MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA MÌNH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LÃNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ GÌN DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐÃI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI HÒA VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong giòng lịch sử

֎֎֎֎֎֎֎

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Secret Army Secret War

֎ CIA Giải mật

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Ðề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lãnh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Ký Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Bò

֎ Băng Ðảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Hòa Bình

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ Tìm IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lý

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học  

 

 

♣♣♣♣♣♣

 

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008

֎ 10-2008 ֎ 11.2008 ֎ 11-2008

֎ 12-2008 ֎ 01-2009 ֎ 02-2009

֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009

֎ 09-2009 ֎ 10-2009 ֎ 11-2009

֎ 12-2009 ֎ 01-2010 ֎ 03-2010

֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010

֎ 10-2010 ֎ 11-2010 ֎ 12-2010

֎ 01-2011 ֎ 02-2011 ֎ 03-2011

֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011

֎ 10-2011 ֎ 11-2011 ֎ 12-2011

֎ 01-2012 ֎ 06-2012 ֎ 12-2012

֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014

֎ 03-2015 ֎ 04-2015 ֎ 05-2015

֎ 12-2015 ֎ 01-2016 ֎ 02-2016

֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016

֎ 12-2016 ֎ 01-2017 ֎ 02-2017

 

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government v Congressional Record

v Associated Press v Commieblaster

v Reuter News v Real Clear Politics  

v MediaMatters v C-SPAN v.CBS

v Videos Library v Judicial Watch v

v New World Order v Illuminatti News   

v New Max v CNSv Daily Storm v

v Observe v American Progress  v

v The Guardian v Political Insider v

v Ramussen Report  v Wikileaks  v

v The Online Books Page v Breibart

v American Free Press v Politico Mag

v National Public Radio v

v National Review - Public Broacast v

v Federation of Anerican Scientist v

v Propublica v Inter Investigate v

v ACLU Ten  v CNBC v Fox News v

v CNN  v FoxAtlanta v Gateway

v Indonesian News v Philippine News v

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican?

v Roman Catholic  

v Khoa HọcTV  v Sai Gon Echo v

v Viễn Đông v Người Việt v

v Việt Báo  v Việt List  v Xây Dựngv

v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu

v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv

v Việt Tribune v Saigon Times USA v

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v

v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xã Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v

vLao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Tấm Gương

vSài Gòn v Sách Hiếm v Thế Giới  v Đỉnh Sóng

vChúng Ta  v Eurasia  v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ

v Nguyễn Tấn Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh v TPBVNCH v1GĐ/1TPB v Bia Miệng ♣♣

    

TỨ THƠ VÀ VAI TRÒ CỦA TỨ THƠ

 

1. Khái niệm tứ thơ được bàn tới cách đây hơn 1500 năm. Trong Văn tâm điêu long, ở thiên Thần tứ, Lưu Hiệp (đời nhà Lương) đã bàn rất sâu và rất kỹ về tứ. Theo ông, tứ thơ là một cái gì đó rất phi thường: “Cái tứ của văn chương, cái thần của nó xa lắm. Cho nên khi ta lặng lẽ ngừng suy nghĩ lại một chỗ thì cái tứ tiếp với ngàn năm. Ta trầm lặng thay đổi sắc mặt một chút thì cái nhìn của ta đã thông suốt đến vạn dặm”.

Ở Việt Nam, Phan Kế Bính, Bùi Kỷ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hà Minh Đức, Nguyễn Xuân Nam, Bùi Công Hùng, Mã Giang Lân… có bàn đến tứ thơ. Mỗi người có một cách trình bày riêng. Chế Lan Viên cho “tứ chẳng qua là ý lớn toàn bài” (Nghiên cứu văn học, 11/1961). Nguyễn Xuân Nam lại quan niệm “tứ là hình tượng xuyên suốt bài thơ” (Lý luận văn học, tập 2, Nxb Giáo dục, 1987). Gần đây, Nguyễn Hưng Quốc, một Việt kiều ở Úc, sau khi phê phán quan niệm về tứ thơ của Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Nam: “Một đằng thiên về ý, một đằng thiên về hình tượng. Nhưng lại giống nhau ở một điểm: bất cập”, đã nêu định nghĩa vắn tắt: “Tứ thơ là những suy nghĩ của trái tim trước cuộc đời” (Tìm hiểu nghệ thuật thơ Việt Nam). Theo chúng tôi, định nghĩa này quá chung chung bởi vì “những suy nghĩ của trái tim trước cuộc đời” không chỉ có trong thơ mà còn có cả trong các thể loại trữ tình dào dạt cảm xúc như phú, văn tế, tuỳ bút…

Tuy chưa có một định nghĩa thống nhất về tứ nhưng về cơ bản các nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học đều nhấn mạnh đến sáng tạo cá nhân, sự hoà quyện giữa cảm xúc và suy nghĩ, giữa yếu tố chủ quan và khách quan trong tứ thơ.

2. Tứ thơ, theo nhiều nhà nghiên cứu, là một cái gì rất tổng hợp. Vì thế quá trình tìm tứ thơ cũng là quá trình tổng hợp. Nhà thơ phải vận dụng cùng lúc ba khả năng: cảm xúc, liên tưởng, suy luận. Chỉ khi nào ba yếu tố ấy nhập thân vào một hình tượng cụ thể tứ thơ mới hình thành. Chẳng hạn: Nỗi buồn “tràng giang” trong Huy Cận đã có từ lâu nhưng phải đến lúc gặp cảnh sông dài, trời rộng, bèo dạt, củi trồi, bến vắng… ý niệm lẻ loi của người viễn xứ càng sâu đậm, nỗi sầu li hương càng tha thiết thì tứ thơ “Lòng quê dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” mới bật lên.

Mặt khác, tìm tứ là quá trình phát hiện cái bất thường từ những cái rất mực bình thường. Sự xuất hiện của tứ thơ thường bất ngờ, khó đoán định trước nhưng không phải là một điều ngẫu nhiên, thần bí. Chẳng hạn: Thế Lữ hàng ngày đi qua vườn Bách thảo để đến toà soạn báo nhưng phải đến một buổi trưa hè, ngồi nghỉ cạnh vườn, nghe tiếng chân người làm vườn “uể oải kéo lê trên sỏi, ghê ghê cả người”. Lúc đó mới nghĩ đến con hổ bị nhốt trong này buồn biết bao. Từ đó nẩy ra tứ thơ “thương nhớ rừng”.

Tương tự, bài Núi đôi, theo Vũ Cao cũng xuất hiện tứ “núi vẫn đôi mà anh mất em” khi nhà thơ hành quân qua miền trung du, nhìn thấy hai ngọn núi đứng gần nhau, từ đó liên tưởng đến: núi còn - người mất. Phạm Ngọc Cảnh tìm được tứ bài thơ Vầng trăng Ba Đình rất bất ngờ. Trước đó Hải Như đã ví Bác với mặt trời: “Có một mặt trời trong lăng rất đỏ”. Ông thấy cách so sánh đó không hợp với phong cách giản dị, gần gũi của Bác nhưng chưa tìm được tứ. Một đêm, đi chơi ngoại thành gặp cảnh trăng rất sáng, trải ra mênh mang, nhà thơ bỗng nẩy ra liên tưởng ánh trăng đẹp, êm dịu với phẩm chất, nhân cách hiền hoà, gần gũi của lãnh tụ và tứ thơ “vầng trăng Ba Đình” bật ra.

Theo Nguyễn Hưng Quốc, sự hình thành tứ thơ phải trải qua ba giai đoạn:

- Đầu tiên, phải có một cảnh vật, một sự kiện cụ thể có khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc.

- Ấn tượng ấy cứ âm vang mãi trong tâm hồn, tạo nên những cảm xúc sâu đậm.

- Từ ấn tượng và cảm xúc ấy, nhà thơ phải vận dụng khả năng liên tưởng, tưởng tượng và suy luận để tìm ý, tìm chất liệu triển khai thành một bài thơ hoàn chỉnh.

3. Cấu trúc của tứ

Như trên đã nói, trong tứ có cảm xúc, suy luận, liên tưởng. Tứ nẩy sinh trên một nền cảm xúc cự kỳ phong phú. Nó được chỉ đạo bởi lý trí và có những liên tưởng mới mẻ, tạo ra ý bất ngờ thú vị. Đều lấy thi liệu từ ánh trăng đẹp đẽ, hiền hoà, thơ mộng nhưng mỗi nhà thơ lại có những liên tưởng khác nhau để tạo ra tứ. Chế Lan Viên, trong bài Trăng, liên tưởng trăng với “đôi mắt em”: “Giữa hai cây lại đôi mắt em nhìn/ Anh đến suối mặt em cười dưới suối/Lòng anh chạy cho lòng em theo đuổi/ Đêm ái tình đâu cũng mặt trăng em” (Đôi mắt em). Hàn Mạc Tử liên tưởng trăng với mỹ nhân đa tình “nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi” (Bẽn lẽn). Trần Đăng Khoa lại liên tưởng trăng với mắt cá: “Trăng tròn như mắt cá/ Chẳng bao giờ chớp mi” (Trăng ơi từ đâu đến).

4. Tứ thơ có tính phổ quát

Bài thơ nào cũng có tứ. Tứ thơ có khi hiện rõ, có khi kín đáo khó tìm thấy, phải nghiền ngẫm mới tìm ra. Tìm được cái tứ mới phát hiện được cái thần sắc, cái tinh tế, sâu kín nhà thơ gửi gắm trong đó. Có bài thơ, tứ hiện lên ở tên bài như Nhớ rừng, Ta đi tới, Vầng trăng Ba Đình; hoặc trong câu thơ, khổ thơ như Núi đôi, Bẽn lẽn, Cuộc chia li màu đỏ, Yêu nhưng cũng có những bài, tứ ẩn trong hình tượng như Thời gian, Gửi hương cho gió, Hy Mã Lạp Sơn. Chẳng hạn, bài Thơ duyên của Xuân Diệu tứ kín đáo. Ở đây, nẩy sinh tình cảm từ không đến có. Thiên nhiên xúi giục ta đến với nhau. Thiên nhiên dăng mắc lưới tình bẩy “anh” và “em” vào trong đó…

5. Về cấp độ

Có hai cấp độ: tứ toàn bài và tứ cục bộ (câu, đoạn). Trong bài Màu tím hoa sim (Hữu Loan) tứ toàn bài là màu tím hoa sim gợi bao nỗi niềm thương nhớ nhưng đồng thờ bài thơ cũng có tứ cục bộ như tứ trong các câu: “Nhưng không chết người trai khói lửa/ Lại chết người gái nhỏ hậu phương”; hay tứ trong đoạn: “Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc/ Nhận được tin em gái mất/ Trước tin em lấy chồng” để nói lên cái mất mát, tang tóc bao trùm lên cả dân tộc. Đồng thời, cái đau buồn, mất mát luôn hằn sâu, khắc khoải trong cõi lòng người ở lại.

6. Vai trò của tứ thơ

 Tứ thơ qui định sự sáng tạo của hình tượng thơ. Nó làm cho tư duy nhà thơ “loé sáng”. Nó rọi ra con đường để nhà thơ đi vào hoạt động sáng tạo.

Xét trên tổng thể, tứ thơ mang tính chất “khải thị” (bừng sáng), giúp cho nhà thơ ngay lập tức trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó nhận ra tính chất toàn vẹn của vấn đề, của sự vật, hiện tượng đang đối diện với mình và thách thức cảm xúc, suy nghĩ của mình. Hay nói cách khác, Tứ thơ là một sự phát hiện - phát hiện của nhà thơ về bản thân và thế giới.

 Do tính chất phát hiện, tứ thơ đóng vai trò qui định âm hưởng, màu sắc, độ dài của bài thơ và có lúc cả thể thơ được tác giả lựa chọn. Chẳng hạn, giữa hình ảnh rặng liễu vào thu với hình ảnh cô gái xoã mái tóc buồn chẳng có mối liên hệ tất yếu gì nhưng trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, tứ thơ về sự chuyển mùa đáng giật mình của thời gian qua bước chân mùa thu đẹp thì mối liên hệ ấy trở nên tất yếu. Và chính nó làm cho âm hưởng bài thơ trở nên xôn xao buồn. Ở đây, tứ thơ đã qui định chiều hướng cảm xúc, âm hưởng, màu sắc của bài thơ.

Mỗi tứ thơ đòi hỏi phải có một thể thơ tương ứng. Có khi phải đổi thể thơ thì tứ thơ mới bật ra. Chẳng hạn: Bài Tràng giang Huy Cận phải chuyển từ lục bát sang thất ngôn; Đẹp xưa chuyển từ Đường luật sang lục bát.

Tóm lại: Công việc làm thơ trước hết là kiếm tứ. “Ngôn từ, lời chữ, vần rất quan trọng, bởi thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên, đó là cái quan trọng thứ hai, mà cái quan trọng thứ nhất làm rường cột cho tất cả là tứ thơ, nó chỉ đạo cả bài” (Xuân Diệu). Công việc của người bình thơ, phân tích thơ cũng phải tìm cho ra cái tứ trong bài. Khi tìm được tứ, ý, hình tượng, thần thái bài thơ sáng rõ, chúng ta dễ dàng lần được mạch cảm xúc và ý tứ nhà thơ gửi gắm trong đó.

Bàn thêm về tứ thơ

 

Chủ Nhật, 06/09/2015

Phạm Quốc Ca

 

Tứ thơ là một khái niệm quen thuộc trong thi học nhưng vẫn còn có thể bàn đến nhiều điều nhằm hiểu biết sâu sắc hơn và tránh những ngộ nhận, nhầm lẫn như đồng nhất tứ thơ với chủ đề trữ tình, tứ thơ là biểu hiện của ý thơ… Bài viết của chúng tôi nhằm mục đích ấy.

 

1. Tứ thơ là gì?

 

Tứ thơ là một khái niệm quen thuộc trong thi học, từ xưa tới nay đã có nhiều người bàn đến. Ở Việt Nam Huy Cận, Xuân Diệu, Mã Giang Lân, Hà Minh Đức, Nguyễn Xuân Nam, Phan Ngọc, Phan Huy Dũng và nhiều người khác đã có những kiến giải tinh tế trong các công trình nghiên cứu của mình. Ví dụ: “Suy nghĩ về nghệ thuật” (Huy Cận) [2], “Công việc làm thơ” (Xuân Diệu) [3], “Vấn đề sáng tạo tứ thơ” (Hà Minh Đức) [4], “Tìm hiểu thơ” (Mã Giang Lân) [7]…Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều nhận định những bài thơ hay thường có tứ thơ độc đáo.

 

Về tầm quan trọng của tứ thơ, Xuân Diệu đã viết: “Ngôn từ, lời chữ, vần rất là quan trọng, bởi thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên, đó là cái quan trọng thứ hai. Mà cái quan trọng thứ nhất làm rường cột cho tất cả là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài. Làm thơ khó nhất là tìm tứ” [3].

 

Trong bài “Thơ là gì?” (Tạp chí Văn học, số 1, 1991) nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng: “Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này”. Thực ra phải thay các từ hết sức quái đản bằng diễn đạt đúng hơn là độc đáo. Thơ sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Hết sức quái đản thì đã ra ngoài địa hạt thơ. Ở đây ta đọc ra sự nhấn mạnh của nhà nghiên cứu vào khía cạnh tứ thơ. Quan niệm của Phan Ngọc gần với định nghĩa của Côleritgiơ: “Một bài thơ là những ngôn từ sáng giá đứng trong một trật tự hoàn hảo”.

 

Chủ đề trữ tình có thể là một nhưng sẽ có nhiều bài thơ hay khác nhau do cách cấu tứ khác nhau. Các nhà nghiên cứu Trầm Nhân Khang, Hoàng Bội Ngọc (Trung Quốc) đã chỉ ra một thực tế: cùng thể hiện nỗi nhớ của người chinh phụ, Lý Bạch có Bài hát đêm thu, Kim Xương Tự có Xuân oán và Trần Đào có Bài hát Lũng Tây. Cả ba bài thơ này đều là những kiệt tác của thơ Đường [6]. Trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước đã có hàng vạn bài thơ thể hiện một chủ đề lớn là sức sống bất diệt của dân tộc ta, đất nước ta dưới bom đạn của kẻ thù. Có nhà nghiên cứu đã gọi đây là một tứ thơ lớn của thời đại [4]. Thực ra đây chỉ là một motif chủ đề trữ tình quen thuộc mà thôi.

 

Xuân Diệu quan niệm tứ thơ là ý được hóa thân trong một hình tượng cụ thể. Phan Huy Dũng cho rằng trong một bài thơ dài có thể có nhiều tứ thơ. Chúng tôi cho rằng những cách hiểu này đã quá mở rộng nội hàm khái niệm tứ thơ.

 

Theo chúng tôi: tứ thơ là cách liên kết, cấu trúc các ý thơ và sắp xếp mọi yếu tố cấu thành của bài thơ nhằm tập trung thể hiện có hiệu quả nhất chủ đề trữ tình.

 

Nếu hiểu thơ là nghệ thuật ngôn từ thì khi đã xác định chủ đề trữ tình rồi, nhà thơ phải đầu thai nó trong một tứ thơ độc đáo, thú vị, thể hiện rõ tài năng sáng tạo của mình. Vì vậy tứ thơ liên quan trực tiếp đến hiệu quả thẩm mỹ của bài thơ. Nếu chủ đề là nói cái gì? thì tứ thơ là nói bằng cách nào cho độc đáo và có hiệu quả thẩm mỹ nhất?. Chính nói bằng cách nào? làm nên chất thơ chủ yếu của một văn bản nghệ thuật ngôn từ.

Tứ thơ có thể xem như một cái khung kết cấu trong đó mạch thơ vận động: có khởi đầu, phát triển và kết thúc. Khởi đầu giống như khơi đúng mạch ngầm để lời thơ tuôn chảy. Tứ thơ sẽ dẫn dắt mạch trữ tình nhắm đến chủ đích nghệ thuật. Nếu không có tứ thơ chỉ đạo, dẫn dắt, ý thơ sẽ tản mạn. Kết thúc các bài thơ hay thường bất ngờ, nâng bài thơ lên một tầm cao mới về ý nghĩa khái quát cũng như hiệu quả thẩm mỹ. Ví dụ hai câu kết của bài thơ Tiếng bom ở Seng Phan (Phạm Tiến Duật):

 

Tôi ở xa Seng Phan

Nghe bom dội đêm ngày

Âm i tiếng tàu bay

Dội vào trong trí nhớ

.

Tôi đến gần Seng Phan

Nghe cây ầm ầm đổ

Cốc chén chẳng nằm yên

Lung lay cả ngọn đèn

Tiếng bom như tiếng thú

.

Tôi đứng giữa Seng Phan

Cao hơn tiếng bom là khe đá, tiếng đàn

Là tiếng mìn công binh phá đá

Là tiếng điếu cày rít lên thong thả

Tiếng oai nghiêm xe rú máy bên đường

Thế đó, giữa chiến trường

Nghe tiếng bom rất nhỏ.

 

Tứ thơ thể hiện rõ nhất tài năng sáng tạo của nhà thơ. Nhiều bài thơ ta có thể quên lời nhưng không thể quên cái tứ độc đáo của nó. Mặc dù vậy, có tứ thơ hay chưa đủ. Tứ thơ còn phải hoà quyện, hóa thân vào tình, ý, hình ảnh làm nên sinh thể bài thơ. Tứ thơ càng kín đáo càng hay. Lê Quý Đôn có lời khuyên về thi pháp thơ “Mạch kị thẳng, ý kị lộ”. Đây là một lời bàn về thơ rất tinh tế.

 

Tứ thơ cần tự nhiên, tránh gò ép. Bài thơ Mặt quê hương của Tế Hanh được nhà nghiên cứu Mã Giang Lân dẫn ra để khen trong công trình nghiên cứu Tìm hiểu thơ [7]. Nhưng theo tôi đây là bài thơ gò ép trong cấu tứ:

 

Mặt em như tấm gương

Anh nhìn thấy quê hương

Kìa đôi mắt, đôi mắt

Dòng sông yêu trong vắt

Kìa vầng trán thanh thanh

Khoảng trời xưa trong lành

Miệng em cười tươi thắm

Như vườn xanh nắng ấm

Hơi thở em chan hoà

Như không khí quê ta.

Ôi chín năm nhớ thương

Mặt em là quê hương

.

Trong liên tưởng thơ của Tế Hanh, gương mặt người yêu và gương mặt quê hương có sự tương đồng. Tứ thơ được xác lập trên sự tương đồng ấy. Tình yêu quê hương trong lòng nhà thơ miền Nam tập kết khi đất nước bị cắt chia trở nên gần gũi, thiết tha hơn. Nhưng không phải bao giờ giữa hai hình tượng này cũng có sự tương đồng như mong muốn chủ quan của nhà thơ: “Miệng em cười tươi thắm/ Như vườn xanh nắng ấm”. Rõ ràng ở đây có sự gò ép.

 

Tứ thơ vận động nhờ khả năng liên tưởng tinh tế của nhà thơ. Liên tưởng thơ cần nhất sự tự nhiên và phóng khoáng.

 

2. Một số dạng tứ thơ chính

 

Tứ thơ vô cùng phong phú, đa dạng do sáng tạo là thuộc tính của thơ. Yêu cầu lý tưởng là mỗi bài thơ phải có một tứ thơ độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên trong thực tiễn sáng tạo thơ ca ta thường gặp một số dạng tứ thơ sau đây:

 

-Tứ thơ qui nạp

 

Ở những bài thơ có mục đích thuyết phục người đọc một tư tưởng nào đó, cấu trúc tứ thơ thường có dạng vận động từ cụ thể đến khái quát. Có thể liên tưởng đến thao tác qui nạp. Bài thơ Tiếng bom ở Seng Phan (Phạm Tiến Duật) đã dẫn ở trên là một thí dụ tiêu biểu. Để đưa đến triết lý khái quát: “giữa chiến trường/ Nghe tiếng bom rất nhỏ” nhà thơ đã dẫn dắt một cách tinh tế bằng hàng loạt hình ảnh sinh động của hiện thực chiến tranh ở một trọng điểm ác liệt trên Trường Sơn.

 

Những bài thơ có tứ vận động từ cụ thể đến khái quát thường kết thúc bằng những triết lý về cuộc sống và con người.

 

-Tứ thơ diễn dịch

 

Có thể liên tưởng tứ thơ dạng vận động từ khái quát đến cụ thể với thao tác diễn dịch. Nhà thơ đưa ra một nhận định về đời sống rồi diễn dịch bằng nhiều ý thơ như những luận điểm nhằm thuyết phục người đọc. Tiêu biểu là bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? (Chế Lan Viên):

 

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

Chưa đâu ngay cả những khi đất nước mình đẹp nhất !

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng

.

Những ngày ta sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả

Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn

Trái cây rơi vào áo người ngắm quả

Đường nhân loại đi qua những bóng lá xanh rờn

Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ

Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn…

 

Dạng tứ thơ này thường gặp ở thơ chính luận, triết luận.

 

- Tứ thơ đối lập

 

Đối lập là thao tác quen thuộc trong tư duy, nhận thức của con người. Văn học nghệ thuật cũng là một dạng nhận thức đặc biệt – nhận thức thẩm mỹ. Tứ thơ dạng đối lập có tác dụng làm nổi bật tư tưởng chủ đề của bài thơ. Ví dụ bài Hai câu hỏi (Chế Lan Viên) :

 

- Ta là ai ? Như ngọn gió siêu hình

Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt.

-Ta vì ai? Sẽ xoay chiều ngọn bấc

Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.

 

Theo quan sát của chúng tôi, tứ thơ dạng đối lập được các nhà thơ sử dụng khá phổ biến. Đơn giản nhất là dạng đối lập quá khứ với hiện tại, đối lập không gian này với không gian khác.

 

-Tứ thơ tương đồng

 

So sánh tương đồng là một thao tác tư duy thường xuyên của con người nhằm làm sáng rõ đối tượng nhận thức. Tứ thơ tương đồng nhằm đưa đến hiệu quả thẩm mỹ là làm nổi bật chủ đề trữ tình. Bài thơ Không đề (Khuyết danh-Triều Tiên) là một ví dụ:

 

Khi trên khung cửi chỉ đứt

Cần mẫn em ngồi

Dùng răng dùng môi

Hai đầu nối lại

Khi đứt chỉ tình yêu, ơi cô gái

Em cũng nên làm như thế đừng quên.

 

Trong thơ Việt Nam hiện đại, bài thơ Trăng của Chế Lan Viên được cấu tứ theo dạng tương đồng:

 

Giữa hai cây lại đôi mắt em nhìn

Anh đến suối mặt em cười dưới suối

Lòng anh chạy cho lòng em theo đuổi

Đêm ái tình đâu cũng mặt trăng em.

 

-Tứ thơ ý tại ngôn ngoại

 

Đây là loại tứ thơ đặc biệt tinh tế. Các nhà thơ Việt Nam và Trung Quốc xưa thường sử dụng loại tứ thơ này làm nên nét đặc trưng thơ Á Đông. Trong thơ trung đại Việt Nam, bài Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương có tứ thơ dạng này. Với tứ thơ ý tại ngôn ngoại, người đọc phải nhận ra nghĩa bóng của bài thơ. Điều đó kích thích tính đồng sáng tạo của người đọc. Ví dụ bài thơ Người mù của nhà thơ Nga Xô viêt Vasili Fyodorov (sinh năm 1918):

 

Không nhìn thấy những người đi trước mình

Không bị ghế của vườn hoa quyến rũ

Một người mù đi trên đường phố

Dò dò từng bước bằng chiếc gậy con

Người ta xô lấn anh, qua mặt, dành đường

Anh bị lấn giữa vội vàng chen chúc

Có thể quát to lên với những người có mắt:

-Hãy biết thương tình, chớ lấn chen!

Nhưng không, tôi nghe rõ tiếng anh

Nhỏ nhẹ giữa ồn ào phố xá:

-Hãy cứ lấn chen, chẳng hề gì cả

Để tôi biết cạnh tôi đang có mọi người.

 

Phạm Quốc Ca dịch

(Văn học nước ngoài, số 2 / 2005)

 

Phía sau nghĩa đen: người mù đi trên đường phố, phải chăng nghĩa bóng (thật ra là nghĩa thực) của bài thơ là dù cuộc sống đầy những ồn ào, chen chúc, cạnh tranh, vô tình nhưng được sống giữa nhân quần vẫn là điều hạnh phúc.

 

-Tứ thơ song song

 

Ở cấu trúc tứ thơ song song, các khổ thơ trong bài đều có một thành phần điệp cú hoặc điệp ngữ. Tính lặp lại có quy luật như vậy làm nên cấu trúc độc đáo của bài thơ. Có thể kể tên một số bài thơ thuộc dạng này như: Mùa lá rụng (Olga Bergholts- Nga), Những cặp mắt đen (Cupala- Belaruxia). Trong thơ Việt Nam sau 1975, bài thơ Tự nhủ của Bế Kiến Quốc là một bài thơ hay được cấu tứ theo dạng này:

 

Bàn chân ơi, ta đưa ngươi đi

Mọi nẻo đường dù có khi ngươi vấp

Có khi dẫm vào gai và biết đâu có khi…

Ta phải đi vì ta yêu mục đích

Vành tai ơi, ta đưa ngươi đi

Đến miệng đời dù nghe lời đắng chát

Lời thô bỉ và biết đâu có khi…

Ta phải nghe vì ta yêu tiếng hát.

Cặp mắt ơi, ta đưa ngươi đi

Đến mọi nơi, thấy mọi điều đích thực,

Dù thấy điều xấu xa và biết đâu có khi…

Ta phải nhìn vì ta yêu cái đẹp.

Trái tim ơi, ta đưa ngươi ra

Khỏi lồng ngực của ta

Hiến dâng người-trái đất

Dù có buồn, dù có xót xa,

Dù có lúc nỗi đau dừng nhịp đập...

Ta phải yêu vì ta tin hạnh phúc.

 

Còn rất nhiều kiểu tứ thơ độc đáo, giàu tính sáng tạo khác cần phải được tiếp tục tìm hiểu. Chẳng hạn như trong phong trào Thơ mới (1932 – 1945) đã xuất hiện những bài cấu trúc theo âm nhạc. Bài thơ Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ) là một ví dụ tiêu biểu. Việc nhận diện các dạng tứ thơ rất có ích cho người sáng tác lẫn người nghiên cứu.

_____________________

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Quốc Ca, Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 – 2000, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003.

2. Huy Cận, Suy nghĩ về nghệ thuật, Báo Văn nghệ, số 48, 1979.

3. Xuân Diệu, Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984.

4. Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội, 1974.

5. Hà Minh Đức, Vấn đề sáng tạo tứ thơ, Báo Văn nghệ số 37, 1997.

6. Trầm Nhân Khang, Hoàng Bội Ngọc, Cấu tứ trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội, 1961.

7. Mã Giang Lân, Tìm hiểu thơ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1997.

 

 


SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: