MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU   THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học ֎ Báo Chí

 

    ֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Giờ Thứ 25

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

 ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018. Jan/2019

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAme ProgressvFaivCityvBus.Insider 

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHuav

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều

vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvBuddhism

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gươngv

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật Khoa Văn NghệvSOTT

vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu TrữvSoHa

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNMvB́nh Dân

BINH THƯ YẾU LƯỢC

 

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

 

 

 

III – ĐỒN TRÚ1

 

 

 

Dời đi. Quân không nhất định đóng ở đâu, cũng không nhất định đi đâu. Nhưng phải xem cơ nghi; mùa xuân mà cỏ cây khô cằn th́ dời; mùa hạ mà suối chằm mưa ngập th́ dời; phục ở rừng rậm, gió quá th́ dời; có tiện th́ đến, có lo th́ dời; có lợi th́ ở, không lợi th́ dời; địch yếu th́ ở, địch bền th́ dời; đây mạnh kia yếu, đây hoăn kia gấp th́ dời; đây khó kia dễ th́ dời.

 

Đóng. Phàm đóng quân th́ phải dùng nơi sau cao trước thấp, trông ra hướng sáng, quay lưng hướng tối; nuôi sống ở đủ, nước lửa không lo, vận tải tiếp tế không trở ngại; tiến có thể đánh, lui có thể giữ, chằm cỏ suối nước, lấy củi, chăn súc đều đạt được cả. Đó là nơi có thể đóng được. Nhưng số sản vật không đầy đủ cả, mỗi phương một khác, cho nên khi tạm đỗ th́ phải chọn nơi thích hợp với việc quân; ở lâu th́ phải dùng địa thế.

 

Dẹp giữ thóc lúa. Người Tần cắt lúa mạch mà Hoàn Ôn2 vỡ; Triệu Thù3 dời lương mà Hoàng Sào thua; Khấu Chuẩn4 chôn thóc mà quân địch sợ; Duy Phụ5 đốt thóc mà quân Kim thiếu ăn; Vu Khiêm6 bỏ kho không mà giặc mạnh phải tiều tụy. Nhưng có khi dụ mà không nghe, lệnh mà không theo, một v́ trong cơi không nơi tích trữ, một v́ nhà nước vay mượn khó khăn. Vậy phải lấy ngay những nơi đất công ở trong thành hoặc chùa quán để làm kho chứa, sai dân tự coi giữ, mà tự trao đổi bán chác, quan đi qua cũng không hỏi đến. Thuyền vận tải không hết th́ sau nhà nước mới đong vào. Thóc chỉ có vào thành mà không có ra thành. Dùng gạo đổi tiền th́ dân ở thành tiện. Ta no th́ địch đói, làm một việc mà tiện lợi được ba. Nếu cấp bách quá không kịp th́ cho chôn hay đốt đi.

_________________________________

1. Tham khảo Vơ bị chế thắng chí, quyển 3.

2. Hoàn Ôn: Người thời Tấn, làm chinh tây đại tướng quân. Tấn Minh đế sai đi đánh Tần Bồ Kiện (con Bồ Hồng, bác Bồ Kiện). Ôn cậy có thóc của Tần sắp chín, Kiện sai người cắt hết lúa, quân của Ôn không có lương ăn phải lui về.

3. Triệu Thù: Người thời Đường, giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Khi Hoàng Sào khởi ngĩa, Thù làm thứ sử Trần-châu, chứa

lương cỏ, làm kế giữ lâu. Sau phá được quân của Hoàng Sào - dời lương ở đây, tức là dời lương nơi khác vào thành.

4. Khấu Chuẩn: Người Tống, đời Tống Cao tôn đánh phá được quân Khiết-đơn ở Chiên-uyên.

5. Duy Phụ: Tức là Lưu Duy Phụ thời Tống. Khi người Kim đánh Hy-hà, Duy Phụ làm mă bộ quan phó tổng quản ở đây, sắp bỏ chạy, thấy trong thành c̣n chứa nhiều thóc, sợ người Kim lợi dụng được, sai đốt hết đi.

6. Vu Khiêm. Người thời Minh, khi Dă Tiên (thái sư của Ngơa Hạt) tiến quân sát đến Kinh sư, Cảnh đế cho Khiêm làm đề đốc quân mă; đánh lui được quân của Dă Tiên.

 

Thu dẹp súc vật. Phàm tiện nhất cho sự cướp bóc không ǵ bằng súc vật, không phiền vận tải, hễ đuổi th́ đi. Chưa hề đánh nhau mà địch đă thỏa măn dục vọng rồi. Thế nên Lư Mục nghiêm lệnh giữ ǵn mà rợ Hồ chẳng dám nḥm biên, Trần Tuấn1 đem quân thu cướp mà giặc tự phải tan chạy. Ở gần thành th́ cho tụ vào thành mà giữ, ở xa thành th́ làm lũy vách mà thu vào. Thi hành ở nơi biên tái th́ kế càng cần thiết.

Thu dẹp rơm cỏ. Địch nhờ ngựa mà mạnh, ngựa nhờ cỏ để ăn. Tướng sĩ giữ biên, mỗi khi về tháng thu cỏ khô th́ ra cửa ải xa mấy trăm dặm, phóng lửa đốt cháy. Lưu Nhân Cung2 lấy đó mà chống được Khiết-đơn; Tư Ma lấy đó mà đối phó với Tiết Diên Đà. Như Nguyên Hiệu3 nước Tây-hạ đối với người Liêu, th́ lui quân ba xá4, mỗi lần lui đều đốt đất cho trụi, do đó dụ được giặc mà thắng được; như người Kim giữ cỏ ở g̣ Mâu-đà mà Biện-kinh bị vây; như Vu Khiêm bỏ không trại chăn nuôi ở cận giao mà quân kỵ của địch phải rút. Vậy th́ rơm cỏ chứa đầy chỉ để làm quà cho địch, việc trước nên soi.

 

Thu dẹp suối nước. Địch nhờ vào, không cỏ th́ nước. Người Tần đánh thuốc độc ở thượng lưu sông Kinh để làm đói quân Tấn. Tướng Tùy đánh thuốc độc vào suối ở trong cơi làm cho giặc bị bệnh. Lưu Ỷ đánh thuốc độc vào sông Dĩnh5 để khốn quân địch, đánh thuốc độc vào cỏ để khốn ngựa địch.

 

Thu dẹp nhà ở và đồng nội ngoài thành. Phàm gần thành, trong 3 trượng mà có nhà th́ giặc có thể hoặc phục ở trong để bắn, hoặc lấy xà cột để làm thang, hoặc thuận gió đốt cháy lan, hoặc lợi dụng nền mà tung khói. Đó đều là khiến thành không thể giữ được. Vậy nghiêm xuống lệnh dỡ đi, gấp th́ đốt đi. Phàm phía ngoài hào hơn một dặm nên bỏ đồng trống, v́ có thôn xóm th́ địch giữ mà đóng; có đài thấp th́ địch giữ mà nḥm xa; có g̣ đống th́ địch nhờ để lấp hào đặt súng; cỏ đầm cỏ ng̣i lạch th́ giặc có thể ẩn nấp; có cây to và tre gỗ kho đạn th́ đều là khí cụ để đánh thành, phải hoặc triệt đi, hoặc cấm, hoặc vận vào thành; có bè ở dưới nước ngoài trăm dặm th́ tạm dời sang kênh nhỏ mà giấu đi. Ai làm trái th́ dùng quân pháp mà trị. Năm điều ấy làm được th́ ngoài nội trống hết, ta có thể hại địch mà địch không có thể hại ta. Như vậy th́ việc phải làm trước không thể kể xiết. Tuy thế, sự giữ thành th́ có hạn mà sự không thể giữ đồng nội thôn xóm th́ vô hạn. Vậy nên phải nương. tựa lẫn nhau, đều cùng nhau ǵn giữ, không có đồn trại nào giữ tốt hơn thế được (6).

 

Nghiêm cấm cướp đêm. Sánh Kinh thế nói: mỗi khi hạ dinh ban đêm, phàm có đường hẻm có thể qua có thể vượt được, đều nên đặt đồn canh. Binh lính canh đồn nên cẩn thận chăng một chiếc dây lớn, ḍm xét kỹ càng. Như có giặc th́ nổ súng làm hiệu. Quan binh ở dinh th́ không cho cởi áo ngủ say, áo giáp mở ra cùng với đồ binh khí để một bên, mỗi pḥng lều giao một người thay nhau canh gác.

 

Một khi có tin động, không được nói to, đánh thức ngay đồng đội, mặc giáp, cầm khí giới, ngồi im chờ giặc. Khi giặc đến gần th́ nổ súng bắn cung. Cần nhất là không được chạy động. Nếu chạy động tức là giặc, bắn giết ngay. Tóm lại, gặp khi đêm có báo động, nếu mọi người b́nh tĩnh không động, không tiếng ho hắng, th́ địch dù là quân mạnh giỏi đến đâu cũng chỉ ở nơi xa mà reo không, quyết không dám tới gần dinh lũy của ta. Và khi đêm tối giặc đến cướp dinh, hoặc xâm phạm dinh lũy, phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc, th́ dinh đương bị cùng với dinh khác chưa bị đều cùng yên tĩnh giới nghiêm, không được động càn, đều giữ dinh lũy, đến chết chẳng dời, thế mới vạn toàn. Nếu dinh đông không giữ mà bỏ chạy sang dinh tây, chẳng những dinh tây không động, mà dinh đông lại gặp súng tên của dinh tây bắn chết.

 

Dựng nêu. Mỗi dinh đă đặt xong rồi, tức th́ xem h́nh thế đất bốn phương đông tây nam bắc đều dựng nêu cờ, mỗi nêu đặt phu bắt, nhiều th́ hai chục tên, ít th́ hơn mười tên, có đủ cung tên đao súng để canh giữ. Những binh lính hái củi, lấy nước, chăn súc đều không được thiện tiện vượt ra ngoài chỗ nêu cờ. Ai phạm th́ phải xiên tai để cảnh cáo mọi người. Lại hiểu dụ cho những binh lính tuần pḥng cần thận giữ trông, hễ có người nào vượt qua nêu th́ bắt ngay. Nếu tư t́nh buông thả th́ phép quân xử nặng không tha.

 

Cẩn thận pḥng bị. Mùa đông khi rét, mỗi khi sương tuyết đầm đ́a, ban ngày tối như ban đêm, giặc thường nhân lúc đó đánh ta. Quân ta gặp lúc như thế, cần phải nghiêm cấm canh pḥng, ban đêm lại càng cần thiết. Binh lính lên cao canh giữ, nửa bước cũng không ĺa chỗ ḿnh đứng, chính là sợ một khi trông coi không rơ ràng, ngộ bị quân địch thừa cơ đến đánh th́ nguy. Thiết tha nhớ lấy.

 

Cḥi canh. Binh lính ngồi cḥi canh, mỗi ngày từ sáng sớm lên cḥi, phải ngồi chờ cho đến tối có binh lính canh đêm đến, bấy giờ mới cho về dinh. Binh lính canh đêm đến sáng, phải chờ người canh ngày đến, mới được về dinh. Ai dám chậm trái, không đợi lính này lính kia thay đổi cho nhau mà tự tiện bỏ cḥi về dinh, phải đem tới đinh để tướng biền trị tội. Như ban đêm mưa gió, tướng biền th́ yên ngủ ở trong pḥng lều, không nghĩ đến nỗi khổ của người ngồi đêm ở cḥi, mà đến khi trời sáng lại không sớm sai lính lên cḥi để thay đổi, th́ nên lấy phép quân trị nặng. Nếu binh lính lên cao nh́n xa thấy có giặc đến, tức th́ nổ súng làm hiệu, chỉ cờ về phương ấy, cho tiện việc trong quân tiếp ứng.

 

Nhắc rơ lệ kiếm củi và chăn ngựa. Mỗi ngày giờ tư thổi 3 tiếng ốc, bắt một tên lănh cờ, lănh đem binh lính năm dinh 25 tên ra gác cầu để ḍm trông các dinh, c̣n lính dư và người thuê th́ đều đi kiếm củi chăn ngựa, vụ đủ dùng trong một ngày. Giờ ngọ lại thổi 3 tiếng ốc, đều trở về dinh, kẻ nào trái lệnh th́ bắt xét trị nặng. Mỗi ngày bọn lính và người làm thuê đi chăn ngựa kiếm củi lấy nước ở ngoài, hễ nghe có tiếng súng ở trong dinh và tiếng báo của chiêng hiệu th́ không kể xa gần; tức tốc về dinh, người nào trái lệnh th́ xiên tai.

 

Phải đặt dinh làm cho giặc sợ. Mới đầu đặt bàn dinh, ở trong làm mấy tầng cũng không sao cả. Nếu một ngày không thấy giặc động tĩnh, đến chiều rút một tầng ở ngoài kẽ nách, rồi đặt một dinh; ngày thứ hai không thấy động tĩnh ǵ, lại rút một tầng ở ngoài, rồi lại đặt một dinh. Giặc hẳn cho rằng sức quân ta ngày càng thêm th́ ḷng nó càng mau nản. Đó là phép biến thực làm hư, biến hư làm thực vậy.

_________________________________

1. Trần Tuấn: Người thời đông Hán, làm quận lại, theo Quang-vũ đi đánh Đồng-mă, chém được tướng của địch.

2. Lưu Nhân Cung: Người thời Hậu Đường (Ngũ đại), làm tiết độ sứ ở Lư-long.

3. Nguyên Hiệu: Tức là Triệu Nguyên Hiệu, vua nước Tây-hạ, người Tống, phản nhà Tống.

4. Mỗi xá 30 dặm.

5. Lưu Ỷ bỏ thuốc độc vào sông Dĩnh. Đời Tống Cao tôn, Kim thái tử Ngột Truật đem quân sang đánh thành Thuận-xương. Ỷ sai người bỏ thuốc độc xuống ḍng trên sông Dĩnh. Quân và ngựa của Kim uống phải nước sông ấy mỏi mệt, bị Lưu Ỷ đánh cho thua.

6. Nghĩa là có đồn trại ở ngoài thành mà giữ cũng không bằng dùng kế “đất không nhà trống” như trên.

 

*

*   *

 

Sách Tôn tử:

 

Phàm phép dùng binh, tướng phải chịu mệnh với vua, họp quân tụ chúng... Địch ở nơi cao chớ nghển lên mà đánh; địch dựa vào g̣ chớ đón mà đánh (1)... Đất tuyệt không nên ở; đất vây th́ lập mưu; đất chết th́ đánh... Đường có khi không đi; quân có khi không đánh; thành có khi không phá; đất có khi không tranh; mệnh vua có khi không chịu. Cho nên làm tướng có suốt được điều lợi của chín biến2 mới là biết dùng binh. Nếu tướng không biết điều lợi của chín biến th́ dù có biết địa h́nh cũng không nắm được địa lợi. Cầm binh mà không biết cái thuật chín biến th́ dù có biết được năm điều lợi cũng không thể được người mà dùng. Thế nên người khôn lo nghĩ, tất có lẫn với lợi hại, lẫn với lợi th́ sự chuộng của ḿnh đạt được, lẫn với hại th́ mối lo của ḿnh giải được. Thế cho nên lấy hại mà đè chư hầu, lấy nghiệp mà sai chư hầu, lấy lộc mà khiến chư hầu xô đến. Cho nên trong phép dùng binh đừng cậy là giặc không đến mà cậy ở ta sẵn có cái để đón chờ; đừng cậy là giặc không đánh mà cậy ở ta sẵn có cái cho nó không đánh được. Cho nên làm tướng có năm điều nguy: liều chết th́ có thể bị giết; ham sống th́ có thể bị bắt được; nóng giận th́ có thể bị khinh nhờn; trong sạch th́ có thể bị làm nhục; yêu dân th́ có thể bị quấy rầy. Năm điều ấy chính là lỗi của người làm tướng, và tai vạ của việc dùng binh. Bại quân chết tướng chỉ v́ năm điều đó, không thể không xét kỹ vậy (3).

 

Phàm đóng quân và xét giặc, vượt núi và dựa thung lũng, th́ trông nắng mà ở chỗ cao; địch ở trận cao th́ đừng lên. Đó là đóng quân ở trên núi. Vượt nước tất phải xa nước; địch vượt nước mà đến th́ chớ đón ở trong nước, để nó sang nửa chừng mà đánh th́ lợi. Người muốn đánh đừng dựa nước mà đón địch. Trông nắng

mà ở chỗ cao, đừng đóng quân ở trên nước. Vượt đất trũng th́ đi gấp, đừng ở lại. Nếu đánh nhau ở nơi đất trũng th́ phải nương nhờ nước cỏ mà dựa lưng vào cây cối. Đó là đóng quân ở nơi đất trũng. Nơi cạn bằng th́ đóng ở chỗ dễ, bên hữu th́ dựa cao, trước thấp sau cao. Đó là đóng quân ở nơi cạn bằng. Theo bốn phép đóng quân ấy, Hoàng đế có thể thắng được bốn phương.

 

Phàm đóng quân, ưa cao mà ghét thấp, quư dương mà ghét âm, nuôi sống mà ở chắc. Quân không ốm đau, thế là tất thắng. G̣ núi đê điều th́ phải ở về phía mặt trời mà dựa về phía hữu. Ấy là cái lợi của binh nhờ sự giúp của đất vậy. Phàm đất có tuyệt giản, thiên tỉnh, thiên la, thiên hăm4 th́ cần phải bỏ đi, chớ nên gần đấy. Ta xa đi th́ địch gần lại, ta đón lấy th́ địch bỏ đi (5).

 

 

*

*   *

 

Ḍ la nơi xa. Đời xưa gọi là du trinh, gián điệp, tế tác, la khiếu, tên không giống nhau mà đều là quân đi ḍ xét ở bên địch.

_________________________________

1. Tôn tử, thiên VII.

2. Chín biến là chín việc quyền biến nói ở trên.

3. Tôn tử, thiên VIII.

4. Xem giải về thế đất ở sau.

5. Tôn tử, thiên IX.

 

*

*   *

 

Cẩn thận đồn canh và hiệu lửa. Mỗi một đồn canh để 5 người, mỗi trống canh 2 người, một người đi một người ở. Khi thấy quân phi lâu1 đánh mơ ứng tiếng, th́ quân la khiêu cầm một mồi lửa giơ lên làm hiệu; mỗi canh đổi một hiệu lửa, ví như canh một th́ hiệu lửa chỉ trời, canh hai th́ chỉ bên tả v.v...

 

 

*

*   *

 

Đặt đài chứa lương thực và rơm cỏ. Binh lấy ăn làm gốc, ăn đủ th́ binh mới mạnh. Đặt quan tào vận để giữ lương thực, gạo và thóc đều phải chứa. Gạo cần thiết mà dễ mục, thóc vỏ cứng có thể để lâu, lúc hoăn lúc cấp đều chứa cả. Đời sau chỉ để gạo, cho nên lâu th́ không ăn được.

 

 

*

*   *

 

Phép thần cơ làm lũy tạm (2)

 

 

*

*   *

 

Nơi đóng quân (3). Nước sâu trong mà chảy xiết, ăn tốt nhất. Nước chảy có lẫn cát vàng, ăn tốt thứ nh́. Nước chảy mà đen, ăn được nhưng không tốt lắm. Ví có nước đứng mà không chảy, đừng ăn. Nước chảy mà trên nguồn có giặt ở, đừng ăn. Nước chảy mà trong đó có xác lợn đen chết không trôi đi th́ đừng ăn, ăn th́ chết. Nước lẫn nhiều cứt đừng ăn, ăn th́ ốm. Nước có xác chó chết đừng ăn. Như không có nước ăn được, th́ đào giếng ở bên mà lấy nước. Quân sĩ đóng dinh cần có nước, nghỉ tạm cần có nước.

 

Người giỏi dùng binh phải pḥng loạn từ khi chưa loạn, pḥng gấp từ khi chưa gấp. Khi làm dinh xong, nên cho những người mạnh dạn vây ở ngoài, những người yếu nhất th́ phụ theo. Đó là phép lo lắng về đêm tối.

 

Sai đi coi và ngắm đo thế đất cho bằng phẳng, có sẵn cỏ nước, rồi kết dựng vách thành, đốn cây làm sào, chở đất làm lũy, đào đất làm hào, chế mộc mă4, tạo phi lâu, làm xích hậu, chia đặt dinh trại cho bền vững, đặt đàn lễ cáo thần minh sở tại, thu canh tan canh, phát khẩu hiệu, đặt quân do thám, đó đều là việt cần kíp về đóng quân. Thế núi ngặt mà chặn ở gần th́ đừng đóng dinh, sợ có quân phục ở bên. Núi âm u quanh quất th́ đừng đóng dinh, sợ bốn bề có quân phục. Tả hữu trước sau đều có núi mà hơi xa, th́ ta đóng quân ở giữa, phải xem kỹ đường lối đi lại và các đường tắt, phái quân pḥng giữ.

 

 

*

*   *

 

Tôn tử nói: Bên chỗ quân đóng mà có ao hồ, rừng cây ngăn trở, lau sậy um tùm, th́ phải cẩn thận lùng xét kỹ càng, đó là chỗ quân phục quân gian nấp náu5.

 

Phàm quân đi qua đâu, không đốt kho tàng của người, không phá nhà cửa của người; cây ở đền, cây ở xă không được đẵn; kẻ đă hàng không được giết; người đă bắt được không được đánh; là để tỏ rơ nhân nghĩa, thi hành ơn đức, cho thiên hạ ḥa phục.

_________________________________

1. Phi lâu: Cḥi bắc trên cao.

2. Mục này trích ở sách Hổ trướng khu cơ, ở đây xin bỏ, xem Hổ trướng khu cơ ở sau.

3. Tham khảo Vơ bị chế thắng chí, quyển 3 chương XX “Dinh địa”.

4. Mộc mă: Tức ngựa gỗ, cũng gọi là cự mă mộc, tức là cái cản gỗ chống ngựa, người ta dùng để chống ngựa và voi.

5. Tôn tử, thiên IX.

 

 

*

*   *

 

Vơ vương hỏi: Quân ta đóng đồn ở trong khoảng rừng sâu cỏ rậm, địch nhân ở trên gió đốt cả trước sau th́ ta làm thế nào? Thái công thưa: Phàm quân đóng đồn ở rừng, phải dùng thang và cḥi mà trông cả tả hữu trước sau, nếu thấy lửa th́ ta đốt cả chung quanh cho cháy c̣n trơ đất đen mà cứ ở yên, thế th́ địch không thể làm hại được1.

 

Phàm đóng đồn ở rừng, th́ bốn chung quanh đồn phải chặt hết cây cỏ rộng 3 hay 5 trượng. Nếu địch đến đốt, th́ ta cũng đốt trước ở ngoài bốn phía của ta. Lửa nó đốt cháy vào lửa ta chảy ra, hai lửa gặp nhau, ắt là phải tắt (2).

 

 

*

*   *

 

Thủ-chân họ Lê nói:... 3

 

 

*

*   *

 

Khi chọn đất đặt dinh, không thể không cẩn thận. Cho nên người trí tướng đóng dinh, phải chọn địa lợi. Ví như trước có đường nước, vận tải lưu thông, bên tả có núi cao, bên hữu có đồng ruộng, th́ có thể đóng quân. Nếu sông hồ khe suối bốn mặt quanh co th́ không nên kết trại, sợ có quân giặc chặn đứt mất đường yếu lộ mà tiến lui không thông. Cho nên người trí tướng hành binh không bao giờ trông vào g̣ cao, trở lưng ra nước. Trước có nước th́ không tiến, sau có khe th́ không lại; hoặc mé nước bên hữu kề liền với g̣ bên tả, hay một bên là g̣ núi sông hồ th́ đều kiêng, sợ đất ấy ba mặt chịu địch, người trí tướng không thể không cẩn thận. Đó là điều cốt yếu để chọn đất đặt dinh vậy.

 

Nếu lập trại vào mùa xuân mùa hạ, th́ không nên gần nơi cỏ cây xanh tốt, sợ giặc tiện dùng hỏa công. Như về tiết thu không nên sát núi cao và khe suối, sợ quân giặc thừa thế tự xa lại mà bắt quân ta. Cho nên hành binh không thể không cẩn thận. Đó là điều cốt yếu trong sự cẩn thận về thiên thời vậy.

 

 

*

*   *

 

Phép hạ trại. Phàm khi hạ trại, phải chọn nơi đất lành, sẵn có nước, tiện việc kiếm củi chăn ngựa. Trại phải có điếm canh để pḥng kẻ gian tế.

 

 

*

*   *

 

Phép cướp trại. Phàm quân địch đêm đến cướp trại, th́ cho quân ra ngoài mai phục bốn mặt, trong trại hư trương lửa và trống. Quân địch xông vào th́ vùng dậy mà đánh. Sẽ thắng to.

_________________________________

1. Xem Vơ kinh trực giải, phần “Lục thao”.

2. Hổ trướng khu cơ cũng chỉ nói nếu giặc đốt th́ ta cũng đốt ở xung quanh ta, lửa của giặc đến th́ lửa của ta đă tắt, ta nhắm chỗ đất đen là chỗ đă đốt cháy mà đóng th́ lửa của giặc không làm ǵ được, chứ không nói hai lửa gặp nhau.

3. Từ đây trở xuống trích ba chương của sách Hổ trướng khu cơ, đây xin bỏ, xem Hổ trướng khu cơ ở sau.

 

*

*   *

 

Sách Vơ bị chế thắng chí:

 

Phép dinh vuông của Lư Tĩnh. Như gặp đồng bằng chằm rộng, không có thế hiểm trở, th́ phải làm dinh h́nh vuông. Như xem có 2 vạn người th́ chia ra làm 7 quân, trung quân 4.000 người, tả hữu tiền hậu bốn quân, mỗi quân đều 2.600 người, ngu hậu 2 quân, mỗi quân 2.800 người. Quân tả hữu và quân ngu hậu tả hữu chia làm 3 dinh, 6 quân làm 18 dinh. Trung quân làm một đại dinh1.

 

 

 

 

H́nh 3 - Dinh vuông

 

Phép dinh Yển nguyệt của Lư Tĩnh. Phàm gặp dải đất không hiểm trở lắm, nên làm dinh bán nguyệt. Dinh th́ mặt trông ra nơi bằng, lưng quay ra chỗ hiểm mà hai cánh cũng quay về chỗ hiểm, như h́nh mặt trăng lưỡi liềm. Mỗi dinh cách nhau thưa dày và xếp đặt đội ngũ th́ theo như phép trước. C̣n cửa th́ lâm thời sẽ t́nh. Đến như binh và ngựa nhiều ít cùng đặt lều rạp th́ tùy nghi mà làm, đó là nói đại yếu thôi. Khi có báo động th́ súc vật đều cất giấu sau dinh.

 

 

 

 

H́nh 4 - Dinh bán nguyệt

 

Phép lập dinh bằng giáo. Phàm quân đóng không lâu, có thể tạm thời dựng giáo làm dinh, giáo xen với củi cho đều. Chập tối thúc trống cho mọi người đem giáo đến, dứt hồi trống th́ cắm giáo xong, quân sĩ canh giữ không được ra ngoài dây chăng, rồi dập tắt khói lửa. Ở ngoài dinh đặt phô canh2; ở ngoài lại cho một người nấp nghe. Như ngoài dinh có động, người ở phô không được nói to; chỉ khua giáo truyền qua bốn mặt, tức th́ biết là có động mà đề pḥng.

 

Phép lập dinh bằng củi. Phàm làm dinh bằng củi, th́ củi nên xếp dày khít, không để người đi qua được. Ở khe hở th́ đóng đinh, lại lấy đất đắp lên. Xe để hàng ngang cho đều, khi cần kíp th́ xoay xe, có thể làm thành được. Nếu ở lâu trong dinh th́ đặt một cái cột để trông xa.

 

Phép đào hào lập dinh. Phàm đào hào dựng giáo th́ phải chăng dây làm mức. Đáy hào rộng 1 trượng 2 thước, sâu 1 trượng, miệng rộng 1 trượng 5 thước. Đất th́ đổ vào trong, đắp bờ đất cao 4 thước 5 tấc, phải chắc cho khỏi lở, mặt trong xén thẳng như thành, trên mặt người có thể đi được. Hào đào xong th́ tạm bắc cầu phao, khi gấp th́ chặt đi ngay. Cứ cách 2.000 bước th́ đặt một chiến lâu. Lấy cánh cửa và ván lát tạm mà chế mui hào. Ở ngoài lại đào một lớp hố sập ngựa rộng 2 bước.

 

Phép xây thành lập dinh. Phàm đắp thành làm dinh, thân thành cao 5 thước, rộng 8 thước, nữ tường cao 4 thước, rộng 2 thước; mỗi trăm bước đặt một chiến lâu; 50 bước đặt một cỗ súng toàn phong; cách 3 thước ở trong th́ đặt một cái cùm, phản và giá khí giới của phô canh. Cách thành 50 bước th́ dựng lều rạp. Trong thành đặt một cây cột cao 70 thước. Ngoài thành đặt một lớp tường dê ngựa; ngoài đào một lớp hào, ngoài nữa cách chừng 3 bước dựng một lớp rào gỗ; ngoài rào gỗ lại bày một lớp thành gai; ngoài lớp gai lại có một lớp hố sập ngựa.

 

Phép làm rào gỗ. Phàm làm rào gỗ là v́ địch ở sát gần, không kịp đắp thành lũy, hay v́ núi sông thế hiểm, nhiều đá, ít đất, không tiện xây đập, phải dựng cây làm rào. Vuông tṛn cao thấp tùy tiện. Chôn sâu gốc gỗ, lớp này lớp khác, chắp vá chỗ thiếu. Trong th́ trồng cọc ngắn làm đường gác, ngoài trồng một lớp cột, nhô lên 4 thước để làm nữ tường. Đều phải trát bùn cả. Ngoài rào đào một lớp hào, rộng 2 trượng sâu 1 trượng. Trong rào mỗi một trăm bước th́ làm một chiến lâu, ở trong đó đặt vọng lâu để trông xa.

_________________________________

1. Trở xuống 9 mục đều xem thêm Vơ kinh tổng yếu, Tiền tập, quyển 6, chương “Chế độ III”.

2. Phô canh là khoảng bày quân canh pḥng ở quanh dinh.

 

*

*   *

 

Chọn đất đóng dinh.

 

- Không đóng quân ở nơi cửa thung lũng bốn mặt bị địch, người ngựa dễ bị xung đột, đó gọi là đất hang trời (thiên kháo).

 

- Không đóng quân ở núi cao, pḥng có người ngựa đi quanh núi mà lại phá dinh trại của ta. Trước mặt là thế hiểm, bị giặc bền giữ, th́ ta không có lối ra vào, đó gọi là đất đầu rồng.

 

- Không đóng đất chết, nghĩa là lập dinh không ở vào nơi nhiều mồ mả, người ngựa ban đem hay sợ hăi; ở lâu quân lính hay bị đau ốm.

 

- Không đóng ở đất như h́nh trụ, nghĩa là dưới thấp giữa cao, đất ấy trên mặt rộng phẳng, khoảng giữa có g̣ như h́nh cái chậu úp, nếu lập dinh ở trên th́ tám mặt lộng gió, chung quanh bị địch.

 

- Không đóng ở đất ngục, tức là ở dưới cao nguyên, đất rộng răi bằng phẳng trong đó có đất h́nh như cái chậu ngửa, nếu đặt dinh ở đấy th́ bốn mặt bị địch ở trên cao đánh xuống, ta ở giữa tất phải thua;

 

- Không đóng ở nơi núi rừng cây cối um tùm, mùa xuân mùa hạ cành lá rậm tốt; không trông thấy người ngựa, sợ giặc xuyên qua đường lạ mà lại đánh dinh trại ta; mùa thu mùa đông cỏ cây khô héo, sợ địch ở đầu gió phóng lửa mà nhân đánh cướp trại ta, khó bề tránh mà đối phó.

 

- Không đóng ở nơi hồ sông khe suối quanh quất, sợ địch giữ vững nơi yếu hại th́ ta không có đường tiến thoái, và ngoài không giao tiếp được, khó bề cứu nhau.

 

- Không đóng ở trong sông to hiểm hóc, bị địch đóng chẹn ở nơi đường nhỏ, nếu quân cứu viện không đến th́ ta không có đường tiến lui để đối phó.

 

- Không đóng ở bờ sông hồ và bên núi lớn, ba mặt bị địch, sau không có đường lui tới. Nhưng nếu trong đó lại có thuyền ghe bè mảng, bên bờ có đường vận lương, thượng lưu có quân ứng cứu, th́ có thể đóng dinh được.

 

- Nếu ở bờ sông ng̣i, đóng dinh ở trên mặt nước, th́ nên đề pḥng hỏa thuyền ở thượng lưu buông xuống mà đánh hỏa công và giặc lặn ở dưới nước đục thuyền cho đắm.

 

- Không đóng ở chỗ bốn mặt có sông dài quanh quất, bốn mặt địch lại đánh ta, ngoài không có quân cứu viện, th́ bị khốn.

 

- Nên ở nơi lưng cao mặt thấp, trước có sông chảy, sau có đường vận lương, bốn mặt không có núi cao lũng lớn, dù ở xa cũng không có hại.

 

- Quân dinh đóng ở núi mà trên núi có nước, th́ nạn tháo nước làm ngập, không thể yên dinh được.

 

- Tên đất xấu cũng không thể đóng dinh, ví như loại đất đầu chó, mồm trâu v.v...

 

- Không uống nước tù, nước tù là nước không chảy, như đóng dinh ở đấy mà ăn uống nước th́ không được.

 

*

*   *

 

Dinh qui.

 

- Quân lính khi đóng dinh rồi, trước hết sai hai đội đào chung một hố xí.

 

- Khi dinh lũy đă định rồi, th́ những người hàng thịt, buôn bán, nhất thiết cấm chỉ; trong dinh giao dịch với nhau th́ không cấm.

 

- Cửa dinh có chia cho các tướng hiệu ở gần coi giữ, các chức tạp sắc cũng được chia riêng một cửa ra vào, không được lẫn lộn, phải ghi nhận rơ ràng để pḥng kẻ gian tế.

 

- Những người bị thua đến xin theo về th́ nên cho làm các công việc khác, đừng cho theo việc quân, sợ họ mượn dịp, nên phải đề pḥng.

 

- Vào cơi khác mà đặt dinh nấu cơm, đi kiếm củi không nên đi xa; nên dùng ngựa tuần trông xa bốn mặt, thấy giặc th́ trở về gấp.

 

- Như ở bên dinh không có nước, th́ xét nơi nào mọc lau sậy hay cỏ nước và có mối đùn th́ dưới đó hẳn có suối ngầm, có thể đào giếng được. Lại t́m đường lối dă thú đi lại, gần đấy tất có nước. Như quân đi đánh, nên có nước đem theo, có thể đựng ở trong túi da dê, hay bầu lớn, ống tre đều được.

 

- Hái củi, cứ 3 ngày một lần, chính giữa giờ tị, sau bữa cơm sáng, cho một người chưởng hiệu ở trung quân cầm lá cờ chữ “tiều” cùng ra, một tên đội trưởng lănh đi, hạn 2 giờ th́ về ngoài dinh để chờ. Bẩm với 2 người chưởng hiệu ở trung quân, các quân lại tới bên thành gỗ, súng ống như cũ, rồi mới mở hai cửa đông tây cho đi, c̣n cửa khác th́ không được.

 

- Những người đi nhà xí, theo các hố xí, do các cửa dinh, đem thẻ bài của ḿnh treo ở trước cửa th́ mới cho mở cửa mà ra hố xí. Xong việc rồi về ngay, tự nhận lấy thẻ bài mà về dinh. Như ban đêm không cho ra ngoài dinh th́ tùy tiện đi ở bên rạp, sáng dậy quét dọn cho sạch đổ ra hố xí. Ai làm trái th́ chiếu theo phép lấy nước mà xử.

 

- Ở trung quân mỗi khi buổi chiều thúc ba hồi trống xong, các dinh tức th́ dập lửa, cấm làm ồn, không cho người đi lại. Làm trái th́ đội trưởng cũng bị trị như binh lính. Đội trưởng mà phạm luật đi tuần, nhất luật phạt 30 côn.

 

- Sai người phục ở bên đường, mỗi một ngày đêm đổi ban một lần, cứ xong bữa cơm sáng th́ sai đi, khi người kia đến thay cho người này về th́ người về phải tới ngay trung quân mà báo cáo.

 

- Ban đêm có người đến phục sự, đến cách ngoài cửa chừng 20 bước th́ bắt đứng lại. Người giữ cửa nhận tiếng nói, nếu là người nha khác sai đến, phải hỏi lai lịch của nha ấy, như có thư thiếp giấy tờ th́ bảo đem thư thiếp giấy tờ ấy ném xuống đất, cho người truyền giữ ở ngoài dinh nhặt lấy, để do thành gỗ mà đưa vào trung quân. Trung quân có lệnh tiễn cho vào mới được mở cửa cho vào. Không có lệnh tiễn th́ không cho. Nếu có kẻ dùng dằng không đi, cùng là không tuân điều cấm mà cứ sấn tới dưới thành gỗ, th́ cho bắn, chết cũng không tội.

 

- Gặp có báo động, phải nghiêm tĩnh giữ các phần đất, đóng cửa thành gỗ, nghe lệnh ra quân; như ai có nói to chạy bậy th́ theo phép quân trị nặng.

 

*

*   *

 

Dinh đêm.

Mao tử (1) nói: Ban đêm th́ khó đề pḥng, cần phải thám phục ở xa, canh pḥng rơ ràng để biện kẻ gian dối. Phép của các nha sẽ bày ở sau:

 

- Phàm quân dinh đóng xong, thường phải pḥng ngự ở trước dinh... Ngày đêm nghiêm pḥng, dù có mưa gió cũng không rút quân ở đội; quan cũng không được ĺa đội. Mỗi dinh để ngựa 5 con đóng sẵn yên cương thả cho ăn để pḥng có báo động gấp th́ chạy đi báo ngay.

 

- Ngoài việc cảnh bị của quân dinh, mỗi quân phải đặt riêng xích hậu. Một quân định rút chiến sĩ 30 hay 50 người. Ở những đường yếu hại cách 3, 5 dặm ở ngoài bốn mặt, ban đêm đặt phô ra ngoài, mỗi phô cấp ba cái trống đem theo. Như trong đêm có giặc phạm đại dinh, phô ngoài thấy giặc giao chiến với đại dinh th́ ở sau phải nổi trống và ḥ hét để đánh ở sau giặc, nhân được cơ tiện lợi th́ hẳn có thể thắng được.

 

- Phàm quân dinh đóng xong, ban đêm th́ đặt riêng quân thám ở ngoài, mỗi dinh dùng quân xung đột và quân dũng cảm lần lượt thay phiên, mỗi mặt 4 người, mỗi người lănh 5 lính cưỡi ngựa đi tuần ở bốn mặt dinh, cách dinh ngoài 10 dặm, để pḥng sự bất thường. Như có báo động th́ chạy về báo trung quân. Hay sai quân cưỡi ngựa cứ đến trống canh th́ giơ lửa để hưởng ứng. Giặc trông thấy hiệu lửa không dám cướp dinh nữa.

 

- Phàm quân dinh, ban đêm lại nhằm con đường trọng yếu giặc có thể đến mà lấy quân thám kỵ để đặt phô ngầm2, mọi người đều cầm bó đuốc mà giấu sẵn lửa3 lần lượt ứng tiếp với nhau. Lại phục người ở trong cỏ hai bên đường, hay cho lên cây cao mà trông xa, biết là có giặc th́ chạy báo cho ngựa phô giơ lửa, phô trước ứng theo rồi th́ chạy tới đại quân. Đại quân cũng đặt người trông hiệu lửa.

 

- Phàm mỗi đêm lúc đặt phô, mỗi phô sai chứa 5 cây đuốc và một bó cỏ khô, lại sai giữ lửa. Nếu có báo động th́ mỗi phô đều cứu nhau, không được đi cách. Lại phải giơ đuốc lên để soi. Trung quân tức th́ đánh trống, khiến các dinh đều biết. Tướng sĩ đều mặc áo giáp, cầm cung tên, thấy ai chạy th́ bắn, tự nhiên phải đứng lại. Quân giặc nếu hơi nhiều th́ trung quân kíp ra cứu viện. Nghe dinh bị cướp có tiếng quân kêu nhiều th́ nên xét để phân biệt.

_________________________________

1. Tức là Mao Nguyên Nghi, tác giả sách Vơ bị chí.

2. Phô ngầm, tức là phô canh bí mật.

3. Đuốc chưa đốt, nhưng giấu sẵn lửa để địch khỏi thấy và khi cần th́ đốt đuốc ngay được.

 

*

*   *

 

Phàm ban ngày có giặc phạm dinh th́ dinh bị phạm phải đánh trống gấp. Các dinh thúc trống để hưởng ứng rồi dinh không có giặc thôi trống, duy dinh bị giặc đến phạm, nếu giặc không tan, th́ cứ thúc trống măi. Các quân đều mặc áo giáp, cầm binh khí, nh́n cờ hiệu ngũ phương của đại tướng chỉ về đâu, tức là đường ấy giặc đến, chỉnh đồn binh giáp, ra trước bày hàng, chưa nên hoạt động, đều chờ quân đến cứu, theo lệnh đại tổng quản mà tiến hay dừng.

 

Phàm quân dinh lo bị giặc phạm th́ ở ngoài dinh phải thường đặt một đội riêng để pḥng hộ, rút ở chiến đội thường của dinh mà sung vào; cách lều tướng 30 bước1 bày đội phục sẵn. Nếu giặc đến, đội pḥng hộ mà không địch được th́ trong dinh mới ra quân giúp, không được để giặc phạm vào đại dinh.

 

Phàm quân dinh bị giặc đến phạm th́ đại tổng quản phải tự đem quân ra cứu, thường trước đă cùng với các tướng ngầm hẹn rằng binh sĩ đeo lục lạc ở ḿnh làm hiệu, dinh bị giặc xâm phạm nghe thấy tiếng lục lạc tức biết là quân đại tổng quản đến, hoặc lục lạc hoặc đạc đều không thể định trước, v́ sợ quân giặc ăn cắp mật hiệu.

 

Phàm quân dinh đóng lâu th́ ở chốn thung lũng trên đường giặc đi nên đào hào cắt đứt rộng 3 trượng sâu 2 thước, rồi lấy cát nhỏ và đất rời lấp bằng đi, mỗi ngày kiểm xét và quét cho sạch sẽ, hễ quân gian ra vào và quân ngựa qua lại đều có thể thấy hết.

 

Phàm chỗ quân đóng, ở trong binh kỳ2 nên kén những người cứng rắn quả quyết, am hiểu đường sá sông núi, và ở lâu trong quân, cùng với lính phô đă làm việc với nhau lâu ngày, cho nấp chờ ở ngoài nơi kín đáo, dùng phép bắt sống mà bắt những người lấy củi chăn ngựa ḍ thám cho giặc, điệu về đề tra hỏi công việc trong giặc; khi làm th́ đừng cho binh du địch3 biết.

 

Phàm trong quân ban đêm cứ khoảng một trăm bước th́ để hai người nghe, mỗi canh đổi nhau một lần, để làm việc nghe ŕnh vặt. Như ban đêm ở dinh địch có tiếng ngựa hí th́ biết mưu nó chuẩn bị đi đánh cướp đêm, lấy đó mà suy, để đề pḥng sự không ngờ. C̣n lo ḍ thăm không được xa, cho nên sai người thính tai ít ngủ, nằm gối vào cái hồ lộc không để nghe, hồ lộc th́ dùng da lợn rừng mà chế, phàm người ngựa đi ngoài 30 dặm, đông tây nam bắc đều có thể nghe được tiếng vang. Mỗi dinh th́ đặt 1, 2 sở, nơi quan trọng th́ đặt 3, 4 sở. Các phô lẻ và nơi rào phên trấn giữ cũng đều đặt một sở để nghe, nghe rồi đổi đi nơi khác, không nhất định để một chỗ.

 

Phàm đánh ban đêm, phần nhiều do quân địch đến đánh úp lũy quân ta, bất đắc dĩ mà phải đánh. Phép đánh là ở chỗ lập dinh. Phép lập dinh cũng như phép lập trận, cho nên Binh chí nói: Quân đỗ th́ làm dinh, quân đi th́ làm trận. V́ là trận lớn bọc trận nhỏ, dinh lớn bọc dinh nhỏ, các quân trước sau tả hữu đều tự có dinh. Dinh đại tướng ở giữa, các dinh bao chung quanh, gốc cạnh liền nhau, chỗ găy đối nhau, xa không quá 100 bước, gần không quá 50 bước, đường sá thông suốt, để ra vào, đôi bên vách lũy cùng trông nhau, đủ để dùng cung nỏ mà cứu nhau được.

 

Phàm cửa đường qua lại, phải lập bảo nhỏ, trên chất củi đào lỗ làm đường ngầm; dùng thang Hồ4 bắc lên khiến người đứng trông. Hễ đêm nghe tiếng trống th́ dậy ngay, tức th́ đốt đuốc lên, quân giặc đêm vào cửa dinh, nh́n quanh bốn phía thấy đều có dinh nhỏ giữ vững cả, không biết đánh vào chỗ nào. Lúc đó trong dinh đại tướng hoặc các dinh nhỏ biết trước là quân giặc đến, cứ nên đóng quân không động, để cho quân giặc vào hết rồi sau mới đánh trống, các dinh đồng thời ứng phó, các bảo đều đốt lửa soi vào, quân sĩ các dinh đều đóng cửa lên thành mà la hét xuống quân địch, nỏ cứng cung khỏe bốn mặt đều bắn. Nếu địch đi lén vào một dinh th́ dinh bị đánh đốt lửa, cho quân ra đứng vây quanh và ra hiệu lệnh trong dinh không được rối động. Trong khoảng chốc lát, thiện ác tự sẽ chia ngay. Nếu kẻ nào chạy ra th́ đều vương lưới cả. Ngày nay lập dinh rộng răi thông suốt, nếu ban đêm có giặc đến đánh, th́ trong quân của dinh bị đánh không ai là không rối sợ. Dù có đặt nhiều thám thính, nghiêm việc pḥng bị, trong khi đêm tối cũng chẳng phân biệt được ai, dù có tốn nhiều công cũng chẳng được ǵ.

______________________________

1. Vơ bị tổng yếu, Tiền tập, quyển 5, mục “Cảnh bị” chép là 20 bước.

2. Binh lẻ, đối với binh chính.

3. Tức binh đi tuần.

4. Thang của người Hồ không rơ h́nh chế thế nào.

 

Phàm đánh vỡ giặc rồi, th́ phát thẻ cho binh đi tuần đêm để biết rơ sự canh pḥng. Mỗi đội phát treo một chiếc đèn trên cờ hiệu, mỗi tiêu phải treo hai đèn ở trên cờ hiệu, mỗi ti phải treo ba đèn ở trên cờ hiệu, nhưng cờ chính th́ dùng một đèn; cần phải treo cao thấp cho đúng cách thức. Ban đêm các dinh đều chiếu theo số đèn đă định, các dinh th́ trông đèn ở trung dinh, các bả tổng1 th́ trông đèn của dinh ḿnh, các tiêu th́ trông đèn của đại ti, các cơ th́ trông đèn của tiêu ḿnh, các đội th́ trông đèn của cơ ḿnh, các binh th́ trông đèn của đội ḿnh; đêm trông đèn cũng như trông cờ ban ngày. Đèn th́ chuẩn bị trước, trông theo hiệu lệnh ở trung quân; treo lên đèn lồng, đều có ám hiệu ở trên, không cho trùng. Lại cứ cách bản dinh ngoài 30 bước th́ phải đốt một đống củi, để ta có thể trông thấy giặc, giặc không thể trông thấy ta được. Người đốt lửa và mỗi người đứng canh gác ở cột cờ đều phải xin ám hiệu mà đi.

 

Phàm mỗi ngày, đến giờ dậu ngu hậu phải tới mạc phủ đại tướng quân xin hiệu. Sổ viết hiệu đóng giấy 24 tờ, mỗi tờ chia làm 15 ḍng, ở trục đầu ḍng th́ viết 6 hiệu quân và năm tháng ngày nào; sau giờ tị là giờ ra hiệu ở sổ, đại tướng quân tùy ư ḿnh, theo một ḍng mà viết chữ, chữ trên là chữ hét hỏi, chữ dưới là chữ đáp lại, mỗi đêm viết một ḍng. Quyển sổ có 24 tờ cộng là 360 ḍng, hết một năm th́ hết sổ, phải đổi sổ khác; như gặp năm nhuận th́ đóng thêm 2 tờ. Chữ hiệu không được phạm chữ húy của nhà nước và chữ húy của đại tướng quân, nguyên súy, đô thống… Những ngu hậu đi tuần và các ngu hậu của chư tướng, khi đại tướng quân ra hiệu phải phân minh biên rơ lấy. Phàm những chữ hét hỏi và đáp lại đều là các hiệu đại cương thôi, đến khi có báo động, hoặc sợ địch ăn cắp, hoặc sợ có nội ứng th́ không chuyên theo một hiệu đă định, nên gặp việc th́ thay đổi, hoặc qua mặt giờ th́ đổi, hoặc đến sáng th́ đổi. Ban ngày lấy tấm giấy ngũ sắc làm hiệu, giấy cũng nên thay đổi hàng ngày. Như khi chia đi đánh úp hay đặt quân phục, ban ngày hoặc lấy cờ dựng ở cửa làm nêu, lấy màu làm hiệu, chiều tối và ban đêm th́ thổi c̣i hay đánh trống nhỏ, đánh chậu đồng, gơ tấm gỗ v.v..., những tiếng ấy có thể đi xa hơn một dặm, hay sai người kêu to làm ứng nghiệm, việc đó tùy theo đại tướng quân lâm thời xếp đặt.

 

Phàm đặt phô, mỗi ngày giờ tuất (8, 9 giờ tối), giờ th́n (8, 9 giờ sáng), phải đánh trống nghiêm, ngu hậu lănh các đội giáp sĩ, dựng cờ xí lập khẩu hiệu, đi tuần ở trong quân và trên thành, ngoài dinh th́ đi tuần ở đồng, đặt phô bí mật: Kẻ ngồi canh hét hỏi: “Ai?”, người đi trả lời. “Ngu hậu tổng quản Mỗ”. Người ngồi hét: “Làm ǵ?”, người đi trả lời: “Đặt phô”, như thế ba lần hét ba lần trả lời, rồi người ngồi nói: “Ngu hậu tổng quản đi”.

 

Phàm dinh canh đêm, mỗi phô 10 người, mỗi canh 1 người, theo khắc lậu mà đánh hiệu. Một người chuyên nghe vặt, dù việc người nằm mê khiến người ta kinh hoảng cũng nên cảnh giác. Lâm thời hoặc thêm trống hiệu, hay dùng cung tên để ứng. Như thế th́ quân gian không thể làm ǵ được. Sách Miếu chú(?) chép rằng chỗ đặt phô canh, nên đặt cả phô chó nữa, v́ khi đóng quân ở trong cơi giặc, tướng sĩ đi xa mỏi mệt, nhờ chó để báo động cho.

 

Phàm các dinh ban đêm phải chiếu theo lệ định đèn đuốc làm hiệu. Đều trông xem đèn lồng mà theo, các tiêu th́ trông đèn trung quân, các đội th́ trông đèn của tiêu ḿnh, các binh sĩ th́ trông đèn của đội ḿnh, nếu lầm th́ xử theo quân pháp, so với ban ngày nặng hơn một bậc. Nếu gặp mưa to gió lớn th́ trông bó đuốc.

 

Phàm ở cạnh nơi đặt dinh, hoặc chọn địa lôi, hoặc dùng mộc pháo, treo máy ở đường, khi địch đến, máy động lửa rơi, pháo tức th́ nổ, chẳng những làm cho quân địch sợ mà cũng có thể báo động cho quân ta pḥng bị.

 

Phàm ở ngoài tám mặt nơi đặt dinh, cách dinh 1, 2 dặm th́ đốt lửa sáng, có quân giật máy chực đấy, để địch ở chỗ sáng mà ḿnh th́ ở chỗ tối. Một khi trông thấy bóng giặc th́ ngầm phát cung tên và đại pháo mà giết. Nếu đối lũy với địch th́ mỗi đội đốt một đống lửa.

 

Phàm ban đêm có giặc phạm vào đại dinh, th́ quân kỳ và quân phục đặt ở xa thấy giặc giao chiến với đại dinh phải trích dùng vài chục hảo hán cho ḥ hét đằng sau để làm cho giặc ngờ, thừa cơ cũng có thể đánh thắng được, mà nơi đóng th́ đă ở trong khoảng rừng cây núi đá, nên buộc thuốc súng và củi cỏ, hoặc chủ tướng sai người đặt máy móc để lâm thời đốt lên, như thế có thể khiến đại dinh biết là có địch, và làm cho quân địch hoảng sợ, ngỡ là quân phục của ta nhiều lắm.

_________________________________

1. Chức quan vơ chỉ huy một dinh. Xem chú giải ở trên.

 

*

*   *

 

Dinh ngầm.

 

Mao tử nói: việc quân có hư thực, không khó ở thực, mà khó ở hư. Việc trong thiên hạ đều thế cả. Nếu không có phép để làm th́ muốn khiến cho ngh́n muôn người không tiếng không h́nh, có thể được không? Cho nên phải đón nghe lời của Thích tướng quân1 như sau:

 

Phàm chỗ đóng quân kín, đến lúc th́ mới truyền cho biết, phải nổi ám hiệu đề truyền lệnh ước thúc, không được dùng lệnh phiếu mà dùng đi tuần để xem. Khi mới bốc đi hay khi mới đóng th́ trong quân không động xe, động cờ, không khua trống, không phóng pháo, không thổi đánh ǵ, tức phải dùng ám hiệu.

 

Muốn hạ dinh ngầm th́ các dinh đem đèn lồng châm lên; dùng chén đèn có chụp để hết ở đất, không thể không chuẩn bị, khi cần đến th́ đốt lên, nếu để một lúc mà làm th́ không thể kịp.

Trung quân trước hết dùng hai cái lệnh tiễn truyền cho tướng các dinh được biết, rồi thông truyền cho các đội trưởng một lượt, rồi lại chuyển cho tiền tiêu. Người đội trưởng thứ nhất cởi lấy một cái, giao cho bả tổng ti thứ nhất2 thu xét, và truyền trả một cái trở về. Lệnh truyền hạ ám dinh thế là mọi người đều biết. Chờ truyền một cái tên nhỏ ngắn để giao cho tiêu3 làm bí mật. Trước đă có sai quan ở đó, hỏi ám hiệu đúng th́ cho họ điều độ mà bí mật hạ dinh. Nếu đặt dinh có cái ǵ sai th́ cho một người bí mật đi, sẽ nói để sửa đổi, không cho nhiều người kêu to. Làm trái th́ xử theo quân pháp.

 

*

*   *

 

Quân ta mỗi ngày đi đường bao nhiêu, địch có thể dự tính được cả, nhưng chỗ quân ta đặt dinh thời giặc không thể dự biết được. Chỗ đặt dinh có núi hiểm để phục binh và chỗ kiếm củi lấy nước phải đến, giặc đều có thể biết được. Vả quân ta tất phải theo đường quanh núi, nếu thuận tiện theo cây xanh rậm rạp, th́ núi không có đường cũng có thể theo tắt vượt hiểm mà đi. Ở những nơi dinh ta gần kề núi hiểm, th́ địch có thể tốp 3 tốp 5, ngày nấp đêm dậy, nổ súng reo ḥ, dụ quân ta ra khỏi dinh, để chúng bắt kéo vào nơi cỏ rậm, trộm bắt người và súc vật như thế để làm kế quấy phá, khiến ta ngờ sợ không dám ở lâu. Ta th́ trong lúc chưa dời quân, hăy trước đem người hướng đạo t́m lấy nơi đặt dinh rồi sau mới dời. Khi đến nơi ấy th́ xem thế hiểm để củi nước, t́m chỗ có thể đặt phục được th́ giữ lấy trước mà đặt phục để chờ giặc đến, như thế th́ tay trên đă thuộc về ta. C̣n phép dời dinh và đặt quân phục ở đường th́ nhẩn nha mà làm, không nên làm cho quân chán phiền mệt nhọc.

_________________________________

1. Tức là Thích Kế Quang, người đời Minh, giỏi binh pháp, có sách Kỷ hiệu tân thư, Vơ bị tân thư.

2. Ti ở dưới dinh.

3. Tiêu ở dưới đinh và ti, ở trên cơ và đội.

 

*

*   *

 

Phân biệt gian tế.

 

Phàm binh lính các xứ lui về đều có phiếu văn của nha môn văn vơ chắp chiếu, khi họ tản về dân gian không thu lại được. Lúc b́nh thời hành quân ở nơi dinh dă, nếu có bọn gian cầm được phiếu văn ấy nói là xin đầu quân để mưu điều biến trá, th́ không hỏi là thực hay giả, đều xem là gian tế, bắt chuyển ngay giao về cho người có trách nhiệm trong quân để tra xét định đoạt.

 

Phàm quân đi đến thôn xă nào nên dừng lại, th́ phải đóng quân ở ngoài, đừng vào vội, trước gọi phụ lăo trong thôn và lư dịch văn thân mấy người đến, vui vẻ hỏi han vỗ về như thường, xét thấy t́nh dân hướng thuận, bấy giờ mới có thể đóng quân. Sức cho lư dịch trong làng đem đinh tráng canh pḥng các ngả đường, lưu các phụ lăo văn thân ở lại nói chuyện, rồi sau chia binh ra bốn mặt pḥng giữ; đều bày rào tre và chông tre để tự vệ. Ngoài th́ đặt quân tuần và quân canh. Đêm th́ chứa củi đốt lửa để soi quân gian. Những binh pḥng thủ và binh sách ứng, cũng theo như phép đóng đồn. Binh pháp nói “Nhiều th́ chia ít th́ nhóm”, thế cho nên quân chia làm nhiều toán để đóng đồn, cùng nương tựa nhau, cùng cứu ứng nhau, có pḥng bị th́ không phải lo vậy.

 

Phàm đông quân ở nơi rừng núi đầm băi, nên chia chiếm đóng các g̣ đống cao, cùng các chỗ khe suối đầm băi; lại chia ra các ngả đường đi lại, nên lấy gỗ đá chặn lấp làm cửa lũy. Cũng phái nhiều quân tuần quân canh đề pḥng ở ngoài. Quân canh th́ đốt lửa cháy to, ngồi ở trong tối nh́n ra. Binh pháp nói “Giữ được nơi cao trước th́ thắng”, v́ rằng núi cao lên được trước th́ có thể pḥng được nước độc. Cho nên khe suối nên giữ. Đến như gặp địch, th́ hiệu lệnh cũng y như phép đóng đồn, không phiền nói nữa.

 

Phàm đóng đồn ở nơi đồng rộng, th́ y theo các thức đồn như bát quái, lục hoa, ngũ phương, thất tinh, tùy nơi mà phân bố, liệu thế gần xa rộng hẹp mà nương tựa nhau, hoặc như thế trường xà, đầu đuôi nh́n nhau, tả hữu giúp nhau. Duy đại tướng ở trung quân th́ thiết lập đài cao hay lầu thang, ngày đêm phái người trông xa. Đồn lũy ở ngoài nên làm khuất khúc, trong ngoài đào hào, cổng ngơ che lấp. Quân tuần quân canh cũng y như trước, duy mật phái nhiều người cẩn tín ngầm đi ḍ xét, sợ bọn gian nhân sơ hở lẻn vào. Gần đấy có rừng rậm th́ phải đặt quân ngày đêm thay đổi canh pḥng cẩn thận, không nên trễ tràng, như thế th́ địch không dám phạm.

 

Phàm quân đi tới nơi nào nên dừng lại ngủ đêm, phải đến giờ thân1 th́ dừng, không nên đi đến tối. Trước hết phái lính cưỡi ngựa mật truyền cho quân các toán biết, để sức cho du binh đi trước t́m ṭi, và phái người hiểu biết công việc cưỡi ngựa đi trước mà xem xét địa thế hiểm dễ và các đường đi lại khuất khúc thế nào, vẽ tạm một bản đồ dâng tŕnh. Toán nào nên ở chỗ nào, đều truyền báo trước. Trung quân th́ đại tướng ở giữa; y theo tiền hậu tả hữu các toán phân bố bốn bên. Giao cho binh các toán đóng ở ngoài để hộ vệ trung quân; tùy địa thế mà ở, đều theo đội ngũ, không được lấn vượt nhau. Ở ngoài th́ phái du binh đi tuần các phía để ḍ xét. Các ngả lại đặt binh xích hậu để giữ các đường yếu lộ. Chất củi khô ở xa trước xích hậu cách 4, 5 trượng đốt sáng để soi phía trước, khiến quân gian không thể náu h́nh. Lính canh th́ ở trong chỗ tối mà ŕnh, ở tối nh́n ra sáng rất dễ. Lính trú th́ cần phải im hơi tiếng, để nghiệm việc tuần xét. Nhân khẩu của dân th́ cử lư dịch sở tại khai nhận số người, bất th́nh ĺnh xét hỏi để pḥng bọn gian lẻn vào ḍm nghe. Năm canh đều phái người đi tuần pḥng và cho khẩu hiệu. Cấm binh và dân không được giao tiếp chuyện tṛ, sợ tiết lộ binh cơ.

__________________________________

1. Giờ thân: Bốn năm giờ chiều.

 

IV – TUẦN CANH

 

Phàm quân đi, ngủ đêm và đóng đồn ngủ đêm, cần phải năm canh tuần pḥng canh giữ cho đến sáng rơ (địch thường nhân lúc buổi tối và khoảng trống canh tư trống canh năm mà đánh úp, nên phải giữ cẩn thận). Phép canh th́ mỗi đội nguyên có 4 thập, 1 viên suất đội, 4 đội viên trưởng, mỗi canh mỗi thập 2 tên, cộng là 8 tên. Canh một th́ suất đội đốc coi, canh 2, 3, 4, 5, mỗi canh một người đội trưởng đốc coi. Mỗi thập 2 người canh th́ một người cầm giáo, một người cầm súng, một người đứng, một người ngồi, luân phiên thay đổi, một người trông ngoài để pḥng kẻ gian, một người xem trong để xét ở trong. Hoặc có người lính nằm mơ sợ hăi, th́ người lính canh một mặt bưng giữ lấy miệng một mặt đánh thức người nằm mơ ấy tỉnh dậy, đừng để kêu to. Nếu lính canh không giữ miệng và thức tỉnh người mơ để đến nói bậy làm kinh động th́ người lính canh phải xử chém, người lính nằm mơ th́ giảm một bực mà trị. Trong năm canh phái nhiều quân đi tuần (theo binh pháp có 1000 người th́ lấy 500 người làm sách ứng, 500 người chia đóng giữ, đóng đồn, canh giữ, đi tuần, để pḥng có bạo động ban đêm và phái quân tiếp ứng).

 

Đại tướng ban đêm lấy c̣i gọi quân đi tuần (ở mặt trận, mỗi canh một lần đi tuần, lúc b́nh thường th́ vào khoảng canh ba, canh tư, thổi c̣i đi tuần cho nghiêm việc pḥng bị). Khi nghe trung quân thổi c̣i th́ người lính canh gọi người lính nằm tỉnh dậy, đều cầm gươm súng, y theo chỗ của ḿnh mà chờ đợi, sẵn sàng chiến đấu. Nghe một hồi c̣i rồi th́ lặng ngồi mà nghe. Như có việc chiến đấu th́ đợi được lệnh truyền, như không có việc lại nghe có 3 tiếng c̣i nữa là thôi, người canh đổi canh, người nằm vẫn nằm. Phép khẩu hiệu, như ở mặt trận th́ mỗi canh một lần đổi, như b́nh thường th́ năm canh đổi một khẩu hiệu, sợ khẩu hiệu tiết lộ ra ngoài. Như hỏi: chiến, trả lời: thắng, hỏi: yên, trả lời: không, ba lần như thế. Ám hiệu bằng hỏa mai th́ một cây chỉ về trước, hoặc về bên tả, hay 2, 3 cây không nhất định. Việc binh thuộc về âm, nên chủ im lặng. Ban đêm, kẻ nào nói to làm kinh động, th́ chém không tha.

 

Phàm đồn quân ra vào, nên đi quanh mà không nên đi thẳng. Ngoài đặt b́nh phong che cửa (hoặc bằng đất hoặc bằng gỗ, tùy dụng) để pḥng súng đạn và xung phong. Hai bên tả hữu th́ chứa nhiều gạch đá để pḥng ném xuống. Hoặc có vôi bột hay tro nóng th́ rất tốt, để phả vào mắt người. Hai bên cửa lại trồng cột cao để treo bó đuốc, khi có việc đốt lên cho sáng. Thân lũy dài th́ cách 2, 3 trượng treo một cây đuốc để pḥng soi đêm. Hai bên cửa đều đặt súng lớn, bắn xa nạp đạn chiến, bắn gần nạp đạn ria, đạn hột đậu. Lính canh giữ cửa th́ phái một đội quân, 1 suất đội; 4 đội trưởng, 40 tinh binh (trừ hỏa binh ra), súng chim 20 khẩu; bên tả cửa th́ đội trưởng 1 người, lính 10 người (súng chim 5 cây giáo nhọn 5 cây), bên hữu cửa cũng thế, để hộ vệ súng lớn và hai bên cửa; suất đội 1 người, đội trưởng 2 người, lính 20 người (súng chim 10 cây, giáo nhọn 10 cây) canh giữ cửa chính. Ngoài lũy th́ trồng tre nhọn 3 trượng để pḥng sự xung phong của địch. Khi có việc th́ không kỳ ngày đêm, đều theo bổn phận của ḿnh mà pḥng giữ, tùy theo trường hợp nhẹ nặng, phái quân sách ứng, tiếp đến phụ chiến. Ở trong đồn lũy th́ lập đài thang để trông xa. Quân canh giữ không được ĺa chỗ, người ngoài không được lẻn vào, trái th́ chém.

Thu và tan canh.

Phàm cuối giờ dậu th́ thu canh, đầu giờ dần th́ tan canh. Đến giờ thu canh, tướng hiệu ở trong đồn bày đặt chiêng, thanh la, trống, ba khẩu súng. Thổi c̣i một lượt để cho ba quân nghiêm sự nh́n nghe. Quân sĩ đều nghiêm túc ở trại ḿnh. Trống, chiêng, la đều đánh một tiếng, mơ ứng theo 3 tiếng, đều ba lượt như thế với 3 tiếng lẻ, rồi bắn 3 tiếng súng lệnh. Khi tan canh cũng y như thế, mà miễn đánh mơ. Lúc thu th́ tiếng hơi thưa, lúc tan th́ tiếng hơi dày.

 

V - QUÂN TƯ (Đồ ăn uống)

 

Lương. Phép trù lương, đại ước tính hằng năm th́ nên lập đồn, tính hằng tháng th́ nên vận chở, tính hằng ngày th́ nên lưu cấp. Đường đi ngh́n dặm th́ việc vận chở và lưu cấp phải cùng làm, mà khi dời đổi không thường th́ việc chuyển dời và lưu cấp cũng phải cùng làm. Nhưng khi cấp bách quá, không kịp dùng chảo nồi th́ dùng lương khô. Bằng lấy được lương của địch, cùng là không mà làm ra vẻ có, rỗng mà làm ra vẻ đầy, đường vận tải đứt mà bị vây lâu, phải t́m trăm thức để nuôi sống, th́ đó chỉ là cách cứu nhất thời, chứ không thể làm thường xuyên được. Việc ăn là việc gốc của dân, là việc tính mệnh của binh, tất phải mưu sao cho không hết, chở sao cho có luôn, hộ vệ sao cho chu đáo, tiêu dùng sao cho có chừng.

 

 

 

*

*   *

 

 

Sách Yên thủy thần kinh:

 

Phép dùng khi không có nước. Phàm gặp chỗ đóng dinh không có nước, th́ t́m nơi nào có nhiều lau sậy mọc và có lỗ mối đùn, ở dưới tất có suối ngầm; hay t́m đường có dấu chân thú đi, theo đó không xa hẳn là có nước.

 

Phép cướp lương. Phàm quân địch xông lại cướp lương th́ mũi nhọn tất hăng, quân lương của ta ít, nên lánh mũi nhọn ấy đă, đợi khi chúng trở về, vai mang hẳn nặng, trong bụng tất sợ ta, ta sai quân phục ở đường trọng yếu, vùng dậy đánh là lấy được lương.

 

 

 

*

*   *

 

 

Phép nấu cơm trên cật ngựa (1).

_________________________________

1. Ở đây trích 2 chương của Hổ trướng khu cơ, đây xin bỏ, xem Hổ trướng khu cơ ở sau.

 

*

*   *

 

Sách Vơ bị chế thắng chí1:

 

Đem lương. Phàm ngh́n dặm đem lương, quân có sắc đói, kiếm củi hái rau rồi sau mới nấu cơm, th́ quân không được ngủ no. Huống chi đi sâu vào đất địch, xe chở lương không thông được, phải đánh úp địch để lấy lương. Tuy nói lấy lương ở địch, nhưng cũng lo nó làm cách vườn không nhà trống để chờ ḿnh. Vậy nên mỗi người phải đem vài đấu lương khô có thể dùng được vài tuần. Nếu rút quân ở đường, cách cơi c̣n xa, lương chứa thiếu thốn, tức phải chọn những trâu ngựa gầy c̣m để cho quân ăn, ngơ hầu giữ được sức người, không bị giặc làm khốn. Dùng gạo một thạch, đem chưng chín lên, rồi bỏ vào nước tương mà ngâm, dùng lửa sấy khô, lại chưng lại sấy, làm thế mươi lần, có thể được độ 2 đấu. Mỗi lần lấy ăn chỉ một lẻ to, trước lấy nước nóng mà ngâm, đợi cho trương lên, rồi sau đem nấu ăn, mỗi người có thể ăn được 50 ngày.

 

Muối 3 đấu, đem trộn với gạo, bỏ vào trong nồi, dùng than lửa rang, làm cho săn lại không tan, mỗi người có thể ăn được 50 ngày, đem đi tháng hè th́ hợp.

 

Vải to một thước, lấy một thăng giấm chua tẩm đem phơi khô, hễ giấm hết th́ thôi, mỗi khi ăn, cắt lấy một tấc mà nấu, có thể ăn được 50 ngày.

 

Lấy bột tiễu mạch gói một tấm bánh chưng, tẩm vào một đấu giấm, đem phơi khô, bao giờ hết giấm th́ thôi, mỗi lần ăn, lấy bằng 2 quả vông mà nấu, một người có thể ăn được 50 ngày.

 

Lấy 3 đấu đậu, giă ra như cao, thêm vào 5 đấu muối, nắm làm bánh, phơi khô để ăn, to bằng hột táo, để thay tương, mỗi người có thể ăn được 50 ngày.

 

Như lúc gay go lắm th́ các đồ quân trang bằng da cũng có thể nấu ăn để cứu đói được.

 

Trên đường hành quân th́ tước lấy vỏ cây thông, mỗi 10 đấu vỏ thông th́ cho vào 5 lẻ gạo để nấu, sai nấu chín nhừ ra, nửa đấu một người có thể ăn được một ngày.

 

Mỗi người đem đi nửa cân vừng, gặp lúc khát th́ nhấm 30 hột là khỏi khát ngay; cũng có thể đem ô mai hay tương quả; mỗi người mang theo một quả bầu hay ống tre, túi da, có thể chứa độ 2 cân, liệu nước ở đường trước mà đựng nước đem theo. Quân ngựa th́ mỗi người đem tương khô cho ngựa, sợ ngựa khát.

 

Đời gần đây lính biên pḥng đi xa th́ có các thứ bánh bột, cơm nắm, túi miến. Bánh bột dùng bội gạo làm miến, ḥa vào nước sôi làm thành bánh, dày một phân, đợi nguội cắt ṿng như con cờ, phơi khô cất đi, như ở dinh trại th́ dùng nước nóng ngâm mà ăn, như đi đường và trong chiến trường th́ ăn khô, vị ngon mà khỏi khát, hơn các thứ bánh tạp. C̣n cơm nắm túi miến th́ đều làm theo phép thường, duy phải phơi cho rất khô, để có thể đem đi và để lâu.  

 

T́m nước. Trong khi hành quân, nên trước chọn suối nước. Theo phép cũ th́ quân đi trước và quân đi sau phải trông coi việc cỏ nước, giữa đường gặp nước th́ nên kéo cờ đen để báo cho mọi người.

 

Phàm quân đến đâu thiếu nước, th́ xem chung quanh đấy thấy có dấu đường ngựa ḅ đi, th́ t́m xem dấu đến đâu, hẳn là có nước.

 

Phàm ngoài đồng thấy nơi nào chim muông tụ họp hay nơi có loài chim nước họp th́ đấy phải có nước.

 

Phàm chỗ đất mọc lau sậy cỏi lác và có đống mối đùn th́ ở dưới hẳn có suối ngầm.

 

Có thuyết nói lạc đà hay biết chỗ có nước, khi đi đường bị khát, th́ nó quỳ xuống trên cát, đào dưới đấy th́ có mạch nước.

 

Đại phàm quân đi về tháng mùa đông, mỗi người đều mang một cục nước đá, trời lạnh không tan được, cũng có thể pḥng khát.

 

Phàm suối nước ở cách dốc núi th́ lấy ống trúc lớn, chọc thủng mắt đi, để ngọn ống này đút vào gốc ống kia, rồi lấy dâu và vôi hay sáp ong gắn liền cho khỏi chảy nước, đẩy đầu ống trúc cắm vào trong nước tới 5 thước, rồi ở cuối ống đốt củi thông hay cỏ khô, khiến cho hơi ở trong ống trúc ngầm thông vào nước, th́ nước từ trong chảy ngược lên.

_________________________________

1. Vơ bị chế thắng chí, quyển 5, chương “Quân ta”.

 

VI – H̀NH THẾ

 

Sách Kinh thế:

 

Xem nơi đóng quân.

 

Phàm tiến quân đánh địch, trước hết phải xem h́nh thế đất địch: mười dặm th́ có h́nh thế mười dặm, trăm dặm th́ có h́nh thế trăm dặm, ngh́n dặm hay mấy ngh́n dặm đều có h́nh thế cả; tức trong khoảng mấy ngh́n dặm, một dinh một trận cũng đều có h́nh thế. Một h́nh thế tốt có họng, có lưng, có hông hữu, hông tả, có chỗ căn cơ yếu hại, mà có thể cậy được là cậy ở núi, cậy ở sông, cậy ở thành vách, cậy ở quan ải hiểm trở, cỏ cây rậm rạp, đường sá lẫn lộn. Đánh địch th́ phải biết đường nào nên tiến, chỗ nào nên đánh, đất nào nên tới, chỗ hở nào nên lợi dựng, núi nào nên đặt phục, đường lối nào nên qua, chỗ hiểm nào nên giữ, để tiện cho quân kỵ, quân bộ, tiện cho đoản binh trường binh, tiện cho trận ngang trận dọc; đă tính toán rồi th́ sau mới có thể chẹt họng hay vỗ lưng, hoặc xuyên hông, hoặc nắm nơi căn cơ yếu hại. Cậy núi th́ t́m phép để vượt qua núi; cậy sông th́ t́m phép để sang qua sông; cậy thành vách, quan ải, đường sá, cỏ cây, th́ t́m cách bạt thành, phá vách, vượt quan qua ải; đốt cây trừ cỏ, khảo xét những đường to ngơ tắt. Thế ở ngoài th́ đừng khinh suất mà vào sẽ như cá trong nồi, khó mà thoát khỏi. Thế ở trong th́ đừng đi quanh lượn, sẽ như hổ t́m dê trong chuồng, không thể ăn được. Cho nên thành mà không có quân phục th́ khó đánh; quân mà không có hướng đạo th́ khó tiến; núi sông nhờ người ngựa mà giữ bền, nếu người có thể chống cự được th́ núi sông có hiểm ǵ đâu?

 

Đất có h́nh thế ở nước Thục không đâu bằng núi Điếu-ngư. Xin kết với chư hầu, nếu dúng được người và chứa thóc mà giữ th́ có thể giỏi hơn 10 vạn quân nhiều lắm. Ba Thục không đủ giữ được.

 

 

*

*   *

 

Trước có người bạn hỏi ta rằng: Địa lư thế nào?1

 

 

 

*

*   *

 

 

Sách Tôn tử:

 

H́nh đất có nhiều thứ, có thông, có quải, có chi, có ải, có hiểm, có viễn. Ta có thể đi, địch có thể lại, th́ gọi là thông. H́nh đất thông ta chiếm trước, lấy được chỗ cao sáng, lợi đường vận lương, đánh th́ có lợi. Có thể đến dễ mà trở về khó, th́ gọi là quải (vướng). H́nh đất quải hễ địch không pḥng th́ ra đánh thắng được, bằng địch có pḥng th́ ra đánh không thắng được, khó trở về, không lợi. Ta ra mà không lợi, nó ra cũng không lợi, th́ gọi là chi (cầm). H́nh đất chi, địch tuy lấy lợi nhử ta, ta không ra, đem quân bỏ đi, để địch ra nửa chừng mà đánh th́ lợi. H́nh đất ải (hẹp) mà ta đến ở trước rồi th́ phải đóng chặn cửa ải mà chờ địch. Như địch đến ở trước, nếu nó đóng chặn cửa ải th́ ta không theo vào, không đóng chặn th́ ta theo vào. H́nh đất hiểm mà ta ở trước th́ phải đóng trên cao để chờ địch. Như địch ở trước th́ ta bỏ đi không theo vào. H́nh đất viễn (xa) th́ thế đều nhau, khó mà khiêu chiến, chiến th́ không lợi. Phàm sáu h́nh đất ấy là đạo lư về đất, người làm tướng gánh vác không thể không xét kỹ2.

________________________________

1. Đoạn này trích ở Hổ trướng khu cơ, đây xin bỏ, xem Hổ trướng khu cơ ở sau.

2. Tôn tử, thiên X.

 

*

*   *

 

Trong phép dùng binh, có đất tán, có đất khinh, có đất tranh, có đất giao, có đất cù, có đất trọng, có đất dĩ, có đất vi, có đất tử. Nước chư hầu tự đánh ở đất ḿnh, gọi là đất tán (tan). Lấn vào đất người mà không được sâu, gọi là đất khinh (nhẹ). Ta được th́ lợi, họ được cũng lợi, gọi là đất tranh (giành). Ta có thể đi, họ có thể đến, đó gọi là đất giao (xen nhau). Đất chư hầu kề liền ba nước, đến trước mà được quân của thiên hạ giúp th́ gọi là đất cù (đường thông). Vào sâu đất người, quay lưng lại nhiều thành ấp, th́ gọi là đất trọng (nặng). Rừng núi hiểm trở lầy lội, đường sá khó đi, th́ gọi là đất dĩ (lún). Lối đi đến th́ hẹp, lối về th́ cong, họ ít có thể đánh ta nhiều, thế gọi là đất vi (vây). Đánh gấp th́ c̣n, không đánh gấp th́ mất, thế gọi là đất tử (chết). Cho nên đất tán th́ không nên chiến đấu; đất khinh th́ không nên dừng quân; đất tranh th́ không nên đánh; đất giao th́ không nên bỏ dứt; đất cù th́ giao kết; đất trọng th́ cướp lấy; đất dĩ th́ đi tới; đất vi th́ lập mưu; đất tử th́ đánh. Gọi là người giỏi dùng binh đời xưa biết làm cho địch. trước sau không tiếp kịp nhau, nhiều ít không cậy nhau, sang hèn không cứu nhau, trên dưới không giúp nhau; binh tan mà không hợp, binh hợp mà không đều; hợp với lợi th́ động, không hợp với lợi th́ dừng1.

 

 

 

*

*   *

 

 

Cải biến của chín đất, cái lợi của sự co duỗi, cái lẽ của t́nh người, không thể không xét. Phàm đem quân vào đất người, ở chỗ sâu th́ phải chuyên, ở chỗ cạn th́ phải tán. Bỏ nước vượt bờ cơi mà mang quân đi, đó là ở đất tuyệt; bốn mặt đều có đường thông, đó là đất cù; đi vào sâu là đất trọng; đi vào cạn là đất khinh; trở lưng ra nơi vững, trước mặt th́ chật hẹp, đó là đất vi; ở vào nơi không thể tiến được, đó là đất tử. Thế cho nên ở vào nơi đất tán th́ ta phải một ḷng; ở vào nơi đất khinh th́ quân phải liên tiếp; ở vào đất tranh th́ ta ruổi đi sau; ở vào đất giao th́ ta giữ cẩn thận; ở vào đất cù th́ ta kết cho chặt; đất trọng th́ ta phải tiếp lương thực; đất dĩ th́ ta phải tiến lên (cho mau); đất vi th́ ta đóng chặn chỗ hở; đất tử th́ ta tỏ là không cần sống. Cho nên t́nh của binh, địch vây th́ chống, không được th́ đánh, nó qua th́ theo2.

 

*

*   *

 

Quân đi, thích chỗ cao mà ghét chỗ thấp, quư chỗ sáng mà rẻ chỗ tối3. Phàm h́nh đất các nơi đều có khác nhau, gọi là tuyệt giản, thiên tỉnh, thiên lao, thiên la, thiên hăm, thiên khích4. Quân đi gặp những h́nh đất ấy th́ kíp xa ngay mà đừng có tới gần. Ta lánh xa cho địch tới gần, ta hướng vào đấy cho địch dựa vào đấy5. Thế cho nên hành quân nên xa sau chỗ hại đó.

_________________________________

1, 2. Tôn tử, thiên XI.

3. Tôn tử, thiên IX.

4. Mai Nghiêu Thần, một nhà chú giải sách Tôn tử (Tôn tử thập gia chú) chú rằng: Trước sau hiểm dốc, nước chảy ngang ở giữa là tuyệt giản (suối ngăn); bốn mặt đều có suối khe chảy về là thiên tỉnh (giếng trời); ba mặt cách tuyệt, dễ vào khó ra là thiên lao (cũi trời); cỏ cây chằng chịt, gươm mác khó trở là thiên la (lưới trời); thấp lội trơn bẩn, xe ngựa chẳng thông là thiên hăm (bẫy trời); hai núi chạm nhau, đường hang chật hẹp là thiên khích (khe trời)

5. Xem Tôn tử, chương IX.

 

*

*   *

 

Người đánh giỏi v́ có đất mà mạnh, v́ có thế mà thắng; như chuyển ngh́n ḥn đá ở trên núi ngh́n nhẫn1, chỉ nhờ có địa thế. Binh v́ có đất mà mạnh; đất v́ có binh mà hay. Người giỏi dùng binh th́ (địch ở) núi cao chớ nghển (lên mà đánh, địch) dựa vào g̣ chớ đón (mà đánh)2, quư chỗ sáng mà rẻ chỗ tối, nuôi lấy sống mà ở chỗ chắc3, thế th́ không có hại ǵ hết.

 

 

 

*

*   *

 

 

Xưa Cao tổ giữ đất Quan-trung, Quang-vũ giữ đất Hà-nội, đều là nơi rễ sâu gốc bền để chế thiên hạ, tiến có thể thắng được địch, lui có thể đủ giữ bền, cho nên dù có khi khốn bại mà sau cùng thành được nghiệp lớn. Tướng quân vốn lấy Duyện-châu làm đầu..., và Hà Tế4 là đất trọng yếu của thiên hạ..., đó cũng là Quan-trung, Hà-nội của tướng quân, không thể không dẹp trước... 5. Nay địa thế không có lợi, chưa thấy có nơi nào dùng được. Nên chọn g̣ cao để giữ, khiến địch không thắng được. Địch giữ chỗ hiểm lấy làm bền, trước mặt là núi cao, sau lưng là thành dài, quân ta ở trên núi đánh xuống hẳn phải vỡ.

 

 

 

*

*   *

 

 

Sách Hồng vũ đại định:

 

Phép địa lợi ở trên núi cao đánh xuống thấp: Địa thế ở trên núi cao lợi, xông đánh xuống thấp th́ thắng; lợi dùng cán thương, không lợi dùng lá chắn. Ta tới trận địa, trước phải nhằm nơi g̣ cao mà giữ, khiến địch ở dưới thấp; hay ở nơi g̣ cao chằm lấy, th́ ta nên đến trước g̣ cao khiến địch ở dưới thấp.

 

Lời quân sấm nói:

 

      Đất nổi g̣ cao, đến chiếm ào ào.

      Núi không cỏ cây, nước không sông dài,

      Lợi cao đánh thấp, không lợi ẩn nấp.

      Từ cao đánh hăng, giặc không dám đương.

 

Đó là nói lợi cao đánh thấp. Nếu giặc đă chiếm giữ làm kế lâu dài th́ ta không đánh.

_________________________________

1. Nhẫn: đơn vị để đo chiều cao đời xưa.

2. Xem Tôn tử, chương VII.

3. Xem Tôn tử, chương IX.

4. Duyện châu là miền tây-nam tỉnh Hà-bắc và miền đông-bắc tỉnh Sơn-đông.

Hà Tế là sông Hoàng-hà về tỉnh Hà-bắc và sông Tế-giang về tỉnh Sơn-đông.

5. Trích Tam quốc chí, Ngụy thư, “Tuân Húc truyện”. Đây là Tuân Húc nói với Tào Tháo.

 

*

*   *

 

Sách Vơ kinh:

 

Thái tôn nói: Thái công nói lấy bộ binh và quân xa kỵ để đánh tất phải dựa vào g̣ mả hiểm trở, mà Tôn tử lại nói rằng chỗ đất thiên khích và nơi g̣ mả thành cũ, quân không nên ở là thế nào?

 

Tĩnh nói: Việc dùng binh là ở một ḷng; một ḷng là cấm giới rơ ràng, bỏ sự ngờ vực. Nếu chủ tướng có chỗ nghi kỵ th́ quân t́nh lay động; quân t́nh lay động, th́ địch thừa hấn mà đến. Đóng dinh giữ đất chỉ tiện cho quân sự mà thôi. Đến như những nơi giản, tỉnh, hăm, khích1 và các chỗ lao, la2 th́ nhân sự không tiện, cho nên nhà binh phải bỏ mà lánh đi, để pḥng địch thừa thế đánh ta. G̣ mả thành cũ không phải là nơi hiểm tuyệt, ta được nơi đó mà lợi th́ sao lại bỏ mà đi? Lời Thái công nói là điều chí quan yếu cho nhà binh vậy3.

 

 

 

*

*   *

 

 

Sách Kinh thế:

 

Người giỏi dùng binh cần phải lượng thế. Ở vào một góc, mà thiên hạ lung lay, không ai ở yên được, là v́ nắm được chỗ tay trên vậy. Lấy ít chọi nhiều mà bền sắc phải tránh phải vỡ, không ai dám tranh, là v́ chẹt được nơi trọng yếu vậy. Phá một dinh mà mọi dinh đều tan, được một xứ mà các xứ đều theo, là v́ triệt được chỗ họ nhờ vậy. Trận chẳng đợi phải giao hợp, ngựa chưa phải dùng roi cương, địch trông bóng cờ mà đă vội vàng thua chạy, là v́ làm nhụt khí nó vậy. Biết xem thế đặt, biết lập thế quân, khéo dùng kỹ thuật, đánh không đâu là không lợi.

 

Chế người ta ở lúc nguy nan, chẹt người ta ở chỗ sâu hẳm, nhử người ta vào chỗ phục binh, trương máy đặt cạm, tất tính là địch không thể thoát th́ mới phát, v́ phát sớm th́ địch trốn, mà phát chậm th́ lỗi thời. Cho nên người giỏi dùng binh đưa người ta vào chỗ không biết. Cái đạo hành binh, quư nhất là biết địa lợi, địa lợi không rơ th́ rất khó ra quân kỳ đặt quân phục. Đến chỗ nào th́ tướng và quân coi dinh trước hết phải đem h́nh thế hiểm dễ của sông núi vẽ thành đồ bản, non non, nước nước, không thể lẫn lộn, mà không cần tô điểm trang hoàng cho đẹp mắt, nhưng phải chủ thích rơ ràng quân ta nên do đường nào mà tiến, nơi nào nên giữ, nơi nào nên đặt phục, nơi có hay không dấu chia đường, nơi nào có thể hợp quân, nơi nào có thể quyết chiến, quân giặc tất do nơi nào mà đến, nơi nào nó có thể mai phục, nơi nào nó có thể chặn sau lưng ta, bằng đối địch th́ quân ta nên đóng nơi nào để có địa lợi, nơi nào núi hiểm hang sâu, có rừng rú hay không, trong ấy rộng hay hẹp, nơi nào có thể phục binh được bao nhiêu tên, nhất thiết ghi rơ, dâng lên cho đại tướng, lại thêm ư kiến của ḿnh châm chước kỹ càng.

______________________________

1, 2. Thiên giản, thiên tỉnh, thiên hăm, thiên khích, thiên lao, thiên la: Xem chú giải ở trên.

3. Vơ kinh trực giải, phần “Lư Vệ công vấn đối”.

 

VII – PH̉NG BỊ1

 

Phàm việc chưa nghĩ đến được th́ ḷng hẳn sợ, ḷng sợ th́ thảng thốt không tính toán được, đó là điềm thua. Cho nên phải tính địch đánh úp th́ lấy ǵ mà ứng, địch xông lại th́ lấy ǵ mà chống, địch cắt đôi th́ phân làm sao, bốn mặt địch lại th́ đánh làm sao. Phàm những việc khó khăn gian hiểm th́ dự trù mà phân bố, cần có phép nhất định và tính cả phép không nhất định, rồi sau ḷng mới yên khí mới định, xảy gặp th́ không sợ, trong bước lụy mà không nguy. Người xưa làm việc quân, qua sự hiểm vượt sự khó, làm yên không lo, nếu không có mưu trí kỳ dị, lo nghĩ trong chỗ không ngờ, đặt phép trong chỗ không pḥng, địch lớn không sợ, địch nhỏ không khinh, kế hoạch chu đáo không dám cậy mà phải làm chu đáo hơn th́ làm thế nào được!

 

Cần. Người dùng binh không lúc nào là không nguy, cho nên không lúc nào là không cẩn thận. Vào trong quân th́ như người có trinh sát; ra ngoài cơi th́ nghiêm sợ như lúc giao trận; khi được lấy th́ nghiệm cái ǵ không hại; gặp sự hiểm th́ phải t́m kẻ gian; địch đến th́ lo có mưu; ta ra quân th́ có kế trước; cẩn thận mà làm việc quân, đó là đạo hay nhất.

 

Biết. Một là thông; hai là điệp; ba là trinh; bốn là hướng. Thông là thông biết mưu kế của địch. Điệp là biết sự thực hư của địch. Trinh là biết sự động tĩnh ẩn hiện của địch. Hướng là biết được núi sông rậm rạp, đường sá quanh co, thế đất hiểm dễ. Biết được mưu kế th́ biết được cách phá; biết được hư thực th́ biết được cách đánh; biết được động tĩnh ẩn hiện th́ biết thừa cơ; biết được sông núi đường sá th́ biết được lối đi lại.

 

Trời. Gió giật ào ào, cần pḥng ngọn gió; các sao đều động, hẳn có mưa sa; mây mù bốn phía, sợ có quân nấp đánh úp; gió dữ mưa to, sấm sét dồn dập, th́ gấp chuẩn bị nỏ khỏe. Người khéo nhân th́ không việc ǵ là không thừa cơ; người giỏi pḥng th́ không dịp nào là không ứng dụng. Trời chưa từng không do ở người, duy người là có thể nhân mà lấy dùng vậy. Cần ǵ phải cầu nghiệm ở đâu?

 

Nhân. Phàm giặc đánh ta là có bảy điều nhân: ngày đêm mỏi mệt th́ nhân ta nhọc; cầm cự lâu ngày th́ nhân ta lười; gió mây mù tối th́ nhân ta lơ; tên hết súng thưa th́ nhân ta thiếu; ụ đơn bờ yên th́ nhân ta sơ hở; lửa cháy rối ren th́ nhân ta nguy cấp; thanh đông kích tây để nhân ta không ngờ. Đó là bảy điều nhân. Thành c̣n hay mất, không thể không pḥng bị vậy.

 

 

*

*   *

 

Lương Huệ vương2 hỏi Uất Liệu tử3 rằng: Hoàng đế dùng cả h́nh và đức cho nên trăm đánh trăm thắng, có thế không? Uất Liệu tử thưa: H́nh để đánh kẻ có tội, đức để giữ nước, không phải là chỉ thời giờ âm dương thuận trái của trời đâu. Hoàng đế làm đó chỉ là nhân sự mà thôi. Sao thế? Ví nay có một cái thành, đông tây đánh cũng không lấy lại được. Vậy cả bốn phía cũng không có thời nào thuận để nhân đó mà đánh được ư? Nhưng không đánh lấy được là v́ thành cao hào sâu, binh khí đầy đủ, tiền thóc chứa nhiều, tướng sĩ cùng một ḷng vậy. Nếu dưới thành hào nông giữ yếu th́ đánh lấy được ngay. Do đó mà xem th́ thời giờ của Thiên quan không bằng việc người vậy.

 

Xét thiên “Thiên quan” nói: Trở lưng ra nước mà bày trận là tuyệt địa; quay mặt vào chằm là bệnh quân. Vơ vương đánh Trụ, trở lưng ra sông Tế-thủy, quay mặt vào chằm núi mà bày trận, lấy 22.500 người đánh hàng ức vạn quân của Trụ mà diệt được nhà Thương, phải đâu Trụ đánh trận không được thời giờ của Thiên quan? Tướng nước Sở là Công tử Tâm đánh nhau với người Tề. Bấy giờ có sao chổi mọc chuôi ở về địa phận nước Tề. Chuôi ở nơi nào th́ nơi ấy thắng, điều ấy tỏ là không nên đánh. Công tử Tâm nói: Sao chổi biết ǵ, cứ đánh nhau với sao chổi mà đảo ngược nó lại th́ thắng4. Rồi đánh nước Tề, cả thắng.

 

Hoàng đế nói: Trước phải thờ thần thờ quỷ, trước phải t́m xét và dùng trí khôn, gọi là thiên quân chỉ là nhân sự mà thôi. Việc binh có khi thắng ở triều đ́nh, có khi thắng ở đồng nội, có khi thắng ở nơi chợ búa: Đấu th́ được, nằm th́ may mà không thua, đó là không ngờ địch sợ hăi mà chết vậy. Chết mà thắng, không phải là toàn thắng; không toàn thắng th́ không có quyền đánh. Cho nên minh chúa trong khi đánh giặc, họp trống họp c̣i, dè dùng đồ binh khi, không cầu mà thắng vậy. Việc binh có khi bỏ pḥng bị, triệt uy lực mà thắng được, v́ cớ có phương pháp, có đồ dùng đă định sớm rồi. Đối phó với địch đă chu tất, thống suất cũng chắc chắn, năm người làm ngũ, mười người làm thập, trăm người làm tốt, ngh́n người làm suất, vạn người làm tướng, đă chu tất, đến nơi đến chốn, hễ người nào sớm chết th́ sớm thay, chiều chết th́ chiều thay, cân nhắc được địch, hiểu biết được tướng, mà sau mới cử binh.

 

 

*

*   *

 

Cho nên phàm khi họp quân, đường xa ngh́n dặm th́ định một tuần, trăm dặm th́ định một ngày phải họp ở đất địch. Quân đến họp trước vào sâu đất địch, nếu nhầm đứt mất đường th́ nên đóng ở thành to ấp lớn, khiến quân lên thành mà bức nguy mấy lớp, thế gọi là bức địa h́nh để đánh yếu tái5. Giữ một thành ấp mà mấy đường bị chặn, rồi theo đó mà đánh ngay. Tướng suư địch không tin nhau, quân quan địch không ḥa nhau, h́nh phạt có thể không theo, ta đánh là thua ngay. Quân cứu của địch chưa đến mà một thành đă đầu hàng. Bến cầu chưa mở, yếu tái chưa sửa, chỗ hiểm chưa đặt, cừ đập chưa bày, như thế th́ tuy có thành cũng không giữ được. Đồn xa chưa vào, quân thú chưa về, như thế th́ tuy có người cũng như không người vậy. Lục súc chưa họp, ngũ cốc chưa thu, của cải không góp, như thế th́ tuy có lương cũng như không lương vậy. Phàm thành ấp rỗng không mà của hết, th́ ta thừa lúc mà đánh. Binh pháp nói rằng “một ḿnh ra một ḿnh vào, quân địch không thể tiếp mũi nhọn mà phải hàng”, ấy chính là thế.

 

 

*

*   *

 

Trong khi vội vă th́ đại tướng dùng thuật ǵ mới có thể liền được hàng trận và nghiêm được hiệu lệnh, khiến quân không tự rối loạn? Thưa rằng: Người giỏi dùng binh hễ có động th́ pḥng bị, chọn 24 người quân kỵ nhanh nhẹn mạnh khỏe chia ra tám phương, mỗi phương 3 người, cách nhau 1 dặm, ngày dùng cờ, đêm dùng trống làm hiệu; kỵ thứ nhất thấy giặc, ban ngày th́ dựng cờ, kỵ thứ hai cũng thế, kỵ thứ ba th́ ruổi chạy để báo cáo; ban đêm th́ dùng trống. Như ban ngày sương mù che phủ, gió sấm dữ dội, cờ phất không thấy, trống đánh không nghe, th́ phải chạy gấp để báo. Đấy gọi là phép bát quái thám kỵ, ở lúc vội vă có thể pḥng bị được. Ví trời đất có biến th́ đem khinh binh mà xông đánh. Đại trận không thể động càn được, xem địch động tĩnh thế nào rồi sau mới đánh. Cho nên phải thường chỉnh túc. Đó đều là tùy theo sự biến chuyển của trời.

 

Ta có thể lấy đó mà chế người th́ nghĩ ngay rằng người có thể lấy đó mà chế ta để đặt ngay một kế mà pḥng bị. Ta có thể lấy đó mà pḥng trí khôn của người th́ người cũng có thể lấy đó mà pḥng bị sự khống chế của ta, ta lại nghĩ ngay một kế để phá sự pḥng bị của người. Ta phá sự pḥng bị của người th́ người phá sự pḥng bị của ta, mà ta lại đặt ra một kế để phá cái phá của người. Người đă bị phá, lại có thể đặt một cái phá để phá cái phá; cái phá của cái phá đă đặt, th́ lại có thể làm cho bền thêm cái phá của ta, để lấp cái phá của người mà thi hành cái phá của ta, cuối cùng rồi không bị người phá. Hết phép này ra phép khác, sự việc nối nhau mà tiến, thực là sâu lắm, sâu lắm.

_________________________________

1. Chương này, tham khảo Vơ kinh trực giải phần “Uất Liệu tử”

2. Lương Huệ vương: Người thời Chiến quốc, họ Tất tên là Oánh, con Ngụy Vũ hầu, tự xưng là Lương Huệ vương, đóng đô ở Đại-lương.

3. Uất Liệu tử: Họ Uất tên Liệu, người thời Lương Huệ vương, làm sách Uất Liệu tử 25 thiên. Sách này được xem là một sách trong bảy bộ của Vơ kinh, hiện nay thất truyền.

4. Ư nói đảo ngược sao chổi lại cho chuôi chỉ về Sở, tức là cứ quyết đánh là thắng.

5. Thành lũy trọng yếu.

 

VIII – ĐIỀM VỀ VIỆC BINH1

 

Thái công nói: Điềm được thua tinh vi mà có thể thấy trước được. Như ba quân vui vẻ, sĩ tốt sợ phép, biết kính mệnh lệnh của tướng, đều mừng được đánh giặc, bảo nhau cùng mạnh bạo lên, khen nhau về oai vơ, đó là cái điềm mạnh. Bằng ba quân sợ sệt, hàng ngũ không đều, cùng sợ là giặc mạnh, bảo nhau là đánh không lợi, lấy tai mắt ra hiệu cho nhau, nói sự quái gở không thôi, mọi miệng lừa nhau, không sợ pháp lệnh, không trọng tướng mệnh, đó là cái điềm yếu.

Ba quân tề chỉnh, trận thế vững bền, ng̣i sâu thành cao, lại có lợi về mưa to gió lớn, ngọn cờ chỉ trước, ba quân không có việc ǵ, tiếng chiêng trống trong mà cao, uyển chuyển vang lên, đó là điềm thắng to. Nếu như hàng trận không vững, cờ bay rối ren, mưa gió trái tiết, sĩ tốt sợ hăi, quân một ít hơi, ngựa trận sợ chạy, xe binh găy trục, tiếng chiêng trống thấp mà đục, đó là điềm thua to vậy.

 

IX – PHÉP DÙNG GIÁN ĐIỆP

 

Ta nói đạo dùng gián có ba điều, ba điều ấy là ǵ? Ta thuộc quen người ấy, ta biết được tâm t́nh, lại biết được tài đủ làm việc được, rồi ta mới dùng. Đó là điều thứ nhất. Ta có ơn lớn với người, người mong v́ ta mà chết th́ ta dùng, đó là điều thứ hai. Ta biết được tài của người mà ta không biết được ḷng của người, nhưng ta có thể nắm được tính mệnh của cha mẹ vợ con người, thế th́ người ấy có thể dùng được, đó là điều thứ ba. Cho nên nói đạo dùng người có ba điều, không phải là ba điều ấy th́ không thể dùng được. Nhưng thực ba điều ấy rút lại chỉ có một điều mà thôi. Một điều ấy là ǵ? Là phải thử. Thử có hai cách. Ta biết được tài của người, nhưng không biết rơ ḷng của người, ta phải thử. Để họ vào nơi tiền của và sắc đẹp xem có động ḷng không; để vào nơi dao cưa, xem có đổi nét mặt không. Ta biết được ḷng người, nhưng không biết rơ tài của người, ta phải thử. Nhân việc không chuẩn bị để xem họ ứng biến thế nào; khiến họ ngặt không thể ra tay vào đâu để xem họ xử trí thế nào. Cho nên nói có hai cách thử, không dùng hai cách ấy th́ không thử được. Tuy nhiên, phép thử cũng chỉ có một mà thôi. Một là thế nào? Giấu kín mà thôi vậy. Ta giấu kín mà thử, khiến cho người kia không biết là ta sắp muốn dùng. Như thế rồi sau mới dùng làm gián điệp được.

 

Tôn tử nói: Gián điệp có năm loại: Hương gián, nội gián, phản gián, tử gián, sinh gián. Năm loại gián đều dùng, không ai biết được đường lối, thế gọi là kỷ cương của thần, là vật báu của vua vậy.

 

Hương gián là nhân người quê của địch mà dùng. Nội gián là nhân người làm quan của địch mà dùng. Phản gián là nhân gián điệp của địch mà dùng. Tử gián là do sự nói dối ở ngoài khiến cho gián điệp của ta biết mà truyền cho gián điệp của địch. Sinh gián là do gián điệp trở về báo cho biết. Cho nên trong việc ba quân, thân không ai thân bằng gián điệp, thưởng không ǵ thưởng hậu bằng gián điệp, việc không ǵ kín bằng việc gián điệp. Không phải thánh trí th́ không thể dùng được gián điệp; không phải nhân nghĩa th́ không sai được gián điệp; không phải tinh vi th́ không thể nắm được thực của gián điệp. Tinh vi thay! Tinh vi thay! Không nơi nào là không dùng gián được. Việc của gián chưa phát mà đă nghe trước th́ người nghe với người bảo đều phải chết. Phàm muốn cất quân, muốn đánh thành, muốn giết được th́ phải biết trước tên họ của những người yết giả, môn giả, xá nhân ở tả hữu của người chủ tướng, gián của ta phát t́m mà biết. Phải t́m gián của địch lại thám ta để nhân mà cho họ lợi, dẫn họ về nhà. Cho nên có thể sai khiến phản gián được, nhân đó mà biết được. Cho nên hương gián, nội gián có thể sai khiến được, nhân đó mà biết được. Cho nên dùng tử gián mà việc dối trá có thể khiến bảo cho địch, nhân đó mà biết được. Cho nên sinh gián có thể khiến đúng kỳ được. Công việc của năm loại gián, chủ tướng tất phải biết. Biết được phải do phản gián, cho nên người phản gián không thể không hậu đăi. Ngày xưa nhà Ân dấy lên th́ Y Chí2 ở nhà Hạ; nhà Chu dấy lên th́ Lă Nha3 ở nhà Thương. Duy bậc minh quân hiền tướng mới biết dùng bậc thượng trí làm gián, cho nên tất thành công lớn. Đó là điều quan yếu của nhà binh, ba quân nhờ đó mà hoạt động vậy4.

 

Điệp là tai của quân, có khi v́ điệp mà thắng, có khi v́ điệp mà thua. Địch có tướng ngu, có thể chuyên dùng điệp; địch có tướng trí, không nên chuyên dùng điệp. Ta có điệp khéo th́ địch bèn cố nêu ra h́nh tích, có bày tỏ mệnh lệnh, cố liệt lậu bí ẩn để nhử ta. Ta nghe rằng nếu khéo dùng điệp th́ dùng điệp của địch, điều ấy không thể không xét vậy. Gián là làm khiếp sợ ḷng dạ địch, giết người yêu của địch mà làm rối mưu kế của địch. Việc của gián th́ có sinh có tử, có thư có văn, có nói có vè, dùng hát, dùng của, dùng vật, dùng tước, dùng người địch, dùng người làng, dùng bạn, dùng gái, dùng ơn, dùng uy.

 

Nhân người của địch t́m xem sơ hở của ta, ta đem của đút cho, khiến nó đảo ngược hết công việc.

 

Sách Chu lễ nói: Đi tuần trong nước đề truyền tin, đó cũng là chước phản gián vậy. Cách dùng gián, thánh nhân vẫn cũng có làm. Phàm dùng binh muốn quyết thắng, không thể không dùng gián. Dùng gián không thể không giữ bí mật. Nếu không phải là bậc đại trí, ai có thể như thế được. Cho nên công việc của gián làm, xem việc mà cử ra th́ thấy có tám thuật.

 

1. Hai nước đương chống nhau, giả làm mỏi mệt, sợ tiết lậu ra lời nói, đem của đút cho kẻ được yêu chuộng, nhân sở cầu mà trúng vào, sau sai sứ giả đến đem ngọc lụa và xe ngựa để cầu ḥa, lặng xem nó kiêu mạn, rồi ngầm kén tinh binh, chia đường sớm hôm tiến gấp để nhân nó không pḥng bị mà đánh. Đó là lấy sứ giả làm gián.

 

2. Bắt được người địch, đem điều nó muốn thám, tiết lộ ra, khiến cho nó được nghe, ngầm sai thả ra cho nó trốn đi, khiến địch cho đó là điều thám được mà tin, nhưng ta th́ không thế. Đó là lấy người địch làm gián.

 

3. Địch đến làm gián, ta giả làm không biết, đảo ngược công việc mà cho thấy. Địch biết được việc giả mà ta th́ xuất kỳ bất ư mà cử sự. Đó là cách nói ngược lại mà làm gián.

 

4. Địch đưa phản gián đến, ta đem nhiều của đút cho khiến nó đảo ngược lời nói để phản lại địch. Đó là dùng ngược người của địch làm gián.

 

5. Đánh nhau với địch, giả làm thua nhỏ, tức dẫn nó vào vách sâu, tỏ ra vẻ sợ, bèn khiến nói những lời quê mùa ngớ ngẩn, mà trương hoàng thế mạnh của quân ta, khiến cho địch biết đó là ta dùng gián, nó hẳn đem ḷng sợ mà lấy lời nói cưỡng để gián lại. Khi nó đă đi, tức th́ dùng kỳ binh theo đánh úp ngay. Đó là dùng gián rơ làm gián.

 

6. Địch có người yêu ở trong, sai kẻ tâm phúc đem đồ rất quư đến nhà biếu, khiến ngầm mua được địch t́nh. Đó là dùng của báu làm gián.

 

7. Địch có kẻ mưu thần th́ ngầm đem vàng bạc đút cho, khiến cho kẻ thân tín của địch gây chuyện gièm pha ở trong, ngoài th́ đem việc để ứng với sự gièm pha ấy, khiến cho vua tôi ngờ nhau mà cùng hại nhau. Đó là lấy người nói gièm làm gián.

 

8. T́m những người tin cậy của địch, khiến cho thỏa ḷng sở dục, ngầm kiếm t́m động tĩnh và ngôn ngữ của họ. Đó là dùng người làng để làm gián điệp.

 

Thế cho nên biết dùng gián là điều mầu nhiệm của nhà binh. Nhưng không phải là bậc hiền trí th́ không thể dùng được. Cho nên phép dùng gián là cốt ở sự nhỏ kín ngấm ngầm. Người chúa giỏi cần phải chú ư.

 

 

*

*   *

 

Phàm dùng binh trước hết phải dùng gián để thăm ḍ mà tùy cơ ứng biến; hoặc thăm ḍ biết bên địch có việc tranh trưởng, có sự không ḥa, có kẻ bất đắc dĩ mà theo, có khi cầm vàng mà sai làm, có khi bị bắt sống mà thả ra, có khi đến thám mà giả làm không biết, có khi nói phao mà truyền thuyết, có khi tha tội mà bảo lập công, có khi bỏ sót giấy tờ giả làm thất lạc, có khi sai người đem giấy tờ để cho địch bắt được. Sự vận dụng tài t́nh cốt ở một ḷng, có thể lấy ư mà liệu, khó mà nói trước, vận dụng cho linh hoạt, cơ mưu không thể lường.

_______________________________

1. Thiên này phần nhiều là những điều mê tín, chúng tôi không dịch, chỉ dịch đoạn đầu có ư nghĩa hợp lư ít nhiều.

2. Y Chí: Tức Y Doăn, có tên là Chí, đi cày ở đất Sần, vua Thang nhà Thương đón về giúp vua Thang đánh Hạ Kiệt.

3. Lă Nha: Tức là Lă Thương, tên là Tử Nha, cũng gọi là Lă Vọng, nguyên là họ Khương, cũng gọi là Khương Tử Nha hay Khương Nha.

4. Tôn tử, thiên XIII.

 

X – DÙNG CÁCH LỪA DỐI

 

Lừa. Điều cốt yếu để đánh được địch không phải chỉ dùng sức mạnh để chống, c̣n phải dùng thuật để lừa. Hoặc dùng cách lừa của ta mà lừa nó; hoặc nhân cách lừa của nó mà lừa nó; lừa bằng t́nh, lừa bằng lợi, lừa bằng vụng, lừa bằng khôn, cũng lừa bằng sự lẫn lộn hư thực, lấy sự lừa của nó để làm cho nó bị lừa, nó lừa mà ta th́ biết. Cho nên người giỏi việc binh lừa người mà không bị người lừa.

 

Vụng. Khi gặp giặc mạnh, ta đóng chặt cửa thành hay lui quân để giữ, th́ nên chịu là kèm vụng vậy. Địch có thắng, nếu không tổn hại cho chiến cuộc, th́ dù có nói khinh nhờn ta cũng phải nhịn, có đánh ta cũng phải lánh, có kế ǵ đến ta cũng phải nhận. Phàm những điều ấy là v́ khi nên kém vụng th́ làm kém vụng vây. Thậm chí, địch không có mưu ǵ lạ mà ta lo thực thà, địch vốn nằm yên mà ta chờ nó hoạt động, phàm những điều ấy không hẳn là vụng, mà vụng cũng không mất ǵ. Thà khiến ta có pḥng khống mà đừng khiến nó có thực. Từng xem lại chuyện xưa, có khi lấy một cái vụng mà làm thua được danh tướng, nên công hoàn toàn, là v́ khéo dùng được phép vụng vậy.

 

Thuận. Đại phàm chống lại th́ càng làm cho thêm bền ra, chi bằng cứ thuận chiều để đưa đến chỗ hỏng. Khi địch muốn tiến, th́ ta mềm mại tỏ là yếu để cho nó tiến. Khi địch muốn lui th́ ta tản ra mở đường sống cho nó lui. Khi địch cậy mạnh th́ ta đóng quân xa để bền giữ mà xem vẻ kiêu của nó. Khi địch nấp uy th́ ta giả vờ cung kính để chờ xem thực t́nh, nhân mà đánh úp, kế mà bắt lấy, nó kiêu th́ ta thừa, theo đó mà thu lấy thắng lợi.

 

Kế. Kế có khi có thể chế được người ngu mà không chế được người trí, có khi chế được người trí mà không chế được người ngu. Một là dùng kế để làm kế, một là dùng không phải kế mà làm kế. Chỉ một cách dùng kế mà trí ngu đều chế được cả. Giả như người trí kia làm ngu th́ dùng kế ngu mà đối phó, người ngu kia làm trí th́ dùng kế trí mà gieo vào. Nên vượt qua cái tầm sở kiến của địch và chống lại cái nghi của địch th́ không kế nào là không thành công. Cho nên kế phải nhân người mà đặt.

 

Trắc. Hai tướng mới gặp nhau, hẳn có thử nhau. Hai tướng cùng giữ nhau, hẳn có sự tính lường. Lường về địch để lánh thực mà đánh vào sơ hở; lường về chỗ địch lường ta mà bày tỏ sự kém để đi đến chỗ hơn; lường tính ở chỗ hư để mà dối địch. Thế là một sự lường tính mà lợi được cả hai mặt. Lo ở chỗ không lo, đó là thuật hay, là đạo thắng vậy.

 

Xảo. Việc đời nếu không lấy đạo thường mà làm nên th́ phải lấy xảo, huống chi việc quân. Nắm được một cái sở đoản của địch th́ phá được trăm cái sở trường của nó. Nhân một cái sở trường của ta th́ cứu được trăm cái sở đoản của ta. Thế gọi là khéo nhân và khéo chế. Ta giả yếu khiến cho giặc lơ là; ta giao nộp khiến cho giặc ngạo; ta quen ở yên khiến cho giặc yên; ta hay thử cho giặc coi thường; ta quấy luôn cho giặc hao tổn; ta khua động cho giặc đề pḥng; ta trêu mắng cho giặc tức giận. Đó gọi là cái xảo khinh kẻ ngu. Bỏ chỗ thắng đến chỗ bại; bỏ chỗ mềm đến chỗ rắn, lấy cùn làm sắc; lấy lui làm tiến. Đó gọi là cái xảo lấy cong mà vào. Mạnh mà tỏ là yếu, sống mà cho là chết, được mà không cho là được, thua mà không cho là thua. Đó gọi là cái xảo làm trái.

 

Dùng dương mà người ta không lường được là dương, th́ dương mà hóa âm vậy. Dùng âm mà người ta không lường được là âm, th́ âm mà hóa dương vây. Cho nên hoặc giả dương để làm âm, hoặc vận âm để chế dương. Tóm lại không ngoài cách dùng kỳ nắm cơ, đánh úp và đặt phục mà thôi.

 

Người giỏi dùng binh, không đủ th́ tỏ là có thừa, có thừa th́ tỏ là không đủ. Có thừa mà tỏ là không đủ, địch không biết thế nào mà lường cho đúng được. Như Tôn tử1 nước Tề cứu Hàn đánh Ngụy. Bàng Quyên2 vốn khinh nước Tề là nhát. Tôn tử nhân thế mà làm theo, bèn khiến người tại đất Nguỵ làm 10 vạn cái bếp, sáng ngày mai giảm làm 5 vạn bếp, rồi lại giảm làm 2 vạn bếp. Bàng Quyên ngờ là quân sĩ Tề trốn mất, bên bỏ quân bộ đi, cùng với quân khinh nhuệ gấp đường đuổi theo, đến Mă-lăng. gặp phục binh vùng dậy, muôn nỏ bắn ra, quân Ngụy rối loạn.

 

Xin hỏi khi bắn hết tên th́ làm thế nào? Bó rơm khô làm người, đêm dựng trong thành, quân địch tranh nhau mà bắn, th́ tên bay vào đầy hố. Hay ở trong thành, giương lọng đi lại, địch ngờ là chủ tướng bèn bắn tên như lông dím bay vào, ta nhờ được tên của địch. Cách xảo ấy c̣n ǵ bằng.

 

Bỏ vật để cho loạn, bỏ người để cho động, bỏ lũy trại đất đai để cho kiêu, có cái nên bỏ th́ bỏ, nếu tiếc th́ khó thành. Không sợ không thành công.

________________________________

1. Tôn tử đây là Tôn Tẫn, cháu xa đời của Tôn tử trước là Tôn Vơ.

2. Bàng Quyên: Tướng nước Ngụy (thời Chiến quốc), bị Tôn Tẫn đánh cho bị thua, tự tử ở đất Mă-lăng.

 

BINH THƯ YẾU LƯỢC

 

QUYỂN III

 

 

 

I – LIỆU THẾ GIẶC

 

 

Sách Vơ kinh:

 

Vơ vương hỏi: Làm thế nào mà biết được thực hư ở trong lũy địch?1.

 

Thái công nói: Lên cao trông xuống để biết sự biến động: nghe trống không kêu, mơ không tiếng, xem ở trên lũy thấy nhiều chim bay mà không sợ, thấy trên lũy không có khói, biết đó hẳn là địch trá để lừa ta.

 

Thái công nói: Quân địch mới họp có thể đánh; người ngựa đến ăn có thể đánh; thời trời không thuận có thể đánh; địch đương bôn tẩu có thể đánh; không đề pḥng có thể đánh; mỏi mệt có thể đánh; tướng ĺa quân sĩ có thể đánh; lặn lội đường dài có thể đánh; qua sông có thể đánh; không rỗi có thể đánh; bị ngăn trở ở đường hẹp có thể đánh; quân đi loạn hàng có thể đánh; ḷng sợ hăi có thể đánh.

 

Nghe chiêng trống, xem hàng ngũ mà biết được tài; lấy thua mà dụ, lấy lợi mà nhủ để biết được t́nh; làm động ḷng cho sợ, quấy rối cho lúng túng để biết được thái độ; đó là xét ở việc. Niềm nghĩ dấy lên th́ ta phải biết; mưu kế đặt ra th́ ta phải rơ: trí mà có thể che được, xảo mà có thể giấu được, ḷng ta phải xét; đó là xét ở ư. Nếu như ư chưa dấy mà điều nghĩ trước đổi cả, ta biết ḷng địch để biết địch, địch nghĩ sau ḷng ta mà suy ra, th́ mưu có thể gieo vào được.

 

Tranh chiến tức là tranh việc; quân tranh giao chiến, tướng tranh mưu kế, tướng tướng tranh cơ với nhau. Phàm người ta mà biết, không tranh sức mà phải tranh ḷng, không tranh ở người mà tranh ở ḿnh. Phàm người ta mà biết, không tranh ở việc làm mà tranh ở đạo, không tranh công mà tranh ở chỗ không công. Công ở chỗ không công mới là công lớn, tranh ở chỗ không tranh mới là giỏi tranh.

 

Thế có lúc không thể đánh ngay được, th́ nên kéo dài; thế địch rất sắc, tạm phải chờ nó lơ là; địch đến rất nhiều, tạm phải chờ nó trễ nải; gọi quân chưa đến phải chờ tập họp được; người mới phụ chưa hiệp phải chờ cho họ tin; mưu kế chưa nên phải chờ cho nó lớn mạnh lên; thời chưa đánh được th́ tạm dừng đánh, v́ kẻ vụng quư ở giữ. Kéo dài là thế phải đánh mà cứ chần chừ... Động phải là không thua; quân ra phải là vạn toàn; việc binh không có làm thử.

_________________________________

Xem Vơ kinh trực giải, phần “Lục thao”.

 

*

*   *

 

Thế đă nên, cơ đă đến, người đă tập hợp mà lại dùng dằng kéo dài, đó là làm biếng quân vậy. Quân tướng lười, thời sắp không lợi, nước sắp khốn, cầm quân trên cơi mà không quyết chiến, đó là làm mê quân vậy.

 

Ta có chí mà chậm th́ người sẽ tính trước ta; thấy mà không quyết định th́ người sẽ phát trước ta. Ta phát mà không nhanh th́ người sẽ thắng trước ta. Khó được ấy là thời, dễ mất ấy là cơ, nên phải làm nhanh vậy.

 

Quá nữa, địch không thể đánh chớp nhoáng mà thắng được, th́ ta phải dùng cách giằng co; giằng co ở phía trước th́ địch không thể vượt được; giằng co ở phía sau th́ không ai dám chống, dám ra. Địch mạnh mà cô thế, th́ giằng co cả đầu và đuôi, khiến nó chạy vạy mỏi mệt; địch giỏi mà tiến trước, th́ ta phải gieo vào đoạn giữa, khiến cho đầu đuôi không thể ứng nhau, thế lớn mà rộng, quân nhiều mà tản, lúc ở chỗ này, lúc ở chỗ kia, làm cho nó hợp th́ khó mà tụ được, chia th́ khó mà giữ được. Ta bèn gồm quân lại, nhắm thẳng một hướng mà có thể thắng vậy.

 

Hoạt động gấp sức th́ không việc ǵ là không tốt.

 

Người tất thắng, có khi do dũng mà thắng; có khi do trí mà thắng, có khi do đức mà thắng; có khi nhiều lần thắng; có khi một lần thắng. Thắng được người dũng là do trí. Thắng được người trí là do vụng. Thắng được đức th́ cần phải sửa ḿnh. Người giỏi thắng không cần thắng nhiều lần mà cần toàn thắng, cần bảo đảm thắng. Nếu nḥm lợi nhỏ th́ chỉ khêu giận cho địch, làm bền chí địch, làm kiêu khí của quân ta mà khinh tiến, làm nhụt chí của quân ta mà sơ hở. Thế là bất thắng.

   

*

*   *

  

Sách Kinh thế:

 

Khó khăn về sức th́ mượn sức của địch; không thể giết được th́ mượn gươm của địch; không có của th́ mượn của của địch; không có sản vật th́ mượn sản vật của địch; ít quân tướng th́ mượn quân tướng của địch; không đủ mưu trí th́ mượn mưu trí của địch. Ta muốn làm mà dụ địch để sai khiến, đó là ta mượn sức của địch vậy. Ta muốn giết mà lừa cho địch giết, đó là ta mượn gươm của địch vậy. Yên giữ được cái sở hữu, th́ làm tan được tải sản của địch. Khiến nó tự đánh nhau, đó là ta mượn quân của địch. Đảo việc làm của nó làm việc làm của ta, nhân kế nó để thành kế của ta, đó là ta mượn mưu trí của địch. Không phải tự ta làm, cứ ngồi mà được việc. Ta không ra tay được, th́ mượn tay người khác. Thậm chí có khi lấy địch mà mượn địch. Mượn địch của địch, khiến địch không biết mà cuối cùng để cho ta mượn; phỏng khiến địch đă biết mà không thể không để cho ta mượn, th́ đó là cách mượn khéo vậy.

 

*

*   *

 

Tŕ (Cầm).

 

Theo đạo trời th́ nổi lên sau là thắng. Việc binh nên đánh vào chỗ dễ mà không đánh vào chỗ khó. Uy dữ th́ tan, sắc nhọn th́ găy. Cho nên địch đem quân đến, thế không thể ở lâu được th́ ta cầm. Thế bách, kíp muốn thắng ngay, th́ ta cầm. Địch đánh có lợi, ta đánh không lợi, th́ ta cầm. Thời nên giữ yên, động trước th́ nguy, th́ ta cầm. Hai kẻ địch đánh nhau, hẳn có người thương bại, th́ ta cầm. Có quân mà nghi nhau, hẳn đến mưu hại nhau, th́ ta cầm. Địch tuy có trí năng, nhưng trong có kẻ cản trở, th́ ta cầm. Nó ở thế hiểm, ta ở thế yên, th́ ta cầm. Nó đói mà ta no, th́ ta cầm. Nó nhọc mà ta rỗi, th́ ta cầm. Thiên thời sắp hại, địa nạn sắp hăm, nhuệ khí sắp nhụt, th́ ta cầm. Cầm cho nó đă mệt, bấy giờ ta nổi dậy mà đánh, th́ sức vẹn mà công nhiều. Đáng gấp th́ thừa cơ, lợi hoăn th́ cầm lại. Kéo dài để bền sức ḿnh, cầm lâu để làm khốn địch. Dùng sau làm trước, đó là điều bí của phép binh.

 

 

Hỗn (Lộn ṣng).

 

Lộn ṣng vào chỗ hư, th́ địch không biết đâu mà đánh. Lộn ṣng vào chỗ thực, th́ địch không biết đâu mà lánh. Lộn ṣng kỳ với chính, th́ địch không biết biến hóa làm sao. Lộn ṣng với quân, lộn ṣng với tướng, th́ địch không biết đâu mà nhận cho đúng. Lộn ṣng tướng địch để lừa quân. Lộn ṣng quân địch để lừa tướng. Lộn ṣng quân và tướng địch để lừa thành dinh. Cùng một cờ xí với nó; cùng một áo giáp với nó; cùng một trang phục với nó; giả làm tướng mạo như nó, thừa cơ chui vào, phát tự ḷng bụng nó, đánh ở bên trong nó, ta tự phân biệt mà nó không thể phân biệt được, đó là giỏi lộn ṣng vậy.

 

*

*   *

 

Địch nhàn th́ làm cho nó nhọc, có hai thuật: Đêm đánh trống nghiêm quân như là sắp ra trận, đến sáng th́ nghỉ, chờ nó trễ nải th́ chợt ra; chuẩn bị tối để đánh ban ngày, chuẩn bị ban ngày để đánh tối, đổi thay mà xung đột, không cho nó nghỉ ngơi. Thế.gọi là quấy rối rơ1. Hoặc mộ quân mặc giả hiệu áo địch, nhân lúc nó trễ mà cướp dinh, thừa gió mà nổ súng, chợt nổi mà chém giết, chợt dừng mà im lặng, làm cho hô th́ tan, gọi th́ họp, muôn người như một, tối đi sớm về, ra phương đông vào phương tây, ngờ thần ngờ quỷ, không tiếng tăm, không dấu vết. Thế gọi là quấy rối ngầm.

 

Địch no th́ làm cho đói, có hai thuật: Địch có thuyền lương, mộ người dùi cho ch́m. Địch giữ kho chứa, dừng gian mà lấy. Xe lương th́ bắt, dùng thuốc súng đốt đi. Thế gọi là hại rơ. Đánh thuốc độc vào nước suối để cho người bị khát; đánh thuốc độc vào rơm cỏ để cho ngựa bị đói; đổ đất vào bao và đong cát để giả tiếng2. Thế gọi là hại ngầm. Tuy thế, không thể không giữ tĩnh vậy. Giữ trận ngồi yên, Từ-thành3 không sao lường được. Gà chó không tiếng, quân Kim thua chạy ở Thuận-xương4. Ngỡ đêm không đi, kẻng canh không điểm. Ồn ào th́ dễ sợ, yên lặng th́ chẳng khi nào là không thắng. Tuy thế, không thể không nhàn rỗi vậy. Tới quân địch mà vội vàng nóng nẩy th́ nó thừa được. Rửa cửa quét nhà th́ địch mạnh phải sợ. Uống rượu đánh bạc ở Chiên-uyên5, cởi áo ở Tân-đ́nh6, ở ngoài cỏ dư, cơ hội nào cũng là ứng được. Tuy thế, không thể không nghỉ ngơi vậy. Không mất tiết độ ăn uống, không tuyệt sức người và ngựa, không liều rét nóng quá mức. Xin nói về điều cốt yếu. Cần để cho thân thể nghỉ ngơi địch thiếu mà ta thừa, thế cách nhau kể gấp trăm. Tuy vậy, không thể cứ ngồi chờ. Hán v́ giữ được Hưng-thế7 nên Tào Sảng không thể tiến. Đường chẹt được Hổ-lao8 nên quân Hạ phải lùi. Ngô Giới giữ được đồn Đại-tán9 nên Ba-hán được toàn. Thực v́ mất Âm-b́nh10 nên Thành-đô bị đổ. Yên mất Đại-nghiễn11 nên Quảng-cố mất. U bỏ Du-quan12 nên ngựa Hồ vào chăn. V́ không giữ được Thái-thạch13 nên Hầu Cảnh quẫn. V́ thả cho địch qua sông Hoàng-hà mà giặc Kim vỗ bung cười, ăn năn không kịp. Không quên việc kiến đắp thành, bỏ chỗ dễ mà làm chỗ khó, xe trước đă bị đổ nhiều rồi. Tuy vậy không thể không cầm giữ vậy.

_________________________________

1. Quấy rối rơ: Tức là quấy rối một cách rơ ràng, trái với quấy rối ngầm là quay rối một cách ngầm kín.

2.   - Bao đất: Tổ Địch, thứ sử Đại-châu của nhà Tấn, sai tướng trấn Đông-đài, rồi cho lấy đất đựng vào bao giả làm gạo, sai một ngh́n quân chở lên đài để cho địch tưởng rằng quân ḿnh no nê lắm.

      - Đong cát: Đàn Đạo-tế là tướng nhà Tống, đời Nam Bắc triều đánh nhau với quân Ngụy, thiếu lương, đêm sai quân đong cát, rồi lấy ít gạo c̣n lại đổ lên trên. Sáng ngày địch thám thấy, tưởng quân Đạo-tế c̣n nhiều lương, nên không truy bức nữa.

3. Từ-thành: Tổ Đĩnh người Bắc Tề, làm thứ sử Từ-châu, khi ấy người nước Trần đến đánh, nhân dân nhiều người làm phản. Đĩnh sai không đóng cửa thành, người coi thành đều xuống cả dưới thành ngồi im lặng, đường th́ cấm người đi lại. Địch không hiểu thế nào, tưởng là người chạy đi hết bỏ thành không, không pḥng bị. Thốt nhiên Đĩnh đem quân xông ra ḥ hét, quân địch kinh hăi chạy tan.

4. Thuận-xương: Tên đất, thuộc tỉnh An-huy, Trung-quốc, Lưu Ỷ đời Tống Cao-tôn đánh phá Kim thái tử là Ngột-truật ở đấy. Khi hai quân cầm cự nhau ở thành Thuận-xương, Ngột-truật đêm sai người đến gần thành nghe ngóng, thấy trong thành im lặng không có tiếng gà chó.

5. Chiên-uyên: Tên châu, thuộc tỉnh Trực-lệ, Trung-quốc. Tống Chân-tôn năm Cảnh-đức thứ 1, Khiết-đơn đem quân sang xâm lấn, Khấu Chuẩn yêu cầu vua thân đi đánh và ra Chiên-uyên. Quân lính thấy vua đến, đều hoan hô vang mấy dặm đường, đánh giết quân Khiết-đơn quá nửa. Vua về hành cung, giao cho Khấu Chuẩn ở đấy đánh dẹp. Nhưng sai người ḍ xem Khấu Chuẩn làm ǵ, th́ chỉ thấy Chuẩn và Dương Úc hàng ngày uống rượu đánh bạc mà thôi. Hai quân cầm cự nhau hơn 10 ngày, quân của Chuẩn bắn chết thống tướng của Khiết-đơn là Khát-lẫm. Khiết-đơn xin ḥa.

6. Tân-đ́nh: Cũng có tên là Lao – Lao-đ́nh, thời Ngô làm ở trên núi Lao-lao, nay thuộc tỉnh Giang-tô, Trung-quốc. Thời Nam Tống, Lưu Dụ, Vương Hưu phạm phản, Tiêu Đạo-thành (sau là Nam Tề Cao đế) đem quân đi đánh. Khi đến Tân-đ́nh, thành lũy chưa đắp xong mà quân của Hưu-phạm đă đến Tân-lâm. Đạo-thành cởi áo nằm khềnh ở Tân-đ́nh để yên ḷng quân.

7. Hưng-thế: Tên núi, thuộc tỉnh Thiểm-tây, Trung-quốc. Ngụy Phế đế năm Chính-thủy thứ 5, Tào Sảng đem 6, 7 vạn quân sang đánh Thục. Thục đóng quân ở núi Hưng-thế, quân Sảng không tiến được, phải đem quân về. (Tam quốc chí, Ngụy thư, Truyện Tào Sảng).

8. Hổ-lao: Tên đất, tức là Thành-cao sau này, thuộc tỉnh Hà-nam, Trung-quốc.

9. Đại-tán: Tên một quan ải, tức là Đại-tán quan, thuộc tỉnh Thiểm-tây, Trung-quốc, ở chỗ đường quan yếu của Tần Thục qua lại. Đời Tống Cao-tôn, người Kim đến xâm lấn đất Hán-dương. Ngô Giới đem quân đến đóng giữ ở Đại-tán quan, bảo toàn được đất Ba-thục (Tống sử, Truyện Ngô Giới).

10. Âm-b́nh: Hán đặt làm huyện, Ngụy đổi làm quận, thuộc đất Chi (Tây-nhung), thành cũ thuộc tỉnh Cam-túc. Khi Ngụy đánh Thục, Đặng Ngải do đường Âm-b́nh tiến quân, Thục Hậu chúa phải hàng.

11. Đại-nghiễn: Tên núi, thuộc tỉnh Sơn-đông, Trung-quốc. Nam Yên Mộ-dung Đức đóng đô ở Quảng-cố. Thời Đông Tấn. Lưu Dụ đem quân đánh Nam Yên, khi đi qua núi Đại-nghiễn rồi, vẻ mừng hiện ra mặt, quả nhiên diệt được Nam Yên.

12. Du-quan: Tên cửa ải, tức là Sơn-hải quan ngày nay, tại tỉnh Hà-bắc, Trung-quốc.

13. Thái-thạch: Tên bến, tức là bến Ngưu-chử, thuộc tỉnh An-huy, Trung-quốc.

 

*

*   *

 

Sách Vơ kinh:

 

Vơ-hầu1 hỏi về phép có thể đánh địch.

 

Khởi2  thưa: Dùng binh phải biết rơ t́nh h́nh của địch hư thực thế nào, rồi nhắm vào chỗ nguy mà đánh. Địch mới ở xa đến; hàng ngũ chưa ổn, có thể đánh; ăn mà chưa pḥng bị, có thể đánh; đương rối ren, có thể đánh; nhọc mệt, có thể đánh; chưa được địa lợi, có thể đánh; lỗi thời không theo, có thể đánh; lặn lội đường dài, quân sau chưa nghỉ, có thể đánh; qua sông nửa chừng, có thể đánh; đường hiểm, đường hẹp, có thể đánh; cờ xí loạn động, có thể đánh; số trận dời đổi có thể đánh; tướng ĺa quân sĩ, có thể đánh; ḷng sợ, có thể đánh; phàm gặp các trường hợp đó, nên kén quân tinh nhuệ để xung đột trước, rồi sau chia quân mới đến, cứ việc đánh gấp, không phải ngờ ǵ nữa3.

 

Vơ-hầu hỏi: Hai quân đối nhau, không biết rơ người tướng. Ta muốn ḍ xem, th́ nên dùng thuật ǵ?

 

Khởi thưa: Sai người hèn mà dũng, đem quân tinh nhuệ để đánh, cốt thua chạy mà không cốt được. Xem địch đuổi đến, một ngồi một đứng, có thể biết được họ hay dở thế nào. Nếu đuổi theo mà giả cách không đuổi kịp, thấy lợi mà giả cách không biết, tướng như thế gọi là trí tướng, đừng nên đánh nữa. Nếu thấy chúng om x̣m, cờ xí rối rít, quân tự đi đứng, binh hoặc dọc ngang, đuối theo c̣n sợ không kịp, thấy lợi c̣n sợ không được, đó là ngu tướng, dù nhiều quân cũng có thể bắt được (4).

  

 

*

*   *

 

Phàm dấy quân phải xét rơ quyền biến trong ngoài, để tính xem quân đủ hay thiếu, lương thừa hay không đủ, so sánh đường lối ra vào, rồi sau mới dấy quân dẹp loạn, th́ tất có thể vào được. Đường lớn mà thành nhỏ, trước hết phải thu lấy đất. Thành lớn mà đất hẹp, trước hết phải đánh thành đă. Đất rộng mà người ít th́ chặn chỗ ách. Đất hẹp mà người nhiều, th́ đắp bờ lớn để đi tới. Đừng làm mất địa lợi của dân, đừng cướp mất thời làm ruộng của dân. Chính trị th́ rộng răi, nghề nghiệp cứ b́nh thường, cứu chữa những thói tệ, như thế th́ đủ ra chính lệnh cho thiên hạ được. Nay các nước Chiến quốc đánh nhau, nước lớn đi đánh nước có đức, quân từ một ngũ đến một lượng5, một lượng đến một sư, mệnh lệnh bất nhất, làm cho ḷng dân không ổn định, chỉ chuộng kiêu ngạo xâm lấn, chỉ mưu lo xử kiện, quan lại chỉ lo xét việc, như thế th́ thường hỏng cả. Ngày chiều đường xa, lại có khí nản, quân mỏi tướng tham, chỉ tranh cướp nhau, như thế th́ dễ thua lắm.

 

Phàm tướng khinh, lũy thấp, quân chúng náo động, th́ có thể đánh được; tướng trọng, lũy cao, quân sợ th́ có thể vây được; phàm vây th́ mở cho có lợi nhỏ, khiến dần ṃn yếu đi th́ sẻn tiếc mà không dám ăn. Quân đánh đêm là v́ sợ. Quân tránh việc là v́ ĺa ḷng. Đợi người đến cứu, hẹn đánh mà khao khát, đều là ḷng nóng mà khí nản; khí nản th́ bại quân, hỏng mưu th́ hại nước.

_________________________________

1. Vơ-hầu: Tức là Vệ Vơ-hầu, thời Chiến quốc.

2. Tức là Ngô-Khởi.

3. Xem Ngô tử, thiên II.

4. Xem Ngô tử, thiên IV.

5. Quân chế xưa, 25 người là một lượng.

 

*

*   *

 

Sách Tôn tử:

 

Binh là đạo dối trá, cho nên giỏi mà tỏ là không giỏi, dùng mà tỏ là không dùng, gần mà tỏ là xa, xa mà tỏ là gần, đem lợi để nhử người, gây loạn để đánh người; thấy chắc th́ phải pḥng, thấy mạnh th́ phải tránh; trêu cho nó tức; nhún cho nó kiêu; nó nhàn th́ khiến cho nhọc; nó thân th́ khiến cho ĺa; đánh ở chỗ không pḥng, ra ở chỗ không ngờ. Đó là chỗ giỏi của nhà binh, mà không thể truyền trước vậy1.

 

Phàm chưa đánh mà miếu toán2 đă được, là tính được nhiều; chưa đánh mà miếu toán không được, là tính được ít. Tính được nhiều th́ thắng, tính được ít th́ không thắng, huống chi là không tính ư? Ta xem đó th́ thấy rơ sự được thua vậy.

 

*

*   *

 

Cho nên phép dùng binh, gấp mười th́ vây, gấp năm th́ đánh, gấp đôi th́ chia, ngang nhau th́ chiến, ít hơn th́ biết trốn; không bằng th́ biết lánh. Cho nên nhỏ mà chỉ biết liều th́ bị địch lớn bắt.

  

*

*   *

 

Phàm tướng là người giúp nước; giúp chu đáo th́ nước hẳn mạnh; giúp sơ hở th́ nước hẳn yếu. Cho nên nhà vua có ba điều lo: không biết rằng quân không nên tiến mà cứ bảo tiến; không biết rằng quân không nên thoái mà cứ bảo thoái, thế gọi là buộc quân. Không biết công việc ba quân mà trị ba quân như trị nước th́ quân sĩ sinh hoặc; không biết quyền biến của ba quân mà cùng gánh vác trách nhiệm về ba quân, th́ quân sĩ sinh ngờ; ba quân đă hoặc và ngờ th́ các nước chư hầu sẽ đến đánh, thế gọi là loạn quân, dẫn đường cho địch thắng ḿnh... Cho nên nói: Biết người biết ḿnh, trăm đánh không nguy; không biết người mà biết ḿnh, th́ một được một thua; không biết người mà không biết ḿnh th́ hễ đánh là nguy (3).

 

 

*

*   *

 

Bụi cao mà nhọn là có xe lại; thấp mà rộng, là có quân bộ lại; tán mà vắt vẻo là có người hái củi; ít mà bay đi bay lại là dinh quân. Lời nhũn mà thêm pḥng bị, ấy là tiến vậy. Lời mạnh mà quân tiến nhanh, ấy là lùi vậy. Xe nhẹ cho ra trước, ở vào một bên đường, ấy là bày trận. Không ước mà xin ḥa, ấy là có mưu. Bôn tẩu mà bày quân, ấy là hẹn. Nửa tiến nửa lùi, ấy là nhử. Dựa vào binh khi mà đứng, ấy là đói. Vục nước mà uống, ấy là khát. Thấy lợi mà không biết tiến, ấy là nhọc. Chim họp, ấy là không người. Đêm la ḥ, ấy là sợ hăi. Quân rộn, ấy là tướng không trọng. Cờ xí lay động, ấy là rối loạn. Quan lại tức giận, ấy là mỏi. Cho ngựa ăn thóc, giết ḅ ăn thịt, ấy là thiếu lương cỏ. Quân không treo nồi, không trở về nhà, ấy là giặc cùng. Ŕ rầm xúm xụm, thong thả nói với nhau, ấy là mất ḷng quân. Thưởng luôn là quẫn; phạt luôn là khốn. Trước dữ tợn rồi sau sợ quân, thế là không tinh rất mực. Hạ ḿnh đến xin tạ, ấy là muốn nghỉ ngơi4.

_________________________________

1. Tôn tử, thiên I.

2. Sự tính toán của triều đ́nh. - Miếu toán đă được nghĩa là mưu kế của triều đ́nh đă dự tính sự thắng trận.

3. Tôn tử, thiên III.

4. Tôn tử, thiên IX.

 

*

*   *

 

Sách Bảo giám:

 

Sinh địa là nơi tả hữu tiền hậu không phải là đất tử tuyệt, đâu cũng có đường vận lương. tiến thoái đều lợi cả. Sinh địa tuy nói là lợi của nhà binh, có thể dùng được chỉ có sáu trường hợp thôi: Đem quân vào sâu được đó là một trường hợp khá dùng; quân ngựa tinh sắc, trận thế quen biết, đó là hai trường hợp khá dùng; tướng trầm nghị, giới lệnh nghiêm, đó là ba trường hợp khá dùng; ta mạnh địch yếu, đó là bốn trường hợp khá dùng; đại tướng vốn có ân tín cho quan quân phục theo, đó là năm trường hợp khá dùng; tướng sĩ thích đánh, đó là sáu trường hợp khá dùng. Không dùng được có hai trường hợp: Quân lính nhớ nhà, đó là một trường hợp không thể dùng; tiến th́ lợi lui th́ hại, đó là hai trường hợp không thể dùng. Sự lợi hại của đất sinh và đất tử há không nên xét kỹ sao?

 

Tử địa: Dựa núi cách sông, đường nước đường lương đều dứt. Tử địa tuy nói là hại của nhà binh, nhưng có thể dùng để đánh được có bốn trường hợp: Ân uy của tướng rơ rệt, quan quân phục theo, đó là một trường hợp; quân ta cùng quân địch ngang nhau, ta đánh th́ lợi, để nó đánh th́ hại, cần sai quan và quân tử chiến, đó là hai trường hợp; bị địch bức bách, lương cỏ đều hết, đó là ba trường hợp; quân trước đă bị phá, quân sau vẫn c̣n như cũ, đó là bốn trường hợp. C̣n không thể dùng th́ có ba trường hợp: Nó đông mà ta ít, đó là một; lợi hại chưa rơ mà ép quân cưỡng làm, đó là hai; dùng dằng chưa quyết, đó là ba.

 

Xem động tĩnh th́ biết là dũng hay nhát:

 

Cất chân bước cao, mất trông không liếc ngang, đó không phải là tướng trầm tĩnh. Ở lúc kịch mà đơn giản. Ở lúc nguy mà yên tĩnh. Xưa Tạ Huyền nhà Tấn, đương lúc quân Tần áp cơi thế như núi Thái đè chồng trứng, mà Huyền cứ đánh cờ như không. Khấu Chuẩn nhà Tống, đương khi quân Khiết-đơn vào cướp, thư ngoài biên báo tin gấp mà Chuẩn vẫn uống rượu và đánh bạc tự nhiên. Thế mới phải.

 

Thấy người ngồi như hổ, đi lại như chim cắt bay; đem quân tới địch th́ uy giận gấp bội lên; thấy thế lợi th́ cứ tiến, không nh́n lại sau; người quân tử cầm quân th́ tiến thoái quả quyết, xem người th́ thênh thả vui tươi, chí th́ ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người thiên tử.

 

Được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo h́nh ra nét mặt, hễ thấy động th́ động, thấy tĩnh th́ tĩnh, nhát mà không tính toán ǵ, cất chân th́ thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người, đó là tướng ngu vậy.

 

Xem ngôn luận của người tướng mà biết được thua: Xưa Hàn Tín nói với Cao đế, Cảnh Cam nói với Quang-vũ, lời bàn trong lều cỏ của Gia-cát, bài sách B́nh biên (1) của Vương Phác, đều là không phụ lời nói. Tướng Thục là Vương Chiêu-viên đem quân đánh nhà Tống, vung cánh tay nói: “Ta đi lần này lấy Trung nguyên như giở bàn tay”, tự ví với Gia-cát Lượng, mà mới đánh một trận bị bắt ngay.

 

 

 

*

*   *

 

Địch có mưu thần, th́ dùng gían điệp để phá; địch có chứa cất, th́ sai người đốt đi; địch có trồng cấy, th́ đánh lừa mà cắt đi, địch có nhân dân, th́ cưỡng bức mà bắt đi; ngầm đem của đút cho gián điệp của địch, hiến dâng gái đẹp để cho mê hoặc, biếu ngựa tốt để làm cho đăng ḷng; dùng mọi cách để lừa, cho đến khi ở ngoài th́ bị khốn, ở trong th́ mê hoặc, khiến việc nước hỏng bét, bấy giờ ta đem quân mà đánh th́ có thể không mệt nhọc mà lập được công. Người giỏi dùng binh nên mưu làm khốn địch; địch khốn th́ ta nhàn; lấy nhàn mà đánh khốn, không thua th́ đợi ǵ?

_________________________________

1. B́nh biên sách: Đời Thế tôn Bắc Chu, Vương Phác dâng kế sách dẹp yên biên cương, nói là đất Giang Hoài nên lấy trước, nghị luận rất hùng. Thế tôn rất tin dùng Phác.

 

*

*   *

 

Ta không đắc chí ở Hán-đông (1) th́ ta bày ba quân của ta, bày giáp binh của ta, đem vơ lực mà tới đó. Địch sợ phải tính mưu, nên khó dùng gián vậy. Các nước ở Hán-đông có Tùy là lớn hơn. Tùy tự kiêu, tất bỏ nước nhỏ. Nước nhỏ mà ĺa th́ lợi cho nước Sở (2). Thiếu sư Tuấn xin làm ra vẻ yếu quân để khiến Tùy kiêu. Nước Giảo nhỏ (3) mà khinh suất, khinh suất th́ ít mưu, xin đừng ngăn trở người kiếm củi để nhử họ.

 

Quần Sở nhẹ nhơm, dễ lay động. Nếu đánh nhiều trống th́ quân Sở là quân đánh đêm ắt phải trốn. Thần nghe sách Binh pháp nói: “Đánh ở nơi không đủ mà giữ ở nơi có thừa”. Lại nói: “Người thiện chiến khiến người đến mà không bị người khiến đến”. Nay Đơn Khương muốn làm giặc, nên chỉnh sức binh ngựa, luyện tập quân sĩ, chờ cho nó đến, lấy nhàn đợi nhọc. Đó là đạo đánh thắng vậy.

 

Quân giặc nhiều quân ta ít, đi thong thả th́ dễ bị theo kịp, đi nhanh th́ nó không thể nào lường được. Giặc thấy số bếp của ta ngày thêm th́ cho rằng có quân các quận đến đón. Quân ta nhiều mà đi nhanh, hẳn nó sợ đuổi ta. Tôn Tẫn th́ tỏ ra càng ngày càng yếu (4), ta nay tỏ là mạnh v́ thế có chỗ không giống nhau.

 

Trung-quốc yên ổn, quên việc đánh trận đă lâu. Kỵ binh họp ở ngoài đồng, đánh giáo đánh cung, quyết thắng trong lúc bấy giờ, Nhung Địch th́ sở trường ở chỗ ấy mà Trung-quốc th́ dỡ. Nỏ mạnh cưỡi trên thành, bền dinh cố giữ để đợi giặc suy, Trung-quốc th́ sở trường ở chỗ ấy mà Nhung Địch th́ dỡ. Nên phải dùng trước cái sở trường mà xem sự biến; đặt mưu mở thưởng, mà bảo cho nó ăn năn; đừng tham công nhỏ mà loạn mưu lớn.

 

 

*

*   *

 

Trăm trận trăm thắng, không bằng không đánh mà khuất phục được quân người, đó là trước làm thế địch không tthể thắng để chờ thế của địch ḿnh có thể thắng5. Trần-thương6 dù nhỏ, thành giữ chắc bền, chưa dễ hạ được. Vương quốc dù mạnh, đánh Trần-thương không vỡ. Quân Trần-thương hẳn mệt, mệt mà đánh vào, đó là đạo toàn thắng.

 

Tào Tháo đă phá được Lưu Bị, th́ đất Hứa-hạ không phải là bỏ không. Vả Tháo khéo dụng binh, quân dù ít chưa thể khinh suất mà đánh vậy. Nay không bằng hăy đợi lâu, ngoài th́ kết nạp với các anh hùng mà sửa sang nông chính, rồi sau kén những người tinh nhuệ, thừa lúc sơ hở mà lần lượt ra. Cứu phía hữu th́ đánh phía tả, cứu phía tả th́ đánh phía hữu, khiến ta chưa có thể bị làm nhọc mà địch đă khốn trước. Không tới ba năm, ta có thể ngồi mà thắng được. Quân Bắc dẫu nhiều, mà gan mạnh không bằng phương Nam. Quân Nam dù tinh, nhưng lương chứa không bằng phương Bắc. Phương Nam th́ may ở sự đánh mau; phương Bắc th́ lợi ở sự hoăn quân. Nên thong thả giữ lâu để chờ đợi ngày tháng.

________________________________

1. Hán-đông: Quận Hán-đông của nhà Hậu Ngụy, nhà Tùy bỏ, trị Sở ở phía tây-bắc huyện Chung-tường tỉnh Hồ-bắc ngày nay.

2. Đây là nước Sở thời Ngũ đại, đô ở Trường-sa tỉnh Hà-nam ngày nay.

3. Giảo: Tên một nước thời Xuân thu. Sở đánh Giảo, Mạc-ngao Khuất-hà nói: Giảo nhỏ mà khinh suất, khinh suất th́ ít mưu, xin đừng ngăn trở người kiếm củi để nhử giặc.

4. Tôn Tẫn: Người nước Tề, thời Chiến quốc, cháu ba đời của Tôn Vơ, làm quân sư cho Tề Uy vương, đánh bại Bàng Quyên, tướng nước Ngụy. Tôn Tẫn đem quân vào đất Nguỵ, đặt 10 vạn bếp, đến ngày mai chỉ để 5 vạn bếp, lại ngày mai chỉ để 3 vạn. Bàng Quyện tưởng là quân Tề càng ngày càng suy bỏ bộ binh mà đuổi, bị Tẫn đánh bại ở Mă-lăng.

5. Tôn tử, thiên IV.

6. Trần-thương: Thành Trần-thương nay ở Thiểm-tây. Thời Tam quốc, Hán vương ra đánh Trần-thương, đánh bại quân của tướng Ngụy Ung vương Chương Cam.

 

*

*   *

 

Đạt (1) quân ít mà lương thực chi dụng được một năm; quân ta gấp bốn lần quân Đạt, mà lương ăn không đủ một tháng. Lấy một tháng mà chọi một năm, sao lại không nên đánh chóng? Lấy bốn kỳ mà đánh một chính, cho mất đi một nửa mà thắng cũng cứ làm. Thế là không kể tử thương và lương thực vậy. Nay giặc đông ta ít, giặc đói ta no, nhưng mưa nước như thế, công sự không làm được, dù có thúc giục cũng chẳng làm ǵ. Từ phát quân ở Kinh sư, không lo đánh giặc, chỉ sợ giặc chạy. Nay lương ăn của giặc đă gần hết mà ṿng vây chưa khép. Cướp lấy trâu ngựa, thu lấy rơm củi, đó là cách đuổi cho nó chạy đi vậy. Phàm việc binh là lừa dối, khéo nhân sự biến. Giặc nhờ có nhiều quân và cậy trời mưa, cho nên dù khốn đốn cũng chưa chịu bó tay. Nên bảo cho nó là không thể làm ǵ để cho nó ngồi yên, lấy lợi nhỏ để làm cho nó sợ.

 

 

 

*

*   *

 

Mậu (2) là con rể của chúa, nhút nhát không có mưu chước, nay cho Diên(3) 5000 tinh binh thẳng từ Bao-trung đi quanh núi Tần-lĩnh mà sang phương Đông, qua đường tí ngọ mà lên Bắc, không quá mười ngày có thể đến Trường-an. Mậu nghe Diên ập đến th́ hẳn bỏ thành chạy, thóc của để quốc và của tán dân4 cũng có thể đủ ăn. Phương Bắc và phương Đông tụ họp với nhau phải hơn hai mươi ngày, mà ông do Tà-cốc lại cũng đủ để đến. Như thế th́ một lần cất quân mà từ Hàm-dương trở về Tây có thể yên định được.

Người xưa tính toán rồi sau mới đánh. Quân Ngụy5 không thể đánh có bốn điều: Đem quân vào đất khách, lợi ở đánh ngoài đồng, đó là một điều; vào sâu gần kinh kỳ, đóng quân ở đất chết, đó là hai điều; quân trước của ta đă thua, trận sau mới vững, đó là ba điều; quân họ nhiều, quân ta ít, không thể địch lại, đó là bốn điều. Quân ta tự đánh trên đất ḿnh, đông mà không thắng th́ ḷng quân khó bền; thành lũy chưa sửa, địch đến mà không pḥng bị, chẳng bằng đắp lũy vững, giữ bền quân để cho giặc già (mệt mỏi chán nản) đi.

 

 

 

*

*   *

 

Đại nghiệp của ta mới dựng. Diêu Hưng6 cũng là người giỏi trong một thời, chưa có thể mưu được. Nay chuyên giữ vững một thành, nó hẳn gồm sức để đánh ta, sự mất có thể đứng mà đợi được. Chi bằng ta đem quân kiêu kỵ rong ruổi, xuất kỳ bất ư mà đánh, nó cứu ở trước th́ ta đánh ở sau, cứu ở sau th́ ta đánh ở trước, khiến nó chạy vạy mà mỏi mệt. Ta th́ ăn chơi tự nhiên. Không đến mười năm, đất Hà-đông sẽ về ta hết, đợi khi Hưng đă chết, con nối ngôi nhỏ yếu, sẽ dần dần lấy Trường-an, cái đó là trong kế hoạch của ta vậy.

 

 

 

*

*   *

 

Người Ngô sắc sảo, th́ thuyền ghe là lối đánh liều chết của họ, thế khó tranh chọi được. Nay nên nghiêm quân để chờ, đừng nên giao chiến. Xin mượn kỳ binh và ngh́n người, ngầm sang sông đánh úp vào lũy họ, khiến họ lui th́ không biết lui đâu, đuổi th́ không đánh ai được. Đó là chước phá Triệu của Hàn Tín vậy. Việc binh quư ở nhanh chóng. Ta nhờ cái uy thắng trận luôn, vỗ về những quân mới quy phụ, khua trống mà kéo về Tây, th́ người ở Trường-an trông bóng mà sợ hăi. Trí không bằng mưu, sức mạnh không bằng quyết đoán, lấy Trường-an dễ như rung lá khô thôi. Nếu ta êm đềm tự chết ở dưới thành bền, nó có mưu sẵn, sửa sang dự bị để chờ ta, ta ngồi phí cả ngày tháng, quân ngày ĺa bỏ, việc lớn hỏng mất.

_________________________________

1. Đạt: Tức là Mạnh Đạt, vốn là tướng củs Lưu Chương ở Ích-châu (Thục), khi Lưu Bị vào đất Thục th́ Đạt hàng, được làm thái thú Tân-thành. Sau lại hàng Ngụy. Đến khi muốn trở về Thục th́ bị giết.

2. Hạ-hầu Mậu là rể Tào Tháo.

3. Tức là Ngụy Diên, đây là lời Ngụy Diên nói với Khổng-minh (Xem Tam quốc chí).

4. Để quốc là nước phong của vương hầu - Thóc của tán dân là thóc của dân rải rác các nơi.

5. Tức là Tào.

6. Diêu Hưng: Tức là Hậu Tần vương, một trong 16 nước ở đời Tần, về chủng tộc Khương.

 

*

*   *

 

Thế-sung1 kho tàng đầy dẫy, các tướng đều là người tinh nhuệ ở Hoài-tây cả, nhưng thiếu lương ăn là bởi bị ta cầm giữ. Kiến-đức là tướng tự phương xa đến, cũng nên bẻ găy khí sắc bén đi, chứ nếu thả cho hắn đến đây th́ hai giặc hợp nhau, chuyển thóc ở Hà-bắc để biếu Lạc-dương, chiến tranh bắt đầu, th́ thống nhất biết đến bao giờ được. Nay nên chia quân để giữ Lạc- dương, hào sâu lũy cao, đừng nên giao chiến. Đại vương thân đem quân kiên nhuệ, trước giữ chỗ cao trong thành, lấy quân nghỉ ngơi đợi quân mệt nhọc, quyết có thể được. Kiến-đức đă phá rồi, Thế-sung ắt phải thua. Không đầy hai tuần, hai chúa ấy đều sẽ bị bắt cả.

 

Giặc bày sức không đương nổi, th́ dễ dùng kế để khuất, khó dùng lực để tranh. Nay chúng có hào sâu lũy cao để bẻ găy mũi nhọn của ta, nhưng đám quản ô hợp không giữ lâu được, lương thực cạn hết, tự phải ĺa tan, không cần đánh mà bắt được.

 

Quân cứu bại của nó, chước không phải lập sẵn, thế không thể giữ lâu; chi bằng ta hăy đậu ở bờ phía Nam, hoăn lại một ngày, nó hẳn phải chia quân về giữ, quân chia th́ thế yếu, nhân lúc trễ nải mà đánh th́ nhất định thắng. Nếu gấp đánh ngay th́ nó gồm sức đánh liều, quân Sở mạnh sắc, ḿnh chưa dễ đương nổi.

 

Đất của Tiêu Tiển (2), phía Nam ra ngoài Lĩnh-biểu, Phía Đông đến hồ Động-đ́nh, ta đem quân vào sâu, nếu đánh thành chưa vỡ được mà quân viện bốn mặt họp lại, ta trong ngoài bị địch, tiến thái không được, dẫu có thuyền ghe cũng chẳng dùng được. Nay bỏ thuyền ghe để cho trôi xuống chật sông, quân viện trông thấy, hẳn bảo là đất Giang-lăng đă vỡ, chưa dám khinh tiến, đi lại nḥm ngó, chậm lại hàng tuần, ta lấy là phải được.

 

Vua Tần ở trong th́ chia cắt quần hùng, ở ngoài th́ uy phục Nhung Địch, độc lập làm đế, đó là cái tài sai khiến được đời. Nay đem hết quân mà đến cũng không địch nổi. Mưu chước của ta không ǵ bằng đóng quân không đánh, trải ngày giữ lâu, chia sai kỳ binh, cắt đường vận tải, lương thực đă hết, cầu đánh không được, muốn về không có đường, thế là có thể thắng được.

 

Tướng mạnh của địch bất quá là bọn Sử Tư-minh (3), An Thủ-trung, Điền Càn-chân, Trương Trung-chí, A Sử-na, mấy người mà thôi. Nay nếu sai Lư Quang-bật từ Thái-nguyên đến Tỉnh-kinh, Quách Tử-nghi từ Mă-dực đến Hà-đông, th́ Tư-minh, Trung-chí không dám ĺa Phạm-dương, Thường-sơn; Thủ-trung, Càn-chân không dám ĺa Trường-an, thế là dùng hai quân mà trói buộc tướng. Theo Lộc-sơn chỉ c̣n Thừa-khánh thôi. Xin Quách Tử-nghi đừng lấy Bút-dương, khiến cho các đạo quân ở hai kinh phải lùi. Quân Bệ hạ ở Phù-phong, cùng với Tử-nghi và Quang-bật mà đánh, nó cứu ở đầu th́ đánh ở đuôi, cứu ở đuôi th́ đánh ở đầu, khiến giặc đi lại mấy ngh́n dặm, chạy vạy mỏi mệt. Ta th́ thường lấy thế nhàn mà đợi thế nhọc. Giặc đến th́ tránh mũi nhọn, giặc đi th́ nhân nó mệt, không đánh thành, không chặn đường, sang xuân lại sai Kiến-ninh làm tiết độ đại sứ Phạm-dương, cùng là lấp đường ra phương Bắc, cùng với Quang-bật nam bắc tựu nhau để giữ Phạm-dương, lật đổ sào huyệt của giặc, giặc thua th́ không có lồi về, ở lại th́ không được yên; rồi sau đại quân họp lại mà đánh th́ hẳn bắt được.

 

Hai quân đánh nhau, quư tiến mà kiêng lui. Nay vô cớ bỏ 500 dặm đất th́ thế giặc càng thêm mạnh. Chi bằng dời quân đến Hà-dương, bắc liền với Trạch-lộ; lợi th́ tiến lấy, không lợi th́ lui giữ, trong ngoài ứng nhau, khiến giặc không dám lấn sang miền Tây. Đó là thế tay vượn vậy.

 

Quân của Nho quét đất mà lại, lợi ở sự đánh chóng. Nên giữ đồn hiểm yếu, đắp bền hào lũy, dẹp không đồng nội, để cho già quân nó đi. Bấy giờ cho quân khinh kỵ ra, cướpp lấy lương thực, đoạt lấy những vật nó cướp được, khiến nó tiến th́ không được đánh, lui th́ không có lương. Có thể bắt sống được.

_________________________________

1. Kiến-đức, Thế-sung: Thời Tùy sắp mất. Đậu Kiến-đức chiếm giữ Hà-bắc xưng là Trường-lạc vương lại xưng là Hạ vương, sau hợp với Vương Thế-sung. Tần vương Thế-dân đánh Sung, Kiến-đức đem quân đến cứu, Thế-dân bắt được chém ở Trường-an.

2. Tiêu Tiển: Cháu bốn đời của Lương Tuyên đế. Tùy Dạng đế cho làm chức lệnh ở La-xuyên. Khi hiệu úy Nhạc-châu là Đồng Cảnh-trân làm phản, Tiển mộ binh vài ngh́n người để đánh. Sau tiếm xưng hoàng đế, dời đô đến Giang-lăng. Đường Lư Tĩnh đánh bắt được.

3. Sử Tư-minh: Thời Đường Khai-nguyên, theo An Lộc-sơn làm loạn. Sau xưng là Yên đế, bị con giết chết.

 

*

*   *

 

Cơ. Thế liên hệ là cơ; việc chuyển biến là cơ; vật yếu hại là cơ. Có khi ngay trước mặt là cơ, nháy mắt một cái không phải cơ nữa. Có khi nhận được là cơ, bỏ mất tức không có cơ nữa. Mưu th́ nên sâu, giấu th́ nên kín; định là do sự biết, lợi là do sự quyết. Phàm dấy quân, phải chia trước sau của thế lớn, hoăn cấp để định việc, so sánh t́nh h́nh lợi hại của ḿnh và của người để dùng phép mà giữ ḿnh và chế người. Hoặc nghiêm ngoài để giữ trong; hoặc bền gốc để rộng nền; hoặc cắt cánh để cô thế; hoặc bắt chủ để tan quân; hoặc đánh mạnh cho yếu sợ; hoặc chống hoặc đánh; hoặc dẹp, hoặc vỗ; hoặc vây hoặc giữ; hoặc xa hoặc gần; hoặc kiêm làm cả hai cách; hoặc chuyên lực vào một phép; xem xét, tham chước, quyết định; vả lại mềm mỏng mà làm, nhởn nhơ chờ biến; rồi chuyển sang đánh mà tiến, có thể đại thắng được.

 

Thực hư. Phàm giặc kết trại lâu ngày, chợt thấy một hôm bếp lửa bội thêm, đó hẳn là kế bỏ trại mà lui, cho nên trước làm ra kế ấy để khiến ta bền ḷng. Ta kíp sai du binh mai phục trước ở đường trọng yếu, chờ nó đi qua mà đánh, chắc chắn là toàn thắng. Đó là yếu lược lấy thực làm hư vậy.

 

Kế sai khiến anh hùng. Kẻ sang th́ lấy kiêu ngạo mà khích; kẻ giàu th́ lấy xa xỉ mà khích; kẻ nghèo th́ lấy giàu mà khích; kẻ bạo th́ lấy giận mà khích; kẻ dũng th́ lấy mạnh mà khích; kẻ trí th́ lấy cơ mà khích; kẻ nhân th́ lấy yêu mà khích; kẻ nghĩa th́ lấy thẳng mà khích; kẻ lễ th́ lấy nhũn mà khích; kẻ tín th́ lấy hẹn mà khích; xa th́ lấy gần, thân th́ lấy sơ, tôn th́ lấy ti, nhỏ th́ lấy lớn, ít th́ lấy đông, khỏe th́ lấy yếu, lợi th́ lấy hại, thành th́ lấy bại, tối th́ lấy sáng, hư th́ lấy thực, nhàn th́ lấy nhọc, ưa th́ lấy ghét. Đến như công tư, tà chính, phải trái, mừng giận, thảm vui, đi lại, theo chống, liêm tham, siêng lười, rộng ngặt, lành dữ, khéo vụng, thuận nghịch, đều thế cả. Cùng là thân yêu thù oán, trung quốc ngoại di1, dũng mănh mưu kế, quật cường lễ nghĩa, hà khắc khoan hồng, ngược ngạo nhún nhường cũng thế. Nhưng có kẻ tiến th́ lấy lui mà khích; đánh th́ lấy giữ mà khích; lâu th́ lấy chóng mà khích; đói th́ lấy no mà khích; gặp chước dùng chước, rồng tung khóa sắt lên không; lấy mưu đánh mưu, phượng bẻ lồng vàng bay bổng. Cá về biển lớn, phải đâu là cá cắn câu; chim liệng trời cao, há phải là chim bị nhốt. Cao thấp mặc họ cao thấp, đều vào roi vọt tay ta; dọc ngang mặc họ dọc ngang; đều bị tay ta giá ngự. Đó là kế sai khiến anh hùng, đâu đâu cũng có công hiệu ra quỷ vào thần.

 

Kế lâm cơ ứng biến. Mây mưa rợp trời, mưa tuyết đầy đường, cuốn giáp ngậm tăm, rảo chạy đến bờ dốc, rừng rậm, hang sâu, chôn giáo đặt phục để đánh úp; khi chính chính đường đường th́ hào sâu luỹ cao; khi nhanh nhanh chóng chóng th́ chặn gươm bẻ giáo; ly gián để nhân chỗ sơ hở; kiêu lười th́ nhân chỗ trễ tràng; kẻ nhọc mệt th́ nhân họ mỏi mệt; kẻ om ṣm th́ nhân họ rối ren; quân ngang dọc th́ nhân họ không chỉnh đốn; quân sơ suất th́ nhân họ không đề pḥng. Cho nên dùng binh ví như dùng thuốc, tùy bệnh mà chữa. Sự thực chưa rơ mà đă thấy trước, ta pḥng bị càng nghiêm; sự việc chưa động mà đă nghe trước, ta chuẩn bị càng khéo. Đó là lâm cơ ứng biến, há chẳng phải là ra quỷ vào thần sao!

_________________________________

1. Chữ Trung quốc ngoại di ở đây có nghĩa là nếu là người Trung-quốc th́ lấy người ngoại di mà khích.

*

*   *

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

.

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: