MINH THỊ

DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN  QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG  CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI  THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.   

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh

vSoHavViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười Dân

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVv

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật KhoavCafevn

vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu Trữ

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNM

 

 

 

 

Đôi lời về “Hội nghị Thành Đô năm 1990”

 05/05/2019 7:13

Hội nghị Thành Đô là chủ đề mà không chỉ tôi, c̣n rất nhiều người quan tâm và nguồn thông tin cực kỳ khó tiếp cận nên việc làm sao để nắm khái quát cơ bản về việc này phải tốn rất nhiều công sức qua các kênh truyền thông đại chúng hoặc không chính thức.

 

 

 

Nói về Hội nghị này th́ thành phần tham gia gồm có:

 

* PHÍA VIỆT NAM:

1 – Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam – Nguyễn Văn Linh;

2 – Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Thủ tướng) – Đỗ Mười;

3 – Cố vấn cấp cao – Phạm Văn Đồng,

4 – Chánh văn pḥng Trung ương Đảng – Hồng Hà;

5 – Trưởng ban đối ngoại trung ương Đảng – Hoàng Bích Sơn;

6 – Thứ trưởng Bộ ngoại giao – Đinh Nho Liêm

 

* PHÍA TRUNG QUỐC:

1 – Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc – Giang Trạch Dân;

2 – Thủ tướng Chính phủ – Lư Bằng,

Và các cán bộ chuyên ngành

 

Hội nghị diễn ra trong hai ngày từ 03 đến 04/9/1990 tại thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Tại sao lại tổ chức ở Thành Đô mà không phải Bắc Kinh? V́ hai bên xác định đây là hội nghị bí mật, không muốn cho dư luận biết, bởi lúc đó Bắc Kinh đang chuẩn bị cho Á vận hội 1990 sẽ được tổ chức vào cuối tháng 9. Đă có rất nhiều nhà báo đến đây, việc xuất hiện dù là bí mật 01 đoàn toàn lănh đạo cấp cao 01 quốc gia láng giềng đang có xung đột với Trung Quốc trong thời điểm này chắc chắn sẽ bị truyền thông Phương Tây khai thác triệt để.

 

1. Tại sao lại phải bí mật ?

 

– Bởi Hội nghị này chủ yếu bàn về “chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Campuchia” mà không có các phái Campuchia tham dự. Đây là điều hết sức tế nhị và phức tạp trong một sự kiện ngoại giao lớn, bởi nó nếu nói theo 01 khía cạnh lịch sử th́ giống với vấn đề “Mỹ-Trung” bắt tay nhau về Chiến tranh ở Việt Nam, việc không có đại diện của Campuchia mà lại quyết về vấn đề quốc gia của họ nếu thế giới nhất là Liên Hợp Quốc biết th́ rơ ràng việc chấp nhận các điều khoản trong đó là điều sẽ khó mà xảy ra, chưa kể sẽ có quốc gia mượn cớ này thay mặt Liên Hợp Quốc vào Campuchia để thực thi cái gọi là “Bảo an” của Liên Hợp Quốc th́ sẽ rất rắc rối. Chính v́ vậy, cho đến tận bây giờ, cả hai bên vẫn chưa chính thức công bố nội dung của Hội nghị. Điều đó gây nên những nghi ngờ thậm chí suy luận không tốt về Hội nghị cũng như đối với các nhà lănh đạo nước ta.

 

– Muốn đánh giá đúng vai tṛ và giá trị lịch sử to lớn của Hội nghị này, ta phải trở lại bối cảnh của Việt Nam và thế giới vào thời điểm đó, cụ thể:

 

+ Năm 1990, năm thứ 4 của công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta có phần khởi sắc nhưng tiến triển rất chậm chạp, thậm chí nhiều ngành đang trên đà suy thoái, đời sống nhân dân vẫn rất khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu do Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, nước ngoài không thể đầu tư vào Việt Nam. Lúc này, hệ thống Xă hội chủ nghĩa trên đà tan ră, viện trợ của các nước anh em không c̣n. Đặc biệt, do hơn chục năm chiến tranh biên giới, chúng ta không thể yên ổn tập trung xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, chi phí cho chiến tranh quá lớn với 1,5 triệu quân dàn trải hai đầu chiến tuyến Bắc, Nam.

 

+ Về mặt quân sự, tại biên giới phía Bắc vẫn c̣n xung đột nhỏ lẻ xảy ra. Trên mặt trận Campuchia, mặc dù ta đă truy đuổi tàn quân Polpot lên sát biên giới Thái Lan, nhưng lực lượng của chúng c̣n khá mạnh, trong khi Quân đội của Thủ tướng Hun Sen lại rất yếu. Chúng ta đă rút phần lớn Quân t́nh nguyện Việt Nam về nước, nhưng không dám rút hết v́ bạn không đủ sức đơn độc chống lại lực lượng Khmer Đỏ đang được hậu thuẫn mạnh mẽ từ Trung Quốc và Phương Tây. Mặt khác, suốt 10 năm bố trí lực lượng trên vùng rừng núi hiểm trở, “rừng thiêng nước độc” dọc biên giới Campuchia – Thái Lan, bộ đội ta không những thương vong lớn trong chiến đấu mà c̣n hi sinh quá nhiều do ḿn, sốt rét ác tính và bao căn bệnh kỳ lạ khác.

 

+ Trước t́nh thế đó, lănh đạo nước ta rất muốn có một hiệp ước ḥa b́nh cho đất nước Campuchia để quân đội Việt Nam rút hoàn toàn về nước mà chính quyền của bạn do ta hậu thuẫn vẫn đứng vững. Tuy nhiên, ta không thể đàm phán trực tiếp với Khơme-Đỏ và các phái đối lập được bởi thực chất ngay chính các nhóm thế lực này cũng không dám tự ư quyết những vấn đề này, bởi chúng c̣n phải phụ thuộc vào ai th́ các bạn chắc đă biết. Con đường duy nhất là phải qua Trung Quốc bởi Khơme Đỏ là “con bài” nằm trong tay họ.

 

+ Lúc này, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đang ở những năm cuối cùng của nhiệm kỳ lănh đạo. Ông muốn sớm chấm dứt chiến tranh để tập trung tiềm lực xây dựng đất nước theo cương lĩnh đổi mới mà Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra. Nguyện vọng của ông được Đại tướng Lê Đức Anh khi đó đang là Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng hoàn toàn ủng hộ. Đại tướng Lê Đức Anh từng có 5 năm là Tư lệnh Quân t́nh nguyện Việt Nam tại Campuchia. Hơn ai hết, ông hiểu rất rơ những gian nan và tổn thất của bộ đội ta trên mặt trận đặc biệt này. Và có lẽ, ông cũng là người muốn chấm dứt chiến tranh hơn tất cả.

 

2. Diễn biến, quá tŕnh:

 

Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh quyết định gặp Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam lúc bấy giờ là Trương Đức Duy.

 

– Lần thứ nhất, ông gặp tại Văn pḥng Trung ương Đảng, tuy chỉ mang tính chất xă giao, nhưng đă phát đi tín hiệu là: “ta muốn có một hội nghị với lănh đạo Trung Quốc để đàm phán về b́nh thường hóa quan hệ Việt – Trung và lập lại ḥa b́nh ở Campuchia”.

 

Lănh đạo Trung Quốc sau đó đă nhanh chóng đồng ư. Họ đồng ư là điều dễ hiểu. Chế độ diệt chủng do họ dựng nên và nuôi dưỡng bị thế giới lên án chỉ c̣n một nhóm tàn quân có nguy cơ bị tiêu diệt, trong khi xung đột biên giới Việt – Trung đă gây tổn thất nhiều sinh mạng cho quân đội nước họ. Lănh đạo Trung Quốc bị mất ḷng dân và suy giảm uy tín trên thế giới. Lúc này, họ đang ở thế bí và cũng muốn có ḥa b́nh, ổn định như ta, việc tiếp tục phải chi tiền cho Khơme-Đỏ và thực hiện chính sách đối đầu với Việt Nam không có lợi cho t́nh h́nh “chính trị – kinh tế – xă hội” mà Trung Quốc đang phải xử lư, thậm chí có thể dẫn tới sự sụp đổ chế độ nếu Trung Quốc ngày càng sa lầy.

 

– Lần thứ hai, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ Quốc pḥng để bàn về nội dung cụ thể chương tŕnh Hội nghị. Tại sao lại ở Bộ Quốc pḥng mà không phải ở Bộ Ngoại giao theo như thông lệ (sự kiện này liên quan chủ yếu đến các chuyên gia ngoại giao).

 

Nguyên nhân chính là do phía Trung Quốc không có thiện cảm với Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Họ cho rằng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch có thái độ chống Trung Quốc và chỉ có Lê Đức Anh là một trong số lănh đạo của ta muốn b́nh thường hóa quan hệ với họ mà thôi.

 

– Và chẳng bao lâu sau, lănh đạo Trung Quốc đă mời đích danh Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng sang dự Hội nghị tại Thành Đô.

 

3. Kết quả Hội nghị:

 

Gồm hai phần được kư kết:

 

1/ Phần thứ nhất: Chấm dứt xung đột biên giới giữa hai nước, b́nh thường hóa quan hệ Việt – Trung.

 

2/ Phần thứ hai gồm bảy điều khoản về vấn đề Campuchia. Chủ yếu là:

 

– Các bên ngừng bắn, chấm dứt chiến tranh;

– Quân đội Việt Nam rút hết về nước;

– Thành lập Hội đồng ḥa giải dân tộc do Norodom Shihanouk làm chủ tịch;

– Tiến tới tổng tuyển cử, thành lập chính quyền mới;

– Sau tổng tuyển cử, các bên phải công nhận và tôn trọng quyền tự quyết của Chính quyền Campuchia mới.

 

Theo đánh giá, Hội nghị là kết quả tất yếu đáp ứng đ̣i hỏi bức thiết của t́nh thế đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành ṣng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên có lợi lớn hơn cả là Việt Nam. V́:

 

– Nhờ chấm dứt chiến tranh, b́nh thường hóa quan hệ giữa hai nước, tiến tới cắm mốc biên giới để từ đó Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của nước ta.

 

– Phái Khơme Đỏ dần dần bị loại bỏ, chính quyền của Thủ tướng Hun Sen do ta ủng hộ vẫn vững mạnh nhiều năm qua. Đất nước Campuchia ḥa b́nh, biên giới Tây Nam ổn định.

 

– Hội nghị là tiền đề giúp ta thực hiện b́nh thường hóa quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, sau đó tiến tới xóa bỏ hoàn toàn bao vây và cấm vận kinh tế.

 

– Chấm dứt chiến tranh không những quân đội ta chấm dứt đổ máu mà c̣n tạo điều kiện cho ta giảm quân từ 1,5 triệu xuống c̣n 0,5 triệu, giảm chi phí quân sự, tập trung nguồn lực xây dựng kinh tế để nước ta có được vị thế như ngày nay.

 

Vậy th́, có thể gọi Hội nghị Thành Đô là một HIỆP ĐỊNH H̉A B̀NH kư kết cho cả ba dân tộc Việt – Trung- Khmer. Giá trị lịch sử của nó chẳng kém ǵ hai Hội nghị: Giơ-ne -vơ (1954) và Pa-ri (1973). Nếu Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ lập lại ḥa b́nh cho nước ta một thời gian ngắn, Hiệp định Pa-ri chỉ có tác dụng buộc Mỹ rút quân về nước, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra, th́ Hội nghị Thành Đô là cơ sở kiến tạo ḥa b́nh lâu dài, bền vững cho cả ba nước đến tận bây giờ.

 

P/s: Thật nực cười khi có những người vẫn tin rằng Hội nghị Thành Đô là để bàn về việc “sáp nhập Việt Nam vào thành 01 tỉnh của Trung Quốc vào năm 2020”, có lẽ tư duy “nô lệ”, “lệ thuộc” của họ ăn quá sâu nên nh́n cái ǵ cũng phải gắn đến vấn đề đó!

=======

Bs.Trần Thanh Chương

LÊ ANH HÙNG

Nên hiểu ‘Mật ước Thành Đô’ như thế nào?

 

13/12/2017

 

Hội nghị Thành Đô đă diễn ra trong bí mật.

 

Hội nghị Thành Đô là một chủ đề gây rất nhiều tranh căi ở Việt Nam cũng như trong các cộng đồng người Việt hải ngoại suốt nhiều năm qua.

 

Chỉ 4 ngày sau khi được Đại sứ Trung Quốc thông báo, ba nhà lănh đạo Việt Nam là TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng đă có mặt tại Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) vào đúng ngày Quốc khánh lần thứ 45, trong khi Đặng Tiểu B́nh thậm chí không thèm xuất hiện như lời hứa hẹn lấp lửng ban đầu.

 

Bối cảnh

 

Cuối thập niên 1980, hệ thống xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu bắt đầu chao đảo trước khi sụp đổ hàng loạt.

 

Về phần ḿnh, mặc dù đă thực hiện cải cách kinh tế từ sau Đại hội VI nhưng Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị - kinh tế - xă hội vốn bắt đầu ngay từ năm 1975.

 

Lo sợ cho số phận của ḿnh và tự huyễn hoặc “dù bành trướng thế nào th́ Trung Quốc vẫn là một nước XHCN”, một số nhân vật chủ chốt trong ban lănh đạo CSVN, đứng đầu là TBT Nguyễn Văn Linh, đă quay sang ôm chân các ông chủ Trung Nam Hải, bất chấp thực tế là trước đó Bắc Kinh đă đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974, phát động cuộc chiến tranh biên giới từ 1979 - 1989, thảm sát 64 quân nhân Việt Nam rồi chiếm đảo Gạc Ma năm 1988.

 

Mật ước Thành Đô?

 

Từ nhiều năm trước, trong dư luận đă lan truyền thông tin rằng kết quả Hội nghị Thành Đô là một bản mật ước, theo đó lănh đạo CSVN đề nghị và lănh đạo Trung Quốc đồng ư để Việt Nam trở thành một khu vực tự trị của Trung Quốc.

 

Đến tháng 5/2014, một số trang mạng thậm chí c̣n đăng tải nội dung của bản “mật ước” (được cho là do Hoàn Cầu Thời Báo và Tân Hoa Xă công bố): “…Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đă dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….

 

Phía Trung Quốc đồng ư và đồng ư chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đ́nh các dân tộc Trung Quốc.…”

 

Đâu là sự thật?

 

Trong cuốn hồi kư “Hồi ức và Suy nghĩ” của ḿnh, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đă tiết lộ: “Sau 2 ngày nói chuyện (3 - 4/9/1990), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là ‘Biên bản tóm tắt’ gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ của Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với b́nh thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.”

 

Nghĩa là, Hội nghị Thành Đô kết thúc song việc b́nh thường hoá quan hệ hai nước, điều mà ban lănh đạo Việt Nam nóng ḷng mong đợi, vẫn chưa chốt lại được. V́ thế, giả thuyết về bản “mật ước” kia rơ ràng là thiếu cơ sở.

 

Thậm chí ngay cả “Biên bản tóm tắt” 8 điểm nói trên cũng không được phía Việt Nam thực hiện đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phản đối của Bộ Ngoại giao dưới quyền Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, với sự đồng t́nh của một vài uỷ viên Bộ Chính trị khác, như Thứ trưởng Trần Quang Cơ đă thuật lại trong hồi kư. (Trong cuộc họp kiểm điểm về Hội nghị Thành Đô, Phó Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă nói: “…Ḿnh bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”)

 

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974-1987) cho biết là mặc dù cùng 19 cựu sỹ quan cao cấp khác kư tên vào bản kiến nghị yêu cầu minh bạch hóa Hội nghị Thành Đô song ông cũng không tin vào thông tin phía Trung Quốc đưa ra.

 

Đại tá Nguyễn Văn Tuyến (cán bộ tiền khởi nghĩa và là thành viên sáng lập CLB chống tham nhũng, tiêu cực của các vị lăo thành cách mạng ở Hà Nội) cho chúng tôi biết là trong một cuộc gặp với Thường trực Ban Bí thư Đinh Thế Huynh, khi ông đề cập đến “Mật ước Thành Đô”, ông Huynh khẳng định đích thân ông ta đă vào kho lưu trữ của đảng để t́m nhưng không hề thấy bản “mật ước” đó. (Lănh đạo cộng sản nói th́ không hẳn là đáng tin, song điều đó không có nghĩa là họ chưa bao giờ nói thật. Và sự khẳng định của nhân vật số 5 trong ban lănh đạo Việt Nam phù hợp với logic ở trên, cũng như với một tài liệu được cho là của Ban Tuyên giáo Trung ương năm 2014 nhằm giải thích về Hội nghị Thành Đô.)

 

Toan tính ǵ?

 

“Người Trung Quốc làm ǵ cũng có tính toán.” Thông tin về “Mật ước Thành Đô” được Bắc Kinh tung ra ngay giữa lúc họ đưa giàn khoan HD981 vào sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2/5 đến 15/7/2014. Rơ ràng, họ muốn qua đó để biện hộ cho hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam, gây chia rẽ trong ban lănh đạo CSVN, khiến người Việt trong và ngoài nước bị phân hoá, và cuối cùng là làm suy yếu nỗ lực của Hà Nội trong việc chống lại hành vi ngang ngược đó.

 

Mặc dù nội dung cụ thể của “Mật ước Thành Đô” được Bắc Kinh “tiết lộ” vào thời điểm họ đưa giàn khoan HD981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nhằm mục đích như chúng tôi đă đă chỉ ra, song thông tin về sự tồn tại của nó th́ đă xuất hiện từ lâu. Vậy động cơ của họ là ǵ?

 

Quả thực, không khó để nhận ra toan tính của Bắc Kinh khi cho lan truyền thông tin về “Mật ước Thành Đô”. Đây thực sự là một mũi tên trúng nhiều đích theo đúng bản chất “thâm như Tàu” của họ: (i) khiến những người Việt tâm huyết với công cuộc chống bành trướng Trung Quốc nản ḷng (do nghĩ rằng mọi nỗ lực đều vô ích bởi cái văn kiện bán nước kia); (ii) làm phân tâm những người chống hiểm hoạ Trung Quốc tại Việt Nam (thay v́ lẽ ra cần tập trung vào việc vạch trần và ngăn chặn bàn tay tội ác của “nhóm lợi ích Tàu” trong bộ máy hiện hành th́ họ lại phung phí thời gian và công sức vào việc tranh căi hoặc lên án và đ̣i bạch hoá một chuyện không có thật trong quá khứ); và (iii) khiến cho người dân b́nh thường không tin tưởng vào truyền thông phi chính thống (khi thấy trên mạng toàn loan truyền những thông tin nhảm nhí).

 

Không chỉ nặn ra cái gọi là “Mật ước Thành Đô”, Bắc Kinh thậm chí c̣n dựng lên cả một câu chuyện kỳ bí qua tác phẩm “Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo” của Hồ Tuấn Hùng. Theo đó, Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Sinh Cung (nguyên quán Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An), mà là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. (Ngoài những mục đích nêu trên, điều này c̣n giúp dọn đường dư luận để “con ngựa thành Troy” Hoàng Trung Hải ngày càng “chui sâu, leo cao” và cuối cùng là thâu tóm chiếc ghế Tổng Bí thư.)

 

Không c̣n nghi ngờ ǵ, “Mật ước Thành Đô” là một câu chuyện bịa đặt nhằm phục vụ mưu đồ đen tối của Trung Nam Hải. Việc nhà cầm quyền CSVN không công khai Thoả thuận Thành Đô là v́ đó không chỉ là một thất bại nhục nhă trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, mà c̣n là bằng chứng không thể chối căi về hành vi “cơng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ” của họ. Chỉ chừng ấy thôi họ đă bị lịch sử và nhân dân đời đời lên án, chứ đừng nói đến chuyện mưu toan biến Việt Nam thành một bộ phận của “đại gia đ́nh các dân tộc Trung Quốc”.

 

Ngoài ra, ngay cả khi “Mật ước Thành Đô” là sự thật đi nữa th́ nó cũng không có giá trị pháp lư, bởi nó không tuân theo những tŕnh tự pháp lư thông thường của một hiệp ước giữa hai quốc gia. Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hoàn toàn không đủ chính danh để đóng dấu hiệu lực vào một hiệp ước vô cùng hệ trọng như thế. Trong khi đó, những người kư kết “mật ước” đó hoặc đă chết, hoặc gần như không c̣n ảnh hưởng trên chính trường, nên nó lại càng vô giá trị.

 

Trong một bài viết trước đây, chúng tôi đă chỉ ra rằng, nếu các bản tuyên bố chung Việt - Trung xưa nay luôn được Hà Nội thực hiện đúng th́ Việt Nam đă trở thành “một bộ phận không thể tranh căi của Trung Quốc” từ lâu, chứ chẳng cần phải đợi đến khi “Mật ước Thành Đô” được thi hành. Điều này không xẩy ra bởi thực tế là trong ban lănh đạo Việt Nam luôn tồn tại những thành phần ư thức được hiểm hoạ phương bắc mà Bắc Kinh chưa thao túng được (chẳng hạn như Nguyễn Cơ Thạch và Vơ Văn Kiệt trong “Hồi ức và Suy nghĩ”), bên cạnh áp lực từ một công chúng vốn ngày càng bộc trực và “dị ứng” với những ǵ liên quan đến Trung Quốc.

 

Bất luận thế nào, việc đất nước chúng ta ngày càng bị các gọng ḱm của Đại Hán siết chặt như hiện nay không phải là v́ “Mật ước Thành Đô” kia, mà chính là v́ 90 triệu người Việt, đặc biệt là những tinh hoa của giống ṇi, đă làm chưa đủ để bảo vệ giang sơn gấm vóc mà tổ tông đă đổ bao máu xương để dựng xây, ǵn giữ.

 

'Đă đến lúc công bố mật ước Thành Đô?'

17 tháng 10 2014

 

Hội nghị Thành Đô được nhóm họp vào ngày 3-4/9/1990 tại Trung Quốc.

Việc công bố các văn bản như mật ước Thành Đô giữa lănh đạo Việt Nam và lănh đạo Trung Quốc gần một phần tư thế kỷ về trước là điều Việt Nam nên làm hiện nay, theo một sử gia về lịch sử Đảng từ Đại học Quốc gia Hà Nội.

 

Tuy nhiên, sự kiện cuộc gặp cấp cao đó đă diễn ra 'quá lâu' và nay giới nghiên cứu 'không c̣n quan tâm' nữa, theo một chuyên gia khác về lịch sử Đảng từ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

 

Song nếu cần t́m hiểu về hội nghị này, th́ những ai quan tâm nên tiếp cận với Văn pḥng Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, vẫn theo chuyên gia này.

 

Trong khi đó, Hội nghị Thành đô là một sự kiện vẫn c̣n tác động tới đường lối và cán bộ của bộ máy lănh đạo của Việt Nam ngày nay, điều được gọi là 'Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch', theo một cựu lănh đạo cấp Vụ ngành ngoại giao Việt Nam.

 

Trước hết, trao đổi với BBC hôm 17/10/2014, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nêu quan điểm về mức độ quan tâm của giới nghiên cứu tới cuộc gặp cấp cao từng xảy ra từ năm 1990 vốn đang được dư luận Việt Nam 'quan tâm' trở lại gần đây:

 

Quan tâm là quan tâm từ cái thời ấy thôi, chứ bây giờ giới nghiên cứu cũng không quan tâm nhiều lắm, chủ yếu là bên chính trị thôi. Bởi v́ đấy là thuộc về lĩnh vực quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước, c̣n chúng tôi về lịch sử không được am tường những vấn đề đó

PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc, Viện Lịch sử Đảng

"Quan tâm là quan tâm từ cái thời ấy thôi, chứ bây giờ giới nghiên cứu cũng không quan tâm nhiều lắm, chủ yếu là bên chính trị thôi," Phó Giáo sư Nguyễn Trọng Phúc nói.

 

'Hỏi Văn pḥng TƯ Đảng'

Khi được hỏi Hội nghị được cho là có vai tṛ mở ra b́nh thường hóa quan hệ giữa Việt - Trung sau nhiều năm xung đột, chiến tranh căng thẳng, tại sao lại không được giới nghiên cứu quan tâm, giáo sư Phúc đáp:

 

"Bởi v́ đấy là thuộc về lĩnh vực quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước, c̣n chúng tôi về lịch sử không được am tường những vấn đề đó.

 

"Cứ liên lạc với chỗ Văn pḥng Trung ương Đảng th́ may ra người ta biết."

 

Hôm thứ Sáu, khi được hỏi về việc có nên giải mật để công bố hay bạch hóa trước công luận và tại Quốc hội các văn kiện liên quan 'mật nghị', hay 'mật ước Thành Đô 1990 hay không, kể cả các văn bản, văn kiện chỉ đạo đường lối, sách lược, chính sách liên quan 'chịu tác động' từ Hội nghị này, một sử gia khác về lịch sử Đảng nói:

 

Bản quyền hình ảnhXINHUA

Image caption

Các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng dự Hội nghị Thành Đô.

"Tôi nghĩ rằng văn bản nào chăng nữa th́ độ mật, độ bí mật ǵ đó, nếu có, th́ nó chỉ có giá trị trong thời hạn nhất định.

 

"Và nếu có những văn bản như thế, th́ tôi nghĩ cũng nên hoàn toàn công khai. Hoàn toàn nên công khai, chứ không có ǵ phải giữ bí mật quá lâu," Phó Giáo sư Vũ Quang Hiển từ Đại học Quốc gia Hà Nội nói.

 

"Nhưng chỉ có điều Việt Nam cầm văn bản đó, th́ Việt Nam công khai đến đâu, đến cấp nào, đấy là một câu chuyện.

 

"Phía Trung Quốc th́ nói thật là có những tài liệu đến nay đă hơn nửa thế kỷ rồi, bây giờ người ta cũng chẳng công khai. Phía Trung Quốc th́ rơ ràng rất khó lấy được tài liệu chính thức từ phía họ.

 

"C̣n phía Việt Nam, các tài liệu đă công khai rất nhiều, nhưng tôi nghĩ không phải là đă hết. Mà chắc chắn là vẫn c̣n những điều ǵ đó mà chưa công khai, th́ văn bản đó tôi nghĩ, nếu có, th́ nên công khai.

 

"Để cho nhân dân, để cho cán bộ, để cho tất cả mọi người có thể hiểu được thực sự, thực hư lúc bấy giờ, trong bối cảnh như vậy, với tư cách là những cá nhân, không phải với tư cách là một tập thể, đương nhiên những cá nhân có trọng trách và trách nhiệm, th́ đă có những thỏa hiệp như thế nào với phía Trung Quốc về câu chuyện này. Đấy tôi nghĩ là điều nên làm."

 

'Thất thố ngoại giao?'

Tôi nghĩ rằng văn bản nào chăng nữa th́ độ mật, độ bí mật ǵ đó, nếu có, th́ nó chỉ có giá trị trong thời hạn nhất định. Và nếu có những văn bản như thế, th́ tôi nghĩ cũng nên hoàn toàn công khai. Hoàn toàn nên công khai, chứ không có ǵ phải giữ bí mật quá lâu

PGS. TS. Vũ Quang Hiển, ĐHQG Hà Nội

Hôm 15/10/2014, một cựu cán bộ ngoại giao của Việt Nam, nguyên Tổng Lănh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc, nói với BBC một số nguyên tắc về ngoại giao và thể thức (protocol) ngoại giao có thể đă bị Trung Quốc vượt qua và đem lại lợi thế cho ḿnh trong cuộc mật đàm.

 

Ông Dương Danh Dy nói: "Phê phán tại sao Hội nghị đó có những kết quả như thế này, như thế kia, nói thế th́ nó đụng nhiều người."

 

"Tôi biết chuyện này khá rơ nhưng chưa tiện nói bây giờ, bởi v́ Trung Quốc rơ ràng có ư định trong chuyện đưa một số nhà lănh đạo Việt Nam vào bẫy, mắc bẫy của họ.

 

"Chẳng hạn như chuyện phía Trung Quốc họ bảo rằng để rất kính trọng ba đồng chí lăo thành của Đảng Cộng sản Việt Nam, th́ họ để ba ông ở ba biệt thự khác nhau, thế th́ những ông đă già bảy mươi, tám mưới như ông Phạm Văn Đồng, ông Đỗ Mười, ông Nguyễn Văn Linh lúc đó th́ làm sao mà hội ư được với nhau...?"

 

Cũng hôm thứ Tư, một cựu quan chức khác ở Bộ Ngoại giao Việt Nam, người không muốn tiết lộ danh tính, nói với BBC:

 

Image caption

Có ư kiến nói sự 'thôi chức vụ' của ông Nguyễn Cơ Thạch là điều kiện b́nh thường hóa quan hệ Việt - Trung.

"Một số cán bộ ngoại giao cấp cao có thể đă tiếp cận được văn bản và các tài liệu, nhưng việc được phép phổ biến, công bố tới đâu, có những nguyên tắc hạn chế."

 

Theo cựu nhân viên ngoại giao này, phía Trung Quốc đă chuẩn bị rất kỹ các nội dung đàm phán, kư kết, kể cả những điều được cho là 'phụ lục' nhưng lại có vai tṛ như những nguyên tắc chỉ đạo cho b́nh thường hóa và cả 'hậu b́nh thường hóa' lẫn 'tái cấu trúc' quan hệ và chiến lược 'quan hệ, hợp tác' giữa hai nước dài hạn, điều mà Việt Nam lâu nay vẫn gọi là 'các thỏa thuận cấp cao' và 'sự kế tục'.

 

Trong đó cụ thể có các nguyên tắc 'chỉ đạo' đàm phán không chỉ liên quan t́nh h́nh chính trị và điều kiện tái lập quan hệ nhất thời mà c̣n các phương châm 'chỉ đạo chiến lược và lâu dài' về giải quyết tranh chấp, xung đột trong quá khứ và thực tế khi đó để lại và một số ràng buộc chính trị dưới danh nghĩa 'quan hệ về ư thức hệ' liên Đảng v.v...

 

'Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch'

Hôm 17/10, một cựu lănh đạo cấp Vụ phó ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nói với BBC rằng hậu quả của Hội nghị Thành Đô vẫn c̣n 'đang tác động' tới tâm lư của lănh đạo, cán bộ và đường lối của Việt Nam hiện nay trong quan hệ liên quan Trung Quốc.

 

Theo ư kiến này, việc ông Nguyễn Cơ Thạch, khi đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Ngoại giao, bị Trung Quốc 'gây áp lực' với Việt Nam và đặt điều kiện phải 'loại bỏ' để b́nh thường hóa quan hệ, đă gây ra một 'nỗi sợ' với giới chức không chỉ trong ngạch ngoại giao của Việt Nam, suốt từ đó đến nay, trong các quan hệ, công việc của nhà nước liên quan Trung Quốc.

 

Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch là việc Trung Quốc đă khống chế toàn bộ lănh đạo Việt Nam để dần dần thực hiện những chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam

Ông Đặng Xương Hùng, cựu Vụ phó Bộ Ngoại giao

"Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch là việc Trung Quốc đă khống chế toàn bộ lănh đạo Việt Nam để dần dần thực hiện những chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam," cựu Lănh sự Việt Nam tại Thụy Sỹ, nguyên Vụ Phó Bộ Ngoại giao, ông Đặng Xương Hùng nói.

 

"Trong đó không chế về mặt đối ngoại, khống chế về mặt tổ chức nhân sự cũng như cơ cấu nhà nước của Việt Nam, làm sao có lợi nhất đối với Trung Quốc."

 

Theo cựu quan chức ngoại giao nay đang tị nạn chính trị ở Thụy Sỹ, việc này tạo thành một hội chứng đáng kể mà theo ông:

 

"Bất cứ nhân vật nào lên đều không dám đụng tới Trung Quốc và không dám nói nhiều, không dám đứng ra như dạng ông Nguyễn Cơ Thạch đă đứng ra công khai chống lại việc b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc (đặt dưới các điều kiện bất lợi cho Việt Nam) th́ sẽ bị 'xử lư'.

 

"Nhiều nhân vật sau này, khi đụng chạm đến vấn đề Trung Quốc, khi đụng chạm giải quyết vấn đề biên giới cũng như vấn đề biên giới, cũng như những vấn đề về tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông cũng như thế, đều có những dấu hiệu của hội chứng Nguyễn Cơ Thạch.

 

"Tức là rất sợ những ư kiến cả nhân của ḿnh về vấn đề quan hệ với Trung Quốc... rất sợ Trung Quốc sẽ xử lư qua việc khống chế lănh đạo cao nhất của Việt Nam và làm ảnh hưởng đến chức vụ của ḿnh với những quyền lợi và lợi ích của ḿnh trong cơ cấu nhà nước."

 

'Can thiệp nhân sự?'

Bản quyền hình ảnhXINHUA

Image caption

Cựu Tổng bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh đón ông Giang Trạch Dân.

Cũng hôm 17/10, khi được hỏi có thể có một khả năng tác động sâu và cao như vậy từ phía Trung Quốc vào nhân sự lănh đạo của Việt Nam hay không, thông qua trường hợp được cho là đă xảy ra với cố Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch, PGS Vũ Quang Hiển từ Đại học Quốc gia Hà Nội b́nh luận thêm:

 

"Cách gây sức ép của Trung Quốc trên tất cả các mặt, kể cả về mặt nhân sự nếu như Trung Quốc có thủ đoạn như vậy, tôi nghĩ là hoàn toàn có thể có.

 

"Nhưng vấn đề đặt ra là ví dụ nhân sự như ông Nguyễn Cơ Thạch mà Trung Quốc không thích bởi v́ sao? Nguyễn Cơ Thạch có thể có quan niệm đối ngoại khác, nó rộng mở hơn, nó thoáng hơn, mà người Trung Quốc không muốn Việt Nam có một nhân vật như vậy ở trong giới lănh đạo cao cấp.

 

"Có thể họ gây sức ép đ̣i hỏi không nên như vậy, không nên thế nọ, không nên thế kia, cái điều đó người Trung Quốc có thể làm lắm, tôi cũng tin là người Trung Quốc có thể làm các điều này.

 

Văn bản của Ban Tuyên giáo... th́ nó có thật đấy. Họ đưa ra để giải thích vấn đề Thành Đô, nhưng chúng tôi hoài nghi sự giải thích đấy ở chỗ không biết là có đến nơi, đến chốn không, và chúng tôi đang muốn là Quốc hội phải thành lập một Ủy ban nghiên cứu và bạch hóa vấn đề này

Ông Nguyễn Khắc Mai, cựu Vụ trưởng Dân Vận TƯ Đảng

"Tức là về mặt nào đấy có thể nói là họ muốn can thiệp vào vấn đề nhân sự của riêng Việt Nam.

 

"Nhưng về phía Việt Nam, ai là người thay ông Nguyễn Cơ Thạch, và người đó có làm theo ư đồ của Trung Quốc hay không?

 

"Đấy lại là một việc khác và người Trung Quốc không thể lănh đạo, không thể chỉ đạo việc đó được," sử gia chuyên về lịch sử Đảng từ Đại học Quốc gia Hà Nội nêu quan điểm.

 

Hôm 15/10, một quan chức Vụ trưởng, thuộc Ban Dân vận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nói đang có yêu cầu công khai ra Quốc hội Việt Nam về Hội nghị Thành Đô, ngay cả trước khi có một tài liệu được cho là của Ban tuyên huấn Trung ương của Đảng về Hội nghị được loan truyền trên mạng Internet.

 

"Văn bản của Ban Tuyên giáo... th́ nó có thật đấy. Họ đưa ra để giải thích vấn đề Thành Đô.

 

"Nhưng chúng tôi hoài nghi sự giải thích đấy ở chỗ không biết là có đến nơi, đến chốn không.

 

"Và chúng tôi đang muốn là Quốc hội phải thành lập một Ủy ban nghiên cứu và bạch hóa vấn đề này," ông Nguyễn Khắc Mai nói với BBC từ Hà Nội.

 

Nhắc lại 'Món nợ Thành Đô'

14 tháng 10 2014

 

Các ông Lư Bằng và Giang Trạch Dân đóng vai tṛ quan trọng tại Hội nghị Thành Đô

Hồi kư 'Hồi ức và Suy nghĩ' của cựu Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Trần Quang Cơ đă đề cấp đến những ǵ xảy ra sau Hội nghị Thành Đô 3-4 tháng 9/1990 giữa lănh đạo Việt Nam và Trung Quốc năm 1990, chủ đề hiện được dư luận ở Việt Nam quan tâm trở lại:

 

Sau đây là hai chương BBC Tiếng Việt xin trích dẫn từ các nguồn mở đă đăng trên mạng Internet ở nước ngoài ở dạng tư liệu, mở đầu là chương 16 dưới tiêu đề 'Món nợ Thành Đô':

 

“Từ tháng 9/90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô, đ̣i ta thực hiện thoả thuận đó, cụ thể là tác động với Phnom Penh nhận SNC có 13 thành viên và do Sihanouk làm Chủ tịch. Với cách làm đó, họ khơi sâu thêm bất đồng trong nội bộ ta… Trung Quốc thấy rằng việc thực hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ Ngoại giao nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn. Đại sứ mới của Malaysia ngày 3.10.90 đến chào xă giao, nói với tôi là ở Bắc Kinh người ta đưa tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại giao và lănh đạo Đảng về chủ trương đối ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô gặp cấp cao Trung Quốc không có ông Nguyễn Cơ Thạch.

 

Sau Thành Đô, trong khi ta nới rộng hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam th́ phía Trung Quốc lại tỏ ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại giao công kích lănh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam; hạn chế hoạt động của Đại sứ ta ở Bắc Kinh, không sắp xếp Đại sứ ta tham dự vào cuộc Lư Bằng tiếp anh Vơ Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử cán bộ cấp thấp tiếp và làm việc với Đại sứ ta.

 

Trung Quốc một mặt khẳng định là vấn đề Campuchia chưa giải quyết th́ quan hệ Trung – Việt “chỉ có bước đi nhỏ”, mặt khác thăm ḍ và tích cực tác động đến vấn đề nhân sự và phương án chuẩn bị Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ họp vào giữa năm 1991. Từ tháng 3/91, tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc khoá 7, Lư Bằng tuyên bố “quan hệ Trung – Việt đă tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề Campuchia. Về vấn đề SNC của Campuchia. Trung Quốc không cố bám giữ con số 13, tạm gác vấn đề chủ tịch, phó chủ tịch, đưa ra công thức “Sihanouk chủ tŕ các cuộc họp SNC”. Từ chỗ chỉ có quan hệ với 3 phái, sau cuộc gặp SNC ở Pattaya (Thái Lan), Trung Quốc chuyển sang quan hệ trực tiếp với Nhà nước Campuchia, mời Hun Sen thăm Bắc Kinh trong 3 ngày (22-24/7/91).

 

Chiều Chủ nhật 18/11/90 họp Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia. Từ sau khi P5 thoả thuận về văn kiện khung (28/890) cuộc đấu tranh về vấn đề Campuchia đi vào giai đoạn cuối, gay gắt và quyết liệt. Thay mặt Bộ Ngoại giao, tôi tŕnh bày đề án về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện khung của P5 và về vấn đề SNC để Bộ Chính trị cho ư kiến. Khi tôi tŕnh bày xong, anh Thạch đề nghị Bộ Chính trị khẳng định 2 điểm:

 

1. Vấn đề SNC là vấn đề nội bộ của Campuchia, ta không ép bạn được, phải tôn trọng chủ quyền của bạn;

 

2. Về văn kiện khung, ta phải bác những điểm vi phạm Hiến chương LHQ. Nếu không sau này có ảnh hưởng đến vấn đề xử lư Trường Sa… Ta thấy rơ Trung Quốc và Mỹ đều nhất trí xoá Nhà nước Campuchia bằng cách khác nhau.

 

Cuối cuộc họp, Tổng bí thư Linh kết luận: “Về SNC ta không thể góp ư với bạn được… Nếu nói Trung Quốc và Mỹ như nhau th́ tôi không đồng ư. Sau hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị sẽ đánh giá lại một số vấn đề liên quan đến ngoại giao như nhận định về Trung Quốc thế nào, tuyên bố hoặc nói về Trung Quốc như thế nào?”

 

Image captionBộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là nhân vật lớn của ngành ngoại giao Việt Nam

Nguyễn Cơ Thạch nói luôn: “Đồng ư đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô”.

 

Dự thảo Hiệp định toàn bộ về Campuchia ngày 26/11/90 do P5 thảo ra đă được các thành viên SNC Campuchia chấp nhận về cơ bản tại cuộc họp ở Paris ngày 23/12/90. Chủ trương của ta là giải pháp chính trị về Campuchia, nhất là những vấn đề nội bộ Campuchia, phải do bạn tự quyết định và chịu trách nhiệm với dân tộc Campuchia. Ta hết sức giúp đỡ họ, gợi ư để họ tránh được những thất bại không đáng có, nhưng ta không thể làm thay. Như vậy ta vừa hết ḷng giúp bạn vừa không để Việt Nam một lần nữa bị sa lầy vào cuộc đấu tranh nội bộ của Campuchia. Không để vấn đề giải pháp chính trị về Campuchia lại một lần nữa trở thành vấn đề lịch sử trong quan hệ Việt Nam – Campuchia.

 

Theo yêu cầu của bạn, ngày 14/1/91, tôi cùng các anh Huỳnh Anh Dũng, Lê Công Phụng, Vũ Tiến Phúc, chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang Phnom Penh làm việc với bạn với mục đích:

 

a. T́m hiểu suy nghĩ và ư định của bạn về giải pháp Campuchia sau khi bạn đă chấp nhận văn kiện khung của P5 tại cuộc họp Jakarta 10/9/90 và chấp nhận về cơ bản dự thảo Hiệp định 26/11 của P5 tại cuộc họp Paris 23/12/90;

 

b. Thuyết phục bạn kiên quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc chủ quyền Campuchia để chỉ thảo luận và giải quyết trong SNC;

 

c. Thoả thuận kế hoạch chuẩn bị cho việc họp lại Hội nghị quốc tế Paris.

 

Khi tiếp tôi, anh Hun Sen nói: “Trong nội bộ Campuchia, xu hướng mạnh nhất là muốn có một giải pháp chính trị giữ được thành quả cách mạng, không để cho Pol Pot quay trở lại… T́nh h́nh hiện nay rất tế nhị. T́nh h́nh phức tạp sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận một giải pháp vô nguyên tắc. Chỉ cần chấp nhau một giải pháp như vậy th́ nội bộ Campuchia đă hỗn loạn rồi chứ chưa nói là kư kết. Ta giữ lập trường cứng như vừa qua là tốt. Đề nghị Việt Nam không để đẩy quá nhanh tiến tŕnh giải pháp.

 

Như vậy, qua các cuộc gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, Thứ trưởng Dith Munty và Thứ trưởng Sok An, nhất là qua phát biểu của Chủ tịch Hun Sen chiều 16/11, có thể thấy được chủ trương của bạn cố kéo dài trạng thái đánh đàm hiện tại v́ nhiều yếu tố chủ quan khách quan khác nhau, song chủ yếu v́ trong nội bộ lănh đạo bạn xu hướng chưa muốn đi vào giải pháp c̣n rất mạnh. Hun Sen cho biết theo quyết định của Bộ Chinh trị Campuchia, trong cuộc họp Trung ương ngày 17/1/91, ông ta sẽ thông báo cho Trung ương là “năm 1991 sẽ chưa có giải pháp”.

 

Tuy nhiên, tôi lại có cảm thấy trong suy nghĩ cũng như trong hành động lănh đạo Campuchia đang có nhiều mâu thuẫn lúng túng, chưa xác định được cho ḿnh một đường lối rơ ràng mạch lạc, mà chỉ lo đối phó từng bước với những vấn đề trong nội bộ cũng như với đối phương.

 

Bản quyền hình ảnhAP

 

Các lănh đạo Việt Nam, Vơ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười

Trong lần gặp Heng Somrin ở Hà Nội ngày 24/2/91, anh Nguyễn Văn Linh vẫn cố ép bạn “cần thực hiện tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên nhấn mạnh vấn đề diệt chủng, nên SNC gồm 13 thành viên và Sihanouk làm Chủ tịch”. Heng Somrin về nói lại với Bộ Chính trị Đảng Campuchia th́ tất cả đều băn khoăn và ngại rằng Heng Somrin không thạo tiếng Việt nên nghe có thể sai sót. Thực ra, như Hun Sen nói với anh Ngô Điền, khi nghe Heng Somrin nói lại những ư kiến của anh Linh, Bộ Chính trị Campuchia rất lo v́ thấy Việt Nam khác Campuchia nhiều quá. Ngày 13/3/91 Hun Sen nói với anh Thạch: “Có thể có sách lược phân hoá Khmer đỏ, nhưng dứt khoát không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Nếu bỏ sẽ có 3 mối nguy hiểm: sẽ mất con bài mặc cả trong đàm phán ngay từ đầu; mất lợi thế trong tổng tuyển cử; kẻ thù sẽ có lợi trong việc vu cáo Việt Nam là mọi chuyện xảy ra 12 năm qua đều do Việt Nam gây ra cả. Số lượng thành viên SNC có thể là 12 hoặc 14, không thể chấp nhận con số 13, sẵn sàng cho Sihanouk làm chủ tịch, Hun Sen làm phó, không đ̣i chức chủ tịch luân phiên hay đồng chủ tịch nữa”.

 

Trong cách làm này của ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà ta cho là có lợi ích đối với ta mà thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi ích của bạn không. Cách làm đó tất yếu ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó lâu nay giữa ta với Phnom Penh.

 

Đầu năm 1991, Bộ Chính trị đă có cuộc họp tại T78 thành phố Hồ Chí Minh (24-25/1/91) để bàn về vấn đề Campuchia. Tôi tŕnh bày chủ trương tách mặt quốc tế với mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, đồng thời báo cáo ư kiến của Hun Sen cho biết là Bộ Chính trị Campuchia quyết định không đi vào giải pháp trong năm 1991. Bộ Chính trị quyết định cần thăm ḍ khả năng họp Bộ Chính trị 3 nước để hướng Campuchia đi vào giải pháp, họp có tính chất trao đổi, gợi ư chứ không quyết định, ta không thể ép bạn, đồng thời phải tỏ được thiện chí, tránh mọi việc làm ta bị cô lập.

 

Nhân dịp này, tôi đă ngỏ ư với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi Trung ương khoá tới. Anh Thạch tỏ ư không tán thành. Đến tháng 2/91, khi có cuộc bầu đại biểu ở các tỉnh để đi dự Đại hội VII, tôi đă gửi thư cho anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, xin rút khỏi danh sách dự Đại hội VII. Lúc này tinh thần tôi đă có phần mệt mỏi v́ những sự việc trong thời gian qua. Nhưng yêu cầu của tôi không được đáp ứng. Tôi nhận được giấy đi dự Đại hội tỉnh Đảng bộ Sơn la và được bầu vào Đoàn đại biểu tỉnh Sơn la đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.Tháng 6/91, tôi có giấy đi dự Đại hội Đảng với tư cách đại biểu tỉnh Sơn La rồi tiếp tục tham gia Trung ương khoá VII.

 

T́nh h́nh bất đồng ư kiến trong Bộ Chính tri càng đến gần Đại hội càng bộc lộ gay gắt. Ngày 13/4/91, trong cuộc họp Bộ Chinh trị bàn về t́nh h́nh thế giới và đường lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi anh Thạch bản báo cáo về “T́nh h́nh thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc pḥng, tŕnh bày về t́nh h́nh thế giới và mưu đồ đế quốc”. Nghe xong, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ quan tôi nghĩ giữa bản tŕnh bày sáng nay (của Bộ Ngoại giao) và bản tŕnh bày t́nh h́nh quân sự chiều nay của Bộ Quốc pḥng có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương th́ phải thảo luận t́nh h́nh trước, nhưng cách đánh gia t́nh h́nh c̣n khác nhau.”

 

Cố vấn Phạm Văn Đồng: “Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng ta cần cố gắng làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm của ḿnh. Bộ Chính trị đă giao cho 3 đồng chí phụ trách 3 ngành làm nhưng lại chưa làm”.

 

Lê Đức Anh: “Bộ Chính trị nên nghe t́nh h́nh nhiều mặt, ngay trong nước chúng ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh giá chung, mỗi ngành có đề án riêng, không làm chung được.”

 

Nguyễn Cơ Thạch đồng ư 3 ngành thảo luận để đi tới nhất trí về t́nh h́nh, c̣n công tác th́ mỗi ngành làm.

 

Trên tinh thần đó, ngày 2/591, đă có cuộc họp giữa Ngoại giao, An ninh và Quốc pḥng để thống nhất nhận định t́nh h́nh thế giới. Dự họp về phía Bộ Quốc pḥng có: Lê Đức Anh, Trần Văn Quang, Đại tá Lân, Bộ Nội vụ có: Mai Chí Thọ; Bộ Ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch và 4 thứ trưởng. C̣n 3 phó ban Đối ngoại: Nguyễn Thị B́nh, Trịnh Ngọc Thái, Nguyễn Quang Tạo. Thu hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí trong nhận định t́nh h́nh, chỉ nhất trí được mấy điểm lư luận chung chung.

 

Bản quyền hình ảnhAFP

 

Quan hệ Việt Nam - Campuchia vốn phức tạp từ mấy chục năm qua

Chỉ c̣n một tháng đến ngày họp Đại hội VII, Chính trị B họp liền gần 3 ngày (15,16 và 17/5/91) để thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về t́nh h́nh thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”. Bộ Chính trị có mặt đông đủ. Theo dơi cuộc họp ở ghế dự thính. Số dự thính lúc đầu có 10 người, từ chiều 16/5 khi đi vào kiểm điểm việc thực hiện các Nghị quyết về đối ngoại của Đại hội VI th́ dự thính thu hẹp lại chỉ c̣n có Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho Liêm và tôi. Từ đầu đến cuối, tôi đă nhận rơ sự đấu tranh giữa hai quan điểm về mặt quốc tế, nhất là khi đi vào phần kiểm điểm thực hiện đường lối đối ngoại, nói đến vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc.

 

Bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có nêu “đă có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung Quốc có sự thay đổi qua 2 giai đoạn (trước và sau năm 1989) trái với Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (20/5/88)”, “giữa ta và bạn Campuchia đă bộc lộ sự khác nhau khá rơ rệt”, về đối ngoại, ta “lúng túng, thiếu b́nh tĩnh” trước cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô…; đă bỏ lỡ cơ hội cải thiện với ASEAN (khi Thái Lan mời Thủ tướng Đỗ Mười sang thăm, nhưng anh Mười nói phải đi Liên Xô, đi Ấn Độ rồi mới đi Thái), đă làm nảy sinh tranh căi khá căng, đặc biệt khi bàn đến đúng sai trong chuyện gặp cấp cao Trung Quốc ở Thành Đô tháng 9.90 và vấn đề chống diệt chủng và “giải pháp Đỏ”.

 

Anh Vơ Chí Công: “Về Trung Quốc rất phức tạp… Bộ Chính trị đă đánh giá Trung Quốc có hai mặt xă hội chủ nghĩa và bá quyền. Về xă hội chủ nghĩa cũng cần thấy là trong “nháy nháy”… Khó khăn là chưa b́nh thường hoá quan hệ… Họ đưa ra 5 trở ngại, có cái hàng trăm năm không giải quyết nổi. Ví dụ như chuyện “Liên bang Đông Dương”, họ biết ta không có ư đồ đó song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và giành lấy Lào và Campuchia, gạtta ra… Chuyện “giải pháp Đỏ” là không được, v́ như vậy th́ có nghĩa là Trung Quốc sẽ đi với ta chống Mỹ trong lúc chủ trương của họ là tranh thủ khoa học – kỹ thuật của phương Tây để hiện đại hoá, c̣n ǵ là Trung Quốc nữa?

 

Tới cuối cuộc họp, Nguyễn Đức Tâm c̣n nói:

 

“Chưa làm dự thảo Nghị quyết ngay được v́ qua thảo luận thấy ư kiến Bộ Chính trị c̣n khác nhau về đánh giá đúng thành tích, đúng bạn thù, đối sách. Đại hội đến nơi, sau Đại hội không c̣n Bộ Chính trị này nữa, tuy một số đồng chí c̣n ở lại… Mặc dù vậy Nguyễn Thanh B́nh chủ tŕ cuộc họp vẫn kết luận làm dự thảo Nghị quyết về đối ngoại.”

 

'Lịch sử chưa sang trang'

Chương 20 là chương kêt thúc hồi kư, dưới tiêu đề “Kết thúc một chặng đường nhưng lịch sử chưa sang trang”, ông Trần Quang Cơ viết:

 

“Sau 12 năm ṛng ră, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đă kết thúc và đă trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn c̣n có nhiều tính chất thời sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước lớn.

 

Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện b́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày 5/11/91, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă có cuộc đi thăm chính thức nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, đánh dấu sự b́nh thường hoá quan hệ giữa hai nước.“Quan hệ Việt – Trung tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau… Quan hệ Việt – Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ như những năm 50-60…”

 

Bản quyền hình ảnhREUTERS

Image caption

Ông Trần Quang Cơ đă nh́n thấy trước kế hoạch độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc

Tuy nhiên sau khi b́nh thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là các vấn đề liên quan đến lănh thổ trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng 2, 3, 4/92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tháng 12/91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh tháng 5.92) và tranh chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc kư kết họp đồng thăm ḍ khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (băi Tư Chính).

 

V́ sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này? V́ Trung Quốc cho rằng t́nh h́nh đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000 kilôton, thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho ḿnh một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ư đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa – mà ta gọi là Biển Đông – thành vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.

 

1. Trật tự thế giới cũ không c̣n, trật tự thế giới mới chưa h́nh thành. Các đối thủ chính của Trung Quốc ở châu Á – Thái B́nh Dương đều đang gặp khó khăn, Liên Xô vừa tan ră. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là thách thức đáng kể, Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á – Thái B́nh Dương, tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến.

 

Trung Quốc nhẩn nha trong các bước b́nh thường hoá quan hệ với Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa siết chặt bên trong, nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc

2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá tŕnh nối lại các quan hệ giao lưu giữa hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam Á, bất lợi đối với ư đồ bá quyền của Trung Quốc, đang c̣n có những trở ngại (nghi ngờ nhau do khác ư thức hệ, va chạm lợi ích, ư đồ của Thái Lan đối với Lào, Campuchia) đ̣i hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng thân Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khmer đỏ ở Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.

 

3. Bản thân Việt Nam c̣n đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong t́nh h́nh mới sau khi Liên Xô tan ră, quan hệ với Mỹ chưa b́nh thường hoá, Trung Quốc muốn đi vào b́nh thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.

 

V́ vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước b́nh thường hoá quan hệ với Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa siết chặt bên trong, giành lợi thế cho ḿnh trên mọi lĩnh vực quan hệ.

 

Cả hai mặt đều nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới bên ngoài.

 

Nội dung cuốn hồi kư (2005) thể hiện quan điểm riêng của nhà ngoại giao Trần Quang Cơ đă được công bố lần đầu năm 2008 trên nhiều trang mạng ở nước ngoài. BBC Tiếng Việt chưa có điều kiện phỏng vấn chính tác giả về những nội dung này.

Hồi kư của ĐS Trương Đức Duy về Hội nghị Thành Đô

09/11/2014 at 11:31#4354

HỒI KƯ CỦA TRƯƠNG ĐỨC DUY

(Trích, người dịch Quốc Thanh)

“….Vào 1 giờ chiều, chiếc chuyên cơ hạ cánh đúng giờ xuống Sân bay Thành Đô. Khi đoàn đại biểu tới Nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên, Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] và Thủ tướng Lư [Bằng] đứng trước cửa nhà khách đón khách. Sau khi chủ và khách đă ngồi cả trong nhà khách, hai bên hỏi han lẫn nhau đồng thời tiến hành trao đổi đơn giản.

Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] giải thích: “Đồng chí Đặng Tiểu B́nh đi nghỉ ở xa, nên lần này không gặp các vị được”. Cuộc gặp mặt đơn giản kết thúc xong th́ nghỉ ngơi một lúc, đến 3 giờ chiều, hai bên bắt đầu tiến hành hội đàm chính thức ṿng đầu. Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] bắt đầu bằng một phát biểu ngắn, tiếp theo Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đọc lời mở đầu theo một bản đă chuẩn bị sẵn. Sau đó, Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] tŕnh bày một cách có hệ thống về giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và mối quan hệ Trung-Việt.

 

Thủ tướng Lư [Bằng] phát biểu kĩ hơn về giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Sau khi nghỉ 15 phút, Nguyễn Văn Linh làm một bài phát biểu dài, nhấn mạnh trước đây Trung Quốc đă dành sự ủng hộ và giúp đỡ hết sức to lớn cho cách mạng Việt Nam và các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, Đảng, chính phủ và nhân dân Việt Nam măi măi không bao giờ quên; ông bày tỏ bây giờ nguyện sẽ cùng với phía Trung Quốc nỗ lực giải quyết tốt vấn đề Campuchia, sớm thực hiện b́nh thường hóa quan hệ hai nước, khôi phục lại mối quan hệ truyền thống tốt đẹp Việt-Trung.

Chủ tịch Đỗ Mười cũng có bài phát biểu tương ứng, bày tỏ phía Việt Nam nguyện cùng với phía Trung Quốc giải quyết thật tốt vấn đề Campuchia, sẽ tiến hành nghiên cứu kĩ lưỡng phương án giải pháp do phía chúng ta đề xuất. Hội đàm ṿng đầu chủ yếu xoay quanh việc Việt Nam rút quân triệt để khỏi Campuchia và vấn đề thành lập bộ máy quyền lực lâm thời – Hội đồng tối cao Campuchia (tức phương án phân bổ quyền lực) sau khi rút quân.

 

Sau tiệc chiêu đăi tối, các ban làm việc của hai bên đă tiến hành bàn bạc căng thẳng từng chi tiết trong Phương án giải pháp cho vấn đề Campuchia, theo chỉ đạo cụ thể của lănh đạo từng bên, nhằm chuẩn bị tốt cho cuộc hội đàm chính thức vào ngày hôm sau, đồng thời bên phía ta đề nghị soạn thâu đêm luôn một bản dự thảo văn kiện chung.

 

Sáng ngày hôm sau tổ chức hội đàm ṿng hai, trọng điểm là vấn đề Campuchia. Qua nỗ lực suốt cả một đêm của các ban làm việc hai bên, cả hai bên đă dần đi đến nhất trí đối với Phương án giải pháp cho vấn đề Campuchia. Nhưng trong hội đàm ṿng hai vẫn c̣n xuất hiện một điểm bất đồng, đó là việc lập ra Hội đồng tối cao Campuchia gồm 13 đại biểu do phía ta đề xuất, phân bổ cụ thể là: 6+2+2+2+1 (tức phái Hun Sen 6 người, phái Campuchia dân chủ 2 người, phái Sihanouk 2 người và phái Son Sann 2 người + đích danh Sihanouk làm Chủ tịch).

 

Đỗ Mười bày tỏ tán thành để Sihanouk làm Chủ tịch Hội đồng tối cao Campuchia, nhưng cho rằng nên gộp Sihanouk vào trong danh mục phái Sihanouk, hai bên mỗi bên một nửa đă là thiệt cho Phnom Penh rồi, nếu như bên phái đối lập lại c̣n nhiều hơn 1 người, th́ như vậy là không công bằng. Phía ta tŕnh bày theo lư chủ trương và đ̣i hỏi rộng răi của cộng đồng quốc tế, chứng tỏ phương án này là thích hợp nhất. Trong giờ nghỉ, Nguyễn Văn Linh đă có cuộc hội ư lại với Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng.

 

Trong buổi tiệc, Nguyễn Văn Linh thay mặt phía Việt Nam bày tỏ sự nhất trí toàn bộ với phương án do phía ta đề xuất, đồng thời nói sau khi về nước sẽ làm việc ngay với Phnom Penh, đồng thời cũng mong Trung Quốc thúc đẩy thực hiện việc ḥa giải thực sự giữa Khơme Đỏ với Phnom Penh. Đến đây, vấn đề Campuchia đă được bàn bạc ổn thỏa, trở ngại lớn nhất trong quan hệ Trung-Việt đă được loại bỏ.

 

Tiếp đến, vấn đề khôi phục lại quan hệ giữa hai nước hai Đảng được bàn bạc trao đổi một cách khá thuận lợi, không gợi lại quá nhiều nợ nần cũ. Sau khi hai vấn đề lớn trong cuộc hội đàm lần này đă được trao đổi ổn thỏa, Tổng bí thư Giang Trạch Dân bày tỏ, giữa hai nước chúng ta từ đây có thể “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, đồng thời dùng hai câu thơ của Lỗ Tấn [2] “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại/ Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu”[3] làm lời kết cho cuộc hội đàm nội bộ lần này.

 

Phía Việt Nam bày tỏ hết sức mĩ măn và phấn khởi trước thành quả của cuộc hội đàm lần này. Cuối cùng, Tổng bí thư Giang Trạch Dân đề nghị, hai bên cần kí vào một bản kỷ yếu về thành quả của cuộc hội đàm lần này, Nguyễn Văn Linh vui vẻ đồng ư. Chiều hôm đó, trước khi Đoàn đại biểu Việt Nam rời Thành Đô, Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng và Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười đă cùng nhau kí vào bản “Kỷ yếu hội đàm Thành Đô” mang ư nghĩa lịch sử.

 

Sau khi đoàn Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng nói lời tạm biệt với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng và các đồng chí Tằng Khánh Hồng, Tề Hoài Viễn, Chu Thiện Khanh…, đă đáp lên chiếc chuyên cơ của phía ta rời Thành Đô bay tới Nam Ninh, dừng ở Nam Ninh rồi đổi ngay sang chuyên cơ của phía Việt Nam bay về Hà Nội. Tôi cũng ngẫu nhiên đi theo Đoàn đại biểu Việt Nam quay về Hà Nội.

 

Trên đường về, không khí trong khoang máy bay khác hẳn với lúc đến. Các vị lănh đạo trao đổi bàn bạc nhiều, những người khác cũng nói cười vui vẻ. Chủ nhiệm Văn Pḥng Trung ương Đảng Hồng Hà phấn khởi nói với tôi: “Cuộc gặp lần này rất thành công, quá tốt!” Trưởng Ban đối ngoại Trung ương Hoàng Bích Sơn cũng tràn đầy phấn khởi nói, về đến Hà Nội tôi sẽ mở tiệc mời đồng chí Đại sứ thưởng thức toàn những món ăn có tiếng của Việt Nam.

 

Một lúc sau, Chủ tịch Đỗ Mười đi lại phía tôi hỏi: “Nguyên văn hai câu thơ mà đồng chí Giang Trạch Dân trích dẫn đọc thế nào ấy nhỉ?” Tôi dùng ngay âm đọc Hán Việt (chú thích: Trong Nho học Việt Nam có một phép đọc cố định đối với chữ Hán) đọc lại một lượt cho ông ấy nghe, ông ấy c̣n bắt tôi viết nguyên văn ra, rồi nhờ tôi dịch ra tiếng Việt.

 

Đỗ Mười xem cả nguyên văn lẫn phần dịch ra tiếng Việt hai lần rồi bảo: “Đồng chí Giang Trạch Dân dẫn hai câu thơ này vào lúc kết thúc hội đàm là quá xác đáng!”. Về Hà Nội được ít ngày, tôi lại đọc được một bài thơ do Nguyễn Văn Linh viết thể hiện tâm trạng cảm khái cùa ḿnh sau thành công của cuộc “Hội đàm Thành Đô”: “Huynh đệ chi giao sổ đại truyền/ Oán hận khuynh khắc hóa vân yên/ Tái tương phùng thời tiếu nhan triển/ Thiên niên t́nh nghị hựu trùng kiến” [4]

 

Nguồn: 中越高层成都会晤的前前后后 – Mạng Báo buổi sáng Liên hợp.

 

[1] Quảng Đông – Quảng Tây –ND

[2] Chỗ này tác giả nhầm. Đây là hai câu thơ của nhà thơ đời Thanh Giang Vĩnh. – ND

[3] Tạm dịch: Trải qua cơn sóng gió/ t́nh anh em vẫn c̣n/ Gặp nhau cười một cái quên hết oán thù . – ND

[4] Tạm dịch: Anh em chơi với nhau đă mấy thế hệ/ Oán hận trong khoảnh khắc đă biến thành mây khói/ Khi gặp lại nhau cười rạng rỡ/ T́nh nghĩa ngàn năm xây dựng lại -ND.

Video tham khảo: 中越高层成都秘密会晤 一年后关系正常化 – Cuộc gặp mật cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô – Một năm sau, b́nh thường hóa quan hệ.

Trương Đức Duy“

Nguồn: Facebook Dân Choa

Nhật kư Lư Bằng viết về Hội nghị Thành Đô

 

Tác giả: Lư Bằng | Biên dịch : Nguyên Hải

 

 

[Năm 1986]

 

Ngày 26 tháng 12, Thứ Sáu, trời âm u, có mưa

 

Tại Đại hội VI Đảng Cộng Sản Việt Nam [ĐCSVN], Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng, thay cho nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời hồi tháng 7.

 

[Năm 1989]

 

Ngày 26 tháng 8, Thứ Bảy, trời âm u, có mưa

 

Hôm nay Việt Nam tuyên bố đă “rút toàn bộ quân đội” từ Campuchia. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề Campuchia, cũng quét sạch trở ngại cho việc b́nh thường hóa mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.

 

Bước ngoặt trong mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam —Hội nghị Thành Đô

 

[Năm 1990]

 

Ngày 6 tháng 6, Thứ Tư, trời hửng.

 

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hội kiến Đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ Quốc pḥng Việt Nam. Nguyễn hy vọng thực hiện b́nh thường hóa quan hệ hai nước, hai đảng và mong muốn sớm đi thăm Trung Quốc.

 

Ngày 26 tháng 8, Chủ Nhật, trời âm u có mưa.

 

Tôi nói với đồng chí Giang Trạch Dân về việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam [ĐCSVN] Nguyễn Văn Linh và những người lănh đạo chủ yếu phía Việt Nam đến thăm Trung Quốc với tính chất nội bộ, đồng chí Giang Trạch Dân tỏ ư hoàn toàn tán thành.

 

Ngày 27 tháng 8, Thứ Hai, trời mưa.

 

Tôi đă báo cáo đồng chí Đặng Tiểu B́nh về việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến Nguyễn Văn Linh. Xét thấy Á Vận Hội sắp cử hành tại Bắc Kinh, mà lần gặp gỡ này bàn đến việc b́nh thường hóa quan hệ hai nước Trung-Việt, là chuyện trọng đại, để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm thu xếp tại Thành Đô.

 

Ngày 30 tháng 8, Thứ Năm, trời hửng.

 

Việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đi Thành Đô hội đàm với Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, đă gửi lời mời cho phía Việt Nam. Giờ đây hăy xem Việt Nam trả lời thế nào.

 

Ngày 2 tháng 9, Chủ Nhật, trời hửng.

 

Ba giờ rưỡi chiều, tôi đáp chuyên cơ cất cánh từ sân bay Tây Giao Bắc Kinh, khoảng 6 giờ đến sân bay Thành Đô. Chúng tôi đi ô tô, sau 20 phút đến Nhà khách Kim Ngưu, Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang chờ. Đồng chí Giang Trạch Dân đáp một chuyên cơ khác đến Thành Đô sau tôi nửa giờ. Buổi tối từ 8 giờ rưỡi đến 11 giờ, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi ư kiến về phương châm hội đàm với phía Việt Nam ngày mai.

 

Ngày 3 tháng 9, Thứ Hai, Thành Đô, trời hửng.

 

Buổi sáng, tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân cùng đồng chí tiếp tục nghiên cứu phương châm hội đàm với phía Việt Nam chiều nay.

 

Buổi chiều khoảng 2 giờ, Tổng Bí thư Trung ương ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn TƯ ĐCSVN Phạm Văn Đồng đến Nhà khách Kim Ngưu. Giang Trạch Dân và tôi đón họ tại nhà trệt số 1. Nguyễn Văn Linh mặc âu phục màu cà phê, có phong thái học giả. Đỗ Mười c̣n khỏe mạnh, tóc bạc phơ, mặc âu phục màu lam. Hai người này đều ở độ tuổi 73-74, c̣n Phạm Văn Đồng hai mắt bị đục thủy tinh thể, thị lực rất kém, mặc bộ đại cán màu lam, giống cán bộ lăo thành Trung Quốc.

 

Buổi chiều, hội đàm bắt đầu, trước tiên Nguyễn Văn Linh phát biểu một bài dài. Tuy đă tỏ ư muốn giải quyết thật nhanh vấn đề Campuchia và nói thành lập Hội đồng Tối cao Campuchia là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, không nên loại bỏ bất cứ bên nào, nhưng lại tỏ ư không muốn can thiệp vào việc nội bộ của Campuchia. Xem ra trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh chỉ muốn tỏ thái độ về nguyên tắc, mà đặt trọng điểm vào mặt b́nh thường hóa quan hệ Trung-Việt.

 

Hội đàm kéo dài một mạch đến 8 giờ tối. 8 giờ rưỡi mới bắt đầu tiệc chiêu đăi tối. Trên bàn ăn, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân từng người làm việc với Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười.

 

Ngày 4 tháng 9, Thứ Ba, trời âm u.

 

Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các đồng chí lănh đạo Việt Nam. Đến giờ này, nên nói là các vấn đề hội nghị nêu ra đă đạt được sự đồng thuận tương đối trọn vẹn, quyết định dự thảo biên bản hội nghị.

 

Hai giờ rưỡi chiều, hai bên Trung Quốc-Việt Nam làm lễ kư biên bản ở nhà trệt số Một nhà khách Kim Ngưu, Tổng Bí thư và Thủ tướng mỗi bên đều kư. Đây là bước ngoặt có tính lịch sử trong mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Ngay tại lễ kư, đồng chí Giang Trạch Dân tặng các đồng chí Việt Nam câu thơ “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu [Tạm dịch : Qua hoạn nạn, anh em c̣n đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù] ”. Đây là câu thơ của Lỗ Tấn.[1] Các đồng chí Việt Nam tỏ ư vui mừng với việc tặng thơ này.

 

4 giờ chiều, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, Khoảng 6 giờ 10 đến nơi.

 

Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội VII

 

[Năm 1991]

 

Ngày 29 tháng 6, Thứ Bảy.

 

Đại hội VII ĐCSVN bế mạc, Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng là Cố vấn. Tinh thần cơ bản của Đại hội VII ĐCSVN là kiên tŕ chủ nghĩa xă hội, cải cách kinh tế, chủ trương hữu nghị Việt Nam-Liên Xô, Việt Nam-Trung Quốc. Tinh thần này có lợi cho việc cải thiện quan hệ Trung-Việt.

 

Ngày 30 tháng 7, Thứ Ba, Bắc Kinh, trời hửng.

 

Buổi chiều tôi hội kiến với Đại biểu đặc biệt Trung ương ĐCSVN Lê Đức Anh và Hồng Hà. Họ yêu cầu tổ chức cuộc gặp cấp cao Trung-Việt. Tôi nói là để cho nhân dân hai nước có chuẩn bị, để các nước khác trong ASEAN không đến nỗi có lo ngại, Trung Quốc-Việt Nam trước tiên nên tiến hành gặp gỡ cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng Ngoại giao. C̣n nói về  gặp gỡ cấp cao, phía Trung Quốc cho rằng trên nguyên tắc không có vấn đề ǵ. Ngày mai Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sẽ chính thức trả lời họ. Về việc b́nh thường hóa quan hệ kinh tế Trung-Việt, có thể trên nguyên tắc b́nh đẳng cùng có lợi, các đơn vị đối tác của hai bên sẽ bàn bạc giải quyết, Trung Quốc đều có thái độ tích cực đối với các vấn đề nối lại thương mại, bưu chính, hàng không, quyết toán ngân hàng, khôi phục giao thông trên bộ.

 

Thực hiện b́nh thường hóa mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam

 

Ngày 5 tháng 11, Thứ Ba, trời hửng.

 

5 giờ chiều, đồng chí Giang Trạch Dân và tôi làm nghi thức đón Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Văn Kiệt thăm Trung Quốc tại quảng trường Đông Môn bên ngoài Đại lễ đường Nhân dân. Tiếp đó chúng tôi hội đàm. Trên vấn đề Đài Loan, Đỗ Mười có thái độ rơ ràng. Đồng chí Giang Trạch Dân nói, sau khi mối quan hệ hai nước trải qua một khúc quanh co, hôm nay người lănh đạo hai nước Trung-Việt có thể ngồi với nhau làm cuộc gặp gỡ cấp cao, điều này có ư nghĩa quan trọng. Đây là cuộc gặp kết thúc quá khứ, mở ra tương lai, đánh dấu sự b́nh thường hóa mối quan hệ hai nước, nó ắt sẽ có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển mối quan hệ giữa hai nước. Đỗ Mười nói, việc b́nh thường hóa mối quan hệ Việt-Trung phù hợp nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, cũng có lợi cho ḥa b́nh và ổn định khu vực này và thế giới. Tiếp đó vào tiệc chiêu đăi.

 

Ngày 6 tháng 11, Thứ Tư, trời hửng.

 

Buổi chiều, tôi hội đàm với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Văn Kiệt, không khí hội đàm rất tốt. Trước hết tôi nói, sáng nay Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười đă tiến hành cuộc hội đàm rất tốt, hai bên đă gắng sức trao đổi mọi ư kiến. Vơ Văn Kiệt có thái độ đúng trên vấn đề Đài Loan. Trong hội đàm, tôi đă nêu ra các vấn đề nợ, biên giới, nạn dân v.v… Hai bên đồng ư sau này sẽ bàn lại. Về việc Việt Nam đề xuất vay tiền cho các dự án mới, tôi nhận lời trước hết sẽ khảo sát các dự án của Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, tôi nói hiệp định giải quyết chính trị toàn diện vấn đề Campuchia đă kư tại Paris, việc thi hành hiệp định này c̣n cần tới sự tiếp tục cố gắng của các bên.

 

Ngày 7 tháng 11, Thứ Năm, trời hửng.

 

Buổi chiều, hiệp định thương mại Trung-Việt và hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc ở biên giới hai nước được kư tại Nhà khách quốc tế ở Điếu Ngư Đài. Lănh đạo Đảng và Chính phủ hai nước dự lễ kư kết. Sau đó tôi và đồng chí Giang Trạch Dân nói lời tạm biệt với Đỗ Mười và Vơ Văn Kiệt. Họ sẽ đi thăm Quảng Châu, Thâm Quyến.

 

—————

 

Bài viết trích từ nhật kư của cựu Thủ tướng Trung Quốc Lư Bằng. Nhật kư của Lư Bằng được in thành sách dưới tên “Ḥa b́nh Phát triển Hợp tác — Lư Bằng ngoại sự nhật kư”, Tân Hoa xuất bản xă.

 

Nguồn:   鹏日记披露1990年代中越关系正常化始末   20120503   人民网  

 

Đọc thêm:

 

Hồi kư Trần Quang Cơ

Hồi kư của ĐS Trương Đức Duy về Hội nghị Thành Đô

Nội t́nh cuộc gặp lănh đạo Trung –  Việt tại Thành Đô

————————

 

[1] Giang Trạch Dân nói câu thơ này là của Giang Vĩnh (1681-1762), nhà thơ đời Thanh. Giang Trạch Dân quê ở Giang Loan, Vụ Nguyên (nay thuộc Giang Tây), mà Giang Vĩnh là danh nhân lịch sử vùng này, chắc hẳn ông biết rơ về Giang Vĩnh. Như vậy có thể Lỗ Tấn đă mượn câu thơ ấy của Giang Vĩnh đưa vào bài thơ “Đề Tam Nghĩa Tháp ” Lỗ Tấn làm năm 1933. Ông Cổ Tiểu Tùng Phó Viện trưởng Viện Khoa học xă hội Quảng Tây cũng nói như Giang Trạch Dân (ND).

Hội nghị Thành Đô và t́nh thế ngoại giao Việt Nam

 

Nguồn: Elliott, David W.P., 2012, Changing Worlds: Vietnam’s Transition from Cold War to Globalization (pp. 112-116). Oxford University Press.

 

Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

 

Mùa hè năm 1990, những biến chuyển bắt nguồn từ những sự kiện trong năm trước đó đă bắt đầu làm thay đổi các động lực của ngoại giao quốc tế. Hồi kư của Trần Quang Cơ về giai đoạn rất quan trọng trong quá tŕnh b́nh thường hóa quan hệ Việt-Trung đă minh họa đầy đủ sự chuyển dịch này. Trong khi Bộ Chính trị (Việt Nam) vẫn tiếp tục tranh luận xem nên cố gắng đạt được thỏa thuận với Trung Quốc dựa trên ư thức hệ chung (tức “giải pháp đỏ” [cho vấn đề Campuchia]) hay là nên tham gia vào giải pháp ngoại giao với kết quả khó dự đoán hơn thông qua Liên Hợp Quốc, tức là sẽ bao gồm cả Hoa Kỳ và ASEAN, ông Cơ đă xin ư kiến ông Phạm Văn Đồng, lúc đó là “cố vấn” Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông Đồng nói với ông Cơ đầu tháng 8 năm 1990, “Phải dám chơi với Liên Hợp Quốc, với Hội đồng Bảo an, với Mỹ và phương Tây. Cần tranh thủ nhân tố Mỹ trong t́nh h́nh mới… Đề án về lư thuyết th́ tốt nhưng làm sao thực hiện được… Không nên đặt yêu cầu quá cao ‘giữ vững thành quả cách mạng (Campuchia)’… Đi vào tổng tuyển cử bạn giành 50% là lư tưởng.”

 

Không lâu sau cuộc tṛ chuyện này, Trung Quốc bất ngờ gửi lời mời khẩn tới Thủ tướng Đỗ Mười (không lâu sau thay thế Nguyễn Văn Linh làm TBT) và Phạm Văn Đồng tới gặp tại Thành Đô xa xôi (phía Trung Quốc nói cần họp ở đó để dễ giữ bí mật) để tham gia vào một nỗ lực giải quyết vấn đề Campuchia và đạt được bước đột phá trong việc b́nh thường hóa quan hệ Trung – Việt. Điều này là rất bất ngờ do đến thời điểm đó Trung Quốc vẫn kiên quyết khẳng định rằng vấn đề Campuchia phải được giải quyết theo ư Trung Quốc trước khi có thể đàm phán b́nh thường hóa quan hệ.

 

Phân tích của Trần Quang Cơ là Trung Quốc giờ phải thay đổi lập trường do ưu tiên hàng đầu của họ là phát triển kinh tế đă bị cản trở bởi các biện pháp trừng phạt sau vụ Thiên An Môn.

 

Ngoại giao được tăng tốc bởi các bên khác (bao gồm Mỹ, Nhật, và ASEAN) và việc mất đi yếu tố chính giúp đoàn kết lập trường của Trung Quốc với ASEAN (việc Việt Nam đóng quân ở Campuchia), cùng với mối lo ngại ngày càng tăng của ASEAN về ư đồ của Trung Quốc trong khu vực, đang làm đe dọa đến khả năng kiểm soát kết quả giải quyết vấn đề Campuchia của Trung Quốc – từ đó dẫn tới việc Bắc Kinh có động lực muốn nhanh chóng đạt được thỏa thuận với Việt Nam.

 

Nguyễn Văn Linh và Phạm Văn Đồng dẫn đầu phái đoàn Việt Nam tới Thành Đô vào đầu tháng 9 năm 1990, đáng chú ư là không có Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, vốn được Bắc Kinh xem là người cương quyết chống Trung Quốc. Trong các cuộc họp của Bộ Chính trị ông Thạch đă lên tiếng phản đối cả “giải pháp đỏ” ở Campuchia và việc đánh cược mọi con bài ngoại giao của Hà Nội dựa trên lợi ích chung giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc chung sức “bảo vệ chủ nghĩa xă hội,” như Nguyễn Văn Linh và một số lănh đạo Bộ Chính trị khác ủng hộ.

 

Lập trường của ông Thạch đă suy yếu do không thể chứng minh bất kỳ kết quả nào thu được từ “lá bài Mỹ.” Cuối cùng, giới lănh đạo Đảng đă quyết định gạt bỏ ông Thạch vốn gay gắt chống Trung để xoa dịu Bắc Kinh.

 

Bất chấp những chỉ dấu mơ hồ từ phía Trung Quốc rằng Đặng Tiểu B́nh sẽ tham dự hội nghị Thành Đô (để thuyết phục Phạm Văn Đồng tới dự và tranh thủ thâm niên và uy tín của ông vào dịp này), Đặng đă không xuất hiện, và Giang Trạch Dân cùng Lư Bằng là người đại diện cho Trung Quốc. Sau này Vơ Văn Kiệt cho rằng đây là một sự xúc phạm cố ư đối với Việt Nam, và phái đoàn Việt Nam đă “sập bẫy” bằng cách gửi đến một nhà lănh đạo cấp cao mà Trung Quốc không đáp lại tương xứng.

 

Phái đoàn Việt Nam nhanh chóng phát hiện ra phía Trung Quốc không hề quan tâm đến “giải pháp đỏ” hay bất kỳ h́nh thức liên minh ư thức hệ nào với Việt Nam. “T́nh h́nh quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không có lợi cho chúng ta,” phía Trung Quốc nói. Dù miễn cưỡng viện dẫn sự đoàn kết ư thức hệ trong việc nuôi dưỡng mối quan hệ liên đảng giữa các phe phái cộng sản đối lập tại Campuchia, nhưng Trung Quốc vẫn qua mặt Bộ Ngoại giao có xu hướng chống Trung Quốc của Việt Nam để làm việc trực tiếp với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN. Với việc Trung Quốc nhấn mạnh việc duy tŕ quan hệ với Việt Nam chủ yếu là trên cơ sở phi ư thức hệ giữa hai nhà nước, lẽ ra hoạt động ngoại giao giữa hai nước nên được thực hiện thông qua các kênh liên lạc của chính phủ thay v́ các kênh đảng. Điều này cho thấy Trung Quốc chỉ viện đến sự đoàn kết giữa hai đảng khi nào t́nh h́nh phù hợp với lợi ích riêng, và tiếp tục khước từ lời kêu gọi của Việt Nam là thay thế Liên Xô làm “thành tŕ xă hội chủ nghĩa” trong một thế giới đang thay đổi.

 

Gọi hội nghị Thành Đô là một thất bại ngoại giao đối với Việt Nam, Trần Quang Cơ cho rằng lư do chính là Việt Nam đă tự huyễn hoặc ḿnh bằng cách bám vào niềm tin rằng Trung Quốc có quan tâm đến một liên minh ư thức hệ để chống lại âm mưu “diễn biến ḥa b́nh” của các nước đế quốc nhằm lật đổ các nước cộng sản c̣n lại. Sự sụp đổ của những nỗ lực thất bại nhằm đạt được một “giải pháp đỏ” là bước quan trọng cuối cùng dẫn tới vai tṛ ngày một phai nhạt của bóng ma “diễn biến ḥa b́nh” vốn được các phần tử bảo thủ của Việt Nam lấy làm cái cớ để phản đối các lực lượng theo xu hướng hội nhập của một hệ thống hậu Chiến tranh Lạnh đang toàn cầu hóa.

 

Như xát muối vào vết thương, Trung Quốc hân hoan tiết lộ nội dung hội nghị cho Hun Sen và một loạt các bên khác rằng các nhà lănh đạo Việt Nam đồng ư chấp nhận cho các thế lực chống Hun Sen chiếm ưu thế trong chính phủ liên minh – trên thực tế là bán đứng phe được Việt Nam bảo trợ vốn đang là thế lực thống trị ở Campuchia trong thời gian đó. Một trong những mục tiêu của việc tiết lộ cuộc đàm phán được cho là bí mật này là nhằm xây dựng một h́nh ảnh Việt Nam tráo trở và không đáng tin cậy với đồng minh, đồng thời gây chia rẽ trong giới lănh đạo Việt Nam. Trong vấn đề này Trung Quốc đă thành công: trong một cuộc họp Bộ Chính trị giữa tháng 5 năm 1991, Phạm Văn Đồng bày tỏ ân hận v́ bị đẩy vào ủng hộ một chính sách không khôn ngoan. Thủ tướng Đỗ Mười cũng lấy làm tiếc về kết quả, với lư do nó sẽ khiến Việt Nam trở thành người bạn không đáng tin cậy trong con mắt các đối tác. Nguyễn Cơ Thạch cũng nói với TBT Linh rằng ông đă mắc một sai lầm nghiêm trọng.

 

Vào ngày Quốc khánh mùng 2 tháng 9 năm 1990, một ngày trước khi diễn ra hội nghị bí mật giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Thành Đô, bài phát biểu của Thủ tướng Đỗ Mười nhân dịp này đă ghi nhận lời kêu gọi của Lư Bằng rằng “hai nước láng giềng” (không phải “hai bên đồng chí”) cần khôi phục quan hệ b́nh thường và t́m một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Ông Mười nhắc lại sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Quốc cho Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh vũ trang, và nói rằng “Trong công cuộc đổi mới của đất nước ngày nay, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế có ư nghĩa rất quan trọng.”

 

Một ư nghĩa của điều này là Việt Nam có dấu hiệu đang chuyển từ những bước đi địa chính trị trên bàn cờ toàn cầu sang phát triển kinh tế – trong quá tŕnh đó việc b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ có lợi, nhưng không sống c̣n như trong lĩnh vực chiến lược. Trước đó trong bài phát biểu của ḿnh, Đỗ Mười nói, “T́nh h́nh quốc tế đang diễn biến hết sức phức tạp. Khủng hoảng ở các nước xă hội chủ nghĩa Đông Âu rất nghiêm trọng, không phải là không có tác động đáng kể đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội ở nước ta. Các thế lực thù địch đang tiến hành nhiều hoạt động chống phá sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.”

 

Như một chỉ dấu nữa cho thấy quan điểm của giới lănh đạo Việt Nam về bản chất của quan hệ quốc tế đang thay đổi, Đỗ Mười vạch ra những đường nét rộng lớn của hiện tượng sau này được gọi là “toàn cầu hóa.” “Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đang cho người dân thế giới nhiều cơ hội lớn để phát triển.” Thừa nhận rằng “đă có nhiều sai lầm” trong chính sách kinh tế “trong nhiều năm,” ông Mười nói rằng “Hiện nay chúng ta phải đối mặt với thực tế là mức sống và tŕnh độ phát triển của nhân dân ta đang quá thấp. Đây là t́nh h́nh bức bách và thách thức lớn đối với nhân dân ta.”

 

Động lực cho sự nhượng bộ ở Thành Đô nhằm b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc vừa là chính sách thực dụng (bù đắp cho sự thiếu hụt hỗ trợ từ Liên Xô và thừa nhận thực tế là vị thế chiến lược của Trung Quốc đă cải thiện) vừa mang tính ư thức hệ (duy tŕ và tăng cường số lượng giảm sút của các nước cộng sản ṇng cốt). Bài phát biểu tháng 9 năm 1990 của Đỗ Mười, một bản chi tiết hơn của bài phát biểu tháng 12 năm 1989, cũng cho thấy Việt Nam đă cố gắng suy tính những tác động của quan hệ quốc tế trong kỷ nguyên mới, trong đó cả chính sách (địa chính trị) thực dụng và các yếu tố ư thức hệ đều không mang tính quyết định trong việc giải quyết vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam, đó là sự lạc hậu về kinh tế. Ở thời điểm đó, giải thoát khỏi gánh nặng Campuchia và t́m cách thỏa hiệp với Trung Quốc để Việt Nam có thể tập trung phát triển là điều cần thiết.

 

Mặc dù phái đoàn Việt Nam ở Thành Đô đă đưa ra sự nhượng bộ lớn là chấp thuận đề xuất của Trung Quốc vốn có thể làm nghiêng cán cân sang hướng có lợi cho các đối thủ của Hun Sen, nhưng Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc pḥng Lê Đức Anh đă bay tới Phnom Penh và cố gắng thuyết phục Hun Sen đồng ư hợp tác với các lực lượng Pol Pot, do bức tranh toàn cảnh là các nước đế quốc đang cố gắng tiêu diệt chủ nghĩa xă hội, và Campuchia có thể tự cứu ḿnh bằng cách đạt được ḥa giải giữa phe cộng sản của Hun Sen và phe Khmer Đỏ. Nguyễn Văn Linh nói với lănh đạo Campuchia, “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc.” Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rơ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải t́m đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.” “Giải pháp đỏ” vẫn c̣n trong tâm trí hai nhà lănh đạo đảng và quân đội này của Việt Nam, nhưng khi không có sự ủng hộ của Trung Quốc, giải pháp này đành chịu thất bại.

 

“Giải pháp đỏ” cũng làm đồng minh Campuchia của Việt Nam trở nên xa lánh. Đại sứ Việt Nam thông báo rằng sau cuộc họp này thái độ của Hun Sen đối với Việt Nam đă thay đổi – điều này cuối cùng dẫn đến cảnh Đại sứ Ngô Điền “đơn độc” buộc phải chứng kiến sự tan ră của Đảng Cộng sản Campuchia. Kết cục là Việt Nam không c̣n nước cộng sản nào bảo trợ cho ḿnh, và cũng không c̣n nước cộng sản nào để ḿnh bảo trợ nữa. Trần Quang Cơ có lẽ đă không đơn độc khi kết luận rằng hội nghị Thành Đô là “vết nhơ về ngoại giao của Việt Nam.” Việt Nam đă không chỉ bộc lộ mong muốn theo đuổi một chính sách lạc hậu dựa trên sự đoàn kết ư thức hệ với Trung Quốc, mà sự tiết lộ ranh mănh của Trung Quốc về thất bại của Việt Nam trong việc đạt được một “giải pháp đỏ” và sự phản bội người đồng minh của ḿnh đă làm suy yếu nỗ lực đa dạng hóa chính sách và mở rộng không gian đối ngoại của Việt Nam. Lập trường của Trung Quốc đă biến việc đa dạng hóa chính sách đối ngoại trở thành con đường ngoại giao khả thi duy nhất thay thế cho sự phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc.

 

Ngay cả cuốn hồi kư thẳng thắn của Trần Quang Cơ về hội nghị Thành Đô giữa các nhà lănh đạo Việt Nam và Trung Quốc cũng không đề cập đến một đề xuất đi xa hơn vấn đề Campuchia của Trung Quốc. Một tờ báo Anh dẫn nguồn t́nh báo phương Tây cho rằng Trung Quốc đă đề nghị cung cấp cho Việt Nam các loại hàng hóa cơ bản mà nay Liên Xô không c̣n có thể cung cấp, và trả lại một phần đáng kể quần đảo Trường Sa (khu vực có trữ lượng dầu lửa tiềm năng). “Để đổi lại, Trung Quốc đề nghị Hà Nội ‘điều phối’ – nói cách khác là điều chỉnh theo hướng lệ thuộc – chính sách đối ngoại của Việt Nam theo chính sách của Bắc Kinh. “Hà Nội đă tiến rất gần [đến việc chấp nhận],” theo một nguồn t́nh báo ở Bangkok. “Và đó là điều thực sự làm tôi ngạc nhiên, chứ không phải là lời từ chối cuối cùng của họ. Củ cà rốt giơ ra trước mặt Hà Nội là rất lớn, và họ đă phải suy đi nghĩ lại trước khi khước từ toàn bộ. Nó cho thấy Việt Nam đă tuyệt vọng đến mức nào.” Trên thực tế, vị thế chiến lược xấu đi của Việt Nam đă nhanh chóng buộc nước này phải miễn cưỡng chấp nhận vai tṛ cửa dưới mà Trung Quốc đề nghị – ngay cả khi không c̣n những củ cà rốt.

 

David W. P. Elliott là giáo sư ngành quản trị và quan hệ quốc tế tại Pomona College. Tựa đề bài viết do Nghiencuuquocte.net tự đặt.

 

Nội t́nh cuộc gặp lănh đạo Trung – Việt tại Thành Đô

 

Tác giả: Lư Gia Trung[1] | Biên dịch: Nguyên Hải

 

Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Vơ Văn Kiệt chính thức thăm Trung Quốc, lănh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện b́nh thường hóa mối quan hệ Trung –Việt, từ đó kết thúc trạng thái đối lập trong mối quan hệ giữa hai nước kéo dài tới 13 năm. Cần nói rằng để đạt được mục tiêu ấy, cả hai bên đều đă có những cố gắng lớn, trong đó cuộc gặp Thành Đô tháng 9-1990 giữa người lănh đạo hai nước có ư nghĩa lịch sử quan trọng. Nó đánh dấu điểm ngoặt trong mối quan hệ Trung-Việt, không những san bằng con đường b́nh thường hóa mối quan hệ này mà c̣n có ảnh hưởng sâu sắc lâu dài tới sự tiếp tục phát triển mối quan hệ hai nước.

 

Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung -Việt xuất hiện tia sáng ban mai

 

Năm 1975 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lănh đạo Việt Nam hồi đó đă không kịp thời hàn gắn các vết thương do chiến tranh mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối nội cưỡng chế thi hành cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông Dương”. Dưới sự dẫn dắt của đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai chống Trung Quốc, một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ trang Campuchia. Những việc làm của họ đă đưa nền kinh tế Việt Nam tiến gần tới miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.

 

Tháng 7-1986, Tổng Bí thư ĐCSVN Lê Duẩn ốm chết. Tháng 12 cùng năm, tại Đại hội VI ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng. Trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ những năm 60, Nguyễn Văn Linh là thành viên ban lănh đạo Trung ương Cục Miền Nam ĐCSVN, từng nhiều lần bí mật thăm Trung Quốc, có thái độ thành khẩn hữu hảo đối với Trung Quốc, rất được Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đánh giá cao, cho rằng ông là người lănh đạo kế tục rất có hy vọng của Việt Nam. Nhưng sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành chính sách đối nội đối ngoại sai lầm của người lănh đạo đương thời, v́ thế ông từng mấy lần bị gạt bỏ. Sau khi lên làm Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh khẩn trương uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu Việt Nam cần phải “làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng lúc đó Việt Nam có hai nhiệm vụ khẩn thiết nhất là rút quân khỏi Campuchia và cải thiện quan hệ với Trung Quốc.

 

Thế nhưng Bộ Ngoại giao do Nguyễn Cơ Thạch, – một thân tín của Tổng Bí thư tiền nhiệm, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nắm giữ – vẫn tiếp tục hành sự theo tư duy của Lê Duẩn, t́m đủ mọi cách can nhiễu và ngăn cản sự bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Là người lănh đạo mới lên nắm quyền, Nguyễn Văn Linh chưa có cơ sở vững chắc trong tầng lớp quyết sách ở trung ương; một số ư tưởng của ông cũng chưa được nhiều người lănh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong t́nh h́nh đó, làm thế nào mới có thể thực hiện được mục tiêu nói trên là một vấn đề hóc búa và đau đầu nhưng lại tất phải giải quyết.

 

Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc ba lần xin gặp Đặng Tiểu B́nh thổ lộ điều bí mật

 

Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng pḥng Đông Dương, Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón. Theo kế hoạch đón tiếp được Trung ương duyệt th́ Thủ tướng Lư Bằng sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc chiêu đăi loại thường (nguyên văn tiện yến). Nhưng phía Lào tha thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu B́nh có thể hội kiến Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ư Đặng Tiểu B́nh tuổi đă cao, không thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn Phôm-vi-hản vẫn kiên tŕ yêu cầu gặp Đặng Tiểu B́nh, tôi nhớ là họ trước sau ba lần đề ra vấn đề này. Trong t́nh h́nh đó, qua nhiều lần nghiên cứu, bàn bạc, cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu B́nh gặp ngắn gọn có tính nghi lễ. V́ vậy Bộ Ngoại giao cũng không chuẩn bị đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo khi tṛ chuyện.

 

Không ngờ hai vị lănh đạo nói chuyện lâu tới 40 phút, hơn nữa đều nói về những vấn đề có tính thực chất rất quan trọng. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không b́nh thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn b́nh thường hóa quan hệ hai nước. Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản c̣n chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu B́nh, nói Việt Nam đă có nhận thức mới đối với t́nh h́nh Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, c̣n nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.

 

Đặng Tiểu B́nh cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói:

 

Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lư trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đă già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam  khôi phục b́nh thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ.

 

Đặng Tiểu B́nh đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Ông nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ư kiến đó tới Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu B́nh c̣n nói một câu ư vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đă mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện b́nh thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch.

 

Nguyễn Văn Linh tiếp Đại sứ Trung Quốc để tỏ ư hữu hảo

 

Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đă kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu B́nh. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào th́ phải bàn với Trung Quốc. Ông c̣n ư thức được rằng Đặng Tiểu B́nh tuy đă gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời ḿnh thăm Trung Quốc. Trong t́nh h́nh đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết.

 

Ngày 5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đă hội kiến Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lănh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh, Giang Trạch Dân, Lư Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đă gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu B́nh v.v… Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu B́nh là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học tṛ của họ. Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít. Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đă viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc th́ Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ.

 

Nguyễn Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đă xuất hiện t́nh h́nh khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đă làm một số việc không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai th́ phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đă qua rồi th́ để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này.

 

Nguyễn Văn Linh nói t́nh h́nh quốc tế đang thay đổi mạnh, t́nh thế ở Đông Âu diễn biến rất phức tạp, t́nh thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến ḥa b́nh, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xă hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành tŕ của ḥa b́nh thế giới, nhưng hiện nay thành tŕ này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong t́nh h́nh hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực ḷng của ông.

 

Nguyễn Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách ḥa b́nh, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary ḥa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay. Ư tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế.

 

Nguyễn Văn Linh tỏ ư ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lănh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ư kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lănh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau th́ dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh c̣n nói, ông đă nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với người lănh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.

 

Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ư là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói ǵ, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] c̣n có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.

 

Sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị ǵ. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hăy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà lănh đạo hai nước. Trong t́nh h́nh đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện cuộc gặp với lănh đạo Trung Quốc là vấn đề đ̣i hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung.

 

Một nhân vật bí ẩn xuất hiện ở Sứ quán cho xem mật thư

 

Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xă hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đă tiếp ông này tại pḥng khách Sứ quán. V́ Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. V́ vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.

 

Nói đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đă được Tổng Bí thư soát lại không có ǵ sai. Trong đó có đoạn nói :

 

“Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu B́nh và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm c̣n sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam b́nh thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ tŕ Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.”

 

“Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy căi nhau măi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lănh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục t́nh hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy th́ đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.”

 

“Để việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.”

 

“Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ư kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu B́nh, Lư Bằng, cũng là để các đồng chí lănh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rơ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn t́m ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.”

 

“Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng t́nh hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”

 

Đỗ Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng.

 

Hoàng giải thích, ông hiểu ư của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế tắc, tiến tŕnh Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi ṿng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lănh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp hành.

 

Tiễn đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ư kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của ḿnh hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rơ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đ̣i phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp cuộc gặp người lănh đạo hai nước. Trong t́nh h́nh này, nếu lặp lại ư kiến của bên nhà th́ coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ư kiến bên nhà th́ liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng?

 

V́ việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rơ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện t́nh h́nh mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi ṿng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lănh đạo nước ta; v́ vậy Đại Sứ quán nên căn cứ t́nh h́nh mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ.

 

Đại sứ Trương thi hành diệu kế đến thăm Bộ Quốc pḥng

 

Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương t́m cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện t́m hiểu ư đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả ǵ lập tức báo cáo trong nước. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rơ mức độ khó khăn của công việc này.

 

8 giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi người đều rơ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh truyền h́nh đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các buổi chiêu đăi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong t́nh h́nh như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào t́m gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết.

 

Trong t́nh h́nh t́m không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc pḥng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh c̣n nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc pḥng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.

 

Quả nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui ḷng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc pḥng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ư bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ư kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ư sẽ lập tức làm ngay việc này.

 

Chiều hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc pḥng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ c̣n nói việc này chỉ có ông và Trưởng pḥng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam biết, những người khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ Trương.

 

Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đă ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đă gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào pḥng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu năo đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân d́u đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere[2] của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, v́ thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lư, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm b́nh phục.” Nói đoạn, ông thân chinh d́u Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi pḥng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc pḥng Việt Nam.

 

Nguyễn Văn Linh bí mật gặp Đại sứ Trương

 

Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đă nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có ǵ sai cả. Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc. Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, v́ không đồng ư với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”. Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại v́ ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ư với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ c̣n th́ nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế. Nguyễn Văn Linh c̣n nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quư giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có t́nh có lư.

 

Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong t́nh h́nh quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển t́nh đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rơ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc b́nh thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn ḷng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.

 

Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rơ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ư đồ gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. V́ vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh c̣n nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc th́ đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ư định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Vơ Chí Công, trực diện chuyển ư kiến của người lănh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn.

 

Đại sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đă tiếp và tỏ ư sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.

 

Gặp gỡ bí mật Thành Đô

 

Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đă chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện b́nh thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, v́ để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên.

 

Lănh đạo hai nước tại Thành Đô

Lănh đạo hai nước tại Thành Đô

Đại sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu t́m cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đă có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đă có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc pḥng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh.

 

Một tiếng đồng hồ sau, Trưởng pḥng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lănh đạo Việt Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ư của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên.

 

Qua sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Pḥng khách Trung ương ĐCSVN. Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ư kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ. Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ư với thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Linh c̣n nói, nếu t́nh h́nh sức khỏe cho phép th́ đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết t́nh h́nh cuộc gặp chiều nay.

 

Ngày 30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch tŕnh đại thể của lần gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lănh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đăi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ư, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm.

 

Sáng ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh. Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi c̣n có Chánh Văn pḥng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), c̣n lại là các nhân viên công tác. Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay th́ thấy một xe con kiểu b́nh thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nh́n, v́ xe không treo màn cửa nên có thể thấy rơ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh.

 

Sau khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lănh đạo hai nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ b́nh thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh tỏ ư có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng th́ nói phương án của phía Trung Quốc đă không công bằng lại cũng không hợp lư. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ư dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh.

 

Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nh́n về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lănh đạo hai nước đều đồng ư dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lănh đạo hai nước đă kư kết “Biên bản Hội đàm”. Tổng Bí thư Giang Trạch Dân c̣n ư vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em c̣n đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải t́nh nghị hựu trùng kiến.”[3]

 

Để bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn pḥng Đối ngoại đă làm rất nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đă phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.

 

16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc –Việt Nam

 

Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lănh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện b́nh thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam.

 

Tháng 2-1999 lănh đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”.

 

Tháng 7 và tháng 11 năm 2005, lănh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước măi măi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng đường mới.

 

Nguồn: Tạp chí Trung Quốc 《党史纵横》(Đảng sử tung hoành)[4] bản điện tử ngày 26-8-2014. Một bản của bài viết có đăng trên mạng China.com.

 

—————

 

[1] Tác giả bài viết này có lẽ là Lư Gia Trung, từng 4 lần làm việc ở Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, lần cuối cùng làm Đại sứ. Lư học tiếng Pháp tại Trung Quốc, tiếng Việt tại ĐH Tổng hợp Hà Nội, là tác giả sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời huyền thoại xuất bản năm 2011 ở Trung Quốc (ND).

 

[2] Bệnh Meniere là một rối loạn ở tai trong, gây ra chóng mặt và ù tai (ND).

 

[3] Chúng tôi đoán ông Nguyễn Văn Linh viết 4 câu này bằng tiếng Việt, đây chỉ là lời dịch của phía Trung Quốc “兄弟之交数代传,怨恨顷刻化云烟,再相逢时笑颜开,千载情谊又重建. Dịch ngược lại tất nhiên không đúng với nguyên văn tiếng Việt. Tạm dịch ư: T́nh anh em truyền bao đời, trong khoảnh khắc mọi oán hận tan thành mây khói, khi gặp nhau nở nụ cười, xây đắp lại t́nh hữu nghị muôn đời (ND).

 

[4] Tạp chí “Đảng sử tung hoành” ra đời năm 1988, do Pḥng Nghiên cứu lịch sử đảng của Tỉnh ủy Liêu Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Liêu Ninh, Cục Lăo cán bộ Tỉnh ủy Liêu Ninh phụ trách; tạp chí ra hàng tháng, có tính chất tổng hợp và thông tục, được phát hành công khai cho bạn đọc trong và ngoài Trung Quốc. (ND)

Quan hệ Việt-Trung qua con mắt một học giả Trung Quốc

 

Nguồn: Xie Tao, “China and Vietnam: Thoughts From a Chinese Sojourner in Ho Chi Minh City,” The Diplomat, 02/03/2017.

 

Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng

 

Đầu tháng 2 năm nay, tôi có chuyến thăm thứ hai đến Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Khác với chuyến thăm lần đầu cách đây bốn năm, lần này tôi quyết định dành phần lớn thời gian trong năm ngày ở đây để khám phá các bảo tàng trong thành phố. Ở Việt Nam lúc này là mùa khô, và các bảo tàng sẽ cung cấp một nơi trú ẩn dễ chịu trước cái nóng hầm hập trên đường phố. Vả lại, con trai tôi mới bốn tuổi trong chuyến thăm đầu, và tôi nghĩ lớn thêm bốn năm là đủ cho nó học được chút ǵ đó từ các bảo tàng về lịch sử và văn hóa của một đất nước mà nó đă đến thăm hai lần.

 

Quan trọng hơn, là một nhà khoa học chính trị, tôi hy vọng chúng sẽ giúp tôi t́m hiểu xem Việt Nam nh́n nhận như thế nào về mối quan hệ với Trung Quốc. Với vai tṛ hết sức quan trọng của các bảo tàng – cũng như bản đồ và các cuộc điều tra dân số – trong quá tŕnh h́nh thành bản sắc quốc gia, như Benedict Anderson đă thảo luận sâu rộng trong cuốn sách được đánh giá cao The Imagined Communities của ông, tôi chắc chắn câu chuyện của chính phủ Việt Nam về mối quan hệ song phương sẽ khác câu chuyện của chính phủ Trung Quốc, nhưng tôi không biết chính xác th́ khác như thế nào.

 

Sáng ngày thứ hai, tôi đến Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh. Tôi đă nghe những người từng đến thăm bảo tàng nói đây là nơi dành riêng cho cuộc chiến giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tôi cũng biết rằng Trung Quốc đă cung cấp một lượng lớn viện trợ cho Việt Nam trong cuộc chiến, mặc dù Bắc Kinh chưa bao giờ tiết lộ con số chính xác. Một nguồn tin của Trung Quốc ước tính con số này rơi vào khoảng 20 tỷ USD (tính theo cơ sở giá trong những năm 1970). Hơn nữa, Bắc Kinh cũng gửi 300.000 nhân viên quân sự qua biên giới trong giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1968, theo một nguồn tin khác. Bởi vậy mà trước khi đến bảo tàng, tôi đă nghĩ sẽ có ít nhất một hai hiện vật để ghi nhận sự giúp đỡ hào phóng mà Trung Quốc dành cho Việt Nam.

 

Tầng trệt của bảo tàng là một bộ sưu tập ảnh và áp phích. Các bức ảnh cho thấy các cuộc tập hợp, diễu hành, biểu t́nh phản đối chiến tranh trên khắp thế giới (và cả ở Mỹ), trong khi các tấm áp phích dùng từ ngữ và h́nh ảnh để truyền tải sự ủng hộ của quốc tế dành cho Việt Nam và phản đối Hoa Kỳ. Đến cuối bộ sưu tập tôi gặp ba bức ảnh. Bức thứ nhất chụp cảnh Mao Trạch Đông bắt tay với Hồ Chí Minh. Bức thứ hai chụp hai quả khinh khí cầu treo hai dải băng rôn dài – một ghi “Mao chủ tịch muôn năm” và một ghi “Hồ chủ tịch muôn năm” – trên quảng trường Thiên An Môn đông đúc ở Bắc Kinh. Bức thứ ba chụp cảnh Mao đón tiếp một phái đoàn Việt Nam. Hóa ra chỉ có ba bức ảnh này trong bảo tàng cao ba tầng gợi ư sự thừa nhận và biết ơn của Việt Nam đối với sự trợ giúp của Trung Quốc trong Chiến tranh Việt Nam.

 

Chiều ngày thứ tư, tôi đến thăm Bảo tàng Lịch sử. Sau khi nhanh chóng đi qua hai gian trưng bày đầu tiên, có các hiện vật và trang phục truyền thống, tôi đến lối vào gian trưng bày thứ ba. Ở đầu lối vào là một tấm bảng ghi “Bắc thuộc – Đấu tranh giành độc lập.” Gian trưng bày thứ ba này có khoảng hai chục tấm áp phích và bản đồ phục dựng. Tôi đặc biệt thấy cuốn hút trước một tấm áp phích, ghi (nguyên văn) như sau:

 

Sau khi An Dương Vương thất bại trong cuộc kháng chiến chống Triệu Đà (179 TCN), Việt Nam bị các triều đại phong kiến Trung Quốc cai trị, bóc lột, và đồng hóa. Trong hơn 1.000 năm, người Việt Nam đă cố gắng hết sức để ǵn giữ văn hóa truyền thống, ngôn ngữ dân tộc, tiếp nhận và Việt hóa các yếu tố văn hóa Hán; đồng thời tổ chức hơn 100 cuộc nổi dậy chống lại những kẻ xâm lăng để giành chủ quyền với cuộc nổi dậy đầu tiên là của Hai Bà Trưng (40–43 CN). Năm 938, Ngô Quyền đánh đuổi hoàn toàn quân Trung Quốc xâm lược trên sông Bạch Đằng lịch sử, bắt đầu kỷ nguyên tự do và độc lập cho người Việt Nam.

 

Sau tấm áp phích là một chuỗi các bản đồ phục dựng, thể hiện không chỉ các tuyến đường của “quân Trung Quốc xâm lược” liên tiếp, mà c̣n cả vị trí của các cuộc kháng chiến. Một tấm bản đồ mô tả “các cuộc nổi dậy tiêu biểu chống quân xâm lược phương Bắc (thế kỷ 1–10).” Một tấm thể hiện “chiến thắng của quân đội Đại Việt trước quân Tống xâm lược (1076–1077).” Tấm bản đồ thứ ba cho thấy “cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418–1427).” Đến khi bước ra khỏi lối vào, tôi đă có một cái nh́n rơ ràng về cách mà Trung Quốc từng – và có lẽ là vẫn – được nh́n nhận bởi người láng giềng phương Nam.

 

Đến tối về lại pḥng khách sạn, tôi cố gắng lư giải những ǵ ḿnh đă thấy trong Bảo tàng Lịch sử. T́nh cờ tôi có mang theo một cuốn sách du lịch của Lonely Planet năm 2014 về Việt Nam, nên tôi bắt đầu đọc phần giới thiệu ngắn gọn về lịch sử đất nước. Rồi tôi thấy một mục có tiêu đề “China Bites Back” (Trung Quốc nổi giận), viết như sau:

 

Trung Quốc một lần nữa nắm quyền kiểm soát ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 15, đem văn khố quốc gia và một số trí thức của đất nước về Nam Kinh [kinh đô nhà Minh] – một tổn thất có tác động lâu dài lên nền văn minh Việt Nam. Sưu cao thuế nặng và lao động khổ sai cũng là điển h́nh của thời kỳ này. Nhà thơ Nguyễn Trăi (1380–1442) viết về giai đoạn này: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội. Nhơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.”

 

Thành thật mà nói, tôi đă không hề chuẩn bị tinh thần để đón nhận một đoạn thơ như thế. Quả thật, với tôi, nó nghe cũng giống như một đoạn thơ lên án quân Nhật Bản xâm lược Trung Quốc nếu tác giả không được nêu tên. Tôi thực sự choáng váng trước mức độ oán hận trong hai ḍng thơ này. Chắc chắn là tôi nhận thức được rất rơ rằng hai đất nước đă trải qua một mối quan hệ nhiều rắc rối kể từ cuối những năm 1970: một cuộc đụng độ biên giới năm 1979, các cuộc đụng độ trên biển vào cuối những năm 1980, và căng thẳng trên các đảo tranh chấp ở Biển Đông kể từ năm 2010. Nhưng tôi không biết sự thù địch của Việt Nam với Trung Quốc lại sâu đậm và mạnh mẽ như thế. Như một “bách niên quốc sỉ” đă trở thành một phần không thể tách rời trong kư ức tập thể của người Trung Quốc, “ngàn năm Bắc thuộc” cũng phát triển thành một thành tố cốt lơi trong bản sắc dân tộc của người Việt Nam, bất kể kư ức của người Trung Quốc thay đổi như thế nào, hay bản sắc Việt Nam là do tự phát triển hay được h́nh thành một cách nhân tạo.

 

Bỏ cuốn Lonely Planet xuống, tôi cố gắng lư giải mối quan hệ Việt-Trung. Bỗng nhiên tôi nhớ ra một đoạn trích thường được [một số học giả phương Tây] cho là của Hồ Chí Minh, vị cha già của Việt Nam hiện đại. Ông Hồ được cho là đă nói như sau vào năm 1946, ít lâu sau khi ông đồng ư cho phép quân đội Pháp trở lại Việt Nam:

 

Các anh thật thiển cận! Các anh không nhận ra Trung Quốc ở lại nghĩa là thế nào sao? Các anh không nhớ lịch sử của ḿnh sao? Lần cuối đến đây, họ đă ở lại một ngàn năm. Pháp là người ngoài. Họ yếu. Chủ nghĩa thực dân sắp chết. Người da trắng đă tận số ở châu Á. Nhưng nếu ở lại bây giờ th́ người Trung Quốc sẽ không bao giờ rời đi. C̣n tôi, tôi thà ngửi cứt Pháp trong năm năm tới c̣n hơn ăn cứt Tàu cả cuộc đời.

 

Sự tha thứ nhanh chóng của Hồ Chí Minh đối với thực dân Pháp góp phần giải thích thái độ rộng lượng dễ thấy của người Việt đối với người Mỹ. Một vật trưng bày trong Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh nói rằng 3 triệu người Việt (trong đó có 2 triệu dân thường) đă bị giết, 2 triệu người bị thương, cộng thêm 300.000 người mất tích trong cuộc chiến chống Mỹ. Bên cạnh tổn thất kinh hoàng về người c̣n có tổn hại to lớn mà chất độc da cam gây ra cho cả môi trường địa phương và người dân sống ở đó. Rất có thể những hành động ô nhục và tội ác mà người Mỹ gây ra trong khoảng mười năm c̣n tồi tệ hơn nhiều so với những ǵ mà Trung Quốc đă gây ra (cho Việt Nam) trong hơn một ngàn năm. Vậy mà người Việt Nam vẫn có vẻ nhanh chóng vượt qua được sự tàn ác của Mỹ.

 

Quá khứ có thể cho chúng ta biết ǵ về tương lai của mối quan hệ Việt-Trung? Một bài học có vẻ đúng: Các lực lượng ly tâm của chủ nghĩa dân tộc mạnh hơn rất nhiều so với các lực lượng hướng tâm của chủ nghĩa cộng sản. Cũng như Mao cuối cùng đă cắt đứt với Stalin, cuối cùng Hồ Chí Minh cũng quay lưng lại với Mao. Cào vỏ bọc một người cộng sản, rồi ta sẽ thấy không sâu bên dưới lớp da là một nhà dân tộc chủ nghĩa. Chừng nào những kư ức về “ngàn năm Bắc thuộc” c̣n tươi mới trong ư thức tập thể của người Việt, hứa hẹn của Bắc Kinh về sự trỗi dậy ḥa b́nh sẽ c̣n không đáng tin, và những căng thẳng tiếp diễn ở Biển Đông chỉ khiến hứa hẹn đó thêm phần đáng ngờ. Hà Nội sẽ tiếp tục t́m kiếm sự ủng hộ từ những bên thứ ba để chuẩn bị nghênh đón sự trỗi dậy không ḥa b́nh của Trung Quốc.

 

Với những suy nghĩ này, tôi chuẩn bị cho điểm dừng tiếp theo: Yangon, Myanmar.

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge ֎ Mười điều răn ֎ Ten Commandements

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎ Foreign Trade

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days ֎ USA Census

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: