* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT - EPOCH
Từ «Sự Ðụng Ðộ Giữa Các Nền Văn Minh»
và Nhân Chủng Học
nhìn lại Chủ Nghĩa Tương Ðối Văn Hoá
PHẠM TRỌNG LUẬT
Thứ ba, 09 Tháng 10
2018
Chiến
tranh bắt nguồn từ tâm trí con người, chính ngay trong tâm trí con
người mà các thành lũy chống chiến tranh cần được xây dựng.
UNESCO
____________________________________________
Nhân loại đang sống
dưới sự đe doạ của một cuộc thánh chiến giữa các nền văn minh dựa
trên tôn giáo - có thể không còn là trong tương lai xa hay gần nữa
mà đã bắt đầu. Nếu phải xây dựng những thành lũy chống chiến tranh
ngay từ bây giờ trong tâm trí con người, thì tình thế đã rất khẩn
trương, dù chưa đến nỗi tuyệt vọng. Trên vấn đề văn hoá, chúng ta đã
đi từ thái cực này sang thái cực khác, từ tật miệt thị đến bệnh sùng
bái những khác biệt. Tất cả đã được phản ánh khá rõ nét qua suốt 200
năm lập thuyết của nhân chủng học. Bộ môn này đã thất bại trong
nhiệm vụ tìm lại sự đơn nhất của nhân loại thông qua những biểu hiện
đa tạp của chủng tộc chăng? Dù sao, chính nhờ một số trực giác còn
lại trong những kết quả của môn học trên mà chúng ta có thể tìm thấy
loại luận cứ cần thiết nhằm phê phán «chủ nghĩa tương đối văn hoá
hậu hiện đại»: hiểu một cách cực đoan, chủ nghĩa này bao hàm ý tưởng
«vô thông ước» (incommensurability) giữa các đơn vị văn hoá, cơ sở
lý thuyết, nghịch lý thay, không phải của sự bao dung mà của sự bất
dung văn hoá, đồng minh vô tình của chiến tranh. Phê phán phần nào
thôi, bởi vì một sự phê phán trọn vẹn chủ nghĩa tương đối văn hoá
đòi hỏi chúng ta phải cùng phiêu lưu vào lãnh địa của triết lý khoa
học, và phần bổ túc này chỉ có thể là đối tượng của một bài luận
khác. Tất cả giới hạn trong khả năng hiểu biết khiêm tốn của người
viết, tất nhiên.
1) «THƯỢNG ÐẾ CHẾT
RỒI», «DJIHAD MUÔN NĂM!»
Từ năm 1993, thế
giới chính trị văn hoá sôi động về một bài báo của tác giả người Mỹ
Samuel P. Huntington: «The Clash Of Civilizations» («Cuộc Ðụng Ðộ
Giữa Các Nền Văn Minh») (1). Ðến sau một thời gian khá dài hệ tư
tưởng hiện đại của nền văn minh Tây Phương bị liên tục đả phá, ngay
trong và ngay bởi giới khoa học Âu Mỹ, rồi sự xuất hiện sau đó của
«chủ nghĩa tương đối văn hoá» ở một số trào lưu «hậu hiện đại», bài
báo trở thành một trong những tựa sách bán chạy nhất này đã được bàn
tán sâu rộng trong cả hai giới chính trị và khoa học Âu Mỹ. Ðược
minh hoạ bằng «Cuộc Chiến Tranh Vùng Vịnh» năm 1990, cuộc tấn công
khủng bố vào Trung Tâm Thương Mại Thế Giới và Ngũ Giác Ðài ngày
11/09/2001, rồi cuộc «Chiến Tranh Phòng Ngừa» chống Irak của Hoa Kỳ
mới đây, các luận điểm cảnh báo của Huntington còn được sự hỗ trợ
bất ngờ của Ronald F. Inglehart, một chuyên gia về những thay đổi
giá trị và văn hoá, dựa trên một cuộc thăm dò dư luận quốc tế vào
loại quy mô nhất từ trước đến nay: «Cuộc Ðiều Tra Toàn Cầu Về Giá
Trị» («World Value Surveys = L’Enquête Mondiale Sur Les Valeurs»)
(2).
Nhưng trước hết, hãy
trở lại với điển mẫu (paradigm) thế chiến mới của Huntington. Theo
tác giả này, thế giới đang bước vào một thời kỳ tranh chấp khác. Nếu
cùng với cuộc cách mạng Pháp, loại chiến tranh giữa các tập đoàn vua
chúa đã nhường chỗ cho loại chiến tranh giữa các quốc gia, thì ngày
nay chiến tranh nhân dân, kể cả chiến tranh tư tưởng hệ, cũng đã lại
cáo chung. Từ nay, cùng với sự tan biến của chiến tranh lạnh, nếp
gấp giữa các nền văn minh sẽ thay thế loại biên giới chính trị và tư
tưởng hệ như đầu mối của mọi cuộc khủng hoảng và tranh chấp đẫm máu
trên thế giới. Nói cách khác, tất cả các hình thức chiến tranh từ
trước đến nay đều chỉ là một thứ «nội chiến bên trong nền văn minh
Tây Phương. Cuộc thế chiến lần tới, nếu lại xảy ra, sẽ đối lập các
nền văn minh khác nhau» (1, tr. 247).
Xem văn minh như
«một thực thể văn hoá (…), là hình thức tập hợp văn hoá cao nhất,
đồng thời là nhân tố quy định bản sắc văn hoá rộng nhất của loài
người», được định nghĩa «bằng những yếu tố khách quan như ngôn ngữ,
lịch sử, tôn giáo, tập quán, định chế», và nhất là «bằng cái quá
trình tự đồng nhất hoá chủ quan của những người cùng chia sẻ các yếu
tố ấy» (1, tr. 239), Huntington phân biệt từ sáu đến tám nền văn
minh lớn trên thế giới (3): Tây Phương, (Kitô Giáo và Tin Lành),
Trung Hoa (Khổng Giáo), Nhật Bản (Thần Giáo, Phật và Khổng Giáo),
Hồi Giáo, Ấn Ðộ (Hindu Giáo), Xlavô (Chính Thống Giáo), Mỹ-La Tinh,
và có thể, Phi Châu Hạ Sahara. Tuy sự phân định ranh giới còn khá
nhiều mù mờ, điều quan trọng ở đây là: «Phần đông, các nền văn minh
lớn đều tự đồng nhất qua trường kỳ lịch sử với một đạo giáo (4)lớn.
Trái lại, những tập hợp cư dân cùng một sắc tộc và ngôn ngữ, nhưng
lại không theo cùng một đạo giáo, vẫn có thể kình chống lẫn nhau,
như tại Liban, cựu Liên Bang Nam Tư, và trên tiểu lục địa Ấn Ðộ»…
(1bis, tr. 39).
Vẫn theo Huntington,
«cuộc đụng độ giữa các nền văn minh» sẽ xảy ra ở hai mức độ. Ở mức
độ thấp, những tập hợp tiếp giáp với các nếp gấp giữa các hệ thống
văn hoá sẽ tranh chiến với nhau bằng vũ khí, để xâm chiếm biên giới,
đất đai và xác lập ưu thế của mình. Ở mức độ cao, những quốc gia có
tranh chấp về quân sự và kinh tế thuộc nhiều nền văn minh khác nhau
sẽ tìm cách kiểm soát các định chế quốc tế, và kết hợp đồng minh
nhằm phổ biến những giá trị đạo giáo chính trị của mình. Trong bối
cảnh mới này, theo ông, nền văn minh Tây Phương sẽ rơi vào thế cô
lập, phải đơn thân đương đầu với phần còn lại của cả thế giới, với
trước mặt là một liên minh Khổng-Hồi tiềm tàng (Trung Hoa với một số
cường quốc Ả Rập), vừa hùng mạnh vừa đông đảo.
Tất nhiên, các luận
điểm «phiêu lưu» và bi quan của Huntington đã bị phê phán kịch liệt,
và đánh giá như một kiểu «tiên-tri-tự-thành» (self-fulfilling
prophecy). Ðể trả lời, có lẽ tác giả chỉ cần viện dẫn những biến cố
trên chính trường quốc tế từ sau cuộc chiến tranh lạnh; nhưng ông
còn có thể dựa trên một đồng minh uy tín khác. Nhìn dưới quan điểm
xã hội hay kinh tế học, «điển mẫu Huntington» (sự trường tồn và
trọng lượng của các giá trị đạo giáo truyền thống trên quá trình
phát triển) hoàn toàn đối lập với «điển mẫu cổ điển» về vấn đề này
(sự phát triển kinh tế và tiến trình hiện đại hoá là một hình thức
thế tục hoá, có khả năng làm các giá trị truyền thống và đạo giáo
suy đồi). Khởi đi từ ý muốn kiểm chứng một số luận điểm của Max
Weber, nhà xã hội học Inglehart đã khai thác cuộc điều tra đại quy
mô nói trên về các hệ thống giá trị tại nhiều vùng văn hoá khác nhau
trên thế giới, để đi đến kết luận rằng, hoàn toàn trái với sự chờ
đợi của ông, cuộc thăm dò dư luận đã bất ngờ xác nhận nhiều giả
thiết của Huntington.
Thứ nhất, đường ranh
đạo giáo vẫn còn mạnh mẽ một cách đáng kinh ngạc trong thập niên đầu
thế kỷ thứ 21 này: tại hầu hết các quốc gia, truyền thống đạo giáo
vẫn tiếp tục quy định hệ thống giá trị đương đại; và ngay tại những
vùng kỹ nghệ hoá, tình cảm đạo giáo vẫn còn bền chặt, mặc dù việc
hành đạo có phần giảm sút. Thứ hai, các hình thái văn hoá kết hợp
với nhau vô cùng chặt chẽ(trong cùng một khuôn văn hoá, khi biết
giải đáp của người được thăm dò trên một biến số, nhà thống kê có
thể tiên đoán khá đúng giải đáp của họ trên nhiều biến số khác); hơn
nữa, sự phân lập các vùng đạo giáo - văn hoá dường như cũng xác nhận
trên đại thể những nếp gấp của Huntington. Ðây là lần đầu tiên điển
mẫu «sự đụng độ giữa các nền văn minh» được đem ra kiểm chứng bằng
phương pháp thực nghiệm, và phần nào được xác nhận. Tất nhiên, phần
nào không có nghĩa là tất cả, và nhiều luận điểm của Huntington vẫn
còn thiếu tính thuyết phục, chưa nói đến lời phán quyết cuối cùng,
bao giờ cũng chỉ tùy thuộc vào sự diễn tiến khách quan của lịch sử.
Dù sao, câu kết luận
trong bài báo của tác giả có thể được xem là vô cùng sáng suốt và
thận trọng. «Ðiều mà tương lai dành cho chúng ta không phải là một
nền văn minh phổ quát, mà là một thế giới được tạo lập bởi nhiều nền
văn minh khác nhau, trong đó mỗi thành viên đều phải học tập sống
chung với những thành viên khác» (1, p. 252). Một yêu cầu hoàn toàn
phù hợp với định đề khai sinh của nhân chủng học: sự đơn nhất của
nhân loại trên cơ sở đa tạp chủng tộc về văn hoá. Nhưng liệu ngày
nay Huntington còn có thể trông cậy trên những nhận định tương ứng ở
môn học này chăng?
2) NHÂN CHỦNG HỌC:
TỪ THUYẾT TIẾN HOÁ
ÐẾN QUAN
ÐIỂM HẬU HIỆN ÐẠI
Nhà chính trị học
Huntington không phân biệt, hoặc thậm chí đối lập «văn minh» với
«văn hoá», như ở một số tác giả khác (3). Nhưng thực thể mà ông gọi
là «văn minh»chính là «cái toàn thể phức hợp bao gồm cả kiến thức,
tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo lý, pháp luật, tập quán và những khả
năng hay thói quen khác mà con người đã tiếp thu được như thành viên
của xã hội», tức định nghĩa về «văn hoá» mà Edward B. Tylor đã đề
xuất vào năm 1871 (xem 5, tr. 2-3). Trở thành định nghĩa chuẩn của
văn hoá từ đấy, nó khẳng định như một định đề: con người là sinh vật
duy nhất do sự sống tập thể mà sản sinh ra văn hoá, dù nhìn như một
đơn vị của nhân loại hay như thành viên của một xã hội cá biệt. Các
sinh vật khác, dù ít nhiều có trí khôn và dù biết sống tập thể, cũng
chỉ có khả năng thực hiện được một vài công trình -đôi khi khá phức
tạp như tổ ong- dựa trên bản năng và di truyền. Văn hoá, trái lại,
là sản phẩm của sự sáng tạo và giao tiếp, dù là văn hoá của loài
người nói chung hay văn hoá của một dân tộc nói riêng.
Văn hoá, như vậy,
chính là sản phẩm đặc thù, là nét đặc trưng của con người ở mọi cấp
bậc. Trước hết, con người như một sinh vật bình thường, một thứ «nòi
tình» có đủ tất cả mọi nết hay, tật xấu: đó là văn hoá theo nghĩa
của các nhà nhân chủng học. Nhìn xuống, nó là tất cả những gì con
người đã tạo tác ra để khẳng định sự siêu việt của mình trên các
loài cầm thú, để không bị đồng hoá với các giống loại thấp kém hơn.
Nhìn ngang, nó là tất cả những gì con người đã sản sinh ra để đối
phó với những thách thức của cuộc sống, để xác định vị trí và tương
quan của mình với thế giới vô hình, với giới tự nhiên, với cộng đồng
xã hội, với đồng loại, v. v... Sau đó, con người như một sinh vật
thượng đẳng, một thứ «chủ thể» được lý tưởng hoá với tất cả những
đặc tính cao quý nhất: đó là văn hoá theo nghĩa của các nhà mô phạm.
Bởi vì từ thân phận tầm thường, con người luôn luôn nhìn lên một vị
trí cao đẹp hơn; do đó, văn hoá, dù trong bối cảnh nào, cũng sẽ mãi
mãi là một tiến trình tự đấu tranh, tự đánh giá, tự gạn lọc: gìn
giữ, vất bỏ, cải đổi, thu nhận, truyền đạt...
Nhưng chấp nhận văn
hoá làm đường ranh giữa con người với súc vật là tự đặt ngay cho
mình hai bài toán khó. Ðầu tiên, cái khả năng «siêu hiện»
(«émergence»: xuất hiện ở một mức độ cao hơn) trên mọi giống loài
của con người để tạo tác ra văn hoá này đến từ đâu, và tác động ra
sao? Những nét văn hoá phổ quát tìm thấy trong mọi xã hội (như luật
ngăn cấm loạn luân chẳng hạn) đến từ tự nhiên (nghĩa là từ não hoặc
từ gien), từ nhu cầu xã hội, hay từ tác động qua lại của cả hai? Sau
đó, nếu nhân loại là một, làm sao có thể giải thích, hay biện minh
cho những bất đồng, hoặc nhiều khi tương phản về đạo lý, kiến thức,
xã hội… quá hiển nhiên trong nhiều lối sống cực kỳ khác biệt trên
thế giới? Giải đáp cho cặp câu đố trên đã luân phiên chiếm lĩnh sân
khấu lịch sử của nhân chủng học qua suốt 200 năm tồn tại (5).
Trước hết, có lẽ
nhân chủng học đã thực sự bắt đầu vào thế kỷ 18, khi nhà tự nhiên
học Buffon cho rằng loài người xuất phát từ một nguồn gốc duy nhất,
song đã tự phân nhánh dưới ảnh hưởng của nhiều vùng khí hậu khác
nhau. Với trào lưu «Khai Sáng» trong cùng thế kỷ, loài người không
những chỉ có cùng gốc rễ mà còn chia sẻ với nhau một định mệnh chung
là sự «tiến bộ». Do đó, tất cả mọi khác biệt về văn hoá thực chất
chỉ là những chênh lệch trên bậc thang tiến hoá, tương tự như trong
học thuyết của Charles Darwin về giới tự nhiên (tương tự thôi, bởi
vì ở Darwin, không có giả định tiến bộ mà chỉ có một sự phân hoá
ngày càng phức tạp). Ðứng từ đỉnh Tây Phương văn minh cực lạc này
nhìn xuống, tất cả các nền văn hoá khác đều chỉ được phép mang một
trong ba nhãn hiệu: «truyền thống», «sơ khai», hoặc tệ hơn cả là
«mọi rợ ».
Tự trang bị bằng
«thuyết tiến hoá» («evolutionism»), từ thế kỷ 19 các nhà nhân chủng
học thi nhau phát hiện bao nét «mới lạ» qua loại bút ký, trần thuật
của các giới thương khách, thực dân và thám hiểm: nào là «chế độ mẫu
hệ» («matriarchy» - Johannes Bachofen), «chuyên chế phụ quyền»
(«patriarchal despotism» - Henri S. Maine), nào là tục «tạp hôn sơ
khai» và «hôn chế dị tộc» («primitive promiscuity», «exogamy» - John
MacLennan), tục «sùng bái vật tổ» («totémism» - James G. Frazer);
nhưng nổi tiếng hơn cả là khái niệm «não trạng sơ khai» («mentalité
primitive») của Lucien Lévy-Bruhl. Khởi đầu là người nghiên cứu về
đạo lý và chính trị, sự nghiệp nhân chủng học của tác giả đột phát
vì những khó khăn vấp phải khi ông phiên dịch sang Pháp ngữ một số
tác giả và tác phẩm… Trung Hoa. Từ 1910, ông xây dựng một học thuyết
khá đồ sộ chung quanh quan điểm là có một thứ não trạng hoàn toàn
đối lập với đầu óc thuần lý Tây Phương, cho đến khoảng 1935, khi ông
bắt buộc phải thú nhận rằng giả thuyết của mình là hoàn toàn không
thể bảo vệ được.
Ngược lại, cũng
chính nhờ sự phê phán đích đáng những suy diễn quá giản lược trong
việc áp dụng chủ thuyết Darwin vào xã hội con người ở thuyết tiến
hoá mà ngành nhân chủng học trong thế kỷ 20 đã có thể tự lột xác.
Suốt hai thập niên
1930-1950, «chức năng luận» («fonctionnalism») dần dần lấn át thuyết
tiến hoá tại Anh Quốc. Trường phái mới này thực hiện những cuộc
nghiên cứu thực địa, không quan tâm mấy đến lịch sử, và từ chối xếp
các nền văn hoá trên cùng một bậc thang tiến hoá. Ðối với Bronislaw
Malinowski, thay vì là dấu vết của sự tiến hoá, mỗi yếu tố nhân văn
trước hết đáp ứng một nhu cầu tập thể, nghĩa là đảm nhận một chức
năng nào đấy trong hệ thống xã hội (như một cơ quan trong thân
người), và do đó, nó chỉ có thể được hiểu trong tương quan với toàn
bộ hệ thống. Theo lối phân tích của các tác giả đồng quan điểm này,
chức năng tạo ra định chế xã hội và mọi kiến trúc văn hoá thượng
tầng khác. Alfred R. Radcliffe-Brown nghiên cứu các nhu cầu và chức
năng ấy dưới góc cạnh tái sản xuất các quan hệ xã hội, và đánh giá
mỗi đơn vị văn hoá như một giải đáp, độc đáo và chặt chẽ, cho cùng
một số thách đố phổ quát của loài người.
Ở Mỹ, «văn hoá luận»
(«culturalism») cũng thắng thế từ thập niên 1930. Khuynh hướng này
xem văn hoá như một siêu thực thể biệt lập với mọi cá nhân và quan
hệ xã hội, một thứ di sản truyền từ đời này sang đời khác với những
đổi thay thường không mấy đáng kể, nghĩa là một thứ bản chất thứ hai
quy định «cá tính cơ bản» («basic personnality») của mỗi thành viên
trong xã hội («văn hoá là di truyền xã hội», Ralph Linton, 1936).
Người đứng đầu trường phái, Franz Boas, cũng được xem là cha đẻ của
«chủ nghĩa tương đối» trong nhân chủng học, khi ông khẳng định rằng
không một nền văn hoá nào tiến hoá hơn cái khác, mỗi nền văn hoá là
một chỉnh thể độc đáomà phong cách riêng được thể hiện qua ngôn ngữ,
tín ngưỡng, tập tục, phong cách, nghệ thuật, v. v…
Từ thập niên 1950,
«cấu trúc luận» («structuralism») cũng thao túng các ngành học thuật
tại Pháp. Áp dụng những thành tựu của ngôn ngữ học vào các hệ thống
biểu hiệu (systèmes symboliques), Lévi-Strauss cho rằng các sản phẩm
văn hoá dù khác biệt đến đâu cũng đều được xây dựng theo một số quy
luật chung, dựa trên những cấu trúc trí tuệ trừu tượng phổ quát của
con người (như đối lập, giao hoán, hoán vị, phân loại…). Mặc dầu hai
tựa đề phảng phất giống nhau, tác phẩm «Tư Tưởng Hoang Dã» («La
Pensée Sauvage», 1962) của ông hoàn toàn phủ định «Não Trạng Sơ
Khai» («La Mentalité Primitive», 1922) của Lévy-Bruhl: khoa học Tây
Phương và pháp thuật Phi Châu là hai loại «kiến thức» song song chứ
không phải nối tiếp, chúng khác nhau về hiệu lực song vẫn sử dụng
cùng một số thao tác trí tuệ dựa trên những đồ thức (schèmes) phổ
quát của tư duy con người. Do đó, các nền văn hoá khác biệt chỉ là
những biến tấu trên cùng một chủ đề, và đều đáng kính trọng như
nhau, bởi vì không có một tiêu chuẩn hợp nhất nào cho phép ta kết
luận rằng cái này là cao hơn cái kia về mọi mặt, để biện minh cho
việc sắp xếp chúng trên một bậc thang tiến bộ duy nhất cả. Ngoài
«cấu trúc» («structure»), nhiều tác giả Pháp cùng môn phái còn sử
dụng đồng thời hai khái niệm khác là «cấu trúc hoá»
(«structuration») và «tái cấu trúc» («restructuration») để nhấn mạnh
trên tính năng động của các hiện tượng và sự uyển chuyển của phương
pháp nghiên cứu.
Mặt khác, các lý
thuyết dựa trên sinh học, gọi chung là «chủ nghĩa Darwin xã hội»
(«Darwinisme social», cũng ào ạt quay lại từ thập niên 1970 ở Mỹ,
với nhiều quan điểm mới. Các nguyên tắc «chọn lọc (đào thải) tự
nhiên» và «tiến hoá» vẫn còn được xem như loại sơ đồ trừu tượng
thích hợp cho việc hình dung ra tính năng động của các nền văn hoá,
nhưng văn hoá không còn là phó sản phẩm đơn thuần của những điều
kiện sinh lý nữa mà tồn tại như một lãnh vực có vận động riêng. Theo
Edward O. Wilson, quy luật chọn lọc tự nhiên hỗ trợ các gien đã mang
sẵn một tính năng nào đó tiếp nhận thêm những nét văn hoá tương ứng,
rồi các bộ phận văn hoá được triển khai từ vựa di truyền bẩm thụ này
ảnh hưởng trở lại trên các gien, cứ thế gien bẩm năng và nét văn hoá
tương tác tạo ra một thứ gien tinh thần trong quá trình tiến hoá.
Nhà tập tính học (éthologist) Richard Dawkins xem nền văn hoá của
mỗi nhóm người như một tập hợp những đơn vị mà ông gọi là «mem»
(«memes») hay «gien văn hoá» («culturegenes») - tức là những ý tưởng
sơ đẳng của một nền văn hoá (như ý tưởng Thượng Ðế, ý tưởng lửa, v.
v…); các mem có thể liên kết với nhau tạo ra những phức hợp để tăng
sinh lực trong cuộc cạnh tranh sống còn (Allah + lửa địa ngục =…
Thánh Chiến?). Mem được gieo truyền từ não này sang não khác chủ yếu
thông qua phép mô phỏng; sự sao phỏng đôi khi có cải biến, và các
mem biến tính sẽ hoặc biến mất hoặc nẩy nở theo quy luật tiến hoá để
tăng cường hay cản trở tính năng động của toàn bộ hệ thống.
Nhưng quan trọng
nhất vào cuối thế kỷ 20 là chủ nghĩa «tương đối văn hoá hậu hiện
đại» («post-modern cultural relativism»)trong các ngành khoa học xã
hội nói chung - phản đề cực đoan trước một thứ học thuyết lấy Tây
Phương làm trung tâm vẫn chưa chịu cáo chung. Tiếp nối văn hoá luận
Mỹ trong ý nghĩ (khá phổ biến từ giữa thế kỷ 20) là nhà khoa học
không thể nào xếp hạng các nền văn hoá, bởi vì không thể dùng giá
trị của bất cứ một tập hợp văn hoá nào để đánh giá các tập hợp khác,
nhiều tác giả đã nhảy từ phán đoán giá trị sang phán đoán thực tại,
khi khẳng định rằng mỗi nền văn hoá tương ứng với một thế giới quan
hoàn toàn biệt lập - nghĩa là, do cả ngôn ngữ (mỗi thứ tiếng tự nó
cũng đã là một thế giới quan biệt lập), phương thức tư duy («não
trạng sơ khai», «não trạng lý tính») lẫn hệ thống giá trị (cái
«thiện Phương Ðông», cái «đẹp Tây Phương») đều sai khác, giữa các
nền văn hoá không thể nào có sự hiệp thông, hiểu biết, thông cảm với
nhau, mà chỉ vĩnh viễn có sự vô thông ước. Nhưng nếu quả thật là
không có cơ sở gì để đối chiếu hay so sánh các tập hợp văn hoá với
nhau, thì cũng không làm gì có một bộ môn nhân chủng học hay văn hoá
học đáng gọi là khoa học, mà chỉ có những biểu văn vô giá trị, bởi
vì vừa bất tương hợp vừa có thể sai bét từ đầu đến cuối. Sự cảm
thông sẽ là một ngoại lệ, hay một trường hợp cá biệt của ngộ nhận
nếu thích nói tếu - và quy luật ngộ nhận phổ quát có thể dẫn đến cái
gì khác, ngoài sân si, khinh miệt, oán thù, và chiến tranh, y hệt
như cái biểu đề mà chủ nghĩa tương đối văn hoá được đặt ra để phủ
nhận?
Nếu lời nói đầu
trong tuyên ngôn ra đời của cơ quan văn hoá Liên Hiệp Quốc Unesco là
đúng –«chiến tranh bắt nguồn từ tâm trí con người» (…), và từ «sự
thiếu cảm thông giữa các dân tộc»-, thì chủ nghĩa tương đối văn hoá
hậu hiện đại đang vô tình góp phần xây nền cho các cuộc thánh chiến
sắp tới.
3) «KHOA HỌC VỀ CÁC
XÃ HỘI NHÌN TỪ BÊN NGOÀI»:
NHỮNG ẢO
GIÁC VÀ TRỰC GIÁC CỦA NHÂN CHỦNG HỌC
Trên chợ trời kiến
thức, nhân chủng học thường phất phơ giữa một nhãn hiệu thực tế
-«khoa học về các xã hội nhìn từ bên ngoài» -, và hai đánh giá trái
ngược. Ðồng tình tích cực: cái nhìn từ bên ngoài là một bảo đảm khoa
học, «vì người trong cuộc thường không đủ khách quan để tự tìm hiểu
mình một cách đúng đắn». Nghi vấn tiêu cực: «làm sao người ngoài có
thể hiểu được những phong tục, tín ngưỡng, tình cảm thâm sâu của một
dân tộc mà họ không phải là thành viên?», kiểu nghiên cứu này là đầu
mối của mọi ngộ nhận! Dù sao, trước sự thiếu vắng của một đội ngũ
chuyên gia xuất thân từ các nước Nam bán cầu, nhân chủng học quốc tế
vẫn chủ yếu là một khoa học Tây Phương, với tất cả những thành tựu
chân xác cũng như các huyền thoại, ngụy thuyết của nó.
Trước hết, những ảo
giác. Ở đây, nhiều học thuyết và khái niệm đã trở thành văn chương
huyền ảo để cuối cùng, sau một thời gian ngự trị, bỗng «cuốn theo
chiều gió» trong chớp mắt: bên cạnh não trạng sơ khai nói trên, câu
chuyện vật tổ là một điển hình khác. Cũng không thiếu gì những
chuyện cười ra nước mắt, xứng đáng được ghi lại trong các pho tiếu
lâm của bất cứ dân tộc nào. Ðiều đáng lưu ý là hầu như tất cả mọi ảo
giác này đều xuất phát từ định kiến đi tìm một sự đối lập triệt để,
tuyệt đối nào đó giữa nền văn minh Tây Phương với các hệ thống văn
hoá khác.
Ðược miêu tả phần
lớn trong loại bút ký của giới thương gia và thám hiểm vào cuối thế
kỷ 18, hiện tượng «vật tổ» («totem») được John F. MacLennan liên hệ
với tổ chức thị tộc, tục thờ cúng linh vật, những ngăn cấm giới tính
và kiêng kỵ thực phẩm, rồi lý thuyết hoá từ năm 1865 (trong một đề
mục nổi tiếng ở «Chamber's Encyclopedia») như một giai đoạn phổ quát
của xã hội loài người. Trở thành định chế nền tảng của tôn giáo và
xã hội, đây là đối tượng nghiên cứu của hầu hết những tên tuổi lớn
trong môn học. Ngoài «Vật Tổ và Cấm Kỵ» («Totem und Tabu», 1912) của
Sigmund Freud -nơi mặc cảm Oedipe chào đời, đồng thời là một bi kịch
hùng tráng ngang ngửa với những kịch bản trứ danh nhất của
Shakespeare-, còn có «Tín Ngưỡng Vật Tổ và Hôn Chế Dị Tộc»
(«Totemism And Exogamy», 1910) của James Frazer và «Những Hình Thái
Sơ Ðẳng Của Ðời Sống Tôn Giáo» («Les Formes Elémentaires De La Vie
Religieuse», 1912) của Emile Durkheim. Nhưng từ thập niên 1930,
thuyết tín ngưỡng vật tổ bắt đầu tan rã: các nhà nhân chủng học lớp
sau dần dà chứng minh được rằng vật tổ là một hiện tượng đa dạng và
đa nghĩa, không luôn luôn có những liên hệ mà MacLennan giả thiết ở
trên. Trong «Tín Ngưỡng Vật Tổ Ngày Nay» («Le Totémisme
Aujourd’hui», 1962) Claude Lévi-Strauss chỉ giữ lại yếu tố chính: sự
lấy tên động vật, thực vật hay hiện tượng tự nhiên để đặt cho thị
tộc, và xem đấy như là cách một thị tộc xác định sự tồn tại biệt lập
của mình đối diện với các thị tộc khác; sự phân cắt xã hội thành
từng vật tổ thị tộc như vậy, theo Lévi-Strauss, chỉ biểu hiện một
đặc tính của trí óc con người: nhu cầu tư duy về thế giới chung
quanh bằng cách sắp xếp nó theo những phạm trù lý trí.
Khi người Bororos,
một sắc dân trong vùng Amazonie tự hào họ là những con Araras (một
giống két to nhiều màu), nhà dân tộc học Ðức Karl Von den Steinen
lúc đầu không muốn tin, nhưng rốt cuộc rồi cũng phải công nhận rằng
khi nói như thế, họ không hề ám chỉ đến kiếp trước hay kiếp sau,
hoặc đang làm văn nghệ, mà khẳng định họ thực sự là những con araras
trong hiện tại. Câu chuyện kỳ quái này có một sự nghiệp khoa học khá
đồ sộ, và đã làm không chỉ các nhà nhân chủng học tiếng tăm (ngoài
Lévy-Bruhl, còn có Emile Durkheim, Marcel Mauss, Clifford Geertz) mà
cả các giới bác học khác (nhà tâm lý giáo dục Lev Vygotsky, triết
gia Ernst Cassirer) cũng phải bận tâm bình luận lai rai suốt từ năm
1897. Ðể vỡ lẽ, nhà nhân chủng học Christopher Crocker trở lại tận
nơi để điều tra, và công bố các chi tiết sau vào năm 1977: 1) trong
xã hội Bororos, chỉ có đàn ông tự nhận mình là araras, một thứ két
do đàn bà nuôi dạy; 2) quan hệ gia tộc ở đây được tổ chức theo mẫu
hệ, và người chồng phải về sống bên nhà vợ. Phải cần đến 80 năm để
hiểu một phúng dụ mà các lão tổ Bororos dùng để chế diễu thân phận
nam nhi của mình! «Não trạng sơ khai» hoàn toàn trái ngược với «lý
tính Tây Phương» , song lại khá gần gũi với «óc hài hước British»?
Theo Nicolas Journet, người kể lại câu chuyện lý thú này, còn có cả
ngàn trang như vậy trong biết bao sách bác học (5, tr. 164).
Ðiều may mắn là
không chỉ có ảo giác. Dù nhìn từ bên ngoài, đây là cái nhìn của đồng
loại. Và trừ phi giản lược nhân loại vào một tập hợp dã thú đi bằng
hai chân, có ngôn ngữ và lý trí, song vẫn chỉ biết sống nhờ bản năng
và di truyền, không thiết cả tư duy lẫn sáng tạo, hay trao đổi và
học hỏi…, thì khái niệm «nhân loại» bắt buộc phải có một nội dung
văn hoá (như cùng chia sẻ một số giá trị chẳng hạn). Tất nhiên, các
nền văn hoá đều khác nhau, song có thật là khác đến độ trở thành «vô
thông ước», khi con người cùng có chung một cơ cấu sinh lý, một cấu
trúc trí não, cùng phải sống thành cộng đồng? Ở đây, mỗi trường phái
nhân chủng học thật ra đều dựa trên một số trực giác khả thủ, dù
nhiều khi đã khai thác chúng quá lố theo một hướng nào đó.
Ngay cả ở thuyết
tiến hoá. Ngày nay, những điều có thể được xem như đã bị phủ nhận là
sự áp đặt các vùng Tây Âu - Bắc Mỹ như khuôn mẫu văn hoá, là quan
niệm lịch sử đơn tuyến, là chủ nghĩa khoa học (sự tin tưởng rằng
khoa học có thể giải quyết mọi vấn đề, rằng tiến bộ khoa học sẽ kéo
các lãnh vực khác cùng tiến theo) - nghĩa là hệ tư tưởng lấy Tây
Phương làm trung tâm. Nhưng sự từ chối sắp xếp các nền văn hoá trên
cùng một bậc thang tiến hoá (vì không có tiêu chuẩn hợp nhất nào cho
phép thiết lập một trật tự toàn bộ như thế), không có nghĩa là trong
một lãnh vực nào đó và dưới một góc cạnh nào đó, người ta không thể
so sánh các giải đáp của hai đơn vị văn hoá trên cùng một vấn đề
liên hệ. Có thể xem khoa học và pháp thuật là bình đẳng về nhân
phẩm, vì chúng cùng sử dụng một số thao tác trí tuệ dựa trên những
đồ thức phổ quát của tư duy con người, nhưng chắc chắn không thể đặt
chúng ngang hàng về mặt hiệu lực trong việc tạo tác tiện nghi vật
chất cho xã hội. Bài bác thuyết tiến hoá xã hội và chủ nghĩa tiến bộ
không bắt buộc phải đồng nghĩa với sự tự bịt mắt trước những bước
tiến có thật vô cùng hiển nhiên trong một số lãnh vực hạn định.
Dù các quan điểm mới
của loại học thuyết mang tên «Darwin xã hội» nói ở phần trên chưa
hội đủ tính thuyết phục, cái trực giác đáng lưu giữ ở đây là vai trò
của hạ tầng sinh lý trong việc xây dựng thượng tầng văn hoá. Trừ phi
chủ xướng rằng con người khắp năm châu không thuộc về cùng một giống
loài, khác biệt về văn hoá chỉ có thể biến thiên trên cùng một cơ sở
sinh lý, một cấu trúc trí não. Về quá trình học tập chẳng hạn, các
khoa học nhận thức ngày nay đều cho rằng trí não con người không tài
nào tiếp thu nổi lượng thông tin khổng lồ phải vận dụng nếu không
được thiên nhiên chuẩn bị trước. Theo Noam Chomsky, trẻ em không thể
học ngôn ngữ nếu không có chương trình tương ứng lập sẵn trong não;
điều này có nghĩa là, dù cấu trúc của Hoa ngữ và Pháp ngữ chẳng hạn
khác nhau đến đâu, các ngôn ngữ tự nhiên đều cùng thuộc về một loại.
Qua nhiều cuộc nghiên cứu thực nghiệm, tâm lý học nhận thức cũng
chứng minh rằng ngay trẻ thơ, dù không cùng văn hoá song nếu được
dạy dỗ đứng đắn, cũng có thể thu nhận những ý niệm căn bản (như nhân
quả, thời gian, vật thể, sinh vật, quan hệ, v. v…) một cách dễ dàng
và nhanh chóng do được chuẩn bị sẵn. Như vậy, những khác biệt về
nhận thức giữa các nền văn hoá chắc chắn là có, nhưng thực ra chúng
chỉ là những biến thiên từ một tiến trình học tập phổ quát mà chương
trình đã được lập sẵn trong não.
Từ định nghĩa văn
hoá như một hệ thống ký hiệu do con người tạo tác và sử dụng để hiệp
thông với nhau, mặt thái quá của chủ nghĩa tương đối văn hoá có lẽ
đã xuất phát từ việc vừa quay lại lấy ngôn ngữ làm nền tảng cho văn
hoá, vừa xem mỗi ngôn ngữ như một thế giới quan biệt lập. Ở đây, giả
thuyết Sapir-Whorf (Edward Sapir và Benjamin L. Whorf) thường được
viện dẫn làm cơ sở, với các luận điểm sau: 1) mỗi ngôn ngữ là một
cách thức mô tả thế giới khác nhau (hành động, vận động, không gian,
thời gian, v. v…); 2) mỗi nền văn hoá đều bị quy định bởi «phần hạ
tầng» của ngôn ngữ qua đó nó được thể hiện hàng ngày, và phần này
chính là nơi chôn giấunhững cách thức tư duy của ngôn ngữ mà Whorf
gọi là «ẩn mô» (cryptotypes); 3) do đó, những người sử dụng ngôn ngữ
khác nhau sẽ không tư duy về thế giới và không nhận thức không gian,
thời gian, v. v… giống nhau. Nói cách khác, cấu trúc văn phạm và từ
vựng của ngôn ngữ quy định vô cùng chặt chẽ phương cách con người
nhận thức và tư duy (6).
Thường được viện dẫn
để bênh vực giả thuyết Sapir-Whorf là những cuộc nghiên cứu về nhận
thức màu sắc trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc khác nhau: nói chung,
sự phân loại màu sắc rất co giãn và dường như không theo một quy
luật nào cả. Nhưng năm 1969, một cuộc điều tra thực địa của Brent
Berlin và Paul Kay đã đưa ra kết quả trái ngược: lần này, sự phân
loại màu sắc trong mọi ngôn ngữ đều tuân theo những quy luật đồng
nhất (dù thuộc nền văn hoá nào, người được thăm dò cũng nhìn nhận
trắng, đen, đỏ, vàng như những màu nguyên, và loại bỏ nâu, tím chẳng
hạn). Do đó, có thể xem là chính di sản sinh lý chung của con người
đã quy định sự nhận thức và phân loại nói chung, và màu sắc nói
riêng, độc lập với những biến thiên văn hoá. Từ thập niên 1970, loại
luận điểm bẩm sinh (mọi khuôn khổ tư duy của con người đều bị quy
định bởi các cơ chế thần kinh tâm lý căn bản và phổ quát) ngày càng
thắng thế, nhờ những công trình của Jean Piaget bên tâm lý học
(những giai đoạn bắt buộc của sự phát triển tư duy lôgic), và của
Noam Chomsky trong ngôn ngữ học (cấu trúc ngôn ngữ bề sâu). Tuy
trường phái bẩm sinh chưa đưa ra được chứng cớ thuyết phục về những
cấu trúc ngữ nghĩa phổ quát nằm trong mọi ngôn ngữ tự nhiên, giả
thuyết Sapir-Whorf có lẽ cũng đã hết hiệu lực. Muốn tiếp tục tác
động, ngày nay chủ nghĩa tương đối văn hoá cần phải tìm ra những
điểm tựa khác.
Ngoài cơ sở sinh lý
chung, con người còn là sinh vật sống trong xã hội. Dù bị phê phán
rất đúng là thiếu kích thước lịch sử, chức năng luận đã đền bù bằng
một số trực giác thích đáng cho việc nghiên cứu hệ thống ký hiệu gọi
là văn hoá, bằng cặp khái niệm «nhu cầu» - «chức năng». Mọi nền văn
hoá đều có thể được xem như một giải đáp có tổ chức của xã hội trước
những nhu cầu tập thể cơ bản. Ngoài loại nhu cầu vật chất sơ đẳng
(lương thực, quần áo, nhà cửa…) còn có những nhu cầu tinh thần (hiểu
biết, hành xử, tiêu khiển…); do đó, xã hội nào cũng phải có ở thượng
tầng một số tiêu chuẩn để phân biệt đúng/sai (ở đâu cũng có một số
hiểu biết sơ đẳng), phải/trái (ở đâu cũng có một số ngăn cấm), khoái
lạc/bực bội (ở đâu cũng có một số hình thức nghệ thuật). Mặt khác,
từ bó buộc tiếp xúc với bên ngoài, mọi xã hội đều có nhu cầu đổi mới
(những xã hội tự khép kín hoặc đã bị tiêu hủy, hoặc đang trên đường
diệt vong); và do đó, cũng phải có tiêu chuẩn để hiệp thông, gạn lọc
(gìn giữ, vất bỏ, thu nhận…) trước những yếu tố ngoại lai. Nói cách
khác, xã hội nào cũng phải có một số giá trị cơ bản, được biểu hiện
bởi các nét văn hoá hoặc định chế mà chức năng là hướng dẫn mọi
thành viên xã hội theo định hướng chung, trong hai tiến trình quyết
định khả năng sống còn là hấp thụ nền văn hoá của tổ tiên để lại
(enculturation) và biến dung văn hoá (acculturation) do sự cọ xát
với các loại giải đáp tập thể khác.
4) NHÌN LẠI CHỦ
NGHĨA TƯƠNG ÐỐI VĂN HÓA
Trong sự cọ xát, vấn
đề căn bản là phản ứng trước những khác biệt văn hoá. Thuyết tiến
hoá ở thế kỷ 19 bày tỏ thái độ trịch thượng của Tây Phương trước
thách thức này, và chủ nghĩa tương đối văn hoá ngày nay, trong vai
trò phản đềcủa nó buổi đầu, muốn biểu lộ một thái độ trái ngược, ít
ra là trên lý thuyết. Ðặt các hệ thống văn hoá trên bậc thang tiến
bộ của khoa học - một sản phẩm của lý trí - thuyết tiến hoá đã vô
tình áp đặt quy phạm của Tây Phương cho toàn thể các đơn vị văn hoá
khác trên thế giới. Ngay cả chủ nghĩa tương đối văn hoá cũng có thể
được xem như đã manh nha từ yêu cầu khách quan của khoa học: từ nay,
các nhà nhân chủng học không thể tiếp tục chỉ dựa trên những giá trị
tinh thần của Âu Mỹ để nghiên cứu các xã hội khác, mà còn phải khảo
sát loại đối tượng này thông qua hệ thống giá trị và những quy phạm
tập thể của họ. Nhưng để luận điểm về phương pháp này của văn hoá
luận trong nhân chủng học Hoa Kỳ ở thập kỷ 1920-1930, nói cho cùng
khá hợp lý và đáng bàn cãi, có cơ hội lột xác thành một hệ tư tưởng
hoàn toàn cực đoan và mang khuynh hướng hư vô chủ nghĩa vào cuối thế
kỷ 20, cần phải có một bối cảnh quốc tế đặc biệt nghiêm trọng.
Một mặt, các nền văn
minh ngoài Tây Phương chợt thức giấc sau nhiều thế kỷ mê ngủ, mang
theo khao khát vươn dần lên vai trò chủ thể của lịch sử; mặt khác,
sau hai cuộc thế chiến và không khí chiến tranh lạnh kế tiếp, Tây
Phương trải qua một cuộc tổng khủng hoảng giá trị trầm trọng. Hai
loại chế độ toàn trị, một hữu (chế độ Quốc Xã, kẻ đã gây ra cuộc thế
chiến và diệt chủng khoa học nhất của loài người), và một tả (chế độ
Cộng Sản, kẻ đã tạo ra bộ máy đàn áp cũng tinh vi nhất lịch sử, bên
cạnh nhiều cuộc tàn sát tập thể khổng lồ trong suốt thế kỷ 20), cùng
đánh dấu sự phá sản về mặt đạo lý của nền văn minh Tây Phương, đồng
thời lột trần tính chất huyễn hoặc của «siêu tự sự» tiến bộ đặt trên
sự phát triển của khoa học và lý trí. Rồi cuộc khủng hoảng tinh thần
ngày càng lún sâu và khuếch rộng hơn nữa, khi ngay chính lý trí, cái
giá trị mấu chốt của Tây Phương từ thế kỷ Khai Sáng, cũng chao đảo -
nghĩa là khi gần như tất cả mọi bộ môn khoa học đều thi nhau rơi vào
tình trạng khủng hoảng nền móng lâu dài.
Chính trong bối cảnh
này mà chủ nghĩa tương đối văn hoá đã trở thành một thứ hệ tư tưởng
phổ biến vào cuối thế kỷ 20. Tất cả đều bị tương đối hoá, đôi khi
còn gọi là «giải lập» (déconstruction), thực chất là bạch hoá, từ
hiện thực (hiện thực là một kiến trúc của ngôn ngữ, nghĩa là của xã
hội), chân lý (chân lý là cái mà một xã hội hay một cộng đồng tin là
đúng), đến lý trí (mỗi xã hội đều có những phương thức tư duy riêng
biệt) và giá trị nhân văn (mọi giá trị đều là chọn lựa của một xã
hội đặc thù, không có những giá trị nhân loại phổ quát). Không có
một hiện thực, nhưng có bao nhiêu ngôn ngữ thì có bấy nhiêu hiện
thực. Không có một chân lý, chỉ có những ý kiến hay tín niệm. Không
có một lý trí duy nhất, mà mỗi xã hội đều có phương thức tư duy
riêng. Còn các giá trị nhân văn thì vô cùng đa tạp, song chỉ có ý
nghĩa và hiệu lực trong lãnh địa của một hệ thống văn hoá, và không
thể di chuyển sang, hay bị áp đặt lên một đơn vị khác (sự tôn trọng
nhân quyền là một giá trị Tây Phương, không có chỗ đứng trong hệ
thống giá trị Châu Á chẳng hạn).
Tóm lại, nhìn dưới
khiá cạnh phân tích, chủ nghĩa tương đối văn hoá có thể được biểu
hiện qua ba vế sau: 1) Mỗi yếu tố trong một nền văn hoá chỉ có thể
được đánh giá thông qua các quy phạm của đơn vị văn hoá đó; 2) Không
có những quy phạm trung lập hoặc liên văn hoá để đánh giá các nền
văn hoá khác nhau, hay những yếu tố khác nhau bên trong một đơn vị
văn hoá; 3) Vì không có loại thông ước ấy, không một nền văn hoá nào
có thể được xem là hoàn hảo hơn hoặc tiến bộ hơn một hệ thống văn
hoá khác. Nói cách khác, mỗi đơn vị văn hoá là một thứ «đơn tử khoá
kín không cửa sổ» («self-enclosed windowless monad») (7). Ở đây, chủ
nghĩa tương đối văn hoá hậu hiện đại gặp lại Rudyard Kipling - nhà
văn, nhà thơ, nhà tư tưởng của Ðế Quốc Anh khoảng cuối thế kỷ 19 -
đầu thế kỷ 20. «Ðông là Ðông, Tây là Tây, Ðông Tây không bao giờ gặp
nhau».
Phải đánh giá chủ
nghĩa tương đối văn hoá như thế nào? Phải chăng đây là một giá trị
phổ quát của nhân loại? Chắc chắn là không, vì chủ nghĩa tương đối
văn hoá phủ nhận loại giá trị phổ quát ấy. Như vậy, nó chỉ có thể là
một giá trị đặc thù của nền văn hoá Tây Phương; song trong trường
hợp này, theo chính quan điểm của chủ nghĩa tương đối văn hoá, nó
không thể tự áp đặt hay được áp dụng trên bất cứ một đơn vị văn hoá
nào khác,mà chỉ có hiệu lực bên trong hệ thống đã sản sinh ra nó. Và
ngay cả trong nôi sinh của mình, chủ nghĩa tương đối văn hoá cũng
không thể tự xưng là chân lý, bởi vì nó cũng phủ nhận luôn cả sự
phân biệt đúng/sai, mà chỉ có thể được xem là một quan điểm hay tín
niệm, hoàn toàn bình đẳng với hàng trăm, hàng nghìn quan điểm hay
tín niệm cùng loại. Nói cách khác, đánh giá từ quan điểm phản tỉnh
của chính nó, chủ nghĩa tương đối văn hoá chỉ là một sản phẩm của
loại ngôn ngữ Ấn Âu, và chỉ phù hợp với phương thức tư duy của các
xã hội và các dân tộc Âu Mỹ vào thời tổng khủng hoảng - nói tóm lại,
một thứ giá trị văn hoá «cuối thế kỷ» của Tây Phương đương đại.
Ðiều kiện để chủ
nghĩa tương đối văn hoá được công nhận khắp nơi là nó phải khoác
loại áo mão cao cấp hơn, hoặc như chân lý, hoặc như một giá trị phổ
quát toàn nhân loại - nghĩa là tự phủ nhận tính tương đối của mình.
Mặt khác, nó chỉ thực sự có nghĩa trong một thế giới được cấu tạo
bởi những ốc đảo văn hoá có thể được nhận diện và phân biệt một cách
đại khái chấp nhận được - nghĩa là dựa trên giả định là có những đơn
vị văn hoá tách bạch, rõ nét; đây là một khung cảnh ngày càng hiếm
thấy, nếu không muốn nói là đang tan biến. Ngày nay, mọi hệ thống
văn hoá đều đan chéo và xâm nhập vào nhau, do sự di dân và trộn lẫn
ngày càng nhiều của các sắc dân khác văn hoá ở khắp nơi trên địa
cầu. Và nếu cảnh tượng này thường làm nảy nở những khác biệt và
tranh chấp quyền lợi, cả vật chất lẫn tinh thần, nó cũng đồng thời
xác định rằng sự vô thông ước giữa các hệ thống ngôn ngữ và văn hoá
chỉ là một giả định thái quá, bởi vì muốn bất đồng thì cũng phải dựa
trên cơ sở là có trao đổi, và muốn trao đổi thì chí ít cũng phải
hiểu nhau nói cái gì! Nếu quả thật là sự kiện hai hệ thống màu sắc
khác nhau trong ngôn ngữ hàm nghĩa rằng, trong một chừng mực nào đó,
chính khái niệm sắc màu cũng không hoàn toàn trùng hợp giữa hai ngôn
ngữ, thì ít ra trong cả hai ngôn ngữ, người ta cũng phải công nhận
rằng đấy là những hệ thống màu sắc, nghĩa là cùng thuộc về một lãnh
vực.
Ngoài tính tự phản
bác (self-refuting) ở mức độ tổng thể, chủ nghĩa tương đối văn hoá
còn dẫn đến sự vô hiệu ở mọi mức độ sinh hoạt. Trong lãnh vực hành
động chẳng hạn, con người sẽ hoàn toàn bó tay trước yêu cầu phải đưa
ra một phán đoán đạo lý phổ quát, nếu quả thật là: 1) Một hành động
chỉ có thể được đánh giá là phải hay trái đối với các quy tắc đạo lý
của một cá nhân hay một tập hợp, một xã hội hay một đơn vị văn hoá
nào đó; và 2) Không có
những tiêu chuẩn hay mẫu mực khách quan, vô tư, không độc đoán, liên
cá nhân, liên tập hợp, liên xã hội và liên văn hoá… để đánh giá
những quy tắc đạo lý thuộc các hệ thống văn hoá khác nhau. Ðược quan
niệm như loại chủ thuyết có thể hướng dẫn con người đến một thái độ
bao dung (tolerance) hơn trong cuộc sống, trên thực tế nó cũng có
thể được sử dụng, hoặc để khước từ mọi hành động trách nhiệm, hoặc
ngay cả nhằm biện minh cho bất kỳ tội ác nào - nghĩa là một thái độ
đúng hơn nên gọi là«buông thả»(sự nhắm mắt cho phép tất cả -
«permissiveness»).
Thử giả định một thế
giới mà trật tự công cộng được xây dựng trên chủ nghĩa tương đối văn
hoá, với hai xã hội A và B theo hai tôn giáo khác nhau chẳng hạn.
Giả định thêm rằng theo tín ngưỡng của A, việc bành trướng đức tin
sang các nước láng giềng là một bổn phận của mọi tín đồ công dân, và
quy phạm này ăn khớp chặt chẽ với mọi nét văn hoá khác của A. Khi
xâm lăng B để áp đặt tôn giáo của mình, A chỉ làm một việc «morally
correct» (vì A chỉ hành động theo một quy tắc văn hoá của mình), và
do đó, nếu B còn có quyền phản kháng (dù B cũng chỉ nhằm bênh vực
giá trị văn hoá riêng của mình), tất cả mọi quốc gia khác đều phải
khoanh tay đứng nhìn cảnh «cá lớn nuốt cá bé», vì hoàn toàn không
thể dựa trên một cơ sở nào để can thiệp. Thí dụ khá đơn giản trên
của một nhà xã hội học không hoàn toàn chỉ là chuyện tưởng tượng,
nếu chúng ta nhìn lại các giai đoạn lịch sử như thời
«Conquistadors», «Holocaust» hay chế độ thực dân, và ngay cả thế
giới đương đại. Ðiều khác biệt là trước kia, con người còn có thể
nhân danh những giá trị phổ quát của nhân loại để kết án tội ác,
trong khi ngày nay, với câu hỏi «Người ta có thể biện minh cho tất
cả chăng?», một thí sinh tú tài Pháp năm 1995 có thể trả lời: «Khi
tàn sát hàng triệu người, Hitler đã làm đúng, theo quan điểm của ông
ta», tuy rằng «đối với chúng ta, hành động này là không thể bênh vực
được»! (8, tr. 170).
Trong lãnh vực nhận
thức, với sự tương đối hoá lý trí, khoa học rất có nguy cơ biến mất
như một tiêu chuẩn lý tính phổ quát, nếu quả thật: 1) Những quy luật
suy luận chỉ có thể được xem là đúng hay hợp lý bên trong mỗi nền
văn hoá; 2) Không có tiêu chuẩn khách quan, không thiên vị, không
độc đoán, liên văn hoá… để đánh giá cái gọi là «lý tính» trong mỗi
đơn vị văn hoá. Ðược khai sinh như loại thuốc giải độc trước bệnh
sùng bái khoa học, bằng cách vạch trần, một mặt, một số hạn chế nội
tại của khoa học, mặt khác, vai trò của những yếu tố văn hoá xã hội
trong việc nghiên cứu, sự tương đối hoá lý trí đã dần dần biến triết
lý nhận thức thành một thứ xã hội học nhận thức cực đoan. Dưới ảnh
hưởng của Hegel, Karl Marx, rồi sau đó của Karl Mannheim, ngành học
sau có thể xem như đã thực sự thành hình khi Robert K. Merton đưa ra
chủ trương mà Larry Laudan về sau gọi là «đảm nhiệm phi lý-tính»
(«arationality assumption»): chỉ khi nào không thể giải thích được
một quan điểm hay một học thuyết nào đó trên cơ sở giá trị thuần lý
của nó, thì lúc ấy nhà xã hội học mới dùng đến những nhân tố xã hội
khác như chủng tộc, quốc tịch, giai cấp, văn hoá (9)… Nhưng ngày
nay, nếu cái lý trí phổ quát của con người cũng nổ tung, nghĩa là
nếu quả thực có một lý tính Hoa Kỳ, một lý tính Trung Hoa, một lý
tính Irak (cũng như trước đây đã từng có triết học tư sản, toán học
vô sản, vật lý học Do Thái, sinh lý học Ðức!) hoàn toàn khác nhau
chẳng hạn, thì sự thận trọng trong việc áp dụng quan điểm xã hội học
cũng biến mất; tất cả đều chỉ có thể và phải được giải thích bằng
loại lý do xã hội, văn hoá!
Thật ra, bên cạnh sự
thất bại của «não trạng sơ khai», các nhà tâm lý học và nhân chủng
học cũng chưa hề tìm thấy chứng cớ quyết định nào về sự tồn tại của
một thứ lý tính hoàn toàn khác với cái vẫn được gọi là «lý tính con
người» (dù nó được triển khai sâu rộng nhất ở Phương Tây), hay một
xã hội hoàn toàn thiếu vắng tư duy lý tính. Bởi vì, nghĩ cho cùng,
các quy tắc của loại tư duy này chỉ đơn giản nói là con người có thể
tổng quát hoá từ sự quan sát thực tại (quy nạp), và hành động trên
cơ sở tư duy của mình (diễn dịch). Nghiên cứu tương quan giữa khoa
học hiện đại và tư tưởng Phi Châu, Robin Horton (10) phân biệt hai
loại kiến thức. Loại «kiến thức sơ cấp» tồn tại trong mọi đơn vị văn
hoá; một mặt, được xây dựng trên khả năng phổ quát là thiết lập
những quan hệ nhân quả đơn giản hoặc phỏng chừng giữa các hiện
tượng, nó chỉ sử dụng một ít phạm trù cơ bản (như trước/sau,
người/vật chẳng hạn, đủ để tạo ra huyền thoại, để suy nghĩ, hiểu
biết, và thực hiện một số công việc hàng ngày); mặt khác, nó có
khuynh hướng bảo thủ và ưa tìm đồng thuận. Chỉ một số nền văn hoá
tiến đến loại «kiến thức cấp hai»; loại này biết dùng những lý do
tiềm ẩn để vừa giải thích, vừa tiên đoán thế giới chung quanh một
cách có hệ thống hơn, đồng thời có khuynh hướng tìm những kinh
nghiệm mới. Và tất nhiên, mọi xã hội đều có năng lực phát triển kiến
thức một cách tiệm tiến, từ cấp thấp lên cấp cao.
Vế thứ hai trong
lãnh vực nhận thức - hiện thực - cũng là đối tượng của một sự tương
đối hoá, «giải lập» khác. Dựa trên, một mặt, giả thuyết Sapir-Whorf
đã nói ở trên, mặt khác, quan điểm của Thomas Kuhn về «điển mẫu»
(paradigm) trong khoa học, nhiều tác giả cho rằng : 1) Cái gọi là
hiện thực chỉ là một kiến trúc từ những tương quan với giai cấp xã
hội, ngôn ngữ, thế giới quan, lý thuyết, của mỗi cá nhân; 2) Không
có những tiêu chuẩn khách quan, vô tư, không độc đoán để tiếp cận
cái gọi là hiện thực xuyên qua giai cấp, ngôn ngữ, thế giới quan, lý
thuyết của người nhận thức. Từ thế kỷ 18, Kant đã bác bỏ khái niệm
hiện thực tự thân (dù nếu có, con ngưòi cũng không thể nào biết
được), mà chỉ công nhận một hiện thực được tiếp cận qua những trực
giác (không gian, thời gian) và phạm trù tiên thiên (bản thể, toàn
thể, nhân quả, tất yếu, v. v…) của chủ thể nhận thức; song ít ra ở
đây, các trung gian tiên thiên ấy vẫn còn là những cấu trúc phổ quát
chung cho cả loài người. Ở thế kỷ 19, Nietzsche đi thêm một bước nữa
khi ông cho rằng không có sự kiện mà chỉ có sự suy diễn (nghĩa là
mỗi nhận thức sự kiện tự nó đã là một sự suy diễn). Tiếp nối quan
điểm trên theo hướng hoàn toàn cực đoan, một số tác giả ngày nay xem
cái gọi là hiện thực như một sản phẩm của ngôn ngữ, và xem mỗi ngôn
ngữ như một thế giới quan (Sapir-Whorf), hayđôi khi còn khắt khe
hơn, một thứ lý thuyết khoa học (Paul Feyerabend).
Như vậy, chủ nghĩa
tương đối ở đây không phải chỉ phủ nhận là có một hiện thực, hay một
hiện thực với nhiều cách tiếp cận khác nhau, mà khẳng định là có
nhiều hiện thực hoàn toàn biệt lập phát sinh từ ngôn ngữ. Và vì
không một tiêu chuẩn nào có thể cho phép so sánh, đánh giá hay phán
định về những hiện thực bất đồng này, tất cả đều bình đẳng. Tất cả
vấn đề là không thể nào đồng hoá ngôn ngữ với một thế giới quan hay
một lý thuyết được. Ðánh đồng ngôn ngữ với một thế giới quan, tựu
trung, là hàn dính cái hàm nghĩa (connotation) với cái biểu nghĩa
(dénotation) của một từ. Ðúng là từ chuyển động gợi ra những yếu tố
văn hoá rất khác nhau giữa một sắc dân du cư và một giống dân suốt
đời không xê dịch, do những hàm nghĩa của nó. Nhưng không ai cấm cản
hai cá nhân thuộc hai nền văn hoá nói trên hiểu nhau, nếu họ thoả
thuận chỉ giới hạn câu chuyện vào phần biểu nghĩa của từ - xê dịch
từ điểm này sang điểm khác -, như vẫn được định nghĩa trong các loại
từ điển. Và sự tồn tại của loại từ điển song hay đa ngữ chính là
bằng cớ không thể chối
cãi rằng xưa nay con người vẫn hiệp thông thành công trên cơ sở ấy.
Mặt khác, đánh đồng ngôn ngữ với lý thuyết, tựu trung là đánh đồng
từ với khái niệm khoa học. Ðúng là khái niệm chuyển động trong vật
lý của Aristote và khái niệm cùng tên trong vật lý của
Galilei-Newton không còn là một nữa, và chúng ta không thể nào hiểu
vật lý của thế kỷ 17 qua một khái niệm của vật lý cổ Hy Lạp, bởi vì
mỗi lý thuyết mở ra một hình ảnh khác nhau về hiện thực, trong khi
mỗi khái niệm lại là một mảnh hữu cơ của lý thuyết. Nhưng hiển nhiên
là không có từ chuyển động trong bất kỳ ngôn ngữ tự nhiên nào, nhất
là khi chỉ giới hạn vào phần biểu ngữ, lại có quan hệ hữu cơ chặt
chẽ tương tự với toàn bộ hệ thống từ vựng và ngữ nghĩa mà nó là một
đơn vị hết cả!
Tính phi lý của
khẳng định «có nhiều hiện thực biệt lập bình đẳng» hiện rõ khi chúng
ta phải trả lời những câu hỏi khá đơn giản nhưng lại đầy dẫy trong
các bộ môn khoa học, như các cuộc diệt chủng của Ðức Quốc Xã hay
Khmers Ðỏ trong sử học chẳng hạn. Và cho đến nay, phương pháp để
giải quyết các nghi vấn này là đối chiếu chúng với những chứng cớ
như hình ảnh, tài liệu, v. v… thu thập được, chứ không phải là mang
đại diện của phe này hay phe kia ra… phỏng vấn, hoặc mời tập thể sử
gia hội họp … biểu quyết! Vì sao một sự phi lý như thế có thể khoác
áo học thuyết? Một trong những câu trả lời có thể là ý kiến sau của
Frederick Will: «Sự công nhận là mọi hiểu biết của chúng ta về thế
giới bên ngoài đều được tiếp thu qua thực tiễn nghiên cứu đã khiến
một vài triết gia kết luận rằng loại ngoại vật được chúng ta nhận
biết đã do ngay chính quá trình nghiên cứu sản xuất ra, và do đó,
chẳng khác gì những giả tượng (artefacts) mà cả sự tồn tại lẫn tính
chất đều tùy thuộc, một cách nào đó, vào ngay chính thực tiễn nghiên
cứu (…). Thật ra, thực tiễn nhận thức chỉ được thiết kế để phát hiện
và mổ xẻ ngoại vật chứ không thể sản xuất ra chúng» (11).
Việc tương đối hoá
hiện thực dẫn đến sự tương đối hoá chân lý. Trước thời «khủng hoảng
nền móng» của các môn học nòng cốt, nhận thức luận hiện đại định
nghĩa chân lý là sự thích ứng hay phù hợp giữa a với R, trong đó a
là mệnh đề đang có yêu cầu được công nhận là đúng, và R là cái được
xem là hiện thực (thế giới bên ngoài theo nghĩa rộng). Trong toán
học, một mệnh đề được xem là đúng, nếu nó kết hợp chặt chẽ, mạch lạc
với hệ thống những mệnh đề toán học đã được chứng minh; đấy là
«thuyết mạch lạc về chân lý» («coherence theory of truth»). Trong
vật lý, một mệnh đề được xem là đúng nếu nó tương ứng với quy luật
của thế giới bên ngoài, nghĩa là với những hiện tượng mà nhà khoa
học đã tiên đoán dựa trên các quy luật ấy; đó là «thuyết tương ứng
về chân lý» («correspondance theory of truth»). Và bất chấp cuộc
khủng hoảng kéo dài, toán học cũng như vật lý học và các bộ môn khác
vẫn tiếp tục phát triển, dù trên cơ sở không còn nền móng chắc chắn.
Vào khoảng 1907, lạm
dụng quan điểm của Charles Sanders Pierce về ý nghĩa của các từ khoa
học (ý nghĩa của một từ khoa học là toàn bộ những hậu quả thực tiễn
của nó; mọi từ không dẫn đến một hậu quả thực tiễn nào đều phải bị
xem là vô nghĩa hoặc rỗng tuếch), William James nhận định: Theo
nguyên tắc thực tiễn, nếu giả thuyết Thượng Ðế có thể «chạy» (work,
marcher) một cách thoả đáng theo nghĩa rộng nhất, thì nó «đúng»
(12). Thật ra, đây là một sự suy diễn quá lố tư tưởng của C. S.
Pierce (khiến ngay bản thân tác giả này cũng kinh hoảng, phải vội vã
đặt ngay ra từ «pragmaticism» để chỉ quan điểm của mình, nhằm tránh
bị đồng hoá với chủ nghĩa «pragmatism» ở W. James!). Bởi vì, nếu giả
thuyết Thượng Ðế «chạy» theo một nghĩa nào đó (tốt cho xã hội chẳng
hạn), nó hoàn toàn không thể «chạy» theo nghĩa khoa học (đưa ra
những tiên đoán có thể kiểm chứng). William James lẫn lộn hai mệnh
đề: «Ðúng là Thượng Ðế hiện hữu», và «Tin rằng Thượng Ðế hiện hữu là
điều có ích cho xã hội và nên làm». «Lý thuyết thực tiễn về chân lý»
(«pragmatic theory of truth»), như vậy, là một bước xuống cấp so với
hai quan điểm trước.
Ngày nay, sau khi tự
tạo ra tình trạng vô số hiện thực vừa bình đẳng vừa «vô thông ước»
cùng tồn tại, liệu chủ nghĩa tương đối văn hoá sẽ giải quyết ra sao
vấn đề chân lý trong các khoa học? Nó chỉ có thể, hoặc chối bỏ hẳn
sự phân biệt đúng/sai (nghĩa là xem «mặt trời quay chung quanh trái
đất» hay «trái đất quay chung quanh mặt trời » như hai tín niệm có
giá trị ngang nhau chẳng hạn), hoặc đơn giản chấp nhận là đúng «bất
cứ điều gì mà một người hay một nhóm người tin là đúng». Liệu cái
được chào đón vô cùng rầm rộ và long trọng là «lý thuyết đồng thuận
về chân lý» («consensus theory of truth») này sẽ có khả năng đưa
khoa học tiến tới chăng? Ðiều hiển nhiên trước mắt là trong mọi
ngành học thuật, nhất là các khoa học xã hội và nhân văn, sẽ đầy dẫy
những mệnh đề hoàn toàn mâu thuẫn mà vô phương giải quyết. Một điều
chắc chắn nữa: những Copernic, Galilei, Darwin, Einstein… nghĩa là
loại nhân tài đã đẩy con người lên một nấc quyết định trên bậc thang
kiến thức, ngày nay sẽ là thiểu số tuyệt đối, và chắc chắn sẽ thất
bại trong xã hội hậu hiện đại, vì không tài nào hội đủ đồng thuận
trên những ý kiến hoàn toàn «dị giáo» của mình.
«Về nhận thức, chủ
nghĩa tương đối văn hoá là một điều ngu xuẩn; về đạo lý, nó là một
bi kịch» (13, tr. 550). Làm sao một bi kịch phi lý lại có thể trở
thành hệ tư tưởng chủ đạo trong một nền văn minh đang dẫn đầu thế
giới trên nhiều mặt? Người ta có thể đưa ra nhiều giải thích, nhưng
lý do quan trọng hơn cả vẫn là cuộc khủng hoảng giá trị, nhất là
cuộc khủng hoảng lý trí và khoa học của Tây Phương gần như suốt thế
kỷ qua, và sự lây lan của nó sang các nền văn hoá khác (14). Chỉ khi
nào con người tìm lại được cho hai chữ «nhân loại» một nội dung văn
hoá - nghĩa là những giá trị phổ quát được xây dựng trên một nền
tảng tương đối đứng được dù không hoàn toàn chắc chắn - thì cuộc
khủng hoảng tinh thần trên quy mô toàn cầu này mới thật sự cáo
chung,
Tất nhiên, chủ
trương này sẽ không thuyết phục nổi những đầu óc bi quan. Nhưng vấn
đề đặt ra cho con người ngày nay chính là phải chọn lựa giữa: a)
hoặc giảm thiểu một số đòi hỏi trí thức không thể nào thoả mãn nổi,
hầu xây dựng lại hệ thống giá trị toàn nhân loại như vừa nói ở trên,
dù phải không ngừng xoá đi lập lại các thử nghiệm còn bấp bênh; b)
hoặc vất bỏ tất cả những thành tựu đã đạt được trong mọi lãnh vực
cho đến ngày nay, để ngụp lặn trong chủ nghĩa hư vô, rồi khoanh tay
than thở bất lực trước bao thách đố đang ào ạt tràn đến mỗi ngày. Sự
kiện là từ vài năm nay, lý luận khoa học cũng như chính trị và đạo
lý học… đã đổi mới cách đặt vấn đề và đang đổi mới ngôn ngữ, để bắt
đầu lại những cuộc phiêu lưu tư tưởng trong rất nhiều tác phẩm đáng
lưu ý, cho phép chúng ta hy vọng sẽ nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường
hầm sớm hơn mong đợi.
___________________
CHÚ THÍCH:
(01) Samuel P.
Huntington, Le Choc Des Civilisations, Commentaire = ISSN 0180-8214,
số 66, 1994 (Nguyên tác: The Clash Of Civilizations, Foreign Affairs
= ISSN 0148-8937, 1993) và
(01bis) Samuel P.
Huntington, Le Choc Des Civilisations, Paris, Odile Jacob, 1997.
(02) Ronald F.
Inglehart, Le Choc Des Civilisations Ou Modernisation Culturelle Du
Monde, Le Débat, số 105, 1999. Bài báo dựa trên cuộc thăm dò dư luận
nói trên, được thực hiện lần đầu ở Âu Châu, sau nới rộng ra Bắc Mỹ
rồi khắp thế giới, qua 3 đợt thực hiện (1981-1982, 1990-1991,
1995-1997), trên hơn 60 nước (73% dân số toàn cầu).
(03) Văn minh và văn
hoá có thể được dùng như hai từ đồng nghĩa (ở Huntington và trong
bài này), song cũng có thể được phân biệt. Oswald Spengler xem văn
minh là giai đoạn phát triển cuối cùng của một nền văn hoá. Một số
tác giả khác (Alfred Weber, Robert M. McIver) đối lập văn minh với
văn hoá như hai phần của một «hệ thống biểu hiệu» («symbolic
systems»): văn minh được dùng để chỉ phần thực tiễn, phần phương
tiện để kiểm soát thiên nhiên và điều kiện vật chất, do đó, bao gồm
cả khoa học và kỹ thuật; văn hoá chỉ phần tinh thần, giá trị, quy
phạm, lý tưởng…, do đó, bao gồm tôn giáo, triết lý, văn học, nghệ
thuật. (Xem : Alfred L. Kroeber & Clyde Kluckhohn, Culture: A
Critical Review Of Concepts And Defnitions, New York, Vintage Books,
cop. 1952)
(04) Ðạo giáo được
dùng ở đây như một danh từ chung để chỉ tất cả những thế giới quan
nào - từ tôn giáo hữu thần cho đến chủ nghĩa vô thần - bao gồm một
phần lý thuyết có thể giảng dạy, học hỏi (giáo) và một con đường
thực tiễn để tu tập, hành động trong xã hội (đạo). Theo Từ Ðiển
Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ, Uỷ Ban Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, Nxb
KHXH, 1988.
(05) La Culture: De
l’Universel Au Particulier, coordonné par Nicolas Journet, Auxerre,
Ed. Sciences Humaines, 2002. Tác phẩm đầy đủ, cập nhật, và dễ đọc về
ngôn ngữ, rất hữu ích cho những độc giả không chuyên môn.
(06) Le Langage:
Nature, Histoire et Usage, coordonné par Jean-Francois Dortier,
Auxerre, Ed. Sciences Humaines, 2001. Tác phẩm đầy đủ, cập nhật, và
dễ đọc về lịch sử các lý thuyết nhân chủng học, rất hữu ích cho
những độc giả không chuyên môn.
(07) Richard J.
Bernstein, Incommensurability And Otherness Revisited, 1991. Trong:
Culture And Modernity: East-West Philosophic Perspectives, ed. by
Eliot Deutsch, Honolulu, University Of Hawaii Press, 1991.
(08) Raymond Boudon,
Relativisme Et Modernité, Revue Européenne Des Sciences Sociales =
ISSN 0048-8046, 1996, số 106, tr. 169-192.
(09) Larry Laudan,
Progress And Its Problems: Towards A Theory Of Scientific Growth,
Berkeley, University of California Press, 1977. Trích dẫn bởi Shelby
D. Hunt,Modern Marketing Theory, Cincinnati, South-Western, 1991,
tr. 310.
(10) Robin Horton,
Tradition And Modernity Revisited. Trong: M. Hollis & S. Lukes,
Rationality And Relativism, London, Blackwell, 1982.
(11) Frederick L.
Will, Reason, Social Practice And Scientific Realism, Philosophy Of
Science, số 48, 1981, p. 1-18. Trích dẫn bởi Shelby D. Hunt, Modern
Marketing Theory, Cincinnati, South-Western, 1991, tr. 320.
(12) William James,
Pragmatism, New York, Harper Brothers, 1907. Trích dẫn bởi Shelby D.
Hunt, Modern Marketing Theory, Cincinnati, South-Western, 1991, tr.
299.
(13) Ernest Gellner,
La Mascarade Relativiste, Commentaire = 0180-8214, số 75, 1996 , tr.
543-550.
(14) Shelby D. Hunt,
Modern Marketing Theory, Cincinnati, South-Western Publ., 1991. Phần
2 của tác phẩm tự nó là một giáo trình trong sáng về triết lý khoa
học, đã giúp cho chúng tôi nhiều ví dụ, luận cứ, và trích dẫn để phê
phán chủ nghĩa tương đối văn hoá.
.....................................
Nguồn: amvc.free.fr
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *