MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa
֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution
֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008
֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009
֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009
֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009
֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010
֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010
֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010
֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011
֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011
֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011
֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012
֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014
֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015
֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016
֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016
֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016
֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017
֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017
֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017
֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018
֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018
֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvVeteranvGateway
vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại
vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền
vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn
vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng
vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vSoHavViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười Dân
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG
vEchovSài G̣nvLuật KhoavCafevn
vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm
NGUYỄN PHÚ ĐỨC, NGUYỄN XUÂN PHONG VÀ
NGUYỄN TIẾN HƯNG VIẾT VỀ CÁI CHẾT CỦA ĐỆ NHỊ CỘNG HOÀ
Lâm Lễ Trinh
“We betrayed you”
(W.Westmoreland)
Từ ba thập niên nay,
không đợi đến ngày 30 tháng tư trở lại mới có thêm tài liệu giải mật
được phổ biến từ ba phiá Mỹ, Côïng sản và Quốc gia liên hệ đến giai
đọan hấp hối của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu kết thúc bằng cuộc tháo
chạy của Hoa kỳ năm 1975.
Người viết cũng có
dịp đọc qua và so sánh các dữ kiện tŕnh bày trong năm quyển hồi kư
của ba nhân chứng c̣n sống: Pourquoi les Eùtats-Unis ont-ils perdu
la guerre ? (nxb Godefroy De Bouillon, Paris 1996) và The VN Peace
Negotiations, Saigon’s Side of the Story (nxb Arthur J Dommen,VA,
2005) của Nguyễn Phú Đức; Hope and Vanquished Reality (nxb Xlibris
Corp., NY, 2001) của Nguyễn Xuân Phong; Hồ sơ Mật Dinh Độc lập (viết
chung với Jerrold Schecter, nxb The C & K Promotions Inc., LA ,
1986) và Khi Đồng minh tháo chạy (nxb Hưá Chấn Minh, 2005) của
Nguyễn Tiến Hưng. Gs Đức hiện đă về hưu sau khi dạy luật năm 1975
taị ESSEC, École Supérieure des Sciences Économiques et
Commerciales, Paris, c̣n hai ông Phong và Hưng th́ định cư ở Hoa kỳ,
người đầu là chuyên viên nghiên cứu ở Trung tâm VN Center, Lubbock,
Texas Tech University, và người sau dạy tại Đại học Howard,
Washington.
Phạm vi hạn hẹp của
bài này không cho phép đi sâu vào chi tiết diễn tiến của những cuộc
đàm phán mật và công khai của các phái đoàn tham nghị, đặc biệt giữa
Kissinger và đại diện Bắc Việt, kéo dài từ 25.3.1965 (là ngày Tổng
thống Lyndon Johnson tuyên bố sẳn sàng nói chuyện hoà b́nh với CS )
cho đến 27.1.1973 là ngày kư Hiệp định Paris. Người viết sẽ phân
tích vai tṛ thật sự của ba tác giả nêu trên, các đặc điểm trong
những hồi ức của họ và bối cảnh hỗn loạn ở Miền Nam VN vào tháng tư
1975.
Chính sách tóm thu
quyền bính và bố trí nhân sự của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Từ ngày đảo chính
1.11.1963 lật đổ Đệ nhứt Cọng hoà cho đến 1967 là năm ban hành Hiến
pháp Đệ nhị Cọng hoà, Chính phủ Quân nhân cai trị thiếu căn bản pháp
lư nên Miền Nam VN biến lọan liên tiếp. Tháng 5.1967, Hoa kỳ thúc Ủy
ban Lănh đạo Quốc gia và Ủy ban Hành pháp Trung ương tổ chức bầu cử
hai ngành Hành pháp và Lập pháp. Mười liên danh tranh chức Tổng
thống và Phó Tổng thống. Liên danh Quân đội Thiệu-Kỳ đắc cử. Trong
ṿng hai năm, TT Thiệu củng cố địa vị, vô hiệu hoá Hội đồng Giám sát
của Tướng lănh, cắt lông cắt cánh Phó Tổng thống Kỳ và ngày
1.9.1969, thay thế con gà yểu số của Kỳ là Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc
bằng Nội các Trần Văn Hương do Thiệu kiểm soát hoàn toàn. Năm 1971,
Thiệu độc diễn và đắc cử dễ dàng nhiệm kỳ hai với “chính sách 4
không” : không liên hiệp, không hoà giải hoà hợp với CS, không
nhượng đất và không trung lập.
Qua trung gian hai
Pháp kiều Raymond Aubrac (bạn thân của Hồ Chí Minh) và Herbert
Marcovich (một khoa học gia), giáo sư Kissinger (K) tổ chức cho
Averell Harriman, đại diện Hoa kỳ, gặp ngày 10.5.1968 ngoại trưởng
Xuân Thủy, có Hà Văn Lâu dự kiến và Lê Đức Thọ cố vấn. Khi chính
thức trở nên Phụ tá an ninh cho Nixon, K nhờ Jean Sainteny, nguyên
đại diện cho Pháp taị Bắc Việt (1945-1947), sắp xếp cho y gặp riêng
ngày 4.8.1969 Xuân Thủy taị tư thất của Sainteny, đường Rivoli,
Paris. Năm 1971, cuộc thương thuyết công khai bắt đầu. Hoa Thịnh Đốn
ép Chính phủ Sàig̣n chấp nhận sự tham gia của Mặt trận Giải phóng
Miền Nam, (MTGPMN). Hoa đàm dẩm chân khá lâu v́ bốn phe nghị hội:
Mỹ, VNCH. Bắc Việt và MTGPMN tranh luận về thủ tục và kèn cựa mặc
cả. Bắc Việt áp dụng chiến thuật vưà đánh vừa đàm v́ biết người
khổng lồ Hoa kỳ với đôi chân đất sét thiếu kiên nhẩn và bị cánh phản
chiến trong nước khoá tay. Chiến cuộc trở nên khốc liệt với biến cố
Tết Mậu thân (1968). Ngày 2.3.1971, Việt cộng pháo kích Sàigon, Đà
nẳng, Biên Hoà và 115 chổ. Ngày 9.7.1971, để gây áp lực với Bắc
Việt, K qua Bắc kinh viếng Chu Ân Lai và chuẩn bị cuộc gặp mặt đầu
năm 1972 giữa Nixon và Mao Trạch Đông. CS tổng tấn công vào lễ Phục
sinh, lối năm tuần sau chuyến công du của Nixon taị Bắc kinh. Ngày
8.5.1972, Nixon ra lệnh gài ḿn Hải pḥng và dội bom Bắc Việt.
Để đối phó với t́nh
h́nh bên trong và bên ngoài, Tổng thống Thiệu cẩn thận sắp xếp một
Bộ tham mưu quân chính gồm những thành phần tin cẩn, dựa vào sự
trung thành cá nhân hay huyết thống gia đ́nh, bất chấp dư luận dèm
pha. Về quân sự, Tổng tư lệnh Quân đội N V Thiệu nắm hết quyền bính
trong tay, Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên chỉ đóng vai tṛ tuân
hành và thị chứng. Bộ Quốc pḥng là “hộp thơ” giữa Tổng thống và Bộ
Tổng tham mưu. Thiệu chọn trung tướng Đặng Văn Quang, cựu Tư lệnh
Quân đoàn 4, làm Phụ tá an ninh. Ông bổ nhiệm vào chức Tư lệnh vùng
hay sư đoàn trưởng Nguyễn Văn Toàn, Phạm Văn Phú, Ngô Dzu, Đổ Kiến
Nhiểu, Hoàng Đức Ninh.. Với một hệ thống máy truyền tin đặt taị Dinh
Độc lập, Tổng thống liên lạc thẳng với cấp chỉ huy Quân khu và theo
dơi sít sao việc điều động các đơn vị tác chiến hầu ngăn chận mọi
mưu toan đảo chánh. Nhiều thân nhân của ông Thiệu nắm giữ các cơ cấu
chính quyền như hai anh ruột là Nguyễn Văn Kiểu (đại sứ ở Đài loan)
và Nguyễn Văn Hiếu (đại sứ taị La mă); xui gia Nguyễn Tấn Trung (TGĐ
Air VN), Ngô Xuân Tích (chủ tịch Giám sát viện), Ngô Khắc Tỉnh (Tổng
trưởng,Thông tin rồi Giáo dục và Thanh niên), Ngô Khắc Tịnh (Tổng
trưởng Tư pháp), cháu Hoàng Đức Nhă (Bí thơ đăc biệt rồi Tổng ủy Dân
vận và Chiêu Hồi), em cột chèo Nguyễn Xuân Nguyên (bí thơ,), Nguyễn
Khắc B́nh (Tổng giám đốc Cảnh sát kiêm đặc ủy trưởng Trung ương t́nh
báo)..v..v..Là đảng viên Cần lao thời Đệ nhứt Cọng hoà và Đại Việt,
TT Thiệu trọng dụng một số nhân vật chế độ củ hay đảng phái trong
Thượng viện hoặc bộ máy chính trị như các ông Nguyễn Văn Hướng (tự
Mười Hướng), Nguyễn Văn Ngải, Trần Trung Dung, Trần Chánh Thành,
Trần Văn Lắm, Lê Văn Đồng, Phạm Như Phiên, Trần Hữu Phương.. (hai
ông Lắm và Thành có lúc được bổ nhiệm Tổng trưởng Ngoại giao). Tại
Quốc hội, các phe nhóm chống Chính phủ lần hồi bị vô hiệu hoá bằng
sự chia rẻ nội bộ, đàn áp, mua chuộc, không kể việc xâm nhập của
Cộng sản. Đa số thẩm phán Tối cao Pháp viện bị Phủ Đầu Rồng chi phối
nghiêm trọng.
V́ biết khả năng của
ḿnh giới hạn, ông Thiệu - theo Ngô Khắc Tỉnh nói với người viết –
chiụ khó hỏi ư kiến của nhiều chuyên viên, phân tíùch kín đáo và đúc
kết lại thành ư kiến riêng để lấy quyết định cuối cùng. Với bẩm tánh
đa nghi, kiên nhẩn chiụ đựng, và khi cần, chấp nhận khổ nhục kế,
ôâng Thiệu đă gở nhiều thế bí trong cuộc tranh quyền với Kỳ. Cuối
cùng, Kỳ bị loại v́ ba hoa hơn mưu lược. “Làm chính trị, phải ĺ “,
ông Thiệu nói.
Trong lúc đàm đạo
thân t́nh, người viết có dịp hỏi đại tướng Cao Văn Viên: “Nếu so
sánh hai ông Diệm và Thiệu th́ người nào độc tài hơn ?”. Suy nghĩ
một phút, tướng Viên đáp: “Ông Thiệu độc tài trong dân chủ ”, ngụ ư
TT Thiệu khôn ngoan che lấp độc tài dưới vơ ngoài dân chủ. Khác với
TT Diệm, ông chấp nhận sự chỉ trích khi cần thiết. Nhờ thế, ông
Thiệu tồn tại lâu hơn ông Diệm.
Dư luận thắc mắc v́
sao, từ 1972, Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên buông xuôi và Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm giữ thái độ bất động? Nghị sĩ Trần Văn Đôn
ghi như sau nơi trang 430-431 của hồi kư Việt Nam Nhân chứng (1989):
“..Ông Thiệu nghĩ rằng hai tướng Viên và Khiêm không có can đảm
phiêu lưu làm đảo chánh, nhất là không có lịnh của Mỹ…..Năm 1971, TT
Thiệu nhờ tôi nói với đại tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, về việc
ông này cứ ở măi trong văn pḥng, không chiụ đi ra ngoài. Ông Viên
trả lời: Tôi đă xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp thuận
nên tôi cứ ở văn pḥng làm việc mà thôi!”. Nơi trang 429, Đôn ghi
thêm: “ Tôi hỏi ông Thiệu: Nếu Tổng thống không bằng ḷng về hai ông
Viên và Khiêm th́ sao không đổi người khác để làm việc hữu hiệu hơn?
Ông Thiệu đáp: Hai người này của Mỹ, nếu tôi đổi hai người này th́
Mỹ sẽ phản đối, tôi sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc lănh đạo Miền
Nam. Cái khó khăn của tôi ai cũng nghĩ là đối đầu với Cộng sản. Thật
ra trở ngại và khó khăn cho tôi là Mỹ.”
Điều mà Ns Đôn quên
nêu ra là cả hai tướng Khiêm và Viên từng tuyên bố “không ham thích
chính trị.” TT Thiệu t́m đâu ra những nhân vật “lư tưởng hơn” để
tránh sự cạnh tranh về quyền lực ?
Nguyễn Phú Đức,
Nguyễn Xuân Phong và Nguyễn Tiến Hưng: Ba nhân chứng, ba giai đọan,
ba trách vụ.
Như đă ghi trên,
cuộc đàm phán tại Paris gồm có ba giai đọan liên tiếp: mật đàm (từ
25.3.1965 cho đến đầu 1968), đàm phán công khai (từ 1968 cho đến
27.1.1973 là ngày Hiệp ước hoà b́nh được kư tại Paris) và giai đọan
thi hành Hiệp ước, (từ 27.1.1973 cho đến 30.4.1975, kết thúc bằng sự
vi phạm của Bắc Việt) .
Chính phủ VNCH không
liên hệ đến giai đọan mật đàm. Năm 1965 và 1966, K qua Sàig̣n với tư
cách chuyên gia tư vấn của Thống đốc Nelson Rockefeller (Dân chủ)
t́m hiểu vấn đề VN. Y tiếp xúc với vài nhân vật đối lập như Trần Văn
Tuyên, Phan Huy Quát..và thẩm lượng (bi quan) khả năng lănh đạo của
các tướng trẻ Jeunes turcs. Năm 1968, Nixon đắc cử Tổng thống. K mau
lẹ xoay qua cố vấn chủ mới Cọng ḥa. K say mê ánh đèn sân khấu và
thích thú đi đêm với Hànội. Từ tháng 8.1969 cho đến cuối tháng giêng
1973, K gặp riêng Lê Đức Thọ, Cố vấn phái đoàn Bắc việt, lối 15 lần
ở Choisy- Le -Roi hay Gif -sur –Yvette (taị tư thất khoa học gia
Trần Thanh Vân, em cùa linh mục Trần Thanh Giản)
Khi đàm phán tiến
vào giai đọan công khai, TT Thiệu giao cho Ngoai trưởng Trần Chánh
Thành phụ trách. Trần Văn Lắm thay thế Thành sau cuộc hội kiến
Johnson-Thiệu ở Honululu ngày 18.7.1968. Tại Paris, đại sứ Phạm Đăng
Lâm hướng dẫn phái đoàn VNCH, gồm có Nguyễn Xuân Phong, (Phó trưởng
đoàn), Trần văn Ân, Trẩn Văn Đổ, Nguyễn Quốc Định, Nguyễn Đắc Khê,
Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Ngọc An, Nguyễn Thị Vui, và Nguyễn Triệu Đan
(phát ngôn viên). Cố vấn Kỳ và vợ gây nhiều tai tiếng taị Thủ đô Ánh
sáng. Tiến sĩ Nguyễn Phú Đức, phụ tá ngoại giao cho TT Thiệu, đóng
một vai tṛ kín đáo, khiêm nhường bên sau hậu trường c̣n Gs Nguyễn
Tiến Hưng th́ chưa tham chính lúc đó.
Hiệp định Paris được
thi hành ra sao?
Sau ngày 27.1.1973
kư xong Hiệp định Paris, Trần Văn Lắm trở về Thượng viện để giữ chức
Chủ tịch, nhường ghế Ngoại trưởng cho Phụ tá Nguyễn Phú Đức. Phó thủ
tướng Nguyễn Lưu Viên được chỉ định làm trưởng đoàn VNCH taị Hội
nghị La Celle Saint Cloud để chuẩn bị cuộc bầu cử tại Miền Nam VN
với chính phủ MTGPMN. Bs Viên, về sau, tiết lộ với người viết: “
Chúng tôi biết trước Hội nghị La Celle Saint Cloud không đi đến đâu,
chỉ có tác dụng câu giờ, mọi vấn đề sẽ giải quyết trên chiến
trường.” Hai ông Nguyễn Xuân Phong và Nguyễn Tiến Hưng tham gia Nội
các vắn số Nguyễn Bá Cẩn, thành lập ngày 14.4.1975, vào lúc Chính
Phủ Sàig̣n sập tiệm, người đầu trong chức Quốc vụ khanh đặc trách
Hoà đàm (thay thế đại sứ Phạm Đăng Lâm) và người sau, trong chức
Tổng trưởng Kế hoạch. Dưới danh xưng này, Hưng được TT Thiệu động
viên (tuyệt vọng) vào giờ thứ 25 sang Hoa kỳ van xin cứu viện. Nhiệm
vụ của bs Nguyễn Lưu Viên và Đs Nguyễn Xuân Phong chỉ có trên giấy
tờ v́ Bắc Việt từ chối nhóm họp và ào ạt xua quân thôn tính Miền
Nam. bất chấp các điều kư kết.
Vai tṛ đặc biệt của
hai cố vấn Huỳnh Văn Trọng và Hoàng Đức Nhă
Chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu từng gây xôn xao trong quần chúng bởi xử dụng một số nhân
vật tai tiếng như Nguyễn Cao Thăng, Vũ Ngọc Nhạ, Nguyễn Văn Ngân,
Huỳnh Văn Trọng, Hoàng Đức Nhă…Ba cố vấn của Thiêu bị điều tra, cách
chức hay đưa ra Toà: Trọng, Nhạ (t́nh báo CS) và Ngân (xây dựng uy
thế riêng). Bài này chỉ đề cập đến Trọng và Nhạ v́ cả hai liên hệ
đến hoà đàm Ba Lê.
A- HÙYNH VĂN TRỌNG.
Năm 1958, khi người
viết phụ trách Bộ Nội vụ thời Đệ nhứt Cọng hoà, Bernard Hùynh Văn
Trọng (Pháp tich và công giáo) bị Đoàn công tác đặc biệt Miền Trung
lùng bắt trong vụ mệnh danh Gián điệp Tây ở Nhà hàng Morin, Huế. Y
thoát được qua Nam Vang và tại đây, móc nối với Ca Văn Thỉnh, trưởng
đoàn đại diện thương mại CS Bắc Việt. Trọng có bằng cử nhân luật,
thông thạo Pháp - Anh ngữ, từng làm thẩm phán ở Huế và năm 1950 giử
chức Tổng thơ kư Chính phủ và Bộ trưởng Nội vụ trong Nội các Nguyễn
Phan Long. Sau chính biến 1963, D V Minh thả bưà bải tù nhân chính
trị. Trọng trở về Sàig̣n và tham gia cụm t́nh báo chiến lược A22 do
Vũ Ngọc Nhạ phụ trách. Để sinh sống, Trọng dạy tiếng Pháp cho nhân
viên ngoại giao Mỹ và nhờ cha Trần Ngọc Nhuận giới thiệu với TT
Thiệâu . Y được Thiệu tin dùng và bổ nhiệm phụ tá Tổng thống về
chính trị, ngoại giao. Đầu 1969, vợ Trọng đến Văn pḥng luật sư của
người viết, đường Hàn Thuyên, nhờ biện hộ trước Toà Nhà phố trong vụ
bị đuổi ra khỏi một khách sạn đường Lê Lợi Sàig̣n v́ thiếu tiền thuê
nhiều tháng. Trọng nói không dư dă tiền bạc tuy có chức vụ cao.
Tháng 11.1969, vụ án
Điệp báo Cố vấn TT Thiệu gây chấn động dư luận. Trọng nhờ tác giả
bài này bênh vực trước Toà án Quân sự vùng 3 Chiến thuật. Trọng tiết
lộ với người viết rằng y và cụm trưởng Vũ Ngọc Nhạ muốn giúp TT
Thiệu t́m ra với MTGPMN một giải pháp cho cuộc chiến, không ngờ CIA
theo dơi và phá vỡ mọi việc. Trọng c̣n cho biết năm 1968, để chuẫn
bị hoà đàm taị Ba Lê, TT Thiệu đă gởi Trọng cùng đi với linh mục gốc
Bỉ Raymond de Jeagher (cựu cố vấn của TT Diệm và một thành viên năng
động trong Liên Minh Á châu chống Cộng) qua Hoa kỳ vận động với Quốc
hội, báo giới và nghiệp đoàn. Chuyến công du này không gặt nhiều kết
quả v́ , theo Trọng, dư luận Mỹ chán ngán chiến tranh.
Vụ án kết thúc ngày
29.11.1969. H V Trọng rất sợ bị tử h́nh. Người viết khuyên y b́nh
tỉnh v́ bên trong sân khấu chính trị, những dàn xếp bât ngờ có thể
xảy ra, Hoa kỳ c̣n một số phi công tù binh tại Hànội Hilton; hơn
nửa, trong vụ này, Trọng chỉ đóng vai tṛ “Lê Lai cứu chúa”.Vị Chánh
thẩm cho phép các bị can nói lời chót trước khi tuyên án. Vũ Ngọc
Nhạ cường điệu tuyên bố nhóm của y hành động v́ quyền lợi quốc gia,
họ tin sẽ thắng và hẹn có ngày trở về vinh quang. Trọng lên tinh
thần, ngổ ngáo lập lại trước Toà câu nói của người viết: “Tôi chỉ
đóng vai tṛ Lê Lai cứu Chúa, tôi không có tội.’ Các sự kiện này
được kể lại trong quyển hồi kư Ông Cố vấn do CS xuất bản năm 1984
tại VN, với nhiều khoản thêu dệt. Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê
Hữu Thuư và Nguyễn Xuân Hoè bị chung thân khổ sai, đày đi Côn Đảo.
Sau 1975, chúng dược CS giải thoát. Nhạ thăng Thiếu tướng, ngành
t́nh báo.
B- HOÀNG ĐỨC NHĂ.
Tuy không phải là
thành viên của phái đoàn VNCH dự hoà đàm tại Ba Lê, Nhă là người gây
bực bội nhứt cho Kissinger (K) trong nhiều lần chạm trán. Trần Văn
Đôn (trong hồi ức VN Nhân chứng, trang 406- 415) , Nguyễn Phú Đức
(trong quyển sách The VN Peace Negotiations, trang 400-403) và K
(trong Ending the VN War, trang 310) đề cập nhiều đến Nhă. N P Đức
cho biết Nhă là cháu kêu ông Thiệu bằng cậu, tốt nghiệp đại học
Oklahoma, trở về VN trong Khối chuyên viên, tiến thân rất mau trong
các chức vụ liên tiếp: thông dịch viên, Bí thơ tin cẩn của Tổng
thống và cuối cùng, Tổng ủy Dân vận /Chiêu hồi, phụ trách sau Hiệp
ước Ba Lê mạng lưới Thông tin Quốc ngoại có nhiều quyền lực. Ảnh
hưởng của Nhă gia tăng từ tháng 8.1972 (khi K đề nghị Thiệu từ chức
hai tháng trước ngày bầu cử với CS) và tăng cao hơn sau ngày Hiệp
ước được kư cuối tháng giêng 1973.
Nhă luôn luôn có mặt
trong các buổi họp riêng giữa Thiệu và K, Haig và Bunker cũng như
trong những phiên nhóm Hội đồng An ninh Quốc gia để thông dịch v́
Phó Tổng thống Nguyễn Văn Hương, Chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn
Huyền và Hạ viện Nguyễn Bá Lương không rành Anh ngữ. Theo N P Đức,
Nhă thiếu kinh nghiệm và sự già giặn để thảo những công văn ngoại
giao trao đổi giữa hai chính phủ Mỹ-Việt. Nhă nuôi nhiều cao vọng
chính trị và trong những ngày tháng chót của TT Thiệu, Nhă t́m cách
gài phe cánh vào Nội các tuy họ thiếu khả năng. Điều này làm cho
chính gia quyến ông Thiệu cũng lo ngại, đặc biệt Ngô Khắc Tỉnh và
đại sứ Nguyễn Văn Kiểu (trang 403).
Trong Ending the VN
War, K viết như sau: “Nhă là cháu tâm phúc của Thiệu, lối 30 tuổi,
phụ tá báo chí, từng du học taị Hoa kỳ, tiêm nhiểm gương thành công
của các chàng trẻ lanh lợi trong phim xi-nê, ăn bận đúng mốt
Hollywood, tướng mạo hao hao giống Alan Ladd thời thanh xuân, nói
tiếng Anh trôi chảy và vẫn giữ lại từ bản gốc Việt Nam một khả năng
mưu loạn vô biên, an infinite capacity for conspiracy…Bunker và tôi
đều đồng ư rằng Nhă đă gây nhiều rắc rối bằng cách thổi phồng mổi sự
hiểu lầm” (trang 310).
K hậm hực kể lại
trong hồi kư thái độ “bất nhă” của Nhă: ngày 19.10.1973, theo lệnh
của Nixon, K qua Sàig̣n tŕnh TT Thiệu taị Dinh Độc lập toàn bản dự
thảo Thoả hiệp. Sau khi bắt đợi 15 phút, Nhă ra đón K và Bunker vào,
Thiệu không có một lời xă giao, thản nhiên đọc và không phê b́nh bức
thơ riêng của Nixon do K trao lại, xong Thiệu mời hai vị khách bước
sang pḥng kế bên để gặp Hội đồng An ninh Quốc gia. Giữa bầu không
khí nặng nề, Thiệu giao cho Nhă thông dịch mặc dù phiá VN nói được
tiếng Anh. K viết: Nhă “bắt đầu chế diễu vai tṛ của ḿnh” bằng cách
chỉ tóm lược gần phân nửa lời thuyết tŕnh của K. Khi K lưu ư về
điểm này, Nhả đáp ngáo ngổ: “ I am a master of contraction, Tôi là
bậc sư về khoa cắt ngắn!”. Ngày 21 tháng 10, theo chương tŕnh, K và
Bunker gặp lại Hội đồng An ninh lúc 2 giờ 30 trưa. Đợi đến 3 giờ,
Nhă điện thoại để thông báo – không cho biết lư do, không xin lổi –
phiên nhóm hoăn đến 5 giờ chiều. “ Y hịch theo kiểu cách của
Humphrey Bogart mà có lẽ Nhă đă học đ̣i đâu đó trên màn ảnh”. 5 giờ
30, vẫn không tin tức. Bunker bực ḿnh gọi Dinh Độc lập, đ̣i nói
chuyện với Nhă, Văn pḥng đáp Nhă vưà bước ra ngoài. Một giờ sau –
tức là trể gần 5 giờ theo ước hẹn – Nhă điện thoại báo tin TT Thiệu
sẽ tiếp K và Bunker hôm sau lúc 8 giờ sáng. Bunker bắt bẻ: “Có sự
chậm trể ít nửa 24 giờ, giờ Hoa Thịnh Đốn!” Nhă gác điên thoại. K và
Bunker hỏi nhau: “Những hành vi xấc xược này phải chăng báo hiệu một
vụ chạm trán sắp đến ? Về vấn đề ǵ? “
Hoàng Đức Nhă hiện ở
Chicago. Đến nay, ông chưa kể lại đầy đủ những kỷ niệm cá nhân. Mong
được nghe thêm tiếng chuông chân thực của một nhân chứng về giai
đọan lịch sử này.
Những đặc điểm trong
hồi kư của ba tác giả
1- Về Ts Nguyễn Phú
Đức, hiện định cư ở Paris, tốt nghiệp trường luật Hànội và Harvard,
cựu Phụ tá Tổng thống về quốc ngoại và Tổng trưởng ngoại giao VNCH
sau Hiệp ước Ba Lê, K phê b́nh châm biếm: “Ông Đức là một sản phẩm
mỹ lệ của hệ thống giáo dục Pháp, chuyên định nghĩa trừu tượng, kết
luận lạc dềà và có tài căi bướng” Trong lời tựa của VN, Pourquoi les
Eùtats-Unis ont perdu la guerre xuất bản 21 năm sau ngày Sàig̣n thất
thủ, ông Đức thanh minh rằng ông cần đợi thời gian lắng đọng để phân
tích thanh thản cuộc chiến VN. Quyển sách này dày 410 trang, viết
bằng tiếng Pháp, chia thành năm phần mổ xẻù chính sách Hoa kỳ tại
Đông Dương sau Đệ nhị thế chiến, sự can thiệp của Mỹ vào VN, việc Mỹ
chuẫn bị rút quân, kế hoạch Nixon và những ngày cuối của Miền Nam.
Phần chót dài 66 trang, không đi sâu vào chi tiết cuộc hoà đàm Ba
Lê. Đầu năm 2005, Ts Đức cho phát hành tại Virginia, Hoa kỳ, quyển
hồi kư thứ hai, The VN Peace Negotiations, Saigon’s Side of the
Story, nxb Dalley, dày 463 trang, gồm có ba phần: mở đầu hoà dàm
1968-1969, những khúc quanh thương thuyết và chiến tranh chấm dứt
1973-1975.
Cố vấn Nguyễn Phú
Đức tháp tùng Tổng thống Thiệu ngày 18.7.1968 hội kiến với Lyndon
Johnson tại Honululu (Mỹ hứa không áp đặt một chính phủ liên hiệp
taị Miền Nam VN) và ngày 8.6.1969 gặp Richard Nixon tại Midway (Mỹ
tuyên bố rút 25,000 quân). Mỗi lần, phái đoàn VNCH gồm có vài chuyên
viên khác. Ngày 29.11.1972, Ts Đức được phái qua Hoa Thịnh Đốn tŕnh
với Nixon quan điểm của TT Thiệu hầu tránh hoà đàm Ba Lê bế tắc. Ông
không có trách nhiệm trực tiếp thương thuyết taị bàn hội nghị. Nói
cách khác, ông là một luật gia phụ trách phần “đấm bóp thời cuộc”
hơn là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Tuy nhiên, một số nhận xét
của ông vẫn có giá trị. Đặïc biệt, thay v́ dùng danh từ
vietnamization, Việt nam hóa chiến tranh, Ts Đức đề nghị chữ
de-americanization, kế hoạch giải kết vai tṛ chiến đấu của Hoa kỳ,
nhằm mục tiêu vơ trang một quân đội quốc gia VN đủ mạnh để giúp Mỹ
rút quân tuần tự. Ngoài ra, về mối liên hệ giữa K và Nixon, Ts Đức
nhận xét rằng Nixon không tin dùng Bộ Ngoại giao, nhưng đồng thời
cũng bực bội không ít về cách tự đề cao ba hoa của K với báo giới,
tự cho ḿnh là một “ phù thủy hoà b́nh, a peace magician”, đặc biệt
sau chuyến công du bí mật của y qua Bắc kinh, làm lu mờ vai tṛ của
Nixon về mặt đối ngoại. Tại sao Nixon không hăm bớt K? Nixon không
quên K đă phản Rockefeller và Đảng Dân chủ để giúp Nixon (Cọng hoà)
thắng cử năm 1968. Bởi thế, Nixon ngán K có thể trở cờ một lần nữa
v́ quyền lợi cá nhân. (trang 337-338). Sau hết, Ts Đức lưu ư: Khác
với Eisenhower từng mời thượng khách Ngô Đ́nh Diệm đọc diễn văn
tháng năm 1957 trước lưỡng viện Quốc hội Hoa kỳ, hai
Tổng thống Johnson
và Nixon đều tránh tiếp chính thức ông Thiệâu taị thủ đô Washington,
viện lẽ sợ phe phản chiến biểu t́nh. Sau Hiệp định Ba Lê, Nixon miễn
cưởng mời vợ chồng TT Thiệu qua San Clemente, tiếp taị tư thất La
Pacifica, để an ủi xă giao. Nixon và Thiệu gặp nhau ba lần. Nixon đă
gởi Thiệu trên 20 mật thơ hứa hưu, hưá vượn.
2- Ông Nguyễn Xuân
Phong, tốt nghiệp đaị học Oxford, nguyên Tổng trưởng Xă hội và Chiêu
hồi, thay thế đại sứ Phạm Đăng Lâm sau 3.2.1973 trong chức vụ Trưởng
đoàn VNCH tại hoà đàm Ba Lê. Ông cho phổ biến “Hope and Vanquished
Reality, Hy vọng và Khắc phục Thực tại” năm 2001 tại New York, nhà
xuất bản là Center for A Science of Hope trực thuộc ICIS
(International Center for Integrative Studies), một tổ chức truyền
giáo Thụy điển ở Hoa kỳ đấu tranh cho nhân quyền và chuyên nghiên
cứu về vai tṛ của Hy Vọng trong tín ngưỡng. Ông Phong cọng tác
trong Hội đồng Cố vấn ICIS từ 1988. Quyển hồi kư Hope dày 374 trang,
chia thành 11 chương kể lại việc tác giả từ Paris trở về Sàig̣n năm
ngày trước khi Sàig̣n sụp đổ vào tháng tư 1975, 5 năm cải tạo trong
trại học tập Cộng sản, đời sống cơ cực ở VN khi được phóng thích năm
1980, những tang tóc liên tiếp trong gia đ́nh và thủ tục phiền toái
để xuất ngoại. Ông Phong được phép nhập cảnh Hoa kỳ năm 2000.
Hope & Vanquished
Reality là cuốn sổ tay của một nhà ngoại giao chấm phá ghi lại những
âm vang gây trên đức tin của ḿnh bởi sự phá sản của chế độ mà y
phục vụ nhiều năm. Người đọc có cảm tưởng tác giả muốn chứng minh Hy
vọng là ngọn hải đăng dắc dẫn ông vượt qua mọi thử thách gian nguy
cá nhân, mọi cảnh tan nát của Quê hương. Bởi thế N X Phong không đi
sâu vào chi tiết của Hoà đàm Bá Lê, không đề cập nhiều đến giai đoạn
đấu khẩu gay go giữa hai phái doàn Bắc-Nam tại bàn hội nghị.
Sau khi Phạm Đăng
Lâm qua Luân đôn nhâïn chức đại sứ tháng giêng 1973 và bs Nguyễn Lưu
Viên rời vĩnh viễn La Celle Saint Cloud để trở về VN, ông Phong phải
một ḿnh đảm trách tại Paris các công tác tồn đọng và tẻ nhạt: gặp
báo chí, dự các cuộc thảo luận không đi đến đâu và tiếp xúc với các
phái đoàn. Nhờ sự giao thiệp cởi mở và khả năng ngoại ngữ, ông Phong
là nhân vật VNCH thường có dịp trao đổi ư kiến ngoài bàn hội nghị
với phiá Mỹ như Harriman, Cyrus Vance, Negroponte và đặc biệt,
Kissinger. Sự kiện đáng lưu ư là chương 11 trong hồi kư “ The
Longest Road: The Communicative Hope, Con đường dài nhất: Hy vọng
truyền nhiểm”, trang 290-392, kể lại việc Phong tiếp xúc và giữ liên
lạc với Nguyễn Cơ Thạch, thứ trưởng Ngoại giao, phụ tá cho Lê Đức
Thọ, vai tṛ chính trong phái đoàn Bắc Việt. Chính K đă giới thiệu
Phong với Thọ và Thạch trong một đêm tiếp tân của Ngoại trưởng Pháp
Maurice Schumann, sau đó Thạch và Phong gặp nhau lại nhiều lần ngoài
pḥng hội nghị, trao đổi ư kiến cởi mở và trở nên “đôi anh em đối
nghịch thành thực, true brother-enemies” tuy dị biệt về một số quan
điểm. Phong đánh giá Thạch “thông minh, hiểu biết, có văn hoá, không
quá khích và chủ trương thỏa hiệp hơn là hận thù”. Thạch và Phong
đồng ư với nhau ít nữa về một điểm: “Hatred and bitterness have
never generated anything really good in the end, Cuối cùng Hậân thù
và Đắng cay không bao giờ sinh sản điều ǵ tốt thật sự .”
Sau 1980, Phong ra
khỏi trại cải tạo, phải đi dạy Anh văn để sanh sống với số lương năm
chục đô hằng tháng, Thạch trở nên một nhân vật của Chính trị Bộ, Phó
Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng. Thạch có mời Phong đến Văn pḥng để hỏi
ư kiến, đối xử lịch sự như trước, Phong thẳng thắn đề nghị cần đổi
mới kinh tế và b́nh thường hoá ngoại giao với Mỹ. Một thời gian sau,
Nguyễn Cơ Thạch mất ghế trong Chính trị bộ và Chính phủ v́ bị xem
như thành phần quá cấp tiến.
3. Ts Nguyễn Tiến
Hưng cho ra mắt tại Little Saigon, Californie, tháng tư năm nay,
quyển hồi kư thứ hai “Khi Đồng Minh Tháo chạy” (KĐMTC) vào lúc
George Bush tiếp Phan Văn Khải taị Hoa Thịnh Đốn, cộïng đồng người
Việt hải ngoại sôi sục chống đối. Việc giới thiệu sách thành công về
thương mại. Gịng tít lớn (và củng là lời nguyền rủa của K) “Sao
chúng không chết phứt cho rồi” mà tác giả khôn ngoan cho in trên bià
làm cho đồng bào ta muốn biết thêm, mua sách. Hồi ức KĐMTC dày 705
trang, chia thành bốn phần: Làm sao thoát khỏi vùng lầy, Thân phận
tiểu quốc, Khi Đồng minh tháo chạy và Rước của nợ hay được của có.
Quyển sách in lại nhiều đoạn và tài liệu - như các bức thơ và mật
điện trao đổi giữa Nixon, Ford và Thiệu từ 1972 đến 1975, luôn cả
lời nguyền rủa của Kissinger - đă đăng trong Hồ sơ mật Dinh Độc lập
(HSMDĐL), bản dịch ra tiếng Việt của The Palace File xuất bản năm
1986, dày 908 trang.
Về cách bố cục nội
dung, phương pháp sưu tầm, tŕnh bày các chứng liệu và ngay cả văn
phong, HSMDĐL súc tích và có trọng lượng hơn KĐMTC, có lẽ v́ nhờ sự
hợp tác khoa học của đồng tác giả Jerrold L Schecter, nguyên chủ bút
của tạp chí Time, và khả năng chuyển dịch của Cung Thúc Tiến và
Nguyễn Cao Đàm
Trong Lời Nói Đầu
của KĐMTC, Ts Hưng xác nhận ông chỉ làm việc trực tiếp với tướng
Thiệu trong những ngày tháng hấp hối của chế độ sau khi Hiệp định Ba
Lê được kư. Bởi vậy các ông Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, Trần Văn
Lắm, Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Phú Đức và Nguyễn Xuân Phong xác nhận
với người viết không có dịp tiếp xúc với Hưng. Ts Hưng than: “Trong
cương vị điều hợp viên viện trợ kinh tế cho VNCH, nhiều lúc tôi phải
dẹp bỏ tự ái, lui tới Quốc Hội Hoa kỳ như một người đi cầu xin”
(trang21). Khi t́nh h́nh an ninh trở nên bi đát, quân đội cạn đạn
dược / xăng nhớt, ngân sách hết tiền trả lương cho lính và cảnh sát,
ông Thiệu mới nghĩ đến việc sai đại tá Đức trao cho Ts Hưng đầu
tháng 4.1975 một hồ sơ bià đen đựng các thơ mật nói trên để ông Hưng
gắp đi lobby (?!) chính khách và báo giới Mỹ. Ngày 15.4.1975, một
tuần trước khi Thiệu từ chức (21 tháng 4), Hưng đáp máy bay Panam
qua Washington. Đây là một sứ mạng biết trước vô vọng v́ quá trể.
Không c̣n nước để mà tát. Hoa kỳ đang xoá sổ đồng minh. VNCH hết
được coi như “tiền đồn của thế giới tự do” trấn giữ làn sóng đỏ. Để
sớm dứt điểm, Mỹ vận dụng mọi thủ đoạn: đi đêm với Bắc Việt, dành
quyền thương thuyết thế cho chính phủ Sàig̣n, trấn an, tránh né, đe
dọa kư riêng, hăm cắt viện trợ, cam kết đầu môi và bảo đảm suông.
Hoa Thịnh đốn - và Ngoại trưởng Kissinger, gốc Do Thái - dồn viện
trợ vào Israel, “tiền đồn bảo vệ dầu lửa ở Trung Đông.” Chính sách
đối ngoại của Mỹ thực tế, realpolitik, không nặng về luân lư, ư thức
hệ hay ḷng chung thủy. Căn cứ vào quyền lợi mà thôi. Quyền lợi thô
bạo. “Who pays, commands, Ai chi tiền th́ người đó chỉ huy” là câu
châm ngôn gối đầu ở nước này.
V́ nhận thấy Quốc
hội Hoa kỳ phủi sạch tay về VN, Ts Hưng quyết tổ chức cho kỳ được
một cuộc họp báo kiểu nhà nghèo ngày 30.4.1975 tại khách sạn
Mayflower, đường Connecticut, Hoa Thịnh Đốn, với 3.000 đô vay của
gia đ́nh. Ông không lấy ra được ngân khoản 20.000 mỹ kim mà TT Thiệu
hưá miệng để trang trải chi phí. Thầy củ của Hưng là Giáo sư Warren
Nutter, cựu Phụ tá Bộ trưởng Quốc pḥng thời Nixon, hết ḷng ủng hộ
nhưng không giúp được ǵ nhiều. Ts Hưng làm công việc của một người
chửa lửa không có dụng cụ trong tay khi nhà cháy sắp tan thành tro.
Trong phiên họp báo, ông không đề cập đến những mật điện do Ford gởi
cho Thiệu và chỉ dùng vài bức thơ cam kết của Nixon để xin cứu vớt
đoàn người đang đổ xô ra Biển Đông. Kết quả là – cọng với áp lực của
dư luận thế giới và đặc biệt nhờ sự can thiệp mạnh của Tổng thống
Jimmy Carter - Quốc hội HK chấp nhận trợ cấp 455 triệu đô và mở cưả
đón làn sóng tị nạn VN trên con số 50.000 người dự trù lúc đầu.
Tại Sàig̣n lúc đó,
ba chiến xa T54 của Bắc Việt phá cổng xông vào Dinh Độc lập, trương
cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Cố TT Thiệu cho người viết biết:
sau 1975, Ts Hưng có trở về VN làm việc trong lănh vực tài chính.
Mặt khác, nơi trang 18 của quyển hồi kư “Câu chuyện một di dân tỵ
nạn Việt” vừa xuất bản năm nay tại San José, cựu trung tá không quân
Trần Đổ Cung, trước kia từng giữ chức Cục trưởng Tổng Cục Tiếp tế
thời Nguyễn Cao Kỳ, hiện ở Monterey, Californie, có ghi rằng năm
1988 Nguyễn Tiến Hưng từ Hànôi có nhờ một người bà con của Cung là
vợ của Tôn Quang Phiệt, một cán bộ cao cấp CS, nhắn Cung “trở về
giúp nước” nhưng Cung không nhận lời.
Kết luận.
Về cái chết của Miền
Nam VN, TT Thiệu tuyên bố: “ Tôi có trách nhiệm nhưng tôi không có
lổi”. Mặt khác, trong hồi kư Ending the VN War, Kissinger viết: “Nếu
không có sự sụp đổ của quyền hành pháp v́ vụ Watergate, tôi tin rằng
chúng ta có thể thành công”. Một ngày sau Hiệp định Bá Lê, Phụ tá
Nixon là John Ehrlichmann hỏi VNCH tồn tại được bao lâu, K đáp: “Nếu
may mắn th́ họ có thể cầm cự được một năm rưởi”. Chính phủ Sàig̣n
sống lâu hơn decent interval ấy, khiến K mất kiên nhẫn, buông lời
nguyền rủa thô bỉ.
Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu
Trong thất bại, thay
v́ trách người, ta phải tự trách ḿnh trước, Tiên trách kỷ, hậu
trách nhân. Watergate và Quốc hội Mỹ cắt viện trợ là hai yếu tố làm
Đệ nhị Cộng hoà tan ră nhưng chủ trương bỏ Miền Nam đă có trước cả
Watergate. Cá nhân TT Thiệu gánh chiụ trách nhiệm v́ một số sai lầm
tai hại:
1 - Quá tin vào sự
ủng hộ của Hoa kỳ, nghĩ rằng Hoa kỳ sẽ không bỏ rơi v́ VN có nhiều
dầu lửa (!). Thiệu không thông hiểu và không đánh giá đứng đắn vai
tṛ của Lập pháp và Truyền thông ở xứ này, coi thường công cuộc hoạt
động hành lang, lobby, và nhất quyết bám víu vào 30 bức thơ và mật
điện trao đổi với Nixon mà ông giữ kín như bảo vật đến giờ chót theo
lời cam kết riêng tư. Thiệu không dám tiết lộ v́ sợ chính quyền Mỷ
“tố cáo là bội ước“ (KĐMTC, trang 258). Cuối cùng, TT Thiệu nhận
thấy – nhưng quá trể! – ḿnh bị gạt v́ chủ tâm của Nixon và
Kissinger là dấu không cho Quốc hội HK biết những hứa hẹn thiếu
thành thật.
2- TT Thiệu không có kế hoạch thiết thực cứu nguy Đất nước và đă để
xứ sở tuỳ thuộc Hoa kỳ quá sâu về chính trị, quân sự và kinh tài.
3- TT Thiệu nắm trọn trong tay vận mạng của quốc gia, coi thường hai
ngành Lập pháp và Tư pháp, quyết định một ḿnh việc bỏ rơi hỗn loạn
Cao nguyên và Miền Trung và ngang nhiên hành động vi hiến. Điều 39
Hiến pháp buộc các hiệp ước về hoà b́nh (Hiến pháp dùng danh từ
“nghị hoà”) phải được Quốc hội chuẫn phê. Thiệu phạm một sai lầm căn
bản khi ông chọn không tuân hành điều này vào tháng 10.1968 để tránh
chạm trán với Johnson. Ông mời chủ tịch Thượng viện và Hạ viện tham
gia thảo luận trong Hội đồng An ninh Quốc gia để tạo cảm tưởng Quốc
hội chính thức chấp thuận các quyết định của Hội đồng. Trên thực tế,
Thiệu truất quyền của Lập pháp kiểm soát đường lối thương thuyết của
Hành pháp. Đồng lúc, TT Thiệu vô hiệu hoá luôn khả năng của Hành
pháp (mà ông đại diện) chống lại áp lực của Johnson và Nixon, để Hoa
kỳ tự ư rút quân. Ông Thiệu có dịp tâm t́nh với người viết rằng ông
bị ám ảnh bởi vụ đảo chính và hạ sát TT Diệm do Mỹ sắp xếp khi TT
Diệm chống đối.
Ngày nay, ôn cố tri
tân, nhắc lại chuyện đau buồn đă qua, không phải là để quy trách
tiêu cực mà là để rút tỉa những bài học từ những thiếu sót trong dĩ
văng hầu giúp cho thế hệ cầm quyền sắp tới đừng tái phạm. Mỗi lănh
tụ đều gặp những khó khăn và khổ tâm riêng, đặc biệt khi hoàn cảnh
bắt buộc, cùng một lúc, đương đầu với một đồng minh đanh thép như
siêu cường Hoa kỳ và một kẻ thù gian ngoan như Cộng sản.
Sau buổi phỏng vấn
dài tại Dinh Độc Lập đầu tháng giêng 1973, trước ngày kư Hiệp định
Paris, nữ kư giả Ư Oriana Fallaci, (người đă từng phỏng vấn
Kissinger, Phạm Văn Đồng và Vơ Nguyên Giáp), nhận xét: “Có ít nhiều
nhân cách trong TT Thiệu và thảm kịch của ông. Chúng ta có thật hiểu
ông hay không? Ít nửa, trong giờ phút đặc biệt này, ông không c̣n là
con múa rối lố bịch của người Mỹ như chúng ta tưởng..Tôi hoan hỉ tỏ
ḷng thương xót và kính trọng đối với ông.” (Interview with History
, Oriana Fallaci, trang 48). Với cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, lời
an ủi cuối cùng này – một Requiescat in pace! – có đủ hay không?
Dân tộc là sức mạnh
vạn năng, vạn thắng. Lảnh tụ thất bại v́ đánh mất ḷng tin và sự ủng
hộ của Dân tộc. Khi lảnh tụ thất bại và gục mặt ra đi, chỉ c̣n lại
Dân tộc. Dân tộc trơ trọi, dân tộc cô đơn, dân tộc đau khổ. Dân tộc
gánh chịu hết mọi oan khiên và tủi nhục. Nhiều thế hệ trẻ vô tội
phải trả một cái giá rất đắt cho sự sai lầm của cha ông.
LÂM LỄ TRINH
Thủy Hoa Trang
Ngày 9.8.2005
Californie
THƯ TỊCH:
1 - “Điểm sách
Ending the VN War của Kissinger, TT Thiệu và Hoà đàm Paris” by Lâm
Lễ Trinh 17.8.2001, trong tạp chí VN Forum , Đức quốc
2 – “Mạn đàm với Bs
Nguyễn Lưu Viên, Từ Hội nghị La Celle Saint Cloud đến những ngày
VNCH hấp hối” by Lâm Lễ Trinh, 1.9.2001 trong Thời Luận, Los
Angeles.
3 – “Kissinger nhận
định trong hồi kư Ending the VN War: Kinh nghiệm VN và thế trận hiện
đại” by Lâm Lễ Trinh, 9.10.2002 trong tạp chí Dân chủ & Phát triển,
Đức quốc.
4 – “Mạn đàm với cựu
Ngoại trưởng Trần Văn Lắm: Bề trái trong Hoà đàm tại Bá Lê” by Lâm
Lễ Trinh, 9.8. 1999, trong tạp chí Hải Ngoại Nhân Văn, Boston
5 – “Điểm sách:
Nguyễn Thị B́nh tiết lộ về Hoà đàm Bá Lê trong “Chung một Bóng Cờ”
by Lâm Lễ Trinh, 6.12. 2000, trong tạp chí Cánh Én, Đức quốc
6 – “Our Endless
War, Inside VN” (Presidio Press, CA, 1978) và VN Nhân Chứng, nxb
Xuân Thu, CA, 1989, by Trần Văn Đôn
7 – Interview with
History, by Oriana Fallaci, Houghton Mifflin Co, Boston, 1976 Tháng
3.2005, Ts Đức cho phát hành taị Virginia quyển hồi kư thứ hai, bằng
Anh ngữ, dày 463 trang, với tựa “The VN Peace Negotiations, Saigon’s
side of the story, nxb Dalley, gồm có ba phần: mở đầu đàm phán
1968-1969, những khúc quanh của cuộc thương thuyết và chiến cuộc
chấm dứt 1973-1975.
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử