MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH . DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Vở Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Diễn Đàn ֎ Learning ֎ Sports ֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Video/TV ֎ Lottery ֎ Đà Lạt ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa
v White House v National Archives v
v Federal Register v Congressional Record
v USA Government v Congressional Record
v Associated Press v Commieblaster
v Reuter News v Real Clear Politics v LawNews
v MediaMatters v C-SPAN vNational Pri Project
v Videos Library v Judicial Watch v Hill
v MediaFactCheck v Infowar TownHall
v New World Order v Illuminatti News
v New Max v CNSv Daily Storm Foreign Policy
v MediaBiasFactCheck v FactReport
v PolitiFact v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation
v Observe v American Progress v Fair
v The Guardian v Political Insider v Law
v Ramussen Report v Wikileaks v
v The Online Books Page v Breibart
v American Free Press v Politico
v National Public Radio v Foreign Trade
v National Review - Public Broacast v
v Federation of American Scientist v
v Propublica v Inter Investigate v CBS
v Tass Defense vRussia Militaty News
v ACLU Ten v CNBC v Fox News v
v Science&Technology v FoxAtlanta
v Gateway v New Republic v Open Culture
v Syndicate v Capital Research v Russia News
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển Bách Khoa VN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v
v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Roman Catholic v Khoa HọcTV v Sai Gon Echo v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v
CHIẾN TRANH GIAI CẤP MỚI
bởi Michael Lind American Affairs - Conspiracy Archive
Chiến tranh Lạnh đă được theo sau bởi các cuộc chiến giai cấp. Một cuộc chiến tranh xuyên Đại Tây Dương đă nổ ra đồng thời ở nhiều quốc gia giữa các tầng lớp ưu tú trong các lĩnh vực doanh nghiệp, tài chính và chuyên nghiệp và những người theo chủ nghĩa dân túy thuộc tầng lớp lao động. Cuộc xung đột giai cấp quốc tế đă tạo ra Brexit và thắng lợi của Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Các cú sốc khác c̣n có thể nằm trong kho.
Không một ư thức hệ thống lĩnh, chi phối nền chính trị của phương Tây có thể giải thích về chiến tranh giai cấp mới, bởi v́ tất cả đều giả vờ rằng các lớp, xă hội kiên định không c̣n tồn tại ở phương Tây nữa. Chủ nghĩa tân tự do (neoliberism) - hệ tư tưởng bá quyền của tầng lớp thượng lưu xuyên Đại Tây Dương - giả vờ rằng giai cấp đă biến mất trong các xă hội thuần túy nhân đạo, ngoại trừ các rào cản đối với sự di chuyển lên tới từng cá nhân vẫn c̣n tồn tại do chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nữ t và đồng tính. Không thể thừa nhận sự tồn tại của tầng lớp xă hội, quá kém để thảo luận một cách thẳng thắn về xung đột giai cấp, những người tân tự do chỉ có thể cho rằng chủ nghĩa dân túy là do sự hỗn loạn hoặc phi lư.
Giống như chủ nghĩa tự do phi chính chủ, chủ nghĩa bảo thủ chủ đạo phủ nhận sự tồn tại của các giai cấp ở phương Tây. Cùng với những người tân tự do và tự do, các nhà bảo thủ cho rằng tầng lớp thượng lưu kinh tế không phải là một nhóm bán di truyền, mà chỉ đơn thuần là sự kết hợp toàn vẹn của các cá nhân tài năng và chăm chỉ. Chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa bị đe dọa từ bên trong bởi một "lớp mới" gồm các nhà tri thức, nhà báo, nhà hoạt động phi lợi nhuận - những người được cho là có quyền lực mạnh mẽ hơn các CEO và các nhà đầu tư.
Chủ nghĩa Marx ít nhất xác nhận có các giai cấp và xung đột giai cấp nghiêm túc. Nhưng chủ nghĩa Mác-xít cổ điển, với thế tục hóa lư thuyết dự pḥng lịch sử của nó về công nhân công nghiệp như là các tác nhân vũ trụ của cuộc cách mạng toàn cầu, luôn bị ám ảnh lừa dối.
May mắn thay, có một cơ thể của tư tưởng có thể giải thích những biến động hiện nay ở phương Tây và thế giới rất tốt. Đó là lư thuyết của James Burnham về cuộc cách mạng quản lư, bổ sung bởi xă hội học kinh tế của John Kenneth Galbraith. Ư tưởng của Burnham gần đây đă có sự hồi sinh giữa các nhà tư tưởng trung tâm và trung tâm, bao gồm Matthew Continetti, Daniel McCarthy và Julius Kerin. Thật không may, xă hội học của Galbraith, cùng với kinh tế học, vẫn c̣n xa vời với thời trang.
Trong chính trị của họ, Burnham và Galbraith hầu như không có ǵ khác biệt, bất kể t́nh hữu nghị chung của họ với William F. Buckley Jr. Burnham của nhà lănh đạo này là một nhà lănh đạo trong phong trào Trotskyist quốc tế trước khi trở thành một người chống Cộng cuồng nhiệt và giúp t́m ra Thế chiến II Phong trào bảo thủ. Ngược lại, Galbraith là một người tự do đam mê trong suốt cuộc đời của ông.
Tuy nhiên, cả hai đều tin rằng một vị lănh đạo mới đă cai trị các vùng đất quư tộc và quư tộc cũ. Burnham, sau Adolf Berle và Tập đoàn Hiện đại và Tài sản Tư nhân của Gardiner Means (1932), đă đặt ra thuật ngữ "người lănh đạo quản lư" trong Cuốn sách bán chạy nhất thế giới của ông về Cách mạng Quản lư (1941). Sau đó, trong Nhà nước công nghiệp mới (1967), Galbraith đă gọi cùng một nhóm "công nghệ kỹ thuật". Trong cuốn hồi kư Một Cuộc đời của Thời đại chúng ta (1981), Galbraith đă viết: "James Burnham, một phần bởi v́ ông ta là một người cánh hữu giỏi giỏi Ra khỏi chính trị chính thống và một phần v́ ông không phải là một nhà nghiên cứu được chứng nhận, không bao giờ có đầy đủ tín dụng cho sự đóng góp của ông. Trong những phiên bản đầu của Nhà nước công nghiệp mới, tôi là một trong số những người bị thất bại. "
Trong bài viết "Những suy nghĩ thứ hai về James Burnham", George Orwell cung cấp một bản tóm tắt ngắn gọn về luận án của Burnham:
Chủ nghĩa tư bản đang biến mất, nhưng chủ nghĩa xă hội không phải là thay thế nó. Điều bây giờ phát sinh là một loại xă hội tập trung mới theo kế hoạch và sẽ không phải là tư bản chủ nghĩa, cũng như trong bất kỳ ư nghĩa nào được chấp nhận của một từ, dân chủ. Các nhà lănh đạo của xă hội mới này sẽ là những người kiểm soát hiệu quả các phương tiện sản xuất, đó là các nhà quản lư kinh doanh, kỹ thuật viên, quan chức và quân nhân, cùng với Burnham, dưới cái tên "nhà quản lư". Những người này sẽ loại bỏ nhà tư bản cũ Lớp học, đè bẹp tầng lớp lao động, và tổ chức xă hội rằng tất cả quyền lực và đặc quyền kinh tế vẫn c̣n trong tay của chính ḿnh. . . . Các xă hội "quản lư" mới sẽ không bao gồm một sự chắp vá các quốc gia nhỏ, độc lập, nhưng các quốc gia siêu quyền lực lớn được nhóm lại quanh các trung tâm công nghiệp chính ở châu Âu, châu Á và Mỹ. Những siêu tiểu bang này sẽ chiến đấu cùng nhau để chiếm hữu những phần không được che chở của trái đất, nhưng có lẽ sẽ không thể chinh phục được nhau hoàn toàn. Trong nội bộ, mỗi xă hội sẽ có thứ bậc, với tầng lớp quư tộc có tài năng ở đỉnh cao và một số nô lệ ở dưới cùng.
Luận đề của bài luận này là lư thuyết của giới tinh hoa quản lư giải thích cuộc khủng hoảng xă hội và chính trị xuyên Đại Tây Dương hiện nay. Sau Thế chiến II, các nền dân chủ của Hoa Kỳ và Châu Âu, cùng với Nhật Bản - quyết tâm tránh trở lại trầm cảm và cam kết cắt đứt các h́nh thức tuyên truyền chống lại chủ nghĩa tư bản chống lại chủ nghĩa tư bản cộng sản của các khu định cư chéo, do các chính phủ trung ương quản lư giữa các cơ quan quản lư quốc gia Tinh hoa và lao động quốc gia. Sau Chiến tranh Lạnh, cuộc cách mạng kinh doanh toàn cầu đă phá vỡ các quy tắc xă hội này. Thông qua việc trao quyền cho các tập đoàn đa quốc gia và tạo ra các chuỗi cung ứng xuyên quốc gia, giới lănh đạo quản lư đă bỏ quyền lực quốc gia và các chính phủ quốc gia và chuyển giao quyền lực chính trị từ các cơ quan lập pháp quốc gia cho các cơ quan điều hành, các cơ quan hành chính xuyên quốc gia, Và các tổ chức hiệp ước. Giải phóng khỏi những hạn chế cũ hơn, các dân tộc thiểu số quản lư của các nước phương Tây đă dự đoán rằng họ đang chạy loạn, sử dụng quyền lực và ảnh hưởng gần như độc quyền của họ trong tất cả các lĩnh vực - tư nhân, công và phi lợi nhuận để ban hành chính sách lợi ích cho các thành viên của họ gây tổn hại cho đồng bào của họ . Những nhân tố lớn lao của các tầng lớp lao động bản xứ ở các nền dân chủ phương Tây đă biến thành những bộ lạc có sức hút của chủ nghĩa dân túy chống hệ thống trong các cuộc nổi dậy bầu cử chống lại sự ích kỷ và kiêu ngạo của giới tinh hoa quản lư.
Bài tiểu luận này sẽ kết luận với sự suy đoán về khả năng các khu định cư mới giữa các nhóm thiểu số quản lư chủ đạo và các phần lớn thuộc tầng lớp lao động cấp dưới ở các nước phát triển. Những khu định cư mới, nếu chúng xuất hiện, sẽ có hai đặc điểm. Giống như các khu định cư cũ, họ sẽ được đàm phán ở cấp quốc gia, chứ không phải ở cấp độ xuyên quốc gia. Và cũng giống như các khu định cư xă hội lớn tuổi bị ảnh hưởng bởi các cuộc chiến tranh thế giới và Chiến tranh Lạnh, do đó việc sắp xếp giữa các nhà quản lư và nhân viên trong tương lai sẽ bị ảnh hưởng bởi bối cảnh địa chính trị là một trong những cuộc chiến tranh quyền lực lớn hay sự cạnh tranh quyền lực.
Quản lư Elite: Quá khứ và Hiện tại
Trong khi Burnham và Galbraith bao gồm các kỹ sư và các nhà khoa học trong tầng lớp thượng lưu mới, họ không mô tả một tiến tŕnh kỹ thuật do tiến sĩ tiến hành. Các nhà quản lư quan trọng nhất là các quan chức chính phủ và tư nhân điều hành các tập đoàn quốc gia và toàn cầu lớn và có ảnh hưởng không cân xứng trong chính trị và xă hội. Một số là những người giàu có độc lập nhưng hầu hết là nhân viên có thu nhập hoặc chuyên gia có thu nhập. Hầu hết các tỷ phú ngày nay đều sinh ra trong tầng lớp trung lưu này, và con cháu của họ có xu hướng biến mất trở lại trong ṿng một hoặc hai năm. Những nhà quư tộc di truyền thực tế sống sót ở phương Tây hiện đại là những người lỗi thời, những người nhất định tránh bị nhạo báng bằng cách che giấu ḿnh như những người làm việc chăm chỉ và những người quản lư.
Đối với nhiều người trong những năm 1940 và kể từ đó, Burnham miêu tả New Deal America, Nazi Germany, Imperial Nhật Bản và Liên bang Xô viết là những biến thể của xă hội quản lư dường như là kỳ dị. Nhưng kể từ khi sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản, trong các quốc gia dân chủ và độc tài, tiêu chuẩn toàn cầu ở cả các nước phát triển và đang phát triển là một số phiên bản của nền kinh tế hỗn hợp với các khu vực tư nhân và chính phủ.
Đội ngũ lănh đạo ưu tú lớn như thế nào? Một đại diện thô là giáo dục bậc cao. Chỉ có khoảng một phần ba người Mỹ có bằng cử nhân. Nhưng nhiều trong số này là bằng cấp từ các trường đại học có xếp hạng thấp, những người có quyền được hiểu rơ nhất là thuộc tầng lớp thượng lưu của giai cấp công nhân. Sử dụng các bằng cấp chuyên nghiệp và sau đại học như là một đại diện cho các thành viên trong tầng lớp quản lư sẽ làm cho nó không quá mười hoặc mười lăm phần trăm dân số.
Các nhà quản lư cũng như tầng lớp ưu tú là ai? Trong một xă hội thuần túy nhân đạo, các cấp bậc của giới lănh đạo có thể được hoàn thành lại hoàn toàn bởi các cá nhân di động đi lên trong mỗi thế hệ. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ, phần lớn sinh viên đại học Mỹ đến từ các nhóm nhỏ trong đó một hoặc cả hai cha mẹ có bằng đại học. Ở các nền dân chủ phương Tây khác, thành viên trong lớp quản lư hầu như thuộc về di truyền, mặc dù phần nào mở ra cho các tài năng từ bên dưới.
Bất cứ cái ǵ bạn gọi là tầng lớp thượng lưu giai cấp tư sản này - nhà quản lư hoặc cơ sở hạ tầng kỹ thuật - cơ sở quyền lực của nó là cốt lơi của cái mà Galbraith gọi là "nền kinh tế hai chiều" - các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, Dịch vụ tài chính mà họ tin cậy. Tăng lợi nhuận theo quy mô sẽ tạo ra khuynh hướng kích cỡ to lớn trong các ngành công nghiệp này, do đó xu hướng bị chi phối bởi các sản phẩm độc quyền hoặc độc quyền hiệu quả. Galbraith gọi đây là "hệ thống lập kế hoạch", đề cập đến kế hoạch riêng được thực hiện trong các tập đoàn khổng lồ mà phần nào thay thế các thị trường có quản lư nội bộ. Một cái ǵ đó giống như nền kinh tế cũ của các doanh nghiệp nhỏ, hoạt động do chủ sở hữu và thị trường cạnh tranh địa phương tiếp tục tồn tại xung quanh lơi công nghiệp-quản lư, trong cái mà Galbraith gọi là "hệ thống thị trường." Nhà sử học kinh tế Alfred D. Chandler Jr. đă xác nhận phân tích của Galbraith, sử dụng thuật ngữ "cốt lơi" và "ngoại vi" cho kế hoạch của Galbraith và các hệ thống thị trường. Đối với Galbraith và Chandler cũng như Burnham, công nghiệp hóa sẽ thay đổi cảnh quan măi măi, như sự phun trào của một ngọn núi lửa ở giữa một đồng bằng với những ngôi làng nhỏ.
Lư thuyết quản lư của xă hội là một lư thuyết tinh hoa, không phải là một khối đa nguyên. Trong những lời của Burnham:
Từ quan điểm của lư thuyết về giai cấp cầm quyền, một xă hội là xă hội của tầng lớp cầm quyền. . . . Lịch sử chính trị và khoa học chính trị chủ yếu là lịch sử và khoa học của các lớp cai trị, nguồn gốc, sự phát triển, thành phần, cấu trúc và sự thay đổi.
Các khu vực tư nhân, công cộng và phi lợi nhuận ở các nước phát triển hiện đại không có những tầng lớp tinh hoa riêng biệt và khác biệt có thể được tính để kiểm tra lẫn nhau. Thay vào đó, khu vực tư nhân có xu hướng chiếm lĩnh khu vực công thông qua chiến dịch tài chính và khu vực phi lợi nhuận thông qua các khoản đóng góp. Ngay cả khi không có những phương pháp phối hợp ưu tú nào, hầu như tất cả các nhân viên của các tổ chức tinh vi thuộc mọi tầng lớp đều thuộc tầng lớp chuyên môn quản lư và có những nền giáo dục tương tự và những quan điểm chia sẻ tạo ra một tâm lư chung, hướng về Orwellian groupthink giữa các tập đoàn Giám đốc điều hành, ngân hàng đầu tư, chính trị gia được bầu, công chức, và các nhà lănh đạo phi lợi nhuận. Sự thống trị về mặt quản lư được củng cố bởi tính di động bên cạnh ở cấp cao nhất của xă hội. Các nhà ngoại giao trở thành ngân hàng đầu tư, các ngân hàng đầu tư trở thành các đại sứ,
Cả Burnham lẫn Galbraith đều tin rằng tầng lớp lănh đạo quản lư là điều bất công hoặc bất hợp pháp. Thật vậy, cả hai đều nghĩ rằng các tập đoàn năng động, lớn và các cơ quan có thẩm quyền là cần thiết cho sự đổi mới công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Và họ không tin rằng các nhà quản lư đă thành lập một nhóm cầm quyền toàn cầu duy nhất, hơn bất cứ nhà tư bản và chủ nhà phong kiến nào trong quá khứ. Cả tầng lớp lănh đạo của Burnham và kỹ thuật của Galbraith đều bắt nguồn từ các quốc gia đặc biệt, ngay cả khi những hành động đó chỉ là những bàn đạp cho các tham vọng kinh tế địa chính trị và kinh tế của các nhóm quản lư cụ thể.
Trong khi không t́m cách đảo ngược cuộc cách mạng quản lư, Burnham và Galbraith đều lo lắng về sự tập trung của sự giàu có, quyền lực và uy tín trong giới tinh hoa mới. Là những người thực tế, họ tin rằng quyền lực của tầng lớp quản lư chỉ có thể được kiểm tra bởi cái mà Galbraith gọi là "sức mạnh đối kháng" và Burnham, theo nhà thuyết tŕnh người Ư Gaetano Mosca, gọi là "sự bảo vệ pháp lư." Cả hai cụm từ đều đề cập đến số dư xă hội thực tế Quyền lực, không chỉ là kiểm tra giấy và số dư của các hiến pháp viết.
Hợp nhất công nghiệp quốc gia
Sự thay thế chủ nghĩa tư bản kinh doanh theo chủ nghĩa tư bản quản lư hiện đại quy mô lớn đă diễn ra tương đối nhanh chóng ở Bắc Mỹ và Tây Âu vào khoảng đầu thế kỷ XX. Tại Hoa Kỳ, việc cấm các cartel kết hợp với thái độ cho phép đối với vụ sáp nhập và mua lại đă tạo ra điều mà nhà sử học Naomi Lamoreaux gọi là phong trào hợp nhất đầu tiên vào năm 1895 đến năm 1904. Trong một thập kỷ, 1.800 doanh nghiệp - phần lớn là trong ngành chế tạo - Tổng cộng chỉ có 157 công ty.
Sau làn sóng củng cố, cấu trúc của nền kinh tế Mỹ ổn định đáng kể giữa Thế chiến I và cuối thế kỷ XX. Trong cả hai năm 1917 và 1973, 22 trong số 200 công ty lớn nhất trong ngành công nghiệp dầu khí, và nhiều trong số đó là cùng một doanh nghiệp. Tương tự, trong cả năm 1917 và năm 1973, 5 trong số 200 công ty lớn nhất trong ngành cao su và 4 công ty khác nhau (Goodyear, Goodrich, Firestone và Uniroyal). Các công ty sản xuất máy móc - nhiều công ty trong cùng ngành - chiếm 20 trong số 200 công ty lớn nhất vào năm 1917 và 18 năm 1973. Trong các thiết bị vận chuyển và các sản phẩm thực phẩm có sự liên tục tương tự. Ngay cả Dầu Tiêu chuẩn của John D. Rockefeller đă sống, dưới h́nh thức "Tiêu chuẩn Trẻ em" khác nhau được tạo ra từ vụ ly khai của công ty vào năm 1911, bao gồm một số như ExxonMobil phát triển thành Leviathans toàn cầu.
Một nghiên cứu năm 1972 cho thấy mức độ cạnh tranh công nghiệp vẫn c̣n tương tự ở tất cả các nền kinh tế công nghiệp phát triển. Ví dụ, ở Anh, giữa năm 1909 và năm 1970, tỷ trọng của tất cả sản lượng sản xuất ṛng của hàng trăm công ty lớn nhất đă tăng từ 16% lên 45%.
Mô h́nh toàn cầu này không thể giải thích được theo đặc thù của luật doanh nghiệp hoặc chính trị Hoa Kỳ. Khi Chandler nghiên cứu 379 công ty sản xuất với hơn hai mươi ngh́n nhân viên vào năm 1973, sau đó được phân chia bằng nhau giữa Hoa Kỳ và nước ngoài, ông phát hiện ra rằng tỷ lệ tương tự là rất đáng ngạc nhiên: 22 công ty thiết bị vận tải ở Hoa Kỳ và 22 nước ngoài; 20 công ty máy móc điện ở Hoa Kỳ so với 25 nước ngoài; 24 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ so với 28 nước ngoài; Và 14 công ty dầu khí ở Hoa Kỳ so với 12 nước ngoài. Tất cả những điều này chứng tỏ rằng, trong mọi nền kinh tế hiện đại, các công ty trong "trung tâm" của Chandler và "hệ thống quy hoạch" của Galbraith có đặc điểm tăng lợi nhuận theo quy mô có xu hướng lớn hơn và nếu thành công lâu dài,
Các khu định cư chính trị quốc gia trong Chiến tranh Lạnh
Từ sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản quản lư thông qua Thế chiến I và Cuộc Đại suy thoái, các xă hội ở Bắc Đại Tây Dương đă bị rung chuyển bởi những vụ đụng độ giữa các tầng lớp tinh hoa của công ty, mặt khác là các công nhân tức giận và các nông dân gia đ́nh ở bên kia. Bạo lực lao động đẫm máu nhất là ở Hoa Kỳ, nơi mà các lực lượng vũ trang đă liên tục làm đ̣n bẩy. Trong trận Blair Mountain năm 1921 ở Hạt Logan, Tây Virginia, các quan chức nhà nước đă sử dụng máy bay ném bom các vũ khí có vũ trang ra khỏi không khí.
Để đạt được ḥa b́nh xă hội và vận động dân chúng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ và các đồng minh như Anh đă đưa ra các thoả thuận lao động và lao động có lợi cho các cựu chiến binh. Trong Chiến tranh Lạnh sau đó, mọi nền dân chủ công nghiệp lớn đă nghĩ ra một số "giải quyết" hoặc thỏa hiệp giữa các lợi ích về kinh doanh và lao động trong nước.
Các khu định cư sau chiến tranh là sự kết hợp giữa chủ nghĩa tư bản phúc lợi cụ thể của người sử dụng lao động và các quốc gia phúc lợi xă hội phổ cập hoặc có kiểm chứng kỹ càng. Ở Tây Đức, chủ nghĩa tư bản phúc lợi được áp dụng dưới h́nh thức "xác nhận", hoặc thành viên hiệp hội trong các hội đồng doanh nghiệp. Nhật Bản, sau cuộc xung đột lao động căng thẳng sau năm 1945, đă phát triển một hệ thống chủ nghĩa làm cha của công ty và việc làm suốt đời cho nhiều công nhân. Lao động có tổ chức rất yếu ở Hoa Kỳ sau chiến tranh, nhưng "Hiệp ước Detroit" đă thương thuyết giữa các công ty ô tô và các hiệp hội là một ví dụ thành công về chủ nghĩa kinh doanh - lao động phi chính thức. Mức nhập cư hợp pháp và bất hợp pháp thấp, và áp lực xă hội đối với các bà mẹ đă kết hôn để thoát khỏi lực lượng lao động để trở thành người nội trợ, tăng cường sức mạnh thương lượng của phần lớn lao động nam bằng cách tạo ra thị trường lao động chặt chẽ.
Những hệ thống tư bản chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa tư bản này đă tạo ra các trạng thái phúc lợi cho giai đoạn từ những năm 1940 đến những năm 1970 nhỏ hơn nhiều so với những ǵ họ có thể làm khác. Việc nén lương do các công đoàn trong hệ thống phúc lợi-tư bản tạo ra làm cho các khoản trợ cấp dễ dàng hơn cho các khoản trợ cấp như lương hưu công cộng, và điều này nhỏ hơn mức lương hưu của nhà tuyển dụng.
Các khu định cư sau năm 1945 ở Tây và Nhật Bản cho thấy quyền lực đối kháng và biện pháp pháp lư trong hành động. Kết quả là thời kỳ hoàng kim của chủ nghĩa tư bản từ những năm 1940 đến những năm 1970, kết hợp sự tăng trưởng cao với phân phối các phần thưởng của nó một cách b́nh đẳng hơn so với trước đây hoặc kể từ đó.
Hợp nhất doanh nghiệp đa quốc gia
Sau sự sụp đổ của bức tường Berlin vào năm 1989, các khu định cư quốc gia do chính phủ quản lư trong các nhà quản lư và lao động ở các quốc gia phương Tây đă bị phá vỡ bởi sự xuất hiện của một mô h́nh sản xuất công nghiệp toàn cầu và tổ chức công ty mới.
Điều mà nhà kinh tế học Peter Nolan đă gọi là "cuộc cách mạng kinh doanh toàn cầu" trong những năm 1990 và 2000, tạo ra các tập đoàn đa quốc gia đa dạng, tương đương với làn sóng sáp nhập lớn của những năm 1900, tạo ra các công ty đa quốc gia đa dạng. Trong chủ nghĩa tư bản và tự do (Anthem, 2008), Nolan quan sát:
Vào đầu những năm 2000, trong các thị trường có giá trị gia tăng cao, có công nghệ cao và / hoặc có thương hiệu mạnh trên thị trường thế giới, phục vụ chủ yếu là những người có thu nhập trung b́nh và thu nhập cao, những người kiểm soát được sức mua của thế giới, một "luật" thực sự đă có Phát huy tác dụng: một nhóm nhỏ các công ty khổng lồ, "các nhà tích hợp hệ thống", chiếm tới 50% thị trường toàn cầu. Hai công ty hàng đầu chiếm 100% thị trường toàn cầu đối với máy bay thương mại lớn và 70% thị trường đồ uống có gas có ga; Ba công ty hàng đầu chiếm hơn 80% thị trường tua bin khí và 70% thị trường thiết bị nông nghiệp, hơn 60% thị trường điện thoại di động và hơn 50% thị trường TV LCD; Bốn công ty hàng đầu chiếm hơn 60% thị trường thang máy; Năm công ty hàng đầu chiếm hơn 80% thị trường máy ảnh kỹ thuật số; Sáu công ty hàng đầu chiếm hơn 70% thị trường ngành công nghiệp ô tô và 10 công ty hàng đầu chiếm hơn 50% thị trường dược phẩm.
Vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế lớn bắt đầu với vụ tai nạn tài chính năm 2008, nhiều ngành công nghiệp toàn cầu đă bị chi phối bởi một số tập đoàn lớn. Chín mươi năm phần trăm các bộ vi xử lư (chip) được sản xuất bởi bốn công ty: Intel, Advanced Micro Devices, NEC và Motorola. Hai phần ba chai thủy tinh trên thế giới chỉ được sản xuất bởi hai công ty Owens-Illinois và Saint-Gobin. Một nửa số xe trên thế giới do bốn công ty sản xuất: GM, Ford, Toyota-Daihatsu và DaimlerChrysler. Trong các dịch vụ kinh doanh, Microsoft chiếm 90% thị phần hệ điều hành máy tính cá nhân. Năm 2007, hai công ty hàng đầu kiểm soát 86% thị trường toàn cầu trong ngành công nghiệp thông tin tài chính và 77% trong các tṛ chơi điện tử, trong khi ba công ty chiếm 71% xuất bản pháp luật và 62% thị trường toàn cầu về khớp giả.
Dưới mức của các tập đoàn xuyên quốc gia, bây giờ được gọi là "các nhà sản xuất thiết bị gốc" (OEM) hoặc "các nhà tích hợp hệ thống", một quá tŕnh hợp nhất tương tự đă diễn ra ở mức độ các nhà cung cấp. Trong t́nh trạng suy thoái kinh tế năm 2008, ba công ty GE, Pratt và Whitney và Rolls-Royce đă thống trị thị trường thế giới về động cơ phản lực. Sáu mươi phần trăm lốp được sản xuất bởi ba tập đoàn đa quốc gia: Bridgestone, Goodyear, và Michelin.
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp nhỏ lẻ toàn cầu do sự mở rộng, sáp nhập và liên minh tương ứng với xu thế sản xuất xuyên quốc gia. Từ một phần ba đến một nửa thương mại đă được intraven thương mại hoặc sản xuất xuyên quốc gia của một doanh nghiệp đa quốc gia với các nhà cung cấp trong nhiều quốc gia. IPhone của Apple đă trở thành một sản phẩm mang tính biểu tượng với các thành phần từ khắp nơi trên thế giới. Các mô h́nh của Apple iPhone 5S và iPhone 6 bao gồm các thành phần từ Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức, Pháp, Ư, Hà Lan và Singapore.
Trong khi các chuỗi cung ứng là khu vực hoặc toàn cầu, hầu hết các công ty đa quốc gia lớn vẫn tiếp tục bắt nguồn từ một quốc gia duy nhất - thường là ba quốc gia công nghiệp phát triển nhất là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Đức. Ở các nước đang phát triển, hầu hết các quốc gia yếu được chỉ định sản xuất giá trị gia tăng thấp theo các điều khoản do các công ty và nhà đầu tư ở châu Á, châu Âu, và duyên hải châu Á áp đặt. Tuy nhiên, Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin và các nước đang phát triển khác có thể sử dụng quyền kiểm soát việc tiếp cận của công ty với lực lượng lao động nội bộ và thị trường tiêu dùng lớn để thúc đẩy các dự án phát triển công nghiệp quốc gia bằng các biện pháp Thoả thuận chuyển giao công nghệ.
Kinh tế về Tranh chấp Toàn cầu
Người ta cho rằng toàn cầu hoá từ những năm 1990 là nguyên nhân của sự tăng trưởng năng suất chưa từng thấy. Trên thực tế, tăng trưởng năng suất đă thấp hơn nhiều trong thời kỳ toàn cầu hoá sau năm 1989 so với giai đoạn sau năm 1945, đặc trưng bởi nền kinh tế quốc gia ít tích hợp hơn và mức độ nhập cư thấp hơn. Một lư do có thể là, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, các nhà độc quyền xuyên quốc gia mới đă theo đuổi lợi nhuận bằng những phương pháp khác ngoài tăng trưởng năng suất theo công nghệ. Điều quan trọng nhất trong các chiến lược của công ty này là chọn lựa chênh lệch và hài ḥa chọn lọc.
Cân bằng thương mại toàn cầu có hai h́nh thức: arbitrage lao động và chênh lệch về thuế và trợ cấp. Cạnh tranh lao động bao gồm cả việc di dời sản xuất công nghiệp từ các nước phát triển có mức lương cao đến các nước đang phát triển có mức lương thấp và nhập cư quy mô lớn cả lao động có tay nghề lẫn lao động có kỹ năng sang phía Bắc toàn cầu. Sự chênh lệch lao động không khuyến khích và thậm chí có thể làm chậm tiến bộ công nghệ, bao gồm việc thay thế công nghệ mới hoặc kỹ thuật mới cho lao động đắt tiền hoặc đầu vào tài nguyên thiên nhiên. Không có động lực để làm cho công nghệ sản xuất hiệu quả hơn khi lợi nhuận có thể được tăng lên chỉ bằng cách đóng cửa các nhà máy ở các khu vực có mức lương cao và định vị chúng ở các khu vực có mức lương thấp, dù là các bang miền Nam, Hoa Kỳ hoặc các nước ngoại quốc như Mexico và Trung Quốc.
Cạnh tranh về thuế và trợ cấp là phương thức mà các công ty lợi dụng sự chênh lệch về thuế suất và trợ cấp ở các quốc gia khác nhau để tăng lợi nhuận tương tự mà không tăng năng suất. Các công ty trốn thuế bằng cách kết hợp vào các nơi ẩn náu thuế như Quần đảo Cayman, Panama, hoặc Ireland không làm ǵ để tăng năng suất. Các công ty xuyên quốc gia chuyển sang Trung Quốc không chỉ được hưởng lương thấp, không sử dụng lao động mà c̣n bao gồm các khoản trợ cấp phong phú bao gồm cả điện được trợ cấp và cơ sở hạ tầng được thiết kế riêng và các chương tŕnh giáo dục lao động.
Có lẽ sản phẩm mang tính biểu tượng của kỷ nguyên toàn cầu hóa là iPhone của Apple. Theo Konstantine Kakaes trong Review công nghệ của MIT , sản xuất tất cả các thành phần của iPhone tại Hoa Kỳ, ngoài việc lắp ráp nó ở Hoa Kỳ, tối đa sẽ thêm 100 đô la cho chi phí của thiết bị. Tuy nhiên, lợi nhuận biên của Apple sẽ nhỏ hơn nhiều so với việc sản xuất iPhone hiện tại của 6 nhà máy bằng việc sử dụng lao động không lương và lương thấp tại Trung Quốc (cộng thêm một nhà máy tại Braxin, một sự nhượng bộ cho chính sách thay thế nhập khẩu của Braxin).
Ngoài việc minh họa cho sự chênh lệch lao động toàn cầu, Apple đă làm chủ được nghệ thuật phức tạp về chênh lệch về thuế và trợ cấp. Theo Liên minh châu Âu, chính phủ Ireland cho phép Apple thu lợi nhuận từ hàng chục quốc gia thông qua hai công ty Ailen, một trong số đó là "trụ sở chính" không có nhân viên. Kết quả là, theo Ủy ban châu Âu, Apple đă thu lợi nhuận khoảng 16 tỷ euro, trong đó chỉ có 50 triệu Euro là chịu thuế ở Ireland, cho công ty 1595 tỷ Euro lợi nhuận không phải trả.
Chính trị của Tranh chấp Toàn cầu
Ngay cả khi họ khai thác cơ hội lao động quốc tế và sự chênh lệch về thuế và trợ cấp, các công ty trong kỷ nguyên toàn cầu hoá sau chiến tranh lạnh đă thúc đẩy sự hài hoà có lựa chọn của luật và các quy tắc, khi họ quan tâm đến việc làm như vậy. Trong nửa sau của thế kỷ hai mươi, các cuộc đàm phán tiếp theo dưới sự bảo trợ của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và, gần đây, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đă giảm được hầu hết các rào cản thuế quan truyền thống. Đến năm 2016, khi WTO kết thúc hiệu quả ṿng đàm phán Doha thất bại trong các cuộc đàm phán thương mại toàn cầu,
Các khu vực được lựa chọn để chênh lệch và hài hoà phản ánh các lợi ích không phải của đa số trong giai cấp công nhân quốc gia nhưng của giới tinh hoa quản lư thống trị các chính phủ phương Tây. Hài hoà các tiêu chuẩn lao động hoặc tiền lương sẽ làm giảm chiến lược chênh lệch lao động, trong khi các cuộc đàn áp thuế chống phá giá xuyên quốc gia sẽ cản trở chiến lược chênh lệch thuế của các công ty xuyên quốc gia. Thay vào đó, sự nhấn mạnh trong chính sách hài hoà hóa đă được dựa trên các tiêu chuẩn công nghiệp chung, tự do hóa các hệ thống tài chính và quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả các bằng sáng chế dược phẩm. Các h́nh thức hài ḥa này có lợi cho các công ty xuyên quốc gia, các nhà đầu tư trên Phố Wall hoặc Thành phố Luân Đôn và những người sở hữu quyền sở hữu trí tuệ ở Thung lũng Silicon và ngành dược phẩm.
Trong nhiều trường hợp, loại hài ḥa hóa quy định này làm cho tiêu chuẩn hóa các biện pháp an toàn sản phẩm, ví dụ. Tuy nhiên, các hiệp định điều ḥa mới quy định "thâm hụt dân chủ" theo hai cách.
Thứ nhất, họ loại bỏ toàn bộ các quy định khỏi phạm vi của pháp luật thông thường, thay thế nó bằng "luật pháp theo hiệp ước". Các luật lệ và quy định thuận lợi mà các nhà vận động hành lang của công ty không thể thuyết phục các cơ quan lập pháp dân chủ quốc gia để ban hành có thể được đóng gói lại và che giấu trong các hiệp định hài ḥa "Thương mại". Các hiệp ước này, thường dài hàng ngàn trang, có xu hướng được soạn thảo một cách bí mật bởi các ủy ban liên quan đến các nhà vận động hành lang của công ty và có thể được các cơ quan lập pháp phê chuẩn nếu không có sự giám sát cẩn thận.
Tệ hơn nữa, hầu hết các thoả thuận điều ḥa hiện tại bao gồm các điều khoản "giải quyết tranh chấp nhà đầu tư-nhà nước" (ISDS) cho phép các công ty cá thể kiện các chính phủ quốc gia thay đổi các quy tắc trong nước của họ sau khi thông qua điều ước tại các ṭa án tư nhân, , Không có cơ chế kháng cáo. Nếu Quốc hội ban hành luật ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của Acme Inc., th́ Acme có ít lựa chọn, ngoài việc trả tiền vận động hành lang và gây quỹ. Nhưng nếu Quốc hội phê chuẩn một hiệp ước, và sau đó thay đổi một điều khoản bằng cách thông qua một đạo luật mới, Acme có thể khởi kiện chính phủ liên bang về những thiệt hại về tài chính. Hoa Kỳ chưa phải mất một trường hợp đối với ISDS, nhưng các quốc gia khác,
Không có điều này là để ngụ ư rằng các nhà quản lư xuyên quốc gia của phương Tây và vùng duyên hải Đông Á, những người kiểm soát các nhà độc quyền toàn cầu mới là những người ích kỷ hoặc ít công sức hơn các nhà quản lư của các tập đoàn trong thời kỳ công nghiệp thứ hai. Ngược lại, trong điều kiện cá nhân, tầng lớp thượng lưu quản lư ngày nay phần lớn ít bị cuốn hút hơn và thường khá thiện thiện. Vấn đề chỉ đơn giản là các tập đoàn Mỹ, Đức và Nhật nửa thế kỷ trước bị hạn chế bởi các loại chống trợ cấp Galbraith và các biện pháp pḥng thủ pháp lư Burnhamite / Moscian đă sụp đổ. Nhờ toàn cầu hóa, chính sách tự nguyện lựa chọn nhưng không đ̣i hỏi công nghệ mới, ngày nay các công ty xuyên quốc gia ngày nay có nhiều quyền thương lượng hơn với công nhân và các quốc gia dân chủ.
Toàn cầu hoá: chủ nghĩa đế quốc Hobson?
Mô h́nh toàn cầu hoá sau chiến tranh lạnh đă được thúc đẩy chủ yếu bởi các cơ hội cho sự chênh lệch quốc tế và thao túng về thuế và trợ cấp - hơn là bị ép buộc bởi logic của công nghệ hiện đại hoặc áp lực của các lực lượng thị trường tự do - được gợi ư bởi thực tế là Một triết gia về xă hội học người Anh John A. Hobson đă nh́n thấy một mô h́nh toàn cầu hóa tương đồng xuất hiện cách đây hơn một thế kỷ khi công nghệ khá khác biệt. Trong chủ nghĩa đế quốc: Một nghiên cứu (1902), Hobson đă suy đoán rằng, nếu các quốc gia công nghiệp phương Tây kiềm chế xung đột quân sự với nhau, họ có thể hợp tác với dự án chung về phát triển kinh tế của châu Á nói chung và Trung Quốc nói riêng.
Các nhà tư bản phương Tây, Hobson gợi ư theo ngôn ngữ chủng tộc trong thời đại của ḿnh, có thể mua sự chấp nhận của các tầng lớp lao động phương Tây trong việc chuyển giao sản xuất từ châu Âu và Mỹ sang châu Á bằng cách cho phép họ chia sẻ tiền thuê có được bằng việc khai thác lao động Trung Quốc nghèo khó:
Nói cách khác, các nhà đầu tư và các nhà quản lư kinh doanh của phương Tây dường như đă tấn công Trung Quốc một mỏ năng lượng lao động phong phú hơn bất kỳ mỏ vàng và khoáng sản nào khác đă chỉ đạo các doanh nghiệp hoàng gia ở Châu Phi và các nơi khác; Nó có vẻ to lớn và mở rộng như vậy để mở ra khả năng nâng cao toàn bộ quần thể da trắng của phương Tây lên vị trí của "quư ông độc lập", sống như những khu định cư nhỏ ở Ấn Độ hoặc Nam Phi, Những người kém cỏi. . . . Một thí nghiệm như vậy có thể làm cách mạng hóa các phương pháp của chủ nghĩa đế quốc; Áp lực của các phong trào lao động trong nền chính trị và công nghiệp ở phương Tây có thể gặp phải bởi hàng loạt các hàng hóa của Trung Quốc, để giảm lương và buộc ngành công nghiệp phương Tây hoặc, nơi quyền lực của đế quốc đế quốc là tốt bộ,
Dự đoán của Hobson về những "binh lính đánh thuê màu vàng" đang được sử dụng để đàn áp lực lượng lao động phương Tây, giống như những lời tiên tri tương tự Yellow Peril tương tự như thế, đă không được thực hiện. Nhưng những dự đoán khác của ông, được dịch ra ngôn ngữ hiện đại, đă xảy ra. Việc tuyên bố các nhà tư tưởng tân tự do rằng các công nhân công nghiệp phương Tây mất việc làm ở nước ngoài và các nước có mức lương thấp khác sẽ có được những công việc mới và tốt hơn trong "nền kinh tế tri thức" chính xác là một lời hứa rằng ở phía sau thời công nghiệp, phần lớn công nhân sẽ chia sẻ Lợi ích về sở hữu trí tuệ của nền kinh tế tri thức, giống như "quư ông độc lập", trong khi những gă nông dân và nông dân Á Châu lao động trong các nhà máy. Trong các trang của Economist và các cơ quan tuyên truyền khác của chế độ săn đầu người quản lư,
Hobson h́nh dung một tương lai dystopian cho một West không thể sản xuất được cai trị bởi một lớp các nhà quản lư và các nhà đầu tư xuyên quốc gia:
Chúng ta đă báo trước khả năng liên minh thậm chí c̣n lớn hơn của các quốc gia phương Tây, một liên bang các cường quốc vĩ đại của châu Âu, cho đến nay không phải là chuyển tiếp nguyên nhân của nền văn minh thế giới, có thể đưa đến nguy cơ khổng lồ của một chủ nghĩa KSTT phương Tây, Những tầng lớp thượng lưu đă cống hiến to lớn từ châu Á và châu Phi, với sự hỗ trợ của các lực lượng bảo vệ tuyệt vời, không c̣n tham gia vào các ngành công nghiệp chủ lực của nông nghiệp và sản xuất, nhưng vẫn giữ được trong việc thực hiện các dịch vụ công nghiệp cá nhân hoặc nhỏ dưới sự kiểm soát của một Tài chính quư tộc.
Hobson tiếp tục cảnh báo: "Phần lớn hơn của Tây Âu sau đó có thể cho rằng h́nh dáng và tính cách đă được trưng bày bằng những vùng đất của Nam nước Anh, Riviera và trong các khu du lịch hoặc khu dân cư của Ư và Thụy Sĩ, các cụm nhỏ Các nhà quư tộc giàu có đang thu hút cổ tức và lương hưu từ Viễn Đông, với một nhóm các chuyên viên và thương nhân chuyên nghiệp và một số lượng lớn các nhân viên cá nhân. "Các" nhóm nhỏ "của những người thuê nhà giàu, những người giữ nghề và những người hầu việc của họ mang đến cho tâm trí ngày nay Ngày càng phân tầng các "thành phố toàn cầu" như London, New York, và San Francisco, nhúng vào các quốc gia có nhiều vùng đất công nghiệp bị bỏ hoang.
Người nhập cư và đầu sỏ chính trị
Như chúng ta đă thấy, vào cuối thế kỷ XX, giới tinh hoa phương Tây quản lư, thông qua các tập đoàn xuyên quốc gia, có thể thoát khỏi hợp đồng xă hội giữa thế kỷ hai mươi với công nhân quốc gia bằng cách cắt giảm sản xuất, hoặc đe dọa làm như vậy. Các công ty nội địa thuần túy, như khách sạn, nhà hàng, và các công ty xây dựng, không có lựa chọn này. Nhưng họ có thể có lợi từ nhập cư, bởi v́ thị trường lao động lỏng lẻo làm suy yếu sức mạnh thương lượng của người lao động, cũng giống như các thị trường lao động thắt chặt làm suy yếu sức mạnh đàm phán của nhà tuyển dụng. Đó là lư do tại sao, trong suốt lịch sử ở Hoa Kỳ và các nước khác, tổ chức lao động thường phản đối sự nhập cư bất kỳ loại nào, trong khi các nhà tư bản và nhà quản lư doanh nghiệp thường hoan nghênh nó.
Một số nước phương Tây đă có những chính sách khuyến khích nhập cư không có tay nghề thấp, như Tây Đức với người Thổ Nhĩ Kỳ Gastarbeiter (khách công nhân). Nhưng phần lớn, nhập cư không có tay nghề là kết quả ngẫu nhiên của các chính sách khác ở các quốc gia cụ thể. Tại Hoa Kỳ, phần lớn những người nhập cư hợp pháp và không có tay nghề đều là những người Mễ Tây Cơ và người Mỹ trung lưu có thu nhập thấp dựa trên cơ sở luật thống nhất gia đ́nh Hoa Kỳ, ngoài 12 triệu người di cư bất hợp pháp, chủ yếu đến từ các quốc gia gần đó. Ở Châu Âu, luật t as nạn và chính sách tị nạn là nguồn gốc của nhập cư không có tay nghề. Và một số nước châu Âu có đặc quyền nhập cư từ các thuộc địa cũ. Dù chế độ đặc biệt nào,
Các học giả tranh luận về những ảnh hưởng kinh tế của nhập cư vào Hoa Kỳ. Một nghiên cứu gần đây của Học viện Khoa học Quốc gia, Báo cáo Kỹ thuật và Y học gần đây đă cố gắng đưa ra những kết luận tích cực, nhưng họ vẫn đang tỉnh táo: mức lương thấp hơn "đối với những người nhập cư hoặc những người lao động bản xứ chưa hoàn thành bậc trung học - những người thường là những người thay thế gần nhất Các nhân viên nhập cư có kỹ năng thấp ", và nhắc nhở rằng" những người nhập cư thế hệ đầu tiên có chi phí cao cho các chính phủ, chủ yếu ở cấp tiểu bang và địa phương, hơn là những người sinh ra ở quê hương. "Theo báo cáo, lợi ích của nhập cư có lương thấp , Đi chủ yếu cho người tiêu dùng giàu có của các dịch vụ đ̣i hỏi nhiều lao động, trong khi chi phí giảm cho người lao động có mức lương thấp và người đóng thuế. Các phương tiện truyền thông Mỹ phản ánh lợi ích của giới tinh hoa quản lư và chuyên nghiệp trong các nhân viên có mức lương thấp và công chức gia rẻ giá rẻ, V́ vậy tin xấu đă được chôn trong báo cáo chính thống. Tờ New York Times tuyên bố tờ New York Times vào ngày 21 tháng 9 năm 2016 rằng "Những người nhập cư không lấy việc làm của người Mỹ, nghiên cứu mới t́m ra" .
Tác động tiêu cực thực tế nhưng có giới hạn của nhập cư đối với người lao động có thu nhập thấp và ngân sách nhà nước nhấn mạnh có thể là một vấn đề nhỏ trong chính trị nhưng với hai yếu tố khác. Một là sự kết hợp tỷ lệ sinh khá cao giữa các nhóm di dân, như người Mỹ La tinh ở Hoa Kỳ và người Hồi giáo ở châu Âu, với tỷ lệ sinh thấp ở mức thấp và đang giảm, có nghĩa là số lượng nhập cư khá thấp có thể làm thay đổi đáng kể thành phần dân tộc của một Đất nước trong một vài thế hệ. Ngay cả nếu, về lâu dài, người nhập cư đồng hóa và hợp nhất với dân bản địa, sự thay đổi dân tộc nhanh chóng gây rối và thường được coi là mối đe doạ của người bản địa.
Yếu tố khác là nhà nước phúc lợi hiện đại. Ở cả hai bờ Đại Tây Dương, nó đă được tạo ra trong giai đoạn nhập cư thấp và mức sinh cao sau chiến tranh thế giới II. Các quốc gia phúc lợi quốc gia có những h́nh thức khác nhau, nhưng tất cả đều dựa trên nguyên tắc liên đới giữa các thành viên của quốc gia, người đồng ư làm việc và bị đánh thuế để giúp đỡ các công dân của họ để có đủ điều kiện cho sự giúp đỡ tương tự trong bệnh tật hoặc già yếu.
Sự không tương hợp của nhà nước phúc lợi và nhập cư hàng loạt được ghi nhận bởi nhà kinh tế học tự do Milton Friedman: "Nếu bạn có một quốc gia phúc lợi, nếu bạn có một quốc gia mà mỗi người cư trú được hứa hẹn một mức thu nhập nhất định hoặc mức sinh kế tối thiểu , Bất kể anh ta có làm việc hay không, sản xuất ra nó hay không. Sau đó [nhập cư tự do] thực sự là một điều không thể ". Paul Krugman, đồng ư của ông ư thức hệ. Krugman kết luận rằng "mối đe dọa chính trị mà nhập cư có kỹ năng thấp tạo ra cho nhà nước phúc lợi là do" nước Mỹ hiện đại là một quốc gia phúc lợi "và" những người nhập cư có tŕnh độ thấp không phải trả đủ thuế để trang trải chi phí cho những lợi ích mà họ nhận được " Nghiêm trọng hơn "so với các hậu quả khác. Về phần ḿnh, Friedman hoan nghênh nhập cư bất hợp pháp là một điều tốt bởi v́ những người nhập cư bất hợp pháp không hội đủ điều kiện để được hưởng phúc lợi: "Nhưng nó chỉ tốt nếu nó là bất hợp pháp. . . . Làm cho nó hợp pháp và nó không tốt. Tại sao? Bởi v́ miễn là nó là bất hợp pháp, những người nhập cư không đủ điều kiện để được hưởng phúc lợi, họ không đủ điều kiện để được hưởng an sinh xă hội, họ không đủ điều kiện để nhận được vô số phúc lợi khác. "
Trong khi sử dụng các biện pháp hợp pháp và bất hợp pháp để thúc đẩy nhập cư hàng loạt, để khuyến khích các công đoàn, kiềm chế lương, tránh lạm phát do các thị trường lao động chặt chẽ và để cung cấp cho thị trường của người mua nannies và người làm vườn, các tầng lớp quản lư của Bắc Mỹ và châu Âu cũng vô địch " Đa dạng ", làm giảm khả năng các công nhân thuộc các dân tộc khác nhau sẽ đoàn kết trong một mặt trận chung với giới tinh hoa kinh tế. Trong một lá thư năm 1870, Marx đă viết:
Do sự tập trung ngày càng tăng của thuê, Ireland thường xuyên gửi thặng dư của ḿnh cho thị trường lao động Anh, và do đó làm giảm tiền lương và làm giảm vị trí vật chất và tinh thần của tầng lớp lao động Anh.
Và quan trọng nhất của tất cả! Mỗi trung tâm công nghiệp và thương mại ở Anh đều có một tầng lớp lao động chia thành hai trại tù thù địch , những người vô sản Anh và những người vô sản Ai Len. Người lao động Anh b́nh thường ghét công nhân Ailen như một đối thủ cạnh tranh hạ thấp mức sống của anh ta. . . . Thái độ của ông đối với ông giống như của "người da trắng nghèo" với người da đen ở các quốc gia nô lệ cũ của Mỹ. . . Sự đối kháng này là bí mật của sự bất lực của tầng lớp lao động Anh , bất chấp tổ chức của nó. Đó là bí mật theo đó lớp tư bản chủ nghĩa duy tŕ quyền lực của nó. Và thứ hai là khá nhận thức được điều này. (Chữ nghiêng trong bản gốc.)
Tương tự, Hobson (với hùng biện phân biệt chủng tộc đặc trưng của ông) đă phỏng đoán rằng tầng lớp tinh hoa kinh tế có thể chế tạo ra hàng loạt di dân:
Cuối cùng, các lớp công nghiệp và tài chính mạnh mẽ của phương Tây, để duy tŕ quyền làm chủ chính trị và kinh tế ở nhà, có thể kết hợp để đảo ngược chính sách mà trước đây đă đạt được ở Hoa Kỳ và trong các thuộc địa trắng của chúng ta , Và có thể nhấn mạnh vào việc nhập khẩu lao động màu vàng miễn phí cho các dịch vụ trong nước và công nghiệp ở phương Tây. Đây là một vũ khí mà họ giữ trong dự trữ, nếu họ cần phải sử dụng nó để giữ cho quần chúng trong an toàn subjection.
Bởi v́ Hobson đă h́nh dung ra điều ǵ đó rất giống với mô h́nh hậu chiến thời Chiến tranh Lạnh, sản xuất xuyên quốc gia và nhập cư với mức lương thấp trong thời đại đường sắt, tàu lửa và điện báo, mô h́nh ngày nay không thể xem như kết quả định trước của các công nghệ mới như Internet, điện thoại không dây toàn cầu và tàu container. Một số đơn đặt hàng kinh tế toàn cầu khác nhau tương thích với công nghệ hiện đại, cũng như nhiều lựa chọn thay thế tương thích với công nghệ thời Hobson. Công nghệ cần thiết cho một cái ǵ đó giống như hiện tượng toàn cầu hoá ngày nay tồn tại vào những năm 1900. Nhưng giữa năm 1914 và năm 1989, một điều kiện cần thiết nhưng không đủ cho loại toàn cầu hoá quản lư này đă thiếu: ḥa b́nh quyền lực lớn.
Từ siêu chủ nghĩa sang cuộc chiến tranh Bloc
Quan điểm của Hobson về một tổ hợp các nhà công nghiệp và các nhà đầu tư khai thác công nghiệp hóa của Trung Quốc và các nước c̣n lại của thế giới phi phương Tây tương tự như ư tưởng của Karl Kautsky về một "khối siêu đế quốc" của các quốc gia tư bản mà có thể làm cho các cuộc cạnh tranh quân sự Lợi ích của lợi nhuận chia sẻ từ các khoản đầu tư ở các nước đang phát triển. Cho dù quyền lực tối cao có chủ quyền, vắng mặt áp lực của quân đội bắt buộc, bao giờ t́nh nguyện để hợp nhất đến mức độ đó có thể được nghi ngờ. Các khối quốc tế ngày nay xuất hiện chỉ trong bóng tối của hai cuộc chiến tranh thế giới và Chiến tranh Lạnh.
Trong Cách mạng Quản lư , Burnham dự đoán sự phân chia của thế giới hậu chiến trong ba "siêu cường" dựa trên Hoa Kỳ, Đức, và Nhật Bản - Orwell's Oceania, Eurasia và Eastasia trong cuốn tiểu thuyết 1984 của ông . Thay vào đó, sau chiến tranh thế giới II, Tây Đức và Nhật Bản đă trở thành những nước bảo hộ bán chủ quyền của Mỹ, trong khi Anh và Pháp, bị sụp đổ khỏi đế chế thực dân, cũng trở thành phụ thuộc của Mỹ. Sự lưỡng cực chứ không phải là ba cực cấu trúc chính trị thế giới từ những năm 1940 đến những năm 1990.
Sự toàn cầu hóa tự do mới chỉ có thể xảy ra trong những thập niên sau chiến tranh lạnh, khi mà Hoa Kỳ là "siêu cường duy nhất" và chưa có một "đối thủ ngang hàng" đáng tin cậy nào nổi lên. Trong những năm 1990, Hoa Kỳ và các đồng minh Châu Âu, cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, hoạt động giống như các tập đoàn kinh tế tư bản Hobson và Kautsky, ngay từ khi cắt giảm sản xuất sang Trung Quốc. Tuy nhiên, sự trỗi dậy của Trung Quốc đang đưa khoảnh khắc tạm thời đến gần - và gần như chắc chắn là nó đă chấm dứt được cấu trúc hiện tại của ngành công nghiệp toàn cầu.
Hobson, theo phong cách phóng túng của ông, thừa nhận khả năng sự nổi lên của một nước công nghiệp mạnh mẽ của Trung Quốc và một phản ứng hăm dọa bảo vệ ở phương Tây:
Một lần nữa, Trung Quốc nhanh chóng vượt qua các "chủng tộc thấp hơn" khác thông qua thời kỳ phụ thuộc vào khoa học phương Tây và thủ đô của phương Tây, và nhanh chóng đồng hóa với những ǵ họ cung cấp, có thể tái thiết lập nền kinh tế độc lập, Vốn và kỹ năng tổ chức cần thiết cho ngành công nghiệp máy móc, và. . . Có thể nhanh chóng tung ra thị trường thế giới như là đối thủ lớn nhất và có hiệu quả nhất, tự cho ḿnh là thương mại đầu tiên của châu Á và Thái B́nh Dương, và rồi lấn lướt các thị trường tự do của phương Tây và thúc đẩy các thị trường khép kín của phương Tây lên hơn nữa Bảo vệ nghiêm ngặt với kết quả của nó về sản xuất giảm.
Các cuộc nổi dậy của người dân và những hạn chế của họ
Nếu tôi đúng, giai đoạn hậu chiến tranh lạnh đă đến gần, và các nền dân chủ công nghiệp ở Bắc Mỹ và Châu Âu đă bước vào một kỷ nguyên mới và hỗn loạn. Các lớp quản lư đă phá hủy các khu định cư xă hội đă hạn chế nó tạm thời trong nửa sau của thế kỷ hai mươi và tạo ra một loại chính trị mới, phần lớn được cách ly khỏi sự tham gia phổ biến và dân chủ bầu cử, dựa trên các nhà tài trợ lớn và liên minh chuyển trong một liên minh đồng nhất cao Đồng minh phương Tây. Sau hai thập niên củng cố mạnh mẽ quyền lực của tầng lớp quản lư, làn sóng dân chủ và chủ nghĩa quốc gia ở cả hai bờ Đại Tây Dương là một cuộc nổi dậy có thể dự đoán được của những người bên ngoài lớp lao động với những người trong nội bộ trong quản lư và các đồng minh trong nước, những người thường được tuyển chọn từ người bản địa Dân tộc thiểu số hoặc những người di cư nhập cư.
Liệu kết quả của cuộc chiến tranh giai cấp đương đại giữa các nhà quản lư và công nhân ở cả hai bờ Đại Tây Dương có phải là sự phục hưng của chủ nghĩa phát xít? Ở một số quốc gia ở Châu Âu, các đảng dân chủ quần chúng đă nổi lên từ các đảng phát xít nhỏ xíu, hoặc đă thu hút những người ủng hộ họ. Nhưng nói về Weimar America hoặc Weimar Europe dựa trên một sự hiểu lầm về lịch sử, mà đổ lỗi cho chủ nghĩa phát xít đối với chủ nghĩa dân túy. Trên thực tế, mặc dù có những yếu tố dân gian, hầu hết các phong trào phát xít liên chiến được các tầng lớp quân sự và kinh tế ủng hộ như là một cách để ngăn chặn chế độ dân chủ xă hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nó không phải là nước cộng ḥa Weimar mà là nền cộng ḥa chuối cung cấp mô h́nh tiêu cực nhất. Ở nhiều quốc gia châu Mỹ Latinh, chính trị theo truyền thống thường áp dụng các đầu sỏ chính trị với người theo chủ nghĩa dân túy. Một mô h́nh tương tự đă tồn tại ở nhiều bang miền Nam Hoa Kỳ giữa Cuộc nội chiến và cuộc cách mạng dân quyền.
Khi những người bên ngoài trong xă hội thách thức những người trong bộ tộc thiểu số, các đầu sỏ chính trị hầu như luôn luôn giành chiến thắng. Làm thế nào họ có thể bị mất? Họ có thể không có con số, nhưng họ kiểm soát phần lớn sự giàu có, chuyên môn, và ảnh hưởng chính trị và thống trị các phương tiện truyền thông, trường đại học, và các tổ chức phi lợi nhuận. Hầu hết các làn sóng dân chủ đều bị phá vỡ và giải tán trên những vách đá bê tông đặc trưng ưu tú.
In the American South, most populist politicians gave up or sold out. In some cases, like that of Texas governor and senator W. Lee “Pappy” O’Daniel, a country music singer, they were simply folksy fronts for corporate and upper-class interests all along. The few populists who maintained some independence were those who could finance themselves, usually by corrupt means. Louisiana governor Huey Long could battle the ruling families and the powerful corporations because he skimmed money from state employee checks and kept it in a locked “deduct box.” In Texas, anti-Klan populist governor James “Pa” Ferguson, along with his wife Miriam “Ma” Ferguson, who was elected governor after her husband was impeached on the slogan “Two Governors for the price of one,” sold pardons to the relatives of convicted criminals. As billionaires who could finance their own campaigns, Ross Perot and Donald Trump could claim, with some justification, to be free to run against the national establishment.
Những người tin vào nền dân chủ tự do có thể nh́n vào loại trật tự chính trị này chỉ với sự mất tinh thần. Hầu hết thời gian, các thùng rác trong một tầng lớp tinh hoa chạy theo những điều tốt đẹp cho lợi ích của lớp học. Bây giờ và sau đó, một người theo chủ nghĩa dân túy có năng khiếu phát sinh, chỉ để thất bại, bán cho cơ sở, hoặc thiết lập một cá nhân hoặc triều đại kinh tế chính trị triều đại. Dân chủ chính thức có thể tồn tại, nhưng tinh thần của nó đă trốn chạy. Không có vấn đề ai thắng, người trong cuộc hoặc bên ngoài, đa số sẽ mất.
Các lựa chọn thay thế cho Dân chủ
Có phương án nào thay thế cho một nước Mỹ Latinh hoặc tương lai phía Nam đối với phương Tây, một cuộc đụng độ vô tận của các đầu sỏ chính trị và dân túy dân chủ? Nếu có, sẽ có h́nh thức giải quyết như hợp đồng xă hội sau năm 1945 theo tinh thần của nó, mặc dù không có trong các chi tiết của nó.
Một sự thỏa hiệp chéo giữa người quản lư và tầng lớp lao động ở các nước phương Tây có thể sẽ là h́nh thức của việc tái cơ cấu hóa ngành công nghiệp. Điều này có vẻ như là điều mà nhiều nhà dân túy ở cả bên phải lẫn bên trái đều có ư nghĩ khi họ muốn các chính trị gia "đem lại việc làm trở lại" - đó là công việc sản xuất được trả lương cao. Nhưng điều này sẽ hy sinh những lợi ích từ các nền kinh tế trên phạm vi quốc gia, vốn có thật trong các ngành công nghiệp như sản xuất, ngay cả khi mô h́nh offshoring gần đây đă được điều khiển bởi các chính sách lôi kéo như chênh lệch lao động hơn là tập trung vào năng suất.
Do ảnh hưởng về số nhân đối với nền kinh tế lớn hơn mà trong đó việc sản xuất bị nhúng, điều quan trọng là các quốc gia phải tiếp thu hoặc duy tŕ sản xuất có giá trị gia tăng, ngay cả khi chỉ có một thiểu số lao động được sử dụng chính thức trong ngành. Nhưng phần lớn công nhân Mỹ đă làm việc trong ngành dịch vụ trong nước chưa được kiểm soát. Công việc và tiền lương của họ có thể bị đe dọa bởi nhập cư hàng loạt, nhưng không phải bằng cách offshoring.
Quá tŕnh toàn cầu hoá triệt để và khôi phục một cái ǵ đó giống như nền kinh tế tự trị chủ yếu dựa vào các công ty quốc gia tích hợp theo chiều dọc vào những năm 1950 và 1960 không phải là mong muốn, ngay cả khi có thể. Ở một thái cực khác, tưởng tượng về một định cư toàn cầu mới, với các công đoàn toàn cầu và chính phủ toàn cầu (hay "quản trị") kiểm tra sự độc quyền tài chính và doanh nghiệp toàn cầu. Quản lư toàn cầu sau quốc gia thúc đẩy lợi ích chung của một tầng lớp lao động xuyên quốc gia thậm chí ít có khả năng xảy ra hơn là tái cơ cấu hóa.
Điều này để lại hai lựa chọn cho một khu định cư mới, có thể được gọi là "chủ nghĩa tự do tân tự do cộng với" và một chủ nghĩa phát triển mới.
Chủ nghĩa tư bản tự do, c̣n được gọi là "chủ nghĩa tư bản tổng thể" là phản ứng ưa thích của tầng lớp quản lư xuyên Đại Tây Dương đối với cuộc nổi dậy của quần chúng ở châu Âu và Mỹ. Về cơ bản, chủ nghĩa tự do phi chính chủ cộng với chủ nghĩa tự do tự do mới của Reagan-Thatcher-Clinton-Blair với trợ cấp nhiều hơn cho những người "thua cuộc" của toàn cầu hóa. Việc mất quyền lực của các công dân phi quyền lực do việc nắm bắt chính trị và hủy hoại các công đoàn sẽ không bị thay đổi. Tuy nhiên, quần chúng có thể bị hối lộ bằng các khoản trợ cấp tiền lương cao hơn, như Tín dụng Thuế thu nhập Thu nhập (EITC) ở Hoa Kỳ, hoặc có lẽ là thu nhập cơ bản phổ quát cho mọi người dân một mức lương bổng.
Trong khi một số điều như thế này chắc chắn sẽ được thử ở nhiều nước phương Tây, kinh tế học không làm việc. Đưa những nhân viên có thu nhập tŕ trệ hoặc giảm xuống với trợ cấp phúc lợi mới đ̣i hỏi một khu vực kinh tế năng động của nền kinh tế để làm cho hối lộ có thể chấp nhận được. Các nhà tài trợ tân tự do, tập trung vào những khu thuê nhà trọ ưu tú, giả định sự tồn tại lâu dài của các khoản thuê tài sản trí tuệ cao từ khắp nơi trên thế giới đến các ông trùm công nghệ, cùng với tiền thuê tài chính toàn cầu chảy vào các nhà quản lư tiền tệ. Những tiền thuê này, giả định, sẽ cao và bền vững đến nỗi các ông trùm và nhà quản lư tiền sẽ sẵn sàng chia sẻ chúng với phần c̣n lại của dân số ở các bang quốc gia nơi họ cư trú.
Tuy nhiên, những khoản đổi mới toàn cầu đă nhanh chóng biến mất, kết quả là các bằng sáng chế bị mất, trộm tài sản trí tuệ, sự thành công của nước ngoài trong đổi mới bản địa, và việc canh tác hóa các ngành công nghiệp mũi nhọn cũ. Đối với việc đánh thuế các nhà tài trợ để trợ cấp các quốc gia phúc lợi lớn hơn, điều này có thể làm việc ở các thành phố như New York và London, nhưng nó không thể làm việc trên quy mô các quốc gia-bang, bao gồm các quốc gia lục địa như Hoa Kỳ, với 1/3 Tỷ người.
Cũng không phải trả tiền sản xuất tiên tiến cho việc phân phối lại số lượng lớn từ số ít sang số nhiều theo yêu cầu của chủ nghĩa tự do phi chính thống cộng với chiến lược. Năng suất cao trong sản xuất và dịch vụ không tương thích với các chính sách thương mại tự do mới cho phép cắt giảm nhân công cho các hoạt động sản xuất có giá trị gia tăng cũng như các hoạt động giá trị gia tăng thấp của các tập đoàn và chịu đựng sự tàn phá của các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng trong nước bằng hàng nhập khẩu được trợ cấp Từ các nước thương mại như Trung Quốc. Thậm chí tệ hơn, trong lĩnh vực dịch vụ trong nước không bị nô lệ, tràn ngập thị trường lao động bậc thấp với những người nhập cư có tŕnh độ học vấn thấp và thấp, làm giảm việc khuyến khích các ngành dịch vụ tăng năng suất bằng cách đầu tư vào công nghệ tiết kiệm lao động hoặc tổ chức lại các mô h́nh kinh doanh để giảm thiểu lao động.
Nói cách khác, bản thân chiến lược kinh tế tân tự do, v́ thiên về các mô h́nh kinh doanh phụ thuộc vào lao động giá rẻ trong và ngoài nước, có xu hướng làm suy yếu sự tăng trưởng năng suất cần thiết để trả cho sự phân phối lại lớn, Công nhân và cán bộ quản lư.
Không phải ngẫu nhiên mà chủ nghĩa Reaganism-Clintonism và Thatcherism-Blairism trùng hợp với bong bóng tài sản kéo dài, hoặc rằng những người ủng hộ nhiệt t́nh nhất của họ có xu hướng được đặt tại thành phố London, Wall Street và Silicon Valley. Trong một thời gian, có thể xảy ra sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, bong bóng bất động sản và các bong bóng khác để tài trợ cho việc phân phối lại thuế. Nhưng các quốc gia phúc lợi quá tải mà giả sử sự thay đổi vĩnh viễn thay v́ tăng trưởng năng suất chậm, ổn định và khó khăn được định để trở nên mất khả năng thanh toán.
Không giống như những bất động sản đổi mới của nền kinh tế tri thức, tài chính, bất động sản và tài nguyên thực sự có thể trở thành vĩnh viễn. Trong các thế hệ trước, các thương gia thành công và các nhà công nghiệp thường trở thành ngân hàng hay quư tộc. Nếu những đứa trẻ và cháu của các tỷ phú IPO ngày nay trở thành chủ nhà và những người cho vay tiền, họ có thể biến đổi thành một tầng lớp quư tộc mới trong một loại phong trào phong kiến phương Tây cao cấp.
David Ricardo tin rằng trong một cuộc đấu tranh ba chiều giữa các chủ nhà kiếm tiền thuê, các nhà tư bản kiếm được lợi nhuận, và công nhân kiếm tiền, chủ nhà có thể sẽ thắng thế. Trong một nền kinh tế có tăng trưởng năng suất thấp hoặc không, chủ nhà, ngân hàng và những người thuê khác có thể thay thế những người quản lư của ngành công nghiệp như là tầng lớp thống trị. Cũng như chủ nghĩa quản lư đă thành công trong tư bản chủ nghĩa tư sản và chủ nghĩa phong kiến, chủ nghĩa quản lư trong thời đại đ́nh công về công nghệ và kinh tế có thể làm thay đổi những ǵ Peter Frase trong Four Futures: Cuộc sống sau chủ nghĩa tư bản (Verso, 2016) đă gọi là "thuê nhà".
Chủ nghĩa phát triển mới
Thuật ngữ "nhà nước phát triển" lần đầu tiên được sử dụng bởi các học giả như Chalmers Johnson và Alice Amsden để mô tả các chế độ sau năm 1945 của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore, dựa vào các chiến lược định hướng xuất khẩu như một phần của các chương tŕnh để công nghiệp hóa và đánh bắt Lên với phương Tây. Nhưng khái niệm về nhà nước phát triển xứng đáng một định nghĩa rộng hơn.
Như các nhà kinh tế học Erik Reinert, Ha-Joon Chang, và Michael Hudson, cùng với nhiều người khác, đă chứng minh, chủ nghĩa thương măi của các thời kỳ Phục Hưng và các quốc gia thành phố phương Tây hiện đại, các vương quốc và đế quốc là một phiên bản của trạng thái phát triển. Từ thời Tudor cho tới khi áp dụng chủ nghĩa tự do hóa kinh tế vào những năm 1840, nước Anh (Anh Quốc sau năm 1707) là một nhà nước thương mại cổ điển, t́m cách giúp đỡ các ngành công nghiệp của họ bằng cách cung cấp cho họ một thị trường bán hàng có giá trị gia tăng và Thị trường của người mua trong các đầu vào công nghiệp như hàng hóa và lao động. Đế chế Anh đă thúc đẩy chiến lược công nghiệp này bằng cách buộc các đối tượng ở Ailen, Bắc Mỹ và Ấn Độ chuyên xuất khẩu nguyên liệu cho các nhà sản xuất Anh, những người lần lượt được hưởng độc quyền về việc bán thành phẩm cho các thuộc địa.
Sau khi Anh đi tiên phong trong Cách mạng Công nghiệp, Hoa Kỳ và Đức đă thành công vượt qua Anh bằng các chính sách thay thế nhập khẩu bảo vệ thị trường quốc gia cho các công ty trong nước. Cho đến khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, khi Hoa Kỳ một thời gian ngắn thích quyền bá chủ công nghiệp trong một thế giới tan vỡ và thiếu sự cạnh tranh nước ngoài, Washington đă từ bỏ chính sách bảo hộ ngành công nghiệp trẻ sơ sinh.
Một phiên bản thứ ba của chủ nghĩa phát triển đă được Nhật Bản và "Những con hổ nhỏ" (Hàn Quốc, Đài Loan, và Singapore) phát minh ra trong Chiến tranh Lạnh. Ngăn chặn sử dụng thuế quan theo "các hiệp ước bất b́nh đẳng" với các nước phương Tây trước Thế chiến II và Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) sau năm 1945, các nước thương mại ở Đông Á này đă sử dụng nhiều rào cản khác nhau để bảo vệ thị trường trong nước cho các nhà vô địch quốc gia, Gặt hái được những lợi ích của quy mô bằng cách xuất khẩu sang các thị trường tiêu dùng mở ở phương Tây nhiều hơn. Chiến lược bắt kịp của Trung Quốc hậu Mao là một phiên bản của mô h́nh Đông Á này.
Chủ nghĩa phát triển đă có những h́nh thức khá khác biệt, trong tiếng Pháp của Colbert và Anh Walpole, Hamilton và Mỹ của Lincoln, Bismarck của Đức, và Đông Á đương đại. Mặc dù các phương pháp khác nhau, nhưng sự hiểu biết về thương mại toàn cầu không phải là một lĩnh vực được quản lư bởi luật pháp, trong đó các doanh nghiệp phải cạnh tranh với khách hàng không có quan điểm về biên giới mà là một cuộc cạnh tranh không bằng nhau về thị phần toàn cầu trong các ngành có giá trị gia tăng Trong số các quốc gia đối nghịch.
Trong tư tưởng kinh tế tự do, các câu hỏi về thương mại và các vấn đề an ninh quốc gia không liên quan. Nhưng từ quan điểm của chủ nghĩa phát triển, năng lực công nghiệp tương đối là cơ sở quan trọng nhất của sức mạnh quân sự tương đối. Các cường quốc, nếu không phải là các quốc gia nhỏ hơn, phải luôn luôn lo lắng rằng việc gia tăng sức mạnh công nghiệp của các khối khác cũng sẽ làm tăng sức mạnh quân sự tương đối của họ. Ngay cả trong thời kỳ ḥa b́nh giữa các cường quốc và các khối mà họ lănh đạo, mỗi quyền lực phải chuẩn bị cho khả năng, dù là ở xa, xung đột với những người khác. Trong một khối tích hợp chặt chẽ của các quốc gia liên minh, tự do hóa xuyên quốc gia có thể là thứ tự của ngày. Nhưng mối quan hệ giữa các khối có thể được hướng dẫn bởi logic không tổng hợp của chủ nghĩa phát triển rơ nét, nghi ngờ, quân sự.
Với những động thái này, chúng ta có thể suy đoán về tương lai của nền kinh tế thế giới và những ư nghĩa của nó đối với việc định cư trong nước giữa các nhà quản lư và công nhân.
Thứ nhất, sự trỗi dậy của Trung Quốc, theo sau bởi sự trỗi dậy của Ấn Độ, có khả năng tạo ra một trật tự thế giới vào năm 2050, trong đó phần lớn GDP toàn cầu được sản xuất trong biên giới Trung Quốc, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Châu Âu - ba khổng lồ Quốc gia-quốc gia và một khu vực chính trị chia rẽ. Để cập nhật Orwell, các khối tương lai có thể là Đông Á, Namasia, Châu Đại Dương, và có lẽ là Europa. Thế giới sẽ thực sự đa năng.
Trong một thế giới có sức mạnh cạnh tranh và khối quyền lực to lớn, phiên bản chủ nghĩa phát triển quen thuộc nhất (chiến lược công nghiệp định hướng xuất khẩu của Đông Á) sẽ không thể v́ lư do chính trị. Hoa Kỳ đă chấp nhận thương mại một chiều với các vệ tinh Đông Á và Đức (chủ nghĩa thương mại thực sự nhưng tinh tế hơn) chỉ v́ họ cần sự ủng hộ của họ trong Chiến tranh Lạnh và nền kinh tế của họ nhỏ hơn nhiều so với Mỹ. Không có lư do ǵ để Hoa Kỳ chấp nhận các chính sách thương mại tương tự như thương mại của Hoa Kỳ, đặc biệt là những quốc gia có liên quan đến quốc pḥng, được thực hiện bởi Trung Quốc - nước duy nhất "đối thủ ngang hàng" Hoa Kỳ sẽ phải đối mặt trong tương lai gần Lĩnh vực quân sự.
Ngay cả trước khi Donald Trump bầu cử, Hoa Kỳ đă hành động như là một quyền lực hậu hegemon với tư cách là một dân tộc chủ nghĩa kinh tế chiến lược. TPP thất bại đă được bán cho công chúng Mỹ như là một cách để đánh bại Trung Quốc trong việc cạnh tranh với các thị trường ở Châu Á, đối thủ của "chính quyền Obama" đối với việc ngăn chặn quân sự thực sự của Trung Quốc. TTIP đă làm sâu sắc thêm hội nhập châu Âu-Mỹ mà không có sự tham gia của Trung Quốc, đă được thúc đẩy bởi một mong muốn cân bằng sự ảnh hưởng về kinh tế địa lư của Trung Quốc.
Nếu Hoa Kỳ đang ngày càng không sẵn sàng hành động như một "cái kẹt cứng" (thuật ngữ của Martin Wolf), đưa ra việc tiếp cận không được công nhận đến các thị trường của ḿnh cho hàng hóa của các quốc gia thương mại với chi phí của các nhà sản xuất của ḿnh và nếu không có quốc gia hoặc khối lớn nào khác Sẵn sàng là một "patsy" tương tự, sau đó là loại chiến lược định hướng xuất khẩu kư sinh theo đuổi của Nhật Bản, các con hổ nhỏ, Trung Quốc, và Đức không thành công. Đồng thời, các chiến lược thay thế nhập khẩu cổ điển, như chiến lược tái cơ cấu hóa cực đoan đă thảo luận ở trên, cũng bị các cường quốc kinh tế từ chối bởi v́ họ t́m kiếm thị trường cho hàng hoá và dịch vụ ngoài biên giới để thu được lợi ích của quy mô trong các ngành công nghiệp tăng lợi tức. Theo mặc định, khi đó, hệ thống kinh tế trong một thế giới của nhiều khối quyền lực lớn có thể giống với các đế quốc thực dân ở châu Âu.
Có sự khác biệt, chắc chắn. Hệ thống phân cấp thuộc địa cũ, với ngành công nghiệp độc quyền bởi các metropole và sản xuất hàng hóa trong các thuộc địa, sẽ được thay thế bởi một hệ thống phân cấp mới, trong đó các metropole dự trữ các liên kết cao hơn của các chuỗi giá trị xuyên quốc gia cho ḿnh trong khi các đồng minh và protectorates ít hơn được ceded thấp hơn giá trị Thêm sản xuất.
Trong một quốc gia thống trị trong một khối quân sự-kinh tế, sẽ là khôn ngoan để thiết kế một hệ thống định cư xă hội đa đẳng mới để củng cố chứ không phải là làm giảm tốc độ tăng trưởng năng suất dài hạn của cả nước và khối mà nó dẫn dắt. Cần có hai chiến lược, một cho các ngành công nghiệp có thu nhập như sản xuất với thị trường nước ngoài tiềm năng, và một cho các ngành công nghiệp trong nước chưa được phân loại chỉ có thể được thực hiện tại chỗ, như chăm sóc điều dưỡng và các dịch vụ cá nhân khác.
Một chiến lược phát triển mới cho các ngành công nghiệp có thu nhập bằng cách kết hợp các biện pháp khuyến khích và ép buộc phải khuyến khích các tập đoàn t́m cách tăng lợi nhuận bằng chênh lệch mua bán, arbitrage thuế, và các biện pháp tài chính như mua lại cổ phiếu và các sự đảo ngược của công ty. Trong thời kỳ ḥa b́nh có quyền lực lớn, có thể cho phép thương mại giữa các cường quốc lớn, nhưng mỗi quyền lực lớn sẽ can thiệp thay v́ cho phép các lực lượng thị trường hoặc chính sách công nghiệp nước ngoài loại bỏ các ngành công nghiệp quan trọng, đặc biệt là các ngành có liên quan đến quân đội.
Trong khu vực dịch vụ trong nước không bị đánh giá, một quốc gia phát triển mới, theo tinh thần của Hippocrates, sẽ nhấn mạnh không làm hại ǵ - không có hại, nghĩa là đối với ngành kinh doanh quốc gia có giá trị cao. Thị trường lao động dè dặt của nhân viên dịch vụ trong nước, đạt được bởi sự hạn chế nhập cư, chia sẻ công việc, các tuần làm việc ngắn, hoặc các phương tiện khác, nên được các nhà hoạch định chính sách xem xét v́ một vài lư do. Mức lương cao hơn cho nhân viên dịch vụ có nghĩa là một thị trường nội địa lớn hơn, một thị trường đại chúng thực sự có khả năng hỗ trợ các ngành công nghiệp quy mô lớn ở trong nước làm cơ sở để mở rộng nước ngoài. Đồng thời, tiền lương thị trường cao hơn trong ngành dịch vụ trong nước sẽ khuyến khích tự động hoá và các loại chiến lược tiết kiệm lao động khác, Tăng năng suất dịch vụ và có thể tăng nhu cầu trong nước đối với máy móc và phần mềm tiết kiệm lao động có thể được sản xuất trong nước hoặc khối. Nếu mức lương cao dẫn đến việc thay thế nhân công thức ăn nhanh bằng kiosk, việc sản xuất các kiosk có thể trở thành một ngành công nghiệp công nghệ cao và đ̣i hỏi nhiều vốn.
Cạnh tranh và quyền lực đối kháng
Sự suy tàn của chủ nghĩa toàn cầu hoá tự do đă phát triển nhanh chóng trong giai đoạn chuyển tiếp của quyền bá chủ Mỹ sau chiến tranh lạnh hậu kỳ, như là kết quả của quá tŕnh chuyển đổi không thể tránh khỏi đối với đa cực, có thể bị giới lănh đạo quản lư sợ hăi, nhưng các tầng lớp lao động của phương Tây và thế giới có thể có lợi .
Lịch sử chứng minh rằng các lớp cai trị bất kỳ loại nào cũng miễn cưỡng chia sẻ quyền lực với người trị v́ trừ khi họ sợ các nhà cai trị hoặc sợ các lớp cai trị của đối thủ. Nỗi sợ cũ của người cai trị - là một động cơ yếu. Cuộc nổi dậy nổi tiếng hiếm khi biến thành cuộc cách mạng mà không có sự ủng hộ của các thành viên bất đồng chính kiến của một tầng lớp cầm quyền hoặc của tầng lớp thượng lưu nước ngoài, như chế độ quân chủ Pháp đă thống trị và ủng hộ nền độc lập của Hoa Kỳ cho các mục đích của nó.
Nhu cầu huy động dân số cho chiến tranh, hoặc ít nhất là sự cần thiết phải đạt được ḥa b́nh xă hội trong thời chiến, đă trở nên quan trọng hơn nhiều như là một nguồn cải cách dân chủ hóa. Từ các bang thành phố Hy Lạp đến các bang của Thụy Sĩ, các công dân đă có thể sử dụng những đóng góp của họ để bảo vệ quyền yêu cầu và đại diện. Ở Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Giải phóng và GI Bill là cả hai biện pháp chiến tranh.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, việc băi nhiệm hầu hết các nước phương Tây về nghĩa vụ và sự thay đổi của Hoa Kỳ và các nước khác đối với những người lính chuyên nghiệp, lính đánh thuê (thầu) và các nước tiếp nhận nước ngoài đă làm giảm tầm quan trọng của người lính công dân, Offshoring và nhập cư hàng loạt làm giảm sức mạnh thương lượng của người lao động công dân. Quân đội nhập ngũ không được khôi phục ở Hoa Kỳ và các nước tương tự như các dây chuyền lắp ráp hàng loạt có thể bị tê liệt bởi các cuộc đ́nh công. Và loại chiến tranh cấp thấp mà Hoa Kỳ đă tham gia từ ngày 9 tháng 11 đ̣i hỏi một phần nhỏ của hầu hết người Mỹ, những người ngược lại không thể sử dụng hy sinh của họ để đ̣i hỏi một phần lớn hơn quyền lực và sự giàu có.
Tuy nhiên, cuộc cạnh tranh quyền lực lớn, ngay cả dưới h́nh thức cuộc chiến tranh hạn chế, có thể sẽ khen thưởng cho các quốc gia có mô h́nh kinh tế dựa trên phát triển công nghệ sản xuất và tăng thu nhập của người lao động trong nước - người tiêu dùng hơn là tham gia vào lao động và đánh thuế, Hài ḥa, và các chương tŕnh khác làm tăng lợi nhuận mà không tăng năng suất. Trong các cuộc chiến tranh lạnh và chiến tranh thương mại, ngay cả khi không có máu của các ứng cử viên, các quốc gia và khối với những người lao động có quyền lực và yêu nước có thể sẽ làm tốt hơn các nước đối thủ bị tàn tật bởi những lực lượng lao động lúng túng và những người tinh hoa ích kỷ.
Trong một cuộc tranh luận về địa chính trị giữa mô h́nh phát triển được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau của Nhật Bản và Trung Quốc, trừ đi chủ nghĩa nhượng bộ hiện tại "xuất khẩu", mặt khác, Và Mexico, thật là ngu ngốc nếu đánh cược vào thứ hai. Các nền dân chủ ở Bắc Mỹ và Châu Âu không thể và không nên mô phỏng các quốc gia phát triển Đông Á hiện đại ở mọi khía cạnh. Tuy nhiên, cần phải lo ngại rằng, kể từ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ và Tây Âu đă di chuyển dọc theo quang phổ, như nó đă được, đi từ châu Á sang châu Mỹ Latinh.
Các tầng lớp lănh đạo quản lư có vai tṛ thống trị nền kinh tế và xă hội của mọi quốc gia hiện đại. Nhưng nếu họ không được kiểm tra, họ sẽ vượt qua và tạo ra một phản ứng dữ dội theo tỷ lệ phần trăm so với mức dư thừa của họ. Theo chính sách sai lầm về đàn áp tiền lương và do đó hạn chế tiêu dùng đại chúng, giới tinh hoa quản lư không được kiểm soát có thể vô t́nh làm tê liệt tăng trưởng năng suất nhờ công nghệ chịu trách nhiệm về sự gia tăng của họ và vô t́nh gây ra việc thay thế xă hội quản lư bằng một loại tiền phong cho thuê công nghệ cao.
Xă hội quản lư hoạt động tốt nhất khi không chỉ có những nhượng bộ đối với các lợi ích kinh tế của tầng lớp lao động quốc gia mà c̣n là quyền thương lượng kinh tế thực sự và quyền lực chính trị mà nhiều người có. Không phá hoại các chế độ quản lư, "kiểm tra pháp lư" của Burnham và "sức chống đối" của Galbraith làm cho chúng hợp pháp và bền vững hơn.
Và chừng nào mà cuộc xung đột địa chính trị không leo thang vào những cuộc chiến tranh thế giới khủng khiếp, sự kiềm chế trong các khối quyền lực lớn là một cái giá phải trả để duy tŕ một thế giới đa dạng về mặt chính trị. Nói theo Hobson năm 1902: "Niềm hy vọng của một chủ nghĩa quốc tế tới sẽ khiến cho các quốc gia độc lập chủ động duy tŕ và phát triển tự nhiên, v́ nếu không có nó sẽ không có sự tiến hóa dần dần của chủ nghĩa quốc tế, mà chỉ là một loạt những nỗ lực hỗn loạn Và chủ nghĩa quốc tế không ổn định. "
Bài báo này xuất hiện lần đầu trong tờ American Affairs Volume I, Số 2 (Summer 2017): 19-44.
Chia sẻ bài báo này:
Michael Lind là đồng sáng lập của New America. Lind đă dạy tại Harvard và Johns Hopkins và đă từng là biên tập viên hoặc biên tập viên cho New Yorker , Harper's , New Republic và National Interest . Lind thường viết cho tờ New York Times và Politico . Cuốn sách gần đây nhất của ông là Đất hứa: Một lịch sử kinh tế của Hoa Kỳ (Harper, 2012).
Kim Âu phỏng dịch
June 17/2017
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử