* { margin: 0; padding: 0; } .imgbox { display: grid; height: 100%; } .center-fit { max-width: 100%; max-height: 100vh; margin: auto; }

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

 

Thắng được thiên binh vạn mă không bằng thắng được chính ḿnh. Thích Ca

Man can be destroyed but not defeated. Ernest Hemingway

 

 

ĐỨC PHẬT THÍCH CA, LỊCH SỬ VÀ HUYỀN THOẠI

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

May 23 at 5:21 AM

 

 

Trước khi ôn lại Tiểu Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để người đọc nhận định dễ hơn về ngày tháng ghi trong tiểu sử của Ngài, chúng tôi xin nhắc lại là Đức Phật Thích Ca sanh vào năm 624 trước Tây Lịch. Ngài nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi vào năm 544 trước Tây Lịch. Sáu trăm hai mươi bốn năm sau, Tây Phương mới bắt đầu chọn năm sinh của Đức Chúa Jesus Christ làm khởi điểm cho Dương lịch. Như vậy tính đến nay là năm 2018 th́ Đức Phật đă ra đời được 2,642 năm và chiếu theo Phật lịch khởi đầu từ năm Đức Phật viên tịch (năm 544 trước TL) th́ Ngài đă nhập Niết Bàn được 2,562 năm.

 

 

Việt Nam và các quốc gia thuộc khu vực Đông Á như Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên … từ  xưa đều làm Lễ Phật Đản vào ngày mồng 8 tháng Tư Âm Lịch. Tên gọi tắt dành cho ngày Lễ Phật Đản là “Ngày mồng Tám tháng Tư” đă lưu truyền hằng bao thế kỷ, trở thành phong tục tập quán cổ truyền, ghi đậm vào tâm khảm của mọi người kể cả người theo hay không theo Phật giáo.

Vào thế kỷ thứ 20, trong kỳ Đại lễ kỷ niệm Phật Giáo Thế Giới tổ chức tại Tích Lan năm 1954-1956, Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of Buddhists) quyết định lấy ngày trăng tṛn 15 tháng 4 Âm lịch làm ngày kỷ niệm Đức Phật Đản Sanh. Đó là lư do tại sao có 2 ngày kỷ niệm Đức Phật ra đời là Mồng 8 tháng Tư Âm lịch (trước kia) và Rằm tháng Tư Âm lịch (bây giờ).

 

88888888

 

                                                                        

 

Nhân ngày Lễ Khánh Đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta hăy cùng nhau ôn lại tiểu sử của Ngài để có sự hiểu biết về một vĩ nhân đă để lại cho hậu thế một kho tàng văn hoá Phật học vĩ đại gồm 12,601 bài pháp thoại trong suốt 45 năm hoằng hoá, mà đă 2,562 năm trôi qua kể từ ngày Đức Phật viên tịch, nền minh triết đó vẫn c̣n được dân gian trên thế giới kể cả những người theo đạo Phật và những người không theo đạo Phật nghiên cứu và học hỏi.

Tŕnh bày về tiểu sử Đức Phật, người Phật tử có hai cách nh́n. Một là Đức Phật huyền thoại được ghi lại đầy đủ trong bộ kinh Phật Tổ Thống Kư (Bắc Tông) Bộ kinh này diễn tả rất chi tiết về sự kiện đản sanh của Đức Phật, thậm chí c̣n kể rơ Ngài là một vị Bồ Tát ngự trên cơi trời, đản sinh xuống cơi người. Cái nh́n thứ hai khoa học hơn, cũng theo kinh sử để lại th́ Ngài là một người b́nh thường như bao nhiêu người khác, có cha mẹ, vợ con, có những ưu tư về cuộc sống đau khổ của con người nên muốn t́m phương pháp để thoát ra khỏi cái ṿng luân hồi sanh tử. Giai đoạn học đạo với 2 vị đạo sĩ nổi tiếng thời ấy là đạo sĩ Alăra Kălama và Uddaka Ramăputta cũng như nhập đoàn với năm anh em đạo sĩ Kiều Trần Như suốt 6 năm tu khổ hạnh cũng không có ǵ khác biệt giữa vị Phật huyền thoại và vị Phật lịch sử.

Cho nên trong bài viết này chúng tôi mạn phép lấy tựa đề là “Đức Phật Thích Ca: Huyền Thoại (tôn giáo) và Lịch Sử”. Bài viết chỉ giới thiệu sơ lược về lịch sử đản sanh của Ngài, chứ không khai triển các chi tiết khác, bởi chỉ có mấy ngàn chữ theo quy ước này, th́ làm sao có thể diễn đạt được hết cuộc đời của một bậc đại Giác Ngộ như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

 

ĐỨC PHẬT TÔN GIÁO / HUYỀN THOẠI

Từ xưa đến nay, muốn thành h́nh một tôn giáo ít nhất phải hội đủ một số điều kiện như sau: Phải có một vị Giáo Chủ mang nhiều huyền thoại nào đó khiến cho người ta kính phục tin theo, phải có giáo lư, tín đồ và nghi lễ riêng biệt của tôn giáo đó.

Về lịch sử th́ đạo Phật là một học thuyết, là một con đường tu tập để dẫn tới sự khai mở trí huệ tâm linh do Đức Phật vốn là một người b́nh thường đă tu tập và sáng đạo, đi giáo hoá truyền lại những kinh nghiệm của ḿnh cho người khác.

Sau khi Đức Phật viên tịch, theo thời gian sau đó đạo Phật nhập thế. So sánh với những điều kiện nêu trên th́ đạo Phật có thể coi như là một tôn giáo, v́ nó cũng có đủ các tiêu chuẩn như:

Đạo Phật có Giáo Chủ là Đức Bổn Sư Thích Ca. Cuộc đời của Ngài cũng có nhiều huyền thoạ Chẳng hạn như Ngài là vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ tát Hộ Minh trên cung trời Đâu Suất đă tu vô lượng kiếp, chỉ c̣n một kiếp nữa là sẽ thành Phật. Từ cung trời Đâu Suất ngài nh́n xuống thế gian t́m Cha Mẹ có đạo đức nhập thai xuống trần tiếp tục tu hành một kiếp chót để đạt Chánh Quả.

Đạo Phật có giáo lư để giảng dạy cho tín đồ. Số lượng kinh điển chia làm 2 loại: Nikăya (Nam Tông) và A-Hàm (Bắc Tông). Ở Việt Nam chúng ta, kinh điển Phật Học được chuyển sang tiếng Việt tuy chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng cũng được khá nhiề Nói chung, tổng quát có 4 bộ Nikăya gồm 12,601 bản kinh, chưa kể Tiểu Bộ kinh. C̣n 4 bộ A-Hàm gồm 2,086 bản kinh. Cộng lại chúng ta thấy Đức Phật để lại cho tín đồ 14,687 bài pháp thoại.

Hiện nay có khoảng hơn 800 triệu tín đồ theo đạo Phật trong số trên 7 tỷ người trên hành tinh này.

 

 

 

Trở lại tiểu sử Đức Phật tôn giáo hay nói khác hơn là huyền thoại về Đức Phật Thích Ca. Như đă nêu trên, Bồ Tát Hộ Minh lúc bấy giờ đă tu từ bao nhiêu triệu kiếp rồi, chỉ cần một kiếp cuối cùng là Ngài sẽ thành Phật. Lúc ấy Bồ Tát ở trên cung trời Đâu Suất nh́n xuống thế gian t́m gia đ́nh thích hợp để xuống trần. Người Mẹ mà Bồ Tát chọn nhập thai là Hoàng hậu Mahă Maya.

Chuyện kể Hoàng Hậu Maya là một người đạo đức và tràn ngập ḷng từ bi. Bà là vợ của vua Tịnh Phạn thành Ca-Tỳ-La-Vệ, đă lớn tuổi rồi mà chưa có con. Một ngày kia vào buổi trưa, Đức Hoàng hậu đang nằm nghỉ ngơi th́ rơi vào giấc mộng, bà thấy 4 vị thiên thần nâng 4 góc giường bay thẳng lên đỉnh núi Hy-Mă-Lạp-Sơn. Nơi đây có một con voi trắng 6 ngà từ trên trời bay xuống và chui vào hông phải của bà. Hoàng hậu giựt ḿnh tỉnh giấc, cảm thấy trong người mát mẻ dễ chịu, tinh thần sảng khoái. Ngay lúc đó là lúc Hoàng hậu đă thọ thai.

 

Theo phong tục Ấn Độ, người phụ nữ khi mang thai phải về quê cha mẹ của ḿnh để sanh nở. Hoàng hậu Maya cũng không ra khỏi tập tục đó. Gần ngày khai hoa nở nhụy, trên đường về quê cha mẹ, đến vườn Lâm Tỳ Ni ở ngay biên giới của hai nước Kosola (Nepal) và Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ), Hoàng hậu ra lệnh cho đoàn tuỳ tùng dừng chân nghỉ mát v́ nơi đây không khí dễ chịu thoang thoảng hương hoa nhẹ nhàng bay trong gió. Đoàn tuỳ tùng dừng lại. Khi Hoàng hậu Maya từng bước đi vào ven rừng ngắm cảnh, bà nh́n thấy một cây to có nhiều hoa nở rất đẹp mà trong kinh sách ghi là hoa Linh Thoại, có kinh ghi là hoa Vô Ưu. (Tương truyền loại hoa này 3,000 năm mới nở một lần, nhưng nếu hoa nở trái mùa, đó là hoa nở để chào mừng hay báo hiệu sẽ có một vị giác ngộ tương lai sắp ra đời.)

Về huyền thoại của Đức Phật th́ chuyện xưa kể rằng, khi Hoàng hậu Maya đưa tay phải lên vịn vào cành cây Vô Ưu th́ Thái tử ra đời, Ngài sanh từ bụng mẹ qua bên hông phải. Lúc đó liền có 2 vị Phạm Thiên xuất hiện đỡ lấy Ngài. Hai ṿi nước một ấm một lạnh do 2 con rồng phun ra từ trên cao xuống tắm cho vị hoàng tử mới sơ sanh.

Tích cũ kể tiếp, Thái tử vừa lọt ḷng mẹ đă bước đi bảy bước, mỗi bước có một hoa sen nở để đỡ lấy chân của Ngài. Đến bước thứ bảy Thái tử đưa một tay chỉ ngón trỏ lên trời, một ngón tay chỉ xuống đất thốt lên câu nói:

“Thiên thượng thiên hạ duy ngă độc tôn” nghĩa là “Trên trời dưới đất chỉ có chân-ngă (tức cái-Ta-chân-thật) là số một” … rồi sau đó Ngài đă trở lại đời sống như một đứa bé sơ sanh b́nh thường khác.

Thái tử Sĩ Đạt Ta sanh ra tại vườn Lâm Tỳ Ni Nepal năm 624 trước Tây Lịch (tranh huyền thoại)

 

Khi Thái tử sinh được 5 ngày, đức vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đặt tên cho con trai là Siddhattha (tiếng Sanskrit) âm tiếng Việt là Sĩ-Đạt-Ta, họ là Gotama, âm tiếng Việt là Cồ Đàm. Tiếng Păli là Siddharta Gautama. Ngài thuộc ḍng dơi quí tộc Thích Ca (Sakiya).

Theo phong tục thời bấy giờ, nhà vua cho mời nhiều vị đạo sĩ Bà La Môn học rộng tài cao vào triều dự lễ đặt tên và xem tướng cho Thái tử. Có tám vị đạo sĩ lỗi lạc vào cung xem tướng cho Thái tử. Bảy vị đưa lên 2 ngón tay và giải thích hai lẽ: Một là Thái tử sau này sẽ trở nên vị Hoàng đế vĩ đại nhứt thế gian, hai là Ngài sẽ đi tu và đắc quả Phật. Riêng đạo sĩ trẻ tuổi tên là Kiều Trần Như (Kondanna) th́ bảo rằng sau này Thái tử sẽ xuất gia và thành tựu quả Chánh Đẳng Chánh Giác.

Trước đó, có một vị đạo sĩ tên là A-Tư-Đà (Asita) là một người thân tín của nhà vua tu hành trên núi Hy-Mă-Lạp-Sơn, nhân chuyến hạ sơn nghe dân gian loan truyền Hoàng hậu Maya vừa hạ sanh hoàng nam, nên ông xin được vào thăm Thái tử. Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho bồng Thái tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Đạo sĩ A-Tư-Đà xem tướng Thái tử rồi tiên tri rằng về sau Thái tử sẽ trở nên bậc vĩ nhân cao quư nhất của nhân loại. Nói xong, ông sụp quỳ lạy Thái tử. Thấy lăo đạo sĩ đảnh lễ con ḿnh như vậy, đức vua Tịnh Phạn cũng làm theo đạo sĩ, xá chào con ḿnh.

Kế đó, đạo sĩ bỗng dưng cất tiếng cười khan rồi lại khóc. Đức vua và mọi người ngạc nhiên trước những cảm xúc vui buồn của đạo sĩ, hỏi tại sao, th́ được đạo sĩ ATư-Đà giải thích rằng ông vui mừng v́ biết rằng về sau Thái tử sẽ đắc quả Phật và ông khóc v́ biết rằng không bao lâu nữa ông sẽ chết và tái sanh vào cảnh giới Vô Sắc (là cảnh giới mà người đắc thiền sẽ tái sanh vào). Do đó ông sẽ không được hưởng phước lành thọ giáo với bậc trí tuệ cao siêu, Chánh Đẳng Chánh Giác.

Sau lễ đặt tên Thái tử được 2 ngày, Hoàng hậu Mahămaya đột nhiên qua đời, trong kinh ghi bà được sanh về cung trời Đao Lợi. Lúc bấy giờ, Vương phi Mahă Pajăpati Gotami (em ruột của hoàng hậu) t́nh nguyện nuôi dưỡng Thái tử cho đến khi Ngài khôn lớn.

LỄ HẠ ĐIỀN

Một sự kiện lạ lùng xảy ra trong thời thơ ấu của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta. Sự kiện ấy là một kinh nghiệm tinh thần của Ngài, là chiếc ch́a khoá mở đường cho Ngài tiến đến sự Giác Ngộ.  Câu chuyện kể lại là vào hằng năm vua Tịnh Phạn có tổ chức lễ Hạ Điền. Đó là một nghi lễ cầu thần linh ban cho mưa thuận gió hoà, trước khi mọi người bắt tay vào việc đồng áng.

 

Ở Ấn Độ, người ta tin đủ các loại thần: nào là thần mưa, thần gió, thần lửa, thần đất v.v… Họ tin tưởng tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của con người đều do thần linh cai quản. Con người phải cúi đầu nhận chịu sự ban phát hay trừng phạt của các đấng thần linh.

Sáng ngày đức Vua cùng quần thần áo măo chỉnh tề ra tận nơi hành lễ.  Các cung phi mỹ nữ đỡ thái tử Sĩ-Đạt-Ta ngồi vào kiệu, lính hầu khiêng kiệu đặt dưới bóng mát của một cội cây trâm lớn, nơi nghi lễ sẽ diễn ra cách đó không xa. Mọi người đều hân hoan chiêm ngưỡng cảnh nhà vua chủ lễ, các cung phi có phận sự trông nom Thái tử cũng lén chạy đến gần để xem.

Thái tử lúc đó c̣n nhỏ khoảng 9, 10 tuổi, nhưng lại không ham thích cảnh tưng bừng nhộn nhịp của buổi lễ. Thái tử rời kiệu xuống đất, thay v́ chạy nhảy vui chơi, Ngài lại chọn bóng mát dưới gốc cây trâm, ngồi tréo 2 chân theo lối kiết già, trầm ngâm lặng lẽ, mắt lim dim, chăm chú vào hơi thở, định tâm và t́nh cờ nhập định đắc Sơ Thiền.

Đang lúc mọi người bận rộn, vui vẻ với cuộc lễ, các cung phi bỗng sực nhớ tới Thái tử, vội vă quay về với phận sự, họ thấy Thái tử đang ngồi trầm ngâm thiền định. Lấy làm lạ nhưng không dám quấy rầy, họ vội vàng đến tŕnh tâu tự sự cho vua Tịnh Phạn.

Đức vua Tịnh Phạn hối hả đến nơi, thấy Thái tử Sĩ-Đạt-Ta vẫn c̣n trong tư thế nhập định. Đức vua đến trước mặt Thái tử, chắp tay xá chào con, dịu dàng nói: “Hỡi này con yêu quí, đây là lần thứ nh́, phụ vương đảnh lễ con.”

 

ĐỜI SỐNG THÁI TỬ SĨ-ĐẠT-TA BỊ BƯNG BÍT

 

 

 

Vua Tịnh Phạn thấy Thái tử c̣n nhỏ mà không ưa thích cuộc sống ồn ào vui chơi như những trẻ con hoàng thân quốc thích khác, nên Ngài rất lo sợ, nhất là mỗi khi nhớ đến những lời tiên tri của các vị đạo sĩ rằng sau này Thái tử sẽ xuất gia t́m đạo và đắc quả Phật.

Trong ḷng vua Tịnh Phạn không muốn con ḿnh đi tu, Ngài chỉ muốn huấn luyện cho Thái tử trở thành người tài giỏi xuất chúng về mọi mặt, để sau này trao ngai vàng cho Thái tử trị v́ trăm họ.

Để đạt được mục đích của ḿnh. Nhà vua bắt đầu lên kế hoạch che đậy bưng bít không cho Thái tử thấy, biết… cuộc sống thế gian vốn có nhiều đau khổ và phiền lụy.

Bao vây chung quanh thái tử là cuộc sống vương giả, xa hoa, đàn ca hát xướng, tràn ngập sự hoan lạc. Khi lên 16 tuổi, theo phong tục thời bấy giờ, Thái tử kết duyên cùng công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhară), một người em cô cậu cùng tuổi. Trong 13 năm chung sống cùng Công chúa, Thái tử hoàn toàn sống cuộc đời nhung lụa, không hay biết ǵ về nỗi thống khổ của nhân loại bên ngoài ngưỡng cửa cung điện, Ngài và Công chúa Da-Du-Đà-La lại sinh được một đứa con trai, khiến cho vua Tịnh Phạn hết sức vui mừng. Vua đặt tên cháu nội là La-Hầu-La (Răhula)

 

XUẤT GIA

Suốt 29 năm sống trong cung vàng điện ngọc, được sự chiều chuộng của tất cả mọi người trong hoàng cung, nhất là vua cha và kế hậu cùng công chúa xinh đẹp DaDu-Đà-La luôn để ư chăm sóc, tạo điều kiện thuận lợi, khiến cho Thái tử lúc nào cũng cảm thấy vui vẻ hạnh phúc. Một ḿnh Ngài được hưởng thụ mọi thứ vinh hoa trên cơi đời này. Trong kinh Tăng Nhứt A-Hàm (Anguttara Nikăya, phần 1, trg 145) có ghi lời Ngài kể cho đệ tử nghe như sau:

“Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây th́ sen đỏ vươn ḿnh phô sắc phiá bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen trắng đua nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Kasi đưa về. Khăn và áo của ta cũng may toàn bằng hàng lụa bậc nhứt từ xứ Kasi chở đến.“Ngày cũng như đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sương đỡ nắng. 

“Phụ hoàng cũng kiến tạo riêng cho ta ba toà cung điện. Một để cho ta ở mùa lạnh, một mùa nóng và một mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa ta lưu tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những cung tần phi nữ. Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung mặc sướng chớ không phải như ở các nhà khác, gia đ́nh chỉ được ăn cơm xấu và thức ăn cũ.”

 

 

Bấy lâu nay, trước mặt Thái tử chỉ là cảnh cung vàng điện ngọc, cung phi mỹ nữ đàn ca xướng hát quanh năm suốt tháng, là vợ đẹp, con thơ, là ngôi báu đang chờ đợi.

Nhưng đến một ngày nọ, Thái tử năy ra ư kiến xin phụ hoàng đi thăm dân cho biết sự t́nh. Vua Tịnh Phạn nghĩ cũng đến lúc cho Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta ra ngoài thành để biết đất nước của ḿnh hùng tráng, xinh đẹp như thế nào.

Vua Tịnh Phạn liền ra lệnh cho dân chúng mọi nhà phải cấp tốc giăng đèn kết hoa, trưng bày một cảnh thái b́nh thịnh vượng, người người phải lộ nét vui vẻ hạnh phúc, nhất là trên những con đường mà Thái tử sẽ đi qua.

Dù đức vua Tịnh Phạn ra lệnh che giấu cuộc sống của dân chúng chu đáo như thế nào cũng không qua mắt được Thái tử. Sau bốn chuyến du ngoạn ngoài thành Thái tử đă quan sát và nhận thấy cuộc sống của con người không hoàn toàn hạnh phúc, mà cuộc sống con người bị quay cuồng trong một ṿng tṛn khốn khổ như h́nh ảnh một cụ già yếu ớt, mắt mờ, lưng c̣ng, tóc bạc, da nhăn, bước đi rung rẩy phải nhờ một cây gậy chống đỡ. Một người bệnh hoạn đau đớn rên la ngoài đường trông thật thảm thương. Một thây người chết śnh thúi đưa lên giàn hoả thiêu đốt trước sự khóc lóc sầu năo của người thân c̣n sống. Bên cạnh đó những người xung quanh chỉ lo chạy đua, tranh giành, chụp giựt, bon chen hằng ngày, không hề có giây phút suy tư t́m cách thoát khỏi cái ṿng hệ luỵ sanh, già, bệnh, chết đó! Chừng như họ chịu thua hoàn cảnh khắc nghiệt ập lên cuộc đời ngắn ngủi của họ và cứ tiếp tục thả ḿnh trôi lăn trong biển khổ định mệnh. Riêng Thái tử th́ không chấp nhận, Ngài nghĩ là ḿnh phải làm bất cứ giá nào để vượt khỏi sự sinh diệt. Rồi Ngài trầm ngâm tư duy t́m lối thoát ra, nhưng không có cách nào hết.

 

Cũng may, ngoài ba cảnh già, bệnh, chết… th́ trong chuyến du ngoạn lần thứ tư, Thái tử gặp được một vị đạo sĩ Bà La Môn nghiêm trang khả kính. H́nh ảnh thong dong từ tốn của vị tu sĩ này đă mở cho Thái tử một con đường mà Ngài hy vọng sẽ đạt được giải thoát an vui.

Trong kinh Trung A-Hàm (Majjhima Nikăya, Phần 1 – Ariyapariyesana Sutta số 26, trang 163) có ghi lại sự suy nghĩ của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta như sau:

 “Chính ta phải chịu sanh, già, bịnh, chết, phiền năo và ô nhiễm. Tại sao vẫn mải mê chạy theo những điều mà bản chất cũng c̣n như vậy. V́ chịu sanh, lăo, bịnh, tử, phiền năo và ô nhiễm, ta đă nhận thức sự bất lợi của những điều ấy. Hay ta thử đi t́m cái chưa thành đạt, cái tối thượng và tuyệt đối của Niết Bàn”.

Nói về cuộc sống tại gia, cũng trong kinh Trung A-Hàm, Phần 1, Mahăsaccaka Sutta số 36, kể lại rằng:

“Đời sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược, nhưng đời của bậc xuất gia quả thật là cảnh trời minh mông bát ngát! Người đă quen với nếp sống gia đ́nh ắt thấy khó mà chịu được Đời Sống Đạo Hạnh Thiêng Liêng với tất cả sự hoàn hảo và trong sạch của nó.”

Nhận định rơ ràng những thích thú vật chất mà phần đông tranh giành nhau đều không thể đem lại lợi ích bền vững, chỉ có sự xuất gia, từ bỏ tất cả mùi danh bă lợi của trần gian này mới thật là chân giá trị, nên Thái tử Sĩ-Đạt-Ta dứt khoát rời bỏ cung điện với ngai vàng ngôi vua đứng đầu thiên hạ, từ giă người vợ cao sang quyền quư xinh đẹp và đứa con kháu khỉnh dễ thương vừa mới chào đời để ra đi t́m Chân lư Tịch Tịnh trường cửu. Hy sinh t́nh cảm riêng tư để ra đi không phải Thái tử ích kỷ chỉ nghĩ riêng cho bản thân ḿnh, mà Ngài ra đi để t́m pháp tu hầu tự cứu ḿnh và cứu hàng hàng lớp lớp chúng sanh đang lặn ngụp trong biển khổ, trong đó cho phụ hoàng,  mẫu hậu, vợ con của Ngài.

Từ một Thái tử giàu sang vinh hiển tột bậc. Ngài trở thành một đạo sĩ nghèo nàn, không tiền của, không cửa nhà, sống nhờ ḷng từ thiện của bá tánh thập phương. Ngài không có một nơi chốn nào nhất định. Hôm nay, ngủ dưới gốc cây cao bóng mát, ngày mai tạm trú trong một hang đá vắng vẻ hoang vu… Thế nào cũng được, chỉ cần có thể che mưa đỡ nắng cho Ngài trong buổi trưa hè nắng gắt, hay trong đêm khuya gió sương lạnh lẽo là được rồi. Chân không giày dép, đầu không mũ nón, Ngài đi trong ánh nắng nóng bức và trong sương gió lạnh lùng như thế ngày này qua ngày khác. Tất cả xiêm y chỉ là những mảnh vải vụn vặn ráp lại vừa đủ để che thân. Tất cả tài sản chỉ là một b́nh bát để tŕ khất thực. Vật thực và bộ y chỉ vừa đủ sống. Ngài tận dụng thời giờ và năng lực trong việc t́m kiếm khám phá chân lư.

 

T̀M CHÂN LƯ

Từ lúc Thái tử bỏ nhà, tự cắt tóc xuất gia tầm đạo đă nhiều lần thất bại suưt mất mạng.

Lúc đầu Ngài t́m cầu học đạo với 2 vị thầy Yoga nổi tiếng thời đó là đạo sĩ Alără Kălama và Uddaka Rămaputta.

Học với đạo sĩ Alără Kălama, không bao lâu ngài đắc quả “Vô Sở Hữu Xứ” nghĩa là “Chỗ không có ǵ”. Đây là trạng thái tâm thức thiền gia cảm nhận “không có ǵ” chung quanh ḿnh trong lúc toạ thiền cũng như sau khi xả thiền. Trong tiến tŕnh này, tuy tâm không giao động, không rối loạn trước các đối tượng (v́ đối tượng không là ǵ), nhưng vẫn c̣n tự ngă và ư thức cho nên ngă và pháp đều có mặt. Kết quả đă không đáp ứng được mục đích thoát khỏi sanh già bệnh chết, nên Ngài  từ giả vị Thầy ra đi t́m pháp khác, mặc dù vị Thầy này đă yêu cầu Ngài ở lại để cùng hướng dẫn đồ chúng.

Ngài ra đi t́m học đạo với vị thầy thứ hai là đạo sĩ Uddaka Rămaputta chỉ trong 3 tuần ngắn, Ngài cũng được vị thầy này ấn chứng cho đă đạt được quả vị cao nhất của hệ thống thiền Yoga là “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ“. Đây là trạng thái “không tri giác, mà cũng không không tri giác” nói cách khác là “hoàn toàn không nhận thức điều ǵ đối với môi trường xung quanh”. Trong lúc đó niệm biết rơ ràng không xuất hiện cho nên thiền giả có lúc ch́m đắm trong ảo tưởng. Ngài nhận thấy loại định này cũng không đưa đến thoát khỏi ly tham, cũng không đạt được đoạn diệt, an tịnh, thượng trí và giác ngộ. V́ thế dù được vị thầy thứ hai này ấn chứng và ngỏ ư truyền tất cả đồ chúng để Ngài cai quản và hướng dẫn họ tu tập, nhưng ngài đă nhă nhặn từ chối.

Một lần nữa, Ngài từ giă vị thầy thứ hai để ra đi.

Lang thang qua xứ Ma-Kiệt-Đà, Ngài gặp đạo sĩ Kiều Trần Như và bốn anh em. Cùng với họ, Ngài bắt đầu tu khổ hạnh. Thời đó các vị tu sĩ quan niệm là phải đ́ thân thật khốc liệt để cảm giác đau đớn nổi lên trên thân th́ mới đạt được đạo quả. Các tu sĩ thời đó cho rằng đây là con đường duy nhất không c̣n con đường nào khác để đạt được Niết Bàn. Trong ṿng 6 năm đạo sĩ Cồ Đàm nổi tiếng khắp nơi về việc tu hành khổ hạnh. Có lúc Ngài tu theo hạnh con chó, con ḅ, có lúc Ngài ngủ trên cỏ gai nhọn, ngủ một gị, không tắm, không cạo râu, không ăn no uống nhiều, chỉ ăn một hạt gạo mỗi ngày. Có khi vào giữa đêm khuya lạnh lẽo Ngài lại trầm ḿnh xuống ḍng sông, nước lạnh thấu xương hay nằm chịu đựng cho tuyết rơi phủ cả thân ḿnh. Ngài tự khép ḿnh vào nếp sống cực kỳ kham khổ, cho đến một ngày kia thân h́nh tráng kiện của Bồ Tát chỉ c̣n da bọc bộ xương, Ngài xứng danh là đệ nhất khổ hạnh, được mọi người tôn xưng là Thánh nhân.

 

CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO

Tu khắc nghiệt như thế mà cũng không t́m ra được manh mối ǵ.  Tiếc thay, càng đ́ thân khốc liệt bao nhiêu th́ Ngài càng xa rời mục tiêu đi t́m Niết Bàn bấy nhiêu. Thực ra, lúc đó Ngài cũng không biết trạng thái Niết Bàn là như thế nào, Ngài chỉ nghĩ đó là trạng thái không phiền năo nếu đă tận diệt mọi h́nh thức ái dục.

Sau 6 năm dài đày đọa thân thể, tuy thân của Ngài càng lúc càng tiều tuỵ, hai mắt như hai hố thẳm, da nhăn nheo, tóc lông đụng tới đâu th́ rụng tới đó, Ngài gầy ốm đến nỗi da bọc xương, đi đứng không vững, nhưng tâm ngài vẫn không bị xao động, cho đến một ngày kia Ngài té xỉu ở b́a rừng, may nhờ cô bé chăn cừu cứu sống bằng chén bột sữa.

 

 

Khi tỉnh dậy, Ngài tỉnh ngộ, nhận ra sự sai lầm của pháp tu khổ hạnh. Ngài nhận ra thân này là quư, v́ thân kiệt quệ, mệt mỏi th́ tinh thần cũng kiệt quệ mệt mỏi không thể phát sáng, Ngài liền dứt khoát bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan này, cũng như trước kia Ngài đă từ bỏ lối sống cực kỳ lợi dưỡng sung sướng nơi hoàng cung, v́ Ngài cho rằng đời sống lợi dưỡng làm chậm trễ tiến bộ đạo đức.

Bây giờ Ngài chọn con đường độc lập, tức con đường trung đạo, không lợi dưỡng cũng không khổ hạnh, Ngài nhận ra ḿnh phải biết quư cái thân này để mượn nó mà tu.

Ngài nhớ lại buổi lễ Hạ Điền năm xưa, khi c̣n thơ ấu, trong lúc phụ hoàng và mọi người chăm chú cử hành lễ hội với các tṛ vui, Ngài đă ngồi thế nào dưới bóng mát mẻ của cây trâm, tham thiền nhập định và đắc được Sơ Thiền. Càng tư duy, ngài càng thấy rơ đây mới thật là con đường tu tập dẫn đến Giác Ngộ.

Ngài ngẫm lại thời gian khổ hạnh trong mấy năm qua, dù không đạt được mục tiêu tối hậu, nhưng nhờ pháp này mà Ngài đă tự chiến thắng được chính ḿnh, chiến thắng được ḷng tham dục: tài, sắc, danh, thực, thuỳ. Ngài cũng đắc được nhĩ thông nghe được chư thiên nói chuyện về Ngài.

Ngài nhận ra rằng với tấm thân ṃn mỏi khiến tâm không thể hoàn toàn sáng suốt. Bây giờ cái Ngài cần là một sức khoẻ thích nghi rất cần thiết để đạt tiến bộ tinh thần, nên nhất định không nhịn đói nữa mà nhận bánh Kheer của cô Sujatà cúng dường. Sau khi ăn uống tắm rửa sạch sẽ, ngài đến gặp lại các bạn đồng tu là năm anh em Kiều Trần Như để kể cho các vị ấy biết ư định ngưng pháp tu khổ hạnh v́ pháp này không giúp ích cho mục tiêu giải thoát của Ngài. Năm vị tu sĩ này thấy Ngài đột nhiên thay đổi phương pháp tu th́ lấy làm thất vọng nói rằng: “Đạo sĩ Cồ Đàm đă trở lại ưa thích xa hoa, đă ngừng cố gắng và đă quay về với đời sống lợi dưỡng” rồi họ rời bỏ ngài, đi về phía Vườn Lộc Giả (Vườn Nai / Sarnath).

 

THÀNH ĐẠO

 

Năm người bạn đồng tu đă rời bỏ Ngài ra đi. C̣n lại một ḿnh, một cảnh cô độc, Ngài đi dọc theo bờ sông Ni-Liên-Thiền hướng về khu rừng cây rậm rạp khác cách xa làng mạc, ngày nay là Bồ Đề Đạo Tràng. Tại nơi đây vắng vẻ, không bóng người qua lại, Ngài chọn một gốc cây Pipphala to lớn, sau này người ta gọi cây đó là cây Bồ Đề. Ngài trải cỏ Kusha làm toạ cụ, quyết chí tham thiền và thề nếu không chứng đạo dù thịt nát xương tan Ngài cũng sẽ không rời khỏi cội cây này. Nhớ lại pháp thở khi c̣n nhỏ, bây giờ thử lại Ngài đạt được kinh nghiệm khi xưa, nếu không nói tâm mỗi lúc mỗi yên lặng hơn nhiều, v́ thế Ngài nhất quyết chọn pháp này để tu cho đến khi giải thoát. Ngài bắt đầu chú tâm vào hơi thở, rồi buông thả hơi thở, quay vào trong tâm, lặng lẽ thiền định để t́m ra những chân lư cao sâu thâm diệu hầu giải quyết bài toán phức tạp sinh già bệnh chết.

Sau 49 ngày đêm, đạo sĩ Cồ Đàm đă lần lượt nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Khi tâm Ngài hoàn toàn định tỉnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, b́nh tĩnh… hướng về tuệ giác liên quan đến sự nhớ lại những kiếp quá khứ của chính ḿnh. Tất cả những ǵ xảy ra từ nhiều kiếp quá khứ hiện ra trong nhận thức của ngài như một cuốn phim trước mặt. Sanh ra, chết đi, tái sanh… Hết đời này qua đời khác… Làm con người này, làm con người kia… như thế nào Ngài đều rơ biết. Đây là tuệ giác đầu tiên ngài chứng ngộ vào lúc canh Một của đêm thành đạo, gọi là Túc Mạng Minh.

Phá tan được lớp vô minh, tự ḿnh nh́n ra được vô số kiếp của ḿnh. Bây giờ ngài mới hướng tâm về tri giác (hiểu biết) hiện tượng Sanh, Diệt của chúng sanh. Với huệ nhăn tinh khiết và siêu phàm, Ngài thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ngài biết người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh…v.v… Tất cả đều trải qua diệt và sanh, sanh và diệt, tuỳ hành vi tạo tác hạnh nghiệp tốt xấu thiện ác của mỗi người mà thọ sanh luân hồi trong 6 cơi: trời, người, Atula, súc sanh, ngạ quỷ hay địa ngục… Như vậy với Thiên Nhăn Minh, ngài mục kích sự phân tán và sự cấu hợp trở lại của chúng sanh. Ngài chứng ngộ Thiên Nhăn Minh trong canh giữa của đêm thành đạo.

Tiếp theo, ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ tri hiểu biết sự chấm dứt các pháp trầm luân. Ngài biết như thật “đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường đưa đến diệt khổ”. Ngài biết như thật “đây là những ô nhiễm (lậu hoặc), đây là nguyên nhân của các lậu hoặc, đây là sự diệt trừ những lậu hoặc, đây là con đường diệt trừ các lậu hoặc”. Lần lượt ngài nhận thức tiếp: “Đây là phiền năo, đây là nguyên nhân của phiền nào, đây là sự chấm dứt phiền năo, đây là con đường đưa đến chấm dứt phiền năo”. v.v… và. v.v… Nhận thức như thế, tâm Ngài thoát khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), thoát khỏi hữu lậu (ô nhiễm của sự luyến ái đời sống) và thoát khỏi vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh). Ngài chứng Lậu Tận Minh khi trời hừng sáng. Bấy giờ Ngài biết ḿnh đă được giải thoát, Ngài nhận thức rằng: “Tái sanh đă chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đă viên măn, việc cần làm đă làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”.  (Kinh Trung Bộ 1, Đại Kinh Saccaka, số 37, trg 541-543)

Màn vô minh đă hoàn toàn giải toả và trí tuệ phát sanh. Đêm tối đă tan và ánh sáng tràn ngập đến. Đạo sĩ Cồ Đàm lúc đó 35 tuổi. Suốt 6 năm dài đăng đẳng, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, cũng không được sự hướng dẫn từ một năng lực siêu phàm nào, cô độc một ḿnh, tự nỗ lực chiến đấu chính ḿnh và tự ḿnh thắp đuốc ṃ mẫm đi trong đêm tối. Kết quả đă tận diệt mọi ô nhiễm (lậu hoặc) chấm dứt mọi tiến tŕnh tham ái và chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, đă trở thành một vị Phật lịch sử.

 

Đức Thích Ca Mâu Ni là một vị Phật lịch sử. V́ sau mấy ngàn năm, tư liệu sử sách vẫn c̣n để lại:

Cha: Đức Vua Tịnh Phạn nước Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ)

Mẹ: Hoàng hậu Mahămaya (băng hà sau khi sanh Thái tử 7 ngày)

Mẹ kế: Vương phi Mahă Pajăpati Gotami (là d́ ruột nuôi Thái tử cho đến khi khôn lớn)

Ngày sanh: Rằm tháng 4 Âm lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni, nước Nepal. Thành hôn với công chúa Da-Du-Đa-La: Năm 16 tuổi

 

Đến 29 tuổi có con đầu ḷng là: La-Hầu-La

Bỏ hoàng cung xuất gia: Ngày 8 tháng 2, vào năm 29 tuổi

Thành đạo: Ngày 8 tháng 12. Năm 35 tuổi tại Buddha Gaya, Ấn Độ

Hoằng pháp: 45 năm

Nhập Niết Bàn: Rằm tháng 2, thọ 80 tuổi tại Kusinără, Ấn Độ.

 

Hiện nay, vẫn c̣n các thánh tích (Tứ Động Tâm) ghi lại những nơi Đức Phật đă đi qua do các nhà khảo học người Anh t́m thấy. Như Lâm Tỳ Ni là nơi Đức Phật đản sanh. Bồ Đề Đạo Tràng (Buddha Gaya khoảng 10 cây số cách nhà ga xe lửa Gaya) là nơi Đức Phật thành đạo. Vườn Lộc Giả, bây giờ là Sarnath, Ấn Độ, là nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, giảng bài kinh Tứ Diệu Đế và Vô Ngă Tướng độ cho 5 anh em Kiều Trần Như đắc quả A-La-Hán. Nơi Đức Phật diệt độ là Kusinără (bây giờ gọi là Kasi, khoảng 40 cây số cách nhà ga Gorakhpur, Ấn Độ).

 

KẾT LUẬN

 

Đức Phật Thích Ca được tôn vinh là Giáo chủ của tín đồ Phật giáo ở cơi Ta Bà này. Cuộc đời của Ngài cũng có một huyền thoại rất hy hữu. Ngài đă để lại một kho tàng giáo lư giá trị.  Đạo Phật có khoảng trên 800 triệu tín đồ trên thế giới (hơn 7 tỷ người) và đạo Phật cũng có hệ thống nghi lễ hẵn hoi.

Như vậy, một mặt đạo Phật cũng có thể được xem như là một tôn giáo, mà hễ tôn giáo th́ người Giáo chủ ấy có nhiều huyền thoại về cuộc đời cho nên chúng ta mới có Đức Phật Huyền Thoại. Nhưng ngược lại trong kinh điển Phật giáo để lại người ta thấy rằng Ngài không hề nhận ḿnh là Giáo Chủ mà chỉ là người Thầy trao truyền những phương pháp tu tập, những kinh nghiệm mà Ngài đă trải qua cho những người muốn tu tập để thoát khổ giải thoát, cho nên người ta tôn xưng Ngài là vị Phật lịch sử duy nhất trên cơi đời này. Những danh hiệu cao quư khác do tín đồ của Ngài cung kính tôn xưng mà thôi.

Nhân ngày lễ Phật Đản chúng ta nghĩ tưởng về người khai sáng ra đạo Phật qua 2 h́nh ảnh theo 2 truyền thống: Lịch Sử và Huyền Thoại. Truyền thống nào cũng mang lợi lạc cho chúng sanh.

 

 

Chúng ta biết rằng Đức Phật khi c̣n tại thế đă không nhận ḿnh là thần linh, là thượng đế, nên Ngài không ban phát phép lành hay cứu rổi cho bất cứ ai. Ngài chỉ để lại một học thuyết mà qua sự tự tu, tự chứng của Ngài, cho những ai tin và theo học. Học thuyết đó giá trị chủ yếu ở các khái niệm thiện tâm, nhân ái và b́nh đẳng. Đó là về mặt cộng đồng, xă hội. Về mặt tâm lư Ngài để lại một kinh nghiệm tu tập để con người thoát khỏi sự kiềm toả của sự đau khổ để được sống trong trạng thái an lạc hạnh phúc gọi là Niết Bàn.

Đối với giáo lư nhà Phật th́ Niết Bàn chính là trạng thái tĩnh lặng, trong sáng, không dính mắc với mọi thứ trên đời này, nhưng vẫn luôn sáng suốt v́ trí huệ bát nhă đă được khai mở phát huy. Người nào kinh nghiệm được trạng thái Niết Bàn là người đó thoát khổ, giải thoát. Như vậy Niết Bàn không phải ở đâu xa mà nó ở ngay trong tâm của người liễu đạo bây giờ và ở đây!

 

Viết về cuộc đời của Đức Phật không chỉ vài trang giấy là đủ cho nên bài viết này tạm thời được khép lại nơi đây. Với tấm ḷng kính quư của người học Phật, chúng tôi chỉ mong trang trải chút hiểu biết sơ cơ của ḿnh để cùng với mọi người ôn lại tiểu sử ngắn gọn của Đức Bổn Sư Thích Ca về hai mặt Lịch Sử và Tôn Giáo nhân mùa Phật Đản, Phật lịch 2562.

Kính chúc tất cả chư liệt vị thân tâm thường an lạc trong ánh hào quang của chư Phật.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ  

May 23/2018

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Gịng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA ֎ Lam vs Ngo

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

Người quốc gia đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân tộc lên bản vị tối thượng nên không tranh quyền đoạt lợi cho cá nhân, phe nhóm, đảng phái hay bầy đàn tôn giáo của ḿnh. Người quốc gia bảo vệ lănh thổ của tiền nhân, giữ ǵn di sản văn hóa dân tộc, đăi lọc và kết hợp hài ḥa với văn minh, văn hóa toàn cầu để xây dựng con người, xă hội và đất nước Việt Nam cường thịnh phù hợp với xu thế tiến bộ của nhân loại.

Kim Âu

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNN

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapital vCreatevResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNG

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vViệt ThứcvViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh

vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân

vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong

vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCSvLuật Khoa 

vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu Trữ

vST/HTVvvThống KêvĐiều Ngự