MINH THỊ
TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI THAY ĐỔI THIÊN H̀NH VẠN TRẠNG TRONG TỪNG SÁT NA. NGƯỜI TA CÓ THỂ NAY THỜ PHẬT, MAI THEO CHÚA NHƯNG KHÔNG THỂ CHỐI BỎ CHA SINH, MẸ ĐẺ, HUYẾT THỐNG, GỈNG GIƠI, DÂN TỘC. NGƯỜI TA CÓ THỂ NAY CHỌN CHỦ NGHĨA NÀY MAI CHỌN CHỦ NGHĨA KIA ĐỂ LÀM LƯ TƯỞNG PHẤN ĐẤU NHƯNG CHỚ QUÊN RẰNG MỤC TIÊU PHẤN ĐẤU LÀ PHỤC VỤ CHO BẢN THÂN, GIA Đ̀NH, DÂN TỘC VÀ TỔ QUỐC. ĐÓ LÀ NGUYÊN NHÂN KHIẾN BỌN NGƯỜI NẶNG CĂN TÍNH TÔI Đ̉I, NÔ LÊ VỌNG NGOẠI, PHI DÂN TỘC, PHI NHÂN ĐỀU BỊ XEM LÀ PHẦN TỬ NGU XUẨN VÀ ĐÁNG KHINH NHẤT.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
* Kim Âu * Chính Nghĩa * Chính Nghĩa * Tinh Hoa
* Bài Của Kim Âu * Chính Nghĩa Media
* Vietnamese Commandos * Biệt kích
* Lưu Trữ * Video/TV * Dictionaries * Tác Giả * Tác Phẩm
* Khảo Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển * Tham Khảo
* Thời Thế * Văn Học * Báo Chí * Mục Lục * Pháp Lư
* FOXSport * NBCSport * ESPNSport * Lottery
* Constitution * Làm Sao * T́m IP * Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-07/2008 -08/2008 -09/2008 -10/2008
-11/2008 -11/2008 -12/2008 -01/2009
-02/2009 -03/2009 -04/2009 -05/2009
-06/2009 -07/2009 -08/2009 -09/2009
-10/2009 -11/2009 -12/2009 -01/2010
-03/2010 -04/2010 -05/2010 -06/2010
-07/2010 -08/2010 -09/2010 -10/2010
-11/2010 -12/2010 -01/2011 -02/2011
-03/2011 -04.2011 -05.2011 -06.2011
-07/2011 -08/2011 -09/2011 -10/2011
-11/2011 -12/2011 -05/2012 -06/2012
-12/2012 -01/2013 -12/2013 -03/2014
-09.2014 -10.2014 -12/2014 -03/2015
-02/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2016
-02/2016 -03/2016 -07/2016 -08/2016
-09/2016 -10/2016 -11/2016 -12/2016
-01/2017 -02/2017 -03/2017 -04/2017
-05/2017 -06/2017 -07/2017 -08/2017
-09/2017 -10/2017 -11/2017 -12/2017
-01/2018 -02/2018 -03/2018 -04/2018
-05/2018 -06/2018 -07/2018 -08/2018
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018
Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
.CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity .
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê B́nh .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xă Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gươngv
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài G̣n .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .B́nh Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
Đ̉N HỦY DIỆT NỀN TẢNG LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
CỦA BỌN CỐ ĐẠO VÀ THỰC DÂN PHÁP
Kim Âu
Dẫn Nhập: Tháng ba có rất nhiều sự kiện, ngày mùng 8 tháng 3 là ngày của các bà đồng thời cũng là ngày quân đội Mỹ đổ bộ lên bờ biển Đà Nẵng trước đây 53 năm. Thời kỳ đấy một chính thể đại diện cho miền Nam đă đánh mất quốc thể khi để cho quân lính ngoại bang tự động tiến chiếm lănh thổ quốc gia. Sau đó cuộc chiến tranh mở rộng quy mô, vũ khí thặng dư, vũ khí phế thải, vũ khí hóa học đang thí nghiệm, súng nhỏ, pháo lớn, xe tank, tầu ḅ, tầu biển, tàu bay nằm trong các băi rác ở Hoa Kỳ đều được chuyển qua xử lư ở chiến trường Việt Nam.
Sau khi chính phủ bù nh́n VNCH do Đại Việt Quốc Dân Đảng Phan Huy Quát [1]điều chỉnh hành động xâm lược của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bằng cách “miễn cưỡng phát hành tờ giấy hợp thức hóa t́nh trạng ô nhục đă rồi” do đó mất hết uy tín với quốc dân nên giao lại cho đám thảo khấu núp bóng quân đội cái gọi là “quyền lănh đạo đất nước” mà Nguyễn Khánh đă nói một cách nôm na như sau:"Quân đội là cha quốc gia!” để chính thức biến quân đội VNCH thành lính đánh thuê cho Hoa Kỳ dù các cơ quan tâm lư chiến cố gắng tô vẽ lớp vỏ mỹ miều với những tín niệm Made in USA “Nation – Honor – Duty” dịch thành Tổ Quốc – Danh Dự - Trách Nhiệm và “Bảo Quốc An Dân”. Đây là một điều đau xót cho những thế hệ thanh niên đầy nhiệt huyết từng đi vào cuộc chiến với lư tưởng nhân bản, dân bản; chiến đấu v́ “thương dân nghèo đồng hoang có cháy” đem ” ḷng súng nhân đạo cứu người lầm than” "thầm hẹn ngày về quê Bắc ơi"[2], chiến đấu để bảo vệ mảnh đất cuối cùng của những người Việt yêu tự do, đột nhiên thấy ḿnh trở thành tay sai cầm súng chiến đấu cho lợi ích của các mẫu quốc ngoại lai.
Đó là sự tan vỡ của chính nghĩa, cho dù nhiều năm qua người ta đă ra sức biện minh cho việc quân đội Hoa Kỳ đổ vào Việt Nam là để “giúp đỡ cho nền cộng ḥa non trẻ của miền Nam” nhưng chẳng người nào yêu tổ quốc và dân tộc Việt Nam ngu muội để không nh́n thấy quân đội Hoa Kỳ đến Việt Nam chỉ nhằm thực hiện kế hoạch toàn cầu biến nửa phần lănh thổ Việt Nam trở thành tiền đồn ở Đông Nam Á hay như chính ông Diệm nói rằng kéo dài biên cương Mỹ tới Bến Hải để bảo vệ lợi ích của các quốc gia thực dân Âu Tây gọi là phe“Thế Giới Tự Do” đang ra sức ngăn chặn làn sóng giải phóng dân tộc, đ̣i độc lập của thế giới thứ ba không để những lực lượng lănh đạo của các quốc gia thuộc địa trước đây ngả sang phe quốc tế cộng sản do Nga, Trung Cộng đứng đầu đồng thời tiêu thụ bằng hết sản lượng vũ khí, bom đạn từ những dây chuyền sản xuất của tư bản Hoa Kỳ chưa hoàn vốn, thu lăi đầy đủ. Và chỉ mười năm sau, vào ngày 10 tháng ba 1975 trở thành ngày khởi đầu sự diệt vong của Việt Nam Cộng Ḥa khi lực lượng cộng sản rụt rè, dọ dẫm đánh chiếm Ban Mê Thuột....
֎ ֎ ֎
Lịch sử cho thấy người Mỹ mới thực sự đặt chân đến Việt Nam vào năm 1945 sau khi OSS tuyển mộ ông Hồ Chí Minh làm điệp viên chính thức -có mật danh Lucius- dẫn tới việc Archimede L Patti gửi các nhân viên t́nh báo nhảy dù xuống Kim Lũng, Tân Trào để bắt tay huấn luyện lực lượng vũ trang chống Nhật của Hồ Chí Minh. Toán Deer do đại úy Allison K.Thompson làm toán trưởng đă huấn luyện quân sự và chiến thuật du kích cho toàn thể ban lănh đạo và một đội quân khỏang hai trăm người được Hồ Chí Minh đặt tên là đội quân Việt Mỹ.
Chính đội quân này dưới sự chỉ huy của Vơ Nguyên Giáp cùng toán Deer đă hành quân từ Tân Trào về Hà Nội trở thành lực lượng yểm trợ mạnh nhất chiếm lĩnh khoảng trống quyền lực sau khi quân Nhật đầu hàng; Việt Minh khôn ngoan ra mặt giành được chính quyền vào ngày 19-8-1945 (Cách Mạng Mùa Thu), giải thể chính phủ bù nh́n Trần Trọng Kim đồng thời chấm dứt chế độ quân chủ bù nh́n, phong kiến bán nước của gịng họ Nguyễn đă từng kêu gọi Cần Vương nhưng rồi trở mặt phản bội quốc dân , nghĩa sĩ đă hưởng ứng cuộc chiến đấu chống liên minh thực dân Pháp và Vatican xâm lược.
Lịch sử cũng cho thấy Hoa Kỳ -cũng là một đế quốc thực dân- đă không hể có ư thực hiện đường lối giải thực mà Roosevelt theo đuổi khi c̣n sinh tiền như văn tự được ghi lại trong hồi ức của Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Cordell Hull, công bố vào năm 1948, và nhấn mạnh vấn đề này hơn nữa. [Ông viết: Tổng thống ấp ủ những quan điểm mạnh mẽ về nền độc lập của Đông Dương thuộc Pháp. Ông lưu tâm đến sự hèn nhát của Pháp đă trở thành bàn đạp cho người Nhật tấn công: Philippin, Malaysia và vùng Đông Ấn của Hà Lan. Ông không thể quên được cách cư xử của Chính phủ Vichy khi trao cho Nhật Bản quyền đóng quân ở đó; mà không hỏi ư kiến chúng ta nhưng lại cố làm cho thế giới tưởng rằng chúng ta đă đồng ư. Về chế độ quản trị, Hull nói: “Thỉnh thoảng Tổng thống nói thẳng với tôi và những người khác, ư kiến của ông rằng Đông Dương thuộc Pháp sẽ phải đặt dưới một chế độ qủan trị quốc tế ngay sau khi chiến tranh kết thúc, và để cho xứ này được độc lập càng sớm càng hay”.]
Cordell Hull cũng dẫn ra bản bị vong lục tháng Giêng 1944 của Tổng thống Roosevelt, trong đó nói rằng “... Đông Dương sẽ không bị trao trở lại cho nước Pháp mà sẽ được cai quản bởi một chế độ quản trị quốc tế…”.
Tuy tổng thống Roosevelt có những ư kiến mạnh mẽ như vậy, nhưng không có một tuyên bố chính thức nào về chính sách của Mỹ hay một sự thoả thuận nào của Đồng minh được chính phủ Mỹ hoặc Bộ Tổng tư lệnh Đồng minh công bố.
Đó chính là nguyên nhân, sau khi Roosevelt chết sớm trước khi Nhật đầu hàng; những đế quốc thực dân Âu Tây như Anh, Pháp, Hà Lan lại giúp nhau tái lập t́nh trạng thực dân ở các thuộc địa cũ (nguyên nhân sâu xa của đệ nhị thế chiến là sự tranh giành các thuộc địa) trong đó có Đông Dương.
Mặc dù đóng vai chính trong thắng lợi của các lực lượng Đồng Minh nhưng Truman mới nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ nên không có chính sách rơ ràng để giải quyết t́nh trạng tại các thuộc địa đưa đến thái độ làm ngơ của Archimede Patti và phái bộ OSS trước những diễn biến ở Hà Nội và sau đó tổng thống thừa nhiệm Truman thẳng thừng bỏ qua những lá thư khẩn cầu sự giúp đỡ của Hồ Chí Minh, đồng t́nh với âm mưu trở lại các thuộc địa ở Đông Á của Anh Pháp Hà Lan.
Định mệnh lịch sử của đă buộc dân tộc Việt Nam phải dùng máu để rửa mối nhục nhà Nguyễn bán nước cho Pháp, Nhật, dùng máu xương để khôi phục lại giang sơn, quét sạch quân xâm lăng ra khỏi bờ cơi.....một định mệnh lịch sử chung của các dân tộc nhược tiểu trên toàn thế giới đứng lên giành lại quyền tự chủ hằng hữu từ thuở khai thiên lập địa, khi trái đất có loài người.
Thử hỏi có dân tộc nào trên thế giới ngu muội và hèn nhát đến độ không dám tận dụng thời cơ để vùng dậy giành lại độc lập và tự chủ mà cứ nhắm mắt chở bọn đế quốc sắp xếp, tiếp tục cam chịu làm tôi mọi, nô lệ cho ngoại bang trong khi thực tế cho thấy hai đế quốc xâm lược Nhật - Pháp và đế quốc bản xứ là Đế Quốc Việt Nam đă nhẫn tâm bỏ hơn hai triệu dân chết đói trong năm 1945?
Có lẽ chỉ có nhóm ngụy trí thức đang có luận điệu cho rằng việc cướp chính quyền là không có chính danh như thời gian gần đây có mấy “sử gia trẻ” ngô nghê cố sức chứng minh rằng cuộc Cách Mạng Tháng Tám chỉ là việc tranh cướp một cái không có thực. Lập luận của họ cho rằng phe Đồng Minh thắng trận nên quân Nhật phải tuân theo quy định của quân Đồng Minh. Đế Quốc Việt Nam chỉ là b́nh phong của Nhật để chứng minh rằng “không ai có thể cướp được cái mà người khác không có."
Lập luận này thực quá ấu trĩ v́ Đế Quốc Việt Nam chỉ là sự đổi tên của triều đ́nh nhà Nguyễn do Pháp bảo hộ sau khi Nhật đảo chánh. Triều đ́nh này tuy hèn yếu, ích kỷ, bị quân xâm lược làm suy yếu bằng cách tước quyền lực trở thành bù nh́n nhưng vẫn là chủ nhân chính thức của quốc gia; hệ thống quan lại triều Nguyễn vẫn phủ kín mọi miền đất nước, khắp các phủ, huyện, châu, thôn, ấp, làng, xă đều có bảo an binh, thân binh, lính lệ để giữ ǵn trật tự, trấn áp những lực lượng yêu nước; bọn Pháp và Nhật chỉ là quân xâm lược.
Không ai công nhận bọn ăn cướp trở thành chủ nhân của đất nước Việt Nam; trong khi ngay bọn ăn cướp c̣n không dám tự nhận như vậy mà chúng phải ngụy tạo ra t́nh trạng bảo hộ, hợp tác, hỗ trợ, liên minh.Và cũng chẳng dân tộc nào đồng ư cho rằng việc cướp lại chính quyền từ tay bọn bù nh́n phong kiến, tay sai và bọn cướp nước là hành động không chính danh, loại lập luận như vậy thật dưới tầm ấu trĩ cần phải xem đó là sự lảm nhảm của bọn "SỬ NÔ", bồi bút vô liêm sỉ, điên khùng hèn hạ chỉ quen "nằm chờ sung rụng".
Nh́n ra thế giới, cùng thời điểm, chúng ta thấy Indonesia cũng có ngày khởi nghĩa trùng với cuộc cách mạng tháng tám Việt Nam, diễn biến trên vũ đài chính trị, quân sự để khôi phục lại nền độc lập, tự chủ ở Indonesia không khác Việt Nam. Thực dân Hà Lan cũng được quân Anh giúp trở lại và kháng chiến Indonesia cũng bùng nổ cho thấy tinh thần độc lập tự chủ, tự quyết là đặc tính chung của nhân loại chứ không chỉ riêng dân tộc Việt Nam.
Sự thật đáng trách nhất là Hoa Kỳ đă hết sức tráo trở, xảo quyệt và trơ trẽn khi không thực hiện những chính sách giải thực của Roosevelt như đă dự tính đưa Đông Dương vào thành phần các lănh thổ ủy trị hoặc công nhận nền độc lập của những chính quyền được thành lập do các lực lượng bản xứ, qua viện trợ, giúp đỡ mọi mặt đưa họ vào quỹ đạo và mô thức độc lập trong dân chủ, tự do.
Nh́n lại toàn cảnh giai đoạn lịch sử 1945-1954 chúng ta cần thấy rơ Tài Phiệt Quyền Do Thái ở Hoa Kỳ quá sức nham hiểm, khi biết không đủ tiềm lực viện trợ cho chính phủ thối nát tham nhũng ở Nam Kinh của Tưởng Gới Thạch để đánh bại lực lượng Cộng Sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lănh đạo đang trỗi dậy mạnh mẽ nên họ đă chọn việc hủy bỏ chương tŕnh giải thực hậu thế chiến thứ hai như dự định của Roosevelt, trả lại lănh thổ Đông Dương cho Pháp để dùng xương máu lính Pháp làm nút chặn, tiền đồn bảo vệ quyền lợi của các đế quốc thực dân Âu Tây, qua chiến tranh xâm lược sẽ tạo ra một lực lượng quân sự bản xứ làm tay sai thay thế khi quân đội thực dân bị đánh bại v́ thế cũng như Indonesia, Hàn Quốc, người Việt Nam lâm vào t́nh thế chỉ c̣n cách tiến hành kháng chiến là con đường duy nhất để đấu tranh cho dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc..
Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất c̣n gọi là cuộc kháng chiến chống Pháp mang tính toàn dân, toàn quốc kéo dài 9 năm do chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến lănh đạo chia ra làm hai giai đoạn chính.
Giai đoạn thứ nhất của cuộc kháng chiến không hề được ngoại bang giúp đỡ chỉ tồn tại bằng nội lực của dân tộc nên lực lượng vũ trang phải lui vào rừng núi, chiến khu thực hiện kế sách “tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống” chờ thời cơ.
Giai đoạn này hai phe quốc cộng cùng chung chiến tuyến diệt giặc ngoại xâm trong t́nh trạng thiếu thốn đủ điều nên một số người theo kháng chiến thoái chí ngă ḷng “dinh tê” về thành sống trong vùng Pháp kiểm soát. Thời cơ biến chuyển quyết định hướng đi của chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến đến từ kết quả cuộc chiến tranh Quốc Cộng giữa Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch ở Trung Hoa vào năm 1949.
Lực lượng cộng sản của Mao đánh bại quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng chiếm toàn bộ lục địa, Tưởng Giới Thạch đại bại chạy tháo thân ra cố thủ ở hải đảo Đài Loan. Đương nhiên thành phần Cộng Sản trong chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến chiếm ưu thế tuyệt đối và thay đổi toàn bộ đường lối, chính sách và nhân sự để đáp ứng mọi yêu cầu của Cộng Sản Trung Quốc khi được nhận viện trợ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có sự tiếp sức của Mỹ.
Đối diện với chính sách sắt máu, bất bao dung của những người cộng sản, các đảng phái cách mạng và những thành phần quốc gia theo kháng chiến không c̣n lối thoát, nếu muốn sống đều buộc phải tháo chạy khỏi các chiến khu, an toàn khu, muối mặt hồi cư trở về sống trong vùng tạm chiếm của Pháp.
Chiều ngày 25 tháng 12 năm 1949 lực lượng Kiến Quốc Quân của Vũ Hồng Khanh hàng mấy chục ngh́n người có trang bị vơ khí từ Trung Quốc tháo chạy về Việt Nam khuất thân hợp tác với Pháp và chính phủ Quốc Gia Việt Nam của Quốc Trưởng Bảo Đại mới do Pháp dựng lên.Vào buổi tối, mồng 6 tháng Giêng năm 1950, một văn thư gửi cho Bộ Chỉ Huy quân đội Liên Hiệp Pháp ở Lạng Sơn xác nhận rằng Kiến Quốc Quân quyết định hạ súng về hàng lực lượng viễn chinh Pháp.
Định mệnh lịch sử. Thời, Thế, Cơ đă an bài cho đảng Cộng Sản Việt Nam mọi điều kiện để “chiếm độc quyền lănh đạo cuộc kháng chiến chính nghĩa dành lại độc lập của dân tộc” rồi đạt thắng lợi vào năm1954 và đẩy những người yêu nước không theo lư tưởng cộng sản vào con đường đối địch, từ bỏ con đường kháng chiến cứu nước trở về đấu hàng, thỏa hiệp, hợp tác với bọn thực dân xâm lược Pháp để t́m con đường sống.
Ván cờ thâm hiểm siêu đẳng của Tài Phiệt Quyền Hoa Kỳ nhằm tiêu thụ cho hết công suất của các nhà máy sản xuất vũ khí trong hệ thống “Liên Hợp Khoa Học Kỹ Nghệ Quân Sự” ở Hoa Kỳ và Liên Xô (cũng do Tài Phiệt Quyền Do Thái tại Mỹ đầu tư) đă chia cắt tất cả mọi quốc gia làm phân hóa mọi xă hội, phá hủy t́nh tự dân tộc ở tất cả các quốc gia gây ra những cuộc nội chiến tương tàn vô cùng khốc liệt.
Indonesia cũng xảy ra tương tranh Quốc Cộng, Đông Đức đối đầu Tây Đức, Nam Hàn chống Bắc Hàn, Đài Loan chống Trung Cộng.. tất cả các quốc gia thuộc địa Á Phi đều rơi vào t́nh trạng NỘI CHIẾN Ư THỨC HỆ. HUYNH ĐỆ TƯƠNG TÀN MỘT MẤT MỘT C̉N....MÁU CHẢY THÀNH SÔNG XƯƠNG CHẤT NHƯ NÚI V̀ GIẤC MƠ CHỦ NGHĨA.
Thời cơ tiếp nối thời cơ những người Cộng Sản Việt Nam đă khôn khéo, vận dụng được khát vọng độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam, khiến người dân không quản hy sinh xương máu, kiên quyết thà chết không chịu làm nô lệ, đi hết con đường đă chọn, thống nhất đất nước hai mươi mốt năm sau. Tại sao những người Cộng Sản Việt Nam giành được ưu thế tuyệt đối trong khi cuộc Cách Mạng Mùa Thu bùng nổ họ chỉ có hơn 2.000 đảng viên trên toàn cơi Việt Nam?.
Chúng tôi mời quư độc giả đọc đoạn văn trích từ cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại 1927-1954-Việt Nam Quốc Dân Đảng” của nhà cách mạng Hoàng Văn Đào để thấy rơ sự lơ mơ, ấu trĩ, chậm lụt đến ngớ ngẩn, đần độn của mấy vị tiền bối của các đảng phái quốc gia, những người hoàn toàn bất lực, bất trí v́ hèn nhát, ngu dốt không biết thê nào là "đấu tranh cách mạng".
TRÍCH
(“Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại 1927-1954-Việt Nam Quốc Dân Đảng” của nhà cách mạng Hoàng Văn Đào)
T̀NH H̀NH CÁC ĐẢNG PHÁI QUỐC GIA TRƯỚC HIỆN T̀NH ĐẤT NƯỚC
Được tin Nhật Bản sửa soạn đầu hàng Đồng Minh. Ngày 11 tháng 8 năm 1945, một nhân vật người Anh có tên tuổi ở Việt Nam đưa đại diện của Tướng De Gaulle đến gặp vị Tổng Tư Lệnh quân đội Nhật Bản, thương thuyết để cho một số quân đội Pháp đào tẩu hồi tháng 3 trước được đổ bộ lên Hải Pḥng. ‘’Mặt Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh’’ được biết rơ tin này, liền huy động tổ chức một cuộc biểu t́nh khá đông đảo phản kháng âm mưu xâm lược của đế quốc thực dân vào ngay buổi chiều ngày hôm ấy, khiến vị Tổng Tư Lệnh quân đội Nhật Bản không dám để cho Pháp quân đổ bộ lên miền Bắc Việt Nam. Và ngay buổi chiều tối hôm đó Ban Chấp Hành Mặt Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh triệu tập một buổi họp để quyết định vấn đề đoạt chính quyền Bắc Việt [3].
Trong cuộc thảo luận, hội nghị chia làm hai phái, ư kiến mâu thuẫn nhau. Một phái gồm có Chu Bá Phượng, Trương Tử Anh và đại diện của Nguyễn Tường Long (ông Long bị bệnh thương hàn phải điều trị tại bệnh viện) chủ trương rằng:
‘’Muốn được Đồng Minh công nhận chính phủ của chúng ta sau này, th́ chúng ta không được phép hợp tác với Nhật Bản bất cứ dưới h́nh thức nào. Nếu hợp tác với họ, đó là đă chống lại Đồng Minh và đi ngược lại với trào lưu quốc tế, chúng ta tất sẽ bị tiêu diệt. C̣n nếu Việt Minh cộng sản có cướp chính quyền chăng nữa, cũng chẳng quan ngại ǵ! V́ lực lượng của phe cách mạng dân tộc chúng ta có thể nói là mạnh gấp bội phe Việt Minh cộng sản kể tất cả mọi phương diện, chúng ta có đủ sức tiêu diệt họ. Vậy tốt hơn hết là chúng ta hăy nên chờ cách mạng quân ở Hải Ngoại cùng quân đội Đồng Minh sắp nhập cảnh nay mai bằng ba ngă đường Lao Kai, Lạng Sơn và Móng Cái, rồi sẽ liên hiệp lập chính phủ có Đồng Minh đứng sau ủng hộ, đại cuộc của chúng ta tất sẽ thắng.’’
Một phái chủ trương nên dựa vào thế lực quân đội Nhật Bản cướp chính quyền ngay. Sau khi đă có quyền, đợi các đồng chí cách mạng từ Hải Ngoại về tới, sẽ cùng nhau lập chính phủ. Đại biểu cho phái này là Nguyễn Xuân Tiếu tức Nguyễn Lư Cao Kha. Hội nghị đương họp chưa quyết định bề nào, th́ đột nhiên Trần Văn Chương cùng Đặng Đức Hinh đại diện nhóm ‘’Phụng Sự Quốc Gia’’ hướng dẫn đại biểu ‘’mặt trận Việt Minh’’ tới, đề nghị không nên đảo chính vội cũng viện lư do khi quân đội Đồng Minh tới sẽ cho là chính phủ thân Nhật Bản, không có lợi. Nếu ‘’Mặt Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh’’ không đồng ư mà cứ đoạt chính quyền trước, th́ ‘’mặt trận Việt Minh’’ cũng sẽ đoạt ngay hết chính quyền ở các tỉnh, đồng thời cho phá vỡ ngay đê sông Hồng cho nước tràn đầy Hà Nội, cô lập hóa Thủ Đô theo kế hoạch đă được bố trí sẵn sàng. Hội nghị đâm hoang mang rồi giải tán.
Trong khi đó, có một lănh tụ phe quốc gia lại quá tin tưởng vào Khâm Sai Phan Kế Toại đă hứa chắc chắn là sẽ trao chính quyền Bắc Việt lại cho phe quốc gia trước ngày quân đội Đồng Minh tới Bắc Việt Nam. Đến giờ phút chót bổ đi t́m Phan Khâm Sai, nhưng Phan Khâm Sai đă chạy theo Việt Minh cộng sản từ mấy ngày hôm trước rồi, c̣n đâu nữa mà t́m!
Để chấm dứt sứ mạng các đồng chí đă tự hy sinh đứng ra thân Nhật Bản trong ‘’Mặt Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh’’, Tổng Bộ bí mật Việt Nam Quốc Dân Đảng ra lệnh cho những đồng chí ấy phải tuyên bố rút lui khỏi Đảng Bộ, nên sáng ngày 14 tháng 8, trên mặt tờ báo Đông Pháp, người ta thấy tên Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Nhượng Tống tuyên bố rút lui khỏi Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Chiều ngày 18 tháng 8, tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, cuộc mít tin của công chức biến thành cuộc mít tin biểu t́nh của mặt trận Việt Minh. T́nh thế biến chuyển một cách bất ngờ! Nên ngay buổi hôm ấy ‘’Liên Minh Quốc Dân Đảng’’ có cuộc họp khẩn cấp:
- Về phía Việt Nam Quốc Dân Đảng có Chu Bá Phượng, Nguyễn Văn Viễn, Lê Khang (Lê Ninh)…
- Về phía Đại Việt Quốc Dân Đảng có Trương Tử Anh, Phạm Khải Hoàn, Đồng Chí Kim…
Vấn đề đoạt chính quyền ngay vào đêm hôm ấy được đề ra. Các đồng chí Đại Việt Quốc Dân Đảng cho rằng: ‘’Cuộc cách mạng nào cũng chỉ đi tới mục đích là giành lại độc lập cho Tổ Quốc.’’ Th́ dầu mặt trận Việt Minh hay đoàn thể nào cũng vậy! Việt Minh nắm được chính quyền, chúng ta sẽ tham gia hướng dẫn họ trên công cuộc phục vụ nhân dân, nếu họ trở mặt, lúc đó chúng ta sẽ lấy nhân dân làm hậu thuẫn mà hạ họ xuống. [2] Vả lại, lực lượng của họ có ǵ đáng cho chúng ta lo ngại! Nếu nay chúng ta dùng vơ lực để đối phó, trong lúc này ắt có cuộc lưu huyết! Cộng sản chưa thấy đâu mà đă thấy ngay dân chúng bị tàn sát. Sau đây lịch sử sẽ quy tội cho chúng ta là tham cầu địa vị, gây nên cảnh ‘’nồi da sáo thịt’’, tội đó há riêng một cá nhân gánh chịu!
Lê Khang (Lê Ninh) cực lực phản kháng:
‘’Th́ ra đến giờ phút này mà các anh chưa hiểu rơ ‘’Việt Minh cộng sản’’ là thế nào cả ? Huống hồ là dân chúng!Tôi xin nói thẳng mong các anh đừng mất ḷng! Những phần tử cộng sản họ rất sẵn sàng đi đôi với tất cả các thế lực, mặc dầu là thực dân Pháp hay quân phiệt Tầu, nghĩa là tiêu diệt được những người cách mạng dân tộc chúng ta. Nếu nay cộng sản nắm được chính quyền, họ sẽ đặt t́nh thế trước sự đă rồi! Chúng ta sẽ đi tới tự sát. Cộng sản sẽ áp dụng mọi thủ đoạn để tiêu diệt chúng ta ngay. Cộng sản sẽ tuyên truyền công bố ngay với dân chúng: Chúng ta là những tên phản động, phản quốc, Việt gian! Chúng ta không nên đóng vai tṛ thụ động, không được phép chờ họ khủng bố rồi ḿnh mới đánh lại, chúng ta nên tấn công họ trước, mới nắm được phần thắng về ḿnh. Tôi khẩn khoản yêu cầu các anh hăy mau hăy mau nắm lấy chính quyền, rồi tóm cổ hết những phần tử cộng sản nhốt lại, để trừ mối hậu họa cho dân tộc. Chúng ta nắm được chính quyền, chỉ thu số súng đạn của Bảo An Binh cũng có tới 5.000 khẩu, cùng với số súng đủ loại ở kho Ngọc Hà của Pháp trước mà Nhật tước được có trên 20.000 khẩu, mà nay quân Nhật Bản sẵn sàng trao lại cho chúng ta. Với lực lượng ấy chúng ta có thể lập ba sư đoàn cách mạng quân để đối phó với t́nh thế, tiến tới một chính quyền thống nhất toàn quốc.
Nếu các anh cương quyết không chịu nghe ư kiến tôi, th́ một ngày rất gần đây khi cộng sản đă nắm vững t́nh h́nh, họ sẽ sách động quần chúng gây nên cuộc ‘’giai cấp đấu tranh’’ hủy diệt Tôn Giáo, tổ chức phong trào đấu tố, th́ ngay vợ con các anh sẽ đấu tố các anh sẽ đấu tố các anh là phản động, là…các anh sẽ không c̣n đất đứng! Để họ tạo nên một giai cấp quan liêu thống trị mới, hưởng mọi đặc ân và sẽ loại trừ hết các đảng phái Quốc Gia, họ sẽ đưa quốc gia dân tộc chúng ta lệ thuộc vào hàng ngũ đệ tam quốc tế.’’
Ư kiến Lê Khang không được hội nghị chấp thuận, bởi Chu Bá Phượng, Nguyễn Văn Viễn…v́ quá nhu nhược lừng chừng, thiếu quả quyết. Thấy cơ hội độc nhất đă lỡ! Vô phương cứu văn! Lê Khang cùng một số đồng chí (Việt Nam Quốc Dân Đảng) lặng lẽ bỏ lên Vĩnh Yên t́m Đỗ Đinh Đạo thảo kế hoạch đoạt chính quyền Tỉnh Vĩnh Yên làm địa bàn hoạt động.
Các vơ trang đảng viên Quốc Dân Đảng được huy động từ chiến khu triệu về tập trung tại Trường Tiểu Học Hàng Kèn, Hà Nội để đợi lệnh đoạt chính quyền cũng thứ tự rút lui, và thầm bảo nhau: ‘’Mấy ông lănh tụ nhà ḿnh thật đúng là đồ đệ của Khổng Mạnh, quân tử Tầu, thật đáng kính trọng lắm thay!’’
Tóm lại chính phủ Trần Trọng Kim đă không thấu hiểu lực lượng Việt Minh cộng sản lại bị tuyên truyền Việt Minh cộng sản là đồng minh của Khối Đồng Minh, mà hàng ngũ ḿnh là chính phủ thân Nhật, nên tự đặt ḿnh vào thế bỏ cuộc rút lui. Người đại diện Triều Đ́nh Huế nắm chính quyền Bắc Việt là Khâm Sai Phan Kế Toại cũng ngă ḷng trước thời cuộc, ra mặt đầu hàng Việt Minh cộng sản. Người kế vị nắm chính quyền Bắc Việt trong ṿng hơn một tuần lễ là Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ, uy quyền chưa có, từ nhân viên đến Bảo An Binh bội phản Triều Đ́nh, thân Việt Minh cộng sản. Bác Sĩ Chữ đứng trong hoàn cảnh cô lập. Hơn nữa, lại c̣n là mẫu người quá trung thực về lễ giáo Khổng Mạnh, đạo đức Phật Giáo, không phải là nhân vật thời chiến quốc.
Các người mệnh danh là lănh tụ các đảng phái Quốc Gia lại quá tin tưởng vào các lănh tụ quân đội Đồng Minh, những đồng chí Trung Hoa sẽ triệt để ủng hộ ḿnh mà lật đổ chế độ Việt Minh cộng sản để thành lập một chính phủ Quốc Gia có Đồng Minh đứng bên hậu thuẫn, hợp t́nh và hợp lư hơn. Có biết đâu! Người Trung Hoa, nhất là một số Tướng lănh chỉ biết trọng ‘’Vàng’’, nếu có kẻ khác trao đầy túi vàng, là họ bỏ rơi chúng ta ngay! Rồi lại quá tin ở Cách Mạng Quân từ Trung Hoa sẽ về kịp thời. Hơn nữa, lại c̣n đánh giá Việt Minh cộng sản đến tầm quá thấp kém. Các lănh tụ các đảng phái Quốc Gia đă thiếu hẳn về phần thủ đoạn chính trị trong những trường hợp phải áp dụng linh động để đoạt lấy phần thắng lợi về ḿnh.
Nếu từ Nội Các Trần Trọng Kim đến các lănh tụ đảng phái Quốc Gia hiểu rơ t́nh h́nh mà hành động kịp thời th́ dân tộc Việt Nam đâu đến nỗi phải chịu cái thảm họa nồi da sáo thịt, đất nước điêu tàn thảm khốc đến ngày nay!”
HẾT TRÍCH
(“Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại 1927-1954-Việt Nam Quốc Dân Đảng” của nhà cách mạng Hoàng Văn Đào)
Đọc trích đoạn thượng dẫn, chúng ta thấy rơ sự u mê, đần độn, ngớ ngẩn kèm theo hèn nhát của những thành phần Đại Việt Quốc Dân Đảng như Trương Tử Anh, Phạm Khải Hoàn, Đồng Chí Kim…không những đă bỏ lỡ thời cơ cho thế hệ của họ mà c̣n tạo điều kiện để Cộng Sản phát triển, bành trướng quy mô quay lại tiêu diệt toàn bộ các đảng phái quốc gia, tạo ra cuộc nội chiến ư thức hệ mà kết quả sau cùng như chúng ta đă thấy hiện nay….. (thời điểm đó họ c̣n quá trẻ, chỉ là đám nhóc tỳ mới lớn: Lư Đông A 24t, Huỳnh Phú Sổ 24t, Trương Tử Anh 31t, Hà Thúc Kư 25t giàu nhiệt t́nh nhưng bản lĩnh th́ quá non nớt, ngu dốt vả hèn nhát)
Khi 20 vạn quân
Trung Hoa Quốc dân Đảng (quân Tưởng Giới Thạch) vào Việt Nam giải
giáp vũ khí quân Nhật theo sự phân công của phe đồng minh, bộ phận
hải ngoại ở Trung Quốc của Việt Nam Quốc dân đảng cũng theo quân
Tưởng về Việt Nam.[10] Lực lượng quân đội Trung Hoa Dân Quốc mang
theo kế hoạch "Diệt Cộng cầm Hồ" của Tưởng Giới Thạch, nhằm ủng hộ
các đảng phái quốc gia thành lập một chính phủ thân Trung Hoa Quốc
dân Đảng tại Việt Nam. Để tránh xung đột với 20 vạn quân Tưởng,
trong khi không đủ sức nắm toàn bộ chính quyền, Chính phủ Cách mạng
Lâm thời đồng ư thiết lập một chính phủ liên hiệp lâm thời, trong đó
có sự tham gia của Việt Nam Quốc dân Đảng được quân Tưởng hậu thuẫn.
Hai phe tự xưng
là đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và
Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử
nhưng để phục vụ mục tiêu ḥa hợp dân tộc, Việt Minh vẫn để hai đảng
này có ghế trong quốc hội. Qua trung gian của tướng Trương Phát Khuê
(tư lệnh quân đội Trung hoa Quốc dân đảng tại Việt Nam), Chính phủ
Cách mạng Lâm thời tạm thời ḥa giải với các lực lượng khác. Trong
kỳ họp thứ nhất Quốc hội đă đồng ư nhượng thêm 70 ghế và 4 bộ (Ngoại
giao, Kinh tế, Xă hội và Canh nông) mà không thông qua bầu cử cho
các phái này theo thỏa thuận ngày 24 tháng 12 năm 1945 giữa Chính
phủ Cách mạng Lâm thời và hai lực lượng này tại Đại sứ quán Trung
Hoa. Nhận định về việc này, Vơ Nguyên Giáp cho rằng Việt Quốc và
Việt Cách hiểu rơ một cuộc tuyển cử công bằng sẽ không có lợi cho
họ.[11]
Trên thực tế khi
cuộc bầu cử Quốc hội khóa I diễn ra, các đảng này c̣n phát động tẩy
chay bầu cử với tuyên truyền rằng: trúng cử chỉ là Việt Minh cộng
sản... chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng
được[12] đồng thời tổ chức các cuộc tuần hành, bắc loa hô hào kêu
gọi tẩy chay bầu cử.[12] Theo báo Sự thật th́ Việt Quốc, Việt Cách
thậm chí bắt cóc, giết những ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ
Việt Minh (tiêu biểu là Trần Đ́nh Long[13]) hay thủ tiêu những người
cùng tổ chức có cảm t́nh với Chính phủ như Bồ Xuân Luật.[14] Ngay
trong ngày bỏ phiếu vẫn có các sự việc chống đối xảy ra: Trong ngày
tổng tuyển cử, Việt Nam Quốc dân Đảng mang tiểu liên đến Ngũ Xă ngăn
không cho đặt ḥm phiếu, cấm người dân treo cờ. Người dân Ngũ Xă kéo
sang khu phố Nguyễn Thái Học gần đó để bỏ phiếu.[15]
Tháng 3 năm 1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh kư kết "Hiệp định Sơ bộ" với Pháp, cho phép
quân Pháp tiến ra miền Bắc Việt Nam, thay thế quân Trung Quốc Quốc
dân Đảng, vốn là lực lượng ủng hộ Việt Nam quốc dân Đảng. Ngày 31
tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng rời Việt Nam
đến Paris để thương lượng về t́nh h́nh Việt Nam, Vơ Nguyên Giáp ở
lại lănh đạo lực lượng an ninh Việt Minh.[16] Ngày 29-5-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh kư Sắc lệnh số 82-SL về việc ủy nhiệm Huỳnh Thúc
Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay Chủ tịch Chính phủ đi vắng, kư công
văn hàng ngày và chủ toạ họp Hội đồng Chính phủ.[17] Theo Sắc lệnh
số 23/SL của Chính phủ ngày 21 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Công an vụ
là cơ quan thuộc Bộ Nội vụ, như vậy theo quy định luật pháp th́ thẩm
quyền chỉ đạo lực lượng công an nằm trong tay của phó chủ tịch nước
Huỳnh Thúc Kháng.
Sự hiện diện của
quân Trung Quốc đă bảo đảm sự tồn tại của Việt Nam quốc dân Đảng và
Đồng Minh hội, nhưng họ không thể cạnh tranh được với Việt Minh trên
phương diện lănh đạo, cảm t́nh của nhân dân và tuyên truyền tập hợp
quần chúng. Ngày 19 tháng 6, báo Cứu Quốc của Việt Minh đăng một bài
xă luận lên án mạnh mẽ "bọn phản động phá hoại" hiệp định ngày 6
tháng 3. Ngay sau khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút về nước, Vơ
Nguyên Giáp hối hả hành động ngay. Mục tiêu rải khắp nơi: Việt Quốc,
Việt Cách, Đồng minh hội (được Tưởng Giới Thạch ủng hộ), Đại Việt
(thân Phát xít Nhật), những người Trotskyist, lực lượng chính trị
mang tên "chiến sĩ Công giáo"... Vơ Nguyên Giáp trấn áp tất cả các
đảng phái này bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm
soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các sĩ
quan Nhật Bản t́nh nguyện phục vụ Việt Minh do có chung mục tiêu
"chống bọn da trắng" và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến
dịch này.[3] Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch
trấn áp các đảng phái đối lập là vụ án phố Ôn Như Hầu.
Lực lượng trinh
sát thuộc Nha Công an đă điều tra Việt Quốc, Việt Cách; phát hiện
các tổ chức này câu kết với Pháp dự định lật đổ chính phủ, bắt cóc,
tra tấn, giết người, tàng trữ vũ khí, in truyền đơn chống chính
phủ... Sau khi báo cáo và được sự đồng ư của Trường Chinh, Hội
trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, đă tiến hành bao
vậy, khám xét tại các trụ sở của Việt Quốc, Việt Cách.
Việt Nam Quốc dân
Đảng và sử gia người Mỹ Cecil B. Currey cho rằng: với sự trợ giúp
của quân Pháp, chính Vơ Nguyên Giáp là người đă chỉ huy lực lượng
công an và quân đội khám xét và bắt giữ các thành phần chống
đối.[3][4] Theo nhà sử học người Mỹ Cecil B. Currey, ngày 15 tháng
6, Vơ Nguyên Giáp bắt đầu chỉ huy lực lượng an ninh khám xét các tổ
chức có thể đe dọa đến Chính phủ.[16]
Hoạt động của
Việt Nam Quốc dân Đảng
Sau khi 20 vạn
quân Tưởng Giới Thạch kéo vào Việt Nam, đội quân này đi tới đâu là
giải tán chính quyền Việt Minh tới đó và trao lại quyền quản lư cho
các thành viên Việt Nam Quốc dân đảng. Theo Vơ Nguyên Giáp kể lại:
"Bọn chúng (Việt Nam Quốc dân đảng) đă sống ở nước ngoài (Trung
Quốc) quá lâu, vốn không c̣n liên hệ ǵ với trong nước. Chúng đội
lốt chủ nghĩa quốc gia nhưng chính là một bọn phản động lệ thuộc vào
Trung Hoa Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và sức mạnh quân sự của
chúng chỉ để nhặt nhạnh chút cơm thừa canh cặn". Thiếu tá Mỹ thuộc
OSS và là bạn của tướng Giáp, Al Patti cũng cùng quan điểm. Sau khi
thảo luận với các đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, ông cho rằng họ
không biết phải làm ǵ để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, không một ai
có khái niệm về công việc sẽ làm mà chỉ chăm chăm mục tiêu "chia sẻ
quyền lực với Việt Minh". Ông ta nhận xét: "Họ (Việt Nam Quốc dân
Đảng) là những kẻ lạc hướng về chính trị, có lẽ v́ sống quá lâu ở
Trung Quốc".[18] C̣n theo sử gia Trần Trọng Kim Việt Quốc, Việt Cách
tuy có thế lực nhờ quân đội Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ, nhưng không
thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ,[19] tuyên truyền nhiều mà
không làm được việc ǵ đáng kể.[20]
Trong khi giải
giáp vũ khí của quân Nhật tại phía Bắc vĩ tuyến 16, quân Trung Hoa
Dân Quốc đă chuyển giao cho Việt Nam Quốc dân đảng và các đảng phái
đối lập với Việt Minh hàng tấn vũ khí thu gom được của Nhật. Với số
vũ khí này và được Trung Hoa Dân Quốc "bật đèn xanh", Việt Nam Quốc
dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đă tổ chức các đội vũ trang mang
tên "Thần lôi đoàn", "Thiết huyết đoàn", "Hùm xám"... Các đội vũ
trang này đă tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền,
tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung
lập như ông Ba Viên rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đă không
đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.[2]
Điều tệ hại nhất
theo quan điểm của Việt Minh là quân Trung Hoa Dân Quốc gây sức ép
để thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng được nắm những ghế quan trọng
trong chính phủ.[21] Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tuyên bố độc
lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946,
Việt Nam Quốc dân đảng được giữ hơn 40 ghế trong số 70 ghế đại biểu
không phải qua bầu cử trong Quốc hội khóa I và có một số thành viên
chủ chốt tham gia lănh đạo Quốc hội và Chính phủ do Quốc hội khóa I
bầu ra như Nguyễn Hải Thần (Phó chủ tịch Quốc hội), Trương Đ́nh Tri
(Bộ trưởng Y tế). Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ
trưởng Quốc pḥng trở thành người lo về tài chính mà không được xem
xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn c̣n các Bộ trưởng khác của
các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể ǵ, không bao giờ
được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các.[9] Theo hồi kư Những
năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, do không
bằng ḷng với vị trí có được, Việt Nam Quốc dân Đảng t́m cách lật đổ
Việt Minh để cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt... chiếm
chính quyền.[22]
Sự có mặt của
quân đội Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch) là chỗ dựa đảm bảo sự tồn tại
của các nhóm đối lập thân Trung Hoa như Việt Nam Quốc dân Đảng và
Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Hai đảng này không có một chương
tŕnh gắn kết với nhau để tranh thủ dân chúng như Việt Minh. Những
người lănh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng
minh Hội th́ c̣n xa mới có được những phẩm chất có thể so sánh với
Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp và những người có trách nhiệm khác của
Việt Minh. Sự chống đối của các đảng phái khiến Vơ Nguyên Giáp rất
tức giận v́ nó làm cản trở các nỗ lực của Chính phủ để đối phó với
Pháp, cũng như khiến chính phủ phải liên tục đề pḥng quân đội Trung
Hoa. Có những lần các đơn vị tự vệ thu nhặt những tờ truyền đơn do
các đảng đối lập thân Trung Hoa rải trên phố phường, lập tức Hồ Chí
Minh bị quân đội Trung Hoa gọi đến trụ sở và bị răn đe. Vơ Nguyên
Giáp đề nghị dẹp bỏ sự chống đối để Chính phủ có thể loại trừ nguy
cơ đảo chính và yên tâm đối phó với Pháp, nhưng Hồ Chí Minh khuyên
ông kiên nhẫn v́ "ném chuột phải tránh vỡ b́nh quư", chẳng có ǵ
phải sợ các nhóm đối lập này v́ họ quá yếu kém, "nhưng họ có quan
thầy chống lưng" (hàm ư là phải nín nhịn để tránh xung đột với quân
đội Tưởng Giới Thạch)[23].
Sau khi Hiệp định
sơ bộ được kư với Pháp vào tháng 3/1946, quân Pháp sẽ ra miền Bắc
thay thế quân Trung Hoa. Các nhóm đối lập thân Trung Hoa (bao gồm
Việt Nam Quốc dân đảng) sợ bị mất chỗ dựa. Theo Jean Sainteny, các
nhóm này đă cài người vào đám đông để kích động nhân dân gây bạo
loạn nhằm t́m cách phá bỏ hiệp định, một kẻ giấu mặt thậm chí đă ném
một quả lựu đạn vào đám đông, may mắn là kẻ này quên rút chốt lựu
đạn[24]
Theo Việt Minh,
đầu tháng 6 năm 1946, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức cho Nghiêm Xuân
Chi (đảng viên Việt Quốc) ám sát một số lănh đạo của Việt Minh như
Vơ Nguyên Giáp, Trường Chinh và ông Bồ Xuân Luật, một người cũ của
Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh. Vụ ám sát được bố trí tại Nhà
Thủy tọa, cạnh Hồ Gươm, đối diện với nhà số 8 đường Vua Lê (nay là
phố Lê Thái Tổ) một trong những nơi ăn nghỉ của Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, khi Nghiêm Xuân Chi chưa kịp ra tay th́ đă bị tổ trinh sát
của Sở Công an Bắc Bộ do Nguyễn Bá Hùng chỉ huy khống chế. Khám
người Nghiêm Xuân Chi, Công an Bắc bộ thu được hai khẩu súng ngắn
với 12 viên đạn trong ổ đạn. Mỗi khẩu đều có một viên đă lên ṇng.
Tại trụ sở Công an Bắc bộ (số 87 đường Gamberta, nay là phố Trần
Hưng Đạo), Nghiêm Xuân Chi khai nhận đă được các lănh tụ Việt Nam
Quốc dân đảng giao nhiệm ám sát một số lănh đạo Việt Minh[25]
Hồ Chí Minh giao
cho Vơ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng
Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu t́nh do Việt Nam Quốc
dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt
hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Vơ Nguyên
Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng
mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột
lớn". Vơ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu
Quốc phá các cuộc biểu t́nh này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn
chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu t́nh để văn hồi trị an. Việt
Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được ǵ
nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy
Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: "Không có
Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể
đối phó được với những người Cộng sản"[26]
Trước những hoạt
động gây mất trật tự an ninh tại Hà Nội và một số thành phố ở Bắc
Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đă lập chuyên án mà sau này được lấy tên công
khai là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu.[2]
Theo thông tin do
quần chúng nhân dân cung cấp, lực lượng Công an Bắc Bộ xác nhận các
đảng phái nhận sự hỗ trợ từ lực lượng xâm lược ngoại quốc sẽ nhân cơ
hội Hiệp ước Hoa - Pháp kư kết, quân Pháp thay chân Tưởng chiếm đóng
Bắc Bộ để xúc tiến kế hoạch đảo chính ḥng lật đổ chính quyền cách
mạng, lập chính quyền làm bù nh́n của Pháp tại Việt Nam. Kế hoạch
này phía Pháp ủng hộ, Quốc dân Đảng và lực lượng viễn chinh Pháp lên
kế hoạch sẽ lợi dụng quân Pháp tổ chức diễu binh mừng Ngày Quốc
khánh Pháp (14/7), khi đi qua Bắc Bộ Phủ, lực lượng Pháp-Quốc dân
đảng sẽ ném lựu đạn để gây đổ máu. Sau đó, Pháp và quốc dân đảng sẽ
vu cáo lực lượng Việt Minh gây ra vụ việc, kéo ngay vào Bắc Bộ Phủ
bắt các thành viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, tuyên bố
thành lập chính quyền mới của Quốc dân đảng bị Pháp chi phối.[27]
Diễn biến
Chỉ đạo phá án
Theo lời kể của
Đại tá Trần Tấn Nghĩa (lúc đó là Đội trưởng Đội trinh sát đặc biệt
của Sở Công an Bắc Bộ), cuối tháng 6/1946, Nha Công an Trung ương
nhận được nguồn tin của cơ sở phát hiện được âm mưu của thực dân
Pháp câu kết với Quốc dân Đảng đang chuẩn bị thực hiện âm mưu đảo
chính chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi xin ư kiến trung
ương về âm mưu của Quốc dân Đảng, Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam (lúc bấy giờ lấy tên gọi mới là Hội nghiên cứu Chủ
nghĩa Mác ở Đông Dương) đă cho ư kiến chỉ đạo phải tập trung trấn áp
bọn phản cách mạng, nhưng phải có đủ chứng cứ. Nha Công an Trung
ương cử trinh sát điều tra và thu thập được nhiều chứng cứ chứng
minh các hành vi tội ác của Quốc dân Đảng. Cụ thể là Quốc dân Đảng
đang ráo riết in tài liệu, truyền đơn phản động, bắt giết cán bộ...
để thực hiện âm mưu đảo chính. Một cuộc họp của Nha Công an kéo dài
đến 12h đêm ngày 11/7/1946 đă đi đến quyết định phải bí mật, bất ngờ
tập kích các trụ sở của chúng ở số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố
Nguyễn Gia Thiều), số 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân và
số 80 phố Quán Thánh.[28]
Chỉ đạo trực tiếp
lực lượng công an phá vụ án này là các ông Lê Giản (Giám đốc Nha
công an Trung ương[29]), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Sở Công an Bắc
Bộ) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương), Lê Hữu
Qua Trưởng ban trinh sát.[30] Lực lượng công an xung phong tổ chức
khám xét căn nhà nhằm phá vỡ âm mưu câu kết của Đại Việt và Việt Nam
Quốc dân Đảng với quân đội Pháp. Âm mưu của hai đảng này nhằm khi
quân Pháp diễu binh mừng Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7, sẽ ném lựu
đạn vào đoàn lính da đen duyệt binh, sau đó Pháp sẽ vu cho chính
quyền Việt Nam tấn công quân Pháp, tạo cớ cho Pháp bao vây các cơ
quan trung ương, bắt cán bộ lănh đạo và nhân viên chính phủ, lật đổ
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, nhân dịp đó Đại Việt và Quốc
dân Đảng sẽ tuyên bố đảo chính, lập chính phủ mới.[6][31]
Đêm ngày 11/7,
lực lượng Công an Bắc Bộ nhận được tin báo lực lượng Việt Quốc đă in
xong các loại truyền đơn, lời hiệu triệu, một số đă được chuyển đi
các tỉnh, sáng sớm 12/7 các trụ sở ở Hà Nội của Việt Quốc sẽ rút vào
bí mật để thực hiện giai đoạn cuối cùng là đảo chính, lật đổ Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.[27]
Khám xét trụ sở
Việt Nam Quốc dân Đảng tại số 7 Ôn Như Hầu
Ngày 12/7/1946,
vào khoảng bảy giờ sáng, Đội trinh sát đặc biệt ngồi trên chiếc ôtô
ḥm từ Sở Công an Bắc Bộ (Công an Hà Nội bây giờ) theo đường Trần
B́nh Trọng đến Ôn Như Hầu. Theo kế hoạch, Trần Tấn Nghĩa mang theo
mệnh lệnh sự vụ để thực hiện nhiệm vụ bắt, khám xét những người có
mặt tại trụ sở số 7 phố Ôn Như Hầu can tội tống tiền, bắt cóc người
đưa về Sở Công an Bắc Bộ. Khi Đội trinh sát đặc biệt đến th́ lực
lượng Công an xung phong và tự vệ chiến đấu đă bao vây trụ sở. Trần
Tấn Nghĩa xuống xe và ra hiệu cho toàn đội trong tư thế sẵn sàng
chiến đấu. Việc đầu tiên là cắt dây điện thoại để không lực lượng
Quốc dân Đảng liên lạc với nhau. Trần Tấn Nghĩa tiến sát đến cổng
(lúc đó có khoảng một tiểu đội lính gác vũ khí đầy đủ và trên hành
lang cũng có nhiều lính có vũ khí) gọi người bên trong mở cổng, đón
tiếp Sở Công an Bắc Bộ đến nói chuyện với chỉ huy.
Phan Kích Nam
tiếp Trần Tấn Nghĩa. Trần Tấn Nghĩa xưng tên, chức vụ, nói rơ đến
bắt, khám xét đưa những người có mặt ở số 7 Ôn Như Hầu về Sở Công an
Bắc bộ để xét hỏi, v́ có nhiều đơn tố cáo hành động bắt cóc, tống
tiền. Phan Kích Nam từ chối đi theo Trần Tấn Nghĩa với lư do là Đại
biểu Quốc hội nên có quyền bất khả xâm phạm. Trong khi đó người kư
lệnh bắt Phan Kích Nam là Phó chủ sự của Việt Minh. Hơn nữa đây là
trụ sở một Đảng nên không thể tùy tiện khám xét. Phải có ư kiến của
Hồ Chí Minh th́ mới có thể bắt ông được. Trần Tấn Nghĩa rút lui.
Lần thứ hai, Trần
Tấn Nghĩa đến số 7 phố Ôn Như Hầu. Theo kế hoạch đă được cấp trên
chấp thuận, Trần Tấn Nghĩa sẽ mời Phan Kích Nam về trụ sở công an
trước, rồi sau đó thực hiện khám xét và bắt lực lượng Quốc đân đảng
c̣n lại. Phan Kích Nam tiếp Trần Tấn Nghĩa và khuyên Trần Tấn Nghĩa
quay về báo cáo với cấp trên rằng công an không có quyền bắt ông, và
"nếu manh động sẽ ăn đạn và sẽ lĩnh trách nhiệm với Quốc hội" Sau đó
Trần Tấn Nghĩa ra về.
Lần thứ ba Trần
Tấn Nghĩa quay lại số 7 Ôn Như Hầu khoảng 10h30, một vệ sĩ chờ sẵn
để đưa ông vào gặp Phan Kích Nam. Khi vào Trần Tấn Nghĩa chủ động
tháo thắt lưng đeo súng đặt trên bàn. Phan Kích Nam rót nước mời
ông. Một lát, Trần Tấn Nghĩa tỏ ra buồn bực và đứng dậy cáo biệt,
rút lui, vờ quên súng ở bàn. Phan Kích Nam vội vàng cầm súng của ông
theo và bảo: "Này chú em, chú quên súng này". Nhanh như cắt, Trần
Tấn Nghĩa rút khẩu colt được giấu dưới áo khoác, chĩa thẳng ṇng
súng vào đầu Phan Kích Nam và dơng dạc quát: "Đứng im, động đậy tao
bắn vỡ sọ" và bằng động tác nhanh gọn, lấy mu bàn tay trái chặt vào
gáy Phan Kích Nam. Phan Kích Nam lảo đảo rồi khuỵ xuống. Trần Tấn
Nghĩa bẻ quặt tay Phan Kích Nam ra đằng sau và ra lệnh tất cả phải
bỏ súng, không được chống cự. Phan Kích Nam phải làm theo lệnh của
Trần Tấn Nghĩa. Sau đó Trần Tấn Nghĩa lệnh cho đội trinh sát và các
lực lượng khác theo đúng kế hoạch xông vào bắt xích tay tất cả người
của Quốc dân Đảng về Sở Công an Bắc Bộ.
Kết quả khám xét
số 7 Ôn Như Hầu
Khi lực lượng
Công an Bắc Bộ đột kích vào mục tiêu, họ nh́n thấy 20 thành viên của
Việt Quốc c̣n đang nằm ngủ la liệt trên sàn nhà, bên những đống
truyền đơn, tài liệu đă đóng gói. Lực lượng Công an đă thu được một
xe tải gồm tài liệu phản động và cả máy in, bắt hết thành viên Việt
Quốc ở đó. Với các bằng chứng rơ ràng, Quyền Chủ tịch nước Huỳnh
Thúc Kháng lập tức ra lệnh cho phép lực lượng An ninh mở cuộc trấn
áp tất cả các trụ sở công khai và bí mật của Quốc dân đảng. Cuộc
khám xét của lực lượng Công an đă nhận được sự trợ giúp của người
dân.[27]
Khi khám xét số 7
- Ôn Như Hầu ngày 12 tháng 7, Công an Bắc Bộ thu được 8 súng ngắn, 5
súng trường và 1 trung liên Nhật, dụng cụ tra tấn, thuốc mê và đào
được 6 xác người chôn đứng trong vườn chuối sau nhà. Tuy nhiên, trụ
sở hành chính của Việt Nam Quốc dân đảng tại số 7 phố Ôn Như Hầu
(nay là phố Nguyễn Gia Thiều) chỉ là b́nh phong để che đậy hai căn
cứ quan trọng hơn của Việt Nam Quốc dân đảng trong nội thành Hà Nội
khi đó là nhà số 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân) và nhà
số 80 phố Quán Thánh. Cuộc bắt, khám xét tại 132 - Duvigneau và 80
Quán Thánh diễn ra cùng thời điểm với vụ bắt, khám xét ở số 7 - Ôn
Như Hầu. Tại nhà số 132 phố Duvigneau, Nha Công an Bắc Bộ thu giữ
nhiều tang vật gồm 6 máy in tipo với các "bát chữ" c̣n nguyên vẹn
nội dung; 11 mặt đá in lito đă khắc chữ; trên 3 tạ truyền đơn, khẩu
hiệu; tài liệu chống Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa vừa in xong
c̣n chưa kịp chuyển đi; 18,6 kg tiền giả (gồm cả giấy bạc Quan Kim
và giấy bạc Đông Dương); 12 khẩu súng ngắn, 8 khẩu tiểu liên, 17
súng trường, 3 trung liên FM và 13 quả lựu đạn Nhật. Khám xét tại
nhà số 80 phố Quán Thánh, Công an Bắc Bộ thu được 9 súng ngắn, 21
súng trường, 2 trung liên Nhật, 11 quả lựu đạn các loại, hai thùng
tài liệu, truyền đơn chống chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Quân
Pháp tại Hà Nội đă điều xe tăng đến can thiệp vào vụ bắt, khám xét
tại 80 phố Quán Thánh nhưng Việt Minh đă tiến hành đàm phán trên cơ
sở Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1945. Trưa ngày 12 tháng 7, xe
tăng và quân Pháp rút khỏi phố Quán Thánh.[32]
Ngoài ra lực
lượng công an đă t́m ra một máy làm tiền giả và một căn pḥng với
bức tường đẫm máu và nhiều dụng cụ tra tấn. Trong khu vườn sau nhà
đă khai quật được bảy xác chết, một số đă bị chặt chân tay. Hai
người bị bắt cóc tống tiền được cứu kịp thời và thoát chết. Trong
lúc công an đang tiếp tục t́m kiếm, một người mang kiếm Nhật đi vào
và la hét ông chính là lănh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng và là một
đại biểu Quốc hội và nói rằng không ai có quyền đụng chạm ông. Một
trong những người bị bắt cóc trỏ ngón tay vào ông ta và cho rằng hắn
chính là kẻ đă bắt cóc ông.[33] Ngay sau đó mấy ngày, lực lượng công
an đă tổ chức triển lăm công khai các vật chứng tại căn nhà.
Khám xét trụ sở
đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau
Cũng trong ngày
12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy[34] bao vây
khám xét trụ sở của đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do phát hiện
Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính chính quyền
cách mạng đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946.[35] Khi thực hiện
cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể
và chưa có lệnh của cấp trên. Nhưng vẫn thực hiện bao vây khám xét
để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu
tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Lực lượng công an
tiến hành đột kích bất ngờ vào lúc sáng sớm khiến lính canh và các
đảng viên Đại Việt không kịp có hành động phản ứng.[34] Tại trụ sở
của Đại Việt, lực lượng công an đă t́m thấy nhiều truyền đơn, hiệu
triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn.[35]
Các sự kiện có
liên quan
Ngày 13 tháng 7,
tướng Morlière, tư lệnh các lực lượng Pháp tại Hà nội đă cử sĩ quan
tùy tùng đến trụ sở chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tại Bắc Bộ
Phủ thông báo việc người Pháp rút đề nghị tổ chức cuộc diễu binh của
quân Pháp tại Hà Nội do nhận thấy không bảo đảm an toàn. Tại đây,
viên tùy tùng của tướng Morlière được đại diện Chính phủ Việt Nam
thông báo rằng Việt Minh sẽ tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường
Nhà hát lớn Hà Nội và một số con phố quanh Hồ Gươm để chào mừng kỷ
niệm ngày Cách mạng Pháp 14-7-1789. Tất cả những chứng cứ, tang vật,
truyền đơn, khẩu hiệu, ảnh chụp những xác chết, những hố chôn
người... mà Công an Bắc Bộ thu tập được trong Vụ án phố Ôn Như Hầu
đều được trưng bày cho toàn thể nhân dân Hà Nội được biết trong cuộc
mít tinh diễu hành này.[25]
Theo Việt Nam
quốc dân Đảng và một số học giả nước ngoài
Sau nhiều lần bị
Việt Minh tấn công, Việt Nam Quốc dân Đảng đă rút lui về phía bắc,
nhưng vẫn giữ một trụ sở bí mật ở Hà Nội tại số 7 (theo lănh đạo
Việt Nam Quốc dân Đảng Hoàng Văn Đào là số 9) phố Ôn Như Hầu (tên
tiếng Pháp là rue Bonifacy,[36] nay số 7 phố Nguyễn Gia Thiều).
Trước kia căn nhà này được quân đội Trung Quốc sử dụng, nhưng đă
được trao cho Việt Nam Quốc dân Đảng.[37] Tầng một ṭa nhà này là
nơi huấn luyện chính trị cho những đảng viên ṇng cốt của Việt Nam
Quốc Dân Đảng. Tầng hai là Văn pḥng Tiểu ban Tuyên truyền và Giáo
dục Đệ Thất Chiến Khu Việt Nam Quốc Dân Đảng được dời từ Quảng Ngăi
về Hà Nội.[4] Tuy nhiên, theo lực lượng Công an Việt Nam, Việt Quốc
đă có âm mưu đảo chính từ trước đó nhiều tháng.[27]
Cuối tháng 6 tại
Hà Nội, các thành viên Việt Quốc họp để thảo luận về việc có nên
thừa nhận sự lănh đạo của Việt Minh, rút lui về biên giới hay tổ
chức đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Trong khi
đó, Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng là đồng minh
của Việt Quốc, đang lên kế hoạch cho một cuộc đảo chính có thể bắt
đầu bằng việc tấn công lính Pháp để gây rối loạn. Người Pháp lại có
ư định diễu binh quanh hồ Hoàn Kiếm để kỷ niệm Quốc khánh Pháp
(14/7/1789) khiến lực lượng an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa lo
ngại sự kiện này có thể trở thành mục tiêu của các đảng phái đối lập
với Việt Minh. Vơ Nguyên Giáp hỏi ư kiến của chỉ huy quân Pháp tại
Bắc Kỳ, đại tá Jean Crépin về thái độ của Pháp nếu Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa tăng cường trấn áp Việt Quốc và Việt Cách th́ được ông này
trả lời Pháp sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam
Dân chủ Cộng ḥa.[38]
Theo David G.
Marr, sáng sớm ngày 12/7/1946, công an tấn công một khu nhà và được
cho là đă phát hiện một bản kế hoạch có chữ kư của Trương Tử Anh,
theo đó Đại Việt sẽ quăng lựu đạn vào lính Pháp gốc Phi trong ngày
diễu binh của quân đội Pháp, tiếp đó quân đội Đại Việt hoặc quân đội
Pháp sẽ bắt giữ những lănh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Nam
Dân chủ Cộng ḥa, cuối cùng Trương Tử Anh sẽ công bố thành lập chính
phủ mới. Lê Giản, Giám đốc Nha Công an Bắc bộ, đưa tài liệu này cho
Quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng. Tài liệu này là một bản dự
thảo do Trương Tử Anh viết tay chỉ để sử dụng trong nội bộ Đại Việt
Quốc dân Đảng. Lê Giản không cung cấp được bằng chứng khác về sự
thông đồng của Pháp với Đại Việt Quốc dân Đảng trong kế hoạch đảo
chính ngày 14/7/1946 ngoài việc Sainteny tiếp tục muốn tổ chức diễu
binh vào ngày đó. Huỳnh Thúc Kháng đọc rồi nói "Tiêu diệt chúng!
Quét sạch toàn bộ! Lũ phản bội! Đồ chó má!". Lê Giản t́m Vơ Nguyên
Giáp và được Giáp chỉ thị tấn công tất cả các văn pḥng của Việt
Quốc ở Hà Nội và các tỉnh.[38]
Bắt đầu từ 7h
sáng ngày 12/7/1946, lực lượng công an được sự hỗ trợ của dân quân
bao vây thêm 7 ṭa nhà tại Hà Nội. Hơn 100 người bị bắt và một số
người biến mất không dấu vết. Tại nhà số 7 phố Ôn Như Hầu, công an
t́m thấy một tù nhân bị trói, dụng cụ tra tấn và 7 xác chết được
chôn sơ sài ở sân sau. Sau đó hàng trăm người đến xem mà không bị
ngăn cản. Họ quan sát, khóc lóc hoặc lớn tiếng lên án Việt Nam Quốc
dân Đảng.[38]
Nhà nước sau đó
thông báo sự việc với báo chí. Các cuộc tấn công được gọi tắt là "Vụ
án phố Ôn Như Hầu". Các báo của Việt Minh và các đảng phái thân Việt
Minh đều tường thuật vụ án này. Các báo đưa tin công an đă phá tan
âm mưu chống chính phủ, đă bắt những kẻ tiến hành những vụ bắt cóc
tống tiền, ám sát, bán nước, in truyền đơn chống chính phủ, làm bạc
giả... Tuy nhiên Việt Quốc đă không bị kể tên trong một số bài
báo.[38]
Theo đảng viên
Việt Quốc là Hoàng Văn Đào, Vơ Nguyên Giáp được một nhân viên an
ninh báo cáo rằng khi anh ta bị bắt tại trụ sở Việt Nam Quốc dân
Đảng tại phố Ôn Như Hầu đă nghe được tin ngày 14/7/1946 Việt Nam
Quốc dân Đảng sẽ ám sát những đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
được Pháp mời tham dự lễ duyệt binh mừng Quốc khánh Pháp. Vơ Nguyên
Giáp đă đem chuyện này báo cho người Pháp biết sau đó tổ chức tấn
công Việt Nam Quốc dân Đảng.[4] Khoảng 8 giờ tối ngày 12 tháng 7,
lực lượng công an theo chỉ đạo của Trường Chinh, lúc này là Hội
trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, đă tổ chức khám
xét căn nhà này và t́m thấy hố chôn tập thể và pḥng tra tấn.[37]
Cũng theo Hoàng
Văn Đào, ông này cho rằng đây là những binh sĩ Trung Hoa Dân Quốc
chết và được Trung Quốc chôn trong sân ngôi nhà trước khi được Việt
Nam Quốc dân Đảng sử dụng làm văn pḥng.[4] C̣n theo nhà sử học quân
sự người Mỹ Cecil B. Currey trong quyển tiểu sử Vơ Nguyên Giáp
Victory at any Cost việc này là do chính Vơ Nguyên Giáp dựng lên.
Sau khi chiếm lấy căn nhà, Vơ Nguyên Giáp đă cho người xây dựng căn
pḥng tra tấn, đào lên xác chết trong mộ và đặt vào trong căn nhà,
rồi tuyên bố đă khám phá ra hố chôn tập thể của người bị Việt Nam
Quốc dân Đảng giết chết. Currey cũng cho rằng, nhiều xác chết thực
ra chính là thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng bị lực lượng an ninh
của Vơ Nguyên Giáp giết chết.[3] Tóm lại, Hoàng Văn Đào và Currey
cho rằng số 7 Ôn Như Hầu chỉ là nơi làm việc b́nh thường của Việt
Nam Quốc dân Đảng, lực lượng công an dưới sự chỉ đạo của Vơ Nguyên
Giáp đă tấn công nơi này trong lúc Việt Nam Quốc dân Đảng không đề
pḥng sau đó dựng hiện trường giả để có lư do tiêu diệt Việt Nam
Quốc dân Đảng.[3][4] Hoàng Văn Đào thừa nhận Việt Nam Quốc Dân Đảng
đă từng tiến hành các vụ bắt cóc và giết người, nhưng các xác chết
đă được họ phi tang ở chỗ khác chứ không bao giờ chôn xác ngay tại
trụ sở; họ có thể dễ dàng đeo các tảng đá lớn vào xác chết rồi ném
xuống Hồ Thiền Quang ở gần đó.[39] Một số học giả khác như Gisèle
Luce Bousquet và Pierre Brocheux (Pháp)[40] th́ cho rằng đến nay
chưa ai biết sự thật vụ việc này như thế nào.
Theo William
Duiker, các t́nh tiết xung quanh vụ việc là vấn đề phải bàn căi. Tuy
nhiên, đáng chú ư, các nhà ngoại giao Mỹ và Pháp khi đó cũng đều đổ
lỗi cho những phần tử Việt Quốc đă xúi giục gây rối trong các bản
báo cáo gửi về nước.[24]
Đánh giá
Soạn giả Mỹ
Arthur J. Dommen coi vụ án này tương tự như những sự kiện trong cuộc
cách mạng Nga. Theo ông, vào mùa hè năm 1918, khi dân chúng đă mất
tin tưởng vào sự lănh đạo của khối Bolshevik, Ban chấp hành Trung
ương Đảng Xă hội Cách mạng Cánh tả (Menshevik) quyết định dùng khủng
bố và ám sát giới chức cao cấp của nước Đức nhằm làm chấm dứt Ḥa
ước Brest-Litovsk, tương tự như kế hoạch của Việt Nam Quốc Dân đảng
tấn công và ám sát quan chức Pháp nhằm làm chấm dứt Hiệp định sơ bộ.
Lenin đă dùng vụ ám sát đại sứ Đức Wilhelm von Mirbach do nhóm
Menshevik thực hiện làm lư do để ra tay loại bỏ nhóm Menshevik,
giống như Việt Minh đă sử dụng việc Việt Nam Quốc Dân đảng ám sát
quan chức Pháp để loại trừ nhóm này.[41]
Nhà sử học Mỹ
Cecil B. Currey th́ đánh giá: Vơ Nguyên Giáp luôn nhấn mạnh tất cả
các đảng phái phải đoàn kết trong mặt trận dân tộc Liên Việt để có
thể đối phó với Pháp, nhưng đa số các đảng phái đối lập từ chối v́
cho rằng những vị trí then chốt đều thuộc về Việt Minh. Là một người
Marxist-Leninist trung thành, Vơ Nguyên Giáp đă quyết định rằng Việt
Minh phải hoàn toàn điều khiển bộ máy chính quyền, và "vụ án phố Ôn
Như Hầu đă mở nhiều con mắt của những người không tin vào màu đỏ
(biểu tượng của phong trào cộng sản) của Việt Minh.".[42]
Nhà sử học Mỹ
David G. Marr nhận định Vụ án phố Ôn Như Hầu chưa bao giờ được
nghiên cứu nghiêm túc. Ghi chép nội bộ của Lê Giản về vụ án khiến
người ta đặt câu hỏi liệu công an và một số lănh đạo Đảng Cộng sản
Đông Dương có sử dụng bằng chứng Trương Tử Anh âm mưu đảo chính như
lư do tấn công và triệt hạ Việt Quốc qua đó ngăn cản Pháp thảo luận
với Việt Quốc và tăng cường quyền kiểm soát của Đảng Cộng sản Đông
Dương với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Vệ quốc quân không?
Nếu thật sự Pháp muốn đảo chính (họ đă cân nhắc và hoăn nhiều lần)
th́ không cần phải dựa vào Trương Tử Anh khơi ng̣i, càng không cho
Anh thành lập chính phủ. Công an cố t́nh lập lờ giữa Đại Việt Quốc
Dân Đảng do Trương Tử Anh lănh đạo và Việt Nam Quốc dân Đảng do
Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh lănh đạo khi nhắm vào ṭa soạn Báo
Việt Nam và các trụ sở khác của Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau cuộc tấn
công, có người trong chính quyền đă cố gắng hạn chế những lời lên án
công khai Việt Quốc để tuyên truyền về Mặt trận Thống nhất. Việt
Quốc trên danh nghĩa vẫn nằm trong mặt trận. Ngoại trừ một vài đảng
viên Việt Quốc hợp tác với Việt Minh, mọi công dân Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa từ đó trở đi đều sợ hăi khi bị cho là đảng viên Việt Quốc.
Việt Quốc đồng nghĩa với tội phản quốc.[38]
Đối với lực lượng
Công an nhân dân Việt Nam, đây là thắng lợi lớn trong công tác bảo
vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, bảo
vệ nhân dân, góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị bước vào cuộc
Kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954).
Lực lượng Công an
Việt Nam cho rằng, thành công của Vụ án Ôn Như Hầu đă cho thấy sự
ủng hộ của nhân dân đối với chính quyền cách mạng. Việc người dân hỗ
trợ lực lượng Công an đă khiến cho Pháp không thể sử dụng xe bọc
thép đến để cứu lực lượng thân Pháp.[43]
Ảnh hưởng
Vụ án phố Ôn Như
Hầu đă thay đổi ư kiến của một số người về vai tṛ của Việt Minh và
Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hoàng Xuân Hăn lúc đầu bào chữa cho Việt Nam
Quốc Dân Đảng, cho rằng những người bị Việt Nam Quốc Dân Đảng tra
tấn là người giàu, và những người tra tấn là thành viên Trung Hoa
Quốc Dân Đảng đóng giả làm Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng sau khi
được đưa bằng chứng là trong các xác chết có cả Việt Minh, ông lại
cho rằng họ là gián điệp.[44]
Ngày 16/7/1946,
trong một cuộc họp báo, chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng phát biểu: "Đoàn
kết là cần, nhưng không thể vin vào đoàn kết để làm điều phi pháp...
Những kẻ bắt cóc, tống tiền, ám sát th́ phải đưa ra trước pháp luật
nghiêm trị... Đây không phải vấn đề đảng phái, việc khám xét vừa rồi
là việc phải làm để bảo vệ trật tự trị an".[45] Theo Gisele
Bousquet, dù không có đủ chứng cớ buộc tội Việt Nam Quốc Dân Đảng,
Huỳnh Thúc Kháng đă thay đổi thái độ đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng
sau vụ này,[37] ông chẳng những cảm thấy ghê tởm đối với vụ án Ôn
Như Hầu, mà c̣n đối với việc Việt Minh lợi dụng việc này để trả thù
thành viên Quốc Dân Đảng sau này[44]
Ngày 20/7/1946,
Ủy ban Hành chính Bắc Bộ dù không nhắc đến Việt Quốc đă thông báo
đến các tỉnh rằng gần đây công an đă phát hiện được việc tống tiền,
bắt cóc và làm tiền giả. Tất cả đều phải bị điều tra và truy tố. Ủy
ban hướng dẫn các địa phương không để việc bắt bớ và giam giữ các
phần tử phản động biến thành khủng bố. Các Ủy ban Hành chính địa
phương giờ đă được chấp thuận cho việc bắt giữ các đảng viên Việt
Quốc đă bị phát hiện hay c̣n t́nh nghi, tuy nhiên họ không săn lùng
và hành quyết ngay lập tức. Trong những tháng sau đó, hàng ngàn
người bị bắt, bị thẩm vấn. Hàng trăm người bị tống giam, bị đưa đến
các trại cải tạo; hàng trăm người khác bị cách chức. Cán bộ pḥng
chính trị ở công an các tỉnh bắt những kẻ t́nh nghi, thẩm vấn, bắt
kư vào lời khai, sau đó đề xuất lên chính quyền tỉnh là thả, xét xử
hay biệt giam những người này.[38]
Theo lực lượng
Công an nhân dân Việt Nam, Vụ án phố Ôn Như Hầu đă giúp chính quyền
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đập tan cuộc đảo chính phản cách mạng, mà
c̣n làm tan ră hệ thống tổ chức của một đảng phản động có thực lực
nhất lúc bấy giờ, phá vỡ liên minh phản cách mạng giữa bọn phản động
bên trong với thế lực xâm lược bên ngoài. Vụ án này đă cho thấy bộ
mặt thật của Quốc Dân đảng chỉ là lực lượng phản cách mạng, câu kết
với thực dân Pháp để chống chính quyền nhân dân. Thành công của lực
lượng công an trong vụ án này đă khiến thực dân Pháp mất đi một tay
sai đắc lực trong cuộc tái xâm lược Việt Nam. Việc quần chúng nhân
dân tham gia hỗ trợ lực lượng công an và tiến hành biểu t́nh, bao
vây trụ sở, gây sức ép chính trị buộc các lực lượng phản Cách mạng
đầu hàng cho thấy sự ủng hộ to lớn của nhân dân với Chủ tịch Hồ Chí
Minh và tính chính danh của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.[46]
Chủ Nhật
06/03/2016 - 15:53
Hiệp định sơ bộ 6/3/1946:
Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ đă thực hiện một nước cờ
chính trị sắc sảo khi kư Hiệp định sơ bộ với Pháp vào ngày 6/3/1946.
Cách đây
đúng 70 năm, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và chính phủ
Cộng ḥa Pháp kư kết Hiệp định sơ bộ tại Hà Nội. Bản Hiệp định
Việt-Pháp này được đánh giá là kỳ tích khởi đầu lịch sử đấu tranh
ngoại giao của nước Việt Nam mới.
Lễ kư kết
Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 tại 38 Lư Thái Tổ, Hà Nội. Từ trái qua
phải: Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám, Sainteny, Pignon, Caput. Ảnh:
Nguyễn Bá Khoản.
Hiệp định sơ
bộ Việt-Pháp 6/3/1946 khác với 2 hiệp định sau ở chỗ đây chưa phải
là văn kiện chấm dứt một cuộc chiến tranh mà mới chỉ là hiệp định
tạm thời trước khi đạt được một thỏa thuận song phương chính thức
giữa Việt Nam và Pháp.
Tuy nhiên
văn kiện tạm thời đó lại có ư nghĩa rất lớn đối với Việt Nam trong
bối cảnh đặc thù thời đó. Chính Hiệp định sơ bộ này đă tạo nền tảng
vững chắc để bảo vệ nền độc lập dân tộc trong giai đoạn đầu của chế
độ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Cuối năm
1945 và đầu năm 1946, t́nh h́nh ở Việt Nam cực kỳ phức tạp. Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa nằm trong ṿng vây của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước – những kẻ chỉ trực chờ cơ hội để lật đổ
chính phủ cách mạng non trẻ.
Từ năm 1945,
ở miền Bắc Việt Nam, 180.000 quân của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa
Dân quốc) hiện diện với danh nghĩa giải giáp quân đội phát xít Nhật.
Quân đội Tưởng khi sang Việt Nam c̣n kéo theo đám phản động người
Việt là các đảng Việt Quốc và Việt Cách. Mục đích của quân Tưởng và
đám tay sai rất rơ ràng: “Tiêu diệt cộng sản và bắt giữ Hồ Chí
Minh”. Nếu chỉ giải giáp 3,5 vạn quân Nhật ở miền Bắc th́ Tưởng đâu
cần điều tới 18 vạn quân như vậy! Tham vọng của lực lượng Tưởng Giới
Thạch là bành trướng sang Việt Nam hoặc chí ít tạo ra một chế độ
phục tùng Trung Hoa Dân quốc ở đây.
Trong khi
đó, ở miền Nam Việt Nam, quân viễn chinh Pháp núp bóng quân Anh
(giải giáp quân Nhật) để gây hấn, khủng bố, lấn chiếm, mưu toan phá
bỏ thành quả cách mạng. Pháp không chỉ dừng lại ở miền Nam mà c̣n ủ
mưu đưa quân ra miền Bắc thiết lập trở lại chế độ thực dân cũ trên
toàn đất nước ta.
Trước t́nh
thế thù trong giặc ngoài như vậy, đă khéo léo khi th́ ḥa hoăn với
Tưởng để chĩa mũi nhọn vào thực dân Pháp, khi lại tạm ḥa hoăn với
Pháp để đối phó với quân Tưởng.
Pháp - Hoa
vừa bắt tay vừa đánh nhau
Sang đầu năm
1946, ván cờ Việt-Pháp-Hoa diễn biến mau lẹ.
Khi đó trên
lănh thổ Việt Nam, ngoài 18 vạn quân Tưởng ở miền Bắc c̣n có 35.000
quân viễn chinh Pháp (gồm 2 sư đoàn bộ binh và một binh đoàn thiết
giáp) đang ở miền Nam.
Ngày
28/2/1946, chính phủ Pháp và chính phủ Tưởng Giới Thạch đă thỏa hiệp
với nhau bằng việc kư kết một Hiệp định tại Trùng Khánh, Trung Quốc.
Theo đó, quân Pháp sẽ được thay thế quân Tưởng ở miền Bắc Việt Nam
(từ ngày 1-31/3/1946), c̣n phía Tưởng sẽ được Pháp trả lại một số tô
giới ở Trung Quốc cũng như được nhận một số lợi ích kinh tế khác.
Ngoài lợi
ích kinh tế, c̣n có 2 yếu tố khác khiến Tưởng chịu rút khỏi Việt
Nam, đó là (1) nhu cầu dồn quân chống lại lực lượng của Mao Trạch
Đông ở Trung Quốc khi đó và (2) sức ép từ phía Mỹ muốn Tưởng nhượng
bộ Pháp (mà Mỹ là nhà tài trợ chính của chính quyền Tưởng).
Thế nhưng
một sự kiện bất ngờ đă xảy ra. Sáng 6/3/1946, quân Tưởng đă chủ động
nổ súng vào tàu chiến Pháp tiến vào cảng Hải Pḥng ở miền Bắc. Quân
Pháp phản pháo ngay lập tức. Giao tranh kéo dài đến trưa hôm đó, với
thương vong và thiệt hại cho cả hai bên.
Sau lễ kư
kết Hiệp định sơ bộ 6/3/19146. Vây quanh Bác Hồ là các sĩ quan Pháp,
sĩ quan quân đội Tưởng, cùng đại diện ngoại giao của Mỹ và Anh. Ảnh:
Nguyễn Bá Khoản.
Sau lễ kư
kết Hiệp định sơ bộ 6/3/19146. Vây quanh Bác Hồ là các sĩ quan Pháp,
sĩ quan quân đội Tưởng, cùng đại diện ngoại giao của Mỹ và Anh. Ảnh:
Nguyễn Bá Khoản.
Sự kiện đấu
súng này rơ ràng không có lợi cho phe Trung Hoa Dân quốc xét về mặt
toàn cục. Nó cũng cho thấy nhiều tầng mâu thuẫn đang tồn tại trong
phe Tưởng. Thứ nhất là mâu thuẫn giữa Bộ tư lệnh quân Tưởng ở Việt
Nam với Bộ Tổng tham mưu quân Tưởng ở Trùng Khánh (trong chiến dịch
“Hoa quân nhập Việt”, Tưởng Giới Thạch đă cố t́nh điều nhiều tướng
lĩnh không ăn cánh sang Việt Nam). Thứ hai là mâu thuẫn trong nội bộ
quân Tưởng ở Việt Nam, gồm phe muốn rút về nước theo lệnh của Trung
ương Trung Hoa Dân quốc, và phe muốn ở lại để ủng hộ nhóm phản động
Việt và “kiếm chác” thêm về mặt kinh tế. Chính phe muốn rút đă hối
thúc Việt Nam sớm đạt thỏa thuận với Pháp.
Trong nội bộ
giới cầm quyền Pháp cũng có ít nhất 2 phe là chủ chiến và chủ trương
thương lượng (đại diện là viên tướng Philip Leclerc và ủy viên Cộng
ḥa Pháp tại Bắc Việt Nam Jean Sainteny). Ta nắm rơ nhóm chủ trương
thương lượng này của Pháp và đă chuẩn bị kỹ cho một kịch bản kư kết
thỏa thuận ḥa hoăn.
Chớp lấy
thời cơ
Trước đó
Việt Nam và Pháp đă bí mật đàm phán với nhau nhiều lần. Pháp cũng
muốn dàn xếp với Việt Nam để được đưa quân ra Bắc an toàn, tránh
t́nh trạng bị kháng cự mănh liệt như ở miền Nam.
Tuy nhiên
đàm phán bế tắc quanh vấn đề độc lập của Việt Nam. Phía ta không
chấp nhận “tự trị” c̣n phía Pháp không chấp nhận “độc lập”.
Trong bối
cảnh xảy ra vụ bắn nhau Pháp-Hoa, vào sáng ngày 6/3/1946 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đă đưa ra công thức mới để phá vỡ thế bế tắc, đó là thay từ
“độc lập” bằng từ “tự do” đi kèm với định nghĩa. “Chính phủ Pháp
công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là một quốc gia tự do…”. Ta và
Pháp đă nhanh chóng kư được bản Hiệp định sơ bộ vào chiều 6/3/1946.
Như vậy ở
đây Đảng ta và Hồ Chủ tịch đă nhân nhượng vào đúng thời điểm Pháp
chịu sức ép từ quân Tưởng nổ súng.
Đảng ta
không thể nhân nhượng sớm hơn (khi Pháp c̣n chưa sứt đầu mẻ trán v́
quân Tưởng), cũng không thể muộn hơn v́ có nguy cơ lớn Pháp và Tưởng
sau vụ “choảng nhau” sẽ b́nh tĩnh lại và cấu kết với nhau cùng chống
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa - khi đó t́nh h́nh sẽ vô cùng khó khăn cho
ta.
Tất nhiên sự
nhân nhượng ở đây là có nguyên tắc. Bản Hiệp định sơ bộ về cơ bản là
có lợi cho ta (tất nhiên nếu có lợi 100% cho ta th́ sẽ không thể kư
kết được một hiệp định nào với Pháp).
Cụ thể, Hiệp
định gồm 5 nội dung chính sau:
“1. Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là một
quốc gia tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài
chính của ḿnh, nằm trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp
Pháp.
2. Chính phủ Pháp cam đoan sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc
trưng cầu dân ư về vấn đề thống nhất ba kỳ.
3. Nước Việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam
thay thế quân đội Trung Hoa giải giáp quân Nhật. Số quân Pháp này sẽ
phải rút hết trong thời hạn 5 năm, mỗi năm sẽ rút 1/5.
4. Hai bên sẽ đ́nh chiến ngay để mở một cuộc đàm phán chính thức.
Trong khi đàm phán, quân hai bên ở đâu vẫn cứ đóng ở đấy.
5. Cuộc đàm phán chính thức sẽ tiến hành tại Hà Nội, Sài G̣n hoặc
Paris với nội dung quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nước ngoài,
quy chế của Đông Dương, những quyền lợi kinh tế và văn hóa của nước
Pháp ở Việt Nam.”
Dùng ngoại
giao và giấy tờ để gạt lưỡi gươm của kẻ thù
Như vậy với
việc quyết đoán kư nhanh với Pháp Bản Hiệp định sơ bộ th́ ta đă
nhanh chóng và không tốn sức lực gạt được 180.000 quân Tưởng ra khỏi
miền Bắc (dù trên thực tế, lính Tưởng phải đến tháng 6/1946 mới rút
hết về nước). Với việc kư kết này, ta đă biến điều khoản thay quân
trong Hiệp định song phương Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng thành
thỏa thuận 3 bên.
Hiệp định
thể hiện chủ quyền của Việt Nam khi quy định rơ Pháp chỉ được đưa
vào miền Bắc 15.000 quân và số quân này phải rút hết trong 5 năm.
Hiệp định sơ
bộ cũng góp phần làm giảm sức ép quân sự của Pháp đối với lực lượng
kháng chiến Nam bộ khi đó.
Nh́n tổng
thể, Hiệp định 6/3/1946 đă mở ra thời kỳ ḥa hoăn tạm thời giữa ta
và Pháp, vô hiệu hóa được âm mưu của đối phương muốn tập trung lực
lượng bóp chết chính quyền non trẻ lúc đó đang thiếu thốn đủ bề
(“không đồng minh, không tiền và hầu như không vũ khí” – lời của
Leon Pignon, cố vấn chính trị của Cao ủy Pháp ở Đông Dương). Từ thời
điểm này đến ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ta có điều
kiện tuyên truyền về chính nghĩa của ta và có thêm thời gian quư báu
để xây dựng lực lượng cho cuộc kháng chiến dài lâu.
Trong bối
cảnh Việt Nam khi đó chưa được cường quốc nào công nhận, th́ việc
thương lượng với Pháp rồi kư Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, như Hồ Chủ
tịch nhận định, đă “mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta, sẽ
dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế”.
Sự kiện kư
kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 có những nét tương đồng với việc chính
quyền Nga Xô viết chấp nhận kư kết Ḥa ước Brest-Litovsk riêng rẽ
với Đức để rút khỏi Thế chiến 1 với nhiều điều khoản nặng nề. Đảng
ta đă vận dụng sáng tạo năm 1918 vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam
năm 1946. Điểm chung giữa hai sự kiện này là việc chủ động nhân
nhượng có nguyên tắc để bảo toàn chế độ trong những hoàn cảnh cực kỳ
nguy hiểm.
Tất nhiên ở
nước Nga năm 1918 và Việt Nam năm 1946, những người cách mạng chân
chính đă gặp phải những hiểu lầm của một bộ phận đồng chí và nhân
dân cũng như những chỉ trích của những kẻ đội lốt cách mạng.
Chẳng hạn ở Việt Nam năm 1946, một số người chân thành muốn chống
Pháp đến cùng. Có người c̣n muốn dùng Tưởng để ngăn Pháp mà không ư
thức được sự nguy hiểm đặc biệt của quân Trung Hoa Dân quốc – những
kẻ sẵn sàng ở lại Việt Nam vĩnh viễn. C̣n bọn Việt Quốc và Việt Cách
th́ ra sức phản đối đường lối của ban lănh đạo Việt Minh, vu cáo Hồ
Chí Minh theo Pháp. Trước t́nh h́nh đó Đảng và chính phủ đă tổ chức
mít tinh giải thích cho đông đảo đồng bào về việc kư kết này. Sau
này, tại Đại hội Đảng lần thứ 2 vào năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định chính đồng bào và đảng viên Nam bộ khi đó cũng coi việc
kư kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 là hoàn toàn đúng đắn.
Thực tế đă
chứng minh việc kư kết Hiệp định sơ bộ này là một thắng lợi lớn của
Đảng ta và ngành ngoại giao Việt Nam.
Bài học rút
ra từ Hiệp định này không chỉ là , nhân nhượng có nguyên tắc mà c̣n
là nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù (cụ thể là
trong nội bộ thực dân Pháp, trong nội bộ quân Tưởng Giới Thạch, và
giữa Pháp và Tưởng), cũng như nghệ thuật đón lơng và tận dụng đúng
thời cơ.
Các bài học
từ Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 vẫn có giá trị cho tới tận ngày nay, khi
Tổ quốc đối diện với nhiều thách thức mới.
(Bài viết
dựa trên một số tư liệu của cố Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám
và cuộc trao đổi với Đại sứ Hoàng Vĩnh Thành - nguyên Đại sứ đặc
mệnh toàn quyền nước CHXHCN Việt Nam tại Australia).
Theo Trung
Hiếu
VOV
1946 Chủ
tịch Hồ và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Marius Moutet tại Paris sau
cuộc thương thuyết về một hiệp ước mới giữa Pháp và VN.Tạm ước
Việt-Pháp 14/9/1946: Hồ Chí Minh chân thành muốn ḥa b́nh© Flickr /
manhhai
VIỆT NAM
14:18
19.01.2017URL rút ngắn20
Theo dơi
Sputnik trên
Ngay trong
hoàn cảnh khó khăn nhất năm 1946, Hồ Chí Minh vẫn kiên nhẫn làm mọi
thứ có thể để cứu văn nền ḥa b́nh mong manh giữa Việt Nam và Pháp.
Hơn 70 năm
về trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kư với đại diện phía Pháp bản Tạm ước
nhằm ngăn ngừa nguy cơ nổ ra chiến tranh giữa Cộng ḥa Pháp và Việt
Nam Dân chủ Cộng ḥa. Sự kiện này một lần nữa khẳng định Hồ Chí Minh
hiện thân cho ḥa b́nh và hữu nghị giữa các dân tộc.
Tháng 8/1945
Việt Nam giành lại độc lập từ tay phát xít Nhật. Không cam chịu thực
tế này, quân Pháp sau đó núp bóng quân Anh quay trở lại miền Nam
Việt Nam với mưu đồ tái lập chế độ thực dân lỗi thời của họ trên
toàn đất nước Việt Nam, khôi phục lại các lợi ích đă mất.
Thời đó
trong hệ thống thuộc địa Pháp, xứ Đông Dương (gồm Việt Nam, Lào, và
Campuchia) đóng vai tṛ quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế Pháp
vừa bị Thế chiến thứ II tàn phá nặng nề. Trong hồi kư của ḿnh, Đại
tướng Vơ Nguyên Giáp viết: "Về đất đai, Đông Dương chỉ chiếm 1/16
toàn bộ diện tích thuộc địa của Pháp, nhưng lại có dân số bằng 2/5
tổng dân số của tất cả các thuộc địa của Pháp. Đây là nơi hàng năm
cung cấp cho tư bản độc quyền Pháp hơn 1 tỷ franc tiền lời. Từ năm
1900 đến 1945, số tiền lăi của Ngân hàng Đông Dương đă tăng lên gấp
33 lần. Trước Chiến tranh Thế giới thứ 2, Đông Dương là nơi được tư
bản độc quyền Pháp đầu tư nhiều nhất, trên 52 tỷ Franc."
Sự trở lại
của người Pháp không dễ dàng. Ngay từ đầu họ vấp phải sự kháng cự
quyết liệt của quân dân Nam Bộ. Ở miền Bắc Việt Nam, Pháp lo ngại
vấp phải sự kháng cự c̣n mạnh hơn thế nữa của quân và dân ta, đồng
thời cũng rất "ngán" một đối thủ khá rắn là quân đội Trung Hoa Dân
quốc của Tưởng Giới Thạch, vào Việt Nam dưới danh nghĩa giải giáp
quân Nhật theo quyết định của Hội nghị Postdam tháng 7/1945.
Trong bối
cảnh đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đă kư với Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp ngày 6/3/1946
chấp nhận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc trong thời hạn 5 năm,
thay thế 180.000 quân Tưởng Giới Thạch.
Tuy nhiên
sau khi kư kết, phía Pháp luôn tŕ hoăn thi hành Hiệp định này, thậm
chí thường xuyên vi phạm Hiệp định.
Đọ trí trên
Vịnh Hạ Long
Ngày
24/3/1946, Cao ủy Pháp ở Đông Dương d'Argenlieu đón tiếp Hồ Chủ tịch
(có Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Minh Giám và Thư kư Vũ Đ́nh Huỳnh
tháp tùng) trên chiến hạm Emile Bertin ở vịnh Hạ Long để bàn về thi
hành Hiệp định sơ bộ nói trên. Tại buổi tiếp, phía Pháp đă tranh thủ
phô trương các chiến hạm để "ra oai" với Việt Nam.
Trong cuộc
tranh luận giữa đôi bên, D'Argenlieu bộc lộ rơ ư đồ dây dưa, tŕ
hoăn.
Sau khi trao
đổi, hai bên quyết định sẽ tổ chức hội nghị trù bị Việt-Pháp ở Đà
Lạt. D'Argenlieu đồng ư với ư kiến của Hồ Chí Minh là sẽ cử một đoàn
đại biểu của Quốc hội Việt Nam đi thăm hữu nghị Quốc hội và nhân dân
Pháp vào tháng 4/1946 để tạo không khí thuận lợi cho Hội nghị
Việt-Pháp sẽ chính thức được tổ chức sau Hội nghị Đà Lạt. Hai bên
cũng nhất trí rằng một đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa vào cuối tháng 5/1946 sẽ sang Pháp để tiến hành thương thảo
và Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ đi cùng đoàn này với tư cách là thượng
khách của Chính phủ Pháp.
Đối mặt tại
Đà Lạt
Hội nghị trù
bị tại Đà Lạt khai mạc vào 19/4/1946. Hội nghị có nhiều sóng gió v́
phía Pháp luôn có mưu đồ là chia tách Việt Nam thành nhiều xứ, nhiều
quốc gia. Trên thực tế vào ngày 27/5/1946, Pháp đă ngang nhiên lập
ra cái gọi là "Cộng ḥa tự trị Nam Kỳ" (c̣n gọi là Nam Kỳ quốc), cổ
xúy cho "dân tộc Nam Kỳ", chủ trương "xứ Nam Kỳ là của người Nam
Kỳ".
Sự kiện Nam
Kỳ quốc, cũng như việc trước đó Pháp chia Việt Nam thành 3 kỳ với
chế độ cai trị khác nhau, đều nằm trong cái logic chung của thực dân
Pháp là "chia để trị". (Đường lối quen thuộc này cũng đă được thực
dân Pháp và Anh thi hành một cách bài bản ở Trung Đông. Di sản nặng
nề từ chính sách này vẫn c̣n đậm nét ở Trung Đông ngày nay.)
Pháp không
công nhận Việt Nam có quyền ngoại giao và có quyền kư các hiệp ước
quốc tế. Họ muốn tách Tây Nguyên thành khu tự trị và không đồng ư
bàn vấn đề Nam Bộ.
Trong Hội
nghị này phía Pháp c̣n gây khó dễ cho phía Việt Nam về khía cạnh kỹ
thuật (chẳng hạn ngăn trở đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa từ Sài
G̣n lên Đà Lạt, cản trở họ dùng điện đài…).
Cuối cùng
Hội nghị không đạt kết quả ǵ. Mặc dù vậy, với thiện chí ǵn giữ ḥa
b́nh, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn cử đoàn đại biểu sang Pháp đàm phán
và bản thân Người đi cùng đoàn để sang thăm chính thức nước Pháp, từ
ngày 31/5/1946.
"Đấu trường"
Fontainebleau
Hội nghị
Fontainebleau về ḥa b́nh ở Đông Dương chính thức diễn ra từ ngày
6/7 đến 10/9/1946. Địa điểm tổ chức sự kiện là ṭa lâu đài
Fontainebleau cách Paris khoảng 60km.
Hai máy bay
Dakota của Pháp đưa Bác Hồ và đoàn đại biểu Việt Nam từ Gia Lâm (Hà
Nội) sang Pháp, nhưng không bay thẳng sang Paris, mà bay ṿng qua
nhiều nơi trên thế giới và nghỉ nhiều chặng. Phải mất 12 ngày phi cơ
mới tới đất Pháp. Chỉ thị của chính phủ Pháp trước đó là: "Hăy đưa
các vị ấy đi du ngoạn càng lâu càng tốt".
Hội nghị
Fontainebleau khai mạc bằng diễn văn vô thưởng vô phạt của trưởng
đoàn Pháp Max Andre. Nhưng diễn văn của trưởng đoàn Việt Nam (ông
Phạm Văn Đồng) th́ lại mang tính tiến công cao, chỉ rơ các hành động
của Pháp vi phạm Hiệp định sơ bộ 6/3: Không đ́nh chiến, đánh chiếm
Pleiku — Kontum, chiếm phủ toàn quyền (Đông Dương cũ), lập ra chính
phủ bù nh́n ở miền Nam Việt Nam (Cộng ḥa Tự trị miền Nam, Nam Kỳ
quốc). Ông Đồng khẳng định rằng Pháp mà làm vậy th́ hai bên sẽ không
thể đi tới một thỏa thuận ḥa b́nh và hữu nghị.
Phía Pháp
nhất nhất muốn Việt Nam chỉ quan hệ với Pháp và không có Bộ Ngoại
giao riêng. Pháp đ̣i "tái lập trật tự" trước tiên rồi mở cuộc trưng
cầu dân ư ở Nam Kỳ về việc sáp nhập Nam Kỳ vào Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Ngày
26/7/1946, Cao ủy Pháp ở Đông Dương Thierry d'Argenlieu tuyên bố
triệu tập Hội nghị Liên bang Đông Dương ở Đà Lạt vào ngày 1/8/1946
với đại diện của Nam Kỳ, Tây Nguyên, Lào, và Campuchia. Đây rơ ràng
là một sự khiêu khích lớn vô cùng nguy hiểm. Sau đó, trưởng đoàn
Phạm Văn Đồng tuyên bố tạm ngừng Hội nghị Fontainebleau đến khi Pháp
đưa ra lời giải thích về sự kiện ở Đà Lạt.
Trước yêu
cầu của đoàn Việt Nam, ngày 8/8 trưởng phái đoàn Pháp Max Andre
thông báo cho phía ta rằng Hội nghị Đà Lạt vào ngày 1/8 chỉ là để
thăm ḍ ư kiến về vấn đề Liên bang Đông Dương chứ không quyết định
ǵ cả.
Hồ Chủ tịch
(không phải là thành viên đoàn đàm phán) đă đứng ra dàn xếp để Hội
nghị được nối lại.
Chiều 10/9
hai phái đoàn Việt Nam và Pháp gặp nhau để kư Tạm ước Việt-Pháp.
Phái đoàn Việt Nam yêu cầu phía Pháp ấn định chắc chắn thời điểm và
cách thức thực hiện trưng cầu dân ư ở Nam Kỳ trước khi kư Tạm ước
nhưng phía Pháp không trả lời nên phái đoàn Việt Nam rời pḥng họp.
Đoàn Việt Nam rời Paris đi cảng Toulon ngày 13/9. Ngày 16/9 đoàn
Việt Nam xuống tàu thủy về nước.
Cứu văn ḥa
b́nh đến phút chót
Dù không
tham dự trực tiếp Hội nghị Fontainebleau, Bác Hồ luôn theo dơi sát
quá tŕnh thương thảo, đưa ra chỉ đạo và có những tác động mạnh vào
quá tŕnh đàm phán.
Ngày
15/8/1946 Hồ Chí Minh tuyên bố với tờ báo Franc-Tireur (Người Du
kích) của Pháp: "Tôi đến đây để xây dựng ḥa b́nh. Tôi không muốn về
nước với 2 bàn tay không. Tôi muốn đem về cho nhân dân Việt Nam
những kết quả cụ thể, sự hợp tác mà chúng ta đều mong ước".
Sau khi Hội
nghị Fontainebleau bế tắc và thất bại, phái đoàn của Việt Nam về
nước trước, c̣n Bác Hồ cùng một vài người trong đoàn nán lại.
Để cứu văn
ḥa b́nh, ngày 14/9/1946, Hồ Chủ tịch chủ động gặp Thủ tướng Pháp
Bidault và trực tiếp đàm phán với Bộ trưởng Bộ Hải ngoại Pháp Marius
Moutet.
Sáng 14/9
Bác gặp Moutet, trao đổi ư kiến về một bản Tạm ước (modus vivendi).
Cuộc đàm phán
rất cam go, với điểm khó là vấn đề Nam Bộ. Moutet tỏ ra cứng rắn,
cho rằng nếu dàn xếp vấn đề Nam Bộ th́ sẽ "vi phạm chủ quyền của
nước Pháp". Ông ta giục "Ngài kư cho, nếu không sẽ tan vỡ". Bác Hồ
đáp lại rằng đă quyết định sẽ về nước vào 8h sáng ngày 16/9/1946.
Vào lúc 23h Bác Hồ chia tay Moutet để ra về.
Từ nhà Moutet trở về, Hồ Chủ tịch vào
pḥng riêng tiếp tục suy nghĩ. Nửa đêm hôm đó Bác gọi điện thoại cho
Moutet và sau đó đến nhà ông ta thỏa luận thêm về nội dung bản tạm
ước. Đến 0h30 (rạng sáng 15/9), lúc đó các nhân viên đi cùng đă ngủ,
th́ Người và Moutet lại gặp nhau. Hồ Chí Minh dùng nhiều lời lẽ để
thuyết phục Moutet kư Tạm ước. Sau đó hai người cùng đặt bút kư bản
"Tạm ước Việt-Pháp 14/9".
Bản lĩnh Hồ
Chí Minh
Hồ Chủ tịch
và Chính phủ Việt Nam yêu cầu tổ chức Hội nghị chính thức ở thủ đô
Paris (Pháp) để tranh thủ hậu thuẫn của dư luận Pháp, đặc biệt là
Đảng Cộng sản Pháp khi đó đang khá mạnh trên chính trường nước này
sau Thế chiến II. C̣n Chính phủ Pháp lựa chọn tổ chức Hội nghị ở
Fontainebleau (cách Paris 60km) với ư đồ giảm ảnh hưởng của Hội nghị
đối với dư luận nước này.
Thế nhưng ư
đồ này của Pháp đă thất bại do uy tín to lớn của Hồ Chí Minh (trong
cộng đồng Việt kiều cũng như những người bạn Pháp) và cách hoạt động
khôn khéo của Bác. Với tư cách là thượng khách chính phủ Pháp (chứ
không phải là thành viên đoàn đám phán), Bác Hồ càng có điều kiện
hoạt động.
Khi Hồ Chí
Minh và đoàn đại biểu Việt Nam đến Biarritz (Pháp), nhiều Việt kiều,
nhân vật Pháp, bạn bè của Bác lần lượt chủ động đến chào hỏi Bác.
Sau khi tới
Paris, Bác lại tiếp tục gặp Việt kiều, nói chuyện với họ và cảm ơn
sự giúp đỡ của họ. Hồ Chí Minh dành thời gian thăm và tiếp những
người bạn Pháp cũ như Leon Blum, và làm quen với những người bạn
Pháp mới. Nhiều nghị sĩ Pháp tỏ ra xúc động khi được gặp Bác.
Đặc biệt Bác
cũng tiếp cả các doanh nhân Pháp — những người đă chăm chú nghe Bác
tŕnh bày chủ trương của Việt Nam là tôn trọng quyền lợi kinh tế của
Pháp và muốn được Pháp hỗ trợ về kinh tế, kỹ thuật để khắc phục t́nh
trạng lạc hậu. Các doanh nhân này hỏi Bác nhiều câu hỏi cụ thể.
Trong quá
tŕnh diễn ra Hội nghị Fontainebleau, Hồ Chí Minh tổ chức một số
cuộc họp báo hoặc buổi tiếp riêng phóng viên các tờ báo cánh tả của
Pháp để tŕnh bày lập trường của Việt Nam.
Chẳng hạn
ngày 12/7/1946 Bác mở họp báo, khẳng định "Về kinh tế và văn hóa,
chúng tôi tán thành một "liên kết" với nước Pháp trong khuôn khổ
Liên hiệp Pháp". Bác cũng nhấn mạnh Liên bang Đông Dương chủ yếu là
để liên kết Việt Nam, Lào và Campuchia về kinh tế, chứ không thể
biến thành một Phủ toàn quyền trá h́nh. Động thái ngoại giao này vừa
tranh thủ dư luận Pháp vừa động viên tinh thần phái đoàn ta trong
Hội nghị.
Phóng viên
các báo đến rất đông và thích nghe những lời giải thích của Bác.
Nội dung Tạm
ước 14/9/1946
Bản Tạm ước
14/9 không giải quyết cụ thể vấn đề nào cả, chỉ nêu những thỏa thuận
về nguyên tắc mà những tiểu ban hỗn hợp sau này sẽ cụ thể hóa cách
thức thực hiện. Một hiệp định đầy đủ và dứt khoát sẽ được thảo luận
trong cuộc đàm phán tiếp theo, chậm nhất là vào tháng 1/1947.
Theo Tạm ước
này, các lực lượng quân sự hai bên giữ nguyên hiện trạng trên chiến
trường, nhưng Pháp được trao thêm các lợi ích kinh tế.
Một số điều
khoản đáng lưu ư: Khoản 1 nêu Việt kiều ở Pháp và Pháp kiều ở Việt
Nam được hưởng quyền tự do cư trú như người bản xứ. Khoản 2 nêu xí
nghiệp Pháp ở Việt Nam hưởng sự ngang hàng về chế độ như dành cho xí
nghiệp của người bản xứ, nhất là về thuế khóa và luật lao động.
Khoản 5 quy định "đồng bạc Đông Dương sẽ là thứ tiền duy nhất tiêu
dùng trong toàn cơi Đông Dương…", và đồng bạc này lệ thuộc vào đồng
franc của Pháp. Khoản 9 khẳng định chính phủ hai bên sẽ đ́nh chỉ mọi
hành động xung đột và vũ lực, thực hiện các quyền tự do dân chủ ở
Nam Bộ. Theo Khoản 10, các cuộc đàm phán song phương sẽ tiếp tục,
chậm nhất là vào tháng 1/1947.
Như vậy, Tạm ước 14/9 tôn trọng tinh thần và một số điều khoản của
Hiệp định sơ bộ 6/3, tạo thêm thời gian ḥa hoăn quư báu cho chính
quyền cách mạng non trẻ chuẩn bị lực lượng bước vào cuộc kháng chiến
trường kỳ (bắt đầu vào ngày 19/12/1946 và kết thúc bằng chiến thắng
Điện Biên Phủ).
Với bản Tạm ước này, phía Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă có những nhân
nhượng cuối cùng và lớn nhất đối với Pháp. Hai bên cùng có lợi từ
Tạm ước này. Nếu Pháp thật sự tôn trọng Tạm ước và nghiêm túc t́m
kiếm một hiệp định đầy đủ th́ t́nh h́nh hoàn toàn có thể phát triển
theo hướng tích cực, tránh được chiến tranh, mở ra một thời kỳ mới
tươi sáng trong lịch sử quan hệ hai quốc gia, và người Mỹ sau này sẽ
ít điều kiện can thiệp vào Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không hề ảo tưởng vào thiện chí của những kẻ
trước sau chỉ muốn áp đặt trở lại ách đô hộ thực dân lên dân tộc
Việt Nam — Người luôn chuẩn bị cho t́nh huống xấu nhất. Những nỗ lực
ǵn giữ ḥa b́nh của Người trong quan hệ với Pháp trong giai đoạn
1945 — 1946 đă cho thấy Bác luôn chân thành hy vọng vào những điều
tốt đẹp trong quan hệ Việt-Pháp và đă làm tất cả những ǵ có thể để
tránh khổ đau cho cả hai dân tộc.
(Bài
viết dựa trên Hồi kư Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, Hồi kư Bộ trưởng
Ngoại giao Hoàng Minh Giám, tư liệu của Đỗ Hoàng Linh — Phó Giám đốc
Khu di tích Hồ Chí Minh, và cuộc trao đổi với Đại sứ Hoàng Vĩnh
Thành — nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHXHCN Việt Nam ở
Australia, con trai cố Bộ trưởng Hoàng Minh Giám).
Tuy nhiên nếu các đảng phái có cướp được chính quyền th́ với âm mưu nham hiểm của Tài Phiệt Quyền Mỹ-Do Thái cuộc chiến tranh “nồi da sáo thịt“ vẫn xảy ra v́ vũ khí vẫn đang tuôn ra từ các nhà máy tạo ra số thặng dư quá lớn trong khi các nhà máy chỉ mới đi vào sản xuất được có vài năm, vũ khí, đạn dược tiêu thụ chưa đủ hoàn vốn, cần phải có vài cuộc chiến nối tiếp để các tập đoàn tư bản tài phiệt Hoa Kỳ gốc Do Thái thu lăi.
V́ vấn đề hoàn vốn, thu lăi, Hoa Kỳ lên kế hoạch đưa Ngô Đ́nh Diệm từ trong xó tối của giáo đường New York ra ánh sáng, dàn xếp để Bảo Đại mời về làm thủ tướng rồi sau đó được Edward Lansdale cố vấn, trở thành phản thần, truất phế Bảo Đại, theo lệnh Mỹ dựng lên chế độ đệ nhất Việt Nam Cộng Ḥa để đóng vai tṛ lính gác, bảo vệ lô cốt chặn con đường tràn xuống Đông Nam Á của Quốc Tế Cộng Sản lấy ư tưởng này làm lư do cốt lơi, nền tảng lư luận biện minh cho chính nghĩa để tiến hành cuộc nội chiến ư thức hệ Quốc Cộng. Thực chất cả hai chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Việt Nam Cộng Ḥa đều trở thành tay sai của các thế lực quốc tế.
Sau một trăm năm từ khi chiến hạm Pháp khai pháo tấn công Thuận Hóa. Hàm Nghi xuất bôn thảo hịch Cần Vương, sĩ phu nghe theo đứng dậy kêu gọi quốc dân tập hợp lực lượng chống giặc như Văn Thân, Đề Thám nhưng thất bại tiếp đến các phong trào Đông Du, Duy Tân đều nuôi tư tưởng xuất ngoại đông du, tây du để cứu quốc tạo ra một lớp sĩ phu nặng óc nô lệ vọng ngoại chỉ nhăm nhăm bê nguyên cặn bă của ngọai bang về làm kinh điển quang phục đất nước nhưng rốt cuộc dẫn tới hậu quả tàn hại cả dân tộc. Phan Bội Châu nhân vật tiên phong chủ xướng phong trào Đông Du bị an trí được gọi là Ông Già Bến Ngự đến cuối đời nhận thấy sai lầm nên trước khi chết phải thốt lên:”Vọng ngoại tắc tử”. Nhưng chẳng ai quan tâm đến lời nói sau cùng đấy v́ một thời những tác phẩm văn chương ái quốc đầy nhiệt huyết tạo nên danh phận, uy tín của ông khiến cả một lớp sĩ phu đàn em ngưỡng vọng và noi theo, đến khi ông nhận ra sai lầm th́ đă quá muộn. Phan Chu Trinh th́ ươn hèn nên sai lầm với câu nói "bạo động tắc tử" và khấu hiệu lộn ngược "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" v́ người ta không thể có chí khí, hay học hành với cái bụng lép, chưa đủ ăn năm nào cũng chết đói lấy đâu ra chí khí và đ̣i mở mang trí thức v́ thế nền tảng của các cuộc cách mạng đều phải đặt vấn đề dân sinh, miếng ăn cái mặc lên hàng đầu.
Tư tưởng vọng ngoại là tinh thần ỷ lại, dựa dẫm, trông chờ, tôn thờ, sùng bái ngoại bang. Bất cứ cái ǵ của ngoại bang cũng tốt đẹp, văn minh, văn hóa, khoa học, triết lư ngoại lai lúc nào cũng thâm sâu, chủ nghĩa ngoại lai luôn luôn là ngọn hải đăng, tôn giáo ngoại lai lúc nào cũng thánh thiện trong khi thực tế lịch sử cho thấy bầy đàn tôn giáo phản quốc cực đoan "thà mất nước hơn mất chúa" là tay sai đắc lực, dẫn đường cho bọn xâm lược cướp nước, thực dân Pháp, Nhật. Khi Hoa Kỳ thay chân Pháp tiến hành cuộc chiến Việt Nam, thái độ sùng bái, dựa dẫm và lệ thuộc vào sức mạnh của Hoa Kỳ đă đánh mất tinh thần tự chủ, tự quyết dân tộc khiến chế độ Việt Nam Cộng Ḥa tiến tới hoàn toàn diệt vong.
Thoát thai từ bầy đàn đào tẩu theo Mỹ, vào Mỹ trong t́nh trạng 64 % người dân Mỹ không đồng t́nh, khinh bỉ. Tập thể tỵ nạn hải ngoại lưu vong tiếp tục đắm ch́m trong vũng lấy của tâm thức nô lệ, tư tưởng vọng ngoại chưa nh́n ra sự thực dù sau gần nửa thế kỷ hầu hết đă trở thành công dân bản địa, chưa xóa bỏ được mặc cảm tự ti, chưa gột rửa được tâm thức nô lệ vọng ngoại. Thành phần này vẫn sùng bái xem người ngoại chủng có tư cách cao vời hơn hẳn người đồng hương, đồng chủng của ḿnh dẫu thực tế những người ngoại chủng chỉ là hạng người b́nh dân trong xă hội bản địa.
Cái tinh thần, ư thức nô lệ thâm căn, cố đế thể hiện qua thái độ cúc cung, khúm núm trước thành phần dân cử và công bộc xă hội Hoa Kỳ. Đứng đầu cho tư tưởng tôi đ̣i, nô lệ này là một nhóm ở quanh vùng thủ Washington D.C lúc nào cũng sẵn sàng viết thơ cầu khẩn, van nài, xin xỏ; tự thân làm nhục ḿnh chưa đủ đám này c̣n rủ rê, lôi kéo thành bầy đàn như súc vật vào quốc hội xin xỏ “những giá trị trừu tượng ngay bản thân Cộng Ḥa Liên Bang Mỹ cũng chưa hề có như Nhân quyền, Dân chủ, Tự do”, rồi sau đó tập họp, diễn tuồng, loạn ngôn với “ảo tưởng thắng lợi tinh thần” chẳng khác ǵ nhân vật AQ trong tác phẩm “AQ Chính Truyện” của nhà văn Lỗ Tấn.
Cái tinh thần nô lê vọng ngoại đó thể hiện qua những bài viết, lời lẽ xưng tụng việc chiếc USS Carl Vinson ghé cảng Đà Nẵng trong ngày 5-3 năm nay như một sự kiện quan trọng sẽ làm thay đổi t́nh h́nh ở Việt Nam và Biển Đông, xem đó là thái độ Hoa Kỳ sẵn sàng hành động nếu Trung Quốc xâm phạm Việt Nam trong khi đó chỉ là quan hệ b́nh thường giữa hai quốc gia có t́nh trạng bang giao tốt đẹp tới cấp độ “hợp tác toàn diện” “đối tác chiến lược” và Việt Nam không hề đặt vận mệnh của đất nước vào trong tay bất cứ thế lực nào....Chắc quư vị c̣n nhớ ngày 30 - 4- 1975 Trịnh Công Sơnv́ lên đài phát thanh hát bài Nối Ṿng Tay Lớn với VC nên đă bị người tỵ nạn phỉ nhổ mấy chục năm qua. Ngày nay ban nhạc của USS Carl Vinson hát bản Nối Ṿng Tay Lớn để lấy ḷng VC th́ bọn làm truyền thông vô liêm sỉ ở hải ngoại nịnh nọt, ca tụng ..
Những người Cộng Sản Việt Nam hiểu Hoa Kỳ quá rơ từ khi Truman làm ngơ trước những lá thơ của Hồ Chí Minh. Họ hiểu rơ v́ khi Hoa Kỳ c̣n là đồng minh chí cốt của Việt Nam Cộng Ḥa nhưng vẫn đâm sau lưng đồng minh tại Hội Nghị Paris bằng cách đi đêm, họp mật với họ (Việt Cộng) để rồi đến khi kư kết, bản hiệp định đ́nh chiến trở thành bản án tử h́nh tại chỗ của Việt Nam Cộng Ḥa.
Việc Mỹ gài cho Trung Quốc tiến chiềm Hoàng Sa, và cuối cùng sự diệt vong của Việt Nam Cộng Ḥa đă làm cho dân tộc Việt Nam và cả thế giới sáng mắt nhận rơ bản chất xảo trá của Hoa Kỳ. Trước đây mấy chục năm, chúng tôi đă có bài viết tự hỏi liệu chính quyền nào của dân tộc Việt Nam trong tương lai lại sẵn sàng làm tay sai, làm lính đánh thuê cho Hoa Kỳ khi lịch sử đă cho thấy sự thực dụng tàn nhẫn của Hoa Kỳ đối với các đồng minh giai đoạn.
Quốc dân Việt Nam ngày nay đă trải qua chặng đường xương máu đ̣i lại quyền độc lập, tự chủ đă thừa tri thức để không chọn con đường đầy họa hại phụ thuộc, lệ thuộc vào Hoa Kỳ, Vatican hay Trung Quốc như mơ ước của những thành phần phi dân tộc.
V́ đă làm tay sai nô lệ, tôi mọi cho ngoại bang th́ dù đó là Hoa Kỳ hay Trung Cộng vẫn là nỗi nhục và nuôi dưỡng mầm mống đại họa của dân tộc nào có ǵ hănh diện để so sánh, phân biệt, ca tụng chủ Mỹ tốt hơn chủ Tàu như đám tàn dư Việt Nam Cộng Ḥa - Nguyễn Văn Thiệu ôm đít, bám gót thái thú Graham Martin chạy sang Hoa Kỳ khi Việt Cộng tiến chiếm Sài G̣n. Tuy phương tiện vận chuyển là phi cơ, tàu biển hiện đại hơn xe ngựa, xe trâu nhưng xem ra không khác ǵ Lê Chiêu Thống và đám ṭng vong chạy theo Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh khi đại quân Tây Sơn do Quang Trung Nguyễn Huệ thống lĩnh tiến vào Thăng Long.
Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay đang nắm quyền cai trị đất nước nhưng họ chỉ có 4 triệu đảng viên khoác lớp áo giấy vàng mă và họ ư thức được sức mạnh vạn năng của quốc dân. V́ nhờ có sự hy sinh của quốc dân, người cộng sản mới đạt được thắng lợi, cưỡng chiếm được miền Nam. Sau 30 - 4 năm 1975 đến nay t́nh h́nh nội trị của Việt Nam dưới chính quyền Cộng Sản không có biến cố nào đáng kể dù đă xảy ra hai cuộc chiến tranh với Cam pu chia ở phía Nam và kẻ thù cố cựu ở biên giới phía Bắc -Trung Cộng trong t́nh trạng bị cô lập cấm vận từ Hoa Kỳ. Ngoài những tổn thất nhân mạng, thiệt hại vật chất trong chiến tranh, lănh thổ Việt Nam vẫn xem như toàn vẹn, ngoại trừ những phần lănh hải xa xôi ở Gạc Ma, Hoàng Sa nằm trong tay giặc nhưng vẫn được quốc dân nhắc nhở việc khôi phục khi đủ tiềm lực.
Quốc dân ngày nay không mù quáng để không thấy rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ tạo ra những đổi thay nhất thời do đặt mầm móng bạo động, khởi loạn từ giai cấp vô sản là thành phần chiếm đa số người nghèo khó, bần cùng và bị đàn áp, xem thường nhất trong mọi xă hội. Ngoài ra giai cấp vô sản c̣n bao gồm tầng lớp thanh niên, sinh viên trí thức mới lớn c̣n trắng tay, chưa sở hữu tài sản, chưa đủ kinh nghiệm, bản lĩnh sống đang trong t́nh trạng bế tắc, quay cuồng t́m đường xây dựng sự nghiệp. Tinh thần đấu tranh cách mạng triệt để của giai cấp khố rách áo ôm xuất phát từ ḷng hận thù giai cấp sâu sắc nên trở thành sức mạnh vô địch. Nhất thời, giai cấp vô sản có thể thành công trong việc tạo ra t́nh trạng vô chính phủ rồi soán đoạt quyền điều hành quản trị xă hội nhưng việc đưa xă hội tiến lên nằm ngoài khả năng của giai cấp vô sản.
Nhược điểm của giai cấp vô sản là khi đă trở thành giai cấp thống trị, những lănh tụ đứng đầu guồng máy cai trị bị tha hóa bởi
mê cung quyền lực, nảy sinh tác phát tham nhũng trở thành tư sản, tư bản cho thấy tính giai cấp không bền vững dẫn tới việc guồng máy cai trị rối loạn do sự phản bội tất yếu từ thành phần lănh đạo của đảng cộng sản đối với giai cấp vô sản.
Mâu thuẫn nền tảng đó chính là lư do đưa tới việc những nhà nước cộng sản sụp đổ toàn diện ở Liên Xô và Đông Âu. (Kim Âu)
Tại Việt Nam vào thời điểm cuối thập niên 1980 hạ tầng xă hội c̣n man khai, chưa có chính sách tài chính, kinh tế sản xuất theo phương thức thủ công tập thể, chưa công nhận quyền tư hữu, công quỹ thiếu hụt Hoa Kỳ cấm vận, do đó chưa xảy ra t́nh trạng chuyển đổi giai cấp nhưng toàn dân ch́m trong nghèo đói, đất nước kiệt quệ, dân tộc trên đà diệt vong nhờ đó thoát khỏi cơn địa chấn chính trị khi Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ tận gốc ở Liên Xô làm đứt tung xiềng xích trói buộc các quốc gia Đông Âu, khiến Nguyễn Văn Linh hoảng sợ Cộng Sản Việt Nam sẽ sụp đổ theo hiệu ứng dây chuyền nên đánh mất tư cách lănh đạo, hạ ḿnh chấp nhận nhượng bộ không điều kiện khi đàm phán về Cam Pu Chia tại Hội Nghị Thành Đô với Trung Cộng vào ngày 3/4 tháng 9- 1990. (Cục T́nh Báo Hoa Nam thổi phồng thành Mật Ước Thành Đô cho tay sai loan truyền trong đám người Việt phi dân tộc ở hải ngoại lâu nay).Thỏa thuận cho anh em cựu quân cán chính VNCH ra tù được đi tái định cư ở Mỹ cũng được kư kết trước đó vào ngày 30 tháng Bảy năm 1989.
Ngày 5 tháng 1 năm 1990, chuyến bay đầu tiên xuất khẩu cựu tù nhân chiến tranh VNCH sang Hoa Kỳ tái định cư. Toàn bộ chương tŕnh này đưa khoảng hơn hai trăm ngh́n người thuộc VNCH và gia quyến rời khỏi Việt Nam mở đường cho quyết định hủy bỏ tỉnh trạng cấm vận, tái lập và b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với CHXHCN Việt Nam.
Ngày 11 tháng 7 năm 1995 , Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố chính thức b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngoại giao Hoa Kỳ và Việt Nam đă trở nên gắn bó và đa dạng hơn trong những năm đă b́nh thường hóa chính trị. Hai nước đă thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị, đối thoại về nhân quyền (giả tạo) và an ninh khu vực, kư kết Hiệp định Thương mại song phương vào tháng 7 năm 2000, có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001.
Tháng 11, 2007, Hoa Kỳ chấp thuận Quy chế Quan hệ Thương mại B́nh thường Vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam.
Việc giải quyết những hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam qua việc đổi thù thành bạn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thêm một lần nữa cho thấy Việt Nam Cộng Ḥa chỉ là một con tốt thí trên bàn cờ thế giới phục vụ cho quyền lợi của Tài Phiệt Quyền Hoa Kỳ.
Thật ra trên bàn cờ tất cả các quân cờ đều có giá trị tương đương. Trong cuộc cờ kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao; tự thân con cờ có thể tạo ra giá trị của chính ḿnh bằng những cuộc vận động chuyển biến ư thức nội tại, con tốt có thể chiếu bí con tướng.
Tiếc thay ở thời kỳ hậu thế chiến thứ hai, con tốt Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản biết cách tự vận động, quyền mưu. Ngược lại con cờ Bảo Đại, Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn bại năo, vô cảm, ỷ lại, phó thác vận mệnh cho ngoại bang quyết định; Pháp, Hoa Kỳ đặt đâu ngồi đó, cho sống th́ được sống, cho chết đành chịu chết. Như Nguyễn văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm không có chút liêm sỉ tự xử mà bỏ cả danh dự, mồ mả gia đ́nh để đổi lấy kiếp sống thừa hèn mọn nơi xứ người.
Con đường tương lai của đất nước và dân tộc là "dĩ dân vi bản" chỉ có những kẻ ch́m đắm trong "vũng lầy phi dân tộc" do các thế lực ngoại lai như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Vatican, CIA, Cục T́nh Báo Hoa Nam tạo ra mới không nhận thấy những chuyển biến tích cực trong xă hội Việt Nam. Quốc dân Việt Nam ngày nay đă tỉnh giấc v́ thực tế:"Lịch sử đă chứng minh, không một đám ngoại nhân nào yêu thương đất nước và dân tộc của chúng ta nếu chính chúng ta không biết yêu thương lấy đất nước và dân tộc của ḿnh.Dân tộc Việt Nam phải tự quyết định vận mệnh của ḿnh chứ không thể van nài, cầu xin được trở thành quân cờ phục vụ lợi ích của ngoại bang và các thế lực quốc tế."
Bài học vọng ngoại đau nhục của phong trào Đông Du, Duy Tân tạo ra một lũ xôi thịt c̣ mồi, tôi tớ, tay sai cho ngoại bang đă đưa tới những hậu quả đáng hổ thẹn là sự xuất hiện của chế độ chuyên chính vô sản, độc tài toàn trị sắt máu của những người đi theo chủ nghĩa cộng sản dạy cho quốc dân cần phải b́nh tâm xét lại phương thức mới, con đường mới với những quyết định quan trọng cho tương lai của dân tộc.
Không có bất cứ chủ nghĩa hay tôn giáo ngoại lai nào xứng hợp với dân tộc Việt Nam. Bất cứ thế lực nào dù theo chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tư bản hay những thế lực tôn giáo ngoại lai, phi dân tộc như Thiên Chúa Gíao đă biến những người sinh ra trên đất nước Việt Nam, trưởng thảnh trong ḷng dân tộc Việt Nam nhưng lại trung thành với một thế lực ngoại giáo xem thường quốc dân, muốn thống trị quốc dân, nhân danh và lợi dụng tự do tôn giáo để phản bội tổ quốc và dân tộc sẽ không có chỗ đứng trong ḷng dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng con người thay đổi thiên h́nh vạn trạng trong từng sát na. Người ta có thể nay thờ Phật, mai theo Chúa nhưng không thể chối bỏ cha sinh, mẹ đẻ, huyết thống, gịng giơi dân tộc. Người ta có thể nay chọn chủ nghĩa này, mai chọn chủ nghĩa kia để làm lư tưởng phấn đấu nhưng chớ quên rằng mục tiêu phấn đấu là phục vụ bản thân, gia đ́nh, dân tộc và tổ quốc. Đó là nguyên nhân khiến bọn người nặng căn tính tôi đ̣i, nô lệ vọng ngoại, phi dân tộc, phi nhân đều bị xem là phần tử ngu xuẩn đang hủy hoại dân tộc và tổ quốc.
Quốc dân cần phải tỉnh táo để nhận thấy rằng nguyên nhân đau khổ của dân tộc Việt Nam khởi phát từ hai lũ giặc Tây phương đó là chủ nghĩa Thực dân Pháp và Thiên Chúa Giáo La mă. Hai lũ giặc này đă "phân chia lĩnh vực" và "phối hợp hành động" tạo ra hệ thống cai trị bằng "thế quyền thực dân Pháp" và "thần quyền Thiên Chúa Gíao La Mă" để đồng hóa, nô lệ hóa dân tộc Việt Nam cả về vật chất và tinh thần.
Các tu sĩ Ḍng Phanxicô là những người đến Việt Nam đầu tiên vào năm 1578; các tu sĩ Ḍng Tên đến vào năm 1615 nhưng họ mới là những người có công lớn với Vatican trong việc thiết lập vững chắc những cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại cả Đàng Ngoài và Đàng Trong. Khi đó, đức tin Công giáo đă được truyền bá một cách bí mật, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam đă chọn thánh Giuse làm bổn mạng do chiếc thuyền của các nhà truyền giáo cập bến tại Việt Nam đầu tiên đúng vào ngày lễ thánh Giuse.
Bọn truyền giáo thừa sai, gián điệp của La Mă đă mai phục gần bốn thế kỷ (1578-1859) dựa vào sự chiến thắng của thế quyền thực dân Pháp chiếm được Việt Nam đă ra mặt xui giục bọn thực dân Pháp ra lệnh băi bỏ chữ Hán và Nôm thay bằng chữ quốc ngữ do chúng tạo ra từ hệ thống phiên âm kư hiệu Latin.
Tháng 2/1869 Phó đô đốc Marie Gustave Hector Ohier kư Nghị Định Bắt Buộc dùng chữ quốc ngữ thay thế chữ Nho ở Nam Kỳ.Tháng 6/4/1878 Thống đốc Nam Kỳ Lafont kư Nghị định 82. 1882 đưa chữ quốc ngữ vào văn bản hành chánh, quan chức, nhân viên không biết chữ quốc ngữ không được bổ nhậm thăng thưởng ngạch trật. Năm 1879 đưa chữ quốc ngữ vào giáo dục. Miễn thuế thân cho người biết chữ.
Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ băi bỏ các khoa thi (Hương - Hội - Đ́nh) ở Bắc Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ băi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919 băi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt. Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin kư quyết định đưa chữ Quốc Ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học.
Trong một bài viết Nguyễn văn Lục ca ngợi "người Pháp không hề đốt sách vở" cho thấy tầm nhận thức của anh ta có vấn đề một là quá ngu hoặc là không có tŕnh độ nhận xét, lư luận. Thực dân Pháp cần ǵ đốt sách, chỉ qua mấy sắc lệnh như thượng dẫn đă trở thành một chiến dịch bài trừ có thể gọi là 'thảm sát văn hóa Việt Nam". Chỉ trong khoảng hơn 50 năm cả một di sản văn hóa Hán Nôm của dân tộc Việt Nam xem như tự biến mất. Các thế hệ Việt Nam sau đó từ năm 1930 hầu như rất hiếm người đọc được chữ Hán và Nôm ngoại trừ những nhà chuyên môn. Sự việc này chính là một đ̣n thảm sát có thể gọi là 'diệt chủng" trong lĩnh vực văn hóa, ngôn ngữ, lịch sử.
Đó là nỗi nhục, là tội lỗi của Nguyễn triều đă "cơng rắn cắn gà nhà", "rước voi về dày mả tổ", làm mất nước rồi làm bù nh́n, tay sai cho bọn giặc cướp nước giết hại những người ái quốc và d́m cả dân tộc vào ṿng nô lệ. Điều nguy hại nhất mà chúng ta cần nhận thức rơ là hơn một thế kỷ vừa qua bao nhiêu thế hệ Việt Nam cùng bị nhồi nhét bằng một nền văn hóa lịch sử do đám sử nô, bồi bút của thực dân Pháp và triều Nguyễn viết ra.
Chúng ta đă bị ngu hóa đến tận cùng về lịch sử dân tộc Việt Nam. Bọn bồi bút, sử nô viết sách, viết sử dạy chúng ta cám ơn công đức khai hóa của bọn thực dân cướp nước, hiện nay những anh giáo sư trung học Nguyễn văn Lục, Trần Gia Phụng, Phạm Cao Dương v.v ở hải ngoại cũng muốn làm sử gia nhưng lại biến thành sử nô v́ kiến thức lơ mơ, phiến diện đều ca ngợi thực dân Pháp và bọn cố đạo gián điệp không hề biết thẹn với dân tộc.
Những tên này đă đi lộn đầu xuống đất khi tôn vinh tên bán nước Phan Thanh Gỉan, bọn tay sai như Pétrus Kư, Nguyễn Trường Tộ, Trần Lục và những tên bù nh́n thuộc gịng dơi Nguyễn Phước. Những tên này có mắt như mù, có đầu nhưng không có năo nên đă nhắm mắt ca ngợi "sử gia Trần Trọng Kim" qua cuốn "Việt Nam Sử Lược" viết bằng "tân quốc ngữ" để rồi ngày nay những nạn nhân bị nhồi sọ đọc lại mới nhận ra Trần Trọng Kim thật ra chỉ đáng gọi là "sử nô".
Nỗi đau này đối với những thế hệ Việt Nam từ 1920 và thành phần rơi rớt lại của thể chế Việt Nam Cộng Ḥa ở hải ngoại hiện nay chính là nỗi đau thiên cổ.
Viết những gịng này chúng tôi rùng ḿnh! Tội ác của bọn cố đạo, giặc Pháp, triều Nguyễn đối với dân tộc Việt Nam thật ghê gớm, sâu nặng. Hậu quả kinh hoàng của một trăm năm nô lệ giặc Tây đă chia cắt đất nước, phân hóa, chia rẽ dân tộc và biến đổi cả lịch sử, văn hóa, bản chất, dân tộc tính của gịng giống Việt Nam.
THỰC DÂN PHÁP BÔI XÓA DI SẢN VĂN HÓA DÂN TÔC VIỆT NAM QUA THAY ĐỔI CHỮ VIẾT
Sau khi Việt Nam Cộng Ḥa tiêu vong hơn ba năm, chúng tôi được chuyển từ trại tử h́nh Cổng Trời, Quyết Tiến, Hà Giang về trại 5, Lam Sơn, Thanh Hóa rồi lên trại Thanh Phong vùng thượng nguồn sông Mă, sông Chu, Như Xuân, Thanh Hóa sau cùng chuyển từ nhà tù nhỏ sang nhà tù lớn; tôi thường tự hỏi: Tại sao Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ và tiêu vong nhanh vậy? Câu trả lời đă rơ dần lên khi tiếp cận với những sự thật, bằng chứng, nhân chứng nhưng vẫn hoàn toàn không thỏa đáng được nhu cầu của nhận thức lịch sử..
Đến khi ra hải ngoại, tham khảo những tài liệu lịch sử phong phú, chúng tôi mới thực hiểu cả dân tộc ta, hay nói đúng hơn là tất cả các quốc gia nhược tiểu trên khắp thế giới đều là nạn nhân của bọn thực dân Âu Tây, đám cố đạo Vatican và các tập đoàn Tài Phiệt Quyền Do Thái đă chiếm thượng phong thi thố âm mưu kiểm soát thế giới và thống trị nhân loại hơn 100 năm qua.
Những thế lực này đă bịt mắt và nô dịch cả nước Mỹ, dùng tiên thuế của dân Mỹ làm ngân sách, công dân Mỹ làm công cụ bạo lực đàn áp thế giới duy tŕ quyền kiểm soát thế giới dưới chiêu bài bảo vệ dân chủ và nhân quyền giả dối.
Những thế lực này đă tạo ra Quốc Tế Cộng Sản, kích động chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật tạo ra chiến tranh để làm giàu và dùng ṭa án chiến tranh Nuremberg để che đậy những tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân và Vatican đă gây ra suốt mấy trăm năm và c̣n kéo dài đến chừng nào nhân loại chưa hoàn toàn thức tỉnh.
Quốc dân Việt Nam ngày nay liệu có ngu muội để cho lịch sử đau thương tái diễn? Chắc chắn là không! Nhưng một bộ phận người Việt Nam lưu vong ở hải ngoại vẫn ngu muội và điên cuồng v́ bị nhồi sọ đến mất cả lương tri khi tiếp tục nuôi giấc mơ bệnh hoạn cầu mong Hoa Kỳ sớm trở lại Việt Nam để lật đổ và tiêu diệt thể chế hiện hành bằng bom đạn.
Thậm chí có những tên sử nô c̣n ca tụng việc Hoa Kỳ giao toàn bộ Biển Đông cho Hoa Lục năm 1974, phản bội Việt Nam Cộng Ḥa trong cuộc chiến Đông Dương là một kế sách hoàn hảo để chiến thắng cộng sản?!?!
Hỡi những kẻ vô minh, ngu muội v́ bị ảnh hưởng bởi đ̣n tiêu diệt văn hóa dân tộc quá sức hiểm ác, độc địa của Thiên Chúa Giáo La Mă và thực dân Pháp cùng bọn tay sai, bồi bút, sử nô đă giáng lên đầu dân tộc Việt Nam, các người hăy thức tỉnh để tự giải phóng tư tưởng ra khỏi sự vô minh bằng cách học hỏi, nghiêm chỉnh nh́n nhận sự thật. Trừ một thiểu số người Việt quốc gia chân chính, đại bộ phận cộng đồng hải ngoại hiện nay đều mang tâm địa và hành động của Lê Chiêu Thống và đám ṭng vong phản quốc chạy theo Tôn Sĩ Nghị.
Chính thể cộng sản ở Việt Nam hiện nay vốn là sản phẩm lịch sử do những tội ác của Thiên Chúa Giáo,Thực Dân Pháp và Tài Phiệt Quyền Do Thái - Hoa Kỳ tạo thành đă tự thoái hóa và sớm thay đổi theo nguyện vọng của quốc dân.
Không chỉ quốc dân Việt Nam mà bất cứ quốc dân của một quốc gia nào yêu độc lập tự chủ trên thế giới đương đại đều không chấp nhận chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa can thiệp dưới mọi h́nh thức đồng thời tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Các dân tộc trên thế giới đều có đủ bản lĩnh để làm chủ đất đai, lănh thổ, tài nguyên để từng bước tự tạo dựng xă hội phồn vinh hạnh phúc theo quy luật tiến hóa và đào thải phù hợp với tập quán và văn hóa dân tộc lâu đời của họ.
Kim Âu
Jan 27/2019
Chú Thích:
[1] Phan Huy Quát (1908 - 1979) tự Châu Cử, nguyên quán Hà
Tĩnh, là thủ tướng Việt Nam Cộng ḥa từ ngày 16 tháng 2 năm 1965 đến
ngày 5 tháng 6 năm 1965. Phan Huy Quát đồng thời là thành viên Đại
Việt Quốc dân Đảng và Tổng trưởng Quốc pḥng Quốc gia Việt Nam. Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông tổ chức vượt biên nhưng bị phát hiện,
bị tuyên án tù và mất trong nhà lao Chí Ḥa ngày 27 tháng 4 năm 1979
do bệnh viêm gan.
[2] điều này cho thấy đám SỬ NÔ hải ngoại như Trần Thanh Hiệp, Phạm Cao Dương, Trần Gia Phụng quá láo toét khi cho rằng chỉ có cộng sản chủ trương "cướp chính quyền" và "cướp chính quyền" không phải là Cách Mạng.
http://www.battle-of-qurman.com.cn/e/hist.htm
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.