MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU   THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 09-2013 ֎12-2013

֎ 03-2014 ֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014

֎ 03-2015 ֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015

֎ 01-2016 ֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016

֎ 08-2016 ֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016

֎ 12-2016 ֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017

֎ 04-2017 ֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017

֎ 08-2017 ֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government

v Associated Press v Congressional Record

v Reuter News v Real Clear Politics  

v MediaMatters v C-SPAN v.

v Videos Library v Judicial Watch v

v New World Order v Illuminatti News   

v New Max v CNSv Daily Storm v

v Observe v American Progress  v

v The Guardian v Political Insider v

v Ramussen Report  v Wikileaks  v

v The Online Books Page v Breibart

v American Free Press v Politico Mag

v National Public Radio v

v National Review - Public Broacast v

v Federation of Anerican Scientist v

v Propublica v Inter Investigate v

v ACLU Ten  v CNBC v Fox News v

v CNN  v FoxAtlanta v Gateway

v Indonesian News v Philippine News v

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican?

v Roman Catholic  

v Khoa HọcTV  v Sai Gon Echo v

v Viễn Đông v Người Việt v

v Việt Báo  v Việt List  v Xây Dựngv

v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu

v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv

v Việt Tribune v Saigon Times USA v

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v

v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v

vLao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Tấm Gương

vSài G̣n v Sách Hiếm v Thế Giới  v Đỉnh Sóng

vChúng Ta  v Eurasia  v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ

v Nguyễn Tấn Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh v TPBVNCH v1GĐ/1TPB v Bia Miệng ♣♣

 

Triết lư Chính trị - Xă hội và Pháp luật

 

 

Có thể nói quá tŕnh phát triển của loại h́nh triết học chính trị, xă hội và pháp lư theo truyền thống văn minh phương Tây đă bặt nguồn từ thời Plato(1). Ngay từ thời đại ấy, các triết gia đă t́m cách xác định bản chất và ư nghĩa của những ǵ được gọi là xă hội tốt đẹp, nhà nước và xă hội mẫu mực phải có những đặc điểm ǵ.

 

1. Giới thiệu

Có thể nói quá tŕnh phát triển của loại h́nh triết học chính trị, xă hội và pháp lư theo truyền thống văn minh phương Tây đă bặt nguồn từ thời Plato(1). Ngay từ thời đại ấy, các triết gia đă t́m cách xác định bản chất và ư nghĩa của những ǵ được gọi là xă hội tốt đẹp, nhà nước và xă hội mẫu mực phải có những đặc điểm ǵ. Tư tưởng và cách lư giải của họ đă được đúc kết lại thành những hệ thống quan điểm khác nhau về một nhà nước lư tưởng, một “điều không tưởng”utopia – tiếng Hy Lạp có nghĩa là không ở đâu cả). Ngày nay, cũng như trong quá khứ, các triết gia “không tưởng” có ảnh hưởng đáng kể đối với các vấn đề chính trị, đặc biệt tại Hoa Kỳ.

 

2. Quan điểm cộng ḥa của Plato

Plato chú tâm giải quyết một vấn đề được gọi là “sự bất công” (injustice) và cuối cùng t́m đến giải pháp cho vấn đề: “công lư” (justice). Phần thảo luận dưới đây tóm lược một số ư kiến cơ bản của ông về nguồn gốc, bản chất và giải pháp loại trừ bất công cũng như định nghĩa, bản chất và thể chất của công lư.

 

Mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân

Học thuyết chính trị của Plato dựa trên nguyên tắc cơ bản do ông đề ra rằng con người quan trọng hơn xă hội, rằng cần phải nghiên cứu bản chất của con người để xác định đúng những đặc tính của một xă hội đáng được mong đợi. Một xă hội tốt đẹp cần đến đức hạnh; đức hạnh lại tuỳ thuộc vào bản chất con người; bản chất của mỗi công dân trong xă hội. Không chỉ có xă hội mà chính các cư dân của nó góp phần vào quá tŕnh h́nh thành các tệ nạn xă hội. Những công dân tốt tạo nên một nhà nước tốt; những công dân băng hoại tạo nên một nền chính trị băng hoại.

 

Các phẩm hạnh cơ bản 

Theo quan điểm của Plato, các giá trị đạo đức và hạnh kiểm tuỳ thực vào tính cách tâm lư của con người, tính cách này lại phụ thuộc vào các đặc điểm sinh lư. Plato định ra ba khía cạnh sinh lư của con người, mỗi khía cạnh có chức năng tự nhiên riêng: cái đầu (lư trí), quả tim (tinh thần) và dạ dày (ḷng ham muốn). Mỗi khía cạnh có liên quan với một dạng phẩm hạnh riêng.

Plato định nghĩa phẩm hạnh như “sự ưu việt” (excellence), được thể hiện qua ba lănh vực hoạt động chủ yếu của đời sống con người, tương ứng với ba chức năng tự nhiên; lư trí, tinh thần và ham muốn. Cá nhân nào vượt trội trong lănh vực ư chí sở hữu đức “thông thái” (wisdom); cá nhân vượt trội trong lănh vực vận dụng năng lực tinh thần sở hữu đức “dũng cảm” (courage); những ai vượt trội trong lănh vực kiểm soát ḷng ham muốn của ḿnh sở hữu đức “tiết độ” (moderation). Thực tế, mọi người đều có ba dạng hoạt động như thế, nhưng chỉ những ai có năng lực vượt trội mới được xem là sở hữu được các phẩm hạnh cơ bản ấy.

 

Bản chất và vai tṛ của công lư 

Đối với Plato, công lư là một dạng phẩm hạnh cộng đồng, có tính phối hợp. Nói cách khác, nó là kết quả của sự đồng tâm hợp tác giữa những cá nhân có đức hạnh tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng và quốc gia.

Công lư chỉ ưu thắng khi mỗi cá nhân làm tṛn bổn phận và trách nhiệm của ḿnh, cống hiến tài năng và công sức của ḿnh cho lợi ích của cộng đồng và đất nước. Trong một xă hội công bằng, mỗi người cống hiến tài năng và sức lực vốn có của ḿnh, đảm nhận phần việc phù hợp với khả năng của ḿnh, không chỉ hoàn tất phận sự mà c̣n thực hiện với ư thức trách nhiệm đối với xă hội.

Theo Plato, sự cản trở nỗ lực thi hành bổn phận và trách nhiệm của con người chính là nguyên nhân dẫn đến bất đồng và xung đột-đó là bản chất của sự bất công. Bất công và hỗn loạn là kết quả xảy ra khi các thành viên trong xă hội phải cố gắng thực hiện những ǵ nằm ngoài khả năng, kiến thức chuyên môn và sức lực của họ. V́ thế, mỗi nhà nước lư tưởng và một xă hội công bằng chỉ có thể tồn tại khi mỗi công dân thực hiện phần cống hiến phù hợp với lănh vực chuyên môn và năng lực vốn có của họ.

 

Cơ cấu tổ chức của nhà nước lư tưởng 

Trong một nhà nước lư tưởng, cơ cấu tổ chức nhân sự dựa trên cơ sở tài năng và phẩm hạnh của mỗi thành viên. Theo Plato, nhà nước lư tưởng gồm có 3 tầng lớp chính:

1. Tầng lớp sư phạm, hay bảo hộ: Bao gồm những cá nhân có đức độ và thông thái, đảm nhận trách nhiệm quản lư chính quyền và giáo dục quốc dân.

2 Tần lớp chiến binh: Bao gồm những cá nhân có đức dũng cảm, có năng lực ư chí và tinh thần vượt trội. Giới này đảm nhận trách nhiệm bảo vệ nhà nước, đối phó với nạn ngoại xâm cũng như nội biến.

3. Tần lớp lao động, hay thợ thủ công: Bao gồm những cá nhân có đức tiết độ (tự kiềm chế), đảm nhận những phần việc thường được dành cho giới lao động, nông dân, dịch vụ và thương nhân. Học được đức tuân thủ và kiềm chế bản thân, họ chính là những người thi hành và biến các chính sách của nhà nước thành hiện thực.

 

Giáo dục trong nhà nước lư tưởng

Theo Plato, cần phải chọn lựa và đào tạo các thành viên trong quốc gia, dựa trên cơ sở tôn trọng tài năng, qua đó tạo điều kiện cho phép họ phát huy những phẩm hạnh tương ứng với bổn phẩn và trách nhiệm trong tương lai. Điều này có thể thực hiện được thông qua một nền giáo dục dân chủ.

Vào một độ tuổi nhất định, mọi đứa trẻ phải được đến trường, được giáo dục và có cơ hội bộc lộ năng lực bản thân như nhau. Bước vào tuổi thanh niên, những cá nhân có khuynh hướng trở thành người lao động sẽ được chọn ra để tổ chức hướng nghiệp phù hợp với năng lực bản thân. Vài năm sau, số học sinh c̣n lại trải qua đợt tuyển chọn thứ hai, các chiến binh tương lai sẽ ra trường và bắt đầu phục vụ trong quân đội. Chỉ có những người giám hộ trong tương lai mới tiếp tục việc học, tiếp nhận khối lượng kiến thức chuyên sâu về biện chứng pháp (dialectics) và các bộ môn triết học khác, đồng thời tham gia phục vụ tại các cơ quan nhà nước, tập sự công việc quản lư chính quyền. Sau khi được đào tạo hoàn chỉnh, các giám hộ có cơ hội trở thành những người lănh đạo quốc gia, xét theo tính cách đạo đức, học thuật và trí tuệ vượt trội của họ.

 

Chính thể quư tộc

 Phần thảo luận trên nêu bật đặc điểm của sự phân tầng trong xă hội. Mặc dù mỗi người đều được hưởng cơ hội vươn đến những vị trí cao nhất trong nhà nước, dù nền tảng giáo dục được thiết lập trên nguyên tắc dân chủ, chỉ có những cá nhân ưu việt nhất, trách nhiệm giáo dục và quản lư cộng đồng.

Theo Plato, bất cứ một nhà lănh đạo nào có tài năng và đức độ vượt trội hơn hẳn các viên chức nhà nước khác cũng có thể trở thành vị “quân chủ” (monarch). Tuy nhiên, nếu như không có ai thông thái và đức độ sánh ngang Socrates, tốt hơn nên đặt quyền lănh đạo tối cao vào một nhóm người có phẩm chất ưu việt nhất- một hội đồng như viện nguyên lăo(2), một h́nh thức của chế độ quư tộc (aristocracy). Các thành viên trong hội đồng nhà nước tối cao này phải sống như những người cộng sản (communists), không sở hữu bất kỳ một tài sản riêng nào trong suốt thời gian phục vụ, nhằm loại trừ khả năng phát sinh tệ tham nhũng và các h́nh thức lợi dụng chức quyền khác.

Plato đánh giá thể chế quư tộc, xét về mặt tổng quát, là chính thể tốt đẹp nhất (quân chủ là thể chế hoàn mỹ nếu có được một đấng minh quân xuất chúng). Ông cũng phân tích bốn dạng chính thể bất toàn khác, có xu hướng thoái hoá dần như sau:

1. Timocracy(3): Dạng chính quyền do những người tài giỏi và danh tiếng (các chiến binh và anh hùng dân tộc) điều hành.

2. Chính thể đầu sỏ (Oligarchy): Dạng chính quyền do một nhóm người, nổi tiếng nhờ thế lực tiền tài, điều hành và thao túng. Khi dân chúng trong một đất nước quá tôn trọng sự phồn vinh vật chất, các nhà tài phiệt được trọng vọng, có cơ hội nắm quyền lực và thực hiện những mục đích mưu lợi cá nhân.

3. Chính thể dân chủ (Democracy): Dạng chính quyền được điều hành bởi nhân dân, được xây dựng trên nền tảng b́nh đẳng (equaility). Bởi v́ một chế độ dân chủ đơn thuần thiếu cơ sở hiến pháp, không thể hạn chế những quyết định “bốc đồng và nông nổi” của quần chúng; nó có khuynh hướng bị điều khiển bởi các tay đầu cơ chính trị, bị lôi kéo vào các mục tiêu cục bộ, nhất thời và dẫn đến sai lầm. Trong trường hợp ấy, nó thực sự là một chính quyền kém hiệu quả, được điều hành bởi những cá nhân không đủ phẩm chất và năng lực cần thiết.

4. Chính thể độc tài (Tyranny): Dạng chính quyền nằm trong tầm khống chế và thao túng của một cá nhân, người được gọi là “nhà độc tài”.

Theo Plato, h́nh thức chính quyền khả dĩ lành mạnh nhất là chế độ cộng hoà (Republic), được điều hành bởi một nghị viện quư tộc bao gồm những cá nhân vô sản phẩm chất ưu việt nhất (về mặt đạo đức lẫn năng lực trí tuệ). Mặc dù thế, ông vẫn chọn chính quyền quân chủ nếu như t́m được một nhà lănh đạo kiệt xuất-một đấng minh quân triết gia – người có thể trị v́ đất nước với đức công chính và sự thông tuệ toàn hảo. “Trừ phi các bậc đế vương trở thành triết gia, hoặc các triết gia trở thành đế vương, nhà nước lư tưởng là điều không tưởng.”

 

3. Học thuyết chính trị của Aristole

Aristotle(4), giống như Plato, xây dựng học thuyết nhà nước lư tưởng trên nền tảng bản chất con người. Tuy nhiên, khác với Plato, ông đặt ra vai tṛ và lợi ích của nhà nước lên trên quyền lợi và tầm quan trọng của cá nhân. Aristotle cho rằng con người, về bản chất, là một tạo vật có tính xă hội và chính trị, rằng cá nhân không thể có đời sống ẩn dật chỉ kéo dài một sự tồn tại khác thương, một đời sống dẫn đến sự biến dạng tính cách của anh ta. Đời sống cô độc đi ngược lại bản chất và lợi ích của con người. Thực tế, Aristotle nhận định, mục đích trong đời của mỗi cá nhân là thực hiện toàn măn bản chất của ḿnh để trưởng thành, thăng hoa và hưởng thụ hạnh phúc. Trong chuyến hành tŕnh cuộc đời ấy, điều tốt đẹp nhất (hạnh phúc) chỉ có thể đạt được ở môi trường xă hội.

Với cái nh́n như thế, xă hội không được tạo ra v́ con người, v́ thiên hướng và lợi ích của con người. Trên tất cả, nó là một thực tại có ư nghĩa sống c̣n đối với nhân loại, là một nhu cầu không thể thiếu của cuộc sống con người. Chính v́ lẽ đó, đạo đức xă hội (thể hiện qua đời sống chính trị) phải được đặt trên một đạo đức cá nhân. Khi cần thiết, mỗi cá nhân phải tự nguyện hy sinh cho lợi ích quốc gia. Thực chất, không phải xă hội cần đến con người mà ngược lại, con người phải cần đến xă hội; bởi lẽ xă hội là một thực tại có giá trị đạo đức, phát sinh từ những nhu cầu thiết yếu của nhân loại.

 

Mục đích của nhà nước

Để phát triển một cách lành mạnh, thoả măn mọi nhu cầu như: sinh lư, giao tiếp, trí tuệ, văn hóa v.v…, con người phải sống cuộc đời của ḿnh bên trong khuôn khổ xă hội (social matrix). Hơn nữa, do được h́nh thành từ một ư tưởng tốt lành, hướng đến mục đích đạo đức và xă hội nền tảng luân lư, nhà nước chính là chỗ dựa cần thiết cho mỗi cá nhân trong quá tŕnh hoàn thiện bản thân và thành tựu hạnh phúc trong đời. Mục tiêu cơ bản của nhà nước là tạo điều kiện cho mỗi công dân được hưởng một cuộc sống thư nhàn, có cơ hội nhận thức được giá trị tối thượng của con người. Đó là cuộc sống hướng đến các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, chính trị, khoa học và trên tất cả, triết học .

Tuy nhiên, cần lưu ư rằng trong xă hội của Aristotle, quyền công dân chỉ được dành cho các tầng lớp thượng đẳng (upper classes); tầng lớp nô lệ và nông dân, do đời sống nghèo khổ, bị buộc phải lao động. Bởi v́ chỉ có các tầng lớp thượng đẳng hưởng được cuộc sống thư nhàn và đắm ḿnh trong các hoạt động nghiên cứu chính trị, khoa học, triết học, v.v…, chỉ riêng họ mới có cơ hội đạt được hạnh phúc, điều tốt đẹp nhất của cuộc sống và là sản phẩm có giá trị nhất được tạo ra từ hoạt động trí tuệ ưu việt của con người.

 

Nhà nước lư tưởng

Theo Aristotle, chính thể lư tưởng là vấn đề mang tính tương đối; không thể có thể chế tối hảo cho mọi dân tộc, cho mọi thời đại. Một chính thể được xem là “tốt đẹp” khi giới cai trị quan tâm đến vấn đề an sinh của dân chúng; trong khi một chính thể bị xem là “thối nát” khi giới cai trị quan tâm chủ yếu đến mục đích tư lợi. Do vậy, một chỉnh thể “tốt đẹp” có thể bị tha hoá và rơi vào t́nh trạng “thối nát” nếu giới cai trị bắt đầu mưu cầu tư lợi, lơ là trách nhiệm đối với vấn đề an sinh cộng đồng. Xét từ cái nh́n đó, mỗi chính thể tốt đẹp đều có một h́nh thức thối nát tương ứng với nó.

 

Chính thể tốt đẹp

Chính thể thối nát

Quân chủ (Monarchy)

Quư tộc (Aristocracy)

Hợp tiến (Polity)

Độc tài (Tyranny)

Đầu sỏ (Oligarchy)

Dân chủ (Democracy)

 

Như đă đề cập, trong chính thể quân chủ, quyền điều hành tối thượng thuộc về một nhà lănh đạo đức độ và thông tuệ, người quan tâm đến phúc lợi cộng đồng. Chỉ khi nào người đảm nhận cương vị ấy không nghĩ đến lợi ích của dân chúng, bắt đầu thâu tóm quyền lực và tiền của, chính thể ấy mới rời vào t́nh trạng độc tài.

Tương tự, trong chế độ quư tộc, quyền điều hành thuộc về nhóm quư tộc (công dân) có phẩm chất và năng lực ưu việt. Khi quyền hành ấy rơi vào tay của một nhóm người chỉ quan tâm đến việc lạm dụng chức quyền để mưu cầu tư lợi, chế độ quư tộc bị thao túng bởi các nhà tài phiệt, trở nên thối nát và thoái hoá thành chính thể đầu sỏ.

Cuối cùng, chính thể hợp hiến, được điều hành bởi một số người dân có phẩm chất xứng đáng, chỉ thoái hoá thành chế độ dân chủ khi đa số giới cầm quyền phớt lờ lợi ích của Nhà nước và quần chúng, lạm dụng chức quyền để mưu cầu tư lợi. Trong chính thể dân chủ, quần chúng quyết định các chính sách quốc gia v́ lợi ích cục bộ hơn là v́ lợi ích của đất nước.

Điều tiết cơ cấu hành chính

Aristotle áp dụng nguyên tắc “tiết độ trong mọi sự” vào vấn đề thẩm định cơ cấu của một quốc gia. Thí dụ: Liệu bộ máy chính quyền hiện tại có quá nhỏ, hay quá cồng kềnh so với dân số, điện tích của đất nước, hoặc so với dân trí?

Ông đi đến kết luận rằng một nhà nước lư tưởng phải có đa số dân thuộc tầng lớp trung lưu. Tầng lớp nghèo khổ chiếm đa số sẽ là một gánh nặng đối với vấn đề an ninh quốc gia; đồng thời, sự vượt trội về số lượng người giàu thuộc tầng lớp thượng lưu cùng tạo ra t́nh trạng mất cân đối về mặt phân phối phúc lợi và quyền lực trong đất nước. Giới trung lưu chiếm đa số và quyền điều hành thuộc về giới trung lưu là điều kiện “lành mạnh nhất” đối với sự phát triển của một quốc gia.

“Mọi h́nh thức thái quá đều phải được loại trừ”. Dành quá nhiều nhân lực cho một chức nghiệp nào đó sẽ phá vỡ sự cân bằng và ổn định của một đất nước. Ngoại trừ giới trung lưu, quá nhiều phục vụ cho một lănh vực nào đó, sẽ gây phương hại thậm chí huỷ hoại cả một quốc gia. Aristotle dẫn chứng: “Người Sparta mải đầu tư cho chiến tranh, không chuẩn bị cho hoà b́nh. Vào thời b́nh, họ rỉ sét như thanh gươm nằm trong vỏ”.

 

4. Triết lư luật pháp của Thánh Thomas Aquinas

Theo Thánh Thomas Aquinas(5), Thượng Đế là nhà lập pháp tối thượng (the superme lawgiver), đấng sáng tạo mọi quy luật, siêu nhiên lẫn tự nhiên – bắt nguồn từ những quy luật gốc ấy, luật pháp của con người được h́nh hành. Thánh Thomas nhận định rằng trật tự xă hội và những quy tắc công bằng của nó tuân theo khuôn mẫu mà Thượng Đế đă định sẵn trong thế giới tự nhiên. Những điều luật bất công, vốn không tuân theo khuôn mẫu ấy, không thể được xem là luật pháp đích thực. Mặc dù, nói một cách nghiêm chỉnh, con người không có bổn phận phải tuân theo những điều luật bất công, nhưng vẫn có những lư do đạo đức đ̣i hỏi sự vâng mệnh trước quyền lực, bởi lẽ “mọi quyền lực đều xuất phát từ Ư chúa”. Con người phải tu��n theo giới cầm quyền, bởi v́ không có quyền lực nào nằm ngoài quyền năng của Thượng đế.

Nắm quyền thống trị là sở hữu quyền lực, là bước lên cương vị và đảm nhận trách nhiệm cao hơn người khác. Đối khán với quyền lực là đối kháng với thiên mệnh, với “trật tự” mà Thượng đế đă định ra. Không chỉ quyết định thang bậc tôn ti ở chốn thiên đường (celestial hierarchy), trật tự ấy cũng quyết định hệ thống thang bậc trong giáo hội (ecclesiastical hierarchy) và cơ cấu xă hội (social order). Trong xă hội trần tục, người lănh đạo tối cao của nhà nước thọ lănh thiên mệnh, thực hiện trật tự của Thượng đế; mọi thần dân và thuộc cấp đều phải tuân theo. Thánh Thomas quan niệm rằng ngay cả hành động sai trái của kẻ cai trị tàn ác nhất cũng là hành động gián tiếp của Thượng đế.

 

Bạo lực và bất tuân luật pháp

Thánh Thomas c̣n nhận định rằng mối quan hệ đúng mực giữa năng lực người dân và luật phát là cơ sở xác lập trị an mà không cần sử dụng đến bạo lực. Bạo lực là điều đáng ghê tởm,chỉ nên sử dụng như biện pháp cuối cùng để tranh đấu với cái xấu, và phải được giới hạn ở mức cần thiết. Xét cho cùng, bạo lực đối nghịch với bản chất của tự nhiên, rất hiếm khi nó hợp với thiên ư. Chính v́ lư do đó, khi đối mặt trước bạo lực, con người luôn có khuynh hướng nhân nhượng và hoà hoăn. Tuy nhiên, người ta cũng cần nhận thức rơ hiểm hoạ và khi cần thiết, bước vào cuộc chiến chống lại Cái Ác.

Thánh Thomas cho rằng có sự khác biệt giữa những điều luận “bất công”(vô đạo hay nghịch thiên) và những điều luật “bất lợi” (trái ư hoặc gây phương hại cho lợi ích của một số cá nhân). Đối với các điều luật vô đạo, chúng ta không bao giờ nên chấp nhận và tuân thủ. Tuy nhiên, đối với các điều luật bất lợi (một trong những dạng biến động thăng trầm của đời người), cách phản ứng của mỗi cá nhân (tuân thủ hoặc phủ nhận chí ḱnh chống) chính là thước đo lương tâm và đạo đức của bản thân. Một người vô tội bị kết án tử h́nh có đủ lư do đạo đức khi t́m cách trốn tránh thụ h́nh, nhưng một tội phạm thực sự th́ không. Thực tế, lịch sử nhân loại ghi nhận không ít gương trung thần, danh sĩ khí tiết hơn người – họ chấp nhận h́nh phạt bất công để bảo vệ những giá trị và nguyên tắc đạo đức cao đẹp. Trong giới triết gia, Socrates là một tấm gương điển h́nh như vậy. Ông đă đón nhận án tử, sử dụng thái độ của ḿnh như một phương cách tôn vinh công lư: tôn trọng tính uy nghiêm của luật pháp, vận dụng lư lẽ để phản kháng. Cái ác thay v́ bài xích và hạ thấp giá trị công lư thiêng liêng của một phán quyết.

 

Quy luật tự nhiên

Suy luận lôgic, theo quan niệm của Thánh Thomas, là cơ sở thích hợp để đánh giá phẩm hạnh của con người, nhưng chính quy luật tự nhiên không chỉ quyết định h́nh nên khuôn mẫu suy luận ấy. Cũng cần lưu ư rằng quy luật tự nhiên không chỉ quyết định sự vận hành của các cơ quan của con người, nó c̣n bao hàm những phẩm chất luân lư – v́ thế, nó cũng là quy luật đạo đức. Đối với quy luật tự nhiên, con người có quyền chọn lựa thái độ tuân thủ, theo đuổi hay xuyên tạc nó. Tuy nhiên, mọi hành vi trái luật tự nhiên đều trái với đạo đức.

Thánh Thomas tin tưởng rằng con người không nhận thức về quy luật tự nhiên thông qua con đường suy luận, mà thông qua sự trực nhận, một thiên hướng cho phép con người nắm bắt được lẽ tốt đẹp phù hợp với bản chất của chính ḿnh. Thông qua quá tŕnh suy luận, chúng ta có thể nh́n nhận rằng thiên hướng ấy là tốt đẹp, rằng những điều sai lệch so với quy luật tự nhiên “bất thành văn” chỉ trở thành tri thức và phản ứng tự nhiên của chúng ta thông qua sự trực nhận, không đ̣i hỏi sự hỗ trợ của quá tŕnh suy lư.

Thiên hướng trực nhận lẽ đúng sai không đơn giản chỉ là bản năng động vật; nó bao gồm cả hoạt động ư thức. Hơn nữa, bản thể (ontological life) hoà hợp với hoạt động ư thức. Hơn nữa, thiên hướng này bám rễ sâu trong các hành vi lư trí, hoạt động dưới tiếng gọi, mệnh lệnh hay nguyên tắc của lương tâm, đ̣i hỏi chúng ta hành thiện, động viên chúng ta chống lại cái ác. Thực tế tri thức của nhân loại về những đạo lư trong đời đều được phát hiện dựa trên thiên hướng trực nhận, một thiên hướng thuộc về bản chất của con người. Thời xa xưa, thiên hướng trực nhận ấy là con đường duy nhất dẫn đến tri thức luân lư. Về sau, con đường ấy bị che khuất dần giữa đám rừng ngôn từ và ư tưởng trí xảo; con người bắt đầu làm quen với các khuynh hướng suy luận, len lỏi theo những lối ṃn để t́m đến cánh cửa tri thức.

 

Quy luật vĩnh hằng

Theo Thánh Thomas, mặc dù quy luật vĩnh hằng xuất phát từ Thượng Đế, ư nghĩa của nó cần được nhận thức theo quan điểm triết học hơn là dựa trên quan điểm thần học. Thượng đế bất diệt – Đấng sáng tạo, khởi động và vận hành muôn vật – hiện hữu và hành động với ư nguyện và tuệ giác của ngài. Do vậy, bộ máy vũ trụ vận hành theo lẽ trời – nói cách khác, quy luật tự nhiên là lẽ hành sự của Thượng đế. Lư lẽ của ngài, Tuệ giác bất diệt của Ngài, Bản chất siêu phàm của Ngài, hợp nhất với quy luật vĩnh hằng, thể hiện “sự minh tuệ thần thánh” bao trùm mọi chuyển động và hành trạng của muôn vật.

Do xuất phát từ sự minh tuệ thần thánh ấy, quy luật tự nhiên tất phải bao hàm đạo lư (hay lẽ phải) và luân lư (hay cơ chế vận hành mang tính áp đặt) – nói cách khác, nó phải có bản chất của một quy luật đích thực. Khả năng áp chế của quy luật tự nhiên, h́nh thành nên các nguyên tắc luân lư, hoàn toàn gắn liên với sự tồn tại của Thượng đế – không có Thượng đế, tất không có đạo đức.

Thể hiện sự minh tuệ thần thánh (divine wisdom), quy luật vĩnh hằng vốn vô ngôn, bất khả thuyết, bất khả tư lượng – chỉ có bản thân Thượng đế, hoặc những ai thực chứng được bản thể của Ngài, mới có thể nắm bắt được quy luật ấy.

 

Luật pháp

Theo triết lư của Thánh Thomas, luật pháp là luật được định h́nh dưới dạng văn bản, thể chế hoá lẽ phải bằng lư luận thực tế. Do quan niệm về lẽ phải được cụ thể hoá dưới dạng quy định pháp lư, áp đặt nên mỗi cá nhân và được xă hội thực thi, nó trở thành một nghĩa vụ luật pháp mà nếu như phớt lờ, người ta có thể bị trừng phạt. Trong khi hiệu lực của luật pháp dựa trên cơ sở sự cưỡng chế của xă hội (pháp chế ), quy luật tự nhiên “bất thành văn”, thông qua mệnh lệnh của lương tâm, đ̣i hỏi chúng ta tuân theo các nguyên tắc luân lư. V́ thế, quy luật tự nhiên có liên quan đến nghĩa vụ đạo đức hơn là nghĩa vụ luật pháp.

 

Quyền tự nhiên 

“Tự bảo toàn sinh mạng” là một thí dụ điển h́nh cho quyền tự nhiên (natural right), khái niệm thường đi kèm theo quy luật tự nhiên. Quyền tự nhiên tồn tại như tiền đề cơ sở cho sự h́nh thành các quyền hạn cụ thể trong khuôn khổ pháp lư. Nó tiềm ẩn trong quy luật tự nhiên.

 

Luật quốc tế

Công pháp hay luật quốc tế (the jus gentium ) là luật được áp dụng ở các quốc gia có cùng một nền văn minh. Khác với quy luật tự nhiên, nó chỉ được nhận thức thông qua lư lẽ và các khái niệm tư duy, không thông qua khuynh hướng trực nhận. Mặc dù có thể không được thể chế hoá thành những quy định rơ ràng, công pháp vẫn mang tính pháp chế, dựa vào hoạt động lư trí và nhận thức của con người. Tương tự như luật lệ xă hội đ̣i hỏi mỗi cá nhân trong cộng đồng phải tuân thủ, luật quốc tế có giá trị pháp lư lẫn luân lư, bởi lẽ nó đ̣i hỏi chúng ta phải có nghĩa vụ luật pháp lẫn đạo đức.

 

5. Triết lư chính trị của Niccolo Machiavelli 

Niccolo Machiavelli(6)đề xuất một học thuyết biện minh cho giới cai trị trong việc sử dụng mọi phương tiện cần thiết, công chính lẫn ám muội, để duy tŕ một chính phủ vững mạnh và ổn định trật tự xă hội “mục đích biện minh cho phương tiện,” dẫu rằng mục đích ấy chỉ mang đến lợi ích cho chế độ cai trị độc tài.

Để có được quyền lực chính trị, người ta cần phải được sinh ra trong một gia đ́nh thế gia vọng tộc, hoặc phải chiếm đoạt quyền lực bằng ư trí, tài năng thậm chí bằng thủ đoạn. khi đă thâu tóm quyền hành đạt được từ thủ đoạn, với sự hỗ trợ của một số kẻ đồng mưu (những có đủ tham vọng và tính gian hùng cần thiết để tham gia thực hiện những mưu đồ xấu xa), người ta cần phải loại trừ họ. Hơn nữa, trong quá tŕnh tiêu diệt các kẻ thù trong nước, người cầm quyền phải kiên quyết, nhẫn tâm và không được phép xót thương – nếu không, ” sau một vài cơn mưa, cỏ dại lại mọc đầy.”

 

Ḷng cảm thông của kẻ cai trị dành cho thần dân phải được giới hạn ở mức cần thiết để có thể duy tŕ trọn vẹn quyền lực của bản thân. trung tín, tôn giáo, v.v…. với mục đích xây dựng một h́nh ảnh tốt đẹp trước công chúng, nhưng ông ta thường xuyên phải luôn hành động ngược lại với ư tưởng ấy. Trên tất cả, ông ta cần phải h́nh thành nên một tính cách đạo đức giả và mềm dẻo. Chỉ có một vài người gần gũi và nhạy cảm mới phát hiện ra tính cách thực của ông ta, nhưng thông thường họ không dám phản kháng hay vạch trần bộ mặt giả dối của kẻ cai trị đầy quyền lực. Nhờ đó, những kẻ cai trị mới duy tŕ được địa vị tôn quư của họ.

 

Thuật làm vua

Tác phẩm kinh điển của Machiavelli, “Thuật làm vua” (The Prince), phân tích đến phép cai trị của các bậc vua chúa, đặt vấn đề liệu rằng họ nên tin tưởng vào thần dân đến mức độ nào, liệu rằng họ nên sử dụng đến những phương cách ǵ để điều phục dân chúng. Machiavelli kết luận rằng các bậc vua chúa phải sử dụng đến luật pháp lẫn vũ lực. Do luật pháp thường tỏ ra kém hiệu quả, vũ lực luôn được cần đến – mặc dù xét theo một góc nh́n nào đó, vũ lực chỉ được sử dụng để đối phó và trấn áp thú dữ.

Tóm lại, các bậc vua chúa nên thể hiện một tính cách hai mặt: thèm khát quyền lực như một mănh sư, đồng thời phải ranh ma và xảo quyệt như một con cáo. Làm vua chúa, phải luôn cảnh giác, phải luôn nhớ rằng “mănh sư bị sập bẫy, cũng như một chú cáo ở giữa bầy sói, không có khả năng tự vệ” hai mặt tính cách nói trên hỗ trợ cho nhau. Như con cáo, vua chúa phải che giấu bản chất thực sự của ḿnh, tỏ vẻ đức độ ngay cả khi hành xử xấu xa. Như con mănh sư, ông ta cần phải biết tàn nhẫn. Chỉ có những vị vua quá xuẩn ngốc mới có ḷng nhân từ và đức độ thực sự – họ sẽ đánh mất vương quốc của ḿnh vào tay kẻ thù. Tuy nhiên, để giữ được quyền lực, vua chúa buộc phải tạo dựng cho ḿnh một h́nh ảnh của người cai trị đức độ.

 

Các thể chế Chính quyền

Machiavelli nhận định rằng trong suốt lịch sử nhân loại, chỉ có hai chính thể cơ bản: quân chủ và cộng hoà, trong đó cộng hoà là thể chế tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, chế độ cộng hoà chẳng thể hoạt động hiệu quả nếu không có những công dân có phẩm chất và đức độ. Trong trường hợp nhân tâm đă loạn, chỉ có chế độ quân chủ là khả thi. Theo ông, mục đích “trấn áp ḷng người “có thể biện minh cho cung cách cai trị cứng rắn kết hợp với các h́nh thức mị dân. Nói cho cùng, “mục đích biện minh cho phương tiện.”

 

6. Triết lư chính trị của Thomas Hobbes

Triết lư chính trị của Thomas Hobbes(7) đặt trên nền tảng học thuyết khế ước xă hội (Social Contract theory), học thuyết nền tảng của các thể chế dân chủ hiện đại. Chúng ta cũng cần lưu ư rằng các quyền bất khả tước đoạt của con người, theo niềm tin của Hobbes, là các quyền tự nhiên (natural rights); trong khi khái niệm nhân quyền (human rights) thời hiện đại được xem là các quyền được một thực thể thần thánh (divine Being) ban cho.

Hobbes tuyên bố rằng con người, về cơ bản, là một tạo vật sa đoạ và không đáng tin cậy, rằng họ luôn phải tự bảo vệ bản thân giữa các đồng loại chẳng khác ǵ những con thú trong rừng vậy! Mỗi cá nhân luôn cảm thấy cần thiết phải đóng kín cửa đề pḥng kẻ trộm đột nhập, thậm chí phải luồn ví tiền dưới gối đề pḥng kẻ trộm trong chính gia đ́nh ḿnh. Con người không chỉ sa đoạ mà c̣n thích gây gổ và hiếu chiến đến độ, ngoại trừ những khoảnh khắc nghỉ ngơi giữa các cuộc khẩu chiến, họ liên tục xung đột, cạnh khoé và chống phá lẫn nhau.

Có ba lư do lư giải tính hiếu chiến của con người: cạnh tranh (để giành quyền sống cho ḿnh), thiếu tin cậy vào người khác (nhu cầu tự bảo toàn) và thèm khát vinh quang (nhu cầu được kính trọng). Cạnh tranh đưa con người đến bạo lực, thiếu ḷng tin làm nảy sinh khuynh hướng tự vệ, và hănh tiến đ̣i con người xây dựng các h́nh thức ngoại giao tinh tế.

 

Quyền tự nhiên

Theo Hobbes, quy luật thống trị cung cách ứng xử của mọi tạo vật là luật rừng, “luật nanh vuốt ” (the law of tooth and claw). Với quy luật khốc liệt ấy, sức mạnh tạo nên lẽ phải. Trong rừng, mănh sư ưu tiên giành lấy những ǵ nằm trong khả năng của nó; sau đó các loài thú khác lần lượt dành lấy phần của chúng. Con người cũng hành động như thế và nếu cần thiết, thậm chí họ c̣n tàn sát lẫn nhau hoặc biến đồng loại thành nô lệ. “Mỗi người có quyền làm mọi sự trong khả năng, ngay cả khi làm chủ thân thể của kẻ khác.”

 

Quyền b́nh đẳng giữa con người

Như đề cập ở trên, quy luật tự nhiên cho phép mỗi người, trong khả năng của ḿnh, làm mọi việc theo ư muốn – bởi lẽ trong thế giới dă thú, “chẳng có ǵ xem là bất chính cả”. Mặt khác, để tránh bị kháng cự và phản công, con người phải xảo trá hơn cả dă thú. Một người yếu đuối, nếu được trang bị vũ khí lợi hại và có chiến thuật hiệu quả, hoàn toàn có thể hạ gục một người khoẻ mạnh. Hobbes chỉ ra rằng, do con người có năng lực thể chất không đồng đều, các cá nhân yếu đuối thường có xu hướng tập hợp thành nhóm để tự vệ hoặc để chống lại kẻ thù hùng mạnh. “Xét về mặt thể lực, kẻ yếu vẫn có đủ khả năng tiêu diệt kẻ mạnh bằng thủ đoạn hiểm độc, hoặc bằng cách liên kết với những ai có cùng mục tiêu như họ.” Về phương diện này, Hobbes đồng t́nh với phương châm cổ: “ Đoàn kết th́ sống, chia rẽ th́ chết” (United we stand, divided we fall).

 

Luật tự nhiên

Hobbes tin tưởng rằng, xét theo luật cơ bản của tự nhiên, cá nhân phải bảo vệ cuộc sống của chính ḿnh bằng mọi cách và với mọi giá, rằng không có ǵ quư hơn mạng sống và đáng phải hy sinh mạng sống cả. “Tự bảo toàn sinh mạng” là quy luật tự nhiên đầu tiên, thúc giục con người “t́m kiếm và theo đuổi hoà b́nh.” Nỗi sợ chết hay sợ tổn thương, kết hợp với bản năng bảo toàn sinh mạng, ngăn không cho con người làm hại bản thân và người khác. Quy luật đầu tiên ấy (luật tự bảo toàn sinh mạng) thúc đẩy con người tuân phục quy luật thứ hai, liên quan đến khế ước xă hội – bởi lẽ sinh mạng chỉ được bảo toàn tốt nhất trong một xă hội, nơi mà sự an b́nh lâu dài được xác lập trên nền tảng của một khế ước cộng đồng.

 

Khế ước xă hội

Đối với Hobbes, khế ước xă hội là phương tiện thiết yếu để xác lập các quyền công dân trên cơ sở của quy tắc vàng trong phép xử thế (“Hăy dành cho người khác những ǵ mà bạn muốn nhận được từ họ”), thay cho quy luật tự nhiên “mạnh được yếu thua“. Các cá nhân có được quyền công dân bằng cách chấp nhận một thoả ước cộng đồng được xây dựng trên nguyên tắc “cá nhân sẵn sàng, v́ mục đích hoà b́nh, v́ quyền tự nhiên của ḿnh, bằng ḷng giới hạn sự tự do của ḿnh đến một mức độ mà, trong t́nh huống tương tự, những người khác cũng sẵn ḷng kiềm chế như vậy.” Nguyên tắc này cấu thành nên quy luật thứ hai về khế ước xă hội. Ư nghĩa và tầm quan trọng của quy luật ấy chỉ có giá trị nếu nó thoả măn được quy luật tự nhiên đầu tiên – luật tự bảo toàn sinh mạng.

 

Các luật phát sinh từ khế ước xă hội 

Qua phần thảo luận, rơ ràng quy luật thứ hai được phát triển từ quy luật đầu tiên; bởi lẽ con người chỉ chấp nhận tham gia khế ước xă hội với mục đích bảo đảm quyền sống của bản thân. Hobbes nhận định rằng có một số quy luật khác phát sinh từ 2 quy luật đầu tiên ấy. Ông tổng kết các quy luật như sau:

1. Con người không được làm điều ǵ có khả năng huỷ hoại cuộc sống bản thân ( luật tự bảo toàn sinh mạng ).

2. Cá nhân sẵn sàng, khi những người khác cũng thế, đặt mục đích hoà b́nh và tự bảo vệ bản thân nên trên hết; cá nhân bằng ḷng với quyền tự do trong khuôn khổ mà anh ta có thể chấp nhận dành cho người khác trong t́nh huống tương tự (luật khế ước xă hội ).

3. Mỗi người đều thực thi các nghĩa vụ theo thoả ước ( luật công lư ).

4. Với một người thọ nhận lợi ích, từ ḷng hảo tâm hay sự biết ơn của người khác, không có lư do ǵ khiến anh ta phải ân hận về thiện ư của ḿnh (luật hàm ơn).

5. Mỗi người tranh đấu để tự thích ứng với cộng đồng (luật thích nghi).

6. Sau khi cảnh cáo, “cá nhân nên tha thứ cho những kẻ xúc phạm đă biết hối lỗi và mong được dung thứ” (luật vị tha).

7. Về vấn đề báo thù (lấy oán trả oán), người ta không nên xem nặng tội lỗi quá khứ, hăy nghĩ đến những điều tốt đẹp ở tương lai ( luật báo thù).

8. Không ai được phép tuyên bố sự ghét bỏ hay kinh miệt người khác thông qua hành động, lời nói, dáng vẻ hay ra dấu hiệu (luật khinh miệt).

9. Mọi cá nhân thừa nhận rằng mỗi người đều b́nh đẳng về mặt bản chất (luật tự tôn).

10. Hội nhập vào “điều kiện chung sống hoà b́nh, không ai được phép giành riêng bất kỳ quyền lợi nào mà cá nhân không sẵn ḷng chia sẻ cho cả cộng đồng” (luật ngă mạn và khiêm tốn).

11. Đối với những ǵ không phân chia được; “nếu có thể, hăy cùng thụ hưởng chung; và nếu như có thể phân chia được về mặt số lượng, hăy chia đều cho số người được quyền thụ hưởng” (luật công bằng).

12.Quyền chiếm hữu đều quyết định bằng cách rút thăm, hoặc xác định t́nh trạng sở hữu đầu tiên (hệ luật của công bằng)

13. “Mọi sứ giả hoà b́nh đều được hưởng quy chế bảo đảm an toàn” ( luật quy chế an toàn).

14. “Những cá nhân dính líu đến sự kiện tranh chấp đều phải đặt ḿnh dưới quyền phán xử của một vị trọng tài” (luật phân xử).

Cần lưu ư rằng các điều luật nói trên, theo quan niệm của Hobbes, đều được chi tiết hoá hoặc suy luận từ quy tắc vàng trong thuật ứng xử.

 

Vị Quốc chủ (Levithan)

Các điều luật nói trên, quy định phận sự của các công dân tham gia khế ước xă hội, thực sự có giá trị tham khảo rất cao. Tuy nhiên, vẫn có một câu hỏi quan trọng cần được đặt ra: điều ǵ sẽ xảy đến nếu như một cá nhân tham gia khế ước ,vô t́nh hay cố ư, không thực hiện bổn phận của ḿnh? Để trả lời, Hobbes gọi đó là vị Quốc chủ ( Levithan), một “vị thần” trong loài người. Bản thân đứng trên luật lệ, người ấy nắm quyền hành pháp tối cao trên thế giới (hay chí ít là trên một đất nước).Theo giả định, quyền lực ấy thuộc về một đấng đế vương. Tuy nhiên, nếu có một người nắm quyền lực cao hơn xuất hiện và khuất phục được bậc đế vương ấy, nhân vật ấy sẽ trở thành Vị Quốc chủ mới.

Ở quốc gia không có một vị vua nắm quyền lực tối cao, khế ước được điều hành bởi một hội đồng và quốc gia ấy được gọi là khối quy chế cộng đồng (Commonwealth by Institution). Nếu được xác lập bởi nhà vua, người nắm quyền lực tối thượng (bằng biện pháp vũ lực hoặc thông qua thoả ước giữa các đảng phái có liên quan ), nó được gọi là khối hiệp ước cộng đồng (Commonwealth by Acquisition ).

 

7. Triết lư dân chủ của Jean Jacques Rousseau

Triết lư dân chủ của Jean Jacques Rousseau nhấn mạnh nguyên tắc cho rằng quyền tối thượng thuộc về người dân, rằng tất cả quyền lực khác đều phụ thuộc vào quyền tối thượng ấy. Nhà nước được h́nh thành trên nền tảng của một khế ước xă hội có mục tiêu đảm bảo an sinh cho công dân, do vậy chủ quyền tồn tại nhằm mục đích bảo vệ cho mỗi cá nhân trong quốc gia. Khi chấp nhận tuân thủ luật pháp, các cá nhân chỉ đơn thuần uỷ thác quyền của họ v́ mục đích đó. Chính phủ chỉ sở hữu quyền uỷ nhiệm, không phải là quyền lực tối thượng, xuất phát từ ư nguyện của tập hợp quần chúng thống nhất. Chính ư nguyện của khối quần chúng, một ư nguyện chung, là điều mà các viên chức nhà nước phải thực thi. Ư nguyện chung là ư nguyện hướng đến lợi ích của mọi người. Hơn nữa, bộ máy nhà nước không nên quá cồng kềnh, quốc gia cũng không nên quá lớn, gây khó khăn cho khả năng thích ứng của các công dân. H́nh thức chính quyền lư tưởng nhất chỉ bao gồm một nhóm nhỏ các công chức do dân bầu ra.

 

Tự do và b́nh đẳng

Thời nguyên sơ, xă hội được tổ chức dựa theo trật tự gia đ́nh, h́nh thức xă hội chân thật và gần gũi vời tự nhiên hơn cả. Theo đó, đúng ra các h́nh thức xă hội chính trị đương thời nên được xây dựng theo khuôn mẫu gia đ́nh. Trong một gia đ́nh, mỗi đứa trẻ được sinh ra với quyền tự do và b́nh đẳng; nguyên tắc tương tự cũng nên được sử dụng và phát huy trong những vấn đề chính trị xă hội của thời đại.

Chế độ nô lệ là ư tưởng đáng ghê tởm trong một xă hội tự do, bởi v́ “sức mạnh không làm nên lẽ phải”, và về mặt tự nhiên, “không ai thống trị đồng loại của ḿnh.” V́ thế, không thể tổ chức và thể chế hoá xă hội bằng vũ lực mà phải thông qua h́nh thức thoả ước, thông qua một khế ước xă hội.

 

Quyền tối thượng bất khả chuyển nhượng

Quyền tối thượng thuộc về công dân, hay nói đúng ra, thuộc về chính kiến của tập hợp quần chúng thống nhất; bởi lẽ chỉ có một tập hợp như thế mới sở hữu một ư nguyện bất khả chuyển nhượng. Ư nguyện của mỗi cá nhân chia sẻ với nhau trong ư nguyện chung, hướng đến ích lợi chung của cả cộng đồng. Mặc dù quyền hành có thể được ủy nhiệm, ư nguyện th́ không. “Chủ quyền không là ǵ ngoài việc thể hiện ư nguyện chung, một ư nguyện chẳng thể nào chuyển nhượng được." “Chính v́ lư do đó, chủ quyền là bất khả phân cấp, bất khả chuyển nhượng.”

 

Ư nguyện chung

Ư nguyện chung không đơn thuần là bản liệt kê ư nguyện riêng rẽ của mỗi cá nhân. Thực chất, nó được thể hiện trong hoạt động chính trị của mỗi công dân khi anh ta thành tâm và tự nguyện, không chịu bất kỳ một áp lực nào, đưa ra quyết định độc lập của ḿnh bằng một lá phiếu.

Quá tŕnh tổng hợp những lá phiếu có thể chỉ cho thấy khát vọng riêng của mỗi công dân; nhưng ư nguyện chung được phản ánh qua thái độ tự nguyện và thành tâm của mỗi cá nhân, tham gia bỏ phiếu v́ những điều tốt đẹp cho mọi công dân. “Thông thường, có điều khác biệt rất lớn giữa ư nguyện toàn thể và ư nguyện chung. Ư nguyện chung chỉ liên quan đến lợi ích chung. Ư nguyện toàn thể có liên quan đến những lợi ích riêng, chỉ là một bản tổng kết những ư nguyện riêng rẽ…ư nguyện chung lúc nào cũng đúng cả “nếu được hướng dẫn chu đáo, tránh những xu hướng bè phái và các thủ đoạn thao túng chính trị, một cộng đồng dân cư sẽ thể hiện rơ ràng ư nguyện chung của họ.”

 

Khế ước xă hội

Rousseau nhận định rằng với xă hội được xây dựng trên cơ sở khế ước, vận dụng sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng để chăm lo vấn đề an sinh bảo vệ tài sản của mỗi cá nhân, mọi công dân đều có quyền tự do và độc lập, chẳng phải tuân theo mệnh lệnh của ai khác ngoài chính ḿnh.Bởi lẽ khế ước xă hội tồn tại v́ vấn đề an sinh của mỗi cá nhân trong cộng đồng, nếu một thành viên vi phạm các thoả ước, anh ta đă vi phạm luật lệ của chính ḿnh . Cá nhân ấy sẽ phải nhận lănh h́nh phạt, không phải chỉ v́ mục đích duy tŕ sự ổn định của xă hội, mà c̣n v́ lợi ích của chính anh ta.

Khế ước xă hội được xác lập trên nguyên tắc cơ bản là: Quyền tối thượng thuộc về dân chúng (sở hữu chủ của ư nguyện bất khả quyền nhượng); quyền hành có thể chuyển giao nhưng ư nguyện th́ không. Do vậy, chính phủ chỉ là người đại diện của quần chúng, hoạt động và thực thi ư nguyện chung. Chính phủ chẳng bao giờ đạt được quyền thống trị tối thượng và tối hậu.

Về nhà nước lư tưởng, Rousseau chọn chính thể cộng hoà cai trị bằng luật pháp, viên chức chính phủ do dân bầu chọn và thi hành ư nguyện chung. Tin rằng cho cấu chính trị đặc thù chỉ có vai tṛ thứ yếu, ông đưa ra nhận sét chung như sau: chế độ dân chủ phù hợp với nước nhỏ; chế độ quư tộc với các nước cỡ trung b́nh; và chế độ quân chủ với các nước lớn. Ông kêt luận rằng “nếu có sự tồn tại của ṇi giống thần thánh, hẳn là họ cũng tự trị theo thể chế dân chủ.”

 

8. Triết lư pháp quyền của Hegel

Triết lư chính trị và pháp lư của Georg W.F.Hegel(8) được ông phác hoạ trong tác phẩm “Triết lư pháp quyền” (Die philosophiedes Rechts). Từ Recht, trong tiếng Đức, có thể được hiểu theo 1 trong 3 nghĩa như sau: “lẽ phải” (moral principle), “luật pháp” (law), hay “quyền công dân”(civil). Thực tế, Hegel và nhiều triết gia Đức khác sử dụng thuật ngữ ấy để diễn đạt cả ba nghĩa trên.

 

Quốc gia – Một ư tưởng đạo đức và thần thánh 

Giống như Aristotle, Hegel nhận định rằng con người là một tạo vật có tính xă hội, chỉ có thể t́m thấy sự thực hữu của chính ḿnh trong khuôn khổ quốc gia. Theo ông, nhận thức về sự thực hữu của con người gắn liền với môi trường xă hội. Do vậy, quốc gia có vai tṛ rất quan trọng đối với vấn đề có ư thức luân lư và đạo đức. Quốc gia là một thực thể bao quát, là môi trường tổng hợp nên toàn bộ tính cách, nếp sống và xu hướng nhận thức của con người. V́ thế con người phải nhất thiết phụ thuộc vào thực thể bao quát ấy. Trên tất cả, quốc gia không thể được lư giả như một khế ước xă hội, bởi lẽ quốc gia không phải đựơc tạo ra từ quyết định của các cá nhân trong một đất nước. Không có quốc gia, chẳng có chân lư nào hay, xét về mặt thực hữu, không có sự nhận thức trọn vẹn nào được t́m thấy nơi một cá nhân hoặc đoàn thể nào đó. Quốc gia là một thực thể chân xác, không chỉ đơn giản là một nhóm người tập hợp lại. Chỉ ở trong quốc gia, cá nhân mới có thể hoàn tất quá tŕnh tự nhận thức của ḿnh.

Hegel đồng nhất quốc gia với quyền năng của Thượng Đế, dàn trải và xuyên suốt lịch sử thế giới. Quốc gia là một ư tưởng Thần Thánh, là sự hiển lộ của Thượng Đế ở chốn trần thế, là thực thể đáng được tôn thờ. Là một h́nh thức thể hiện tính hợp lư hoàn hảo, quốc gia chỉ yêu cầu các công dân những ǵ hợp lẽ. Mặc dù quốc gia được h́nh thành chủ yếu bằng vũ lực, chính cảm giác an sinh trong trật tự đă giữ cho nó đứng vững.

 

Quốc gia – Một tổng thể hữu cơ 

Đối với Hegel, quốc gia là một tổng thể hữu cơ, không ngừng phát triển để tự khẳng định chính ḿnh. Một quốc gia băng hoại giống như cơ thể người bệnh, mặc dù có thể vẫn tồn tại nhưng không thể hoạt động như một thực tại sống động – như một bàn tay bị thương tật, tuy vẫn giữ nguyên h́nh thể nhưng vô cảm và không thể cử động theo ư muốn. Quốc gia theo đuổi sự nghiệp tự nhận thức và tự khẳng định, một sự nghiệp mà tinh thần thế giới (the world Spirit) đă tạo ra cho nó.

 

Hiến pháp

Quốc gia là tinh thần của đất nước. Luật pháp thâm nhập và nuôi dưỡng toàn bộ đời sống của nó, thể hiện các quy tắc và ư thức đạo đức của người dân trong một đất nước. Dạng hiến pháp mà một quốc gia chấp nhận tương xứng với mức độ hiểu biết, hay mức độ hoàn tất quá tŕnh tự nhận thức của nó. Hiến pháp (consitution) không hoàn toàn được tạo ra bởi con người, nó xuất phát từ mức độ thức ngộ, khả năng thành tựu quá tŕnh tự khẳng định của một quốc gia. Hiến pháp thể hiện sự phát triển xuyên suốt ḍng lịch sử của một quốc gia. Hiến pháp co tính hợp lư và có giá trị bất diệt, là một công cụ có tính thần thánh – không phải là một tác phẩm của con người, mà là tác phẩm của cả ngàn năm lịch sử, nó bộc lộ những ǵ hợp lư, là ư thức về những ǵ hợp lư. Nó là đặc tính thiêng liêng của lư lẽ, là “toà kiến trúc uy nghiêm và hùng vĩ”

 

Vị Quân Chủ

Hegel cho rằng chính thể quân chủ lập hiến (constitutional Monnarchy) là h́nh thức nhà nước tối cao – không có tính dân chủ theo ư tưởng cho rằng quyền tối thượng thuộc về dân chúng. Nó xuất phát từ ư tưởng cho rằng người trị v́ đất nước là nhân vật đứng đầu một quốc gia tổng thể hữu cơ, thể hiện tinh thần Thế Giới. Ông nhận định rằng “quyền lực tối thượng thuộc về nhân vị mang tính tổng thể, được đại diện bởi nhà quân chủ”. Quyết định tối hậu thuộc về nhà nước, thể hiện ư chí tự quyết tối thượng, và vị quân chủ là người phát ngôn chính thức của toàn quốc gia. tuy vậy, vị quân chủ không phải là bản thân nhà nước, mặc dù nhà nước hoạt động thông qua ông ta. Thực tế, hầu như vi quân chủ chỉ “kư tên ḿnh” để xác lập tinh thần quốc gia. Bởi v́ nhà nước tồn tại độc lập với quyền trị v́, phẩm chất và tài năng của vị quân chủ chỉ chiếm vai tṛ thứ yếu, vai tṛ của “người vâng mệnh quốc gia” để thực hiện công việc đặt nét bút cuối cùng. Nói cách khác, bất chấp sự kiện rằng các quyết định tối thượng trực tiếp gắn liền với ông ta, vị quân chủ chỉ đặt dấu ấn cuối cùng để tuyên cáo rằng những quyết định ấy phù hợp với ư nguyện tối thượng của quốc gia.

Vị quân chủ là người trị v́ một quốc gia chuyên chế, trong đó quyền hành pháp và lập pháp vận hành theo h́nh thức tư vấn. Trong lănh vực lập pháp, quyền lợi của quần chúng, cũng như quan điểm và khát vọng của họ, có cơ hội thể hiện. Bất chấp sự kiện rằng thực tế quần chúng không nắm quyền lực nào, chính phủ không nên có thái độ chống đối họ.

Quần chúng t́m thấy sự hợp nhất, tổ chức và chân giá trị của họ trong quốc gia. Nếu tách rời khỏi quốc gia, cá nhân đánh mất vai tṛ và ư nghĩa của minh.

 

Triết lư chiến tranh của Hegel

Hegel nhận định rằng chiến tranh có một khía cạnh đạo đức riêng, góp phần tôn vinh giá trị cao quư của hoạt động sống của con người. Nó khơi dậy những phẩm chất cao đẹp nhất của con người, tạo cơ hội cho con người hành xử như những vị anh hùng, thậm chí khi nó đ̣i hỏi họ hy sinh mạng sống cho quốc gia. Mặc dù cá nhân có thể chết, quốc gia phải sinh tồn và tiếp tục sự nghiệp của ḿnh – quốc gia vĩ đại và quan trọng hơn bất kỳ một cá nhân nào. Vinh quang của cá nhân không co ư nghĩa bằng “sự tự nguyện hiến thân cho một sự nghiệp vũ trụ”, sự nghiệp phục vụ quốc gia. Chiến tranh trắc nghiệm sức mạnh và khả năng vận hành của một quốc gia, tạo cơ hội ǵn giữ đạo lư và tinh thần tự quyết của một dân tộc. Hegel cho rằng Immanel Kant đă sai lầm khi cổ xuư cho một nên hoà b́nh vĩnh cửu, điều kiện thực sự mang đến sự tŕ trệ, t́nh trạng mục rỗng, thối nát và băng hoại. Ngược lại, chiến tranh vận hành như một chất xúc tác chống lại những điều xấu xa ấy. Trong một nền hoà b́nh vĩnh cửu, các cơ cấu tổ chức trở nên thụ động và chết cứng. Thực tế , Hegel nhận đinh, không có xung đột, không thể có tiến bộ. Chiến tranh là h́nh thức xung đột căng thẳng và khốc liệt nhất; v́ thế nó là động cơ thúc đẩy sự tiến bộ mạnh mẽ nhất. Các quốc gia vượt qua khỏi chiến tranh thường vươn lên với một tinh thần tự chủ kiên cường. Theo Hegel, không có chiến tranh, không thể có hoà b́nh; bởi v́ hoà b́nh là hệ quả của chiến tranh.

 

Các mối quan hệ quốc tế

Quốc gia là cơ cấu tổ chức tối hậu của xă hội con người. Do không có nước nào đứng trên nước khác. Bất đồng giữa các cá nhân được giải quyết bởi nhà nước; xung đột giữa các quốc gia được quyết định bởi chiến tranh. Đối với vấn đề liệu rằng lẽ phải thuộc về quốc gia nào, Hegel cho rằng lịch sử sẽ phán quyết “Lịch sử thế giới là lời phán xét của thế giới”. Nói cách khác, điều ǵ sẽ xảy ra là điều tất đúng – một dạng lập luận có thể biện minh cho cái lư “sức mạnh tạo nên lẽ phải”.

Tương tự như quan điểm cho rằng cá nhân không thể nhận thức được chính ḿnh nếu tách rời khỏi quốc gia, một quốc gia không thể tách rời khỏi muối quan hệ với các quốc gia khác – Tinh Thần Thế Giới vốn vận hành xuyên suốt ḍng lịch sử của nhân loại. Mối quan hệ với các quốc gia riêng lẻ là bằng chứng tối hậu, biện minh cho sự tồn tại của Tinh Thần Thế Giới vượt lên trên gianh giới của mọi quốc gia. Tinh thần ấy là lời phán xét của lịch sử nhân loại dành cho các quốc gia riêng lẻ và hữu hạn, “bởi lịch sử là toà án công lư tối cao của thế giới”

 

9. Chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx

Karl Marx(9) là vị triết gia vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản, người đứng đầu trong bộ ba danh nhân: Marx-Engels-Lenin. Tác phẩm mang tính đại chúng nhất của ông là Bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (The Manifesto of the Communist Party) trong đó có phần góp của Friedrich Engels. Tác phẩm bất hủ mang tính kinh viện của ông là bộ Tư bản (Das Kapital). Hầu hết những nguyên lư chủ yếu của cộng sản được đề cập bên dưới đây đều thuộc về tư tưởng của Marx (Engels nh́n nhận vai tṛ chủ đạo của Marx đối với “những đứa con tinh thần ” chung của hai người)

 

Chủ nghĩa cộng sản

- Định nghĩa: Trái ngược với những giả định mang thành kiến sai lầm, cho chủ nghĩa cộng sản, về bản chất, là bộ môn triết học cổ xuư cho “việc công hữu hoá các phương tiện sản xuất” Không cá nhân nào (hay nhóm người nào) được độc quyền chiếm hữu tài sản, ngoại trừ những vật dụng thuộc về nhu cầu cá nhân, bởi lẽ tài sản vốn thuộc về cộng đồng (toàn thể nhân dân ) Một khi tài sản bị tư hữu, “t́nh trạng người bóc lột người” tất xảy ra.

 

Học thuyết giá trị lao động 

Giá trị hàng hoá mang tính đặc trưng cho giờ công lao động mà con người đă bỏ ra trong quá tŕnh tạo ra sản phẩm. Số lượng giờ công nhân càng lớn, giá thành của sản phẩm càng cao. “Chúng ta thấy rằng yếu tố quyết định quy mô giá trị của bất kỳ món hàng nào chính là lượng công sức cần thiết mà xă hội đă bỏ ra…. V́ thế, giá trị của một món hàng hoá sẽ không đổi nếu thời gian lao động dành cho quá tŕnh sản xuất nó ra cũng giữ nguyên không đổi”(9) Tuy nhiên, một món hàng vô dụng, bất kể thời gian lao động mà người ta dành ra để tạo ra nó, sẽ không đáng một giá nào cả; bởi lẽ nếu không có giá trị sử dụng, một món hàng sẽ trở thành vô giá trị.

 

Xă hội không giai cấp

Theo Engels, học thuyết có giá trị bậc nhất của Marx là đấu tranh giai cấp (Inherent Class War), vạch ra sự xung đột tất yếu giữa hai tầng lớp xă hội có mâu thuẫn không thể dung hoà: giới chủ tư bản (giới tư sản – the Bourgeoisie) và giới lao động (giới vô sản – the Proletariat). Do lợi ích của hai giai cấp này đối kháng hoàn toàn và mâu thuẫn trực tiếp với nhau, giải pháp duy nhất là loại trừ đi giai cấp tư sản – Tầng lớp không cống hiến sức lao động cho xă hội, và v́ thế họ là những kẻ ăn bám xă hội. Trong xă hội cộng sản chủ nghĩa, mọi người phải lao động và cống hiến sức lao động của ḿnh. “Mỗi người làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu” (From each according to his abilities, to each accoding to his needs.)

Mặt khác, giới tư sản chịu trách nhiệm đối với một số tệ nạn trong xă hội như: Họ đă bóc lột nhân công bằng cách trả lương ít hơn những ǵ mà công nhân có quyền được hưởng. Họ đă đối xử với công nhân như một loại hàng hoá trên thị trường, thu nhập của công nhân phụ thuộc vào sự trồi sụt thất thường của thị trường, không được xét theo công sức lao động đă bỏ ra. Hơn nữa, họ c̣n góp phần thương mại hoá hầu hết mọi nghề nghiệp, thậm chí cả một số giá trị đạo đức (chẳng hạn như nạn gả bán trong hôn nhân).

Bằng cách loại trừ tầng lớp tư bản, xă hội sẽ an b́nh với sự tồn tại của một giai cấp duy nhất. Đó là một xă hội không c̣n giai cấp, được cấu thành bởi những người cống hiến sức lao động chân tay và hoạt động sáng tạo trí óc của họ.

 

Chuyên chính vô sản

Trong một xă hội như thế, giới vô sản (công nhân), giai cấp duy nhất c̣n lại, sẽ đảm nhận mọi trách nhiệm trong xă hội, không chỉ giới hạn trong lănh vực lao động và quản lư lao động, mà cả trong lănh vực tổ chức và quản lư chính quyền. Xét đến phần đóng góp của giai cấp vô sản cho quốc gia, chỉ có họ mới được quyền thống trị. V́ thế, chính thể của họ phải là chế độ chuyên chính vô sản (Dictatoship of the Proletariat). Họ, những người vô sản, sẽ tự làm chủ vận mệnh đời ḿnh. Và khi thời điểm chín muồi, khi quốc gia không c̣n cần thiết trong một thế giới chỉ bao gồm những người vô sản, con người sẽ có được một xă hội đại đồng, không c̣n ranh giới giữa các quốc gia. (Quan điểm về một thế giới đại đồng đă từng là đề tài tranh luận của nhiều nhà tư tưởng Mác- xit quốc tế)

 

Thuyết bạo lực cách mạng 

Trong quá tŕnh đấu tranh giai cấp, tầng lớp thống trị không dễ dàng tự nguyện rời bỏ sự giàu có, vốn tư bản và quyền lực của họ. V́ thế giai cấp vô sản sẽ phải dùng đến vũ lực, thậm chí là bạo lực cách mạng khi cần thiết. Bởi lẽ tài sản và quyền lực ấy thuộc về quyền lợi chính đáng của giai cấp lao động, giới vô sản có đủ lư lẽ để giành lại bằng vũ lực “Những người cộng sản… công khai tuyên bố rằng các mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng vũ lực lật đổ mọi ách thống trị hiện hành. Hăy để các tầng lớp thống trị run rẩy trước một cuộc cách mạng của những người cộng sản…Hỡi những người lao động trên toàn thế giới, hăy đoàn kết lại!” Bản tuyên ngôn của Đảng Cộng sản kết thúc với những lời lẽ hùng hồn như thế.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng

 

Mọi hàng hoá đều là vật chất, và hàng hoá vật chất là nguồn gốc của quyền lực. Kiểm soát được vốn sản suất là kiểm soát được tất cả. V́ thế, nhất thiết nhà nước phải tập trung kiểm soát mọi phương tiện sản xuất. “Lịch sử tư tưởng của nhân loại chứng minh điều ǵ khác hơn là khả năng tạo ra các thành quả trí tuệ thay đổi theo tỷ lệ so với sự thay đổi về khả năng sản xuất ra các thành quả vật chất? Ư tưởng thống trị của mỗi thời đại măi là ư tưởng của giai cấp thống trị.”

 

Kinh tế quyết định luận

Kinh tế quyết định luận ( Economic Determinism) là học thuyết cho rằng ḍng lịch sử nhân loại được quyết định bởi các thời kỳ phát triển kinh tế, cuối cùng hướng mọi quốc gia tiến đến chủ nghĩa xă hội của những người cộng sản (Communitic Socialism). Đó là hệ quả tất yếu. Cho dù các quốc gia có định hướng đi đến mục đích ấy hay không, chủ nghĩa cộng sản vẫn sẽ phát triển từ tất cả mọi hệ thống xă hội hiện hành, bởi lẽ mỗi xă hội đều mang trong ḿnh “những mầm mống băng hoại của chính nó”. Theo những người cộng sản, một cuộc cách mạng chưa dẫn đến thành công bởi v́ “thời cơ của nó chưa chín muồi”.

Các biện pháp cải cách xă hội

 

Bản tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nêu ra 10 biện pháp cải cách xă hội, được tóm tắt dưới đây như sau:

1. Xoá bỏ mọi h́nh thức tư hữu đất đai. Sử dụng đất đai cho mục đích công cộng.

2. Áp dụng mức thuế thu nhập có tính luỹ tiến.

3. Xoá bỏ mọi quyền thừa kế.

4. Tịch thu tài sản của tất cả bọn phản cách mạng và những kẻ đào tẩu khỏi đất nước.

5. Tập trung quản lư tiền tệ bằng bộ máy Ngân hàng nhà nước, hoạt động với vốn nhà nước và cơ chế độc quyền.

6. Tập trung quyền quản lư các phương tiện thông tin và giao thông trong tay nhà nước.

7. Phát huy quyền làm chủ của nhà nước đối với cá xí nghiệp và cơ xưởng sản xuất; tập trung quản lư việc khai thác đất hoang, cải tạo đất trồng theo quy hoạch chung.

8. Xác lập quyền b́nh đẳng của mọi người đối với nghĩa vụ lao động. Đầu tư phát triển công nghiệp, đặc biệt dành cho sản xuất nông nghiệp.

9. Kết hợp phát triển nông nghiệp với các nghành công nghiệp chế biến; dần dần tiến đến xoá bỏ sự cách biệt giữa thành thị và thôn quê bằng các biện pháp điều phối dân cư.

10. Thực hiện giáo dục miễn phí cho mọi trẻ em tại các trường học công lập. Xoá bỏ các h́nh thức lao động trẻ em hiện hành. Kết hợp giáo dục với tŕnh độ sản xuất công nghiệp.

Ghi chú:

(1) Plato (429-347 trước CN ): Nhà triết học Duy tâm cổ Hy Lạp, học tṛ của Socrates và là thầy của Aristotle. Ông là người sáng lập ra Chủ nghĩa duy tâm khách quan, xem “ư niệm ” và vĩnh cửu và không phụ thuộc vào không gian cũng như thời gian. Theo “Sổ tay danh nhân thế giới” của Nhà xuất bản Thanh Niên; năm 1999 – khoảng 387 trước CN, Plato lập Viện hàn lâm tại Athens (có thể được xem là trường đại học tổng hợp đầu tiên của châu Âu) và lănh đạo học viện ấy cho đến khi qua đời. Tác phẩm của ông gồm 65 tập, phần lớn là các bài đối thoại triết học, trong số đó, có Symposium (về T́nh yêu), Phaedo (ghi lại những lời giảng của Socrates về linh hồn bất diệt), Chế độ cộng hoà (về nhà nước lư tưởng), Không tưởng, Theaetetus (về bản chất tri thức) và Timaeus ( về bản chất của thế giới vật chất). (ND)

(2) Senate: Thượng viện của quốc hội lập pháp ở một quốc gia như Pháp, Mỹ và Úc. Vào thời La Mă cổ đại, Senate là hội đồng nhà nước tối cao, được gọi là viện nguyên lăo.

(3) Người dịch không t́m được thuật ngữ Việt Nam tương ứng với thuật ngữ này. Căn cứ vào khái niệm được tŕnh bày ở trên, người dịch xin đề xuất được sử dụng cụm từ “Chính thể hùng bá.” (ND)

(4)Aristotle (384-322 trước CN ): Nhà triết học cổ đại Hy Lạp, học giả bách khoa, học tṛ của Plato và gia sư của Alexander Đại đế. Karl Marx gọi ông là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại. Ông là nhà duy tâm khách quan, tiến sát đến chủ nghĩa duy vật. Năm 335 trước Công Nguyên, ông mở trường và thư viện (the Lyceum) tựa Athens. Các tác phẩm c̣n sót lại của ông, dưới dạng các bài thuyết giảng, tập hợp thành một hệ thống phân tích luận bao gồm nhiều lănh vực: sinh học, vật lư, tâm lư, luận lư, chính trị, đạo đức, siêu h́nh, thi ca và hùng biện. Vào thời Trung Cổ, các tác phẩm ấy đă trở thành cơ sở nền tảng của ngành triết học kinh viện. (ND)

(5) Saint Thomas Aquinas (1225-1274): Triết gia và nhà thần học người Ư thời Trung Cổ. Năm 1243, ngài gia nhập ḍng tu Thánh Đa Minh, Ngài có công luận giải các công tŕnh Aristotle, Thánh Kinh và các công tŕnh triết học, thần học khác. Nhờ công sức của ngài , tư tưởng của Aristotle đă được chấp nhận trong công đồng Thiên Chúa Giáo Tây Âu. Ngài phân định sự khác biệt giữa đối tượng nằm trong phạm vi khai phá bới lư trí của con người và những ǵ chỉ có thể phát lộ nhờ thiên khải. Những lập luận của ngài về vấn đề sự tồn tại của Thượng đế vẫn có ảnh hưởng cho đến ngày này. Ngài được liệt vào hàng Thánh năm 1323, được phong làm Tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1567 và được chính thức công nhận là vị thánh bảo hộ của các trường công giáo vào năm 1880. (ND)

(6) Niccolo Machiavelli (1469-1527): văn sĩ, chính trị gia Ư thời Phục Hưng. Năm 29 tuổi, ông giữ chức thủ tướng, nắm trọn quyền điều khiển bộ máy nhà nước cộng hoà Florence (thời kỳ nước Ư bị chia sẻ v́ sự tranh giành của các nước láng giềng). Năm 1952, ḍng họ Médicis tái chiếm quyền lực, cách chức và giam cầm ông. Sau khi tự do, ông chuyên tâm nghiên cứu và sáng tác, để lại một số truyện ngắn, hài kịch và nhiều chuyên luận chính trị, quân sự, lịch sử. Về quan niệm, ông không chấp nhận mọi yếu tố siêu nhiên, định mệnh và may rủi; tất cả điều đó ư chí, tâm hồn và hành động của con người quyết định. Đó là tính cách nhất quán của chính trị gia Machiavelli và nghệ sĩ Machiavelli, con người mang đầy khát vọng xây dựng một nước Ư thống nhất, tự do, b́nh đẳng và một chính quyền vững mạnh và trật tự xă hội ổn định. (Theo Sổ tay danh nhân thế giới, Nhà xuất bản hanh niên, 1999) (ND)

(7) Thomas Hobbes (1588 – 1679): Triết gia Anh, người phát triển một hệ thống học thuyết có liên quan đến bản chất của con người và xă hội. Ông tin rằng về cơ bản, mọi động cơ của con người là ích kỷ; v́ thế phương cách duy nhất để duy tŕ sự ổn định của xă hội là xây dựng một thể chế xă hội vững mạnh đặt dưới sự điều hành của một nhà cai trị toàn quyền. Tác phẩm “Levithan thực hiện” của ông thể hiện rơ quan điểm nói trên. (ND)

(8) Georg Wihelm Friedrich Hegel ( 1770 – 1831 ): Nhà triết học duy tâm khách quan, đại diện cho nền triết học cổ điển Đức, cha đẻ của phép biện chứng. Các tác phẩm của ông bao gồm: Hiện tượng luận tinh thần (1807), Cơ sở triết học (1811), Khoa học logíc (3 tập, 1812 – 1816 ), Khoa học triết học (1817), Triết học pháp quyền (1821 ). Sau khi ông mất, môn đệ của ông cho xuất bản những bài giảng của ông về lịch sử triết học (1833 – 36), Mỹ học (1836 ) và Triết học lịch sử (1837), Triết học duy tâm khách quan ( tuyệt đối ) của ông có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà tư tưởng về sau (Theo Sổ tay danh nhân thế giới, Nhà xuất bản Thanh Niên ). (ND)

(9)Karl Henrich Marx (1818 – 1883 ) : Triết gia chính trị và kinh tế Đức (nước Phổ). Ông phát hiện ra những quy luật chi phối sự phát triển của xă hội với lư thuyết được xem là “sự giải thích lịch sử theo khía cạnh kinh tế”. Là người sáng lập và là linh hồn của Quốc tế thứ nhất, ông cùng với Engels sáng lập phong trào xă hội chủ nghĩa hiện đại, đoàn kết tập hợp quần chúng lao động đấu tranh v́ quyền lợi chung. Ông cùng Engels biên soạn các tác phẩm: Gia đ́nh thần thánh (1845), Hệ tư tưởng Đức (1845 – 46), Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản (1848). Ngoài ra ông c̣n viết các tác phẩm lớn như: Ngày 18 Tháng Sương Mù của Louis Bonaparte (1851 – 52 ), Phê phán kinh tế chính trị học (1859), Nội chiến pháp (1871 ), Phê phán cương lĩnh Gotha (1857) và đặc biệt là bộ Tư Bản qồm 3 quyển (867, 1885, 1894 do Engels hoàn chỉnh quyển II và III).

(SUNLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo v́ vậy Quư khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ư kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: