* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu

* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos 

* Biệt kích  -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV

* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí

* Khảo  Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo

* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý

* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery

* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hào Kiệt For Rent

  3. Trò Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

  4. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  5. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư

  13. Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  14. Phân Định Chính Tà

  15. Giáo Hội La  Mã:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

  16. Secret Army Secret War - CIA Giải mật

  17. Mật Ước Thành Đô: Trò Bịa Đặt

  18. Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

  19. Lãnh Hải Việt Nam ở Biển Đông

  20. Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

  21. Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

  22. Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

  23. Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

  24. Trò Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

  25. Hài Kịch Nhân Quyền

  26. CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

  27. Tội Ác PG Ấn Quang

  28. Âm mưu của Ấn Quang

  29. Vụ Đài VN Hải Ngoại

  30. Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

  31. Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

  32. Lịch Sử CTNCT

  33. Tượng Đài: Lưu Xú - Lưu Manh

  34. Về Tác Phẩm Vô Ðề

  35. Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh

  36. Bút Ký Tôi Phải Sống

  37. Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

  38. Đặc Công Đỏ Việt Thường

  39. Kháng Chiến Phở Bò

  40. Băng Ðảng Việt Tân

  41. Mặt Trợn Việt Tân

  42. Tù Binh và Hòa Bình

  43. Nước Mắt Trước Cơn Mưa

  44. 55 Ngày Chế Độ Sài Gòn Sụp Đổ

  45. Drug Smuggling in Vietnam War

  46. The Fall of South Vietnam

  47. Giờ Thứ 25

  48. Economic assistant to South VN 1954- 1975

  49. RAND History of Vietnam War era

  50. Chiến Sĩ Vô Danh 

 

 

LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019

-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019

 

THAM KHẢO

Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019

May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019

 

Beginner's Guide Web Design

Responsive Web Design

Professional Web Design

Learning Web Design 4

A List Apart Responsive Web Design

Responsive Web Design Ethan

The Book of CSS3

Mastering Resposive Web Design HTML 5

HTML Tutorial

HTML5 CSS3 Responsive Cookbook

Principle of Web Design

Real Life Responsive Wed Design

Learning Responsive Web Design

Learn HTML and CCS

Pro HTML 5 Accessi

Thiết Kế Web


http://www.expression-web-tutorials.com/

https://www.w3schools.com/howto/howto

_css_social_media_buttons.asp

https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q

https://www.codecademy.com/en/forum_

questions/532619b28c1ccc0cac002730

https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro

https://archive.org/details/responsivewebdesign

https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/

Computer Page

 

https://vimeo.com/

http://www.imdb.com/

https://www.crackle.com/

https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies

https://archive.org/details/feature_films

https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/

 

 

Kim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearningTrang Chủ Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

THÁNG 9-2019

 

UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV

PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT  NBCSPORT  ESPNSPORT - EPOCH

   

Từ trái qua phải: Bùi AnhTrinh, Nguyễn Đình Chiến, Chu Di Tuyển, Kim Âu Hà Văn Sơn, Trương Văn Hùng

 

 

 

trinh bui

23:47, 14 thg 9, 2019 (3 ngày trước)

Bạn hiền thân mến

Tết năm Mậu Thân Đà Lạt chìm trong khói lửa… Việt Cọng chiếm giữ Khu Hòa Bình trong 2 ngày; còn Trại Hầm, Địa Dư và Cây số 4 bị bỏ bom ngút trời.

Đến khi tình hình có vẻ yên ắng thì tụi tao trở lại trường, lúc đó tao đang ngồi lớp Nhất B2 Trần Hưng Đạo.  Vừa lúc trở lại trường thì có lệnh tổng động viên…Một buổi sáng đẹp trời có hơn nửa lớp đứng dậy xin phép thầy Hưởng cho đi khám sức khỏe nhập ngũ, đó là mấy thằng sinh năm 1948 trở lên…

Còn tao và những thằng 1949 thì đợi tới phiên năm sau… nhưng tụi tao không còn lòng dạ đâu mà ngồi học tiếp trong khi bạn bè lần lượt ra đi vào nơi gió cát…Lúc đó tụi tao hoàn toàn quên hẳn mày và tụi thằng Tâm vì cứ đinh ninh rằng tụi mày không thể nào sống nổi với cái trại tù của bọn Cọng sản Bắc Việt.

Thế rồi tao cũng trở thành một ông lính Việt Nam Cọng Hòa như ai, và tao chợt nghĩ tới mày khi tao ra trường và về một trại Biệt kích CIDG.  Hai chữ Biệt kích khiến tao chạnh nghĩ … thì ra mình cũng đâu có thua gì cái thằng “Sơn Beatles”.

Nhưng những tháng ngày lăn lộn trong cái trại Biệt kích đó chỉ để lại trong tao những kỷ niệm buồn, chẳng có gì là hào hùng như người đời tưởng tượng. Chỉ có máu, chết chóc và gian khổ… Tao nói để mày hiểu tại sao các bài viết của tao về lực lượng Biệt kích CIDG luôn luôn có nhiều cay đắng.

May là qua năm 1971 thì giải tán Lực lượng đặc biệt VNCH.  Tao giả từ cái trại Biệt kích mà trong lòng cảm thấy giống như thoát ngục.  Bạn bè rủ tao qua Biệt động quân Biên phòng để tiếp tục chỉ huy những biệt kích Thượng cải tuyển.  Tao đang còn phân vân thì báo chí đưa tin về trận Hạ Lào, mà trong đó tao thấy số phận của mấy thằng Biệt động quân ở đồi 30, 31 cũng chẳng khác gì mấy cho nên tao xin kiếu, tao chọn về Địa phương quân.

Giờ đây ngồi viết lại quân sử thì tao chú ý ngay tới cái trận Hạ Lào định mệnh đó… Cái trận đã khiến tao trở thành một ông lính Địa phương quân.  Tao gởi cho mày bài viết về trận đó để mày thấy cái số kiếp của cái tụi Quân lực VNCH ở Miền Nam cũng chẳng hơn gì tụi mày ở trại tù Miền Bắc..

http://quanvan.net/tu-chien-ha-lao/

BÙI ANH TRINH

 

TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971,

(11) VÀO TCHEPONE “ĐÁI MỘT BÃI”

*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )

 

Giai đoạn chiếm Tchepone :  “Vào Tchepone đái một bãi xong rồi rút ra”

 

Ngày thứ 28, ngày 7-3

 

-Sáng sớm, CSVN pháo kích vào Căn cứ Lolo ở phía Nam Tchepone, có 3 lính Trung đoàn 1 Bộ binh chết và 17 bị thương.

 

-Đại đội trinh sát Trung đoàn 2 BB VNCH tìm thấy 102 xác CSVN trong khu vực B.52 thả bom ngày hôm qua, thu 5 đại liên phòng không 12ly7, và 1 đại bác phòng không 37 ly.

 

-Tiểu đoàn 3/2 BB/VNCH tiến về khu vực phía Nam Căn cứ Hope tìm thấy 32 xác bị chết do B.52, cùng với  1.000 tấn gạo và 2.000 mặt nạ ngừa hơi độc.

 

-Tiểu đoàn 2/2 BB/VNCH tìm thấy gần 100 xác chết trong khu vực thả bom của B.52 với những vũ khí đã bị gẫy vụn.

 

-Đại đội Hắc Báo (đại đội trinh sát) của Sư đoàn 1 BB/VNCH được đổ xuống một địa điểm cách Căn cứ A Lưới 5 cây số về hướng Đông Nam để cứu hộ một phi hành đoàn trực thăng bị rơi tại đây vào 2 ngày trước.  Đại đội gặp được toàn bộ phi hành đoàn nhưng cùng lúc đó quân CSVN kéo tới.  Đại đội Hắc Báo chống trả dưới sự yểm trợ pháo binh của Căn cứ A Lưới cho đến khi phi cơ can thiệp.

 

Kết quả đại đội và phi hành đoàn chỉ có vài người bị thương, trong khi giết được 60 quân CSVN, thu 30 vũ khí tự động, phá hủy 1 ổ phòng không.  Ngoài ra cũng tìm thấy 40 xác CSVN khác bị chết vì bom của phi cơ.

 

-Tiểu đoàn 2/2 BB/VNCH phát hiện một kho sửa chữa vũ khí với 150 hỏa tiễn 122 ly, 43 trái đạn B.40, 17 súng đại liên, 8 súng cối 82 ly, 57 AK.47 và 2 xe tăng.  Tất cả đã bị hư hỏng.

 

-Tiểu đoàn 4/1 BB/VNCH hành quân tại khu vực phía Đông Nam của Tchepone ( Căn cứ Lolo ), tìm thấy 112 xác CSVN, 32 súng cối, 5 đại liên phòng không 12ly7, 6 súng B.40 và 18 AK.47.

 

Ngày thứ 29, ngày 8-3,

 

-Buổi sáng, Tiểu đoàn 2/2 và Tiểu đoàn 3/2 cùng với BCH Trung đoàn 2 BB thuộc Sư đoàn 1 BB/VNCH tiến vào Thị trấn Tchepone đã bỏ hoang, tìm thấy 8 súng cối 82 ly, 2 tấn gạo và vô số xác chết mà không có thì giờ để đếm.  Sau khi tiếp đón phái đoàn của Tướng Phạm Văn Phú và các phóng viên quân đội vào buổi trưa, Trung đoàn gấp rút hành quân qua khỏi thị trấn, tiến về hướng Đông Nam.

 

-Qua khỏi Thị trấn, Tiểu đoàn 2/2 BB tìm thấy 52 xác chết CSVN với 3 đại liên hạng nặng, và 50 quả đạn đại bác.  Tất cả bị hư hỏng do bị phi cơ thả bom.

 

-Buổi chiều, tất cả các đơn vị của Trung đoàn 2 Bộ binh tập trung gần bờ phía Bắc của sông Tchepone.

 

-Đêm 8-3, Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 Bộ binh vượt sông Tchepone, đến bờ phía Nam.

 

Diễn tiến giai đoạn rút quân

 

Ngày thứ 30, ngày 9-3

 

-Lúc 9 giờ sáng,  Trung đoàn 2 Bộ binh từ Tchepone về đến căn cứ Sophia.

 

-Buổi trưa, toán thám sát của Trung đoàn 1 BB/VNCH phát hiện một đoàn xe tăng của CSVN cách Tchepone 10 cây số vế hướng Tây Nam.  Pháo binh VNCH bắn hủy 5 chiếc ( Bằng đạn chạm nổ của súng 155 ly ).

 

-Buổi trưa, Tướng Hoàng Xuân Lãm bay vào Sài Gòn gặp Tướng Nguyển Văn Thiệu và Tướng Cao Văn Viên để trình bày diễn tiến hành quân vừa qua và sau đó trình bày về kế hoạch rút quân sau khi mục đích của cuộc hành quân là chiếm Tchepone đã hoàn tất.

 

-Buổi chiều, lực lượng TQLC/VNCH lục soát khu vực phía Đông Nam căn cứ Delta, phát hiện kho vũ khí với 5.000 trái hỏa tiễn địa địa ( 122 ly và 107 ly ) cùng với nhiều khí cụ khác, tất cả đã bị bom B.52 hủy diệt.

 

*Chú giải :  Lệnh hành quân “Đái một bãi” của Tướng Thiệu.

 

Trung tướng James B.Vaught, cựu Cố vấn Sư đoàn Dù đã viết lại ý kiến của ông về lệnh rút quân tại Hạ Lào :

 

“Thế nhưng ở trên kia, bất ngờ họ ra lệnh kết thúc cuộc hành quân Lam Sơn 719  chỉ vì nó không đem lại kết quả như họ đã tính. Cuộc hành quân này được mở ra không ngoài mục đích nhảy vào Hạ Lào, cắt ngang con đường HCM một cái rồi kéo về!

 

Theo ý kiến cá nhân tôi thì đáng lẽ quân ta phải đánh vào đó, phá huỷ đường HCM rồi ở lại! Giá như cuộc hành quân tổng hợp được bàn định kỹ lưỡng cẩn thận ngay từ đầu thì điều đó  là khả năng hoàn toàn có thể thực hiện. Đáng tiếc là tất cả những đơn vị khác đều được lệnh rút về.  Nhảy Dù cũng phải về và thi hành xuất sắc nhiệm vụ đoạn hậu, SĐ chúng tôi về trong tình thế tuơng đối bảo toàn” ( Bản dịch của MX.520 ).

 

Thuở đó Đại tá James Vaught được chỉ định thay thế cho Đại tá William Pence sau khi Tiểu đoàn 2 Dù tự di tản khỏi Căn cứ 30.  Vì không nắm được tình hình của giai đoạn đầu của cuộc hành quân cũng như không biết được những tính toán của các vị chỉ huy trên cao cho nên mãi cho tới sau này ông vẫn còn ngạc nhiên về lệnh rút lui.

 

Ông không biết rằng sự thực lực lượng địch là 5 sư đoàn Bộ binh, 2 trung đoàn Bộ binh biệt lập, 8 trung đoàn Pháo binh, 3 trung đoàn Công binh, 6 trung đoàn Phòng không, 8 tiểu đoàn Đặc công và 3 tiểu đoàn Tăng.  Tổng cộng 60.000 người ( Lịch sử Quân đội Nhân dân, Quyển 2, trang 374 ).

 

Tài liệu “Lam Son 719” của Tướng Nguyễn Duy Hinh cho biết cuộc hành quân lục soát tại Tchepone và khu vực chung quanh được dự trù là 2 tháng nhưng mới có 2 ngày thì đã tính tới chuyện rút quân, trong khi cuộc hành quân đang trên đà thành công chưa từng thấy.

 

Để giải thích cho quyết định này của các cấp lãnh đạo quân đội VNCH, Tướng Hinh đã giải thích nguyên do vì (1) Thời tiết vào mùa mưa bất lợi cho việc chuyển quân, tiếp tế, và yểm trợ hỏa lực bằng phi cơ. (2) Địch quân đã tăng cường quân số mỗi ngày một mạnh hơn. (3) Súng phòng không của địch mỗi ngày một nhiều hơn cho nên lượng trực thăng tiếp tế cũng như tản thương không đủ bảo đảm cho nhu cầu của chiến trường.

 

Tuy nhiên đây chỉ là cách giải thích của Tướng Hinh khi ông viết tài liệu cho Ngũ Giác Đài.  Còn trong thực tế thì cựu Tổng thống Thiệu đã tiết lộ cho Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng vào năm 1985 :

 

“ Nếu như Thiệu đã chậm chạp trong quyết định đổ thêm quân, thì ông rất mau lẹ đã nhận ra được rằng ông đã bị sa bẫy.  Ông ra lệnh cho Tướng Hoàng Xuân Lãm, vị chỉ huy cuộc hành quân, tiến chiếm Tchepone nhưng không cố thủ ở đó vì ông sợ một vụ Điện Biên Phủ thứ hai : Lực lượng của mình bị cầm chân tại một tiền đồn bất khả bảo vệ và không có đường tiếp tế, ông đã ra lệnh cho Tướng Lãm : “Anh vô đó đái một bãi rồi ra ngay cho tôi” ( Nguyễn Tiến Hưng, Bí Mật Dinh Độc Lập, trang 75 ).

 

Tổng thống Thiệu đã ra lệnh cho Tướng Lãm vào trưa ngày 28 -2, sau khi Nghị sĩ Trần Văn Hương họp báo tố cáo Không quân Hoa kỳ thiếu trách nhiệm.  Nghĩa là lúc ra lệnh Tướng Thiệu đã biết được chuyện Không quân Mỹ không thể yểm trợ cho chiến trường theo như đã phân công với nhau từ trước.

 

Trong khi gần nửa tháng trước đó, vào ngày 15-2-1971, Tướng Abrams được biết quân số của CSVN tại Hạ Lào là 5 sư đoàn bộ binh, chưa kể các sư đoàn pháo binh, sư đoàn phòng không và sư đoàn công binh; nhưng ông không thông báo cho Tướng Thiệu biết chuyện này.  Nếu biết thì Tướng Thiệu đã cho rút quân ngay từ đầu chứ không vào Tchepone “đái một bãi”.

 

 Chính vì biết địch, biết ta mà Tướng Thiệu đã ra lệnh cho Bộ binh VNCH vào Tchepone cho có, rồi ra ngay.  Ông thừa biết kế hoạch hành quân là từ Washington cho nên Abrams cũng không dám thay đổi lệnh hành quân mặc dầu biết rõ lợi thế của địch và thất thế của ta.

 

Vậy thì  cả phía quân đội VNCH lẫn phía quân đội Mỹ chỉ còn một cách là thi hành đúng đắn lệnh hành quân.  Tuy nhiên trong lệnh hành quân ( của Nixon và Kissinger ) có một chỗ sơ hở là thời gian lưu lại Tchepone là do quân đội VNCH ấn định.  Do đó Tổng tư lệnh quân đội VNCH đã quyết định lưu lại Tchepone trong 12 tiếng.

 

Tướng Abrams biết đây là cách giải quyết tuyệt vời của Tướng Thiệu nhưng ông giả lơ vì nhờ đó mà ông đã thoát khỏi một tình trạng vô cùng khó xử.*( Xin đọc những hồi cuối sẽ rõ ).

 

Cũng vì Tướng Abrams không thông báo về kế hoạch chủ động rút quân của Tướng Thiệu trong khi báo chí Mỹ đang còn đưa tin như là trận Điện Biên Phủ đang sắp mở màn… Cho nên 13 ngày sau Nixon và Kissinger đã bật ngữa khi được báo cáo là quân đội VNCH đã rút quân về tới biên giới.

 

Hồi ký của Tướng Alexander Haig và băng ghi âm của Tòa Bạch Ốc được giải mã cho thấy vào lúc đó nội bộ Washington vô cùng rối ren khi biết Thiệu đã cho lệnh rút quân về.  Đến nỗi Nixon nổi cơn lôi đình đòi cách chức Tướng Abrams trong khi trận chiến đang còn tiếp diễn.

 

Có như vậy mới thấy lệnh “đái một bãi” của Tướng Thiệu là rất sáng suốt.  Nếu để chậm thêm cỡ 1 tuần thì 5 sư đoàn bộ binh CSVN ập đến thì hết đường về.

 

BÙI ANH TRINH

 

(12) SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH RÚT QUÂN

*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )

 

Ngày thứ 31, ngày 10-3

 

-Tiểu đoàn 1 TQLC có hai cuộc chạm súng với quân CSVN trong vùng xung quanh Căn cứ Hotel, kết quả giết 72 người, tịch thu 20 vũ khí cá nhân, 1 súng đại bác không giật và 4 trái đạn B.40. Phía TQLC có 6 chết và 19 bị thương.

 

-Tiểu đoàn 4/1 Bộ binh VNCH hành quân lục soát một khu vực vừa bị bom B.52 gần Căn cứ Lolo , phát hiện 72 xác chết, 12 xe vận tải Molotova, 8 xe kéo, 3 đại bác 122 ly, 2 đại bác phòng không 37 ly, 4 đại liên phòng không 12ly7, 2 hỏa tiễn 122 ly, 32 súng cối 82 ly, 18 súng chống tăng B.40, 400 súng AK.47, 60 máy liên lạc vô tuyến và quân trang, thực phẩm.  Bắt 5 tù binh.

 

-Căn cứ Sophia thuộc Trung đoàn 2 Bộ binh bị pháo kích nặng, 13 lính bị thương và 6 súng đại bác bị hư hại

 

Ngày thứ 32, ngày 11-3

 

Trung đoàn 2 Bộ binh VNCH được lệnh chuẩn bị rời Căn cứ Sophia, di chuyển bộ về Căn cứ Liz, cách 4 cây số về hướng Đông.

 

Buổi sáng, toán lục soát quanh căn cứ Sophia chạm súng với 1 toán nhỏ quân CSVN, giết 8, thu 8 súng.

 

Buổi chiều, Tiểu đoàn 2/2 Bộ binh đến Căn cứ Liz và được trực thăng chở về Căn cứ Brown, cách 5 cây số về hướng Đông Nam.

 

Buổi chiều BCH Trung đoàn 2 Bộ Binh và Tiểu đoàn 5/2 BB rời Căn cứ Sophia, trong khi Tiểu đoàn 4/2 BB ở lại phòng thủ Căn cứ Sophia.

 

Ngày thứ 33, ngày 12-3

 

-Tiểu đoàn 3/2 BB từ căn cứ Liz tiến đến đóng chốt cách Căn cứ Sophia 1 cây số về hướng Đông để yểm trợ cho Tiểu đoàn 4/2 BB rời khỏi căn cứ Sophia.  Phi cơ Hoa Kỳ thả bom hủy diệt căn cứ Sophia cùng với 8 khẩu đại bác đã bị hư hỏng.

 

-Giờ đây Căn cứ Lolo do Trung đoàn 1 Bộ binh trấn giữ trở thành tiền đồn phía Tây của các cánh quân.

 

-Bắt đầu từ ngày này mới có thông dịch viên Việt Nam đi theo các phi cơ quan sát để thông dịch chỉ điểm cho phi cơ thả bom và phi cơ trực thăng.

 

-Cũng bắt đầu từ ngày này, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn 2 CSVN bắt đầu bao vây tấn công Trung đoàn 3 Bộ binh thuộc Sư đoàn 1 BB/VNCH tại khu vực cực Nam của vùng hành quân.

 

-Ngày thứ 34, ngày 13-3

 

Các tiểu đoàn trực thuộc Trung đoàn 3 Bộ binh VNCH rút dần về hướng Bắc, tức là về hướng Căn cứ Hotel.

 

Ngày thứ 35, ngày 14-3

 

Căn cứ Lolo bị pháo khoảng 200 quả hỏa tiễn 122 ly và 100 quả đại bác 152 ly, có 3 lính bị chết, 2 bị thương, 2 súng 105 ly và 1 xe ủi đất bị hư hỏng.

 

Ngày thứ 36, ngày 15-3

 

Căn cứ Lolo không được tiếp tế do bị pháo kích liên miên, ( Cả căn cứ A Lưới và Căn cứ Delta cũng vậy ).  Các thương binh nằm chất đống trong căn cứ không được di tản.  Lệnh rút quân khẩn cấp được chuẩn bị.  BCH Trung đoàn 1 Bộ binh và các tiểu đoàn trực thuộc di chuyển bằng đường bộ về hướng Nam.

 

Ngày thứ 37, 16-3

 

-Tiểu đoàn 4/1 BB là thành phần chặn hậu cho đoàn quân rút lui của Trung đoàn 1 BB bị quân CSVN vây chặt và kêu gọi đầu hàng nhưng họ đã mở đường máu thoát vòng vây.

 

-Buổi trưa, BCH Trung đoàn 3 Bộ binh VNCH và Tiểu đoàn 4/3 BB được trực thăng bốc từ khu vực phía Nam của vùng hành quân về Căn Cứ Khe Sanh,  Tiểu đoàn 3/1 ở lại phòng thủ Căn cứ Delta 1.  Còn Tiểu đoàn 3/3 đã được đưa về Khe Sanh 2 ngày trước.

 

Ngày thứ 38, ngày 17-3

 

-Đoàn quân đào thoát của Tiểu đoàn 4/1 BB bắt được liên lạc với trực thăng vũ trang và được phi cơ yểm trợ, Tiểu đoàn Trưởng (Trung tá Lê Huấn), Tiểu đoàn phó cùng với hầu hết sĩ quan BCH Tiểu đoàn đều tử trận, đoàn quân sống sót được hướng dẫn tiếp tục di tản về hướng Quốc lộ 9 dưới sự yểm trợ của phi cơ.

 

-Tiểu đoàn 7 TQLC hành quân xung quanh căn cứ Delta đã chạm dịch, kết quả giết 16.  Phía TQLC có 5 bị thương.

 

Ngày thứ 39, ngày 18-3

 

Buổi trưa, một cuộc cứu hộ bằng trực thăng được thực hiện để cứu những người lính thuộc Tiểu đoàn 4/1 BB, có 3 trực thăng bị trúng đạn và 1 phi cơ chiến đấu bị bắn rơi. Kết quả 32 người được đưa về hậu cứ.

 

Quân CSVN tăng cường áp lực xung quanh Căn cứ Delta do Lữ đoàn 147 TQLC/VNCH trấn giữ.  Căn cứ bắt đầu bị pháo bằng tất cả các loại pháo. Và gần đó khoảng 10 ổ súng pháo cao xạ luôn luôn nhả đạn vào phi cơ tiếp tế.  Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 4 TQLC hành quân ra xa chung quanh khu vực để chuẩn bị rút quân.

 

Buổi trưa, Trung đoàn 1 BB/VNCH cùng với các tiểu đoàn trực thuộc 1/1, 2/1, 3/1 di chuyển bộ từ Căn cứ Lolo đã về đến cách Căn cứ A Lưới 2 cây số.  Tại đây trực thăng bốc toàn bộ Trung đoàn về Căn cứ Khe Sanh

 

Tiểu đoàn 5/2 BB thuộc Trung đoàn 2 BB được trực thăng bốc từ vùng hành quân về cứ điểm Brown

 

Từ 4 giờ chiều tới tối, BCH Trung đoàn 2 BB/VNCH tại Căn cứ Delta 1 và các tiểu đoàn 2/2, 3/2, và 4/2 tại khu vực cứ điểm Brown bị pháo kích nặng, sau đó Tiều đoàn 2 BB và Tiểu đoàn 4 BB bị tấn công.  Không rõ số thiệt hại của quân CSVN.  Tiều đoàn 4/2 BB báo cáo có 33 bị thương và 5 mất tích.  Tiểu đoàn 2/2 BB báo cáo có 32 bị thương.

 

-Tiểu đoàn 5/2 BB tại cứ điểm Brown bị pháo khoảng 300 trái súng cối và đại bác nhưng không gây thiệt hại, Tiểu đoàn 5/2 lục soát khu vực quanh Căn cứ Brown với sự yểm trợ của phi cơ.  Kết quả giết 100 người và khám phá một kho vũ khí lớn với hàng tấn đồ tiếp liệu.

 

-Trực thăng bốc BCH Trung đoàn 2 Bộ binh và Tiểu đoàn 5/2 BB rời căn cứ Delta 1 về Căn cứ khe Sanh, 3 Tiểu đoàn còn lại đang còn hành quân tại khu vực xung quanh cứ điểm Brown.

 

Ngày thứ 40, ngày 19-3

 

-Lúc 7 giờ 30 sáng, một đoàn xe tiếp vận bị phục kích cách Căn cứ A Lưới 5 cây số về hướng Đông.  Có 18 xe bị hư hại nặng, trong đó có 4 xe tăng M.41 và 3 thiết vận xa M113, mỗi thiết vận xa chở 1 súng đại bác 105 ly.  Tiểu đoàn 1 Dù tại Căn cứ Alpha yêu cầu phi cơ hủy diệt 18 xe trước khi chúng rơi vào tay quân CSVN.

 

-Tại Căn cứ Delta do Lữ đoàn 258 TQLC trấn giữ đã bị quân CSVN bao vây áp sát, Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 4 TQLC hoạt động bên ngoài Căn cứ đã bị cắt đường tiếp tế từ trong Căn cứ.  Trong khi tại Căn cứ có 5 khẩu đại bác bị phá hủy bởi đạn pháo.  Và binh sĩ bị thương cũng như bị chết cũng không có trực thăng di tản.

 

-Buổi trưa, Tiểu đoàn 4 TQLC chạm địch, giết 195, thu 59 AK.47 và nhiều loại vũ khí khác.

 

-Buổi chiều, Tiểu đoàn 3 TQLC chạm địch. Kết quả giết 87, thu 49 AK.47 và 17 trái đạn B.40.

 

-Buổi chiều, Tiểu đoàn 2 TQLC chạm địch, giết 85, thu 47 AK.47.  Phía TQLC có vài người bị thương nhẹ.

 

-Đêm 19-3, Tiểu đoàn 1 Dù và Tiểu đoàn 2 Dù báo cáo chạm địch. Tiểu đoàn 1 Dù có 8 bị thương; giết 80 người, thu 5 súng ngắn và 5 AK.47.  Tiểu đoàn 2 Dù có 18 chết và 57 bị thương, địch không rõ.

 

-Cũng trong đêm, Tiểu đoàn 7 TQLC tại Căn cứ Delta bị pháo kích và Bộ binh tấn công, có cả dùng hơi độc;  nhưng cuộc tấn công bị đẩy lui, quân CSVN để lại 42 xác.  Phía TQLC chỉ bị thiệt hại nhẹ.

 

Tổng cộng trong ngày đã có 686 phi vụ trực thăng chiến đấu (gun ship), 246 phi vụ ném bom, 14 phi vụ B.52.  Tổng số bom được thả trong ngày là 1.158 tấn. (sic)

 

Theo tài liệu của Bunker thì cho tới chiều hôm nay, ngày 19-3, Thiệu mới thông báo cho Bunker và Abrams về quyết định rút quân. ( Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng, trang 408 ).  Trong khi sự thực quân VNCH đã rút ngay từ ngày 8-3-1971.

 

*Diễn tiến hành quân trên đây được viết theo sách “Lam Son 719” của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.  Những chi tiết trong sách do Tướng Hinh căn cứ theo “nhật ký hành quân” của MACV còn lưu lại tại Ngũ Giác Đài.

 

(13) NHẢY DÙ , TQLC VÀ THIẾT KỴ LUI BINH

*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )

 

Ngày thứ 41, ngày 20-3

 

Một đoàn trực thăng 40 chiếc đáp xuống bốc Tiểu đoàn 3/2 Bộ binh ( 500 người ) tại phía Tây cứ điểm Sophia East giữa rừng đạn phòng không của quân CSVN, có 28 chiếc bị trúng đạn nhưng không có chiếc nào bị rơi.

 

Một đoàn trực thăng khác đáp xuống bốc Tiểu đoàn 4/2 Bộ binh ( 500 người ) nhưng chiếc phi cơ đầu tiên bị bắn cháy ngay tại bãi đáp cho nên cuộc bốc quân bị hoãn lại.

 

Trong ngày có tổng cộng 1.388 phi vụ trực thăng võ trang, 27 phi vụ thả bom và 11 phi vụ B.52.  Tổng số bom thả trong ngày là 909 tấn.

 

Ngày thứ 42, ngày 21-3

 

-Lúc 3 giờ sáng, Tiểu đoàn 2/2 và Tiểu đoàn 4/2 Bộ binh VNCH ( mỗi tiểu đoàn 500 người ) di chuyển lên một cao điểm cách Căn cứ Sophia East 2 cây số về hướng Đông để chuẩn bị chờ trực thăng đến bốc đi.  Nhưng 2 trung đoàn CSVN thuộc Sư đoàn 2 CSVN ( 5.000 người ) đã bao vây tấn công cao điểm.  Hai bên đánh nhau dữ dội dưới ánh hỏa châu từ Căn cứ Delta, pháo binh từ Delta rót chung quanh vị trí của 2 tiểu đoàn Bộ binh.

 

-Đến sáng trực thăng võ trang đến nơi tấn công quân CSVN.  Buổi trưa quân CSVN rút lui, để lại chiến trường 245 xác, 52 súng B.40 và B.41, 7 súng cối 61 ly, 7 súng đại liên, 5 súng cối 82 ly, 8 súng fun lửa, 9 súng đại liên phòng không 12ly7 và 65 AK.47.  Phía Bộ binh VNCH có 37 chết, 58 bị thương và 15 mất tích.

 

-Buổi chiều, trực thăng bốc hai tiểu đoàn Bộ binh về Căn cứ khe Sanh

 

-Bộ chỉ huy Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù ( 550 người ) cùng với lực lượng Thiết kỵ rời Căn cứ hỏa lực Alpha để về đến gần Cứ điểm Bravo, cách biên giới 5 cây số về hướng Tây.

 

-Khu vực hành quân chỉ còn lại 2 Lữ đoàn TQLC.

 

-Đêm 21, Trung đoàn 29 và Trung đoàn 803 CSVN thuộc Sư đoàn 324 B/CSVN áp sát Căn cứ Delta.  Đồng thời pháo kích vào Căn cứ, kể cả pháo trực xạ của xe tăng.

 

-Cũng đêm 21, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ cùng với Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 8 Dù ( mỗi tiểu đoàn 550 người ) trên đường di chuyển về biên giới đã rời Quốc lộ 9 băng rừng đi về hướng Tây Nam, vượt qua sông Tchepone để vào biên giới.  Đoàn quân đã vào được biên giới vào trưa hôm sau.

 

Trong ngày 21-3 có tất cả 788 phi vụ trực thăng võ trang, 157 phi vụ thả bom và 11 phi vụ B.52.  Tổng số bom thả trong ngày là 921 tấn

 

Ngày thứ 43, ngày 22-3

 

-Buổi sáng, phi cơ quan sát phát hiện khoảng 20 xe tăng CSVN di chuyển trên Quốc lộ 9, cách biên giới 9 cây số, phi cơ phản lực tấn công đoàn tăng, bắn cháy chiếc đầu tiên;  súng phòng không của CSVN bắn hạ 1 phi cơ phản lực F.100, viên phi công không nhảy dù ra kịp. Thêm một phi tuần phản lực khác đến nơi, 2 chiếc tăng nữa bị bắn cháy, sau khi đoàn phi cơ rời vùng thì pháo binh 175 ly của quân đội HK đã nã tiếp vào vị trí của đoàn Tăng.

 

-Buổi sáng, 13 phi vụ thả bom đã thả xung quanh căn cứ Delta.  Một phi vụ B.52 đã chệch hướng rơi vào khu vực hai bên đang còn đánh nhau.  Kết quả phía TQLC có 85 chết, 238 bị thương và 100 súng bị hủy hoại.  Phía CSVN có 600 chết, 5 bị bắt và 200 súng bị tịch thu.

 

-Buổi trưa, 7 trực thăng đáp xuống Căn cứ Delta để thả đồ tiếp tế và bốc thương binh, nhưng sau đó đoàn trực thăng không trở lại nữa bởi vì các phi công bị ám ảnh do trong ngày có 8 trực thăng bị bắn rơi tại Căn cứ Delta.

 

-Buổi chiều, 10 xe tăng có trang bị súng phun lửa và bộ binh CSVN tấn công Căn cứ Delta, quân TQLC/VNCH bắn cháy 2 xe tăng đầu tiên bằng súng chống tăng hạng nhẹ (?), chiếc tăng thứ 3 bị trúng mìn, và 4 chiếc khác trúng bom của phi cơ.  Các xe tăng còn lại vẫn tiếp tục tấn công. 

 

-Bộ chỉ huy Lữ đoàn 147 TQLC/VNCH cùng với Tiểu đoàn 7 TQLC buộc phải rút khỏi Delta.  Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 4 TQLC từ bên ngoài Căn cứ đánh thọc sau lưng quân CSVN để tháo vòng vây cho BCH Lữ đoàn thoát ra.  Tất cả vừa đánh vừa rút về Căn cứ hỏa lực Hotel, cách 5 cây số về hướng Đông Bắc.  Căn cứ Hotel nằm ngay biên giới Lào Việt.

 

-Trong đêm đoàn quân di tản đụng độ với một toán phục kích của CSVN không rõ quân số nhưng sau đó quân TQLC đã đánh bạt toán phục kích và tiếp tục di chuyển

 

-Chi đoàn 11 Thiết kỵ và Tiểu đoàn 8 Dù VNCH bị tấn công gần Căn cứ Bravo.  Có gần 100 bị thương, 4 xe tăng M.41 và 13 thiết vận xa M.113 bị hủy hoại.

 

Ngày thứ 44, ngày 23-3

 

-Buổi sáng, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ và các tiểu đoàn Dù về đến biên giới.  Suốt trận đánh, quân Thiết kỵ đã bị thiệt hại 98 chiến xa, trong đó có 22 xe tăng M.41 và 54 thiết vận xa M.113.

 

-Buổi sáng, BCH Lữ đoàn 258 TQLC/VNCH cùng với các tiểu đoàn 2,4 và 7 TQLC về đến Căn cứ Hotel với 230 người bị thương và 37 mất tích.

 

-Buổi chiều, các chiến xa VNCH cuối cùng về đến biên giới cùng với các đơn vị cuối cùng của binh chủng Dù.

 

-Buổi chiều tối, BCH Lữ đoàn 147/TQLC và 3 tiểu đoàn trực thuộc tại Căn cứ Delta được trực thăng bốc về Căn cứ Khe Sanh.

 

Tại Washington, ngày 23-3, tức là ngày 24-3 tại Việt Nam;  Cuộn băng ghi âm tại Tòa Bạch Ốc được giải mật cho thấy Kissinger nói với Nixon :

 

“Tôi nghĩ cuộc hành quân này là một thành quả quan trọng, dù với nhiều hư hỏng [ Trong vấn đề chỉ huy và điều khiển hành quân ]”, “Tôi muốn nói thẳng với Tổng thống là… chính người của chúng ta đã làm chúng ta thất vọng chứ không phải (quân đội) VNCH”,

 

“Trời ơi, Abrams đi thăm gia đình bên Thái Lan hàng tuần trong khi chúng ta đặt tất cả vào chuyện này [ cuộc hành quân đánh qua Lào ]… Rồi bây giờ Abrams bắt đầu uống rượu từ giữa trưa.  Tôi nghĩ rất kỹ, chúng ta có nên quyết định phải thay ông ta hay không?” ( Do Nguyễn Kỳ Phong dịch và trích đăng trong tác phẩm Vũng Lầy Của Bạch Ốc, trang 448 ).

 

Hồi ký của Tướng Haig, phụ tá của Kissinger cho biết :

 

“Nixon gọi ông vào phòng, không giải thích gì, ra lệnh cho ông ‘về nhà chuẩn bị hành lý rồi lên máy bay chuyến sớm nhất qua Sài Gòn’, để thay Abrams làm Tư lệnh MACV.  Nhưng Haig dùng lời lẽ hợp lý để làm dịu cơn giận của Nixon.  Ngày hôm sau Nixon ra lệnh cho Haig bay qua Sài Gòn để duyệt xét tình hình cuộc hành quân ở Hạ Lào” ( Nguyễn Kỳ Phong, Vũng Lầy Của Bạch Ốc, trang 448 ).

 

Ngày thứ 45, ngày 24-3

 

-BCH Lữ đoàn 258 TQLC/VNCH tại Căn cứ Hotel được trực thăng của Hải quân HK từ ngoài hạm đội bay vào bốc về Căn cứ Khe Sanh cùng với 6 khẩu đại bác 105 ly và 4 khẩu đại bác 155 ly. Cuộc bốc quân này không được thông báo cho người chỉ huy cuộc hành quân là Tướng Hoàng Xuân Lãm biết. ( Do có sự hục hặc trước đó giữa Tướng Lãm và Tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Sư đoàn TQLC ).

 

*Chú giải :  Tướng chỉ huy và lệnh hành quân

 

Có sự trở ngại về chỉ huy hành quân mà trước đó không ai để ý, đó là Tướng Tư lệnh Sư đoàn Dù Dư Quốc Đống và Tướng Tư lệnh Sư đoàn TQLC Lê Nguyên Khang coi thường Tướng Lãm vì không phục.

 

Riêng Tướng Khang cho rằng Tướng Lãm là người của Tướng Thiệu, do phe đảng mà được làm Tư lệnh Quân đoàn chứ không có thực tài.  Trong cuộc chạy đua vào chiếc ghế Tổng thống năm 1967 thì Tướng Lãm tích cực ủng hộ Tướng Thiệu trong khi Tướng Khang là bạn thân của Tướng Kỳ ( Cùng khóa 1 Nam Định ) nên ủng hộ Tướng Kỳ.

 

Thực ra, năm 1966, sau vụ biến loạn Miền Trung khiến cho các ông tướng Tư lệnh vùng Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Văn Chuân, Tôn Thất Đính, Huỳnh Văn Cao lần lượt bị bay chức, các tướng Nguyễn Hữu Có, Phạm Xuân Chiểu, Phan Xuân Nhuận bị kỷ luật.  Vì vậy tại Miền Trung lúc đó chỉ còn duy nhất Tướng Hoàng Xuân Lãm đang làm Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh cho nên ông được đề cử làm Tư lệnh Vùng 1.

 

Vả lại Tướng Lãm là người sinh trưởng tại Huế, lại là đảng viên của đảng Đại Việt, thân phụ của ông là cán bộ cao cấp của đảng Đại Việt tại Miền Trung cho nên hậu thuẩn chính trị của Tướng Lãm có thể bù lại cho những bất ổn chính trị tại Miền Trung sau cuộc biến động.  Sự lựa chọn Tướng Lãm làm Tư lệnh Vùng 1 thời đó là ngẫu nhiên và duy nhất chứ không còn ai khác.

 

*Diễn tiến hành quân trên đây được viết theo sách “Lam Son 719” của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.  Những chi tiết trong sách do Tướng Hinh căn cứ theo “nhật ký hành quân” của MACV còn lưu lại tại Ngũ Giác Đài.

 

(14) NHỮNG SAI LẦM KHÓ HIỂU

*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )

 

Những sai lầm giống như ấu trỉ

 

(1). Hành quân cấp quân đoàn mà không có kiểm chứng tin tình báo :

 

Khi một người sĩ quan thảo một lệnh hành quân cấp đại đơn vị (cấp sư đoàn trở lên), bắt buộc ông ta phải biết chắc chắn lực lượng địch trong khu vực hành quân là bao nhiêu, bố trí như thế nào.  Không thể nào mở một cuộc hành quân cấp quân đoàn mà tình hình địch chỉ là một ẩn số.

 

Đối với bất cứ quân đội của nước nào, một vị tướng thảo ra lệnh hành quân cấp quân đoàn mà không cho kiểm chứng tình hình địch thì viên tướng thảo ra cuộc hành quân đó phải ra tòa án binh. Nhưng đằng này trận Hạ Lào  không ai chịu nhận mình là tác giả của lệnh hành quân…!?

 

(2). Không nghĩ tới lực lượng địch là cấp quân đoàn :

 

Quyết định đưa quân vào Hạ Lào với 2 Sư đoàn chứng tỏ người thảo lệnh hành quân không nghĩ tới trường hợp địch có thể có mặt tại Hạ Lào là 3 sư đoàn.  Nếu nghĩ rằng quân địch có thể là 3 sư đoàn thì bắt buộc lực lượng tấn công phải là 9 sư đoàn.  Đây là nguyên tắc sơ đẳng của sách vở quân sự, lực lượng tấn công bắt buộc phải gấp 3 lực lượng phòng thủ.

 

Trong khi đó lệnh hành quân Lam Sơn 719 bị gói gọn trong 3 sư đoàn ( 2 sư đoàn hành quân và 1 sư đoàn trừ bị ).  Và khi biết rằng lực lượng địch là 5 sư đoàn bộ binh ( 35.000 người ) thì người chỉ huy trận đánh vẫn nhắm mắt coi như địch chỉ có 7.000 quân…!?

 

(3). Không dự trù trường hợp địch tăng quân :

 

Ngoài ước tính quân số địch là 7.000, người soạn thảo lệnh hành quân Lam Sơn 719 cũng dự trù Bắc Việt sẽ điều 2 sư đoàn đang hoạt động tại vùng Bắc vĩ tuyến 17 đến Hạ Lào (trong vòng 14 ngày).  Nhưng phần thi hành kế hoạch của lệnh hành quân không có kế hoạch đối phó với 2 sư đoàn tăng cường này, hay những sư đoàn khác ở các vùng gần đó…!?

 

Nếu có đặt ra giả định  quân địch tăng cường lên trên cấp quân đoàn thì bắt buộc phải có kế hoạch đối phó bằng cách tăng quân gấp bội, nếu không thì phải rút quân về.

 

(4) Không có mũi tấn công thứ hai để chia quân địch

 

Tướng Thiệu cho biết khi duyệt kế hoạch hành quân Lam Sơn 719 ông có đề nghị một mũi đánh nhứ gần Vinh để cầm chân quân CSVN tại đây, nhưng “Mỹ không chấp thuận” (The Palace File, bản dịch của Cung Thúc Tiến và Nguyễn Cao Đàm, trang 75 ).

 

Đây là đề nghị đúng bài bản của sách vở.  Khi tấn công một mục tiêu nào thì cũng phải có ít nhất là 2 mũi tấn công, còn tấn công 1 mũi là tối kỵ, chỉ sử dụng trong trường hợp không còn cách nào khác.  Các ông tướng ngồi ở Ngũ Giác Đài phải biết nguyên tắc chiến thuật sơ đẳng này, thế nhưng họ đã không làm.

 

Họ viện lý do làm như vậy là Hoa Kỳ chủ động leo thang chiến tranh trở lại, Hà Nội có cớ chấm dứt hòa đàm Paris.  Nhưng lý do của này không đúng, bởi vì ý của Tướng Thiệu là chỉ cần đánh lạc hướng (đánh nhứ, động tác giả ) để buộc địch phải chia quân ra quân đối phó, không cần phải thực sự đổ bộ.  Hơn nữa, mới trước đó 2 tháng, vào tháng 11 năm 1970 một đơn vị Biệt kích Hoa Kỳ đổ bộ xuống trại tù binh Sơn Tây thì Quốc hội Mỹ đâu có nói gì đâu ?

 

(5). Không nghĩ tới trường hợp trực thăng tê liệt do súng cao xạ

 

Thực tế cho thấy tại Hạ Lào quân CSVN có tới 19 tiểu đoàn phòng không ( tương đương 2 sư đoàn ) với 575 súng phòng không các loại.  Nhưng người soạn thảo lệnh hành quân Lam Sơn 719 không hề có kế hoạch dự trù trong trường hợp trực thăng bị tê liệt thì phải làm sao.

 

Người lính chỉ chỉ cầm súng đối mặt với địch quân khi họ biết có ống tiếp huyết nối đằng sau lưng : Gạo cơm, nước uống và đạn dược ở ngay đằng sau lưng họ.  Nhưng một khi biết được gạo không có, nước uống không có và tản thương không có thì tất nhiên họ sẽ bỏ cuộc chiến đấu để đi tìm cái sống cho cá nhân , hay cái sống cho binh sĩ dưới quyền…!!

 

(6). Không dự trù trường hợp địch có xe tăng

Trận Làng Vei năm 1968 và trận Ben Hét năm 1969 cho thấy tại khu vực Hạ Lào có bố trí lực lượng tăng của CSVN.  Và riêng trận Làng Vei cho thấy 100 khẩu súng chống tăng M.72 (được dùng cho bộ binh) vô hiệu lực.  Thế nhưng đoàn quân VNCH được tung sang Lào mà không có trang bị vũ khí chống tăng…!?

Và cũng vì không có trang bị vũ khí chống tăng cho nên mục “tình hình” của lệnh hành quân Lam Sơn 719 không hề đề cập tới khả năng địch có thể có xe tăng tại Hạ Lào.  Trong khi trên thực tế quân CSVN có tới 1 trung đoàn Tăng ( 88 chiếc ).  Do đó khi xe tăng của CSVN càn tới đâu thì quân VNCH chạy dài tới đó.

(7). Không dự trù trường hợp địch có sư đoàn pháo và loại pháo nòng dài 130 ly

Mục tình hình địch của Lệnh hành quân không đề cập tới việc quân CSVN có đơn vị Pháo binh trên cấp tiểu đoàn hoặc loại pháo hạng nặng.  Trong khi trên thực tế quân CSVN có tới 2 sư đoàn pháo tại Hạ Lào, và có cả pháo nòng dài 130 ly.

Súng đại bác nòng dài 130 ly của CSVN bắn xa tới 27 cây số, trong khi đó súng đại bác 105 ly của VNCH chỉ bắn xa 10 cây số, và súng 155 ly nòng ngắn của VNCH chỉ bắn được 15 cây số.    Do đó mỗi khi bị pháo, các đơn vị pháo binh VNCH tại các căn cứ hỏa lực chỉ biết chịu trận chứ không biết làm gì hơn.  Kết quả là lần lượt các khẩu pháo tại các căn cứ bị hủy diệt…!!

 

(8). Không bảo mật ý đồ hành quân :

 

Ngày 15-12, trước khi khởi sự 1 tháng rưỡi, Thủ tướng Lào công bố cho báo chí rằng Vương Quốc Lào phản đối việc quân đội VNCH hành quân trên đất Lào. Và đến ngày 22-1, tức là trước cuộc hành quân nửa tháng thì Thủ tướng Lào lại công bố rõ ràng hơn, nhưng do Đại sứ Mỹ tại Lào xúi :

 

“Với sự thuyết phục của Tổng thống Nixon (Trong buổi họp ngày 18-1-1971), Ngoại trưởng Rogers lưỡng lự đồng ý.  Sau đó ông chỉ thị cho Đại sứ McMurtrie Godley ở Vạn Tượng cố vấn cho Souvana Phouma lên tiếng về HQLS 719.  Phouma lên tiếng trước dư luận … .. Và cuối cùng, ông hy vọng QLVNCH sẽ… rời đất Lào trong một, hai tuần” ( Nguyễn Kỳ Phong, bài viết “Hành quân Lam Sơn 719, nguồn gốc và khuyết điểm” ).

 

(9) Không cho cố vấn Mỹ hành quân :

 

Cho tới 7 giờ sáng ngày đoàn quân vượt biên giới sang đất Lào thì toàn bộ các cố vấn Mỹ nhận được lệnh ở lại bên này biên giới.  Lâu nay các các cố vấn đi theo các đơn vị hành quân để gọi phi cơ hay pháo binh Mỹ.  Như vậy trên thực tế các đơn vị VNCH hoạt động trên đất địch mà không có sự yểm trợ của phi cơ chiến đấu hay pháo binh.

 

Người lái máy bay thả bom và người bắn pháo là người Mỹ thì bắt buộc người điều chỉnh phi pháo tại mặt trận bắt buộc phải là người Mỹ.  Pháo binh tính toán quay nòng súng và phi cơ tính toán sà xuống mục tiêu trong vòng vài tíc tắc nên không thể chờ thông dịch,  nhiều khi chỉ vấp váp một con số hay ú ớ một vài giây thì có thể bom rơi đạn nổ ngay vào quân ta chứ không vào quân địch.

 

(10). Hành động khó hiểu của Đại Tướng Abrams :

 

Tướng Abrams là người trách nhiệm chỉ huy tổng quát cuộc hành quân.   Thế nhưng trong 1 tuần sau cùng của cuộc chiến, nghĩa là những ngày chiến trận ác liệt nhất, thì ông Tổng chỉ huy lại đi thăm gia đình tại Thái Lan, sau đó trở về lại uống rượu suốt ngày.  Cái gì khiến cho Tướng Abrams đã có hành động không xứng đáng là một ông Tướng tư lệnh ?

Ngoài ra các cuộn băng ghi âm các cuộc họp của MACV (Bộ tư lệnh quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh tại Việt Nam) được đưa ra công chúng nhưng riêng những cuộng băng ghi âm trong hai tuần 14 và 18 có liên quan đến cuộc hành quân sang Lào lại không được đưa ra.  Có cái gì bí ẩn đằng sau các cuộn băng đó?

(11) Câu nói khó hiểu của Tướng Cao Văn Viên :

Trong quyển sách “Cuộc triệt thoái Tây Nguyên 1975” của nhà báo Thiếu tá Phạm Huấn, trang 162, có kể lại một câu nói của tướng Phú với tác giả trong lúc cả hai chờ bay vào Tchepone vào sáng ngày 8-3-1971 : “Tướng Phú tiết lộ với tôi (Huấn) : – Sáng nay chờ tin tức Trung đoàn vào Tchepone, Đại tướng Viên đã nói rằng, nếu hồng phúc nhà tôi (Phú) lớn, chỉ cần 1 người lính của Sư đoàn 1 trở về, tôi đã trở thành …anh hùng” (???!!!).

Tại sao sau khi chiếm được Tchepone thì sẽ không còn người lính nào trở về ?  Và tại sao chỉ cần 1 người trở về thì Tướng Phú trở thành anh hùng ? Câu này chỉ có Tướng Cao Văn Viên mới trả lời được.  Nhưng cho tới sau này, sau 10 năm định cư tại Hoa Kỳ ông vẫn không dám đối mặt với cựu ký giả quân đội Phạm Huấn.  Phạm Huấn đã nhiều lần xin gặp mặt ông để phỏng vấn nhưng lần nào ông cũng từ chối.

(12) Báo chí Mỹ mạt sát quân đội VNCH hèn nhát

Khi cuộc hành quân bị khựng lại vì các pilot Mỹ từ chối bay thì phát ngôn nhân quân đội Mỹ vội vàng đổ cho là tại thời tiết xấu.  Nhưng báo chí Mỹ lại biến thành tin quân đội VNCH hèn nhát.  Còn báo chí Việt Nam thì im thin thít, không dám đưa tin sự thật là pilot Mỹ từ chối bay (sic). Kết quả chỉ làm cho địch lên tinh thần và phe ta xuống tinh thần.  Không ai hiểu nổi thái độ của báo chí Mỹ.

 

 (15) CHÌA KHÒA GIẢI MÃ : B.52 HỦY DIỆT TOÀN BỘ

*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )

 

Chìa khóa để giải mã những điều tưởng chừng như vô lý đã xuất hiện trong ngày 22-3, ngày gần cuối của cuộc chiến, khi mà một phi vụ B.52 đã thả bom vào một vị trí có cả địch lẫn ta khiến cho Tiểu đoàn 4 TQLC/VNCH có 85 chết, 238 bị thương và 100 súng cá nhân bị hủy hoại.  Sự kiện này để lộ ra công thức :  Một khi có bằng chứng quân địch tập trung áp đảo quân ta thì dùng B.52 hủy diệt cả địch lẫn ta để giải quyết chiến trường.

Tự nhiên những khó hiểu đã trở thành dễ hiểu :

(1) Không cần kiểm chứng tin tình báo :

Thảo một lệnh hành quân mà không kiểm chứng tin tình báo, bởi vì chỉ cốt nhữ cho Hà Nội đưa thêm quân vào cho B.52 tiêu diệt chứ không cần biết lực lượng địch tại chỗ nhiều hay ít.

Ý đồ của Nixon và Kissinger là dùng quân VNCH tái dựng một Điện Biên Phủ thứ hai tại Tchepone.  Và một khi quân CSVN tập trung bao vậy Tchepnone thì Mỹ sẽ giải quyết chiến trường giống hệt như kế hoạch giải cứu Điện Biên Phủ mà Ngũ Giác Đài đã dự trù thực hiện vào năm 1954 :

“Ngày 20-3-1954, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp là Thống tướng Ely đã bay sang Hoa Thịnh Đốn cầu viện đồng minh.  … các sĩ quan trong Ngũ Giác Đài soạn thảo cụ thể một kế hoạch tiếp viện cho Điện Biên Phủ, đặt tên là “Kế hoạch Vulture”.

Theo kế hoạch này thì sẽ cứu nguy Điện Biên Phủ theo công thức “Không quân Hoa Kỳ với quân Nhảy dù Pháp”.  Con số phi cơ Mỹ sẽ tham chiến tại Điện Biên Phủ sẽ là 98 oanh tạc cơ và 450 chiến đấu cơ từ Nhật và Phi Luật Tân”.( Trích sách “Bối Cảnh Lịch Sử Chính Trị Việt Nam” của Bùi Anh Trinh, do Làng Văn phát hành, tập thượng, trang 755 ).

Thời đó Mỹ chưa có oanh tạc cơ B.52 nhưng có oanh tạc cơ B.29 là loại phóng pháo cơ khổng lồ, tiền thân của B.52.  Với lực lượng 548 máy bay của Mỹ thì Điện Biên Phủ sẽ bị san thành bình địa, và 5 sư đoàn quân CSVN sẽ không còn một người nào sống sót.

Giờ đây nếu kịch bản Điện Biên Phủ tái diễn thì B.5 sẽ san Tchepnone thành bình địa.  Lúc đó 60.000 quân CSVN lẫn 20.000 quân VNCH đều không còn ai sống sót.  Và một khi cái bẫy B.52 đã sập xuống thì đương nhiên chiến tranh Việt Nam kết thúc vì Hà Nội không còn khả năng theo đuổi chiến tranh.

Hơn nữa, đến lúc đó thì Mỹ có quyền tấn công Hà Nội mà thế giới không thể phản đối bởi vì Hà Nội đã đặt ống dẫn dầu trên đất Lào, công khai xua quân và xe tăng sang sang Lào…!  Lâu nay Hà Nội luôn luôn chối bỏ cáo buộc rằng họ có đưa quân vào Nam Việt, hay Lào, hay Cam Bốt cho nên thế giới phản đối mỗi khi Mỹ cho ném bom Bắc Việt.  Giờ đây Nixon đã có lý do để tấn công Bắc Việt nhằm bảo vệ an ninh cho Miền Nam, Cam Bốt và Lào.

Và một khi chiến tranh Việt Nam kết thúc theo kiểu đó thì Nixon trở thành người hùng của nước Mỹ vì đã chuyển bên thua cuộc từ thời Johnson trở thành bên thắng cuộc.  Cả thế giới sẽ nể phục sức mạnh vô địch của Mỹ cũng như nể phục Nixon.

(2). Không nghĩ tới lực lượng địch là cấp quân đoàn :

 

Bởi vì kịch bản là tái dựng Điện Biên Phủ thứ hai cho nên địch kéo tới càng đông càng tốt, vấn đề là làm sao cho địch chịu kéo tới, chỉ lo địch không còn khả năng kéo tới.  Nhưng nếu như Hà Nội không còn khả năng thì Nixon có quyền cho đóng chốt tại Tchepone, tuyên bố chiến thắng, và an tâm rút hết quân Mỹ về.

(3). Không dự trù trường hợp địch tăng quân :

Nếu địch tăng quân thì Nixon tăng thêm B.52, dĩ nhiên một khi cái bẫy B.52 sập xuống thì miếng mồi nhữ là 2 sư đoàn quân VNCH tại Tchepone cũng không còn.  Bởi vậy Nixon không cần có thêm một lực lượng trừ bị nào, chỉ cần 2 sư đoàn làm mồi nhữ là đủ rồi.

(4) Không có mũi tấn công thứ hai để chia quân địch

Một khi đã tính dụ cho quân CSVN kéo tới Tchepone càng đông càng tốt mà lại đánh vào Bắc vĩ tuyến 17 thì chắc chắn quân CSVN sẽ không kéo tới Hạ Lào đã đành; mà trái lại, có thể quân CSVN từ Hạ Lào kéo về phòng thủ Bắc vĩ tuyến 17.  Lúc đó thì cái bẫy B.52 coi như thất bại.

(5). Không nghĩ tới trường hợp trực thăng tê liệt do súng cao xạ

Theo kịch bản thì miếng mồi nhữ là quân VNCH tại Tchepone mới là đối tượng chính của quân CSVN, còn trực thăng không cho tham gia chiến đấu, chỉ chở quân và tiếp tế cho nên tác giả kịch bản không tính tới chuyện bảo vệ an toàn cho trực thăng.  Tác giả cho rằng trực thăng bay trên cao và ở xa thì súng phòng không không đụng tới.  ( Chứng tỏ tác giả không phải là giới quân sự ).

(6), (7). Không dự trù trường hợp địch có xe tăng và pháo binh cấp sư đoàn

Không cần biết tới lực lượng xe tăng và pháo binh của địch vì đã có B.52 đối phó; trái lại, nếu CSVN đem tăng, kéo pháo chui vào bẫy càng nhiều thì càng hay.

(8). Không bảo mật ý đồ hành quân :

Cố tình tiết lộ kế hoạch hành quân sớm 1 tháng rưỡi để Hà Nội có đủ thì giờ điều thêm quân càng nhiều càng tốt. Thời gian 2 tháng lưu lại Tchepone là thời gian đủ để cho Hà Nội dốc hết lực lượng vào Hạ Lào.  Và khi cái bẫy B.52 sập xuống thì Hà Nội không còn người và súng đạn để theo đuổi chiến tranh.

(9) Không cho cố vấn Mỹ hành quân :

Không cho cố vấn Mỹ hành quân bởi vì B.52 sẽ hủy diệt toàn trận địa, chỉ có người Việt chết với nhau.

(10). Hành động khó hiểu của Đại Tướng Abrams :

Tướng Abrams không muốn đích thân ra lệnh dùng bom B.52 hủy diệt cho nên ông tìm cớ tránh sang Thái Lan và sau đó giả cớ say rượu để lơ đi những quyết định quan trọng đã hẹn trước với Kissinger và Nixon.

Đặc biệt là ông không báo cáo cho Nixon và Kissinger về kế hoạch rút quân của Tướng Thiệu, chỉ báo cáo sau khi quân VNCH đã về hết tới biên giới ( ngày 23-3 ).  Trong khi Kissinger và Nixon đinh ninh quân VNCH sẽ lưu lại Tchepone trong 2 tháng để làm mồi nhữ cho quân CSVN tập trung lại như đã từng tập trung tại Điện Biên Phủ năm 1954.

(11) Câu nói khó hiểu của Tướng Cao Văn Viên :

Tướng Viên nói rằng quân của Tướng Phú về được 1 người thì có nghĩa là đoàn quân không bị B.52 hủy diệt.  Mà nếu không bị B.52 hủy diệt thì sẽ về được nhiều người, như vậy tướng Phú trở thành người hùng chiến thắng cho dù quân Sư đoàn 1 BB trở về không được bao nhiêu.

May mắn là quân của Tướng Phú chẳng những đã có người trở về mà còn trở về nguyên vẹn sư đoàn, chỉ mất Tiểu đoàn 4/1 BB.  Không phải tướng Phú tài giỏi, mà là nhờ cái lệnh “đái một bãi” của Tướng Thiệu, ông ta đã ra lệnh cho Trung đoàn 2 BB tạt qua Tcheopne, chụp một tấm hình với báo chí, xong rồi nhanh chân rút về trước khi cái bẫy với 8 sư đoàn quân CSVN sập xuống.

Nếu quân VNCH trụ lại Tchepone trong thời gian khoảng 2 tháng theo như kế hoạch của Ngũ Giác Đài thì chắc chắn quân CSVN đã khóa chặt đường về và đương nhiên Tchepone trở thành Điện Biên Phủ thứ hai, lúc đó người ta chỉ còn có một cách hay nhất là thả bom nguyên tử như người ta đã từng dự trù thả xuống Điện Biên Phủ năm 1954 hay dự trù thả xuống Khe Sanh năm 1968; hoặc tốt hơn hết là dùng bom rải thảm B.52 hủy diệt toàn trận địa.

Cuối cùng còn có một câu nói của Tướng Lê Nguyên Khang :  Trong 2 ngày cuối của cuộc hành quân Tướng Lê Nguyên Khang có mặt tại Quảng Trị, có một cuộc cải vã to tiếng giữa Tướng Khang và Đại tá cố vấn Mỹ ngay sau vụ B.52 thả bom vào Tiểu đoàn 4 TQLC/VNCH.  Các sĩ quan trong trung tâm hành quân nghe được câu nói của Tướng Khang :

“50 ngàn quân của họ là người Việt Nam, 15 ngàn quân của chúng tôi cũng là người Việt Nam;  tôi là người Việt Nam, tôi không thể làm như vậy được” ( Theo lời kể của Thiếu úy Tô Đình Hiền, sĩ quan trực Trung tâm hành quân của TQLC tại Căn cứ Khe Sanh ).

 

(12) Báo chí Mỹ mạt sát quân đội VNCH hèn nhát

 

Nếu vì không có máy bay tiếp tế mà tướng Thiệu quyết định rút quân về thì mọi chuyện hỏng cả.  Cho nên CIA ( USID ) cho tung tin quân VNCH hèn nhát để Tướng Thiệu không thể rút lui, và cũng để kích quân VNCH vì danh dự mà phải tử chiến với quân CSVN tại Tchepone.

 

 (16) KẾT QUẢ CỦA TRẬN HẠ LÀO

*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )

 

Về tổn thất nhân mạng, phía VNCH có 1.146 chết, 4.326 bị thương, mất tích 246.  Phía Mỹ có 102 phi công hoặc nhân viên phi hành bị chết, 215 bị thương và 53 mất tích, mất 92 trực thăng và 5 máy bay chiến đấu.

Trong khi đó tin tức của phía CSVN do CIA thu thập được tại Vạn Tượng là số thiệt hại của Bắc Việt rất nặng.  Và nguồn tin tình báo tại Hà Nội cho biết con số người chết chính xác là 16.224 người.

Số vũ khí của CSVN bị tịch thu là 1.968 vũ khí cộng đồng, 4.545 vũ khí cá nhân. Phá hủy và tịch thu 128.000 tấn đạn dược, 1.300.000 phuy xăng dầu, phá hủy 8 cây số đường ống dẫn dầu, 100 xe tăng, 291 xe tải. ( Tài liệu của Ngũ Giác Đài do Tướng Nguyễn Duy Hinh công bố ).

Đối với phía Hà Nội

Tuy nhiên con số 16.000 bị chết không nghĩa lý gì đối với Hà Nội, con cái ai chết chứ con cái các ông không chết ( đều đi du học hoặc vào binh chủng phòng không đóng tại Hà Nội ).

Đối với Hà Nội thì lính chết như gà vịt chết, họ không phải tốn tiền bồi thường tử tuất cho gia đình người chết cho nên họ vô tư với con số bộ đội bị chết.  Họ cũng không lo với những bộ đội bị thương, bởi vì người bị thương nặng thì sẽ chết dọc đường trong rừng núi do không có phương tiện cứu chữa cũng như không có thức ăn, nước uống.  Còn những người bị thương chạy về được chỗ an toàn thì coi như là những người mạnh khỏe, lại được đẩy trở vào chiến trường !!

Nhưng Hà Nội thực sự mất hồn đối với số vũ khí và khí tài bị mất mát trong trận chiến vừa qua ( Hằng trăm ngàn tấn đạn dược, hằng triệu phuy xăng dầu ).  Nếu Liên Xô và Trung Quốc nản lòng không tiếp tục viện trợ nữa thì hy vọng chiến thắng của họ trở thành quá xa vời, trong khi đó không biết lấy đâu để trả nợ chiến phí cho các chủ nợ.

Rồi lấy đâu gạo thóc để tiếp tục nuôi dân Miền Bắc trong khi lấy cớ chiến tranh nền sản xuất nông nghiệp của Miền Bắc đã bị tê liệt.  *[Thực ra mùa màng tê liệt là do cái phi lý của chế độ sản xuất Xã hội chủ nghĩa, người rờ tay vào thì có nhưng người thực sự làm thì không ].

Hà Nội sẽ thực sự lâm vào tình trạng vỡ nợ và đói kém như Bắc Hàn hay Cuba ngày nay nếu Washington đánh giá được rằng quân VNCH đã chiến thắng oanh liệt, nghĩa là vừa mới đập tan mọi khả năng xâm chiếm Miền Nam của tập đoàn lãnh đạo Hà Nội.

Chiến thắng được cố tình xem như chiến bại

Tài liệu lưu trữ của Đại sứ Bunker do Stephen Young phổ biến :

“Ngày 9-3 Thiệu tuyên bố kết thúc cuộc hành quân Lam Sơn.  Phải nói rằng, chưa bao giờ có cuộc thắng lợi to lớn như cuộc hành quân này…( Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 407 ).

“Sau cuộc hành quân Lam Sơn 719, trong suốt năm 1971 địch quân hoàn toàn tê liệt và không có một cuộc tấn công quan trọng nào xảy ra tại Miền Nam Việt Nam.  Chẳng những thế, lúc này Bắc Việt chỉ lo tự vệ trước những cuộc hành quân do phía Miền Nam Việt Nam thực hiện tại Cam Bốt và Lào”.( Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng, trang 410 ).

Nhưng tài liệu của Đại sứ Bunker cũng cho thấy Washington không thừa nhận chiến công của quân đội VNCH :

 “Giới truyền thông báo chí theo dõi tin tức cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã lừa đảo dân chúng bằng cách tường thuật quân đội Miền Nam Việt Nam như kẻ bị đánh bại…

 

Ngay cả Tòa Bạch Ốc cũng tỏ ra khốn đốn trong suốt cuộc hành quân này diễn ra.  Mặc dầu Bunker luôn luôn cung cấp và liên lạc với Kissinger để thông báo tình hình hành quân đang lạc quan nhưng ngay từ đầu, Hoa Thịnh Đốn cũng thiếu tin tưởng và xem việc quân đội Miền Nam rút quân là một sự thất bại”. ( Stephen Young, Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 410 ).

Mãi về sau này Bunker vẫn không hiểu nổi thái độ của Washigton trong khi người tổng chỉ huy trận đánh là Tướng Abrams đã liên tục báo tin thành công của chiến dịch Lam Sơn 719 cho Bunker, và Bunker liên tục báo về Washington, thế nhưng Washington cố tình không công nhận các báo cáo của Buker để một hai cáo buộc Thiệu đã để thua tại Hạ Lào.

Tiếc là hồi ký của Tướng Haig đã ra đời quá trễ cho nên Bunker chết trước khi biết được sự thực rằng chính Nixon và Kisinger mới là những nhà thiết kế của cuộc hành quân.  Nhưng theo thiết kế của Nixon thì quân VNCH phải đóng chốt tại Tchepone khoảng hai tháng để nhử cho quân CSVN tập trung lại chung quanh Tchepone như đã từng tập trung tại Điện Biên Phủ.

Mưu đồ của Nixon và Kissinger là đợi sau khi quân CSVN tập trung hết xung quanh Tchepone thì B.52 sẽ hủy diệt toàn trận địa.  Vì vậy mà Nixon và Kissinger đã rung đùi khi xem trên báo thấy hình ảnh Tướng Phạm Văn Phú đứng chụp hình với các phóng viên chiến trường ngay trong thành phố Tchepone đổ nát vào ngày 8-3 năm 1971.

Trong cơn đắc chí Nixon và Kissinger hoàn toàn không ngờ là chỉ qua ngày hôm sau Thiệu đã cho lệnh rút quân khỏi Tchepone đã đành mà còn rút khỏi Hạ Lào, chấm dứt cuộc hành quân.

*[ Lệnh rút lui của Tướng Thiệu không trái với lệnh hành quân của Ngũ Giác Đài bởi vì thời gian quân VNCH lưu lại Tchepone dự trù là 2 tháng nhưng sẽ do phía VNCH tùy tình hình quyết định.  Trong trường hợp không có trực thăng tiếp tế thì Tướng Thiệu bắt buộc phải cho rút sớm chứ không thể nào làm khác hơn.  Có điều không ai ngờ là ông ra lệnh chỉ cần vào Tchepone đái một bãi rồi rút ].

Mãi đến ngày 16-3 phía VNCH mới xin trực thăng của Mỹ để di tản Tiểu đoàn 1/4 Bộ binh thì Abrams lờ mờ hiểu được kế hoạch rút quân của Tướng Thiệu nhưng ông giả vờ không biết và bay sang Thái Lan thăm vợ.  Đúng 1 tuần sau ông trở về và giả cớ uống rượu từ trưa tới tối để khỏi phải nghe báo cáo về diễn tiến rút quân của VNCH.

Nixon và Kissinger hoàn toàn thất vọng

Đến ngày 23-3-1971, khi B.52 bắt đầu thả bom hủy diệt quân CSVN lẫn Tiểu đoàn 4 TQLC/ VNCH  thì Kissinger mới biết được là tất cả các cánh quân của Sư đoàn 1 BB, Sư đoàn Dù và Lữ đoàn 1 Thiết kỵ đã về bên này biên giới, chỉ còn 1 Lữ đoàn TQLC đang cách biên giới 5 cây số, cuộc hành quân sắp hoàn tất.

Biết được tin này Kissinger chạy vào Bạch Ốc đòi Nixon cách chức Abrams.  Nixon ra lệnh cho Chuẩn tướng Haig ( phụ tá của Kissinger ) ngày mai sang VN thay thế cho Đại tướng Abrams.  Hồi ký của Haig cho biết ông đã thoái thác và khuyên Nixon bình tỉnh lại, nhờ vậy Nixon mới tha cho Abrams nhưng dứt khoát không công nhận kết quả chiến thắng của trận Hạ Lào.

Trong khi đó thì CIA đã lỡ thuê báo chí tung tin quân đội VNCH hèn nhát không dám tử chiến với quân CSVN.  Nay nhân dịp rút lui của VNCH báo chí Mỹ bèn kết luận là VNCH thua trận.  Đối với chuyện này, trong cuộc trả lời phỏng vấn cho báo Spiegel của Đức vào năm 1979, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho biết :

“Ba ngày sau khi mở cuộc hành quân, Mỹ đã tổn thất nhiều phi công trực thăng, và nếu không có không lực và hỏa lực yểm trợ thì họ không chịu tiếp tục cất cánh để di tản thương binh kịp thời và trọn vẹn!  Đó là một vấn đề nan giải cho quân mình…”

“Ông Thiệu cố tránh không đổ tội cho người Mỹ. … sự thật là một số phi công trực thăng Mỹ đã thiếu tinh thần chiến đấu trong cuộc hành quân đó”.( Trả lời phỏng vấn cho báo Der Spiegel, Đức, ngày 1-2-1979. Bản dịch của Cung Thúc Tiến ).

Có lẽ cho tới những ngày cuối đời ông Thiệu cũng không thấy ra sự thực là lúc đó Nixon và Kissinger muốn dùng báo chí Mỹ kích cho quân đội VNCH phải tử chiến để dụ địch tập trung nhiều hơn nữa.  Vì tự ái dân tộc mà các chiến binh VNCH sẽ quyết tâm tử chiến để chứng minh quân đội VNCH không hèn nhát.  Và quan trọng nhất là không cho phép Tướng Thiệu viện lý do không có trực thăng mà ra lệnh rút lui, hễ rút lui là hèn nhát…!!

Nếu ngày đó quân VNCH trụ lại Tchepone trong thời gian khoảng từ 1 đến 2 tháng theo như mong đợi của Nixon thì chắc chắn quân CSVN sẽ khóa chặt đường về và đương nhiên Tchepone trở thành Điện Biên Phủ thứ hai, lúc đó người ta chỉ còn có một cách hay nhất là thả bom nguyên tử như người ta đã từng dự trù thả xuống Điện Biên Phủ năm 1954 hay dự trù thả xuống Khe Sanh năm 1968; hoặc tốt hơn hết là dùng bom rải thảm B.52 hủy diệt toàn trận địa.

 

Cũng may là Tướng Thiệu đã giải quyết vấn đề rất kịp lúc.  Phải nói rằng cả đoàn quân 17 ngàn người đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc mà không hay.  Không chết vì 8 sư đoàn quân CSVN thì cũng chết vì bom B.52.

Nhưng không ai lường được sự ác nghiệt của số phận.  Nếu thuở đó 60 ngàn quân CSVN chết cùng với 17 ngàn quân VNCH thì chiến tranh đã ngã ngũ ngay từ ngày đó, không đến nỗi quân CSVN phải chết thêm 724 ngàn người và quân VNCH chết thêm 100 ngàn người (sic).  Và Mỹ không đến nỗi mang tiếng thua trận….!!

 

(17) TƯỚNG CREIGHTON ABRAMS

*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )

Tướng Creighton Abrams và quân đội VNCH

Nói tới chiến tranh Việt Nam người ta thường nói đến Tướng Westmoreland trong thời kỳ 1965-1968 với uy quyền tuyệt đối của một ông Tổng tư lệnh quân lực Đồng Minh tại chiến trường Việt Nam.  Ít có ai nhắc đến người bạn cùng khóa võ bị của Tướng Westmoreland là Tướng Abrams, người thay thế Westmoreland từ 1968 đến 1972.

Sở dĩ người ta không nhắc đến Abrams bởi vì thời gian ông thay thế Westmoreland cũng là thời gian quân đội Mỹ rút về nước…, cho nên nhiệm vụ của ông chỉ là thay Westmoreland cai quản lính Mỹ tại các trại lính ở thành phố để chờ ngày về nước, và phải giảm hết mức số thương vong của quân đội Mỹ.  Nhiệm vụ đó không có gì đáng kể đối với một ông Đại tướng của quân đội Mỹ.

Tuy nhiên có một nhà nghiên cứu lịch sử chính trị Việt Nam là Nguyễn Kỳ Phong đã chú ý nhiều tới tướng Abrams;  không phải chú ý tới chiến thuật chiến lược của ông, mà chú ý tới hoàn cảnh của một ông tướng chỉ huy 500 ngàn quân Mỹ trong kế hoạch rút quân, hay nói thẳng ra là chỉ huy 500 ngàn quân tháo chạy khỏi Việt Nam.

Dĩ nhiên chỉ huy một đội quân tháo chạy thì không có gì đáng để nhắc lại trong lịch sử.  Nhưng Nguyễn Kỳ Phong đã thấy ngay sự bất công của dư luận đối với tài năng và đạo đức của Tướng Abrams.  Nhất là hồi ký của Kissinger và tài liệu mật của Tòa Bạch Ốc được giải mật cho thấy Abrams có vẻ như là một tay nghiện rượu vô trách nhiệm.

Nguyễn Kỳ Phong đã quan sát tật uống rượu của Abrams qua nhận xét của Tướng  Bruce Palmer, Phó tư lệnh của Abrams :

“Những buổi chiều làm việc, Abrams trở về căn nhà tiền chế là một Trailer, đặt bên cạnh Bộ tư lệnh MACV nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất.  Ở đó ông nghe nhạc thật lớn và uống rượu cho tới khuya.  Ông giải thích cho một người bạn thân đến thăm là ông giải trí như vậy để làm dịu cơn nhức đầu vì hàng ngày đọc những chỉ thị và quân lệnh ngược ngạo mà ông phải nhận từ Hoa Thịnh Đốn về cuộc chiến mà ông phải chỉ huy” ( Nguyễn Kỳ Phong trích từ Bruce Palmer, The 25 Year War, trang 133, 135 ).

Trong trận Mùa hè đỏ lửa 1972, Nixon đã điều tất cả phi cơ B.52 tập trung thả bom Bắc Việt nhưng Abrams đã ra lệnh cho một số B.52 thả bom cứu nguy cho Sư đoàn 23 tại Kontum.  Nixon bảo rằng ông ta cần B.52 để bắt Hà Nội biết điều hơn trong cuộc đàm phán, nhưng Abrams trả lời rằng cuộc đàm phán sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu như để mất Kontum. ( Nguyễn Kỳ Phong trích từ Sorley, Thunderbolt, trang 326 ).

Nguyễn Kỳ Phong cũng trích thuật những đoạn từ trong băng ghi âm các cuộc họp của MACV được giải mã :

“Ngay từ buổi họp đầu tiên sau khi nhậm chức, Abrams quan tâm đến những cơ cấu huận luyện và vũ khí của quân đội VNCH.  Ông nói nếu chúng ta ( người Mỹ ) muốn quân đội VNCH vững mạnh đề chống lại Cọng sản thì ít ra cũng phải trang bị cho họ đúng mức” ( Nghĩa là có hỏa lực tương đương như bộ binh Hoa Kỳ ).

“Trong những buổi họp Abrams thường xuyên nhắc đến tên những đơn vị và sĩ quan của quân đội VNCH cho sĩ quan tham mưu của ông.  Vì Abrams thăm viếng các đơn vị ngoài mặt trận thường xuyên, ông có kiến thức tường tận về chuyện xảy ra ngoài chiến trường.

Đôi khi ông tranh luận về sự giỏi dở của sĩ quan VNCH với các thuộc tướng của ông mỗi khi những bình phẩm của họ ngược lại với nhận xét của ông.  Và khi nói về người dân Miền Nam Việt Nam, về sự hy sinh của họ, Abrams đã không ngần ngại nói trước mặt các sĩ quan cao cấp là Chính phủ Hoa Kỳ không bao giờ hiểu được những hy sinh và đau khổ mà người dân và chiến sĩ Miền Nam đang chịu đựng trong cuộc chiến”

*( Nguyễn Kỳ Phong trích từ Abrams Tapes của Lewis Sorley; đoạn băng ghi âm tướng Abrams ca ngợi trước mặt thuộc cấp về  tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh Vùng 4 Chiến thuật;  và Tướng Nguyễn Bá Liên, Tư lệnh Biệt khu 24 thuộc Quân khu 2 ) .

Một ghi nhận khác của Sorley về Tướng Abrams sau trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 :

“Về sau nhiều người chỉ trích nói rằng Nam Quân đã đẩy lui được Bắc Quân nhờ có không yểm của Mỹ. Tướng Abrams đã phản ứng mạnh mẽ và nói với các cấp chỉ huy của ông rằng, “Tôi không tin là không có không trợ mọi việc đã giữ vững được. Tuy nhiên phải có những người Việt Nam đứng thẳng chiến đấu. Nếu họ không dũng cảm làm như vậy thì đến mười lần không quân cũng không chận đứng được bọn cộng sản” ( Bài tham luận “Reassessing ARVN”, Trần Đỗ Cung dịch )

 

Abrams chết năm 60 tuổi vì bệnh ung thư, ông có 3 người con trai nối nghiệp cha, một Chuẩn tướng, một Đại tướng và một Đại tá.  Có một lần có người nói : “Lẽ ra Đại tướng Abrams xứng đáng hơn cho một cuộc chiến khác đàng hoàng hơn”.  Người con cả của Abrams trả lời : “Ba tôi không nghĩ như vậy, ba tôi nghĩ rằng chính người dân Miền Nam Việt Nam lẽ ra phải được xứng đáng hơn trong một cuộc chiến đàng hoàng hơn” (sic).

Tướng Abrams và trận Hạ Lào

Tướng Abrams là Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh tại Miền Nam Việt Nam cho nên là người chỉ huy tổng quát cuộc hành quân Hạ Lào.  Dưới ông có có 2 vị tướng chỉ huy trực tiếp:  Đó là Tướng Hoàng Xuân Lãm, chỉ huy lực lượng hành quân của VNCH trên đất Lào. Và tướng Sutherland, chỉ huy Không quân, Pháo binh Mỹ trên đất Lào và bộ binh Mỹ trên đất VN.

Thế nhưng trong 1 tuần sau cùng của cuộc chiến, nghĩa là những ngày chiến trận ác liệt nhất, thì ông Tổng chỉ huy Abrams lại đi thăm gia đình tại Thái Lan, sau đó trở về lại uống rượu suốt ngày.  Trong khi mọi tài liệu quân sử của Mỹ lẫn VNCH đều ghi nhận Tướng Abrams không phải là một con người bê bối.  Trái lại lịch sử quân đội Mỹ cho thấy ông là một vị tướng tài ba và nhân hậu, đặc biệt ông rất nhân hậu với quân đội và nhân dân Việt Nam Cọng Hòa.

Cái gì khiến cho Tướng Abrams đã có hành động không xứng đáng là một ông Tướng tư lệnh trong trận Hạ Lào ?

Sau này hồi ký của Tướng Westmoreland, cấp chỉ huy của Abrams tại Ngũ Giác Đài, bào chữa cho Abrams :

“Nhiều sĩ quan Việt Nam không đủ sức cáng đáng khiến cho Tổng thống Thiệu phải can thiệp và tự mình ra lệnh cho các đơn vị, xuống đến cấp Trung đoàn.  Nhiều khi các lệnh này ban ra mà Abrams chẳng hề hay biết”.(!?)

Tuy nhiên đó chỉ là cái cách Abrams phủi trách nhiệm trước Westmoreland *( Xếp trực tiếp của Abrams ).  Còn sự thực là Abrams thực tình không muốn biết phía VNCH hành động ra sao, bởi vì ông không muốn đích thân ra lệnh dùng bom B.52 hủy diệt quân VNCH.   Cho nên ông tìm cớ tránh sang Thái Lan và sau đó giả cớ say rượu để lơ đi những quyết định quan trọng đã hẹn trước với Kissinger và Nixon.

Abrams có quyền làm như không biết bởi vì theo đúng hệ thống tổ chức của quân đội thì Tướng Cao Văn Viên phải báo cáo cho Tướng Abrams về kế hoạch hành quân của Tướng Lãm đã thay đổi, nhưng vì Tướng Viên giận Tướng Thiệu đã làm việc trực tiếp với Tướng Lãm cho nên ông nín thinh để đổ thừa cho Tướng Thiệu mà không chịu trách nhiệm trước tướng Abrams.

Các cuộn băng ghi âm tại tòa Bạch Ốc được giải mật cho thấy đến ngày 24-3-1971 Kissinger mới phát hiện quân VNCH đã rút về hết, và cũng phát hiện Abrams đã đi Băng Cốc 1 tuần nay…!… So lại với tài liệu của Đại sứ Bunker do Stephen Young phổ biến thì trước đó khoảng 1 tuần, vào ngày 19-3-1971 Tổng thông Thiệu thông báo cho Abrams và Bunker hay rằng quân VNCH đã hoàn tất nhiệm vụ và bắt đầu giai đoạn rút quân. *( Trong khi sự thực quân VNCH đã rút từ ngày 8-3-1971 ).

Như vậy có nghĩa là sau khi nhận được thông báo của Tướng Thiệu thì Abrams không thông báo lại cho Washington mà lại bay đi Băng Cốc thăm vợ và sau đó trở về uống rượu say khướt ngày đêm.  Vì vậy khi Kissinger và Nixon phát hiện ra là quân VNCH đã thoát khỏi Tchepone thì cả hai ông đều nổi điên và quyết định cách chức Abrams.

Hồi ký của Chuẩn tướng Haig cho biết khi Nixon ra lệnh ông sang VN thay Đại tướng Abrams thì ông “lấy lời hợp lý khuyên giải Nixon”.  Nhưng sự thực nếu Abrams cũng nổi xung đưa vụ này ra ánh sáng thì Haig ở tù mọt gông bởi vì chính ông ta là người thảo ra cái lệnh hành quân giết người đó, một lệnh hành quân hoàn toàn trái với sách vở quân sự.

*[ Tuy Haig có viết rằng lệnh hành quân xuất phát từ Ngũ Giác Đài, nhưng hồi ký của Kissinger cho thấy vào ngày 23-2-1971, khi cuộc hành quân bị khựng lại vì pilot Mỹ không chịu bay hành quân thì Kissinger mới “hỏi ý kiến” của Westmoreland, ông xếp của Ngũ Giác Đài, thì ông này đưa ra một dự đoán đen tối bởi vì muốn chiếm và giữ Tchepone thì ít nhất phải có 4 sư đoàn. ( Kissinger, The White House Years, trang 1059 ) ].

Cho tới nay, mặc dầu các cuộn băng ghi âm tại MACV ( Abrams Tapes ) đã được đưa ra công chúng nhưng riêng những cuộng băng ghi âm trong hai tuần 14 và 18 có liên quan đến cuộc hành quân sang Lào lại không được đưa ra…?. Có cái gì bí ẩn đằng sau các cuộng băng đó?

Ai cũng đoán ra là trong 2 cuộn băng đó có liên quan tới những lệnh quân sự tối mật mà tính cách tàn nhẫn của nó có thể cáo buộc Nixon tội “diệt chủng, chống lại nhân loại” *( Mưu toan đưa quân của mình đi làm mồi nhử, rồi giết luôn cả quân mình để đạt được ý đồ chiến thuật.  Đây là một tội ác dã man mà từ ngàn xưa không có quân đội nào chấp nhận )…!!.  Rốt cuộc tuy tức muốn điên nhưng Nixon không thể làm gì được bởi vì Abrams có quyền đưa nội vụ ra ánh sáng, cho nên Nixon không dại.

 

(18) NỖI ĐAU CỦA 2 ÔNG TƯỚNG

*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )

 

Tổng tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu

Linh tính đã cho Tướng Thiệu cảm thấy có rất nhiều phi lý ngay sau khi cuộc hành quân khai diễn, nhất là trong ngày 28-2-1971 nghị sĩ Trần Văn Hương đã công khai lên tiếng báo động về việc các phi công Mỹ không chịu bay hành quân thì báo chí Mỹ và Washington liên miệng chỉ trích quân đội VNCH hèn nhát ( Tài liệu của Buker).

Cho tới sau 1975 cựu Tổng thống Thiệu vẫn không thấy được mưu thâm của Kissinger, ông nói với Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng :

“ Nếu như Thiệu đã chậm chạp trong quyết định đổ thêm quân, thì ông rất mau lẹ đã nhận ra được rằng ông đã bị sa bẫy.  Ông ra lệnh cho Tướng Hoàng Xuân Lãm, vị chỉ huy cuộc hành quân, tiến chiếm Tchepone nhưng không cố thủ ở đó vì ông sợ một vụ Điện Biên Phủ thứ hai : Lực lượng của mình bị cầm chân tại một tiền đồn bất khả bảo vệ và không có đường tiếp tế, ông đã ra lệnh cho Tướng Lãm : “Anh vô đó đái một bãi rồi ra ngay cho tôi” ( Nguyễn Tiến Hưng, Bí Mật Dinh Độc Lập, trang 75 ).

Tướng Thiệu đã biến đổi hoàn toàn cục diện, phá vỡ mọi toan tính đen tối bằng một quyết định rất đơn giản : “đái một bãi”.  Mặc dầu chỉ cần đái một bãi nhưng vẫn thành công mà không ai phiền trách gì được.  Thực tế của chiến trường cho thấy chỉ cần “đái chậm một chút” là quân CSVN đã khóa chặt đường về; mà một khi đã hết đường về thì chỉ còn bom B.52.

Sau này hồi ký của Tướng Westmoreland, cấp chỉ huy của Abrams tại Ngũ Giác Đài, bào chữa cho Abrams và Cao Văn Viên :

“Nhiều sĩ quan Việt Nam không đủ sức cáng đáng khiến cho Tổng thống Thiệu phải can thiệp và tự mình ra lệnh cho các đơn vị, xuống đến cấp Trung đoàn.  Nhiều khi các lệnh này ban ra mà Abrams chẳng hề hay biết”.(!?)

Ý của Westmoreland là các tướng Hoàng Xuân Lãm, Dư Quốc Đống, Lê Nguyên Khang không biết chỉ huy cho nên Thiệu phải đứng ra chỉ huy tới cấp Trung đoàn.  Và vì Thiệu dành chỉ huy cho nên Cao Văn Viên và Abrams bị cho ra rìa.  Nhưng bên trong nội bộ QLVNCH không đúng như vậy, Tướng Thiệu chỉ ra lệnh cho một mình Tướng Lãm.

 

Sở dĩ Tướng Thiệu phải can thiệp là vì tướng Lê Nguyên Khang và Tướng Dư Quốc Đống không chịu nghe lệnh Tướng Lãm vì không phục.  Trong khi đó cấp trên của cả 3 tướng là Tướng Cao Văn Viên thì lại bị cả 3 tướng không phục *( Vì ông xuất thân từ trường Hạ Sĩ Quan, chưa bao giờ theo học trường sĩ quan. Từ Trung sĩ lên đến Đại Tướng là nhờ phe đảng chứ không nhờ chiến trận ).

Tướng Hoàng Xuân Lãm

Trong khi báo chí Mỹ nguyền rủa binh lính VNCH chết nhát trong trận Hạ Lào thì báo chí VNCH lại thi nhau đổ tội cho tài chỉ huy yếu kém của Tướng Hoàng Xuân Lãm…(!?).   Đa số các nhà báo không ưa Tướng Lãm vì nghĩ rằng Tướng Lãm là phe đảng của Tướng Thiệu nên mới được làm tư lệnh Quân khu 1.

Tuy nhiên rà lại biến cố “Biến động Miền Trung” năm 1966 thì tướng Lãm được Hội đồng tướng lãnh giao cho chức Tư lệnh Quân khu 1 bởi vì lúc bấy giờ ông là ông tướng duy nhất đang chỉ huy một sư đoàn Bộ binh tại Miền Trung, các ông tướng khác đều bị cách chức vì ngã theo phe làm loạn của Thượng tọa Thích Trí Quang *( Thi, Đính, Nhuận, Cao, Có, Chuân ).  Như vậy chức Tư lệnh Quân khu 1 của Tướng Lãm là do tình thế đưa đẩy chứ không phải do phe đảng.

Nhưng đến năm 1967 có cuộc tranh nhau ra ứng cử Tổng thống giữa Tướng Thiệu và Tướng Kỳ.  Theo hồi ký của Tướng Lâm Quang Thi thì trong cuộc họp quyết định của Hội đồng tướng lãnh thì Tướng Lãm quyết liệt chống đối Nguyễn Cao Kỳ làm Tổng thống, thậm chí ông tháo lon trên cổ áo và tuyên bố sẽ ra khỏi quân đội nếu Hội đồng tướng lãnh đề cử Tướng Kỳ làm Tổng thống.  Sở dĩ ông làm như vậy bởi vì ông là một ông tướng chính trị ( Đại Việt Miền Trung ), ông thấy rõ nếu Kỳ làm Tổng thống thì mọi chuyện hỏng cả.

Cũng trong cuộc họp đó Tướng Lê Nguyên Khang và Tướng Nguyễn Đức Thắng cực lực ủng hộ Tướng Kỳ ( Cùng khóa 1 Nam Định ).  Ngoài ra trong cuộc họp đó Tướng Dư Quốc Đống không thích thái độ quá đáng của Tướng Lãm, ông cho rằng như vậy là trái với khí phách của người làm tướng.

Tuy trận Hạ Lào là một chứng minh tài năng chỉ huy xuất chúng của Tướng Lãm nhưng Tướng Thiệu không dám ghi công cho ông bởi vì tướng Cao Văn Viên không công nhận chiến công của Tướng Lãm, trái lại ông cáo buộc Tướng Lãm đã vượt hệ thống quân giai để làm việc thẳng với Tướng Thiệu.

Nhưng điều này là oan cho Tướng Lãm, ông đã thực sự mắc nghẹn khi tướng Lê Nguyên Khang, tư lệnh TQLC, không chịu ra Quảng Trị chỉ huy hành quân dưới quyền của Tướng Lãm.  Còn Tướng Dư Quốc Đống có ra nhưng ngay trong mấy ngày đầu đã bùng nổ xung khắc với tướng Lãm trong khi tướng Cao Văn Viên không giải quyết được.  Cho nên Tướng Thiệu phải đích thân ra Khe Sanh để xác định quyền chỉ huy của Tướng Lãm.

Có thể nói kế hoạch dùng Sư đoàn 1 Bộ binh tiến vào Tchepone của Tướng Lãm còn hay hơn kế hoạch “đái một bãi” của Tướng Thiệu.  Thuở đó các pilot Mỹ không chịu bay bởi vì quân CSVN đã thiết trí súng phòng không dày đặc từ A Lưới đến Tchepone.  Các pilot Mỹ có lý của họ và họ có quyền từ chối bay.  Tình hình có vẻ như bế tắc đối với Tướng Abrams là người chỉ huy tổng quát Liên quân Việt-Mỹ.

Thế nhưng Tướng Lãm đã gỡ thế bí cho Abrams bằng cách mở một hành lang trực thăng vận sâu về phía Nam sông Tchepone (Dọc theo đường 914), là vùng không có bố trí lực lượng phòng không.  Tuyệt vời hơn nữa là không đổ quân xuống tại Tchepone hay tại phía Nam Tchepone, mà lại đổ xuống cứ điểm Hope ở phía Bắc Tchepone rồi từ đó mới hành quân tạt về Tchepone để tập trung tại khu vực phía Nam Tchepone là khu vực an toàn đối với quân VNCH..

Và hay hơn hết là không dùng lực lượng trừ bị TQLC để tiến vào Tchepone như kế hoạch hành quân đã định sẵn, mà lại dùng TQLC trám chỗ cho Sư đoàn 1 Bộ binh để cho sư đoàn Bộ binh có thể tiến tới Chepone với một đoạn hành trình ngắn hơn.

Rốt cuộc Sư đoàn 1 Bộ binh trở về nguyên vẹn mà vẫn thành công cho nên Chuẩn tướng Phạm Văn Phú được ghi công đầu và được vinh thăng Thiếu tướng, Đại tá Tư lệnh phó Vũ Văn Giai được vinh thăng Chuẩn tướng.  Trong khi công đầu đáng lẽ là của tướng Lãm, ông rất xứng đáng được vinh thăng Đại tướng, nhưng đáng tiếc là ông đã phạm lỗi qua mặt Tướng Cao Văn Viên, một cái lỗi mà Tướng Viên không thể nào bỏ qua.

Thêm nữa, khi trận chiến vừa kết thúc, ngày 14-4-1971, Tướng Kỳ họp báo quy trách nhiệm thua trận Hạ Lào cho Tướng Thiệu….! Căn cứ vào tuyên bố của Tướng Kỳ, cả thế giới tin rằng Quân VNCH đã đại bại tại Hạ Lào.  Trong khi đó Tổng thống Thiệu không phản ứng đối với lời tuyên bố của Tướng Kỳ bởi sự phân hóa trong hàng ngũ lãnh đạo VNCH đã đi tới mấp mé của sự tranh giành quyền lực.

BÙI ANH TRINH

 

Chú thích của người viết : Tập tài liệu “Trận Hạ Lào 1971” trên đây đã viết xong vào năm 2010 ( Nằm trong sách “Giải Mã Những Bí Ẩn Của Chiến Tranh Việt Nam” ) nhưng chỉ chuyền đọc trong giới nghiên cứu và trích đăng nhiều đoạn trên net chứ không thể in thành sách;  bởi vì thời đó, 2010, Mỹ đang còn thuyết phục CSVN chuyển hướng ngã theo Mỹ để chống Trung Cọng;  cho nên không thể để cho tập tài liệu ( Vạch trần âm mưu của Mỹ trong chiến tranh VN ) làm ảnh hưởng tới bước tiến chiến lược mà chính phủ Mỹ đang thực hiện.

 

“Trận Hạ Lào 1971” là đoạn mắc nghẹn nhất trong tập tài liệu.  Nhưng giờ đây khi CSVN đã hoàn toàn ngã về phía Mỹ để chống lại TC, và ông Trump đã cho lật ngữa bài, thì tập tài liệu được đưa ra nhằm làm sáng tỏ những uẩn khúc về chiến tranh Việt Nam.

 

Trước đây người viết cũng đã lần lượt đưa lên net nhiều bí ẩn “mắc nghẹn” về chiến tranh VN như sự thật về trận Mậu Thân 1986 ( “Trận Mậu Thân 1968” ), hay sự thật về cuộc lui binh trên Liên tỉnh lộ 7 ( “Các trận đánh năm 1975” ), sự thật về việc mất Hoàng Sa 1974 ( “Nguồn gốc chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa”, “Ai ra lệnh khai hỏa trong trận Hoàng Sa 1974 ?”, “Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc” )…

 

Ngày nay hầu hết những bí ẩn đen tối trong chiến tranh Việt Nam đã được Mỹ cho giải mã gần hết nhưng chưa có ai tổng hợp lại bởi vì tình thế bang giao giữa Mỹ và CSVN chưa cho phép.  Ngay cả chuyện tại sao 500.000 lính Mỹ đến chiến đấu tại Việt Nam  thì cho tới nay con cháu Mỹ cũng chưa được biết.

 

 

 (19) MƯU ĐỒ CỦA NIXON BỊ THIỆU PHÁ HỎNG

*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )

 

Bùi Anh Trinh

 

Mưu đồ của Nixon tại Hạ Lào

 

Năm 1968 Nixon đắc cử chức Tổng thống trong tình thế Mỹ chấp nhận thua cuộc.  Tổng thống Johson tuyên bố ngưng ném bom bắc Việt vô điều kiện để xin Hà Nội đình chiến.  Tuy nhiên Nixon không chấp nhận tư thế chủ bại của Johnson, một mặt ông ta giả vờ tiếp tục con đường đàm phán, nhưng mặt khác ông ta tìm cách chuyển thành tư thế đàm phán trong thế mạnh.

 

Sau khi lên làm Tổng thống chưa đầy 2 tháng, Nixon ra lệnh lén dùng B.52 thả bom bên kia biên giới Miên để thanh toán hang ổ của Trung ương cục Miền Nam.  Chiến dịch thả bom lén không phải chỉ một ngày hay 2 bữa, mà  thực tế nó kéo dài đến 14 tháng.

 

Nhưng mới thả bom lén được 4 tháng thì Nixon phát giác Sihanouk cũng lén cho  Hà Nội và Bắc Kinh dùng cảng Sihanoukville để nhập vũ khí và quân dụng cho quân Cọng sản Miền Nam.  Đến lúc này thì Nixon đã có đủ bằng cớ để tấn công Hà Nội lẫn Cam Bốt nhằm bảo vệ Miền Nam VN bởi vì lâu nay Hà Nội cứ la làng là họ không hề can thiệp quân sự tại Miền Nam.

 

Đến tháng 9 năm 1969 Nixon quyết định dùng không lực tấn công Hà Nội và Cam bốt cùng một lúc trong một thời gian dài, cho tới khi nào họ chịu đầu hàng mới thôi. Tuy nhiên toan tính này không thành do có sự phản đối của Bộ trưởng Ngoại giao lẫn Bộ trưởng Quốc phòng vào giờ chót ( Hồi ký Mixon ).

 

Nixon đổi sang kế hoạch hỗ trợ Lon Nol lật đổ Sihanouk vào tháng 4 năm 1970 và xua 48.300 quân Việt – Mỹ tấn công sang Cam Bốt, đuổi quân CSVN còn cách thủ đô Nam Vang 75 cây số…!  Sự thành công dễ dàng đã khiến Nixon tính tới chuyện rấn thêm một bước nữa là cho đánh sang Lào.

 

Trong khi thu thập ý kiến đánh sang Lào, có rất nhiều chuyên gia quân sự đã đoan chắc với Nixon rằng Hà Nội sẽ mở một trận Điện Biên Phủ thứ hai nếu quân Mỹ tiến sang Lào. Điều này khích lệ Nixon nghĩ ra một cái bẫy :  Dụ cho toàn bộ quân CSVN tập trung tới Hạ Lào và dùng B.52 tiêu diệt.

 

Nếu thành công thì đương nhiên chiến tranh Việt Nam kết thúc vì Hà Nội không còn người và vũ khí để theo đuổi chiến tranh. Lúc đó Nixon sẽ trở thành người hùng của nước Mỹ vì đã chuyển tình thế thua cuộc của Johnson trở thành thắng cuộc. Cả thế giới sẽ nể phục Nixon cũng như nể phục sức mạnh của B.52.

 

Thực hiện kế hoạch

 

Năm 1970, ngày 7-11, Tướng Abrams và đại sứ Bunker đến gặp Tổng thống Thiệu và trình bày trong 80 phút về kế hoạch đánh sang Lào để cắt đường mòn Hồ Chí Minh.  Tổng thống Thiệu đồng ý tiến hành kế hoạch.

 

Năm 1971, ngày 11-1, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird và Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ là Đô đốc Moorer đến Sài Gòn để bàn với Tổng thống Thiệu về kế hoạch đánh sang Lào.

 

Ngày 18-1, Một buổi họp tại Tòa Bạch Ốc để quyết định về các chi tiết hành quân, gồm có Tổng thống Nixon, Bộ trưởng Ngoại giao Rogers, Bộ trưởng Quốc phòng Laird, Tham mưu trưởng Liên quân Moorer, Giám đốc CIA Richard Helm, Cố vấn Kissinger và phụ tá của ông ta là Chuẩn tướng Haig.

Năm 1971, ngày 4-2, Tổng thống Nixon ra lệnh tiến hành giai đoạn 2 của cuộc hành quân Lam Sơn 719, tức là quân VNCH vượt biên sang Lào.  Đồng thời tại Sài Gòn Tổng thống Thiệu cũng tuyên bố cho quân VNCH vượt biên sang Lào để truy quét quân CSVN trên đất Lào.

Năm 1971, ngày thứ 9 của trận chiến, ngày 16-2.  Súng phòng không của CSVN đồng loạt khai hỏa vào các phi cơ trực thăng võ trang của Mỹ hoạt động dọc theo sông Tchepone. Trong vòng 4 ngày đã có 32 trực thăng bị bắn rơi và 240 chiếc khác bị trúng đạn.  Các phi công Mỹ từ chối bay vào vùng phía Bắc sông Tchepone.  Điều này khiến cho toàn bộ quân VNCH trên đất Lào không còn tiếp tế, kể cả gạo và nước uống.

Năm 1971, 19-2 , Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng tư lệnh quân đội VNCH, bay ra Quảng Trị.  Tại Bộ chỉ huy hành quân ở Đông Hà. Tướng Hoàng Xuân Lãm thuyết trình về tình trạng không có trực thăng tiếp vận, các phi công Mỹ từ chối bay vào vùng Bắc sông Tchepone.

Sau khi đã rõ tình hình, Tướng Thiệu chỉ thị Tướng Lãm nên triển khai về hướng Tây Nam, dùng đường đất 914 đi tắt đến binh trạm 611 của CSVN ở phía Nam Tchepone ( Nguyễn Duy Hinh, Lam Son 719, trang 79).

Năm 1971, ngày 24-2,  phóng viên báo chí Mỹ chực tin tại căn cứ Khe Sanh đã chụp được bức hình một người lính VNCH đang bám càng chiếc trực thăng để thoát khỏi chiến trường.  Cơ quan quảng bá thông tin của CIA ( USID) cho xé to thành tin quân VNCH hèn nhát. *( Nhằm kích cho quân VNCH phải tử chiến ).

Phản ứng rất nhanh của Tướng Thiệu

Năm 1971, ngày 28-2 Tướng Lãm đưa 2 lữ đoàn TQLC ( 4.000 người ) đang nằm trừ bị tại Căn cứ khe Sanh đến thay thế 2 trung đoàn Bộ binh ( 5.000 người ) của Sư đoàn 1 BB đang hoạt động ở phía Nam sông Tchepone.  Bốc 1 trung đoàn Bộ binh ở phía Đông Nam sông Tchepone đổ xuống chiếm giữ các cao điểm phía chính Nam thị trấn Tchepone để hỗ trợ cho trung đoàn Bộ binh khác được đổ xuống phía Bắc Tchepone rồi từ đó tiến vào Thị trấn Tchepone.

Ngày 8-3, Tiểu đoàn 2/2 và Tiểu đoàn 3/2 cùng với BCH Trung đoàn 2 BB thuộc Sư đoàn 1 BB/VNCH ( 1.200 người ) tiến vào Thị trấn Tchepone đã bỏ hoang, tìm thấy 8 súng cối 82 ly, 2 tấn gạo và vô số xác chết mà không có thì giờ để đếm.  Sau khi tiếp đón phái đoàn của Tướng Phạm Văn Phú và các phóng viên quân đội vào buổi trưa, Trung đoàn gấp rút hành quân qua khỏi thị trấn, tiến về hướng Đông Nam.

Ngày 11-3, Quân VNCH tại vị trí xa nhất ( Căn cứ Sophia ) bắt đầu rút về.  Các nơi khác tiếp tục rút về trong những ngày kế tiếp.

Ngày 22-3, Một phi vụ B.52 đã thả bom vào khu vực hai bên đang còn đánh nhau.  Kết quả phía TQLC có 85 chết, 238 bị thương và 100 súng bị hủy hoại.  Phía CSVN có 600 chết, 5 bị bắt và 200 súng bị tịch thu.

Có một cuộc cải vã to tiếng giữa Tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh sư đoàn TQLC, và  Đại tá cố vấn Mỹ ngay sau vụ B.52 thả bom vào Tiểu đoàn 4 TQLC/VNCH.  Các sĩ quan trong trung tâm hành quân nghe được câu nói của Tướng Khang :

“50 ngàn quân của họ là người Việt Nam, 15 ngàn quân của chúng tôi cũng là người Việt Nam;  tôi là người Việt Nam, tôi không thể làm như vậy được” ( Theo lời kể của Thiếu úy Tô Đình Hiền, sĩ quan trực Trung tâm hành quân của TQLC tại Căn cứ Khe Sanh ).

Nghĩa là người Mỹ muốn đổi mạng 15.000 quân VNCH để lấy mạng 50.000 quân CSVN, một bài toán thực dụng vô cùng đơn giản… !!!

BÙI ANH TRINH

Chú thích của người viết : Năm 2003 Tướng Cao Văn Viên viết trong bản dịch quyển sách “The Final Collapse” của ông :

Trong những năm 1970 và 1971 tác giả ( Tướng Viên )  đã đệ đơn xin Tổng thống Thiệu cho về hưu it nhất là 3 lần…”, “Lý do tác giả hành động như vậy vì vào khoảng giữa 1970… Tướng Abrams cho biết…Tổng thống Thiệu có ý định cho Trung tướng Đỗ Cao Trí thay thế tác giả…Cảm thấy mình không còn được “sủng ái” nên đã xin về hưu ( trang 255 )

 

Giữa năm 1970 là thời điểm quân VNCH đánh tràn sang Miên, đuổi quân CSVN còn cách Nam Vang 75 cây số.  Nhưng người chỉ huy trận đó là Trung tướng Nguyễn Viết Thanh.  Trong khi đó Tướng Viên đã tỏ ra không có khả năng chỉ huy cấp sư đoàn trở lên.

 

*[ Cả đời tướng Viên chưa bao giờ chỉ huy cấp sư đoàn và chỉ đánh một trận lớn duy nhất tại Hồng Ngự vào tháng 3 năm 1964, lúc đó ông chỉ huy 2 tiểu đoàn Dù.  Nhưng đó chỉ là trận đánh dỏm do Nguyễn Khánh dàn cảnh để thăng cấp tại mặt trận cho Đại tá Cao Văn Viên, nhằm thưởng công cho vụ lật đổ các tướng Đôn, Xuân, Kim, Đính, Vỹ… hồi đầu tháng 2 ].

 

Và năm 1971 là trận Hạ Lào, ngay trong các ngày đầu Tướng Viên cũng đã tỏ ra không chỉ huy nổi các tướng Lãm, Khang, Đống.  Do đó Tướng Thiệu định đưa Tướng Trí ra chỉ huy mặt trận Hạ Lào sau khi Tướng Viên tỏ ra bất lực.  Nhưng không may là Tướng Trí đã bị tử nạn vào ngày 23-2-1971, tức là 7 ngày sau khi các pilot Mỹ từ chối bay hành quân.*(!?).

 

Nếu ngày đó Tướng Trí chỉ huy trận Hạ Lào thì ông sẽ cho lệnh rút quân ngay khi ông biết được quân địch tại Tchepone là 5 Sư đoàn bộ binh ( 35.000 người ), hoặc là khi biết các pilot Mỹ từ chối  bay tiếp tế hay tản thương….!!  *[ Nhưng như vậy thì không khớp với mưu đồ của Nixon ].

 

Thuở đó phía VNCH có tin cho rằng Tướng Abrams ám sát Tướng Trí để bảo vệ chiếc ghế cho Tướng Viên.  Nhưng điều này hoàn toàn không đúng với tinh thần thượng võ của Tướng Abrams

 

 

(20) SAU TRẬN HẠ LÀO, MỸ BẮT TAY VỚI TRUNG CỌNG

Thỏa thuận ngầm giữa Mỹ và Trung Cọng sau khi Mỹ lật đổ Sihanouk

 

Khi bắt đầu nhận chức Tổng thống, Nixon phải đối diện với một quyết định đã rồi của Tổng thống tiền nhiệm Johnson, đó là rút quân ra khỏi chiến trường Việt Nam trong tư thế thất bại.

 

Nhưng riêng Nixon lại không muốn tiếp theo đường lối chủ bại của Johnson, mà ông chủ trương thương lượng với Bắc Kinh để Bắc Kinh ngưng viện trợ cho Bắc Việt.  Lúc đó Hà Nội sẽ không đủ tài chánh và phương tiện để theo đuổi chiến tranh,  nhờ đó Nixon có thể rút quân khỏi Nam Việt Nam trong thế mạnh.

 

Năm 1969, tháng 4; Nixon cho tiến hành kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, giao cho quân đội VNCH chống cự với quân Bắc Việt, Mỹ chỉ hỗ trợ về không quân và tiếp liệu.

 

Năm 1970, tháng 4; Nixon cho lật đổ chế độ Sihanouk và xua quân Việt Mỹ đánh tràn sang Cam Bốt, đuổi quân CSVN chỉ còn cách Nam Vang 75 cây số.

 

Năm 1970, tháng 6; Mỹ và Trung Cọng thỏa thuận mỗi khi Kissinger đến Paris đàm phán với Lê Đức Thọ thì đồng thời Kissinger cũng sẽ tiến hành mật đàm với Đại sứ TC tại Paris là Hoàng Chấn, để thương lượng về việc TC thôi viện trợ quân sự cho Hà Nội.

 

Năm 1970, tháng 12; Mao Trạch Đông nhắn lời mời Nixon thăm Trung Cọng ( Hồi ký của Kissinger ).

 

Thỏa thuận giữa Mỹ và TC trong trận Hạ Lào

 

Năm 1971, tháng 2, Nixon dụ Hà Nội đưa hết quân và vũ khí sang Lào đánh một trận sống mái cuối cùng với quân VNCH…!  Chắc chắn là sau trận đó Hà Nội sẽ không còn khả năng theo đuổi chiến tranh bởi vì trong tương lai Trung Cọng sẽ ngưng cung cấp vũ khí và tiền bạc cho Bắc Việt để đổi lấy lệnh giải tỏa cấm vận của Mỹ.

 

Bài toán cho canh bạc Hạ Lào của Nixon là một bài toán vô cùng đơn giản :  Tái dựng một Điện Biên Phủ thứ hai như là một cái bẫy B.52, và 2 sư đoàn quân VNCH chỉ là miếng mồi nhữ ( !!! ).

 

Năm 1971, theo thỏa thuận giữa Kissinger và Bắc Kinh thì đầu tháng 6 năm 1971 Trung Cọng sẽ mời đoàn bóng bàn Mỹ sang thăm Trung Cọng, mở màn cho cuộc bang giao Mỹ-Trung.

 

Vì vậy Nixon và Kissinger dự trù cho cái bẫy Hạ Lào phải được sập xuống trước tháng 6-1971.  Nghĩa là Hà Nội thực sự trắng tay trước khi Trung Cọng bắt tay với Mỹ.  Để cho sau này không ai có thể trách vì Trung Cọng ngưng viện trợ mà Hà Nội đành ngưng chiến với Mỹ.

 

Năm 1971, kết quả trận Hạ Lào :

 

“Về tổn thất nhân mạng, phía VNCH có 1.146 chết, 4.326 bị thương, mất tích 246.  Phía Mỹ có 102 phi công hoặc nhân viên phi hành bị chết, 215 bị thương và 53 mất tích, mất 92 trực thăng và 5 máy bay chiến đấu.

 

Trong khi đó tin tức của phía CSVN do CIA thu thập được tại Vạn Tượng là số thiệt hại của Bắc Việt rất nặng.  Và nguồn tin tình báo tại Hà Nội cho biết con số người chết chính xác là 16.224 người.

 

Số vũ khí của CSVN bị tịch thu là 1.968 vũ khí cộng đồng, 4.545 vũ khí cá nhân. Phá hủy và tịch thu 128.000 tấn đạn dược, 1.300.000 phuy xăng dầu, phá hủy 8 cây số đường ống dẫn dầu, 100 xe tăng, 291 xe tải” ( Tài liệu của Ngũ Giác Đài do Tướng Nguyễn Duy Hinh công bố ).

 

Năm 1971, mặc dầu trận Hạ Lào quân đội VCNH đã chiến thắng gấp 3 lần chiến thắng tại Cam Bốt nhưng Nixon và Kissinger cần trình diễn cho thế giới thấy rằng quân đội VNCH đã tự ý đánh sang Lào và thất bại :

 

 “Mặc dầu Bunker luôn luôn cung cấp và liên lạc với Kissinger để thông báo tình hình hành quân đang lạc quan nhưng ngay từ đầu, Hoa Thịnh Đốn cũng thiếu tin tưởng và xem việc quân đội Miền Nam rút quân là một sự thất bại”. ( Tài liệu của Bunker do giáo sư Stephen Young phổ biến, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 410 ).

 

Với sự thất bại của VNCH, dư luận phản chiến Mỹ sẽ thôi kết án Nixon hiếu chiến và sẵn sàng chấp nhận chuyện Nixon quay sang điều đình với Bắc Kinh để nhờ Bắc Kinh ra lệnh cho Hà Nội ngưng chiến và trao trả tù binh cho Mỹ.

 

Năm 1971, sau khi trận Hạ Lào kết thúc, ngày 6-4-1971, tại Tokyo, trưởng đoàn bóng bàn của Trung Cọng là Trương Tác Đống ngỏ lời mời đoàn bóng bàn Mỹ sang thăm Bắc Kinh.  Đoàn Mỹ nhận lời và sang thăm Bắc Kinh.  Và ngày 21-4-1971 Thủ tướng Trung Cọng Chu Ân Lai chính thức gửi thư mời Tổng thống Nixon sang thăm Bắc Kinh.

 

Rồi  2 tháng sau, ngày 9-7-1971, từ Paris Kissinger bay đi Pakistan, rồi giả cớ đau bụng ông ta lẻn bay sang Bắc Kinh.

 

Ngay sau đó, ngày 13-7-1971, Chu Ân Lai bay sang Hà Nội để thông báo cho Hà Nội hãy “kết thúc chiến tranh” với Mỹ để Mỹ sẽ giải quyết “vấn đề Đài Loan” cho Bắc Kinh ( Bạch thư của nước CHXHCN Việt Nam, phát hành tháng 10 năm 1979, trang 57 ).  Tới lúc này Lê Duẩn mới thực sự trắng mắt.  Ông ta cùng với Lê Đức Thọ vội vàng bay đi Mạc Tư Khoa cầu cứu.

 

Tại Mạc Tư Khoa Brezhnep cũng bật ngữa trước tin Nixon mưu tính bắt tay với Bắc Kinh để chống lại Liên Xô ( Phân hóa đội ngũ phe Cọng sản ). Brezhnep quyết định viện trợ một số lượng vũ khí khổng lồ cho Hà Nội để HN có thể xua quân tràn ngập Miền Nam như Bắc Hàn đã từng xua quân chiếm Nam Hàn năm 1950.*( Trận Mùa Hè 1972 ).

 

BÙI ANH TRINH

 

TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971, (1)

TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971, (2)


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lãng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lý Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Giòng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Ðịnh Chính Tà 1

  42. Phân Ðịnh Chính Tà 2

  43. Phân Ðịnh Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Giòng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 


 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

 

 

 

.

 

 

 

CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState  

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia

.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *