-
26 tháng 5 2019
* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ESPNSport -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-07/2008 -08/2008 -09/2008 -10/2008 -11/2008 -11/2008
-12/2008 -01/2009 -02/2009 -03/2009 -04/2009 -05/2009
-06/2009 -07/2009 -08/2009 -09/2009 -10/2009 -11/2009
-12/2009 -01/2010 -03/2010 -04/2010 -05/2010 -06/2010
-07/2010 -08/2010 -09/2010 -10/2010 -11/2010 -12/2010
-01/2011 -02/2011 -03/2011 -04.2011 -05.2011 -06.2011
-07/2011 -08/2011 -09/2011 -10/2011 -11/2011 -12/2011
-05/2012 -06/2012 -12/2012 -01/2013 -12/2013 -03/2014 -09.2014 -10.2014 -12/2014 -03/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2016 -02/2016 -03/2016 -07/2016 -08/2016
-09/2016 -10/2016 -11/2016 -12/2016 -01/2017 -02/2017
-03/2017 -04/2017-05/2017 -06/2017 -07/2017 -08/2017
-09/2017 -10/2017 -11/2017 -12/2017-01/2018 -02/2018
-03/2018 -04/2018 -05/2018 -06/2018 -07/2018 -08/2018
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. Mar/2017.
Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017. Jul/2017. Aug/2017.
Sep/2017. Oct/2017. Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018.
Feb/2018. Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018. Nov/2018.
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT- EPOCH
Hãy biểu
dương
cùng tận
PHAN NHẬT NAM
Biểu dương, hãy biểu dương cùng tận
Vinh hiển lầm than một kiếp người.
(Tô Thùy Yên)
Dẫn Nhập.
7 Tháng 9, 1981 nơi Trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam.
Cửa thứ nhất khu kỹ luật mở ra.. Anh ngó trân trân lên khối
sắt sơn xanh không cảm giác, vô hồn bước vào khoảng sân vắng
tanh, lau sậy khô teo, vàng úa, xao xác hỗn loạn. Viên cán bộ kỹ
luật và gã tù hình sự phải vạch lối đi qua để dẫn anh tới trước
tấm cửa bên ngoài dãy buồng giam. Thanh sắt chắn ngang khung cửa
gỗ thứ hai được kéo ra, rút bỏ xuống.. Âm rền rĩ siết lê gay
gắt, gào chìm rờn rợn. Đi tiếp vào căn phòng tối lạnh, chiếc bàn
gỗ xiêu vẹo dựa vách tường trên có chiếc chén nhựa bẩn, cơm,
khoai, sắn đọng khô nâu quanh vành chén (có lẻ từ lâu không được
dùng đến), anh nhìn quanh, dãy buồng kỹ luật tối im chập choạng,
kín như khối nhà mồ chất chứa xương cốt của những người chết để
lâu không chôn cất. Tử khí ẩm ẩm tanh tanh. Cuối cùng, anh bước
vào căn buồng hẹp sau cánh cửa thứ ba (đúng nghĩa chỉ là chiếc
hộp dựng đứng), đặt chân vào khoen cùm hình chữ U. Bên ngoài,
tiếng động ổ khóa khóa lục cục, xong thanh sắt giữ chân cùm
chuyển động, day day chạy ngang cổ chân anh. Căn phòng hoàn toàn
chìm đẫm vũng tối sau loạt động âm do những tấm cửa đóng lại.
Không biết bây giờ là mấy giờ?Hôm nay thứ mấy?! Anh quên ngay ý
nhiệm thời gian, ngày, tháng vừa tách rời. Nơi nầy năm trước,
1979 anh đã một lần vào, và khoảng một năm sau anh được cho ra,
trở về trại chung với đồng ngũ. Nhưng lúc ấy thân thể anh bền
bỉ, rắn chắc; trí tuệ mạnh mẽ cương nghị.. và nhất là chung
quanh, bên ngoài, ở cạnh những bức tường phòng giam nầy còn có
một tập thể bạn tù Miền Nam - Những người bạn anh mà có thể phân
biệt cụ thể, chính xác từng âm nói của mỗi người.. Cách phát âm
của Phan Văn Giỏi (với âm sắc Quảng Nam được nhấn mạnh) đang múc
nước ở khu nhà bếp (sát tường buồng kiên giam).. nhớ nghe
không..Nhớ uống cà phê.. nghe Phượng (“Cà-phê phượng”- biệt danh
các bạn đặt cho, do anh uống cà phê pha chế bằng những hạt
phượng rang cháy). Trước kia, năm ngàn người của lần chuyển trại
đến đây (tháng Tám, năm 1978) đã chiếm dụng toàn thể bốn dãy nhà
giam chính của khu giam giữ; nay chỉ còn hai-mươi-hai người ở
gọn đúng vào một chiếc buồng (của dãy nhà cuối cùng) luôn khóa
kín sau giờ lao động. Đúng hai mươi-hai người. Anh là người cuối
cùng của nhóm người khốn khổ còn lại nơi Miền Bắc nầy. Chung
quanh anh nay không còn ai. Chung quanh anh nay không có người.
Có ai chia sẻ với mình đây?! Anh cố gắng nghĩ đến điều xót xa
nầy nhưng không nổi. Hình như ý nghĩ cũng gây đau. Anh sờ tay
lên bức tường.. Động tác vô nghĩa nhưng để chứng tỏ mình đang
còn sống, biết suy tính. Là con người biết xê dịch bàn tay.. Có
ai chia sẻ với mình không? Ý nghĩ được kết thúc như thể hoàn
thành xong lần cố gắng.
.. Ta ngồi dậy
và như một thói tật,
Gõ gõ hỏi han
Hai bên tường tả hữu.
Có ai không?
Không có ai sao?
Ta khắc khoải chờ nghe
Những tiếng động của người
Tiếng động nào bất kể
..
Ta phải cố quên quên bằng mọi cách
Nỗi điêu đứng sống còn
Trong hằng hằng tĩnh chết..
(Thức giấc trong biệt giam, Thơ Tuyển- Hoa Kỳ, Thu 1996;
trg168)
Năm 1992, nơi khu vườn của Như Phong ở Nhị Bình, Hốc Môn, Gia
Định, trước ngày ra khỏi nước, anh nói cùng Tô Thùy Yên: Cám ơn
Bạn đã viết những giòng Thơ chính xác, với ý nghĩa Thơ là Sức
Nâng Đở. Anh nói không quá lời, e rằng bày tỏ chưa đủ ý, chưa
diễn tả được hết lòng tin cậy đối với Thơ. Đối với Bạn. Lời kẻ
chết là lời thiêng. Lời kẻ kinh qua cơn khốn cùng là lời thật.
Người Viết Thơ Tô Thùy Yên là người làm chứng thuần thành nhất –
Làm chứng về Sự Khổ – Cảnh Chết.
* * *
Phần Một-Thơ là cớ chứng thật nhất
16 tháng Ba, năm 1996 nơi phi cảng New York, Nước Mỹ.
Anh đến đây từ Houston (Texas), trên đường đi lên một nơi
thuộc vùng bắc lục địa Bắc Mỹ. Một nơi nào đó. Anh không cố ý
tìm hiểu chốn ấy ở đâu, như thế nào, dẫu đã là người chuyên
nghiệp xử dụng bản đồ, tìm hiểu địa hình trong nhiệm vụ quân sự
ở những năm tháng cách đây không mấy xa. Người bạn dặn, cứ theo
chỉ dẫn trong vé máy bay mà đi.. Sẽ đến nơi đây, tiếp tới nơi
kia. Trời đang mùa xuân nhưng ẩm ướt, giá rét. Tuyết đóng dày
đẩy ùn ra hai bêân hệ thống những đường băng phụ thành đống khối
lớn. Anh ngó mông ra phi đạo mù mù. Anh nhìn quanh quẩn khối
người đông đảo di chuyển, thúc hối, nhưng rì rầm yên nặng.. À
đây là New York, chỗ nầy có bức tượng Nữ Thần Tự Do. Tượng đó ở
đâu? (Anh đảo mắt qua lại như thể đang cố ý tìm kiếm một điều gì
đã rành rẽ, một người thân quen).. Chắc đâu đó ngoài khu bến
tàu, tượng ấy đâu ở phi trường. (Anh cười thành tiếng chứng tỏ
đã hiểu biết về một nơi chốn, một tình thế). Tượng nhìn ra cửa
biển vào New York mà, thành phố nầy to nhất nước Mỹ đấy. To nhất
thế giới nữa..” Anh tự hỏi, xong trả lời, buộc trí não phải bận
rộn; cũng như để chứng tỏ không bị khuất lấp bởi hoạt động lôi
cuốn ầm ầm chuyển dịch đang vây bọc. Không ai biết mình là ai
cả? Và mình đi đâu đây? Cuối cùng, anh mở Tập Thơ Tuyển, viết
lên phần trống những tờ giấy sau trang bìa.
Tôi đọc Thơ ông,
Tận trống trải..
Trống vơ, trống vốc.
Khi đến New York vừa rời Houston.
...
Phi trường xuống,
Không một ai.
Thật.
Không một ai.
Chỉ Tập Thơ ấm sâu trong ngực.
Và anh sống lại. Sống đầy đủ. Sống cùng tận nỗi bàng hoàng xa
xót khi đọc qua những chữ nghĩa bình thản đến lạ lùng - Những
chữ nghĩa nói về một cuộc sống-chết mà bản thân anh (cũ#ng của
nhiều người) hằng mang nặng, nhưng không khả năng xóa mờ, vất
bỏ. Mà vất bỏ nơi đâu? Xóa bỏ xong thì trí nhớ anh còn những gì?
Quán chật xanh lên rừng lính ướt
Mặt bơ phờ dính gió bao la
Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét
Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa
....
Tiếp tế khó – đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên
Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên.
(Qua Sông; sđd, trg25)
Vào buổi chiều mù tối nơi chốn xa lạ hôm nay, qua những giòng
thơ, cảnh sống tàn nhẫn tội nghiệp một cách bình thường trong
chiến tranh kia thoắt trở lại tận đầy đủ.. Và anh nghe ra tiếng
cười, giọng nói của những người lính; âm âm báng súng, giây đeo
đạn, nón sắt.. va chạm lục cục trên mặt đất, nơi thành bàn, dưới
chiếc ghế gỗ của một chòi quán ẩm ướt nào đó ở Long Sơn, Long
Định vùng quê Long An ngày mới ra đơn vị, 1963; hoặc nơi Bồng
Sơn, Lại Giang, Bình Định cuối năm sáu-mươi sáu, sau kỳ sinh
nhật hai mươi-ba tuổi. Có thể anh không nhớ đủ hết tên họ, nét
mặt những người đã cùng sống, kẻ đã chết thuộc những đơn vị nhảy
dù mà anh hằng dự phần, có mặt. Nhưng lạ thay, anh nhớ chính xác
mỗi chi tiết nhỏ nhặt của tiếng động, mùi nước bùn ẩm ướt thấm
qua lớp áo trận, từng khuôn mặt của những người lính (quen và
lạ) dồn chật trong chiếc quán nhỏ, lần dừng quân ngày mưa năm
xưa. Và anh nghe lại giọng chậm, đục của hạ sĩ Ty vác súng trung
liên khi mở lời xin anh điếu thuốc giải khuây cùng sắc mắt vô
hồn, buồn phiền của những người lính địa phương quân đồn Long
Sơn khi họ thoáng nghe, nhìn lướt qua trao đổi thân mật, gần gũi
của thầy trò anh.. Sinh hoạt ngắn ngủi, nhỏ nhặt mà họ không thể
có do phải ở lại đây giữ trách nhiệm ngặt nghèo giữa vũng tối
sũng nước của vùng ruộng đồng hoang vắng, nơi chiếc đồn đang im
im bốc khói cháy ngầm khi đơn vị nhảy dù cứu viện rút đi.. Hỏi
chủ quán còn chai bia nào không, mời luôn mấy anh nầy. Anh đưa
bao thuốc cho Ty, chỉ về phía những người lính địa phương.. Dạ,
cám ơn, cám ơn thiếu úy,
Thiệt tình tên bạn ta không nhớ
Nhưng mà trông mặt thấy quen quen
Hề chi, ta uống cho say đã
Nào có ra gì một cái tên.
.....
Người thuở trước tìm vàng khẩn đất
Tiêu xác thân, để lại oan hồn.
Ngày nay ta bạn đến đây nữa,
Đất thì không khẩn, vàng không tìm.
(Anh Hùng Tận; sđd, trg 28)
Tuy nhiên, hoạt cảnh lặng lẽ kể trên dẫu sao cũng là lần “
bình an, hạnh phúc”, khi chiến tranh chưa nặng độ (đầu thập niên
60), và lần dừng quân còn có một chái quán lợp lá dừa, chai bia,
điếu thuốc của vùng thôn quê Miền Nam – vùng đầt trù phú với sức
sống ứ tràn trong mạch nước dầm dề phù sa. Vì tiếp liền theo sau
đó, chiến tranh mở rộng, giăng dầy, chụp xuống chiếc cánh âm u
tai họa.. Và Thơ không chỉ là lời miêu tả cảnh Khổ, nhưng chạm
đến mối Đau khi con người bị ném vào lần tận tàn sát, thực hiện
cuộc tận diệt.
Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ
Từng đoàn như trẻ nhỏ ghê ma
.....
Ta ngó thấy nhà cửa trốc nốc
Từng ngôi như mặt đất đang gào..
Nhưng cũng không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên, nhà cửa tang
hoang, tiêu hủy mà đã đến lúc, đôi tượng hứng chịu tai ương -
Con người trong chiến tranh - Người lính của hai bên lâm chiến,
kẻ thụ nạn của một cuộc tương tranh tàn tệ, phải đối diện (thực
sự đối diện) câu hỏi sững sờ vì mức độ phi lý, phi nghĩa, tận vô
ích, và cực độ phí phạm của nhiệm vụ họ phải nhận lãnh..
Vì sao ngươi tới đây?
Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói
..
Vì sao ta tới đây?
Lòng xót xa thân xác mõi mòn.
Câu trả lời không có. Nếu có chăng cũng chỉ tăng thêm cường độ
cay đắng của một vấn đề đã hư hoại, độc địa từ khởi đầu.
Ví dầu ngươi bắn rụng ta
Như tiếng thét
Xé hư không bặt im
Chuyện cũng thành vô ích.
Ví dầu ngươi gục
Nào có chi đáng kể.
Bi thảm hơn hẳn những nhân vật trong kịch và tiểu thuyết “phi
lý” của Samuel Beckett – Trong đó, con người còn khả năng luận
lý (cho dù luận về một điều “phi lý”); hoặc còn có điều chờ đợi
(dẫu là một điều không tưởng).. Đấy, đời sống cứ qua đi.. Cũng
vậy, chẳng có quan hệ gì nếu tôi đã sinh ra đời hay không, tôi
đã chết đi hay đang lâm tử.. (Malone meurt; Minuit, Paris, Fr.
1952); hoặc trong kịch En attendant Godot; Minuit, Paris, Fr.
1953, hai nhân vật Estragon và Gladimir, sau một loạt đối thoại
không mạch lạc, rối mù về những bàn tay, bàn chân, cái bàn,
chiếc ghế.. xoay qua đối tượng gọi là Godot – Bất ngờ xuất hiện
như một đồ vật cốt làm đầy cho câu chuyện vô nghĩa, của lần chờ
đợi (không biết đợi cái gì).. Bởi: Godot khi là một nguồn động
lực bắt con người phải chờ đợi, phải nói đến..Nhưng cũng chính
là con người với sự chờ mong (vô vọng, vô nghĩa) của chính họ.
Godot chỉ là điều tưởng tượng. Ở Việt Nam, trong chiến tranh,
qua Thơ Tô Thùy Yên, diễn tiến sống-chết cụ thể với chính thịt
xương con người, qua từng giờ khắc chịu đựng, bày ra như một
điều hài hước. Bi kịch và hài tính đã nhập lại thành một khi
cùng đối diện với sự chết. Kết thúc bởi sự chết.
Ta phá lên cười, ta phá lên cười
Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ
Ở cõi âm nào người vốn không tin,
Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa:
Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho Tổ Quốc Việt Nam- một tổ quốc..?
Các việc ngươi làm,
Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm
Các việc ta làm
Ta xét thấy chẳng ra chi
Nên người hăng điên, còn ta ảm đạm
Khi cùng làm những việc như nhau.
Và kết luận cuối cùng không thểâ khác,
..Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại,
Mặt đất nầy đổi khác được bao nhiêu?
Người há chẳng thấy sao
Phá Tam giang, phá Tam Giang ngày nầy đâu đã cạn?
(Chiều trên Phá Tam Giang; sđd, trg 74)
Cuộc máu lửa, súng đạn chấm dứt với ngày 30 tháng Tư, 1975,
Thi Sĩ kẻ thụ nạn khốc liệt nhất trong mọi tầng lớp xã hội Miền
Nam-cùng một lúc thực hiện hai chức năng, nạn nhân lẫn chứng
nhân của lần xĩ nhục, đọa đày Con Người – Sinh vật nhận biết đau
trong trái tim, trên xác thân.
Thức dậy, những ai còn sống đó,
Nhìn ra nhớ lấy phút giây này.
Tàu đi như một cơn giông lửa
Cuồn cuộn sao từ ống khói bay
.......
Toa nêm lúc nhúc hồn oan khốc,
Đèn bão mờ soi chẳng thấy ai.
Ta gọi rụng rời ta thất lạc.
Ta còn chẳng đủ nửa ta đây.
.......
Dường như ta chợt khóc đau đớn.
Lệ nóng cường toan cháy ruột gan
Lệ chảy không ra ngoài khóe mắt.
Nghẹn ngào đến cả tiếng than van.
(Tàu Đêm; sđd 117)
Người phải sống và Thơ phải viết bởi lần đau không chỉ riêng
đối với một cá nhân, nhiều giới người, hoặc giai cấp cầm quyền
chính trị, hay một tầng lớp xã hội.. mà toàn bộ lịch sử – đời
sống bị xáo tung, ngụy trá, mạo danh, miệt thị và hủy hoại.
Không chỉ nơi Miền Nam, không riêng của Việt Nam, mà chung cho
cả địa cầu, lần con người tận diệt.
Mà thôi hãy nuốt lệ còn nghẹn
Tỉnh thức, lòng ơi nhìn tận tường
Thời đại đang đi từng mảng lớn
Rào rào những cụm khói miên man
.....
Người bạn đường kia chắc vẫn thức
Mong tàu đi đến chỗ đêm tan
Có nghe lịch sử mài thê thiết
Cho sáng lên đời những rỉ han
Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dậy địa cầu
Lay động những tầng mê sảng tối
Loài người, hãy thức, thức cùng nhau.
(Tàu Đêm; sđd 117)
Thi Sĩ phải sống để đi cho hết cuộc hành trình tưởng như không
hề có thật- Hành trình băng qua thống khổ máu lệ cường toan -
Khóc không nỗi, nói không nên lời, chỉ biết cúi đầu im lặng
trước bi thương chập chùng oan nghiệp mà phận người phải gánh
nặng từ một thuở bắt đầu vòng sinh-diệt.. Cũng để tận thấm hiểu
nghĩa xa xót mong manh từ hạt sương, tiếng dế, giếng nước, sợi
tơ trời nơi bản quán đã thật sự nhạt nhòa, hư vỡ.
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
........
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển đời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt.
Tội tình chi lắm nữa, người ơi!
(Ta Về; sđd 126)
Người ơi! Người nào? Không người nào cả. Chỉ riêng ta với
tiếng gọi xé lòng.. Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ- Thanh Tâm Tuyền.
Hãy gọi lên một lần. Cho gọi thêm đến nhiều lần.. Gọi đến lay
động chiếc bóng của chính ta ngã dài trên dặm trường thăm thẳm
cô quạnh. Hãy gọi lên. Kêu lên.. Không còn ai.
* * *
Phần Hai – Thi Sĩ luôn hiện sống - Sống ròng
Gần mười năm sau Thơ Tuyển (1995), Thắp Tạ (2004) đã là một
lần vượt thoát toàn diện, và Thi Sĩ thật sự Sống Ròng-Với Thơ.
Nếu những năm tháng trước đây trong chiến tranh, tiếp tù ngục
và cảnh khổ Việt Nam (sau 1975) đã hé mở ra những vấn nạn không
thể nào trốn thoát.. Gõ lấy đầu mình như gõ cửa. Liên hồi kêu
cứu giữa đêm khuya.. (Mùa Hạn; Thơ Tuyển, trg 103); hoặc phải
chứng kiến những kinh hoàng không thể quên.. Trăm họ lần lượt bỏ
xứ trốn. Biển thì hung hãn, thuyền mong manh. Ta nghe kể lại xác
lên bãi. Nằm dài dài như lúc chiến tranh. (Nỗi Đợi; TT, trg
163). Nhưng dẫu gì tại lúc nguy nan kia con người cũng còn đôi
chút hy vọng - cách hy vọng bền bỉ của người không chịu khuất
phục (bởi khuất phục có nghĩa tiêu vong) - nên người lại kiên
nhẫn lên đường, vẫn luôn trên đường đi, dẫu đường vô hạn lẻ
loi.. Con đường vô định chưa ai tới. Hay tới nơi, thôi chẳng trở
về. Hởi gã du hành, hãy nói lại. Những điều người thoáng thấy
như mê. (Và Rồi Tất Cả Sẽ Nguôi Ngoai; TT, trg 53). Nhưng hôm
nay, cuối thế kỷ bão táp, sang đầu thời đại mạt pháp, Con Người
tự tìm ra và phải tìm ra với sáng suốt, tận bình yên, bởi người
hiểu nên rằng, sẽ không đi tới đâu cuối cuộc hành trình miên
viễn khó nhọc suốt một cuộc đời. Không xa, không gần, không non
cao, không biển rộng, không biên giới và cũng “không còn biên
giới”.
Đi như đi lạc trong rời đất,
Thủy tận sơn cùng, xí xóa ta.
Cõi chiều, đứng lại, khóc như liễu:
Có thật là ta đã đi xa?
(Đi Xa; Thắp Tạ - Hoa Kỳ, 2004, trg 10).
Điều chứng ngộ nầy không đâu xa..
Chỉ là một bước, bước trờ..
Hỏi chưa ra, đã trăm năm sững sờ
(BiệtTăm; sđd, trg 11).
Phải, chỉ một bước thôi, bước ngắn ngủi, chóng vánh, cô đọng
như một công án thiền đạo –Thi Sĩ thấy ra (thấy chính xác, cụ
thể) kích thước tận cùng trong phần, đoạn hữu hạn.
Tưởng thôi, nháng tưởng thôi.
Trí năng nào chạy kịp
(Sát Na; sđd, trg 11).
Công phá tuyệt luân nầy phải do mỗi cá nhân tự chứng – Đây là
Sự Thường nhưng không hề tầm thường - Chỉ được xác lập bởi những
trí tuệ thật sự khắc khoải mới hiểu nên điều nguyên lý: Sự thất
vọng về hữu hạn là do thiếu đi tính vô hạn (Soren Kierkegaard);
hoặc chỉ từ khổ đau vô lượng của kiếp người - Bất cứ người nào
khi gặp những cảnh ngộ.. Buồn trông nội cỏ dàu dàu, chân mây mặt
đất một màu xanh xanh; hay khi đối diện, Bốn phương mây trắng
một màu, trông vời cố quốc biết đâu là nhà – Mà thiển nghĩ (chắc
nghĩ không sai), đây không là tình cảnh của một cô gái tên gọi
Vương Thúy Kiều, nhưng thật phải là của người đã viết nên những
giòng chữ xót xa nầy - Tâm cảnh thắt thỏm của Nguyễn Du lúc ở
Huế nhìn về phương Bắc với lòng quặn đau: Bắc thành thập khẩu
khẩn đề cơ – Mười miệng người kêu đói ấy không ai xa lạ, chính
là vợ, đúng là con. Là đứa con mà Đỗ Phủ đã phải ôm chặt vào
người, bịt miệng lại do trẻ quá đói cứ nhè ông mà cắn, và để đứa
bé bớt la khóc (sợ hùm, sói nghe được) trên đường chạy loạn ngã
Bành Nha: Si nữ cơ giảo ngã. Đề úy hổ lang văn. Hoài trung yểm
kỳ khẩu.. Kinh qua những giờ khắc thương tâm đáng sợ nầy (không
phải chỉ trong một khoảng thời hạn tại một hoàn cảnh nhất định),
con người phải tự cứu.. Và không còn con đường nào khác ngoài
thái độ bình thản vô vàn cao thượng trong tất cả mọi tình huống,
cho dẫu gặp phải kết thúc đậm dấu bi ai nơi một chốn mịt mùng
không định hướng.
Mai có ai về ngang quãng sông nầy
Xin ném cho hòn đất hỏi thăm.
......
Những nấm mộ đá chồng rỗng kiệt
Hình hài người chết đã tiêu tan.
Nhưng chắc đâu hồn mộng chẳng còn chạy giỡn bạt ngàn
Cho tàn hã cuộc mê man cùng Vô Biên độc nghiệt.
(Viễn Tây; sđd, trg 45).
Thế nên, không cần đến giải oan nơi sông Tiền Đường, cũng
chẳng nên khóc than người nằm dưới nấm mộ dàu dàu ngọn cỏ bên
đường, cuộc nhân sinh ai cũng thế mà thôi, mỗi người một cảnh,
vô vọng , đơn lẻ như gió thổi qua cõi ngoài.
Một mai, ngoài cõi gió hao đuối
Ai hỏi ai về ai trước kia?
(Chim Kêu Bãi Quạnh; sđd, trg 32)
Ai hỏi ai? Và hỏi về ai? Không phải là cách chơi chữ nghĩa
nhưng quả thật Người Viết Thơ đã nắm bắt được tiêu điểm tận cùng
của biên giới tâm cảnh mà con người luôn gọi tên bằng những tính
tự “tuyệt vọng, đau thương”. Và tuy biết bên ngoài vùng mông
mênh “ngoài cõi gió” kia không còn nữa những “đơn vị gọi là ai”,
nhưng Thi Sĩ không hề tuyệt vọng (như khi Tây Phương kiêu ngạo
đối diện với Hư Vô; kẻ chinh phục thấy ra điều suy hoại, sụp đỗ
đế quốc xây dựng bởi thành quả bạo tàn) - Vẫn vững tin và bình
thản cậy trông.
Khắc khoải chim kêu mùa hóa giải
Hành nhân về bên giếng quê nhà
Ngõ trúc chiều ngát hoa gạo mới
Ngọn đèn thắp đợi đã rền hoa
.....
Chiêm bao, âu cũng chiêm bao cả
Mưa lớn chừng như rợp hải hà.
(Chim Kêu Bãi Quạnh; sđd, trg 33)
Đau thương thay và đáng được kính trọng thay, qua suốt cuộc
biển dâu ba mươi năm với những cảnh huống trầm luân, khi hái rau
nơi vực suối triền núi sâu đất Bắc.
Làm người, đã phải làm sao?
Thêm bề rau thấp, cỏ cao, tội người.
.......
Giá cho ta hỏi một lời
Rau nầy trăm họ mấy người đã ăn?
(Hái Rau; sđd, 37-38)
và khi thảng thốt về Nam chứng kiến cảnh xé lòng.
Làng đã cháy, im lìm bất trắc..
Người nhớ người mà cũng sợ người.
Trời ơi, những xác thây la liệt,
Con ai, chồng ai, anh em ai?
(Nhớ có lần, trên bến bắc khuya.; sđd, 70)
Nhưng Con Người đi hết chặng đường bão táp ấy vẫn sắc son bền
bỉ vẫn tận sống từng khắc giây sung mãn với lòng yêu thương con
người, hoa cỏ, lá cây, lát gừng cay, hạt muối mặn lấy ra từ Đất.
Người còn, trời đất còn chan chứa.. Muối mặn, gừng cay trắng tóc
xanh.. cho dẫu đã hơn một lần (rất nhiều lần) hiểu rõ nghĩa
“được-mất; có-không”sau những lần bị tước đoạt trần trụi như
tình cảnh của Job trong Cựu Ước; bị lấy đi cả tiếng sáo hót thắm
thiết trong buổi ngày thơ.. Tình cảnh của miền Nam, của cả nước
bị bóc vỡ đến những ngưồn vui trong sáng nhỏ bé sau 1975.
Con sáo trong lòng con đã chết
Bé ơi, sao bé còn đi tìm?
Còn kêu lạc giọng sáo ơi sáo.
(Con Sáo; sđd, trg 29)
Chẳng phải đợi đến khi có lời nguyền rũa từ Tây Phương về lần
bức tử Thượng Đế, những dân tộc Đông Phương (điễn hình cảnh
huống người Việt, các dân tộc trên Bán Đảo Đông Dương suốt bao
thế kỷ lầm than do những cuộc phân tranh khởi từ đời Lê Mạt, thế
kỷ 16, 17 kéo dài đến cuối thế kỷ 20) đã hằng thấm cơn đau về
một, “Lão tạo hóa đành hanh qua ngán. Giết đuối người trên cạn
mà chơi” (Nguyễn Gia Thiều- Cung Oán Ngâm Khúc) – Giết vì một đố
kỵ khắc nghiệt, “Trời xanh quen thoái má hồng đánh ghen” (Nguyễn
Du- Kiều) – Giết như một trò chơi. Nhưng những con người thuần
phác bền bĩ chịu đựng kia vẫn hằng nuôi dưỡng đức tin nhu thuận:
“Trời luôn đến cùng người khốn cùng, kẻ khờ dại, và những trẻ
thơ” Nên dẫu, Tạo hóa tham công hay lỗi lầm? Hoặc giả, Vũ trụ
tạo hủy dở dang mãi, Con Người qua tuyên ngôn của Thi Sĩ vẫn
nhận ra điều kỳ diệu:
Mới hay sống chết dễ mà khó,
Mệnh nghiệp không là chuyện dững dưng.
(Hành Giả Âu Sầu; sđd, trg 109)
Có Dân Tộc nào bản lãnh đến ngần ấy? Có Con Người nào mạnh
mẽ đến nhường kia? Quả thật, chỉ riêng Thi Sĩ đã hoàn tất xử
dụng chữ, nghĩa thanh khiết tạo nên lời ca ngợi vô vàn:
Thế nhưng ngươi sẽ vẫn yêu đến giọt nước mắt cuối,
......
Cũng như ngươi sẽ vẫn yêu đến giọt nước mắt cuối.
* * *
Kết Từ
Kể từ khi “người vượn- homo erectu” dựng đứng được xương sống
và dùng hai tay để viết nên những ký hiệu đầu tiên, đến nay
trong những trước tác của tổ chức nhân loại văn minh với Bộ Bách
Khoa Toàn Thư (Encyclopedia Britannica) gồm hai mươi-chín cuốn,
hoặc Tự Điển Từ Nguyên, Từ Hải đồ sộ của người Trung Hoa.. Tất
cả nội dung trình bày trong những ấn phẩm to lớn nầy không gì
khác hơn do một NÉT VẠCH ĐƯỢC SẮP XẾP theo một hệ thống từ con
người dần xác lập, và đồng thuận xử dụng. Hệ thống nầy do Hai
Mươi- Bốn chữ cái La-tinh, hoặc Bảy nét cơ bản của Hán Tự cấu
tạo nên thành Chữ Viết tồn tại bền vững qua hàng ngàn năm cho
đến nay. Và chắc chắn dẫu tiến đến một tương lai kỹ thuật cao
đến bao nhiêu – CHỮ VIẾT-CON NGƯỜI (dưới nhiều dạng tự khác
nhau, Phạn Ngữ. Á-Rập Ngữ..) VẪN VĨNH HẰNG TỒN TẠI. Thế nên,
chúng tôi vô cùng tin cậy rằng: Trong những ký hiệu Chữ Viết kia
ẩn chứa Thần Tính – Siêu Việt Tính nhưng cũng là Nhân Tính.
Chúng ta nhắc nhở với nhau như thế, đồng thời xác lập điều tự
hào cảm động: Tiếng Việt qua vận động của Thi Sĩ đã trở nên
thành nguồn nội lực đủ sức cất chứa những rung cảm tế vi của tâm
hồn, và biểu hiện nên Lời Thơ hùng vĩ.
Chúng ta vẫn sống như rừng cây
Chúng ta vẫn sống như mặt biển
Bởi vì đã đi nên sẽ đến
Người và bóng tối phải chia tay.
Cảm ơn Người Bạn Viết Thơ Đinh Thành Tiên – Thi Sĩ Tô Thùy
Yên.
PHAN NHẬT NAM
Mùa Lễ Tạ Ơn. Cali, tháng 11, 2004.
Ý kiến nói thơ của Tô Thùy Yên "không dễ đọc" và ông là "nhà thơ phản kháng theo nghĩa đẹp nhất của trí thức, văn nghệ".
Tô Thùy Yên, một thi sĩ lớn của miền Nam Việt Nam vừa qua đời ngày 22/5.
Ông vừa nằm xuống thì đã thấy ngay một số việc quan trọng: hầu hết các thông tin về ông đều ở một phía người Sài gòn và hải ngoại. Các dòng chủ lưu viết về ông trên Facebook, các trang mạng xã hội cũng đều là người miền Nam và các bạn viết miền Nam là chính.
Điều đó cho thấy vết hằn văn nghệ Nam - Bắc vẫn là hai cực trái dấu chưa bao giờ được xóa mờ thậm chí ngày càng sâu trầm, dữ dội.
Nhớ Tô Thùy Yên và 'Chiều trên phá Tam Giang'
'Quê hương yêu dấu bao người chờ trông...'
Nguyễn Thị Thụy Vũ và tâm tình ngày trở lại
Tập thơ nạm vàng vẫn say đắm người thời nay
Cũng có ý kiến nói rằng ông là nhà thơ lớn của Việt Nam chứ không của chỉ miền Nam. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là ghi nhận rộng mở thiện chí qua mỗi trái tim yêu thơ chứ chưa được nhìn nhận như thông tin khách quan trong nước.
Riêng cái nhìn cá nhân của người viết thì, ông là biểu tượng thơ độc đáo, đầy kiêu hãnh của Sài gòn cũ. Một nền cộng hòa nhân bản đã sụp đổ. Là một chứng nhân thơ. Tên tuổi, cuộc đời đã trải qua nhiều đế chế, chứng kiến sự thăng trầm nguyệt quế của vinh quang, cay đắng, của tù tội, địa ngục… và qua những bài thơ còn lại khiến ông bất tử trong tâm hồn những người yêu nghệ thuật và tự do.
Nói về văn hóa Sài Gòn và thơ miền Nam khó có thể quên ông. Như vậy liệu còn cần nhân danh sớm để tung hô ông là nhà thơ lớn Việt Nam không? Tôi nghĩ không cần thiết. Và thi sĩ cũng không cần điều đó. Trước hết, việc bình đẳng trong văn học, văn hóa Việt Nam đến nay vẫn chưa xảy ra. Các thi phẩm của ông và nhiều thi sĩ chưa được chính thức in lại một cách công bằng. Nếu thi ca, âm nhạc không hằn gắn nỗi những vết thương, nỗi đau thì hóa ra tâm thế người Việt hôm nay còn lâu mới nói đến chuyện hòa giải hòa hợp được!
Tuy vậy, đọc Tô Thùy Yên hoàn toàn không dễ. Ông là một con người mâu thuẫn.
Nói như thi sĩ William Butler Yeats: "Tôi đang tìm bộ mặt tôi hằng có. Trước khi thế gian được tạo ra (I'm looking for the face I had/Before the world was made). Tô Thùy Yên có bốn gương mặt. Một thi sĩ phóng đãng, một chiến binh thất bại, một tù nhân luyện ngục và một thiền sư suy mặc. Là một trong những tác giả chủ trương nhóm Sáng Tạo cùng với các thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Ngọc Dũng, từng có thơ in báo từ năm 17 tuổi và sáng lập nhà xuất bản Kẻ Sĩ nhưng tuyệt đối ông lại chưa bao giờ in cho mình một tập thơ.
Nếu nói ở Sài Gòn trước 1975 việc tự do viết, tự do xuất bản ồn ạt dễ dàng như vậy nhưng Tô Thùy Yên lại không có tập thơ nào thì thật khó tin. Lý giải việc này trong lần gặp nhau Đức, thi sĩ kể với tôi ông chưa khi nào thấy hài lòng về thơ của mình. Mãi đến khi ở trong tù ra, đã qua đến Mỹ ông mới tự in một "Thơ Tô Thùy Yên", mang danh nhà xuất bản An Tiêm. Sau đó là thi phẩm "Thắp tạ' (2005) ông ký tặng tôi. Với thi ca ông luôn sống với những hoài nghi.
Tô Thùy Yên là một nhà thơ phản kháng theo nghĩa đẹp nhất của trí thức, văn nghệ. Phản kháng vì luôn đặt ra những câu hỏi, truy xét, vầu vò ngôn ngữ. Ông luôn đặt mình ở tư thế phản diện để phản biện. Thành ra ông cũng là người mâu thuẫn. Theo dõi hành trình thơ của ông đôi khi tôi ngạc nhiên tự hỏi tại sao người ta nói nhiều về ông nhưng rất ít người hiểu đúng ông. Là người khai phóng và khai sáng nhóm Sáng tạo nhưng thơ ông về thể thức rất Tân cổ điển, hoàn toàn không chủ trương ý thức làm mới hẳn như Thanh Tâm Tuyền. Vì vậy suốt một thời gian dài hình như nhóm Sáng Tạo cũng dè dặt khi đặt ông vào. Mãi đến về sau này với độ lùi khoảng 50 năm thì người ta lại thấy bóng ông vượt lên "Ta về một bóng trên đường lớn" trong khi rõ ràng Thanh Tâm Tuyền mờ hẳn đi.
Điều này cho thấy sự nghiệt ngã của thơ. Sau những trào lưu, đột phá vẫn chính là lòng người yên nghĩ. Độc giả có thể quay cuồng với một câu thơ bão bùng trong một giai đoạn, nhưng theo thời gian để lắng lại chỉ có thể là những câu thơ dễ thuộc, vần vè, bình yên.
Thanh Tâm Tuyền từng cổ súy rất văn hoa nói rằng Tô Thùy Yên là là thơ miền Nam nhưng ngôn ngữ thơ của ông hoàn toàn miền Bắc chứ không phải miền Nam. Khen như thế đồng nghĩa với việc đã ngầm nói ông đã phản bội lại tử ngữ của mình. Với lại, nếu so sánh bằng cấp độ ngôn ngữ tôi đòi hỏi một mức độ cao hơn nữa, ví như sao chưa thấy ai phê phán Phạm Công Thiện là Bắc kỳ với những triết luận, đả phái của ông khi Thiện là dân Mỹ Tho Nam kỳ rặt? Thành thử nhận định này thoạt đầu nghe có vẻ êm ái nhưng sau đó rất khó chịu. Đó là sự miễn cưỡng khi nói về cái mới ấu trĩ!
Giá trị của thơ Tô Thuỳ Yên nằm ở chất nhân văn, cái nhìn xoáy vào thân phận con người. Điều mà hình như ông đã thấu tình đạt lý khi ở trong tù cộng sản ra. Không rõ hành trình đạt tới cảnh giới ý niệm này có được trên tiến trình làm thơ của ông hay khi sự bắt bớ giam cầm quá lâu - 13 năm tổng cộng cả của hai lần của thi sĩ đã khiến ông mệt mỏi? Có thể đây là chung cục của sự suy tư rốt ráo hoặc tư thế buộc phải chọn lựa chứ không còn cách nào khác! Để tồn tại hoặc chết? Nhưng rõ ràng tuy không nói ra thuyết trung dung này đã thuyết phục được tâm lý khác nhiều người. "Ta về cúi mái đầu sương điểm / Nghe nặng từ tâm lượng đất trời / Cám ơn hoa đã vì ta nở / Thế giới vui từ mỗi lẻ loi".
Những suy tư đầy yếm thế của "chiến binh thua trận" kiểu này tội thấy khá ít ỏi, hay gần như chưa thấy rõ dung mạo trong tác phẩm của các nhà văn, thi sĩ miền Nam ở Sài gòn cũ hiện vẫn còn sống ở Hải ngoại. Vì hơn ai hết, ngoài phẩm chất một thi sĩ, Tô Thùy Yên là một tướng quân đội. Ông là thiếu tá Tâm lý chiến của quân đội miền Nam Cộng hòa. Ông phải giải mã, trả lời câu hỏi hậu thế đó cho lịch sử. Đành rằng "chính trị là một con điếm" và tư thế của một nhà thơ và một sĩ quan cấp tá vẫn khó liên quan, rằng buộc với nhau.
Một lý giải khác khá quan trọng với thơ Tô Thùy Yên đó là thi sĩ theo trường phái khắc kỷ nghệ thuật. Hay lý giải theo quan điểm Albert Camus "Sáng tạo là cho số phận ta một hình thù". Như như thế cũng đồng nghĩa từ trong nguyên ủy, ông phản lại, chống lại thơ tự do.
Một lần nói chuyện với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ bà cho biết ông làm thơ như cực hình không có gì là sung sướng cả! Ông nghiêng hẳn về tứ và ngôn ngữ! Đè nén cảm xúc trong các hình tượng mẫu tự nghiêm nhặt. Vì thế ông chọn thể thức thơ cổ phong, tứ tuyệt hoặc 5 chữ, 7 chữ. Ông đọc và tìm hiểu điển tích rất nhiều.
Bà Thụy Vũ cho biết ông thường "vắt nát óc" cùng kiệt cho một bài thơ. Ông chép đi chép lại một bài thơ và thường vò xé bản thảo viết lại từ đầu nếu thấy câu chữ dó chưa thật đắt, chưa thật ưng ý. "Vì thế mỗi đêm ông làm thơ thì sáng dậy tôi thường phai đem một sọt rác đi đổ vì trong đó đầy ngập những trang viết chưa ưng ý của ông".
Về hình thức ông theo quan điểm của Adgar Allan Poe cho rằng độ dài của bài thơ không nên quá ngắn vì "một bài thơ cực ngắn có thể lúc này hay lúc khác sẽ gây được tiếng vang nhưng sẽ không bao giờ tạo ra được ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài" (Nguyên lý thơ ca - The Poetic Pr - NHHM dịch).
Vì thế những bài thơ nổi tiếng của ông như "Trường Sa hành", "Ta về", "Chiều trên phá Tam giang"… đều có một độ dài cần thiết về hình thức đáng nể. Gây được ấn tượng cho người đọc. Tuy vậy, dưới mắt những người làm thơ đôi khi vẫn thấy ông cũng khá tham lam bày tỏ "thi bất tận ngôn" dẫn đến thừa thãi và quên "ý tại ngôn ngoại". Ngay cả ông trong bài thơ "Ta về" khá dài ông vẫn còn tiếc rẻ "Ta tiếc đời ta sao hữu hạn/Đành không trải hết được lòng ta".
Một điều rất đáng tiếc, một giọng thơ ngoại hạng như Tô Thùy Yên vẫn chưa được các dịch giả quan tâm đúng mức dịch để chuyển ngữ, dịch giới thiệu ra với thế giới. Từ trường phạm vi phổ biến thơ ông cũng chỉ ở trong nước, đặc biệt là người Sài Gòn.
Năm 2005, lần đầu tiên trung tâm LiteraturWERKstatt và Viện Goethe có tổ chức một chuyên đề thơ "105 kinh độ đông" ở Đức đã mời nhà thơ Tô Thùy Yên (từ Hoa Kỳ) và tôi (Việt Nam). Phần thơ của ông và tôi được các nhà nghiên cứu Sollozz, tiến sĩ Thái Kim Lan và dịch giả Hồ Phạm Huy Đôn chuyển ngữ.
Dịp này ông và tôi có hai buổi giao lưu với khán giả yêu thơ ở Berlin và Munich. Bài thơ "Cánh đồng con ngựa, chuyến tàu" của Tô Thùy Yên được xem như bài thơ tiều biểu của ông giai đoạn khởi đầu cùng nhóm Sáng tạo. Bài này có được ông chọn lại trong dịp một số thi phẩm của ông được chuyển ngữ.
Chuyến đi khá ấn tượng vì chúng tôi có dịp được gần nhau. Tôi lại phát hiện thêm một mâu thuẫn kỳ lạ trọng tâm hồn thi sĩ Tô Thùy Yên. Ông nói bằng tiếng Anh và phản đối đến cùng chế độ toàn trị độc tài Cộng sản khi giao lưu với khán giả. Một chế độ cầm tù và làm nhục văn nghệ sĩ. Hoàn toàn khác với những bài thơ ngỡ đã đạt đến cảnh giới giác ngộ của ông, "Ta về khai giải bùa thiêng yểm/Thức dậy đi nào gỗ đá ơi/Hãy kể lại mười năm mộng dữ/Một lần kể lại để rồi thôi…".
Ông nói với tôi "Thi sĩ, không ai có thể làm nhục được hắn ngoài chính nó". Và đọc cho tôi câu thơ của W.Emest Henley: "I am the master of my fate, I am the captain of my soul".
Vâng, ông đã đúng. Cái chết của ông cũng là một cột mốc gần như cuối cùng bị phá đổ bởi thủy triều thời gian nghiệt ngã dành cho một nền Dân chủ Cộng hòa sớm tàn lụi. Như ngọn lửa danh dự mà ông đã giữ được đến phút cuối cùng. Ông làm chủ số phận mình, chữ nghĩa... Ông đã là và sẽ mãi là thuyền trưởng của hồn thơ, một con tàu thơ!
Nhớ đến Tô Thùy Yên, phút chốc mắt tôi nhòa lệ khi nhớ lại những ngày hai anh em lang thang giữa biên giới Đức và Pháp. Anh nói thân phận lưu vong làm anh luôn quay cuồng nhớ Việt Nam. Và nhớ đứa con tật nguyển còn mắc lại ở rửng núi Lộc Ninh không rõ sống chết thế nào? Tại sân bay Munich, không kiềm nổi lòng mình, anh ngửa mặt lên trời khóc lớn. Rồi buồn thảm kéo vali đi giữa tuyết trắng Berlin.
Rồi sẽ còn những câu thơ anh Tô Thùy Yên ạ! Như anh đã đọc câu thơ của Saint - Pol Roux mà em thấy hay quá nhờ anh chép lại vào sổ tay, anh nhớ không? "Cây thơ ca cắm rễ của nó vào tương lai!".
Bài thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, một nhà thơ hiện đang sống tại Sài Gòn
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *