơ của Hoa Kỳ, các quốc gia nhận đầu tư được yêu cầu thúc đẩy tự do hóa tài chính và mở cửa thị trường tài chính để các chính sách kinh tế của họ phù hợp với chiến lược của Hoa Kỳ. Theo Tạp chí Kinh tế Chính trị Quốc tế, cùng với 1.550 chương trình xóa nợ được IMF mở rộng cho 131 quốc gia thành viên từ năm 1985 đến 2014, có tới 55.465 điều kiện chính trị bổ sung đã được đính kèm.
◆ Hoa Kỳ cố tình đàn áp các đối thủ của mình bằng sự ép buộc về kinh tế. Vào những năm 1980, để loại bỏ mối đe dọa kinh tế do Nhật Bản gây ra, đồng thời kiểm soát và sử dụng mối đe dọa này để phục vụ mục tiêu chiến lược của Mỹ là đối đầu với Liên Xô và thống trị thế giới, Mỹ đã sử dụng sức mạnh tài chính bá chủ của mình để chống lại Nhật Bản, và kết luận Hiệp định quảng trường. Kết quả là, đồng Yên đã bị đẩy giá lên và Nhật Bản buộc phải mở cửa thị trường tài chính và cải cách hệ thống tài chính của mình. Hiệp định Plaza đã giáng một đòn nặng nề vào đà tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản, khiến Nhật Bản rơi vào giai đoạn mà sau này được gọi là “ba thập kỷ mất mát”.
◆ Quyền bá chủ về kinh tế và tài chính của Mỹ đã trở thành vũ khí địa chính trị. Tăng gấp đôi các biện pháp trừng phạt đơn phương và "quyền tài phán dài hạn", Hoa Kỳ đã ban hành các luật trong nước như Đạo luật Quyền lực Kinh tế Khẩn cấp Quốc tế, Đạo luật Trách nhiệm Giải trình Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu và Đạo luật Chống lại Kẻ thù của Mỹ thông qua Trừng phạt, đồng thời giới thiệu một loạt lệnh hành pháp để trừng phạt các quốc gia, tổ chức hoặc cá nhân cụ thể. Thống kê cho thấy các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ đối với các thực thể nước ngoài đã tăng 933% từ năm 2000 đến năm 2021. Chỉ riêng chính quyền Trump đã áp đặt hơn 3.900 lệnh trừng phạt, nghĩa là ba lệnh trừng phạt mỗi ngày. Cho đến nay, Hoa Kỳ đã hoặc đã áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với gần 40 quốc gia trên thế giới, bao gồm Cuba, Trung Quốc, Nga, CHDCND Triều Tiên, Iran và Venezuela, ảnh hưởng đến gần một nửa dân số thế giới. “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ” đã tự biến mình thành “Hợp chủng quốc của những lệnh trừng phạt”. Và "quyền tài phán dài hạn" đã bị giảm xuống không còn gì khác ngoài một công cụ để Hoa Kỳ sử dụng các phương tiện quyền lực nhà nước của mình để trấn áp các đối thủ cạnh tranh kinh tế và can thiệp vào hoạt động kinh doanh quốc tế bình thường. Đây là một sự khác biệt nghiêm trọng với các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường tự do mà Hoa Kỳ đã tự hào từ lâu. đã bị biến thành một công cụ để Hoa Kỳ sử dụng các phương tiện quyền lực nhà nước của mình để đàn áp các đối thủ cạnh tranh kinh tế và can thiệp vào hoạt động kinh doanh quốc tế bình thường. Đây là một sự khác biệt nghiêm trọng với các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường tự do mà Hoa Kỳ đã tự hào từ lâu. đã bị biến thành một công cụ để Hoa Kỳ sử dụng các phương tiện quyền lực nhà nước của mình để đàn áp các đối thủ cạnh tranh kinh tế và can thiệp vào hoạt động kinh doanh quốc tế bình thường. Đây là một sự khác biệt nghiêm trọng với các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường tự do mà Hoa Kỳ đã tự hào từ lâu.
IV. Quyền bá chủ công nghệ -- Độc quyền và đàn áp
Hoa Kỳ tìm cách ngăn cản sự phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế của các nước khác bằng cách sử dụng quyền lực độc quyền, các biện pháp đàn áp và hạn chế công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ cao.
◆ Hoa Kỳ độc quyền sở hữu trí tuệ dưới danh nghĩa bảo hộ. Lợi dụng thế yếu của các nước khác, đặc biệt là các nước đang phát triển, về quyền sở hữu trí tuệ và khoảng trống về thể chế trong các lĩnh vực liên quan, Hoa Kỳ thu lợi nhuận quá mức thông qua độc quyền. Năm 1994, Hoa Kỳ đã thúc đẩy Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS), buộc quá trình và tiêu chuẩn Mỹ hóa trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nhằm củng cố độc quyền về công nghệ.
Vào những năm 1980, để ngăn chặn sự phát triển của ngành công nghiệp bán dẫn của Nhật Bản, Hoa Kỳ đã phát động cuộc điều tra "301", xây dựng quyền thương lượng trong các cuộc đàm phán song phương thông qua các hiệp định đa phương, đe dọa gán cho Nhật Bản là tiến hành thương mại không công bằng và áp đặt thuế quan trả đũa, buộc Nhật Bản phải ký Hiệp định bán dẫn Mỹ-Nhật. Kết quả là các doanh nghiệp bán dẫn Nhật Bản gần như hoàn toàn bị loại khỏi cuộc cạnh tranh toàn cầu và thị phần của họ giảm từ 50% xuống còn 10%. Trong khi đó, với sự hỗ trợ của chính phủ Hoa Kỳ, một số lượng lớn các doanh nghiệp bán dẫn của Hoa Kỳ đã chớp lấy cơ hội và giành lấy thị phần lớn hơn.
◆ Hoa Kỳ chính trị hóa, vũ khí hóa các vấn đề công nghệ và sử dụng chúng như những công cụ ý thức hệ. Mở rộng quá mức khái niệm an ninh quốc gia, Hoa Kỳ đã huy động quyền lực nhà nước để đàn áp và trừng phạt công ty Trung Quốc Huawei, hạn chế các sản phẩm của Huawei thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ, cắt nguồn cung cấp chip và hệ điều hành, đồng thời ép buộc các quốc gia khác cấm Huawei khỏi đảm nhận xây dựng mạng 5G tại địa phương. Nó thậm chí còn yêu cầu Canada giam giữ không chính đáng CFO của Huawei, bà Mạnh Vãn Chu trong gần ba năm.
Hoa Kỳ đã bịa ra hàng loạt lý do để kìm hãm các doanh nghiệp công nghệ cao có khả năng cạnh tranh toàn cầu của Trung Quốc, đồng thời đưa hơn 1.000 doanh nghiệp Trung Quốc vào danh sách trừng phạt. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng đã áp đặt các biện pháp kiểm soát đối với công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo và các công nghệ cao cấp khác, tăng cường hạn chế xuất khẩu, thắt chặt sàng lọc đầu tư, ngăn chặn các ứng dụng truyền thông xã hội của Trung Quốc như TikTok và WeChat, đồng thời vận động Hà Lan và Nhật Bản hạn chế xuất khẩu chip và thiết bị hoặc công nghệ liên quan đến Trung Quốc.
Hoa Kỳ cũng đã thực hành tiêu chuẩn kép trong chính sách của mình đối với các chuyên gia công nghệ liên quan đến Trung Quốc. Để ngăn chặn và đàn áp các nhà nghiên cứu Trung Quốc, kể từ tháng 6 năm 2018, thời hạn thị thực đã bị rút ngắn đối với sinh viên Trung Quốc theo học một số ngành liên quan đến công nghệ cao, nhiều lần đã xảy ra các trường hợp học giả và sinh viên Trung Quốc sang Hoa Kỳ để tham gia các chương trình trao đổi và học tập một cách vô cớ. bị từ chối và quấy rối, đồng thời tiến hành cuộc điều tra quy mô lớn đối với các học giả Trung Quốc làm việc tại Hoa Kỳ.
◆ Hoa Kỳ củng cố độc quyền công nghệ của mình dưới danh nghĩa bảo vệ nền dân chủ. Bằng cách xây dựng các khối nhỏ về công nghệ như "liên minh chip" và "mạng sạch", Hoa Kỳ đã dán nhãn "dân chủ" và "nhân quyền" lên công nghệ cao, đồng thời biến các vấn đề công nghệ thành các vấn đề chính trị và ý thức hệ, vì vậy để bịa ra những cái cớ cho việc phong tỏa công nghệ của mình đối với các quốc gia khác. Vào tháng 5 năm 2019, Hoa Kỳ đã mời 32 quốc gia tham dự Hội nghị An ninh 5G Praha tại Cộng hòa Séc và đưa ra Đề xuất Praha trong nỗ lực loại trừ các sản phẩm 5G của Trung Quốc. Vào tháng 4 năm 2020, Ngoại trưởng Hoa Kỳ khi đó là Mike Pompeo đã công bố "con đường sạch 5G," một kế hoạch được thiết kế để xây dựng liên minh công nghệ trong lĩnh vực 5G với các đối tác được gắn kết bởi hệ tư tưởng chung về dân chủ và nhu cầu bảo vệ "an ninh mạng". Về bản chất, các biện pháp này là nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm duy trì quyền bá chủ công nghệ của mình thông qua các liên minh công nghệ.
◆ Hoa Kỳ lạm dụng quyền bá chủ công nghệ của mình bằng cách thực hiện các cuộc tấn công mạng và nghe lén. Hoa Kỳ từ lâu đã nổi tiếng là một "đế chế tin tặc", bị đổ lỗi cho các hành vi trộm cắp mạng tràn lan trên khắp thế giới. Nó có tất cả các loại phương tiện để thực thi các cuộc tấn công và giám sát mạng phổ biến, bao gồm sử dụng tín hiệu trạm gốc tương tự để truy cập vào điện thoại di động nhằm đánh cắp dữ liệu, thao túng ứng dụng di động, xâm nhập vào máy chủ đám mây và đánh cắp qua cáp dưới biển. Danh sách cứ kéo dài.
Sự giám sát của Hoa Kỳ là bừa bãi. Tất cả đều có thể là mục tiêu giám sát của nó, dù là đối thủ hay đồng minh, thậm chí là lãnh đạo của các nước đồng minh như cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel và một số Tổng thống Pháp. Giám sát mạng và các cuộc tấn công do Hoa Kỳ phát động như "Prism", "Dirtbox", "Irritant Horn" và "Telescreen Operation" đều là bằng chứng cho thấy Hoa Kỳ đang theo dõi chặt chẽ các đồng minh và đối tác của mình. Việc nghe lén các đồng minh và đối tác như vậy đã gây ra sự phẫn nộ trên toàn thế giới. Julian Assange, người sáng lập Wikileaks, một trang web đã tiết lộ các chương trình giám sát của Hoa Kỳ, nói rằng "đừng mong đợi một siêu cường giám sát toàn cầu hành động với danh dự hoặc sự tôn trọng. Chỉ có một quy tắc: không có quy tắc nào."
V. Bá quyền văn hóa -- Truyền bá những câu chuyện sai sự thật
Sự mở rộng toàn cầu của văn hóa Mỹ là một phần quan trọng trong chiến lược đối ngoại của nó. Hoa Kỳ thường sử dụng các công cụ văn hóa để củng cố và duy trì quyền bá chủ của mình trên thế giới.
◆ Hoa Kỳ đưa các giá trị Mỹ vào các sản phẩm của mình, chẳng hạn như phim ảnh. Các giá trị và lối sống của người Mỹ là một sản phẩm gắn liền với các bộ phim và chương trình truyền hình, ấn phẩm, nội dung truyền thông và chương trình của các tổ chức văn hóa phi lợi nhuận do chính phủ tài trợ. Do đó, nó định hình một không gian văn hóa và dư luận trong đó văn hóa Mỹ ngự trị và duy trì quyền bá chủ văn hóa. Trong bài viết The Americanization of the World (Mỹ hóa thế giới), John Yemma, một học giả người Mỹ, đã vạch trần những vũ khí thực sự trong việc mở rộng văn hóa Mỹ: Hollywood, các nhà máy thiết kế hình ảnh trên Đại lộ Madison và dây chuyền sản xuất của Công ty Mattel và Coca-Cola.
Có nhiều phương tiện khác nhau mà Hoa Kỳ sử dụng để duy trì quyền bá chủ văn hóa của mình. Phim Mỹ được sử dụng nhiều nhất; họ hiện chiếm hơn 70 phần trăm thị phần của thế giới. Hoa Kỳ khéo léo khai thác sự đa dạng văn hóa của mình để thu hút các sắc tộc khác nhau. Khi các bộ phim Hollywood ra mắt thế giới, họ hét lên những giá trị Mỹ gắn liền với chúng.
◆ Quyền bá chủ văn hóa của Mỹ không chỉ thể hiện ở "sự can thiệp trực tiếp" mà còn ở "sự xâm nhập của các phương tiện truyền thông" và là "tiếng kèn cho thế giới". Truyền thông phương Tây do Mỹ thống trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng dư luận toàn cầu ủng hộ việc Mỹ can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác.
Chính phủ Hoa Kỳ kiểm duyệt nghiêm ngặt tất cả các công ty truyền thông xã hội và yêu cầu họ tuân theo. Giám đốc điều hành Twitter Elon Musk đã thừa nhận vào ngày 27 tháng 12 năm 2022 rằng tất cả các nền tảng mạng xã hội đều hợp tác với chính phủ Hoa Kỳ để kiểm duyệt nội dung, Fox Business Network đưa tin. Dư luận ở Hoa Kỳ phải chịu sự can thiệp của chính phủ để hạn chế mọi nhận xét bất lợi. Google thường làm cho các trang biến mất.
Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thao túng mạng xã hội Vào tháng 12 năm 2022, The Intercept, một trang web điều tra độc lập của Hoa Kỳ, tiết lộ rằng vào tháng 7 năm 2017, quan chức Bộ Tư lệnh Trung tâm Hoa Kỳ, Nathaniel Kahler, đã chỉ thị cho nhóm chính sách công của Twitter tăng cường sự hiện diện của 52 tài khoản bằng tiếng Ả Rập trong danh sách mà anh ấy đã gửi, sáu trong số đó là để được ưu tiên. Một trong số sáu người được dành riêng để biện minh cho các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ ở Yemen, chẳng hạn như bằng cách tuyên bố rằng các cuộc tấn công là chính xác và chỉ giết những kẻ khủng bố chứ không phải dân thường. Theo chỉ thị của Kahler, Twitter đã đưa các tài khoản tiếng Ả Rập đó vào "danh sách trắng" để khuếch đại một số thông điệp.
◆Hoa Kỳ áp dụng tiêu chuẩn kép về quyền tự do báo chí. Nó đàn áp dã man và bịt miệng truyền thông của các quốc gia khác bằng nhiều cách khác nhau. Hoa Kỳ và Châu Âu cấm các phương tiện truyền thông chính thống của Nga như Russia Today và Sputnik khỏi quốc gia của họ. Các nền tảng như Twitter, Facebook và YouTube công khai hạn chế các tài khoản chính thức của Nga. Netflix, Apple và Google đã xóa các kênh và ứng dụng của Nga khỏi các dịch vụ và cửa hàng ứng dụng của họ. Kiểm duyệt hà khắc chưa từng có được áp dụng đối với các nội dung liên quan đến Nga.
◆Mỹ lợi dụng bá quyền văn hóa để xúi giục “diễn biến hòa bình” ở các nước xã hội chủ nghĩa. Nó thiết lập các phương tiện truyền thông tin tức và trang phục văn hóa nhắm vào các nước xã hội chủ nghĩa. Nó đổ một lượng tiền công quỹ đáng kinh ngạc vào các mạng phát thanh và truyền hình để hỗ trợ cho sự xâm nhập ý thức hệ của họ, và những cơ quan ngôn luận này ngày đêm dội bom các nước xã hội chủ nghĩa bằng hàng chục ngôn ngữ với những tuyên truyền kích động.
Hoa Kỳ sử dụng thông tin sai lệch như một mũi nhọn để tấn công các quốc gia khác và đã xây dựng một chuỗi công nghiệp xung quanh nó: có những nhóm và cá nhân bịa chuyện và rao bán chúng trên toàn thế giới để đánh lừa dư luận với sự hỗ trợ của nguồn tài chính gần như vô hạn.
Phần kết luận
Trong khi chính nghĩa giành được sự ủng hộ rộng rãi của nhà vô địch, thì kẻ bất công lên án kẻ theo đuổi nó là kẻ bị ruồng bỏ. Các hành vi bá quyền, độc đoán và ức hiếp như dùng sức mạnh để đe dọa kẻ yếu, lấy của người khác bằng vũ lực và thủ đoạn, và chơi trò chơi có tổng bằng không đang gây ra tác hại nghiêm trọng. Xu thế lịch sử hòa bình, phát triển, hợp tác, cùng có lợi là không thể ngăn cản. Hoa Kỳ đã và đang dùng quyền lực đè lên sự thật và chà đạp công lý để phục vụ tư lợi. Những hành vi bá quyền đơn phương, vị kỷ và thụt lùi này đã thu hút sự chỉ trích và phản đối ngày càng gay gắt từ cộng đồng quốc tế.
Các quốc gia cần tôn trọng lẫn nhau và đối xử bình đẳng với nhau. Các nước lớn nên ứng xử phù hợp với vị thế của mình và đi đầu trong việc theo đuổi một mô hình quan hệ nhà nước với nhà nước kiểu mới là đối thoại và hợp tác, không phải đối đầu hay liên minh. Trung Quốc phản đối mọi hình thức bá quyền và chính trị cường quyền, đồng thời từ chối can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Hoa Kỳ phải tiến hành tìm kiếm linh hồn nghiêm túc. Nó phải kiểm điểm một cách nghiêm túc những gì nó đã làm, buông bỏ sự kiêu ngạo và thành kiến, và từ bỏ các hành vi bá quyền, độc đoán và bắt nạt của nó.
Nhà nước Dân chủ ở Hoa Kỳ
2021-12-05 10:00
nội dung
lời mở đầu
I. Dân chủ là gì?
II. Sự xa lánh và ba bất ổn của nền dân chủ ở Hoa Kỳ
1. Hệ thống có nhiều vấn đề sâu xa
(1) Nền dân chủ kiểu Mỹ đã trở thành “trò chơi chính trị tiền bạc”
(2) Danh nghĩa “mỗi người một phiếu”, “thiểu số cai trị” trên thực tế
(3) Việc kiểm tra và cân bằng đã dẫn đến một “chế độ phủ quyết”
(4) Các quy tắc bầu cử sai sót làm ảnh hưởng đến sự công bằng và công bằng
(5) Nền dân chủ rối loạn gây ra khủng hoảng lòng tin
2. Thực hành dân chủ lộn xộn và hỗn loạn
(1) Cuộc bạo loạn ở Điện Capitol gây chấn động thế giới
(2) Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc thâm căn cố đế
(3) Xử lý sai lầm thảm hại đối với đại dịch COVID-19
(4) Gia tăng khoảng cách giàu nghèo
(5) “Tự do ngôn luận” chỉ trên danh nghĩa
3. Hậu quả tai hại của việc Hoa Kỳ xuất khẩu nhãn hiệu dân chủ của mình
(1) Các “cuộc cách mạng màu” làm suy yếu sự ổn định của khu vực và quốc gia
(2) Việc Mỹ áp đặt nhãn hiệu dân chủ gây ra những bi kịch nhân đạo
(3) Việc lạm dụng các biện pháp trừng phạt vi phạm các quy tắc quốc tế
(4) “Ngọn hải đăng dân chủ” thu hút sự chỉ trích toàn cầu
Phần kết luận
lời mở đầu
Dân chủ là giá trị chung của toàn nhân loại. Đó là quyền của tất cả các quốc gia, không phải là đặc quyền dành riêng cho một số ít. Dân chủ có nhiều hình thức khác nhau và không có mô hình chung nào phù hợp với tất cả. Sẽ là hoàn toàn phi dân chủ nếu đo lường các hệ thống chính trị đa dạng trên thế giới bằng một thước đo duy nhất hoặc xem xét các nền văn minh chính trị khác nhau từ một góc nhìn duy nhất. Hệ thống chính trị của một quốc gia phải do người dân của quốc gia đó quyết định một cách độc lập.
Hệ thống dân chủ của Hoa Kỳ bắt nguồn từ thực tiễn của chính nó. Hệ thống này là duy nhất, không được áp dụng phổ biến và còn lâu mới hoàn hảo. Tuy nhiên, trong những năm qua, Hoa Kỳ, bất chấp những sai sót về cấu trúc và thực tiễn có vấn đề trong hệ thống dân chủ của mình, đã tự nhận mình là “mô hình dân chủ”. Nó không ngừng can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác và tiến hành chiến tranh dưới chiêu bài “dân chủ”, tạo ra bất ổn khu vực và thảm họa nhân đạo.
Dựa trên thực tế và ý kiến chuyên gia, báo cáo này nhằm mục đích phơi bày những khiếm khuyết và lạm dụng nền dân chủ ở Hoa Kỳ cũng như tác hại của việc xuất khẩu nền dân chủ đó. Người ta hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ cải thiện hệ thống và thực hành dân chủ của chính mình và thay đổi cách tương tác với các quốc gia khác. Đây là lợi ích không chỉ của người dân Mỹ mà còn của người dân các nước khác. Nếu không có quốc gia nào tìm cách áp đặt các tiêu chuẩn cho nền dân chủ, áp đặt hệ thống chính trị của riêng mình lên các quốc gia khác hoặc sử dụng nền dân chủ như một công cụ để đàn áp các quốc gia khác, thì khi tất cả các quốc gia có thể sống và phát triển trong sự đa dạng, thế giới của chúng ta sẽ là một nơi tốt đẹp hơn.
I. Dân chủ là gì?
Dân chủ là một thuật ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại. Nó có nghĩa là “do nhân dân cai trị” hay “chủ quyền của nhân dân”. Với tư cách là một hình thức chính phủ, nền dân chủ đã được thực hành hơn 2.500 năm, mặc dù dưới các hình thức khác nhau, chẳng hạn như nền dân chủ trực tiếp của các công dân Athen cổ đại và chính phủ đại diện trong thời hiện đại. Dân chủ là biểu hiện của sự tiến bộ về chính trị của nhân loại.
Dân chủ không phải là một thứ tô điểm hay đóng thế công khai; đúng hơn, nó được dùng để giải quyết các vấn đề mà người dân gặp phải. Để đánh giá một quốc gia có dân chủ hay không, điều quan trọng là phải xem người dân của quốc gia đó có điều hành đất nước của họ hay không. Ngoài quyền biểu quyết, điều quan trọng là phải xem liệu mọi người có quyền tham gia rộng rãi hay không. Điều quan trọng là phải xem những lời hứa nào được đưa ra trong chiến dịch tranh cử và quan trọng hơn là có bao nhiêu lời hứa trong số đó được thực hiện sau đó. Điều quan trọng là phải xem các thủ tục và quy tắc chính trị nào được thiết lập bởi các hệ thống và luật pháp của một quốc gia và quan trọng hơn là liệu các hệ thống và luật pháp này có thực sự được thực thi hay không. Điều quan trọng là phải xem liệu các quy tắc và thủ tục chi phối việc thực thi quyền lực có dân chủ hay không và quan trọng hơn là
Một nền dân chủ chức năng phải có đầy đủ các thủ tục thể chế; quan trọng hơn là phải có sự tham gia đầy đủ của người dân. Phải bảo đảm dân chủ cả về quá trình và kết quả. Nó phải bao gồm cả dân chủ thủ tục và dân chủ thực chất, cả dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Nó phải bảo đảm cả dân chủ của nhân dân và ý chí của Nhà nước. Nếu người dân của một quốc gia chỉ được kêu gọi bỏ phiếu và sau đó bị lãng quên sau khi họ đã bỏ phiếu; nếu người dân chỉ được nghe những lời hứa suông trong cuộc vận động tranh cử mà không nói gì sau đó; hoặc nếu họ được tán thành khi lá phiếu của họ được mong muốn nhưng lại bị bỏ qua sau khi cuộc bầu cử kết thúc, thì một nền dân chủ như vậy không phải là một nền dân chủ thực sự.
Việc một quốc gia có dân chủ hay không nên được đánh giá và quyết định bởi chính người dân của quốc gia đó, chứ không phải bởi một thiểu số người bên ngoài tự cho mình là đúng.
Không có một hệ thống dân chủ hoàn hảo nào trên thế giới, cũng như không có một hệ thống chính trị nào phù hợp với tất cả các quốc gia. Nền dân chủ được hình thành và phát triển dựa trên lịch sử của mỗi quốc gia và thích ứng với bối cảnh quốc gia đó, và nền dân chủ của mỗi quốc gia có giá trị riêng. Các thành viên của cộng đồng quốc tế cần tham gia trao đổi, đối thoại về dân chủ trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, cùng hợp tác đóng góp cho sự tiến bộ của nhân loại.
II. Sự xa lánh và ba bất ổn của nền dân chủ ở Hoa Kỳ
Từ góc độ lịch sử, sự phát triển của nền dân chủ ở Mỹ là một bước tiến. Chế độ chính đảng, chế độ đại diện, mỗi người một phiếu, tam quyền phân lập đã phủ nhận và cải tạo chế độ chuyên quyền phong kiến ở châu Âu. Nhà văn nổi tiếng người Pháp Alexis de Tocqueville đã nhận ra điều này trong cuốn sách Nền dân chủ ở Mỹ của ông . Tuyên ngôn Độc lập, Tuyên ngôn Nhân quyền, phong trào bãi nô, phong trào dân quyền và hành động khẳng định là những điểm nổi bật trong sự tiến bộ của nền dân chủ Hoa Kỳ. Nguyên tắc “chính phủ của dân, do dân và vì dân” do Abraham Lincoln nêu ra đã được cả thế giới công nhận.
Tuy nhiên, trong những năm qua, nền dân chủ ở Hoa Kỳ đã trở nên xa lạ và thoái hóa, và nó ngày càng đi chệch khỏi bản chất của nền dân chủ và thiết kế ban đầu của nó. Các vấn đề như chính trị tiền bạc, chính trị bản sắc, tranh cãi giữa các đảng chính trị, phân cực chính trị, chia rẽ xã hội, căng thẳng chủng tộc và khoảng cách giàu nghèo ngày càng trở nên gay gắt. Tất cả điều này đã làm suy yếu chức năng của nền dân chủ ở Hoa Kỳ.
Mỹ thường lấy dân chủ làm cái cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, gây hỗn loạn chính trị và bất ổn xã hội ở các nước này, phá hoại hòa bình, ổn định thế giới và yên ổn xã hội ở các nước khác. Điều này khiến nhiều người ở Mỹ và các nước khác tự hỏi liệu Mỹ có còn là một nền dân chủ hay không. Thế giới cần xem xét kỹ hơn tình trạng dân chủ hiện tại ở Hoa Kỳ và bản thân Hoa Kỳ cũng nên tiến hành một số cuộc tìm kiếm linh hồn.
1. Hệ thống có nhiều vấn đề sâu xa
Hoa Kỳ tự gọi mình là “thành phố trên đồi” và “ngọn hải đăng của nền dân chủ”; và nó tuyên bố rằng hệ thống chính trị của nó được thiết kế để bảo vệ nền dân chủ và tự do vào thời điểm thành lập. Tuy nhiên, tầm nhìn về nền dân chủ đã không còn tỏa sáng ở Hoa Kỳ ngày nay. Nền dân chủ tự phong của Mỹ hiện đang mắc bệnh trầm trọng với chính trị tiền bạc, sự cai trị của giới tinh hoa, sự phân cực chính trị và một hệ thống rối loạn chức năng.
(1) Nền dân chủ kiểu Mỹ đã trở thành “trò chơi chính trị tiền bạc”
Nền dân chủ kiểu Mỹ là trò chơi dựa trên tư bản của giới nhà giàu, và về cơ bản khác với nền dân chủ của người dân.
Hơn một trăm năm trước, Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa từ Ohio Mark Hanna đã nói về chính trị Hoa Kỳ: “Có hai điều quan trọng trong chính trị. Thứ nhất là tiền, còn thứ hai thì tôi không nhớ nổi.” Hơn một trăm năm đã trôi qua, và tiền không chỉ vẫn là “đơn vị tiền tệ” trong chính trị Hoa Kỳ, mà còn trở nên không thể thiếu hơn. Ví dụ, cuộc bầu cử tổng thống và bầu cử Quốc hội năm 2020 tiêu tốn khoảng 14 tỷ USD, gấp hai lần năm 2016 và ba lần năm 2008; thực sự, chúng được biết đến như là cuộc bầu cử tốn kém nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Chi phí của cuộc bầu cử tổng thống đạt mức cao kỷ lục khác là 6,6 tỷ đô la Mỹ và cuộc bầu cử Quốc hội tiêu tốn hơn 7 tỷ đô la Mỹ.
Thực tế mà người dân Mỹ phải đối mặt là chính trị đồng tiền đã thâm nhập vào toàn bộ quá trình bầu cử, lập pháp và điều hành. Trên thực tế, người dân chỉ có một quyền hạn chế trong việc tham gia chính trị. Bất bình đẳng về địa vị kinh tế đã biến thành bất bình đẳng về địa vị chính trị. Chỉ những người có đủ vốn mới được hưởng các quyền dân chủ do Hiến pháp quy định. Chính trị tiền tệ ngày càng trở thành một “khối u không thể cắt bỏ” trong xã hội Mỹ và là trò hề đối với nền dân chủ ở Mỹ.
Một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đã có một nhận xét sắc bén: “Quốc hội không điều chỉnh Phố Wall. Phố Wall điều chỉnh Quốc hội.” Theo thống kê, 91% người chiến thắng trong các cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ là những ứng cử viên được hỗ trợ tài chính lớn hơn. Các công ty lớn, một nhóm nhỏ người giàu và các nhóm lợi ích rất hào phóng với sự hỗ trợ của họ và đã trở thành nguồn tài trợ bầu cử chính. Và những người được gọi là đại diện của nhân dân, một khi được bầu, thường phục vụ lợi ích của những người ủng hộ tài chính của họ. Họ nói vì lợi ích được đầu tư hơn là những người bình thường.
Vào tháng 3 năm 2020, Robert Reich, Giáo sư Chính sách công tại Đại học California, Berkeley và là cựu Bộ trưởng Lao động, đã xuất bản một cuốn sách có tựa đề Hệ thống, kẻ gian lận, cách chúng tôi sửa chữa.Theo ông, hệ thống chính trị của Mỹ đã bị một thiểu số rất nhỏ chiếm đoạt trong bốn thập kỷ qua. Đóng góp chính trị gần như được coi là "hối lộ hợp pháp". Chúng cho phép người giàu có nhiều ảnh hưởng chính trị hơn. Trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 2018, các khoản quyên góp chính trị khổng lồ, chủ yếu đến từ 0,01% người siêu giàu hàng đầu của dân số Mỹ, chiếm hơn 40% tài chính cho chiến dịch. Chính trị tiền tệ và các nhóm vận động hành lang đang hạn chế các kênh để người Mỹ bình thường lên tiếng, những người mà tiếng nói bày tỏ mối quan tâm thực sự của họ bị lu mờ bởi một số nhóm lợi ích. Các nhà tài phiệt sẽ làm giàu cho mình bằng quyền lực mà họ có được trong khi hoàn toàn phớt lờ lợi ích của những người Mỹ bình thường.
Vào ngày 23 tháng 9 năm 2020, trong một cuộc phỏng vấn với Harvard Law Today, Giáo sư Matthew Stephenson của Trường Luật Harvard nói rằng Hoa Kỳ hoàn toàn không phải là quốc gia dẫn đầu thế giới về chính phủ trong sạch và một số hoạt động liên quan đến vận động hành lang và tài trợ cho chiến dịch tranh cử mà các quốc gia khác sẽ coi là tham nhũng. không chỉ được phép mà còn được bảo vệ theo hiến pháp ở Hoa Kỳ.
(2) Danh nghĩa “mỗi người một phiếu”, “thiểu số cai trị” trên thực tế
Hoa Kỳ là một quốc gia điển hình bị thống trị bởi một tầng lớp ưu tú. Đa nguyên chính trị chỉ là bề ngoài. Một số ít giới tinh hoa thống trị các vấn đề chính trị, kinh tế và quân sự. Họ kiểm soát bộ máy nhà nước và quá trình hoạch định chính sách, thao túng dư luận, chi phối cộng đồng doanh nghiệp và hưởng mọi đặc quyền. Đặc biệt kể từ những năm 1960, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay phiên nhau thực thi quyền lực, khiến “hệ thống đa đảng” chết trên danh nghĩa. Đối với cử tri bình thường, bỏ phiếu cho bên thứ ba hoặc ứng cử viên độc lập chẳng khác gì lãng phí lá phiếu. Trên thực tế, họ chỉ có thể chọn ứng cử viên Đảng Dân chủ hoặc ứng cử viên Đảng Cộng hòa.
Trong bối cảnh đối đầu giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa, sự tham gia của công chúng vào chính trị bị hạn chế trong một phạm vi rất hẹp. Đối với cử tri bình thường, họ chỉ được kêu gọi bỏ phiếu và bị lãng quên sau khi đã bỏ phiếu. Hầu hết mọi người chỉ là những người “đi bộ” trong nhà hát bầu cử. Điều này khiến cho “chính phủ do nhân dân” khó có thể thực hiện được trong thực tiễn chính trị của Hoa Kỳ.
Noam Chomsky, nhà bình luận chính trị và nhà hoạt động xã hội từ Viện Công nghệ Massachusetts, chỉ ra rằng Hoa Kỳ là một “nền dân chủ tư bản thực sự tồn tại”, nơi có mối tương quan tích cực giữa sự giàu có của người dân và ảnh hưởng của họ đối với việc hoạch định chính sách. Đối với 70% thấp hơn trên thang thu nhập/tài sản, họ không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến chính sách. Họ bị tước quyền một cách hiệu quả.
Ray La Raja, Giáo sư tại Đại học Massachusetts, lưu ý trong một bài báo cho The Atlantic rằng hệ thống hiện tại của Mỹ chỉ dân chủ về hình thức chứ không phải về thực chất. Quá trình đề cử dễ bị các nhà tài phiệt, người nổi tiếng, nhân vật truyền thông và các nhà hoạt động thao túng. Nhiều cử tri bầu cử sơ bộ của tổng thống đã nhầm lẫn ủng hộ các ứng cử viên không phản ánh quan điểm của họ.
(3) Việc kiểm tra và cân bằng đã dẫn đến một “chế độ phủ quyết”
Nhà khoa học chính trị người Mỹ Francis Fukuyama đã chỉ ra trong cuốn sách của mình Trật tự chính trị và Suy tàn chính trị rằng có một tình trạng tê liệt chính trị cố thủ ở Mỹ. Hệ thống chính trị Hoa Kỳ có quá nhiều biện pháp kiểm soát và cân bằng, làm tăng chi phí cho hành động tập thể và trong một số trường hợp khiến việc này không thể thực hiện được hoàn toàn. Fukuyama gọi hệ thống này là “chế độ phủ quyết”. Kể từ những năm 1980, “chế độ phủ quyết” của Hoa Kỳ đã trở thành một công thức cho tình trạng bế tắc.
Quá trình dân chủ của Hoa Kỳ bị phân mảnh và kéo dài, với rất nhiều điểm phủ quyết trong đó những người có quyền phủ quyết riêng lẻ có thể ngăn chặn hành động của toàn bộ cơ thể. Chức năng “kiểm tra và cân bằng”, được thiết kế nhằm mục đích ngăn chặn lạm quyền, đã bị bóp méo trong thực tiễn chính trị Hoa Kỳ. Sự phân cực chính trị tiếp tục gia tăng khi hai đảng ngày càng xa cách trong chương trình nghị sự chính trị và các lĩnh vực đồng thuận của họ đã giảm đi đáng kể. Một trường hợp cực đoan là thực tế là “Đảng Cộng hòa tự do nhất hiện nay vẫn đứng về phía bên phải của đảng Dân chủ bảo thủ nhất”. Sự đối kháng và ức chế lẫn nhau đã trở nên phổ biến, “chế độ phủ quyết” đã xác định văn hóa chính trị của Mỹ, và tâm lý thù hận “nếu tôi không thể, bạn cũng không thể” đã trở nên phổ biến.
Các chính trị gia ở Washington, DC đang bận tâm đến việc đảm bảo lợi ích đảng phái của riêng họ và không quan tâm chút nào đến sự phát triển quốc gia. Quyền phủ quyết khiến một người xác định rõ ràng hơn với các đồng nghiệp của họ trong cùng một nhóm, những người này có thể hỗ trợ họ nhiều hơn và nhanh hơn. Hậu quả là hai bên bị cuốn vào một vòng luẩn quẩn, nghiện quyền phủ quyết. Tệ hơn nữa, hiệu quả của chính phủ chắc chắn bị suy yếu, luật pháp và công lý bị chà đạp, sự phát triển và tiến bộ bị đình trệ, và sự phân chia xã hội ngày càng gia tăng. Ở Hoa Kỳ ngày nay, mọi người ngày càng tự nhận mình là đảng viên Đảng Cộng hòa hoặc Đảng Dân chủ thay vì là người Mỹ. Các tác động tiêu cực của chính trị bản sắc và chính trị bộ lạc cũng đã lan sang các lĩnh vực khác của xã hội Mỹ, làm trầm trọng thêm “chế độ phủ quyết”.
Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu Pew vào tháng 10 năm 2021 dựa trên khảo sát 17 nền kinh tế tiên tiến (bao gồm Mỹ, Đức và Hàn Quốc), Mỹ bị chia rẽ về chính trị nhiều hơn các nền kinh tế được khảo sát khác. 9/10 người Mỹ được hỏi tin rằng có xung đột giữa những người ủng hộ các đảng chính trị khác nhau và gần 60% người Mỹ được khảo sát nghĩ rằng đồng bào của họ không còn bất đồng chỉ về chính sách mà còn về những sự thật cơ bản.
Jungkun Seo, Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Kyung Hee, nhận xét rằng khi sự phân cực chính trị gia tăng ở Hoa Kỳ, quá trình tự làm sạch của nền dân chủ Hoa Kỳ, nhằm mục đích thúc đẩy cải cách thông qua bầu cử, sẽ không còn có thể hoạt động bình thường. Với việc Thượng viện bị mắc kẹt trong tình trạng rối ren, Quốc hội Hoa Kỳ không còn đóng vai trò là cơ quan đại diện để giải quyết những thay đổi trong xã hội Hoa Kỳ thông qua luật pháp.
(4) Các quy tắc bầu cử sai sót làm ảnh hưởng đến sự công bằng và công bằng
Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ tuân theo hệ thống Đại cử tri đoàn lâu đời, trong đó tổng thống và phó tổng thống không được bầu trực tiếp theo phổ thông đầu phiếu, mà bởi Đại cử tri đoàn bao gồm 538 đại cử tri. Ứng cử viên nào đạt được đa số từ 270 phiếu đại cử tri trở lên sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Những sai sót của một hệ thống bầu cử như vậy là hiển nhiên. Đầu tiên, vì tổng thống đắc cử có thể không phải là người chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu phổ thông trên toàn quốc, nên thiếu sự đại diện rộng rãi hơn. Thứ hai, khi mỗi bang quyết định các quy tắc bầu cử của riêng mình, điều này có thể tạo ra sự nhầm lẫn và rối loạn. Thứ ba, hệ thống kẻ thắng được cả làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng giữa các quốc gia và giữa các đảng phái chính trị. Nó dẫn đến sự lãng phí lớn về phiếu bầu và không khuyến khích cử tri đi bỏ phiếu. Các cử tri ở các bang “xanh đậm” và “đỏ đậm” thường bị bỏ quên, trong khi các bang dao động trở nên quan trọng hơn một cách không cân xứng khi cả hai đảng đều tìm cách thu hút nhiều người ủng hộ hơn.
Đã có năm cuộc bầu cử tổng thống trong lịch sử Hoa Kỳ, trong đó những người chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu phổ thông trên toàn quốc không được bầu làm tổng thống. Trường hợp gần đây nhất là cuộc bầu cử tổng thống năm 2016, trong đó ứng cử viên Đảng Cộng hòa Donald Trump đã giành được 62,98 triệu phiếu phổ thông hay 45,9% tổng số, trong khi ứng cử viên Đảng Dân chủ Hillary Clinton giành được 65,85 triệu hay 48% số phiếu phổ thông. Mặc dù Trump thua phiếu phổ thông, nhưng ông đã giành được 304 phiếu đại cử tri trong khi Clinton chỉ giành được 227, điều này đã giúp Trump trở thành tổng thống.
Một lỗ hổng khác của hệ thống bầu cử được công chúng Hoa Kỳ thừa nhận rộng rãi là sự vui vẻ. Năm 1812, Thống đốc Massachusetts Elbridge Gerry đã ký một dự luật vì lợi ích của chính đảng của ông, tạo ra ở bang của ông một khu vực bầu cử có hình dạng kỳ lạ được so sánh với một con kỳ nhông. Cách làm như vậy sau này được gọi là gerrymandering, đề cập đến sự phân chia không công bằng các khu vực bầu cử để ủng hộ một đảng cụ thể giành được càng nhiều ghế càng tốt và củng cố lợi thế của mình.
Hoa Kỳ tiến hành điều tra dân số mười năm một lần. Sau khi hoàn thành điều tra dân số, việc phân chia lại hoặc vẽ lại ranh giới khu vực bầu cử sẽ diễn ra theo nguyên tắc duy trì dân số gần như bằng nhau ở mọi khu vực bỏ phiếu trong khi xem xét các thay đổi về nhân khẩu học. Theo Hiến pháp Hoa Kỳ, cơ quan lập pháp của mỗi bang có quyền tái phân chia khu vực. Điều này tạo cơ hội cho đảng chiếm đa số trong cơ quan lập pháp tiểu bang thao túng việc vẽ lại các khu vực bầu cử. Hai chiến thuật chính thường được sử dụng trong vui vẻ. Một là “đóng gói”, tức là tập trung cử tri của đảng đối lập vào một vài quận, từ đó nhường quận này để đảm bảo cho quận khác. Cách còn lại là “bẻ khóa”, tức là chia nhỏ các khu vực tập trung những người ủng hộ đảng đối lập và sáp nhập họ vào các quận lân cận,
Vào ngày 27 tháng 9 năm 2021, bang Oregon do Đảng Dân chủ quản lý đã trở thành bang đầu tiên trong cả nước hoàn thành việc tái phân chia khu vực. Các khu vực bầu cử chắc chắn nằm trong tay Đảng Dân chủ đã tăng từ hai lên bốn, và các khu vực bầu cử dao động giảm từ hai xuống còn một. Điều này có nghĩa là Đảng Dân chủ có thể kiểm soát 83% số khu vực bầu cử của bang với 57% cử tri. Ngược lại, bang Texas do Đảng Cộng hòa kiểm soát, với ranh giới khu vực bầu cử mới được xác định vào ngày 25 tháng 10 năm 2021, đã chứng kiến các khu vực do Đảng Cộng hòa nắm giữ tăng từ 22 lên 24 và các khu vực xoay vòng giảm từ 6 xuống còn 1. Đảng Cộng hòa hiện chiếm 65% số ghế trong Hạ viện với chỉ 52,1% cử tri.
Theo một cuộc thăm dò của YouGov vào tháng 8 năm 2021, chỉ 16% công dân Hoa Kỳ trưởng thành nói rằng họ nghĩ rằng bản đồ quốc hội của bang của họ sẽ được vẽ một cách công bằng, trong khi 44% nói rằng họ nghĩ rằng bản đồ sẽ được vẽ một cách không công bằng và 40% người lớn khác nói rằng họ không chắc chắn nếu các bản đồ sẽ được công bằng. Khi nền chính trị Hoa Kỳ ngày càng trở nên phân cực hơn, cả đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ đều đang tìm cách tối đa hóa lợi ích của chính họ, và việc tán thành trở thành cách tiếp cận tốt nhất.
Hệ thống siêu đại biểu của Đảng Dân chủ cũng là một trở ngại cho bầu cử công bằng. Các siêu đại biểu bao gồm các nhà lãnh đạo chính của Đảng Dân chủ, các thành viên của Ủy ban Quốc gia Đảng Dân chủ, các thành viên Đảng Dân chủ trong Quốc hội và các thống đốc đương nhiệm của Đảng Dân chủ, và được ngồi tự động. Các siêu đại biểu có thể ủng hộ bất kỳ ứng cử viên nào họ chọn hoặc làm theo ý muốn của ban lãnh đạo Đảng mà không cần quan tâm đến mong muốn của công chúng.
Nhà phân tích chính trị quá cố Mark Plotkin đã viết trên The Hill rằng "hệ thống siêu đại biểu của Đảng Dân chủ là không công bằng và phi dân chủ", và "quá trình loại bỏ hoạt động của giới tinh hoa này nên bắt đầu ngay lập tức".
(5) Nền dân chủ rối loạn gây ra khủng hoảng lòng tin
Nền dân chủ kiểu Mỹ giống như một bối cảnh được dàn dựng tỉ mỉ trong các bộ phim Hollywood, trong đó một nhóm nhân vật giàu có công khai cam kết với người dân, nhưng thực ra lại bận rộn với những thỏa thuận hậu trường. Đấu đá chính trị nội bộ, chính trị tiền bạc và chế độ phủ quyết khiến cho việc quản trị có chất lượng như mong muốn của công chúng hầu như không thể thực hiện được. Người Mỹ ngày càng vỡ mộng về nền chính trị Mỹ và bi quan về nền dân chủ kiểu Mỹ.
Một cuộc khảo sát của Gallup vào tháng 10 năm 2020 cho thấy chỉ 19% người Mỹ được hỏi “rất tin tưởng” về cuộc bầu cử tổng thống, mức thấp kỷ lục kể từ cuộc khảo sát được thực hiện lần đầu tiên vào năm 2004.
Vào tháng 11 năm 2020, một báo cáo trực tuyến của Wall Street Journal lập luận rằng cuộc tổng tuyển cử năm 2020 có thể được coi là đỉnh điểm của sự suy giảm niềm tin vào nền dân chủ trong hai thập kỷ qua ở Hoa Kỳ.
Theo một cuộc thăm dò của The Associated Press-NORC Center for Public Affairs Research, chỉ 16% người Mỹ nói rằng nền dân chủ đang hoạt động tốt hoặc cực kỳ tốt; 45% cho rằng nền dân chủ không hoạt động bình thường, trong khi 38% khác nói rằng nó chỉ hoạt động tốt ở một mức độ nào đó. Một cuộc khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Pew cho thấy chỉ 20% người Mỹ nói rằng họ tin tưởng chính phủ liên bang gần như luôn luôn hoặc hầu hết thời gian.
Một bài báo trực tuyến của Brookings vào tháng 5 năm 2021 chỉ ra rằng việc tất cả 50 bang chứng nhận kết quả bầu cử năm 2020 vẫn khiến 77% cử tri Đảng Cộng hòa đặt câu hỏi về tính hợp pháp trong chiến thắng bầu cử của Tổng thống Biden do cáo buộc gian lận cử tri. Đây là lần đầu tiên những điều như vậy xảy ra kể từ những năm 1930.
Một cuộc thăm dò của CNN vào tháng 9 cho thấy 56% người Mỹ nghĩ rằng nền dân chủ ở Mỹ đang bị tấn công; 52% trả lời họ chỉ tin tưởng một chút hoặc hoàn toàn không tin tưởng rằng các cuộc bầu cử phản ánh ý nguyện của người dân; 51% nói rằng có khả năng các quan chức dân cử trong vài năm tới sẽ lật ngược kết quả của một cuộc bầu cử mà đảng của họ không thắng.
Một cuộc khảo sát năm 2021 của Pew được thực hiện với 16.000 người trưởng thành ở 16 nền kinh tế tiên tiến và 2.500 người trưởng thành ở Hoa Kỳ cho thấy 57% người được hỏi quốc tế và 72% người Mỹ tin rằng nền dân chủ ở Hoa Kỳ không phải là tấm gương tốt cho những người khác noi theo trong những năm gần đây.
2. Thực hành dân chủ lộn xộn và hỗn loạn
Nền dân chủ ở Hoa Kỳ đã đi sai hướng không chỉ được phản ánh trong thiết kế hệ thống và cấu trúc chung của nó, mà còn trong cách nó được đưa vào thực tế. Hoa Kỳ không phải là một sinh viên hạng A khi nói đến dân chủ, lại càng không phải là một hình mẫu cho dân chủ. Những tiếng súng và trò hề trên Đồi Capitol đã phơi bày hoàn toàn những gì ẩn dưới vẻ ngoài lộng lẫy của nền dân chủ kiểu Mỹ. Cái chết của George Floyd, người Mỹ da đen, đã vạch trần nạn phân biệt chủng tộc có hệ thống tồn tại quá lâu trong xã hội Mỹ, đồng thời thúc đẩy làn sóng phản đối lan rộng khắp đất nước và thậm chí là toàn thế giới.
Trong khi đại dịch COVID-19 vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát ở Mỹ, vấn đề đeo khẩu trang và tiêm chủng đã gây ra sự chia rẽ và đối đầu xã hội hơn nữa. Cổ tức của tăng trưởng kinh tế được phân phối không công bằng và tăng trưởng thu nhập đã bị đình trệ đối với hầu hết người dân bình thường trong một thời gian dài. Nền dân chủ kiểu Mỹ khó có thể duy trì trật tự và đạo đức công cộng, cũng như không thể thúc đẩy phúc lợi công cộng ở mức tối đa.
(1) Cuộc bạo loạn ở Điện Capitol gây chấn động thế giới
Vào chiều ngày 6 tháng 1 năm 2021, hàng nghìn người Mỹ đã tập trung tại Đồi Capitol, Washington, DC và xông vào tòa nhà Capitol nhằm ngăn phiên họp chung của Quốc hội chứng nhận tổng thống mới đắc cử. Vụ việc làm gián đoạn quá trình chuyển giao quyền lực của tổng thống Mỹ, khiến 5 người thiệt mạng và hơn 140 người bị thương. Đây là hành động bạo lực tồi tệ nhất ở Washington, DC kể từ năm 1814 khi quân đội Anh phóng hỏa Nhà Trắng và đây là lần đầu tiên sau hơn 200 năm Điện Capitol bị xâm chiếm. Lãnh đạo Đảng Cộng hòa tại Thượng viện mô tả đây là một "cuộc nổi dậy thất bại". Một học giả từ Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Hoa Kỳ (CFR) thốt lên rằng Hoa Kỳ gần như không độc nhất như nhiều người Mỹ tin tưởng, và cuộc bạo động ở Điện Capitol nên chấm dứt khái niệm về chủ nghĩa ngoại lệ của Hoa Kỳ, về một thành phố sáng chói vĩnh cửu trên một ngọn đồi .
Cuộc tấn công vào Điện Capitol đã làm suy yếu ba nền tảng chính của nền dân chủ kiểu Mỹ.
Đầu tiên, “dân chủ” ở Mỹ không phải là dân chủ như nó tuyên bố. Việc một số chính trị gia Hoa Kỳ từ chối công nhận kết quả bầu cử và việc những người ủng hộ họ xông vào tòa nhà Quốc hội một cách bạo lực sau đó đã làm suy giảm nghiêm trọng uy tín của nền dân chủ ở Hoa Kỳ.
Thứ hai, “tự do” ở Hoa Kỳ không tự do như nó tuyên bố. Twitter, Facebook và các nền tảng truyền thông xã hội khác đã đình chỉ tài khoản cá nhân của một số chính trị gia Hoa Kỳ, một thông báo trên thực tế về “cái chết của họ trên mạng xã hội”. Điều này đã phá vỡ những lầm tưởng về “tự do ngôn luận” ở Mỹ.
Thứ ba, “nhà nước pháp quyền” ở Mỹ không bị ràng buộc bởi luật pháp như nước này tuyên bố. Thái độ hoàn toàn khác của các cơ quan thực thi pháp luật Hoa Kỳ đối với các cuộc biểu tình “Black Lives Matter” (BLM) và cuộc bạo động ở Điện Capitol là một lời nhắc nhở khác về tiêu chuẩn kép trong “pháp quyền” của Hoa Kỳ.
Cuộc tấn công vào Điện Capitol đã gây ra làn sóng chấn động khắp cộng đồng quốc tế. Trong khi lên án bạo lực, nhiều người cũng bày tỏ sự thất vọng đối với Mỹ.
Thủ tướng Anh, ông Vladimir Johnson, đã tweet rằng những gì xảy ra ở Điện Capitol của Hoa Kỳ là "những cảnh đáng hổ thẹn".
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nói rằng “tại một trong những nền dân chủ lâu đời nhất thế giới... một ý tưởng phổ quát - đó là 'một người, một phiếu bầu' - đang bị hủy hoại."
Tổng thống Nam Phi Cyril Ramaphosa nhận xét rằng nó "làm rung chuyển nền tảng" của nền dân chủ ở Hoa Kỳ.
Cựu Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono đã viết trên Twitter rằng trò hề chính trị ở Mỹ khiến nhiều người phải suy nghĩ, và rằng không có nền dân chủ nào hoàn hảo, đặc biệt là khi nói đến các hoạt động của nó.
(2) Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc thâm căn cố đế
Phân biệt chủng tộc là một vết nhơ không thể xóa nhòa đối với nền dân chủ ở Hoa Kỳ. Trong khi ủng hộ “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng”, những người cha lập quốc của Hoa Kỳ đã để nguyên chế độ nô lệ trong Hiến pháp năm 1789. Ngày nay, mặc dù sự phân biệt chủng tộc bề ngoài đã bị bãi bỏ ở Hoa Kỳ, quyền tối cao của người da trắng vẫn còn phổ biến và tràn lan trên khắp Hoa Kỳ. quốc gia. Phân biệt đối xử với người Mỹ da đen và các nhóm thiểu số chủng tộc khác vẫn là một hiện tượng mang tính hệ thống.
Xã hội Mỹ thỉnh thoảng lại tái phát tình trạng bất ổn về phân biệt chủng tộc. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2020, George Floyd, một người Mỹ da đen, đã thiệt mạng ở Minnesota vì bạo lực của cảnh sát thực thi pháp luật. “Tôi không thể thở được” - lời cầu xin tuyệt vọng của Floyd trước khi chết - đã gây ra sự phẫn nộ của công chúng. Sau đó, các cuộc biểu tình, biểu tình đã nổ ra ở khoảng 100 thành phố trên khắp 50 bang của Mỹ, đòi công lý cho Floyd và phản đối sự phân biệt chủng tộc. Các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục hơn 100 ngày sau vụ việc.
Những gì đã xảy ra với George Floyd chỉ là một hình ảnh thu nhỏ về hoàn cảnh bi thảm của người Mỹ da đen trong nhiều thế kỷ qua. Sandra Shullman, Cựu Chủ tịch Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, nói rằng nước Mỹ đang ở trong “đại dịch phân biệt chủng tộc”. Giấc mơ của nhà lãnh đạo dân quyền Martin Luther King, Jr. vẫn chưa thành hiện thực. Theo một bài xã luận của The Indian Express, một tờ báo chính thống của Ấn Độ, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Mỹ đã tồn tại lâu dài, phá hoại các thể chế dân chủ sâu sắc nhất của đất nước trong quá trình này.
Vào tháng 2 năm 2021, Stanford News, một trang web của Đại học Stanford, đã đăng một bài báo xem xét nạn phân biệt chủng tộc có hệ thống ở Hoa Kỳ. Bài báo gợi ý rằng trong giáo dục, thanh niên da màu có nhiều khả năng bị theo dõi chặt chẽ hơn; trong hệ thống tư pháp hình sự, người da màu, đặc biệt là đàn ông da đen, là mục tiêu không tương xứng; và trong nền kinh tế và việc làm, từ những người thăng tiến trong quá trình tuyển dụng đến những người nhận được tài trợ từ các nhà đầu tư mạo hiểm, người Mỹ da đen và các nhóm thiểu số khác đều bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc và trong nền kinh tế nói chung. Một nghiên cứu của Đại học Washington cho thấy khoảng 30.800 người chết vì bạo lực của cảnh sát từ năm 1980 đến 2018 ở Mỹ, cao hơn khoảng 17.100 so với con số chính thức. Nó cũng chỉ ra rằng người Mỹ gốc Phi là 3.
Sự tức giận bùng phát trên khắp nước Mỹ không chỉ là sự tức giận của người Da đen, mà còn giữa các chủng tộc. Một bài báo đăng trên trang web The Jerusalem Post của Israel lưu ý rằng người Do Thái Mỹ lo ngại về chủ nghĩa bài Do Thái cánh hữu và bạo lực do các nhóm theo chủ nghĩa tối cao của người da trắng gây ra. Theo các cuộc khảo sát hàng năm do Ủy ban Do Thái Hoa Kỳ thực hiện, vào năm 2020, 43% người Do Thái ở Hoa Kỳ cảm thấy không an toàn hơn một năm trước và vào năm 2017, 41% cho rằng chủ nghĩa bài Do Thái là một vấn đề nghiêm trọng ở Hoa Kỳ, tăng từ 21% vào năm 2016, 21 % vào năm 2015 và 14% vào năm 2013.
Tình trạng bắt nạt người Mỹ gốc Á đang gia tăng ở Mỹ. Kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát, ngày càng có nhiều trường hợp người Mỹ gốc Á bị làm nhục hoặc bị tấn công ở những nơi công cộng. Số liệu thống kê từ Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ chỉ ra rằng tội ác căm thù đối với người gốc Á đã tăng 76% ở Hoa Kỳ vào năm 2020. Từ tháng 3 năm 2020 đến tháng 6 năm 2021, tổ chức Ngừng hận thù người Mỹ gốc Á và Người dân các đảo Thái Bình Dương đã nhận được hơn 9.000 báo cáo về vụ việc. Một cuộc khảo sát về thanh niên Mỹ gốc Á trên trang web của Công ty Phát thanh Quốc gia (NBC) cho thấy trong năm qua, một phần tư thanh niên Mỹ gốc Á trở thành mục tiêu bắt nạt chủng tộc, gần một nửa số người được hỏi bày tỏ sự bi quan về tình hình của họ và một phần tư những người được hỏi tỏ ra lo sợ về hoàn cảnh của bản thân và gia đình.
(3) Xử lý sai lầm thảm hại đối với đại dịch COVID-19
Với các nguồn lực y tế và sức khỏe tốt nhất trên thế giới như họ tuyên bố, Hoa Kỳ đã hoàn toàn trở thành một mớ hỗn độn khi nói đến phản ứng với COVID. Nó có số lượng nhiễm trùng và tử vong cao nhất thế giới.
Theo số liệu do Đại học Johns Hopkins công bố, tính đến cuối tháng 11 năm 2021, số ca mắc COVID-19 được xác nhận ở Mỹ đã vượt quá 48 triệu và số ca tử vong đã vượt qua 770.000, đều là cao nhất thế giới.
Vào ngày 8 tháng 1 năm nay, 300.777 trường hợp được xác nhận mới đã được báo cáo, mức tăng kỷ lục trong một ngày kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát ở Hoa Kỳ. Riêng ngày 13/1, 4.170 người Mỹ chết vì COVID-19, vượt xa số người chết trong vụ khủng bố 11/9.
Vào cuối tháng 11, mức tăng trung bình hàng ngày của các trường hợp được xác nhận ở Hoa Kỳ đã tăng lên hơn 70.000 và số người chết hàng ngày lên hơn 700.
Cứ 500 người Mỹ thì có một người chết vì COVID-19. Tính đến nay, số ca tử vong do COVID-19 ở Hoa Kỳ đã vượt qua tổng số ca tử vong do Đại dịch cúm năm 1919 và tổng số ca tử vong trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh Iraq và Chiến tranh thế giới thứ hai. Ở afghanistan.
Nếu Hoa Kỳ thực hiện một phản ứng dựa trên cơ sở khoa học, thì có thể cứu được nhiều mạng sống hơn. Đại dịch, như nhà dịch tễ học và cựu giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ William Foege đã nói, là một “sự tàn sát”.
Đại dịch đã gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế Mỹ. Tỷ lệ và quy mô đóng cửa doanh nghiệp và thất nghiệp ở nước này ngoài sức tưởng tượng, khiến một số lượng lớn người Mỹ thất nghiệp. Sự lo lắng và cảm giác bất lực của người dân đã trở nên trầm trọng hơn do các yếu tố bất ổn xã hội ngày càng gia tăng.
Báo cáo Theo dõi Khó khăn do COVID do Trung tâm Ưu tiên Chính sách và Ngân sách Hoa Kỳ phát hành vào ngày 29 tháng 7 năm 2021 cho thấy rằng mặc dù đã có những cải thiện về tình hình vào tháng 12 năm 2020, nhưng khó khăn vẫn lan rộng đối với người Mỹ trong nửa đầu năm 2021. Khoảng 20 triệu người trưởng thành sống ở hộ gia đình không đủ ăn, 11,40 triệu người trưởng thành thuê nhà chậm trả tiền thuê nhà, đối mặt với nguy cơ bị đuổi ra khỏi nhà.
Như đã nêu trong số liệu thống kê do Cục điều tra dân số Hoa Kỳ công bố, tính đến ngày 5 tháng 7 năm 2021, ít nhất một thành viên trong 22% tổng số hộ gia đình có người phụ thuộc là trẻ vị thành niên đã mất nguồn thu nhập.
Niềm tin của người tiêu dùng Hoa Kỳ đã giảm đáng kể và tiến trình phục hồi thị trường việc làm đã bị đình trệ. Các tổ chức như Goldman Sachs, Morgan Stanley và Oxford Economics đã điều chỉnh giảm đáng kể dự báo tăng trưởng cho nền kinh tế Mỹ. Đồng thời, đại dịch cùng với ba đợt kế hoạch kích thích kinh tế khổng lồ, cùng các yếu tố khác, đã gây ra tình trạng tắc nghẽn cảng và thiếu hụt nguồn cung, đẩy lạm phát lên cao hơn. Vào tháng 10 năm nay, CPI của Mỹ đã tăng 6,2% so với một năm trước đó, đánh dấu mức tăng không dưới 5% so với cùng kỳ năm ngoái trong sáu tháng liên tiếp và là mức cao kỷ lục kể từ năm 2008.
Nguyên nhân sâu xa của sự lây lan liên tục của coronavirus ở Hoa Kỳ không phải là sự khan hiếm khoa học, mà là sự từ chối tin tưởng và dựa vào khoa học. Vì lợi ích của các cuộc bầu cử, một số chính trị gia đã ưu tiên lợi ích đảng phái hơn lợi ích quốc gia, chính trị hóa việc ứng phó với đại dịch và tập trung đổ lỗi cho người khác. Chính phủ liên bang và tiểu bang đã thất bại trong việc thúc đẩy một phản ứng phối hợp đối với đại dịch, và thay vào đó, sa lầy vào đấu đá nội bộ. Do đó, các biện pháp ứng phó với đại dịch đã bị chính trị hóa nghiêm trọng. Các lựa chọn liên quan đến tiêm chủng và đeo khẩu trang đã trở thành vấn đề gây tranh cãi giữa các bên và giữa người dân. Xuất hiện xu hướng phản trí thức ngày càng tăng.
Một báo cáo của tờ báo Pháp Le Monde nhận xét rằng cuộc khủng hoảng COVID-19 đã làm nổi bật sự mong manh của nền dân chủ ở Hoa Kỳ. Hệ thống y tế cực kỳ đắt đỏ, dành riêng cho người giàu và khiến những người nghèo nhất không có an sinh xã hội, đã khiến đất nước này, một trong những nước phát triển nhất thế giới, tụt hậu do bất công xã hội. Đây là một trường hợp điển hình của sự trôi dạt dân chủ khiến cho việc quản lý khủng hoảng một cách hiệu quả là không thể.
Stanford News lưu ý rằng, trong lĩnh vực y tế công cộng, đại dịch COVID-19 đã tác động không tương xứng đến các cộng đồng da màu và làm nổi bật sự chênh lệch về sức khỏe giữa người Mỹ da đen, người da trắng và các nhóm nhân khẩu học khác.
(4) Gia tăng khoảng cách giàu nghèo
Hoa Kỳ phân cực hơn bất kỳ quốc gia phương Tây nào khác về mặt phân bổ của cải. Hệ số Gini của nó đã tăng lên 0,48 vào năm 2021, gần như cao nhất trong 50 năm. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Chính sách, một tổ chức tư vấn của Hoa Kỳ, tổng tài sản của các tỷ phú Hoa Kỳ đã tăng gấp 19 lần từ năm 1990 đến năm 2021, trong khi cùng kỳ này, tài sản trung bình của Hoa Kỳ chỉ tăng 5,37%. Một thực tế phũ phàng ở Mỹ là người giàu ngày càng giàu hơn và người nghèo ngày càng nghèo hơn.
Theo thống kê vào tháng 10 năm 2021 của Fed, 60% hộ gia đình trung bình ở Hoa Kỳ tính theo thu nhập, được định nghĩa là “tầng lớp trung lưu”, đã chứng kiến tổng tài sản của họ giảm xuống 26,6% tổng tài sản quốc gia tính đến tháng 6 năm nay, mức thấp nhất trong ba thập kỷ, trong khi 1% đầu tiên chiếm 27% thị phần, vượt qua “tầng lớp trung lưu”.
Một báo cáo của nhà kinh tế học Emmanuel Saez của UC Berkeley cho thấy về thu nhập trung bình hàng năm, 10% người giàu hàng đầu của Mỹ kiếm được gấp 9 lần so với 90% người có thu nhập thấp nhất; 1% giàu nhất gấp khoảng 40 lần so với 90% dưới đáy; và 0,1% siêu giàu có gấp 196 lần so với 90% dưới đáy.
Chính sách kích thích mà Hoa Kỳ đưa ra để đối phó với COVID-19, trong khi thúc đẩy thị trường chứng khoán, lại càng nới rộng khoảng cách giàu nghèo. Tài sản của các tỷ phú Hoa Kỳ đã tăng 1,763 nghìn tỷ USD, tương đương 59,8%, trong 16 tháng kể từ khi dịch COVID bùng phát ở Hoa Kỳ. 10% người giàu nhất hiện sở hữu 89% tổng số cổ phiếu của Hoa Kỳ, ghi nhận mức cao lịch sử mới.
Sự phân cực giàu nghèo ở Hoa Kỳ là cố hữu đối với hệ thống chính trị của chính nó và lợi ích của thủ đô mà chính phủ của nó đại diện. Từ phong trào “Chiếm phố Wall” cho đến “Harambe nhìn xuống con bò tót của Phố Wall” gần đây, người dân Mỹ chưa bao giờ ngừng lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn. Tuy nhiên, không có gì đã thay đổi. Những người cai trị Hoa Kỳ chọn không làm gì trước tình trạng bất bình đẳng giàu nghèo ngày càng tăng. Và đại dịch đã phơi bày thêm một quy tắc trong xã hội Mỹ - vốn trước và người giàu trước.
(5) “Tự do ngôn luận” chỉ trên danh nghĩa
Ở Mỹ, truyền thông được đặt cạnh hành pháp, lập pháp và tư pháp như là “ngành thứ tư của chính quyền” và nhà báo được coi là “vua không ngai”. Mặc dù các tổ chức truyền thông Hoa Kỳ tuyên bố độc lập với chính trị và phục vụ tự do và sự thật, nhưng thực tế họ đang phục vụ lợi ích tài chính và chính trị đảng phái.
Một số tập đoàn truyền thông duy trì quyền kiểm soát các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ và đã biến thành một lực lượng chính trị với tầm ảnh hưởng lớn.
Theo Đạo luật Viễn thông năm 1996 , chính phủ liên bang được yêu cầu nới lỏng quy định về quyền sở hữu các phương tiện truyền thông. Điều này đã dẫn đến một làn sóng sáp nhập chưa từng có và làm xói mòn nghiêm trọng tính đa dạng và độc lập của các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ. Việc giảm mạnh số lượng các cơ quan truyền thông đã cho phép một số công ty mở rộng thành công ty độc quyền.
Ở Mỹ, một số tập đoàn truyền thông hiện đang kiểm soát hơn 90% các hãng truyền thông, mang lại cho họ lợi nhuận hàng năm thậm chí còn cao hơn tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một số nước đang phát triển.
Những gã khổng lồ truyền thông này, trong khi mong muốn tạo ra nhiều dấu ấn kinh doanh hơn, đã mở rộng phạm vi hoạt động của họ sang chính trị Hoa Kỳ, cố gắng gây ảnh hưởng đến các quá trình chính trị thông qua vận động hành lang, chiến dịch quan hệ công chúng hoặc quyên góp chính trị.
Các công ty độc quyền truyền thông của Hoa Kỳ đã trở thành “sát thủ vô hình” đối với các quyền dân sự và chính trị.
Robert McChesney, một học giả hàng đầu của Hoa Kỳ trong các nghiên cứu về kinh tế chính trị của truyền thông và là giáo sư tại Đại học Illinois ở Urbana-Champaign, đã lưu ý trong cuốn sách Rich Media, Poor Democracy rằng các công ty truyền thông, do lợi nhuận thúc đẩy tự nhiên, giới hạn mọi người trong thế giới của các chương trình giải trí, tước đi khả năng tiếp cận thông tin đa dạng của họ, làm sao lãng sự quan tâm của họ đối với các vấn đề xã hội, làm giảm khả năng phân biệt giữa đúng và sai, và làm giảm tiếng nói của họ trong việc ra quyết định các chính sách xã hội. Trong một xã hội Mỹ bị thống trị bởi các câu chuyện truyền thông, các quan niệm truyền thống về sự tham gia của công dân và chính trị đã bị thu hẹp lại. Phi chính trị hóa đã biến nền dân chủ thành một trò chơi chính trị không có công dân.
Một báo cáo trên tờ New Herald của Miami lập luận rằng khi các phương tiện truyền thông được kiểm soát bởi giới thượng lưu và các tập đoàn, mọi người không thể phân biệt giữa sự thật và tuyên truyền chính trị.
Truyền thông Hoa Kỳ không còn là “người gác cổng” của nền dân chủ. Mâu thuẫn chính trị giữa Cánh Tả và Cánh Hữu trên các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ càng làm sâu sắc thêm sự ghẻ lạnh và chia rẽ giữa hai đảng và giữa giới tinh hoa với đại chúng. Nó đã làm trầm trọng thêm tình trạng phân cực chính trị ở Hoa Kỳ, đẩy phe cánh tả tiến xa hơn về cánh tả và cánh hữu tiến xa hơn về cánh hữu. Và nó đã thúc đẩy sự lan rộng của các hệ tư tưởng cực đoan và chủ nghĩa dân túy ở Mỹ.
Theo một nghiên cứu của Viện Sejong, một tổ chức tư vấn ở Hàn Quốc, hơn 80% cử tri bảo thủ ở Mỹ coi các bản tin của các phương tiện truyền thông chính thống, chẳng hạn như New York Times, là thông tin sai lệch và có niềm tin thiên lệch vào các phương tiện truyền thông . . Cử tri chỉ tin vào một số cơ quan truyền thông và sẽ bỏ qua các thông tin liên lạc ở cấp quốc gia. Các cuộc thảo luận bình tĩnh và xây dựng sự đồng thuận đã được thay thế bằng chính trị loa phóng thanh và xung đột đảng phái tiêu cực.
Báo cáo Tin tức kỹ thuật số năm 2021 do Đại học Oxford và Viện Reuters đưa ra chỉ ra rằng trong số 92.000 người tiêu dùng tin tức trực tuyến được khảo sát ở 46 thị trường, những người ở Mỹ có mức độ tin tưởng vào tin tức thấp nhất, chỉ 29%.
Trong thời đại thông tin khi phương tiện truyền thông truyền thống đang suy giảm, phương tiện truyền thông xã hội đã trở thành phương tiện yêu thích mới của công chúng. Tuy nhiên, giống như truyền thông truyền thống, truyền thông xã hội cũng nằm dưới sự kiểm soát của các nhóm lợi ích và tư bản lớn. Để tăng lưu lượng truy cập trang web của họ, các trang web truyền thông xã hội sử dụng các thuật toán để tạo ra “kén thông tin”, để lại nội dung cực đoan không được kiểm tra và kiểm soát. Điều này thúc đẩy người dùng hướng tới việc tự củng cố quan điểm hiện có của họ, làm trầm trọng thêm chính trị bản sắc và gây chia rẽ hơn nữa trong dư luận.
Vào tháng 10 năm 2021, cựu nhân viên Facebook Frances Haugen đã làm rò rỉ hàng chục nghìn trang tài liệu nội bộ bùng nổ của Facebook. Cô ấy tiết lộ với Columbia Broadcasting System (CBS) rằng Facebook sẽ không ngần ngại hy sinh lợi ích công cộng để giữ chân người dùng trên nền tảng của mình và kiếm được lợi nhuận. Facebook đã trở thành một nền tảng chính cho những kẻ cực đoan trên mạng xã hội và chứa đầy ngôn từ kích động thù địch, thông tin xuyên tạc và thông tin sai lệch. Hành động chỉ được thực hiện đối với 3-5% sự căm ghét và khoảng 0,6% bạo lực và kích động trên nền tảng.
3. Hậu quả tai hại của việc Hoa Kỳ xuất khẩu nhãn hiệu dân chủ của mình
Bất chấp sự khác biệt lớn về trình độ phát triển kinh tế cũng như bối cảnh lịch sử và văn hóa của các quốc gia trên thế giới, Mỹ tìm cách áp đặt hệ thống chính trị và các giá trị của mình lên các quốc gia khác. Nó thúc đẩy cái gọi là “chuyển đổi dân chủ” và xúi giục “cách mạng màu”.
Nó tùy tiện can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, thậm chí lật đổ chính quyền của họ, gây ra những hậu quả tai hại cho các nước đó. Nói cách khác, Hoa Kỳ đã cố gắng mô phỏng các quốc gia khác theo hình ảnh của chính mình và xuất khẩu thương hiệu dân chủ của mình. Những nỗ lực như vậy là hoàn toàn phi dân chủ và mâu thuẫn với các giá trị và nguyên lý cốt lõi của nền dân chủ. Không tạo ra phản ứng hóa học như mong đợi, nền dân chủ kiểu Mỹ đã trở thành một “sự cấy ghép thất bại” đẩy nhiều khu vực và quốc gia vào tình trạng hỗn loạn, xung đột và chiến tranh.
(1) Các “cuộc cách mạng màu” làm suy yếu sự ổn định của khu vực và quốc gia
Mỹ có thói quen can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác dưới danh nghĩa “dân chủ” và tìm cách thay đổi chế độ để cài đặt các chính phủ thân Mỹ.
Một cựu quan chức cấp cao của CIA đã từng nói về việc biến mọi người trở thành “những gì chúng tôi muốn họ trở thành” và “làm theo chỉ dẫn của chúng tôi”, và khả năng làm rối trí mọi người, thay đổi giá trị của họ và khiến họ tin vào những giá trị mới trước khi họ biết điều đó.
Cựu Ngoại trưởng Michael Pompeo công khai thừa nhận “Tôi từng là giám đốc CIA. Chúng tôi đã nói dối, chúng tôi gian lận, chúng tôi đã ăn trộm. Chúng tôi đã có toàn bộ các khóa đào tạo. Nó làm bạn nhớ đến vinh quang của thí nghiệm Mỹ.”
Mỹ đã xây dựng hệ thống chiến lược, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Nó sẽ bắt đầu bằng “giao lưu văn hóa”, hỗ trợ kinh tế, sau đó định hình dư luận để tạo bầu không khí cho “cách mạng màu”. Nó sẽ phóng đại những sai lầm và thiếu sót của các chính phủ đương nhiệm để kích động sự bất bình của công chúng và tình cảm chống chính phủ.
Trong khi đó, nó sẽ tẩy não người dân địa phương bằng các giá trị của Mỹ và khiến họ đồng cảm với mô hình kinh tế và hệ thống chính trị của Mỹ. Nó cũng sẽ nuôi dưỡng các tổ chức phi chính phủ thân Mỹ và cung cấp đào tạo toàn diện cho các nhà lãnh đạo phe đối lập. Nó sẽ nắm bắt cơ hội của các cuộc bầu cử lớn hoặc các trường hợp khẩn cấp để lật đổ các chính phủ mục tiêu thông qua việc xúi giục các hoạt động chính trị trên đường phố.
Trong lịch sử gần đây, Hoa Kỳ đã thúc đẩy Học thuyết tân Monroe ở Mỹ Latinh với lý do “thúc đẩy dân chủ”, kích động “cách mạng màu” ở Âu Á và điều khiển từ xa “Mùa xuân Ả Rập” ở Tây Á và Bắc Phi. Những động thái này đã gây ra hỗn loạn và thảm họa cho nhiều quốc gia, phá hoại nghiêm trọng hòa bình, ổn định và phát triển của thế giới.
Ở Mỹ Latinh và Caribe, người dân từ lâu đã không còn ảo tưởng về “nền dân chủ kiểu Mỹ”. Bất kỳ nỗ lực nào của Hoa Kỳ nhằm thúc đẩy “mô hình dân chủ” tự xưng của mình sẽ chỉ là tự chuốc lấy thất bại và tự làm nhục mình.
Năm 1823, Hoa Kỳ ban hành Học thuyết Monroe, tuyên bố “Nước Mỹ cho người Mỹ” và ủng hộ “Chủ nghĩa Liên Mỹ”.
Trong những thập kỷ tiếp theo, Mỹ với lý do “truyền bá dân chủ” đã nhiều lần can thiệp chính trị, can thiệp quân sự, lật đổ chính quyền ở Mỹ Latinh và Caribe.
Mỹ theo đuổi chính sách thù địch với Cuba xã hội chủ nghĩa và áp đặt phong tỏa đối với nước này trong gần 60 năm, đồng thời lật đổ chính phủ Chile dưới thời Salvador Allende. Đây là những hành động trắng trợn của chủ nghĩa bá quyền. “Con đường của tôi hoặc không có cách nào.” Đó là logic của Hoa Kỳ.
Từ năm 2003, Đông Âu và Trung Á đã chứng kiến “Cách mạng Hoa hồng” ở Georgia, “Cách mạng Cam” ở Ukraine và “Cách mạng Hoa Tulip” ở Kyrgyzstan. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công khai thừa nhận đóng “vai trò trung tâm” trong “những thay đổi chế độ” này.
Vào tháng 10 năm 2020, Cơ quan Tình báo Nước ngoài của Nga tiết lộ rằng Hoa Kỳ đã lên kế hoạch kích động “cuộc cách mạng màu” ở Moldova.
“Mùa xuân Ả Rập” bắt đầu vào năm 2010 là một trận động đất làm rung chuyển toàn bộ Trung Đông. Hoa Kỳ đã dàn dựng chương trình ở hậu trường và đóng một vai trò quan trọng. Thời báo New York đã tiết lộ vào năm 2011 rằng một nhóm nhỏ các tổ chức do chính phủ Mỹ tài trợ đang thúc đẩy dân chủ ở các quốc gia Ả Rập “độc tài”. Một số nhóm và cá nhân trực tiếp tham gia vào các cuộc nổi dậy “Mùa xuân Ả Rập” đã được đào tạo và tài trợ từ các tổ chức Hoa Kỳ như Viện Cộng hòa Quốc tế, Viện Dân chủ Quốc gia và Ngôi nhà Tự do.
Mustafa Ahmady, một chuyên gia về các vấn đề châu Phi và quốc tế ở Ethiopia, đã đóng góp một bài viết cho Ahram Online có tựa đề “Miền đất hứa”, giải thích rằng phần lớn là do câu nói nổi tiếng của Obama “Bây giờ có nghĩa là bây giờ” mà những người biểu tình Ai Cập giận dữ đã lật đổ Mubarak, và họ đã phải trả giá. một cái giá đắt như là kết quả của sự thay đổi chính trị.
Chứng kiến những gì Hoa Kỳ đã làm, người dân Ả Rập đã nhận ra rằng Hoa Kỳ muốn áp đặt một mô hình dân chủ rập khuôn lên họ bất chấp ý chí của họ.
Ở những quốc gia buộc phải sao chép và dán các giá trị của Mỹ, không có dấu hiệu của nền dân chủ thực sự, tự do thực sự hay nhân quyền thực sự. Những gì còn lại ở những quốc gia này là những cảnh hỗn loạn dai dẳng, trì trệ và thảm họa nhân đạo.
Việc Mỹ xuất khẩu các giá trị của mình đã phá vỡ quá trình phát triển bình thường ở các nước tiếp nhận, cản trở quá trình tìm kiếm con đường và mô hình phát triển phù hợp với điều kiện quốc gia của họ, gây ra những bất ổn chính trị, kinh tế và xã hội, và lần lượt phá hủy những gì từng là quê hương tươi đẹp của các dân tộc khác. Đến lượt mình, những bất ổn đã làm nảy sinh chủ nghĩa khủng bố và những thách thức dài hạn khác đe dọa và gây nguy hiểm cho an ninh khu vực và thậm chí toàn cầu.
Theo gợi ý của trang web Le Grand Soir của Pháp, dân chủ từ lâu đã trở thành vũ khí hủy diệt lớn để Mỹ tấn công các nước có quan điểm khác biệt.
Hoa Kỳ áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau trong việc đánh giá nền dân chủ của chính họ và các quốc gia khác. Nó ca ngợi hay coi thường người khác hoàn toàn tùy theo sở thích hay không thích của chính nó. Sau vụ tấn công Điện Capitol vào ngày 6 tháng 1 năm 2021, một chính trị gia người Mỹ đã so sánh vụ bạo lực này với vụ tấn công khủng bố 11/9, gọi đó là một "cuộc tấn công đáng xấu hổ" vào Quốc hội, hiến pháp và nền dân chủ của Hoa Kỳ. Thật trớ trêu là vào tháng 6 năm 2019, cũng chính chính trị gia đó đã gọi các cuộc biểu tình bạo lực tại tòa nhà Hội đồng Lập pháp Hồng Kông là một “cảnh đẹp đáng chiêm ngưỡng” và khen ngợi những kẻ bạo loạn vì “sự can đảm” của họ. Thật là một tiêu chuẩn kép trắng trợn.
(2) Việc Mỹ áp đặt nhãn hiệu dân chủ gây ra những bi kịch nhân đạo
Việc Hoa Kỳ xuất khẩu thương hiệu dân chủ của mình bằng vũ lực đã dẫn đến thảm họa nhân đạo ở nhiều quốc gia. Cuộc chiến kéo dài 20 năm của Mỹ ở Afghanistan đã khiến đất nước này bị tàn phá và trở nên nghèo khó. Tổng cộng có 47.245 thường dân Afghanistan và 66.000 đến 69.000 binh lính và cảnh sát Afghanistan không liên quan gì đến vụ tấn công 11/9 đã thiệt mạng trong các chiến dịch quân sự của Hoa Kỳ và hơn 10 triệu người phải di dời. Chiến tranh đã phá hủy nền tảng phát triển kinh tế của Afghanistan và khiến người dân Afghanistan rơi vào cảnh cùng cực.
Năm 2003, Mỹ tiến hành các cuộc tấn công quân sự chống lại Iraq vì cáo buộc nước này sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Số thường dân thiệt mạng trong cuộc chiến tranh Iraq là từ 200.000 đến 250.000, trong đó có hơn 16.000 người bị quân đội Mỹ trực tiếp giết. Hơn một triệu người mất nhà cửa. Hơn nữa, quân đội Mỹ đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc nhân đạo quốc tế, bằng chứng là việc ngược đãi tù nhân diễn ra thường xuyên. Cho đến nay, Mỹ vẫn chưa thể đưa ra bất kỳ bằng chứng đáng tin cậy nào về việc Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Theo hồ sơ hiện có, 33.584 thường dân đã thiệt mạng trong chiến tranh và xung đột ở Syria từ năm 2016 đến 2019. Trong số các nạn nhân, 3.833 người thiệt mạng trực tiếp trong các vụ đánh bom của liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo và một nửa trong số họ là phụ nữ và trẻ em. Dịch vụ Phát thanh Công cộng (PBS) đã báo cáo vào ngày 9 tháng 11 năm 2018 rằng "cuộc không kích chính xác nhất trong lịch sử" do lực lượng Hoa Kỳ phát động chỉ riêng ở Raqqa đã giết chết 1.600 thường dân Syria.
Năm 2018, Mỹ lại tiến hành các cuộc không kích vào Syria với mục đích mà họ gọi là ngăn chặn việc sử dụng vũ khí hóa học của chính phủ Syria. Nhưng “bằng chứng” về cáo buộc sử dụng vũ khí hóa học của chính phủ Syria hóa ra lại là một đoạn video giả do Mũ bảo hiểm trắng, một tổ chức được tài trợ bởi các cơ quan tình báo của Mỹ và các nước khác, chỉ đạo và sản xuất.
(3) Việc lạm dụng các biện pháp trừng phạt vi phạm các quy tắc quốc tế
Trừng phạt đơn phương là “cây gậy lớn” mà Mỹ sử dụng để đối phó với các quốc gia khác. Trong nhiều năm, Hoa Kỳ đã thực hiện quyền bá chủ tài chính và lạm dụng sức mạnh công nghệ của mình để thực hiện hành vi bắt nạt thường xuyên, đơn phương đối với các quốc gia khác.
Hoa Kỳ đã ban hành một số luật hà khắc, chẳng hạn như Đạo luật Quyền lực Kinh tế Khẩn cấp Quốc tế, Đạo luật Trách nhiệm giải trình về Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu và Đạo luật Chống lại Kẻ thù của Mỹ thông qua Trừng phạt , đồng thời ban hành một loạt mệnh lệnh hành pháp nhắm mục tiêu và trừng phạt các quốc gia, tổ chức hoặc quốc gia cụ thể cá nhân.
Các quy tắc mơ hồ có trong các đạo luật và mệnh lệnh hành pháp này, chẳng hạn như “nguyên tắc tiếp xúc tối thiểu” và “học thuyết về tác động”, trên thực tế là sự mở rộng có chủ ý quyền tài phán của luật nội địa Hoa Kỳ.
Các đạo luật và mệnh lệnh hành pháp này khiến Hoa Kỳ có thể lạm dụng các kênh trong nước để truy tố và thực thi “quyền tài phán dài hạn” đối với các thực thể và cá nhân ở các quốc gia khác. Hai ví dụ nổi bật nhất là trường hợp của công ty Pháp Alstom và của Huawei CFO Meng Wanzhou.
Thống kê cho thấy chính quyền Trump đã áp đặt hơn 3.900 biện pháp trừng phạt, có nghĩa là Mỹ trung bình sử dụng “cây gậy lớn” ba lần một ngày. Tính đến năm tài chính 2021, các tổ chức và cá nhân trong danh sách trừng phạt của Hoa Kỳ đứng đầu 9.421, cao hơn 933% so với năm tài chính 2000.
Các biện pháp trừng phạt đơn phương vô cớ và “quyền tài phán dài hạn” của Hoa Kỳ đã làm suy yếu nghiêm trọng chủ quyền và an ninh của các quốc gia khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế và phúc lợi của người dân. Các biện pháp trừng phạt và “quyền tài phán dài hạn” cấu thành một sự vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế và các chuẩn mực cơ bản của quan hệ quốc tế.
Các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ đối với các quốc gia khác đã tiếp tục không suy giảm cho đến năm 2021.
Chính quyền Hoa Kỳ, phối hợp với các đồng minh châu Âu, đã tăng cường ngăn chặn và đàn áp chống lại Nga, áp đặt các biện pháp trừng phạt toàn diện được cho là để đáp trả sự cố Navalny và cáo buộc các cuộc tấn công mạng và can thiệp của Nga vào các cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ, cùng nhiều vấn đề khác, đồng thời phát động một cuộc chiến ngoại giao bằng cách trục xuất các nhà ngoại giao Nga.
Liên quan đến các vấn đề như dự án đường ống dẫn khí đốt tự nhiên Nord Stream 2 và thuế dịch vụ kỹ thuật số, Mỹ đã không ngần ngại trừng phạt ngay cả các đồng minh châu Âu của mình.
Sau khi hiệp định thương mại giai đoạn một giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ có hiệu lực, Hoa Kỳ đã thực hiện các biện pháp tiếp theo để trấn áp và kiềm chế Trung Quốc. Nó đã đưa hơn 940 thực thể và cá nhân Trung Quốc vào danh sách hạn chế của mình. Theo thống kê từ Văn phòng Kiểm soát Tài sản Nước ngoài (OFAC) thuộc Bộ Tài chính Hoa Kỳ, tính đến ngày 19 tháng 10 năm 2021, có tổng cộng 391 tổ chức và cá nhân từ Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông và Macao) đã bị Hoa Kỳ trừng phạt.
Trong một bài báo đăng trên tạp chí Foreign Affairs số tháng 9/tháng 10 năm 2021, Daniel Drezner, Giáo sư tại Đại học Tufts và Thành viên cấp cao tại Viện Brookings, chỉ trích các chính quyền kế tiếp của Hoa Kỳ vì đã sử dụng “các biện pháp trừng phạt như giải pháp tối ưu cho hầu hết mọi vấn đề về chính sách đối ngoại. .” Ông lưu ý rằng các biện pháp trừng phạt không những không hiệu quả mà còn "gây ra hậu quả nhân đạo" và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã trở thành "Hợp chủng quốc của các lệnh trừng phạt".
Các biện pháp trừng phạt đơn phương của Hoa Kỳ là sự vi phạm liên tục và nghiêm trọng nhân quyền của người Mỹ và các dân tộc khác. Ví dụ tồi tệ nhất là cuộc phong tỏa kéo dài của Hoa Kỳ đối với Cuba.
Hơn 60 năm qua, bất chấp nhiều nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Mỹ tiếp tục phong tỏa toàn diện Cuba dựa trên các chính sách cấm vận và luật pháp trong nước như Đạo luật Torricelli và Đạo luật Helms-Burton.
Cuộc phong tỏa Cuba là lệnh cấm vận thương mại, phong tỏa kinh tế và trừng phạt tài chính có hệ thống dài nhất và tàn bạo nhất trong lịch sử hiện đại. Việc phong tỏa đã gây bất lợi nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế và xã hội của Cuba, gây thiệt hại trực tiếp 100 tỷ USD cho nền kinh tế Cuba.
Sự phong tỏa và trừng phạt của Hoa Kỳ đối với Iran bắt đầu vào cuối những năm 1970. Hơn 40 năm qua, các biện pháp trừng phạt đơn phương của Hoa Kỳ đã gia tăng cả về cường độ và tần suất. Chúng đã dần dần phát triển thành một chế độ trừng phạt nghiêm ngặt bao gồm tài chính, thương mại và năng lượng, đồng thời nhắm vào cả các tổ chức và cá nhân. Mục đích là để tăng cường áp lực lên Iran từ mọi phía.
Tháng 5/2018, chính phủ Mỹ tuyên bố đơn phương rút khỏi Kế hoạch hành động toàn diện chung (JCPOA), ngay sau đó nối lại và mở rộng các biện pháp trừng phạt chống lại Iran. Nhiều quốc gia và thực thể liên quan đã buộc phải từ bỏ hợp tác với Iran. Một số lượng lớn các doanh nghiệp dầu khí nước ngoài rời khỏi đất nước. Ngành sản xuất của Iran đã không thể duy trì hoạt động bình thường. Đất nước này đã bị suy thoái kinh tế, cùng với lạm phát cao và mất giá tiền tệ lớn.
Mỹ đã áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Belarus, Syria và Zimbabwe, trong số những nước khác, trong những năm qua, đồng thời gia tăng “áp lực tối đa” đối với CHDCND Triều Tiên, Venezuela, v.v.
(4) “Ngọn hải đăng dân chủ” thu hút sự chỉ trích toàn cầu
Người đời có con mắt sáng suốt. Họ thấy rất rõ những khuyết điểm, thiếu sót của nền dân chủ ở Mỹ, sự đạo đức giả trong việc xuất khẩu các “giá trị dân chủ” của Mỹ, và những hành vi uy hiếp, bá quyền của Mỹ trên thế giới dưới danh nghĩa dân chủ.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga từng lưu ý rằng Hoa Kỳ đã quen với việc đóng giả là “đèn hiệu dân chủ toàn cầu” và kêu gọi các nước khác thực hiện cách tiếp cận nhân đạo đối với cái mà họ gọi là “biểu tình ôn hòa”, nhưng lại áp dụng các biện pháp hoàn toàn ngược lại ở trong nước. Bà lưu ý thêm rằng Hoa Kỳ “không phải là ngọn hải đăng của nền dân chủ”, và chính quyền Hoa Kỳ “trước hết sẽ làm tốt việc lắng nghe công dân của mình và cố gắng lắng nghe họ, thay vì tham gia vào các cuộc săn lùng phù thủy trong chính họ. quốc gia của mình và sau đó nói một cách đạo đức giả về nhân quyền ở các quốc gia khác”. Bà lưu ý rằng Hoa Kỳ không có tư cách thuyết phục các quốc gia khác về quyền con người và quyền tự do dân sự.
Vào tháng 5 năm 2021, Latana, một cơ quan thăm dò ý kiến của Đức và Liên minh các nền dân chủ do cựu Tổng thư ký NATO và cựu Thủ tướng Đan Mạch Anders Fogh Rasmussen thành lập, đã công bố Chỉ số Nhận thức về Dân chủ dựa trên khảo sát hơn 50.000 người ở 53 quốc gia. Kết quả cho thấy 44% số người được hỏi lo ngại rằng Hoa Kỳ có thể gây ra mối đe dọa cho nền dân chủ ở quốc gia của họ, 50% số người Mỹ được khảo sát lo ngại rằng Hoa Kỳ là một quốc gia phi dân chủ và 59% số người được hỏi ở Hoa Kỳ nghĩ rằng chính phủ của họ hành động lợi ích của một nhóm nhỏ người.
Vào tháng 6 năm 2021, Brian Klaas, Phó Giáo sư Chính trị tại Đại học College London, đã đóng góp một bài báo cho The Washington Post với tựa đề “Thế giới kinh hoàng trước sự rối loạn chức năng của nền dân chủ Hoa Kỳ”. Bài báo trích dẫn dữ liệu từ Trung tâm Nghiên cứu Pew, trong đó gợi ý rằng “Mỹ không còn là một 'thành phố tỏa sáng trên ngọn đồi'” và hầu hết các đồng minh của Hoa Kỳ coi nền dân chủ ở Mỹ là “một nền dân chủ tan vỡ, bị cuốn trôi”, và rằng 69% số người được hỏi ở New Zealand, 65% ở Úc, 60% ở Canada, 59% ở Thụy Điển, 56% ở Hà Lan và 53% ở Vương quốc Anh không nghĩ rằng hệ thống chính trị Hoa Kỳ hoạt động tốt. Hơn một phần tư số người được khảo sát ở Pháp, Đức, New Zealand, Hy Lạp, Bỉ và Thụy Điển tin rằng nền dân chủ Mỹ chưa bao giờ là một tấm gương tốt để noi theo.
Một báo cáo của cơ quan thăm dò dư luận Eupinions chỉ ra rằng niềm tin của EU đối với hệ thống của Hoa Kỳ đã giảm sút, với 52% số người được hỏi tin rằng hệ thống dân chủ của Hoa Kỳ không hoạt động; 65% và 61% số người được hỏi ở Pháp và Đức có cùng quan điểm.
Vào tháng 9 năm 2021, Martin Wolf, một học giả nổi tiếng người Anh, đã chỉ ra trong bài báo “Cái chết kỳ lạ của nền dân chủ Hoa Kỳ” đã đóng góp cho The Financial Times rằng môi trường chính trị Hoa Kỳ đã đạt đến điểm “không thể đảo ngược”, và “sự biến đổi của nền dân chủ nền cộng hòa thành một chế độ chuyên chế đã tiến lên”.
Vào tháng 11 năm 2021, Viện Quốc tế về Dân chủ và Hỗ trợ Bầu cử, một tổ chức tư vấn có trụ sở tại Thụy Điển, lần đầu tiên công bố Tình trạng Dân chủ Toàn cầu liệt Hoa Kỳ vào danh sách “nền dân chủ sa sút”. Tổng thư ký của viện nói rằng “sự suy thoái có thể nhìn thấy của nền dân chủ ở Hoa Kỳ” được “thấy trong xu hướng ngày càng tăng nhằm tranh chấp các kết quả bầu cử đáng tin cậy, những nỗ lực ngăn chặn sự tham gia (trong các cuộc bầu cử) và sự phân cực đang diễn ra”.
Nhà hoạt động chính trị người Ấn Độ Yogendra Yadav chỉ ra rằng Hoa Kỳ không phải là "mẫu mực của nền dân chủ", rằng thế giới đã nhận ra rằng Hoa Kỳ cần suy ngẫm về nền dân chủ của mình và học hỏi từ các nền dân chủ khác.
Tạp chí Mexico Proceso nhận xét rằng đằng sau vẻ bề ngoài có vẻ tự do và dân chủ, hệ thống dân chủ của Hoa Kỳ có những sai sót lớn.
Sithembile Mbete, Giảng viên cao cấp tại Khoa Khoa học Chính trị tại Đại học Pretoria, viết trong một bài báo đăng trên Mail và Guardian rằng “nhiều dấu hiệu của các cuộc bầu cử tự do và công bằng - danh sách cử tri phổ thông, quản lý bầu cử tập trung, thống nhất các quy tắc và quy định - không có trong hệ thống của Mỹ. Phần lớn những gì người châu Phi chúng tôi đã được đào tạo để công nhận là hành vi bầu cử tốt chưa bao giờ tồn tại ở Hoa Kỳ.”
Phần kết luận
Nước Mỹ: không còn ngọn hải đăng trên đồi
- Thời đại của Israel
Điều cấp thiết hiện nay đối với Hoa Kỳ là phải hành động một cách thực sự nghiêm túc để đảm bảo các quyền dân chủ của người dân và cải thiện hệ thống dân chủ của mình thay vì quá chú trọng vào dân chủ thủ tục hoặc hình thức mà bỏ qua nền dân chủ thực chất và kết quả của nó.
Điều cấp thiết đối với Hoa Kỳ là đảm nhận nhiều trách nhiệm quốc tế hơn và cung cấp nhiều hàng hóa công cộng hơn cho thế giới thay vì luôn tìm cách áp đặt thương hiệu dân chủ của riêng mình lên người khác, sử dụng các giá trị của chính mình làm phương tiện để chia thế giới thành các phe khác nhau, hoặc thực hiện hành vi can thiệp, lật đổ, xâm lược nước khác với lý do phát huy dân chủ.
Cộng đồng quốc tế hiện đang phải đối mặt với những thách thức cấp bách ở quy mô toàn cầu, từ đại dịch COVID-19, suy thoái kinh tế đến khủng hoảng biến đổi khí hậu. Không một quốc gia nào có thể tránh khỏi những rủi ro và thách thức này. Tất cả các quốc gia nên kéo lại với nhau. Đây là cách tốt nhất để vượt qua những nghịch cảnh này.
Bất kỳ nỗ lực nào nhằm thúc đẩy một mô hình dân chủ duy nhất hoặc tuyệt đối, sử dụng dân chủ như một công cụ hoặc vũ khí trong quan hệ quốc tế, hoặc ủng hộ chính trị khối và đối đầu khối sẽ vi phạm tinh thần đoàn kết và hợp tác vốn rất quan trọng trong những thời điểm khó khăn.
Tất cả các quốc gia cần phải vượt lên trên những khác biệt về hệ thống, bác bỏ tư duy trò chơi có tổng bằng không và theo đuổi chủ nghĩa đa phương thực sự.
Các nước cần đề cao hòa bình, phát triển, bình đẳng, công bằng, dân chủ và tự do là những giá trị chung của nhân loại.
Điều quan trọng nữa là tất cả các quốc gia phải tôn trọng lẫn nhau, nỗ lực mở rộng nền tảng chung trong khi gác lại sự khác biệt, thúc đẩy hợp tác vì lợi ích chung và cùng nhau xây dựng một cộng đồng có tương lai chung cho nhân loại.
ự do trên thế giới 2022
Sự mở rộng toàn cầu của chế độ độc đoán
Xem điểm quốc gia
Tải xuống báo cáo đầy đủTự do toàn cầu phải đối mặt với một mối đe dọa nghiêm trọng. Trên khắp thế giới, những kẻ thù của nền dân chủ tự do—một hình thức chính phủ tự quản trong đó nhân quyền được công nhận và mọi cá nhân đều có quyền được đối xử bình đẳng trước pháp luật—đang đẩy mạnh các cuộc tấn công của chúng.
ĐƯỢC VIẾT BỞI Sarah Repucci Amy Slipowitz
Tải xuống: Báo cáo đầy đủ | Báo cáo tóm tắt
Tự do toàn cầu phải đối mặt với một mối đe dọa nghiêm trọng. Trên khắp thế giới, những kẻ thù của nền dân chủ tự do—một hình thức chính phủ tự quản trong đó nhân quyền được công nhận và mọi cá nhân đều có quyền được đối xử bình đẳng trước pháp luật—đang đẩy mạnh các cuộc tấn công của chúng. Các chế độ độc đoán đã trở nên hiệu quả hơn trong việc đồng ý hoặc phá vỡ các quy tắc và thể chế nhằm hỗ trợ các quyền tự do cơ bản và cung cấp viện trợ cho những người khác muốn làm điều tương tự. Ở những quốc gia có nền dân chủ lâu đời, các thế lực bên trong đã lợi dụng những thiếu sót trong hệ thống của họ, bóp méo nền chính trị quốc gia để thúc đẩy hận thù, bạo lực và quyền lực vô độ. Trong khi đó, những quốc gia đã phải vật lộn trong không gian giữa dân chủ và độc tài, đang ngày càng nghiêng về phía sau. Trật tự toàn cầu đang tiến gần đến điểm bùng phát,
Mối đe dọa hiện tại đối với nền dân chủ là sản phẩm của 16 năm liên tục suy giảm tự do toàn cầu. Tổng cộng có 60 quốc gia bị suy giảm trong năm qua, trong khi chỉ có 25 quốc gia được cải thiện. Tính đến hôm nay, khoảng 38 phần trăm dân số toàn cầu sống ở các quốc gia Không Tự do, tỷ lệ cao nhất kể từ năm 1997. Hiện chỉ có khoảng 20 phần trăm sống ở các quốc gia Tự do.
Trong thời kỳ suy thoái dân chủ này, việc kiểm tra lạm quyền và vi phạm nhân quyền đã bị xói mòn. Trong những thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác đã thúc đẩy khái niệm về các quyền cơ bản, và các nền dân chủ đã hỗ trợ—tuy nhiên không đồng đều—trong các chính sách đối nội và đối ngoại của họ khi họ cố gắng tạo ra một hệ thống quốc tế mở được xây dựng dựa trên sự phản kháng chung đối với chủ nghĩa toàn trị. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, các nhà lãnh đạo của các quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi cảm thấy buộc phải công khai nắm lấy những lý tưởng tương tự để giành được sự chấp nhận trong cộng đồng quốc tế, ngay cả khi cam kết của họ chỉ là bề ngoài. Các chính phủ dựa vào sự hỗ trợ kinh tế hoặc quân sự từ bên ngoài ít nhất phải tổ chức các cuộc bầu cử bề ngoài đáng tin cậy và tôn trọng một số kiểm tra thể chế đối với quyền lực của họ, cùng với các nhượng bộ khác,
Tuy nhiên, trong phần lớn thế kỷ 21, các đối thủ của nền dân chủ đã kiên trì nỗ lực để phá bỏ trật tự quốc tế này và những hạn chế mà nó áp đặt lên tham vọng của họ. Thành quả của những nỗ lực của họ giờ đã rõ ràng. Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc, Nga và các chế độ độc tài khác đã thành công trong việc thay đổi các động cơ toàn cầu, gây nguy hiểm cho sự đồng thuận rằng dân chủ là con đường khả thi duy nhất dẫn đến thịnh vượng và an ninh, đồng thời khuyến khích các cách tiếp cận quản trị độc tài hơn.
Các quốc gia ở mọi khu vực trên thế giới đã bị chiếm giữ bởi các nhà cai trị độc tài trong những năm gần đây. Riêng năm 2021, tổng thống đương nhiệm của Nicaragua đã giành được nhiệm kỳ mới trong một cuộc bầu cử được dàn dựng chặt chẽ sau khi lực lượng an ninh của ông bắt giữ các ứng cử viên đối lập và hủy đăng ký các tổ chức xã hội dân sự. Các tướng lĩnh của Sudan một lần nữa lên nắm quyền, đảo ngược tiến trình dân chủ đạt được sau khi cựu độc tài Omar al-Bashir bị lật đổ vào năm 2019. Và khi Hoa Kỳ đột ngột rút quân khỏi Afghanistan, chính phủ được bầu ở Kabul sụp đổ và nhường chỗ cho Taliban, đưa đất nước trở lại một hệ thống hoàn toàn trái ngược với dân chủ, đa nguyên và bình đẳng.
Đồng thời, các nền dân chủ đang bị tổn hại từ bên trong bởi các lực lượng phi tự do, bao gồm các chính trị gia vô đạo đức sẵn sàng tham nhũng và phá vỡ chính các thể chế đã đưa họ lên nắm quyền. Điều này được cho là rõ ràng nhất vào năm ngoái tại Hoa Kỳ, nơi những kẻ bạo loạn xông vào Điện Capitol vào ngày 6 tháng 1 như một phần của nỗ lực có tổ chức nhằm lật ngược kết quả của cuộc bầu cử tổng thống. Nhưng các nhà lãnh đạo được bầu cử tự do từ Brazil đến Ấn Độ cũng đã thực hiện hoặc đe dọa thực hiện nhiều hành động phản dân chủ, và kết quả là sự đổ vỡ các giá trị được chia sẻ giữa các nền dân chủ đã dẫn đến sự suy yếu của các giá trị này trên trường quốc tế.
Bây giờ không thể bỏ qua thiệt hại đối với nền tảng và danh tiếng của nền dân chủ. Các chế độ của Trung Quốc, Nga và các quốc gia độc tài khác đã giành được quyền lực to lớn trong hệ thống quốc tế, và các quốc gia tự do hơn đã chứng kiến những chuẩn mực đã được thiết lập của họ bị thách thức và rạn nứt. Tình trạng tự do toàn cầu hiện nay nên gây báo động cho tất cả những ai coi trọng quyền của chính họ và của đồng loại. Để đảo ngược tình trạng suy thoái, các chính phủ dân chủ cần củng cố luật pháp và thể chế trong nước đồng thời thực hiện hành động phối hợp táo bạo để hỗ trợ cuộc đấu tranh cho dân chủ trên toàn thế giới. Ở những quốc gia ít tự do hơn, các nhà dân chủ phải đoàn kết để chống lại sự xâm lấn của quyền lực không được kiểm soát và hướng tới việc mở rộng tự do cho tất cả các cá nhân.
Nhu cầu phổ biến cho dân chủ vẫn mạnh mẽ. Từ Sudan đến Myanmar, mọi người tiếp tục liều mạng để theo đuổi tự do ở đất nước của họ. Nhiều người khác thực hiện những cuộc hành trình nguy hiểm để được sống tự do ở nơi khác. Các chính phủ và xã hội dân chủ phải khai thác và hỗ trợ mong muốn chung này về các quyền cơ bản và xây dựng một thế giới mà ở đó mong muốn đó cuối cùng được thực hiện.
Dân chủ là gì?
Cơ bản để phục hồi nền dân chủ là hiểu đúng bản chất của nó. Từ dân chủ đã được áp dụng, dù đúng hay sai, cho mọi loại quốc gia, từ “Cộng hòa Dân chủ Nhân dân” của Bắc Triều Tiên cho đến các chính thể tự do nhất ở Scandinavia. Một bài bình luận chung vào tháng 12 năm 2021 của các đại sứ Nga và Trung Quốc tại Hoa Kỳ đã gọi cả hai chế độ độc tài của họ là “dân chủ”. Sử dụng sai từ ngữ là một minh chứng cho sức hấp dẫn rộng rãi của nền dân chủ. Tuy nhiên, thực tiễn đáng tiếc này đã tạo ra sự nhầm lẫn, cho phép các đối thủ đồng thời tuyên bố các chứng chỉ dân chủ và lập luận rằng các nền dân chủ thực tế là không hiệu quả hoặc đạo đức giả.
Hơn nữa, nó đã góp phần tạo ra một nhận thức sai lầm rằng tất cả nền dân chủ đòi hỏi phải thực hiện đều đặn các cuộc bầu cử. Tuy nhiên, dân chủ không chỉ có nghĩa là quy tắc đa số. Ở dạng lý tưởng, nó là một hệ thống cai trị dựa trên ý chí và sự đồng ý của những người bị cai trị, các thể chế chịu trách nhiệm trước mọi công dân, tuân thủ pháp quyền và tôn trọng nhân quyền. Đó là một mạng lưới các cấu trúc củng cố lẫn nhau, trong đó những người thực thi quyền lực phải chịu sự kiểm tra cả trong và ngoài nhà nước, ví dụ, từ các tòa án độc lập, báo chí độc lập và xã hội dân sự. Nó đòi hỏi sự cởi mở đối với các sự thay đổi quyền lực, với các ứng cử viên hoặc đảng đối thủ cạnh tranh công bằng để cai trị vì lợi ích của công chúng nói chung, không chỉ bản thân họ hoặc những người đã bỏ phiếu cho họ. Nó tạo ra một sân chơi bình đẳng để tất cả mọi người,
Dân chủ không chỉ là một lý tưởng. Đó là một động cơ thực tế để tự sửa chữa và cải thiện, giúp mọi người có thể đấu tranh không ngừng, một cách hòa bình cho lý tưởng đó. Khi một phần của hệ thống gặp trục trặc, những phần khác có thể được sử dụng làm công cụ để sửa chữa và củng cố nó. Khả năng tự điều chỉnh vốn có và độc đáo này là điều làm cho nền dân chủ thành công đến vậy trong việc mang lại sự ổn định và thịnh vượng lâu dài. Không có nền dân chủ nào trong thế giới thực là hoàn hảo, và những người đòi hỏi dân chủ ở những nơi như Cuba và Hồng Kông không đòi hỏi sự hoàn hảo. Những gì họ mong muốn là các quyền tự do và thể chế sẽ cho phép họ tạo ra một cuộc sống tốt đẹp hơn và một xã hội công bằng hơn theo thời gian.
Thúc đẩy các chuẩn mực chuyên quyền
Các nhà độc tài đã tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho chính họ trong hơn một thập kỷ rưỡi qua, được trao quyền bởi sức mạnh kinh tế và chính trị của chính họ cũng như giảm bớt áp lực từ các nền dân chủ. Trật tự thay thế không dựa trên một hệ tư tưởng thống nhất hoặc mối quan hệ cá nhân giữa các nhà lãnh đạo. Nó không được thiết kế để phục vụ lợi ích tốt nhất của người dân, hoặc giúp mọi người cải thiện cuộc sống của chính họ. Thay vào đó, nó dựa trên mối quan tâm chung của các nhà độc tài trong việc giảm thiểu việc kiểm tra các hành vi lạm dụng của họ và duy trì quyền lực của họ. Một thế giới được cai trị bởi trật tự này trên thực tế sẽ là một thế giới hỗn loạn, đầy xung đột vũ trang, bạo lực vô luật lệ, tham nhũng và biến động kinh tế. Sự bất ổn và mất an ninh toàn cầu như vậy sẽ gây ra một cái giá đáng kể về mạng sống con người.
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đóng vai trò lãnh đạo trong việc thúc đẩy các chuẩn mực chuyên quyền. Viện dẫn cách giải thích tư lợi của mình về chủ quyền quốc gia, đảng này cố gắng tạo ra không gian cho các chính phủ đương nhiệm hành động theo ý họ mà không có sự giám sát hoặc hậu quả. Nó đưa ra một giải pháp thay thế cho các nền dân chủ với tư cách là một nguồn hỗ trợ và đầu tư quốc tế, giúp những kẻ chuyên quyền sẽ củng cố vị trí của mình, áp dụng các khía cạnh của mô hình quản trị của ĐCSTQ và làm giàu cho chế độ của họ trong khi bỏ qua các nguyên tắc như minh bạch và cạnh tranh công bằng. Đồng thời, ĐCSTQ đã sử dụng sức mạnh kinh tế to lớn của mình và thậm chí cả các mối đe dọa quân sự để ngăn chặn sự chỉ trích của quốc tế về việc vi phạm các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền của chính họ.
Vào năm 2021, ĐCSTQ tiếp tục mở rộng phạm vi phát ngôn mà họ sẽ không dung thứ, sử dụng đòn bẩy kinh tế và công nghệ để gây áp lực buộc các chính phủ, tổ chức quốc tế và khu vực tư nhân lặp lại những phát ngôn ưa thích của mình. Mặc dù bằng chứng mới chỉ ra rằng lãnh đạo đảng Tập Cận Bình và các quan chức hàng đầu khác đã nhúng tay vào việc lên kế hoạch và thực hiện các tội ác chống lại loài người và hành động diệt chủng đối với các nhóm dân tộc thiểu số ở Tân Cương, nhưng nhiều tác nhân nước ngoài, bao gồm cả một số nền dân chủ, đã nghe theo đường lối của ĐCSTQ. Một khách sạn Marriott ở Cộng hòa Séc đã từ chối tổ chức cuộc họp mặt của Đại hội người Duy Ngô Nhĩ Thế giới vào tháng 11 năm 2021, lập luận rằng họ muốn tuân theo “sự trung lập về chính trị. ” Quốc hội New Zealand đã kiềm chế không xác định các hành động của Bắc Kinh ở Tân Cương là tội diệt chủng sau khi bộ trưởng thương mại bày tỏ lo ngại rằng ngôn từ như vậy sẽ cản trở quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Những lời đe dọa như vậy là đáng tin cậy do các biện pháp trả đũa trước đây của Bắc Kinh đối với các công ty và quốc gia nước ngoài, bao gồm cả việc áp thuế đối với hàng xuất khẩu của Úc sau khi Canberra kêu gọi một cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc của COVID-19.
Bỏ giả vờ bầu cử cạnh tranh
Các cuộc bầu cử, ngay cả khi có sai sót nghiêm trọng, từ lâu đã mang lại cho các nhà lãnh đạo độc đoán một vẻ ngoài hợp pháp, cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, khi các chuẩn mực quốc tế chuyển sang hướng chuyên chế, những hoạt động này trong sân khấu dân chủ ngày càng trở nên lố bịch.
Trong thời gian chuẩn bị cho cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 9 năm 2021 của Nga, chế độ của Tổng thống Vladimir Putin đã xua tan ảo tưởng cạnh tranh bằng cách bỏ tù nhà lãnh đạo phe đối lập Aleksey Navalny và bôi nhọ phong trào của ông ta là “cực đoan”, điều này đã ngăn cản bất kỳ ứng cử viên nào thậm chí có liên hệ lỏng lẻo với nó. chạy cho văn phòng. Bản thân cuộc bỏ phiếu đã bị hủy hoại bởi những bất thường và hạn chế đối với những người quan sát độc lập, và các công ty công nghệ đã buộc phải xóa một ứng dụng di động do Navalny hậu thuẫn nhằm thông báo cho cử tri đối lập về những ứng cử viên mạnh nhất trong khu vực của họ. Luật về “đặc vụ nước ngoài” cũng được mở rộng trước cuộc bầu cử, hạn chế hoạt động của các phương tiện truyền thông độc lập cũng như các cá nhân chỉ trích chế độ.
Cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 2021 ở Nicaragua cũng không có tính cạnh tranh tương tự. Chính phủ độc đoán của Tổng thống Daniel Ortega đã từ chối thực hiện các cải cách bầu cử do Tổ chức các Quốc gia Châu Mỹ khuyến nghị, bao gồm các biện pháp giúp Hội đồng Bầu cử Tối cao độc lập hơn, thiết lập tính minh bạch hơn trong quy trình đăng ký cử tri và kiểm phiếu, đồng thời cho phép hoạt động độc lập và đáng tin cậy. quan sát viên bầu cử quốc tế để giám sát các cuộc thăm dò. Thay vào đó, trong năm trước đó, chính phủ đã thông qua luật nhằm vào phe đối lập, trong đó có luật “đặc vụ nước ngoài” lấy cảm hứng từ luật pháp Nga. Chế độ cũng hủy bỏ đăng ký của gần 50 tổ chức, dập tắt một cách hiệu quả xã hội dân sự độc lập,
Cuộc bầu cử Hội đồng Lập pháp vào tháng 12 năm 2021 tại Hồng Kông đã nhấn mạnh sự thành công của Bắc Kinh trong việc phá bỏ các thể chế bán dân chủ của lãnh thổ này. Giống như Putin và Ortega, ĐCSTQ và các đồng minh của nó trong chính quyền Hồng Kông đã đặt nền móng cho một quy trình được kiểm soát chặt chẽ, ban hành một “cải cách” bầu cử làm giảm mạnh quyền bầu cử trực tiếp và cho phép chính quyền loại trừ các ứng cử viên dựa trên các tiêu chí chính trị, bắt giữ và giam giữ những người đối lập các nhà lãnh đạo theo Luật An ninh Quốc gia hà khắc, và buộc các cơ quan truyền thông độc lập phải đóng cửa. Do đó, không ai ngạc nhiên khi các ứng cử viên thân Bắc Kinh chiếm ưu thế trong cơ quan lập pháp mới, bất chấp lịch sử lâu dài cử tri ủng hộ mạnh mẽ các ứng cử viên ủng hộ dân chủ.
Một sự gia tăng của các cuộc đảo chính và nắm quyền
Trong một dấu hiệu khác cho thấy các biện pháp ngăn chặn quốc tế chống lại hành vi phản dân chủ đang mất tác dụng, các cuộc đảo chính diễn ra phổ biến hơn vào năm 2021 so với bất kỳ năm nào trong 10 năm trước. Lần đầu tiên diễn ra vào tháng 2 ở Myanmar, ngay trước khi một quốc hội mới chuẩn bị tuyên thệ nhậm chức sau cuộc bầu cử tháng 11 năm 2020 có nhiều sai sót nhưng đáng tin cậy, trong đó đảng ưa thích của quân đội đã bị đánh bại rõ ràng. Quân đội, vốn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong chính trị theo hiến pháp năm 2008 do quân đội soạn thảo, đã tuyên bố rằng gian lận đã khiến các cuộc bầu cử trở nên vô hiệu, và bổ nhiệm tổng tư lệnh Min Aung Hlaing làm quyền tổng thống. Kể từ đó, tình trạng khẩn cấp kéo dài một năm ban đầu đã được kéo dài thêm hai năm nữa. Các nhà lãnh đạo chính trị dân sự đã bị bắt giữ hàng loạt, hơn một nghìn người đã bị giết khi lực lượng an ninh đàn áp các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ, và hàng ngàn người khác đã bị tống vào tù và bị tra tấn. Chính quyền quân sự đã áp đặt lệnh giới nghiêm, liên tục tắt internet, bố ráp các trường đại học, tìm kiếm những người bảo vệ nhân quyền và các nhà hoạt động dân chủ để bắt giữ. Kết quả của những diễn biến này là Myanmar đã trải qua sự suy giảm tự do lớn nhất thế giới vào năm ngoái.
Tại Sudan, vài tuần trước khi chính phủ chuyển tiếp dự kiến nằm dưới sự kiểm soát hoàn toàn của dân sự sau cuộc đảo chính năm 2019, quân đội đã lên nắm quyền vào tháng 10 năm 2021 và ban bố tình trạng khẩn cấp. Mặc dù thủ tướng dân sự Abdalla Hamdok sau đó đã được phục chức, nhưng quân đội vẫn giữ quyền kiểm soát chính phủ và đề nghị rằng các cuộc bầu cử sẽ không được tổ chức cho đến năm 2023. giết nhiều người. Dưới áp lực của các nhóm chính trị và những công dân bình thường, những người coi sự tham gia của ông như một sự đầu hàng trước quân đội, Hamdok đã từ chức vào đầu tháng 1, để lại chính phủ dưới sự kiểm soát của các lực lượng vũ trang.
Tây Phi, cho đến gần đây là một khu vực được đặc trưng bởi các thành tựu dân chủ, đã phải chịu thêm nhiều thất bại vào năm 2021. Các nhà lãnh đạo của cuộc đảo chính tháng 9 ở Guinea tuyên bố sẽ duy trì các nguyên tắc dân chủ, khi họ phế truất Tổng thống Alpha Condé sau khi ông sửa đổi hiến pháp để tranh cử nhiệm kỳ thứ ba năm trước. Nhưng với việc người Guinea bị bỏ lại dưới sự cai trị của các quan chức hoàn toàn không được bầu chọn, các quyền chính trị bị suy giảm và quốc gia này rơi từ trạng thái Tự do một phần sang Không tự do. Mali trải qua cuộc đảo chính quân sự thứ hai trong vòng chưa đầy một năm vào tháng 5 năm 2021, sau khi tổng thống và thủ tướng chuyển tiếp cố gắng thành lập một chính phủ mới loại trừ các sĩ quan quân đội chủ chốt. Trong khi đó ở Chad, vốn đã là một quốc gia độc tài, quân đội đã can thiệp sau cái chết của tổng thống lâu năm Idriss Déby Itno vào tháng 4 năm 2021 và phong con trai ông làm lãnh đạo mới.
Một số cuộc tranh giành quyền lực trong năm được thực hiện bởi các nhà lãnh đạo dân sự đương nhiệm chứ không phải quân đội. Vào năm 2014, Tunisia đã trở thành quốc gia duy nhất nổi lên từ Mùa xuân Ả Rập với chỉ định Tự do, loại bỏ chế độ độc tài và xây dựng một nền dân chủ đầy triển vọng. Tuy nhiên, nó đã giảm xuống trạng thái Tự do một phần vào năm 2021 sau khi Tổng thống Kaïs Saïed, được thúc đẩy bởi các cuộc biểu tình phản đối nền kinh tế đang chững lại và các ca nhiễm coronavirus gia tăng, đã đơn phương cách chức thủ tướng và đình chỉ quốc hội vô thời hạn vào tháng 7 để cai trị bằng sắc lệnh. Quay lưng lại với các chuẩn mực dân chủ, Saïed tiếp tục mở rộng quyền hành pháp của mình vào tháng 9, bao gồm cả việc bỏ qua một số phần của hiến pháp. Mặc dù sự hỗ trợ quốc tế lớn hơn có thể đã thúc đẩy những nỗ lực của người dân Tunisia để đảm bảo các quyền tự do của họ trong những năm kể từ năm 2014,
Sự thối rữa bên trong các nền dân chủ
Khi các nhà độc tài tiếp tục mở rộng tầm với của họ, thường phải đối mặt với ít hơn những lời tố cáo hùng hồn từ các chính phủ tuyên bố ủng hộ nhân quyền, thì ngày càng có nhiều bằng chứng về các vệt phi tự do phát triển trong nước trong các nền dân chủ. Các nhà lãnh đạo phi dân chủ và những người ủng hộ họ trong môi trường dân chủ đã làm việc để định hình lại hoặc thao túng các hệ thống chính trị, một phần bằng cách đánh vào nỗi sợ hãi của cử tri về sự thay đổi trong cách sống của họ và bằng cách nêu bật những thất bại thực sự của những người tiền nhiệm. Họ đã thúc đẩy ý tưởng rằng, một khi đã nắm quyền, trách nhiệm của họ chỉ là đối với cơ sở nhân khẩu học hoặc đảng phái của chính họ, không quan tâm đến các lợi ích và bộ phận khác của xã hội và bóp méo các thể chế do họ chăm sóc để kéo dài thời gian cai trị của họ. Đồng thời, các nguyên tắc dân chủ đa nguyên, bình đẳng,
Trái ngược hoàn toàn với những nỗ lực của các chế độ độc tài nhằm áp đặt vẻ bề ngoài của uy tín bầu cử, các nhà lãnh đạo lo sợ mất quyền lực trong một hệ thống dân chủ đã thực hiện việc gieo rắc sự ngờ vực trong các cuộc bầu cử. Cuộc tấn công vào Điện Capitol của Hoa Kỳ là đỉnh điểm của chiến dịch kéo dài nhiều tháng của tổng thống sắp mãn nhiệm Donald Trump nhằm coi chiến thắng của Joe Biden là bất hợp pháp và gian lận. Mặc dù các đồng minh của Trump đã lan truyền những giả thuyết sai trái và mâu thuẫn rằng những kẻ tấn công đã hành động tự phát hoặc bị kẻ thù của Trump cố tình khiêu khích, nhưng các nhà điều tra đã tiết lộ một nỗ lực có tổ chức nhằm ngăn chặn việc chứng nhận kết quả bầu cử có sự tham gia của hàng chục quan chức cấp bang và địa phương thuộc Đảng Cộng hòa. và được thăng chức bởi chính tổng thống lúc bấy giờ. Mặc dù cuộc nổi dậy cuối cùng đã không thành công và một cuộc chuyển giao quyền lực đã diễn ra một cách hòa bình, các lực lượng tương tự tiếp tục gây ảnh hưởng đáng kể đến hệ thống chính trị Hoa Kỳ. Nhiều đảng viên Cộng hòa nổi tiếng ban đầu lên án sự kiện ngày 6 tháng 1 đã im lặng hoặc liên kết nhận xét của họ với Trump trong những tuần tiếp theo, trong khi những người từ chối thể hiện lòng trung thành với nhà lãnh đạo cũ phải đối mặt với sự gạt ra ngoài lề chính trị, áp lực nghiêm trọng trong nội bộ đảng và bị đe dọa thẳng thừng. bạo lực.
Trump và những người ủng hộ ông đã tiếp tục đưa ra thông điệp rằng gian lận đã nghiêng cán cân về phía Biden trong cuộc bầu cử năm 2020, bất chấp nhiều lần kiểm phiếu lại và các phán quyết nhất quán của tòa án chống lại mọi cáo buộc về gian lận phổ biến. Không phải là một nỗ lực thiện chí để phát hiện ra sự lạm dụng, lời nói dối trong cuộc bầu cử bị đánh cắp đang làm xói mòn niềm tin của công chúng vào hệ thống bầu cử của Hoa Kỳ trước cuộc tổng tuyển cử giữa nhiệm kỳ năm 2022 và năm 2024, được cho là sẽ là những cuộc cạnh tranh gay gắt để giành quyền kiểm soát các nhánh lập pháp và hành pháp . Xu hướng này đặc biệt nguy hiểm trong bối cảnh Hoa Kỳ, nơi các cơ quan lập pháp bang, đặc biệt là những cơ quan do các nhà lãnh đạo Đảng Cộng hòa thống trị, có nhiều thời gian để tuyên bố rằng có những bất thường trong quá trình bỏ phiếu.
Trên thực tế, đến tháng 12 năm 2021, 17 tiểu bang đã thông qua luật đe dọa tính toàn vẹn của bầu cử và quản lý bầu cử, đồng thời hàng trăm dự luật bổ sung như vậy đã được đưa ra trên 24 tiểu bang. Đe dọa hoặc bạo lực bởi các chủ thể phi nhà nước, bao gồm cả những người ủng hộ Trump, gây ra một rủi ro khác cho các cuộc bầu cử sắp tới. Hiện tại, các quản trị viên bầu cử đã từ chức với số lượng chưa từng có trong bối cảnh gia tăng các mối đe dọa và quấy rối.
Khi Brazil chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử vào tháng 10 năm 2022, Tổng thống Jair Bolsonaro đã lặp lại lời của Trump bằng cách tuyên bố trước rằng cuộc bỏ phiếu sẽ có gian lận. Sau khi đưa ra các cáo buộc của mình dựa trên một khẳng định vô căn cứ rằng hệ thống bỏ phiếu điện tử không đáng tin cậy, Bolsonaro đã thúc đẩy sửa đổi hiến pháp, cuối cùng bị từ chối, điều đó sẽ cung cấp các biên lai phiếu bầu in sẵn. Các chuyên gia lưu ý rằng biện pháp này sẽ tạo ra sự tin cậy đối với các tuyên bố gian lận không có căn cứ và thực sự có thể làm tăng khả năng đe dọa cử tri và mua phiếu bầu. Bolsonaro cũng bị cáo buộc gian lận bầu cử nhiều năm trước, khi vẫn còn ở bên lề chính trường Brazil. Ngày nay những tuyên bố như vậy đã trở nên bình thường hóa.
Ở những nơi khác ở Châu Mỹ, sự suy thoái của El Salvador đã tăng nhanh kể từ khi Tổng thống Nayib Bukele nhậm chức vào năm 2019. Sau khi các đồng minh của ông giành được đa số phiếu bầu trong cơ quan lập pháp vào năm 2021, chính phủ của Bukele đã phá hoại một cách có hệ thống các thể chế dân chủ nhằm kiểm soát quyền hành pháp. Các nhà chức trách đã lạm dụng các cơ chế chống tham nhũng để bắt giữ các cựu quan chức mà không có bằng chứng đáng tin cậy, và chính phủ đã cố gắng dỡ bỏ các hệ thống giám sát công cộng. Bukele đã sử dụng quyền kiểm soát của mình đối với cơ quan lập pháp để thay thế các thẩm phán từ Phòng Hiến pháp của Tòa án Tối cao và gần 200 thẩm phán khác trên khắp đất nước. Tòa án thay đổi sau đó đã đảo ngược lệnh cấm hiến pháp đối với việc tái tranh cử tổng thống, cho phép Bukele tham gia các cuộc tranh cử trong tương lai. Luật đại lý nước ngoài do chính phủ đề xuất, có thể hạn chế nghiêm trọng xã hội dân sự,
Các nền dân chủ ở những nơi khác trên thế giới cũng tiếp tục suy giảm dưới ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo được bầu cử tự do, những người đã chấp nhận nền chính trị phi tự do. Ấn Độ, quốc gia đã phải chịu một loạt trở ngại đối với các quyền chính trị và quyền tự do dân sự kể từ khi Thủ tướng Narendra Modi tái đắc cử vào năm 2019, không có dấu hiệu đảo ngược hướng đi khi các nhân vật đối lập đáng chú ý phải đối mặt với việc bắt giữ và giám sát. Kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2015, đảng Luật pháp và Công lý của Ba Lan đã phá hoại nền pháp quyền bằng cách đưa vào các tòa án hàng đầu của đất nước những người trung thành, những người đáng tin cậy ủng hộ các chính sách và quyết định của đảng. Vào tháng 10 và tháng 11 năm 2021, tòa án hiến pháp Ba Lan đã đe dọa tiếp tục phá vỡ các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế và khu vực bằng phán quyết rằng tòa án có thể phớt lờ luật pháp và phán quyết của Liên minh Châu Âu (EU).
Các cường quốc độc đoán đã lưu ý cẩn thận về những rạn nứt trong và giữa các nền dân chủ và tìm cách mở rộng chúng bất cứ khi nào có thể. Trong năm 2021, chế độ ở Belarus đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng nghìn người di cư — phần lớn trong số họ đến từ Iraq — đến Minsk và sau đó đến biên giới của các quốc gia EU đã cung cấp nơi trú ẩn cho các nhân vật đối lập Belarus lưu vong. Những người đến hàng loạt đã dẫn đến các phản ứng quân sự hóa, đẩy lùi bất hợp pháp và vi phạm các thủ tục tị nạn của chính phủ Ba Lan, Latvia và Litva. Hàng ngàn người di cư bị mắc kẹt ở khu vực biên giới trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, góp phần gây ra một số trường hợp tử vong. Chính phủ Ba Lan đã thực hiện các biện pháp để hợp pháp hóa các phản hồi của mình, vi phạm cả luật pháp EU và luật pháp quốc tế. Vào cuối năm, Ủy ban Châu Âu đã đề xuất các quy tắc mới cho phép thời gian xử lý đơn xin tị nạn lâu hơn, điều này có thể dẫn đến việc giam giữ kéo dài và các vi phạm quyền khác. Nói tóm lại, áp lực do Minsk gây ra đã khuyến khích các nền dân chủ hành động trái ngược với các giá trị của họ, khiến họ bị buộc tội đạo đức giả và tạo ra sự chia rẽ giữa những người chỉ trích và những người bảo vệ phản ứng. Các chế độ khác ở ngoại vi châu Âu, bao gồm cả Maroc và Thổ Nhĩ Kỳ, đã sử dụng các chiến thuật tương tự để đạt được những nhượng bộ và phá vỡ sự đoàn kết dân chủ ở EU. Nhưng những nỗ lực của họ sẽ là vô ích nếu không có những điểm yếu hiện có trong chính các nền dân chủ. khiến họ bị buộc tội đạo đức giả và tạo ra sự chia rẽ giữa những người chỉ trích và những người bảo vệ phản ứng. Các chế độ khác ở ngoại vi châu Âu, bao gồm cả Maroc và Thổ Nhĩ Kỳ, đã sử dụng các chiến thuật tương tự để đạt được những nhượng bộ và phá vỡ sự đoàn kết dân chủ ở EU. Nhưng những nỗ lực của họ sẽ là vô ích nếu không có những điểm yếu hiện có trong chính các nền dân chủ. khiến họ bị buộc tội đạo đức giả và tạo ra sự chia rẽ giữa những người chỉ trích và những người bảo vệ phản ứng. Các chế độ khác ở ngoại vi châu Âu, bao gồm cả Maroc và Thổ Nhĩ Kỳ, đã sử dụng các chiến thuật tương tự để đạt được những nhượng bộ và phá vỡ sự đoàn kết dân chủ ở EU. Nhưng những nỗ lực của họ sẽ là vô ích nếu không có những điểm yếu hiện có trong chính các nền dân chủ.
liên minh phản dân chủ
Các nhà lãnh đạo độc tài không còn là những người nắm giữ biệt lập trong một thế giới dân chủ hóa. Thay vào đó, họ đang tích cực hợp tác với nhau để truyền bá các hình thức đàn áp mới và bác bỏ áp lực dân chủ. Trong khi nhiều nền dân chủ tiếp tục đối phó với các cuộc bầu cử giả và đảo chính bằng các biện pháp như trừng phạt và cắt viện trợ, tác động đã bị giảm bớt bởi các liên minh độc đoán.
Trong một số trường hợp, sự hỗ trợ độc đoán chủ yếu là kinh tế. Ví dụ, chính phủ Nga, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ đã cung cấp thương mại và đầu tư cho chế độ Venezuela, bù đắp cho các biện pháp trừng phạt do các nền dân chủ áp đặt đối với các cuộc bầu cử gian lận và đàn áp phe đối lập. Nhưng trong những trường hợp khác, sự hỗ trợ trực tiếp hơn nhiều: Trong các cuộc biểu tình phản đối bầu cử gian lận ở Belarus năm 2020, Điện Kremlin đã cử các nhà tuyên truyền người Nga thay thế các nhà báo Belarus bị đình công và đề nghị lực lượng an ninh của họ hỗ trợ chính quyền Belarus giải tán các cuộc biểu tình bạo lực. . Các nhà quan sát bầu cử từ Nga đã coi cuộc bỏ phiếu là đáng tin cậy, bất chấp việc bỏ tù các ứng cử viên đối lập và các chiến dịch kiểm duyệt gắt gao chống lại các phương tiện truyền thông độc lập. Trong khi đó,
Tương tự, bất chấp bạo lực nghiêm trọng liên quan đến cuộc đảo chính quân sự năm 2021 ở Myanmar, Bắc Kinh đã ngăn Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đưa ra lời lên án mạnh mẽ hơn về hành vi thâu tóm quyền lực, và Moscow đã tìm cách tăng cường quan hệ kinh tế với chính quyền quân sự. Các nhà lãnh đạo cuộc đảo chính ở Sudan cũng có thể dựa vào những người bạn chuyên quyền của họ để được hỗ trợ ngoại giao và các hỗ trợ khác, với các phái viên Trung Quốc và Nga đang làm việc để giảm bớt phản ứng tại Liên Hợp Quốc.
Ngoài việc đẩy lùi áp lực quốc tế, các chính phủ độc tài đã hợp tác khi sử dụng đàn áp xuyên quốc giađể bịt miệng những người bất đồng chính kiến bị lưu đày của chính họ thông qua các công cụ như giam giữ, biểu tình, lạm dụng Interpol, cưỡng chế bằng ủy quyền và giám sát kỹ thuật số. Trong khi các mối đe dọa hoặc tấn công vật lý chống lại những người bất đồng chính kiến sống ở Hoa Kỳ và Châu Âu được chú ý nhiều nhất, phần lớn các trường hợp đàn áp xuyên quốc gia liên quan đến sự hợp tác giữa các quốc gia sở tại và quốc gia gốc. Các cơ quan an ninh thường làm việc cùng nhau để giam giữ và trục xuất các nhà hoạt động bị nhắm mục tiêu, đồng thời tòa án và các cơ quan di trú thực hiện các yêu cầu dẫn độ hoặc trục xuất họ. Chẳng hạn, có bằng chứng cho thấy chính phủ Kyrgyzstan đã hỗ trợ các cơ quan tình báo Thổ Nhĩ Kỳ trong vụ bắt cóc Orhan İnandı vào tháng 5 năm 2021, vụ này đã đưa anh ta đến Thổ Nhĩ Kỳ để đối mặt với cáo buộc khủng bố. İnandı đã thành lập một mạng lưới trường học ở Kyrgyzstan phù hợp với phong trào Gülen,
Các kiểu hợp tác khác giữa các nhà độc tài có thể khiến toàn bộ các nhóm dân tộc gặp rủi ro. Thổ Nhĩ Kỳ đã từng là thiên đường cho người Duy Ngô Nhĩ bị đàn áp ở Trung Quốc, những người có ngôn ngữ và văn hóa gần giống với người Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng Erdoğan, đối mặt với một nền kinh tế ốm yếu và sự ghẻ lạnh từ các đồng minh dân chủ truyền thống của Thổ Nhĩ Kỳ, đã ngày càng thay đổi lập trường của mình để đáp ứng các yêu cầu của Bắc Kinh. Chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã gây khó khăn hơn cho người Duy Ngô Nhĩ trong việc xin và giữ giấy phép cư trú vĩnh viễn, và hàng trăm người trong số họ đã bị giam giữ tại các trung tâm trục xuất.
Các nhân vật phản dân chủ trong các quốc gia dân chủ hơn cũng đã bắt đầu tham gia vào hợp tác quốc tế. Eduardo Bolsonaro, con trai của tổng thống Brazil, là thành viên của nhóm dân tộc chủ nghĩa cực hữu do Steve Bannon, cố vấn của cựu tổng thống Mỹ Trump, thành lập. Nhân vật truyền hình cực hữu của Hoa Kỳ Tucker Carlson đã dành một tuần ở Hungary vào năm 2021, nồng nhiệt giới thiệu với hàng triệu khán giả Mỹ của mình về tuyên truyền bài ngoại của Thủ tướng Viktor Orbán, sự coi thường các nguyên tắc dân chủ và bác bỏ các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Trong khi đó, Orbán đã ủng hộ nhiều đối tác châu Âu có cùng quan điểm với ông, bảo vệ họ khỏi các biện pháp trừng phạt có thể có của EU. Những người thụ hưởng bao gồm Milorad Dodik,
Đảo ngược sự suy giảm dân chủ ở Hoa Kỳ
Khi các nhà độc tài nước ngoài sử dụng các hình thức đàn áp ngày càng trơ trẽn để củng cố vị trí của mình và hỗ trợ các ảnh hưởng độc đoán trên khắp thế giới, các lực lượng phi dân chủ ở Hoa Kỳ đã tham gia vào các nỗ lực của riêng họ nhằm làm suy yếu các thể chế được thiết kế để kiểm soát quyền lực của họ và bảo vệ quyền của tất cả người Mỹ.
Tìm hiểu thêm
Thất bại ở Afghanistan
Việc rút quân nhanh chóng của Hoa Kỳ khỏi Afghanistan—được đàm phán giữa Taliban và chính quyền Trump mà không có sự tham gia của chính phủ Afghanistan, và được chính quyền Biden hoàn thành vào năm 2021—đã giáng một đòn mạnh vào niềm tin quốc tế vào khả năng của các nền dân chủ trong việc bảo vệ các đối tác của họ và giúp thúc đẩy các xã hội tự do ở địa hình khó khăn.
Sự tham gia kéo dài 20 năm của Hoa Kỳ tại Afghanistan bắt đầu như một nỗ lực chung của Hoa Kỳ và các đồng minh nhằm phá hủy nơi trú ẩn an toàn mà Taliban đã cung cấp cho những kẻ tổ chức vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001. Trong nhiều năm, Washington vừa theo đuổi các lợi ích an ninh được xác định hẹp của mình ở nước này vừa cam kết hàng tỷ đô la và nỗ lực đáng kể để hỗ trợ xã hội dân sự địa phương và sự phát triển của một nhà nước dân chủ Afghanistan. Trong khi nhiều người Afghanistan trải qua sự thay đổi thực sự và cảm thấy hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn, chính phủ Afghanistan và Hoa Kỳ liên tục thất bại trong việc giải quyết các vấn đề tham nhũng và quản trị ngày càng trầm trọng. Cuối cùng, cuộc rút lui không có kế hoạch đã gây ra sự sụp đổ nhanh chóng của các thể chế đã được xây dựng và sự tiếp quản hoàn toàn của Taliban.
Sự thất bại đã làm mới lại những ấn tượng sai lầm trong các nền dân chủ hiện tại rằng hỗ trợ dân chủ ở nước ngoài là một công việc thất bại, rằng nó liên quan đến việc áp đặt những lý tưởng “phương Tây” lên những người dân không sẵn lòng, rằng nó đòi hỏi phải sử dụng vũ lực quân sự một cách công khai, hoặc rằng đó là một cái cớ gian dối để việc sử dụng lực lượng quân sự. Đối với những người vẫn đang đấu tranh cho tự do trong môi trường đàn áp, việc Mỹ rút quân có thể được coi là lời cảnh báo rằng các đối tác dân chủ của họ có thể bỏ rơi họ bất cứ lúc nào.
Trong khi đó, hàng ngàn người Afghanistan đã vội vã chạy trốn khỏi đất nước kể từ khi Taliban loại bỏ chế độ đại diện và vô hiệu hóa các quyền hiến định của phụ nữ và các nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo. Nhiều cộng đồng sắc tộc Hazara đã bị đuổi khỏi vùng đất của họ, và các lực lượng Taliban đã săn lùng, bắt cóc hoặc hành quyết nhiều cảnh sát và sĩ quan tình báo của chính phủ cũ. Những người bảo vệ nhân quyền và các nhà báo độc lập đã phải đối mặt với sự đàn áp khi những thành tựu khó giành được của họ nhanh chóng bị đảo ngược. Hoa Kỳ và hầu hết các nền dân chủ lâu đời khác đã làm trầm trọng thêm những thất bại trước đó của họ bằng cách chậm chạp hoặc miễn cưỡng hỗ trợ những người tìm kiếm nơi ẩn náu, nhiều người trong số họ vẫn bị mắc kẹt ở Afghanistan hoặc ở các quốc gia lân cận nơi họ thiếu sự bảo vệ các quyền cơ bản.
Nguyên nhân cho hy vọng
Ngay cả trong một năm bị chi phối bởi những thất bại đáng lo ngại đối với nền dân chủ, người dân trên khắp thế giới đã chứng tỏ sức hấp dẫn liên tục và khả năng đổi mới của nó.
Nền dân chủ của Ecuador đã bị chà đạp trong một thập kỷ bởi cựu tổng thống Rafael Correa, người đã từ chức để nhường chỗ cho người kế nhiệm được lựa chọn cẩn thận Lenín Moreno vào năm 2017 với giả định rằng ông sẽ giữ quyền kiểm soát thông qua đảng cầm quyền. Nhưng Moreno đã tự mình thực hiện và cải cách các bộ phận của hệ thống, hỗ trợ một quy trình bổ nhiệm tư pháp mới giúp loại bỏ các thẩm phán đảng phái, giảm bớt sự kiểm soát của nhà nước đối với các phương tiện truyền thông và ân xá cho các nhà hoạt động nhân quyền để họ có thể tiếp tục công việc của mình. Do đó, Ecuador đã chứng kiến sự mở rộng tự do ổn định trong 5 năm qua, chuyển từ Tự do một phần sang Tự do trong năm nay sau cuộc tổng tuyển cử đáng tin cậy dẫn đến sự chuyển giao quyền lực một cách hòa bình cho một ứng cử viên tổng thống đối lập. Những cải tiến này vẫn tồn tại bất chấp những nỗ lực liên tục của Correa nhằm gây ảnh hưởng từ chính phủ bên ngoài.
Ở Chile, vốn là một trong những nền dân chủ hoạt động tốt hơn ở châu Mỹ, hệ thống chính trị đã phản ứng lại các cuộc biểu tình rầm rộ vào năm 2019 bằng cách cho phép bầu cử một hội nghị hiến pháp toàn diện hiện sẽ hoạt động để thay thế hiến pháp năm 1980—ban đầu được kế thừa từ chế độ độc tài của Augusto Pinochet—và giải quyết sự chênh lệch sâu sắc về kinh tế xã hội. Tại Montenegro, một liên minh đối lập lên nắm quyền vào cuối năm 2020, chấm dứt ba thập kỷ cầm quyền của Đảng Xã hội Dân chủ. Chính phủ mới áp đặt ít trở ngại hơn đối với cạnh tranh chính trị và trao cho đài truyền hình công cộng nhiều quyền độc lập hơn, đồng thời đa số hẹp trong nghị viện cho phép cơ quan lập pháp giám sát chặt chẽ hơn cơ quan hành pháp..
Người dân Côte d'Ivoire đã chứng tỏ mong muốn dẫn dắt quốc gia của họ hướng tới nền dân chủ đầy đủ kể từ khi kết thúc xung đột vũ trang vào năm 2011. Mặc dù đất nước này đã trải qua quá trình mở rộng tự do rộng rãi trong 10 năm qua, nhưng động lực dân chủ của nó đã chững lại vào năm 2020, khi Tổng thống Alassane Ouattara đã phá vỡ giới hạn nhiệm kỳ hiến pháp và giành được nhiệm kỳ thứ ba trong cuộc bỏ phiếu đã bị hủy hoại bởi việc loại bỏ tư cách ứng cử viên, phe đối lập tẩy chay và bạo lực chính trị lan rộng. Nhưng cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 3 năm 2021 đã có những cải tiến đáng kể, với một số ứng cử viên đối lập tự do đăng ký và tham gia. Các cuộc bầu cử ít bị ảnh hưởng bởi bạo lực hơn và người dân Bờ Biển Ngà có nhiều quyền tự do hơn để thể hiện bản thân và tham gia vào các cuộc họp công cộng.
Tại Myanmar, bất chấp danh tiếng bạo lực tàn bạo của quân đội, cuộc đảo chính tháng 2 năm 2021 đã ngay lập tức gây ra sự phản kháng rộng rãi trên khắp đất nước. Đến cuối năm, các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục ngay cả khi đối mặt với đạn thật và trả thù có hệ thống, và một phong trào bất tuân dân sự—bao gồm cả một cuộc tổng đình công—đã khiến nền kinh tế và các dịch vụ công gần như bế tắc, với sự tham gia của các nhân viên y tế, công chức, nhà giáo dục, nhân viên ngân hàng, và nhiều hơn nữa. Thường dân cũng đã tẩy chay các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến quân đội, từ xổ số quốc gia đến công ty điện lực. Vào tháng 12, người dân trên khắp đất nước đã tham gia một cuộc đình công thầm lặng chống lại sự cai trị của quân đội, đóng cửa các cửa hàng và không ra đường.
Đẩy lùi ảnh hưởng của ĐCSTQ đang thu hút sự chú ý. Trong năm 2021, các chính phủ dân chủ và các chủ thể tư nhân dành sự quan tâm nhiều hơn đến các tác động về đạo đức, nhân quyền và an ninh quốc gia của việc hội nhập với một chế độ ở Trung Quốc đã trở nên đàn áp hơn ở trong nước và hung hăng hơn ở nước ngoài trong thập kỷ qua. Litva là quốc gia đầu tiên tuyên bố tẩy chay ngoại giao Thế vận hội mùa đông 2022 tại Bắc Kinh, tạo tiền đề cho các quốc gia khác bao gồm Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Canada và Úc đứng lên chống lại sự ngược đãi của ĐCSTQ ở Tân Cương và các nơi khác. Riêng biệt, hy sinh doanh thu đáng kể để bảo vệ các nguyên tắc nhân quyền, Hiệp hội quần vợt nữ đã đình chỉ tất cả các giải đấu ở Trung Quốc sau khi tay vợt Peng Shuai buộc phải rút lại cáo buộc cô bị một quan chức cấp cao của ĐCSTQ tấn công tình dục.
Cuộc khủng hoảng di cư và người tị nạn khiến nhiều nền dân chủ bận tâm là kết quả tự nhiên của sự bành trướng độc đoán trong 16 năm qua. Nhưng theo một nghĩa khác, đó là sự chứng thực mạnh mẽ của nền dân chủ với tư cách là hệ thống chính quyền được ưu tiên, khi hàng triệu người chạy trốn khỏi các chế độ đàn áp hoặc các chiến binh phản dân chủ và tìm cách sống trong các xã hội tự do. Tỷ lệ di cư ra khỏi Hồng Kông tăng vọt sau cuộc đàn áp của chính quyền do Bắc Kinh hậu thuẫn đối với các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ. Hàng chục nghìn người đã chạy trốn khỏi Nicaragua kể từ khi các cuộc biểu tình bị đàn áp dã man vào năm 2018, cũng như hàng triệu người Venezuela đang phải chịu đựng dưới chế độ của Nicolás Maduro. Thay vì cố gắng ngăn chặn người di cư và người tị nạn bằng cơ sở hạ tầng biên giới khó khăn và hệ thống tị nạn khắc nghiệt,
Xây dựng một thế giới dân chủ hơn
Sự thay thế các chuẩn mực dân chủ toàn cầu bởi các cường quốc độc tài và các chủ thể phản dân chủ khác vẫn có thể bị đảo ngược . Nhưng thành công sẽ đòi hỏi một phản ứng táo bạo, bền vững nhằm thiết lập sự ủng hộ cho nền dân chủ và chống lại chủ nghĩa độc đoán ở trung tâm của chính sách đối ngoại, chiến lược an ninh quốc gia và chương trình cải cách trong nước của mỗi nền dân chủ. Nó cũng phải đòi hỏi sự tham gia của cả hai chính phủ và một công dân tham gia và tích cực . Thay vì khao khát một kỷ nguyên mở rộng tự do đã qua, các nhà lãnh đạo dân chủ cần đối mặt với những vấn đề do những sai lầm trong quá khứ của họ gây ra và giải quyết những điểm yếu trong hệ thống quốc tế mà các nhà độc tài có thể khai thác.
Sự hỗ trợ dân chủ hiệu quả không nên phụ thuộc vào các lợi ích kinh tế, quân sự hoặc địa chính trị ngắn hạn của một quốc gia tự do, tất cả những lợi ích này thực sự sẽ được phục vụ tốt nhất bằng việc hạn chế các hoạt động độc tài trong dài hạn. Nền dân chủ cũng không thể bị áp đặt bởi các lực lượng bên ngoài một quốc gia nhất định. Hỗ trợ và đoàn kết quốc tế là rất quan trọng để chống lại các lợi thế chiến thuật và nhiều hình thức hợp tác mà các nhà độc tài ưa thích. Đồng thời, chính những người bảo vệ nhân quyền tại địa phương và hải ngoại, các tổ chức xã hội dân sự cấp cơ sở và các cử tri được trao quyền phải vạch ra lộ trình và cuối cùng là quyết định tương lai của đất nước họ.
Trong nỗ lực khôi phục các giá trị dân chủ và tiêu chuẩn nhân quyền về đúng vị trí của chúng trong hệ thống quốc tế, Hội nghị thượng đỉnh vì dân chủ của Tổng thống Biden—được tổ chức vào tháng 12 năm 2021 với 110 chính phủ được mời, sau đó là một năm hành động—thể hiện bước đầu tiên đầy hứa hẹn. Những chính phủ đó giờ đây phải vượt ra ngoài những cam kết khoa trương và tìm kiếm ý kiến đóng góp của xã hội dân sự trong quá trình thực hiện.
Phát triển một tập hợp các chính sách quốc tế phối hợp dựa trên các nguyên tắc dân chủ, đồng thời củng cố hệ thống quản trị trong nước của chính họ, cuối cùng sẽ làm cho tất cả các quốc gia tham gia an toàn hơn, thịnh vượng hơn và công bằng hơn. Các quốc gia dân chủ chia sẻ lợi ích trong thương mại công bằng và an ninh, và vì họ có nhiều khả năng tuân thủ các thỏa thuận và quy tắc hơn nên họ trở thành những đối tác đáng tin cậy hơn trong cả hai lĩnh vực. Sự hỗ trợ về thể chế và phổ biến của họ đối với trách nhiệm giải trình và quy định của pháp luật cũng khiến họ trở thành môi trường dễ dự đoán và bổ ích hơn cho đầu tư công và tư nhân. Không có nền dân chủ nào là hoàn hảo, nhưng tất cả chúng đều được hưởng lợi từ khả năng cơ bản là thích ứng với hoàn cảnh thay đổi, điều chỉnh chính sách và mang lại sự lãnh đạo mới—với sự gián đoạn tối thiểu đối với toàn bộ hệ thống.
Bất chấp những lập luận rõ ràng ủng hộ dân chủ, 16 năm qua đã cho thấy rõ ràng rằng không phải sự phổ biến của các ý tưởng dân chủ trên toàn thế giới cũng như sự chắc chắn về tiến bộ toàn cầu hướng tới quản trị dân chủ là điều hiển nhiên. Những kẻ chuyên quyền vẫn quyết tâm duy trì và mở rộng quyền lực của mình, và họ sẽ tiếp tục kiếm được lợi ích miễn là những người ủng hộ dân chủ cho phép họ. Đã đến lúc tất cả những ai hiểu được rủi ro phải xây dựng lại và cải thiện các chuẩn mực quốc tế mà các nền dân chủ đã bảo vệ từ lâu, đồng thời đẩy các hành vi đáng trách của các nhà độc tài trở lại bên lề trải nghiệm của con người nơi chúng thuộc về.
https://freedomhouse.org/report/freedom-world/2022/global-expansion-authoritarian-rule
https://www.brookings.edu/essay/the-long-game-chinas-grand-strategy-to-displace-american-order/
https://www.brookings.edu/wp-content/uploads/2016/06/0330_china_lieberthal.pdf
https://www.rand.org/content/dam/rand/pubs/research_reports/RR2700/RR2798/RAND_RR2798.pdf
https://www.lawfareblog.com/what-bidens-top-china-theorist-gets-wrong
https://www.arabnews.com/sites/default/files/rp_new_china_in_the_middle_east.pdf
https://www.stimson.org/wp-content/uploads/2022/10/Bolstering-Global-Governance-GGIN-103122.pdf
https://www.imf.org/external/datamapper/CG_DEBT_GDP@GDD/VNM/THA/SGP/PHL/MMR/MYS/LAO/IDN/KHM/BRN
https://data.worldbank.org/indicator/DT.DOD.PVLX.CD?locations=VN
https://www.focus-economics.com/country-indicator/vietnam/public-debt/
https://www.worldeconomics.com/grossdomesticproduct/debt-to-gdp-ratio/Vietnam.aspx
https://www.investopedia.com/articles/investing/040115/reasons-why-china-buys-us-treasury-bonds.asp
https://www.investopedia.com/articles/investing/080615/china-owns-us-debt-how-much.asp
https://www.thebalancemoney.com/how-much-u-s-debt-does-china-own-417016
https://www.thebalancemoney.com/who-owns-the-u-s-national-debt-3306124
https://www.thebalancemoney.com/will-the-u-s-debt-ever-be-paid-off-3970473
https://www.treasurydirect.gov/government/historical-debt-outstanding/
https://fiscaldata.treasury.gov/datasets/historical-debt-outstanding/historical-debt-outstanding
https://www.investopedia.com/articles/markets-economy/090616/5-countries-own-most-us-debt.asp
https://www.rpc.senate.gov/policy-papers/china-looks-to-seize-the-21st-century
https://freenations.net/germany-in-crisis-faces-war-reparations-claims
https://www.thoughtco.com/totalitarianism-definition-and-examples-5083506
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu