MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU   THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học ֎ Báo Chí

 

    ֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Giờ Thứ 25

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

 ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018. Jan/2019

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAme ProgressvFaivCityvBus.Insider 

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHuav

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều

vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvBuddhism

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gươngv

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật Khoa Văn NghệvSOTT

vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu TrữvSoHa

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNMvB́nh Dân

BINH THƯ YẾU LƯỢC

 

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

 

HỔ TRƯỚNG KHU CƠ

 

TỰA

 

Có người hỏi tôi rằng: Phàm binh pháp như các sách Vơ kinh, Vơ bị, Quải ấn đăng đàn, Kỷ hiệu, Hồng vũ, c̣n chưa đủ sao? Sách Hổ trướng khu cơ c̣n chép làm ǵ? Tôi đáp rằng: Xă tắc c̣n hay mất, quốc quân vui hay lo, quan hệ ở một ông tướng. Cho nên làm tướng mà học binh pháp, quư tinh mà không quư nhiều, có dũng lại phải có trí, mới có thể nắm cơ ở ngoài cửa khổn, giữ tính mệnh của ba quân. Nếu nghề vơ không tinh, mà người tướng không giỏi, th́ chỉ trong chốc trở bàn tay sơn hà đă thay đổi, há chẳng nên cẩn thận hay sao? Vả chăng ư chỉ các sách binh pháp kể trên không phải là không tốt. Nhưng rườm rà nhiều mối, tinh thô khác nhau, cho nên người học như ngồi giếng xem trời, đi thuyền giữa biển, mờ mịt không biết gốc rễ, mênh mang không hiểu manh mối, là bởi thế đấy.

 

Đến Quốc triều ta có Lộc-khê1 là người đặc xuất, chí khí cao cả. Xem khi giúp Thánh tổ2 ta nổi tiếng nghĩa dũng đến ngh́n thu, dựng nền thái b́nh trong một trận, th́ trong ḷng thực có mấy vạn giáp binh; đến lúc cởi ấn từ quan, điền viên vui thú th́ trong lúc đi đứng thực đứng sánh với Y Doăn, Lă Vọng, Tử-pḥng, Gia-cát; đến lúc tuổi già lại lo tâm thuật không truyền cho ai, thần cơ mai một đi mất, th́ may có Triệu Điền được thân dạy bảo; lại có hai tiên sinh ta là Bảo Thức và Cao Toàn suy diễn những điều Lộc-khê chưa suy diễn, phát minh những điều Triệu Điền chưa phát minh, để đem ra dạy bảo, tưởng đấy là báu của trời đất, sao có thể bỏ mất đi được! Tôi là học tṛ, may được gần gũi, chính như dây sắn bám vào cây thông, dây b́m leo nhờ cây cù, được hai tiên sinh rủ yêu mà truyền thụ cho. Tôi trộm nghĩ sinh sau mà được thấy người trước, có thể đến cửa mà vào nhà, thân được truyền thụ, thực là có duyên may với hai tiên sinh vậy. Lại c̣n duyên trời dun dủi, gặp được bạn tốt như Phúc Định (tự Thủ-chân), đặc biệt thông minh, thiên tư anh vĩ, chí cả lấn mây, ḷng mang kinh tế, cho nên tôi không tiếc châu ngọc mà nhả hết ra. Ngờ đâu bạn tôi lại là người có chí bí truyền, không tiếc công phu, rửa nghiên nhúng bút biên thành sách này, chia làm ba quyển, gọi là sách Hổ trướng khu cơ, thực là mở huyền cơ của trời đất, tụ tú khí của kiền khôn, cho nên tôi khôn xiết mừng rỡ, cũng có chút bổ ích vậy.

 

 

 

CHIÊU-DƯƠNG CAO KHUÊ cẩn chí

____________________________________

1. Lộc khê: Đào Duy Từ.

2. Nguyễn Phúc Nguyên.

 

 

TỰA

 

Phàm người xa không phục th́ ta sửa văn đức cho họ đến. Nhưng Xi-vưu xưa hoành hành bạo ngược mà Hoàng đế lại dùng giáo mác để đánh là tại làm sao? Bởi v́ thời thế bất đồng, nhân tâm mỗi khác. Người xưa nói rằng: Đánh giặc để dẹp th́ đánh cũng phải, giết giặc để yên th́ giết cũng phải. Nhưng phép chiến tranh cũng lắm, mà cách sát phạt cũng nhiều. Có trí th́ dùng trí, không có trí th́ dùng sức. Phàm mặc giáp cầm giáo, cưỡi ngựa cầm roi, khó nhọc vào sinh ra tử, liều ḿnh thịt nát xương tan, đấy chỉ là một tráng sĩ thôi, sao có thể địch được muôn nguời? Thế gọi là không có trí th́ dùng sức đấy. Nay ta thà rằng đấu trí chứ không đấu sức. Bởi thế, trên nhờ di chỉ của tiên hiền, lại nhờ thần cơ của bạn tốt, t́m khắp sách lạ của thiên hạ xem hết điều lạ của xưa nay, rửa nghiên nhúng bút, bái đề tên sách là Hổ trướng khu cơ, huyền diệu không so sánh được. Phàm các phép hỏa công, thủy chiến, trận rắn, trận chim, mưu mô tướng lược, then máy binh gia, cái ǵ cũng đủ. Nếu người trí giả được sách này th́ có thể lập được công danh ở trên ngh́n vạn người, dựng nền thái b́nh trong một trận đánh. Sách này rất nên trân trọng, chớ đem dạy cho người bậy, vận dụng một ḷng mà kính theo mười điều răn:

 

1. Chớ càn dỡ giết người và đem ḷng riêng oán người.

2. Chớ làm thảm độc, tàn hại lương dân.

3. Chớ ḷng phạm thượng và phản bội thầy.

4. Thưởng phạt rất công, không làm quanh co.

5. Chớ mê sắc đẹp, chớ tham của cải.

6. Nghiêm răn sĩ tốt, cấm chỉ lấn cướp.

7. Đâu cũng yên dân, cốt làm nhân nghĩa.

8. Thương yêu cô quả, thăm viếng tang tóc.

9. Ḿnh trước sĩ tốt, cam khổ cùng nhau.

10. Phụng sự sách này, chớ nên trễ nải.

 

Mười điều răn trên này, nếu thiếu một điều sẽ bị các vị tổ sư khiển trách, c̣n mong thành công được sao?

 

Thơ rằng:

 

                             Anh hùng tự cổ trước kỳ kinh,

                             Vị nhược tư thư tối hữu t́nh.

                             Nhất trật bao tàng thiên địa bảo;

                             Thiên hàng bài liệt điểu xà h́nh.

                             Hỏa công thiêu tận thiên phong nhẫn;

                             Thủy chiến ba đồi vạn giáp binh.

                             Nhất bả thử chương vi tướng dụng,

                             Bất lao hăn mă điện thăng b́nh.

 

(Từ trước anh bùng làm sách lạ, Chưa kịp sách này rất hữu t́nh. Một quyển bao gồm báu trời đất; Ngh́n hàng bày sắp trận rắn chim. Hỏa công đốt trụi ngh́n gươm giáo; Thủy chiến ch́m vùi vạn giáp binh. Nếu đem sách này dùng việc tướng, Chẳng phải nhọc ngựa dựng thăng b́nh).

 

 

 

HẬU HỌC: THỦ-CHÂN LÊ PHÚC ĐỊNH cẩn đề

 

 

 

Tiên giác Vệ úy nội tán Lộc-khê tiên sinh di chỉ.

Hàn lâm Văn chức viện Triệu Điền tiên sinh kế thuật.

Xử sĩ Bảo Thúc Nguyễn Huy Chử tiên sinh tăng san.

Xử sĩ Từ-chân Cao Toàn tiên sinh đính ngoa.

Thiện thuật Cao Khuê tự Chiêu-dương tân soạn.

Hậu học Lê Phúc Định tự Thủ-chân kết tập.

Hậu học Vọng-doanh Cát-đằng Kiêm-trai Ngô Tử Thông tham soạn điểm duyệt.

 

 

HỔ TRUỚNG KHU CƠ

 

 

 

QUYỂN I

 

TẬP THIÊN

 

 

 

Tổng luận về cơ yếu binh pháp.

 

Mảng nghe: Gươm báu ấn vàng, nguyên soái lên đàn ban hiệu lệnh; quạt lông khăn lụa, quân sư cười nói vận thần cơ. Tỷ như Phạm Lăi dâng Tây Thi1, Tôn Tẫn bớt bếp nấu2, Đàn Đạo-tế đong cát giả làm lương3, Trương Tử-pḥng thổi sáo cho địch nản4, Hàn Tín cho quân nhổ cờ Triệu cắm cờ Hán5, cùng là giả thư đầu hàng dùng kế cho giặc kiêu, đều xuất tự trong ḷng của trí tướng, tự kế hoạch của mưu thần mà thôi. Cho nên nói rằng thừa cơ làm việc đấy thôi. Nhưng đều chưa có thể dùng làm phép thường. Phép thường là phương pháp. Phương pháp là ǵ? Như Hiên-viên đánh Xi-vưu làm xe chỉ nam mà bắt được giặc, cùng là đời sau trâu lửa của Điền Đan, hải nhạc6 của Vũ-mục. Hàn Tín dùng chum gỗ7 cho quân sang sông, Khổng-minh làm trâu ngựa gỗ để vận lương, Lưu Bá-ôn8 chế súng đồng pháo lửa, những người ấy thực là có tài xoay trời chuyển đất, có chí yêu nước giúp đời, trong lúc thi thố so với việc bày binh bố trận hơn gấp mười lần. Đời sau dẫu có danh tướng cũng không thể hơn được.

 

Đến quốc triều ta, Chính quân vệ úy nội tán Lộc-khê tiên sinh, đem tài lạ giúp vua, phát huy tinh túy của tướng môn, lập ra các phép hỏa cầu, yên cầu và phép thương lửa dưới đất, tên lửa chứa thuốc độc, dẫu người đời xưa sống lại cũng chẳng hơn đâu. Người sau học được yếu chỉ th́ chỉ có Triệu Điền, Bảo Thúc, Cao Toàn mấy người mà thôi. Sau khi các vị ấy đă quy thần th́ có ai nối được truyền thống ấy nữa đâu! Than ôi! đất đă chôn bí pháp, nhưng may trời chưa chôn lương mưu, để cho bạn ta như Cao công là người tuổi trẻ lỗi lạc, học thuật thấm nhuần, để ḷng giấu cất ngọc quư của tướng lược, khắc xương ghi chép phép diệu của binh gia, rửa bút rất tinh, mài nghiên rất sạch, biên thành sách Hổ trướng khu cơ, chia làm ba quyển, đầu đuôi cộng 37 điều. Thực là quốc sĩ vô song, quỷ thần mạc trác, không những chỉ là phép hỏa công thủy chiến, lại đến cả phép giữ trại pḥng gian, vận dụng cơ quan, không cái ǵ là không chép đủ. Được người khá mà dạy cho th́ kinh dinh bốn phương, công ghi sử sách, trăm đời cũng không mất vậy. Công dụng của tiền nhân bổ ích có phải là ít đâu.

______________________________________

1. Phạm Lăi khuyên Việt Câu-tiễn dâng Tây Thi cho Ngô Phù sai.

2. Xem chú Tôn Tẫn ở Binh thư yếu lược, quyển III.

3. Xem điển ở Binh thư yếu lược, quyển III.

4. Trương Lương thổi sáo ở Cai-hạ làm cho quân Sở nghe mà nản ḷng.

5. Xem chú Xích xí ở Binh thư yếu lược, quyển III.

6. Núi dưới biển, không rơ phép thế nào.

7. Xem chú Mộc anh ở Binh thư yếu lược, quyển III.

8. Quân sư của Minh Thái tổ.

 

 

*

*   *

 

 

THIÊN HỎA CÔNG

 

Cao Chiêu-dương nói: Phàm lửa vốn tự thái cực, được khí dương tinh, nhờ vào gỗ mà sinh, cho nên phàm các vật ở trong trời đất cái ǵ đụng vào là phải cháy tan, mà làm ngôi thứ nhất trong ngũ hành, lại là phép công hiệu nhất trong binh pháp. Nhưng gỗ (cây) động th́ sinh gió, gió thổi th́ lửa sinh, đó là lẽ tự nhiên của trời đất, cho nên người xưa nhân có gió mà dùng hỏa công cũng là lẽ thường, C̣n như không có gió mà dùng lửa, dùng lửa không cần phải có gió, th́ đời xưa chưa từng có. Duy có súng phật-lang-cơ của Tây-dương cũng tài như các phép hỏa cầu, yên cầu, hỏa lôi, hỏa tiễn của Lộc-khê tiên sinh. Thực đủ phát minh những cái đời trước chưa phát mà lập nên thần cơ mới mẻ. Xem mấy điều ấy th́ biết rằng cái tài của Lộc-khê tiên sinh có thể làm trái cơ trời đất, trái tính ngũ hành, thực là cơ quỷ thần không ai làm được. Học giả nên kính cẩn đấy.

 

Lê Thủ-chân nói: Đời xưa dùng hỏa công là nhân mùa hạ nóng nực, gió nồm thổi mạnh, liệu theo địa thế đặt hiểm mà đốt. Như Chu Du bày quân ở sông Xích-bích rồi sai Hoàng Cái đem thư trá hàng mượn thuyền lương mà đốt quân Tào Tháo. Khổng-minh đi đánh Mạnh Hoạch ở miền Nam, Ngụy Diên phục binh ở hang tối mà đốt quân áo giáp mây. Cho nên Binh pháp nói “Đường hẹp dùng hỏa công” là thế đó. Các kỳ kế như thế cũng cùng một lối mà thôi. Ngày nay dùng hỏa công th́ lại khác. Bắt đầu tự Lưu Bá-ôn đời Minh hồi giúp Thái tổ chế ra phép diệu súng đồng hỏa lôi, bắn một phát th́ đạn lửa bay ra, đến đâu th́ vạn vật đều tan nát hết, thực là toàn mỹ. Song người sinh sau lại càng đáng sợ. Các nước Tây-dương có nhiều kỳ tài, chế nhiều phép giỏi, như các loại súng phật-lang-cơ, địa lôi, đạn sắt lại càng huyền diệu, bắn ra một phát, thảm độc rất nhiều. Rồi tiền nhân ta được phép ấy, chỗ thiếu th́ bổ vào, chỗ sót th́ thêm vào, mà chế ra các phép hỏa cầu, yên cầu, hỏa đồng, hỏa tiễn, lại được thích dụng. Cứ ư kiến của tôi th́ tài ấy có kém ǵ dây sắt đạn lửa đâu.

 

 

*

*   *

 

PHÉP DIỀU LỬA ĐỐT GIẶC.

 

Phàm có gió th́ nên dùng hỏa công, đó là phép thường. Nếu trại giặc rất xa mà canh giữ nghiêm ngặt, th́ dẫu có gió lớn, lửa cũng không do đâu mà dùng được. Nên làm phép diều giấy để đốt th́ giặc dù có cánh bay được trong phút chốc cũng hóa ra tro hết.

 

Phép làm: Trước hết lấy nan tre làm cốt kết thành h́nh con diều, hai cánh ngang ra, đem cốt diều1 ấy ngâm nước hơn một tháng, phơi khô, lấy giấy mỏng tẩm dầu trám dán vào cốt tre làm ḷng diều. Lại lấy 1 cân lưu hoàng, 1 lạng diêm tiêu nấu cho tan ra đem vải mỏng mà tẩm rồi phơi khô, bồi vào ngoài cốt tre ấy làm da diều. Lại lấy một cân cỏ bấc đèn cũng tẩm nước ấy để làm đuôi diều. Xong rồi, lại lấy 1 sợi dây gai dài độ 100 bước, hoặc hai ba trăm bước, buộc vào lưng diều làm lèo và dây thả diều. Lại lấy một sợi dây giấy làm ng̣i thuốc dài bằng dây gai buộc vào sau đuôi diều, c̣n thừa th́ quấn vào dây diều. Nhân có gió th́ thả diều lên, xem chừng hễ diều đến gần dinh trại giặc th́ lấy lửa đốt vào đầu dây ng̣i thuốc, lửa bén theo lên diều và cháy đứt dây, diều rơi xuống. Nếu dây diều chưa đứt th́ lấy dao mà cắt khiến diều rơi xuống đốt cháy trại giặc.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP LÀM HỎA CẦU (QUẢ NỔ2).

 

Phép hỏa cầu là phép thần của Tây-dương. Trong lúc đem quân đi đánh giặc, hai bên bày thành thế trận, ta đem súng phi thiên mà bắn, quả nổ tung ra, rơi đến đâu th́ quả nổ nổ ra, mảnh sắt tung toé bốn mặt, dẫu gươm giáo choáng trời, cờ xí lấp đất cũng chỉ một lát là tan nát hết.

 

Phép làm: Trước hết sai thợ sắt đúc một b́nh gang tṛn ước 1 thước gọi là quả mẹ, lại đúc ba quả con mỗi quả tṛn 2 tấc. Đều đúc gang mỏng. Trên miệng có nắp có đường trôn ốc để khi đậy nắp lại không bật ra được. Rồi sau nạp thuốc súng vào miệng b́nh. Hăy xin nói một quả. Trong ḷng đựng đầy thuốc súng, xong rồi lấy nắp đậy kín miệng lại. Trước dùi một lỗ nhỏ để luồn dày ng̣i vào. Dùng vỏ gai ngâm nước muối phơi khô kết thành dây và quấn ở ngoài quả nổ, h́nh như rắn quấn, như thế là để cho lửa không cháy vung ra. Lại lấy vỏ gai khô buộc xen vào, khiến cho lửa không tắt được. Lại lấy dây ng̣i thuốc súng quấn vào toàn thân quả nổ, cuối cùng luồn đầu ng̣i vào lỗ nhỏ, như thế là cốt cho nổ chậm. Lại lấy nước muối tẩm vào vỏ gai, phơi khô, quấn vào chung quanh quả nổ rất kín. Làm như thế xong rồi lại lấy dây thau nhỏ buộc chằng ở ngoài, để cho lúc bắn đi không tuột da quả nổ. Lấy mấy quả con ấy nạp vào trong bụng quả mẹ. Quả mẹ cũng làm như cách nói trên. C̣n đầu dây ng̣i th́ nên để hở ra ngoài. Cứ thế đem quả nổ nạp vào đại bác phi thiên mà bắn th́ quả nào cũng nổ.

 

Lời bổ chú của Kiêm-trai: Phàm mùa đông mà bắn quả nổ, nên dùng mỡ rái cá bôi ngoài vỏ gang quả mẹ quả con th́ càng tốt

 

 

Bài thuốc nạp quả nổ:

 

Diêm tiêu 1 lạng, Lưu hoàng 1 đồng 2 phân

Thạch tín 8 phân, Than gỗ dâu 1 đồng 2 phân 2 ly.

Hồ tiêu 8 phân,

Bạch chu sa 8 phân, Nao sa 8 phân.

 

 

Bài làm ng̣i:

 

Bạch diêm 2 lạng 2 phân, Lưu hoàng 8 đồng cân.

Than gỗ dâu 1 lạng 6 đồng cân.

Giấy trắng tẩm bạch diêm đủ dùng.

(Thuốc làm ng̣i diều lửa ở trên cũng thế).

_______________________________________

1. Không nói rơ bề lớn nhỏ của cốt diều.

2. Tức là trái phá.

 

 

*

*   *

 

PHÉP CHẾ YÊN CẦU (QỦA MÙ).

 

Phàm khi hai bên giao chiến, trận thế tương đương, ta đứng đầu gió mà thả khói phân lang thuốc độc th́ địch hẳn tránh được, dù có bài thuốc thảm độc cũng không làm hại được. Cho nên tiên công có bí pháp chế ra quả mù nạp vào súng phi thiên mà bắn đến gần dinh giặc, lửa nổ khói độc phát ra, giặc dù có phép độn thổ tàng h́nh, chỉ trong khoảnh khắc đều chết cứng cả.

 

Phép làm: dùng một cái b́nh sắt chứa thuốc độc vào, trên b́nh có một lỗ thông thiên 1 tấc 6 phân. Lại dùng một cái ống sắt không có đáy to 1 tấc 5 phân 3 ly, dài 3 tấc 5 phân, trong ống đựng thuốc súng, đầu ống lấy mẩu tre hay mẩu gỗ bịt lại, xong rồi đặt ống ấy vào chỗ lỗ thông thiên. Lại lấy dây ng̣i thuốc xuyên ngay vào trong ống. Ngoài b́nh sắt bao bằng dây gai ngâm nước muối. Làm như thế xong rồi nạp b́nh sắt ấy vào đại bác phi thiên mà bắn. Ta đứng đầu gió mà bắn th́ lửa theo ng̣i thuốc mà vào trong ống, phá tung cái nút gỗ ở đầu ống ra, tự nhiên khói độc phát ra, theo gió mà đến quân giặc chết cả.

 

 

Bài thuốc độc:

 

Diêm tiêu 10 lạng, Lưu hoàng 2 lạng,

Than gỗ dâu 3 lạng, Phân chó sói 2 lạng rưỡi,

Cứt khô 3 lạng, Lá thiên ngải 3 lạng,

Thuốc lào 3 lạng, Phiên tiêu 3 lạng,

Ban miêu 3 lạng, Tiên thiên tử 2 lạng,

Thạch tín 2 lạng, Thiên hoa phấn 5 đồng cân rưỡi.

 

 

Bài thuốc súng:

 

Diêm tiêu 5 đồng cân, Lưu hoàng 3 đồng cân,

Than gỗ xoan 3 đồng 5 phân.

 

 

*

*   *

 

PHÉP CHẾ HỎA ĐỒNG.

 

Kiêm-trai nói: Lúc dùng hỏa đồng th́ đem hỏa đồng buộc vào miệng súng mà bắn.

 

Phép làm: Lấy một cái ống tre một đầu để mắt, dài 6 tấc, dày 3 phân, trước tra thuốc vào dưới đáy, giọt 300 chày, lại tra thuốc phun, giọt 300 chày, xong rồi lấy lưỡi đồng nạp vào, lại lấy thuốc hỏa phấn nạp vào chỗ khe các lưỡi đồng. Rồi lấy dây tẩu mă, tức là dây ng̣i lửa, xuyên vào. Lại lấy giấy bồi ở ngoài ống, lại lấy dây mây chằng rất kỹ, rồi dùng dây gai mà quấn để dùng.

 

 

Bài thuốc nạp:

 

Diêm tiêu 10 lạng 1 đồng 5 phân,

Lưu hoàng 2 lạng, Than gỗ dâu 2 lạng.

 

 

Bài thuốc hỏa phấn:

 

Diêm tiêu 1 lạng, Lưu hoàng 1 cân 4 phân,

Than đen 1 cân 7 phân, Nhựa thông 3 phân,

Thiết hoa 5 phân, Bách thảo sương (nhọ nồi) 3 phân,

Phê sương 3 phân, Chương năo 3 phân,

Ngân châu 3 phân, Khói thông 1 lạng 3 phân.

 

 

Bài thuốc phun:

 

Diêm tiêu 1 lạng, Lưu hoàng 6 cân,

Than gỗ thông 5 cân, Bách thảo sương 3 cân,

Thiết phấn 3 cân 5 đồng, Ngân phấn 3 cân 5 đồng.

 

 

*

*   *

 

PHÉP LÀM HỎA TIỄN (TÊN LỬA )

 

Kiêm-trai nói: V́ lửa dữ dội như hổ, nên gọi là hỏa hổ.

 

Phàm trí tướng dụng binh, việc ǵ cũng dự bị. Nếu không dự bị th́ lâm cơ trong khoảng chốc lát lấy ǵ mà ứng dựng. Ví dụ như lúc cướp trại giặc, vượt ṿng vây, đánh giáp mặt ở đường hẹp, cùng trận ngựa liên hoàn, trận voi chắn đường, nên dùng tên lửa mà đánh th́ cái ǵ cũng tan.

 

Phép làm: Lấy cái ống dài 6 tấc 3 phân, nhồi thuốc súng làm 3 nấc, nấc thứ nhất dày một tác, giọt 300 chày, nấc thứ hai dày 3 tấc, giọt 300 chày, nấc thứ ba nạp tên sắt, đuôi tên có đeo sao dài 1 tấc, lại nạp thuốc 1 tấc, giọt 300 chày. Xong rồi đằng sau ống sắt dùng ống tre già 5 tấc tiếp vào, lại cho ng̣i thuốc xuyên vào đầu ống. Lúc dùng lấy lửa đốt đầu ng̣i th́ thuốc lửa cùng tên sắt tự nhiên bắn tung ra.

 

 

Bài thuốc nạp:

 

Diêm tiêu 10 lạng, Than đen 2 lạng,

Lưu hoàng 1 lạng 2 đồng 5 phân.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP CHÔN HỎA THƯƠNG DƯỚI ĐẤT.

 

Phàm trí tướng dùng binh, hoặc dụ giặc vào chỗ sông hồ, bầy mưu mà đánh, giả cách thua chạy, đặt súng ở dưới đất để đánh bại giặc.

 

Phép này, dùng tre núi hoặc 100 cái, hoặc 200 cái, mỗi cái dài hơn 5 thước, miệng to 2 tấc, ba đốt trên đục thủng lỗ to, đoạn dưới để mắt, nhồi thuốc phun đầy 2 thước rưỡi, c̣n nửa thước ở trên lại nhồi thuốc súng. Như thế xong, bèn dùng ống nhỏ, ống ấy vừa bằng ruột ống tre, dài 3 tấc, cắm vào đầu thương làm miệng. Trên miệng lấy giấy Vĩnh-thọ cắt ra thành mảnh nhỏ rồi lấy hồ dán miệng ấy rất kín. Bên đầu thương lại dùi một lỗ nhỏ để làm chỗ dẫn lửa. Ống thương nên lấy dây mây mà quấn, lại lấy dây sắt mà bọc. Lại lấy gỗ nhỏ 2 cây, mỗi cây dài 1 thước rưỡi, đục làm giá chữ thập (), cốt để khi chôn xuống đất th́ ống thương không bật đổ. Các việc xong cả, bèn khai rănh chữ bát (), đem những ống hỏa thương ấy đặt xuống rănh, cách nhau hơn 3 thước, miệng thương để ḷi ra 1 tấc, c̣n th́ chôn sâu dưới đất. Bấy giờ đến chỗ giáp rănh chữ bát đào một hốc sâu 4, 5 thước, đặt đá lửa và dao sắt, làm máy như cách đặt địa lôi. Bèn đặt ng̣i dẫn lửa tự máy đá liền đến chỗ lỗ ng̣i của các hỏa thương. Xong đâu vào đấy rồi, lại lấy cát cỏ phủ lên cho bằng, đừng để hở cho người biết. Rồi ta đến dinh giặc khiêu chiến, ta giả cách thua chạy, cứ nhắm chỗ ấy mà chạy. Giặc không ngờ, chạy xéo vào máy đá th́ dao và đá cọ xát nhau mà nảy lửa, lửa cháy vào ng̣i thông đến các ống hỏa thương hai bên th́ các hỏa khí nổ bung lên. Giặc dẫu đông trăm vạn cũng đến chết cháy trong đám lửa hừng ấy.

 

 

Bài thuốc phun:

 

Diêm tiêu 2 lạng, Lưu hoàng 6 cân,

Than thông 5 cân, Nhọ nồi 5 cân,

Thiết phấn 3 cân 5 đồng, Yên phấn 3 cân 5 phân, 

Long năo 3 phân.

 

 

Bài thuốc súng:

 

Diêm tiêu 1 lạng, Lưu hoàng 3 phân 5 ly,

Than xoan 3 phân 5 ly.

 

*

*   *

 

PHÉP HỎA TIỄN CHỨA THUỐC ĐỘC.

 

Phàm ít không địch được nhiều, yếu không địch được mạnh, đó là lẽ thường. Nhưng Binh pháp có nói: “Người đánh giỏi trước làm thế địch không thể thắng được để chờ thế của địch ḿnh có thể thắng”1. Cho nên cầm quân 3.000 người chống giặc năm đường, phỏng ở nơi đồng rộng đường dài, giặc đem cả nước sang đánh th́ lấy ǵ mà chống được? Nên dùng phép hỏa tiễn chứa thuốc độc:

 

Trước hết sai quân đào hai rănh ở hai bên đường, sâu 4 thước 5 tấc, dài 200 bước hoặc 100 bước hay 50 bước, giữa đường lại đào một rănh ngang để thông hai rănh tả hữu. Lại khiến thợ sắt đúc cái bầu sắt đường kính đáy 2 thước, đường kính miệng 2 tấc 3 phân, hoặc 100 cái, hoặc 1.000 cái, h́nh như quả bầu. Lại làm ống sắt dài 4 thước 3 tấc, mỗi bầu một ống. Lấy thuốc độc nạp vào trong bầu, xong rồi lại đem ống sắt cắm vào trong bầu từ miệng đến đáy. Lại lấy thuốc súng nạp vào đầy ống sắt. Lại lấy viên bánh thuốc độc nạp lên trên thuốc súng. Lại lấy thuốc súng nạp lên trên bánh thuốc độc. Lại lấy mũi tên sắt 10 cái hoặc 100 cái h́nh như ngọn mác, dùng dây gai buộc làm một bó nạp lên trên thuốc súng. Lại lấy thuốc súng nhét lên trên bó mũi tên. Lại lấy viên bánh thuốc độc nhét lên trên thuốc súng. Lại nạp mũi tên lên trên thuốc súng. Lại lấy thuốc súng nhét lên trên mũi tên. Như thế 3, 4 lần, đến khi đầy ống th́ thôi. Bấy giờ mới đem bầu sắt ấy để vào trong rănh, miệng bầu hơi nghiêng trở lên, các ống đều cách nhau chừng một bước. Hai rănh bến tả bên hữu đều đặt như thế. Rồi sau đặt máy lửa ở rănh ngang, trên có ng̣i thuốc chạy vào miệng cái ống ấy để làm thế nổ liên liếp. Lại lấy nan tre làm phên che lên trên các rănh, phủ cát cỏ lên. Làm xong rồi, mới đi dụ giặc ra đánh nhau, giả cách thua mà chạy. Giặc thừa thế đuổi theo, đến chỗ rănh ngang xéo phải máy lửa th́ ng̣i lửa cháy đến các ống mũi tên thuốc độc, thuốc súng cùng lửa đều nổ tung, dù trăm vạn quân cũng chỉ một chốc đều bị nát.

 

Bài thuốc bầu:

 

Diêm tiêu 10 lạng,

Than dâu 5 lạng,

Thạch tín 1 lạng,

Lưu hoàng 10 lạng,

Phân chó sói 2 lạng,

Hồ tiêu 2 lạng,

Dương trịnh trục, tục gọi là quả ngón vàng, 1 lạng,

Lá ngải 2 lạng,

Thiên tiên tử, tức là cà độc dược 1 lạng,

Thuốc lào 2 lạng,

Thiên hoa phấn 3 đồng cân,

Ban miêu, tức là bọ đỗ đỏ đầu 1 lạng.

Các vị trên tán nhỏ ra lấy nước mủ xương rồng ngâm rồi phơi khô mà dùng.

 

 

Bài thuốc súng:

 

Diêm tiêu 6 lạng,

Than dâu 1 lạng,

Lưu hoàng 5 đồng cân.

 

 

Bài bánh thuốc độc:

 

Diêm tiêu 7 lạng 2 đồng cân, Lưu hoàng 5 đồng 8 phân, Than dâu 1 lạng, Nhựa thông 1 lạng, Băng phiến 5 đồng cân, Vôi 1 lạng, Nhọ nồi 5 đồng cân 3 ly.

Các vị trên tán nhỏ ra, trước đem nhựa thông nấu tan ra, rồi cho các vị thuốc vào, đo miệng ống mà nặn thành bánh, như bánh hương hoàn.

______________________________________

1. Tôn tử, thiên IV.

 

 

*

*   *

 

PHÉP LÀM SÚNG GỖ.

 

Phàm súng đồng súng gang, người đời dễ biết, c̣n phép làm súng gỗ, chưa ai biết cả. Người làm tướng không nên không xét mà dùng.

 

Sai thợ mộc lấy gỗ rất bền làm thành h́nh súng, thành rất dày, ḷng rất rộng. Phần sau ống súng ước độ 1 thước th́ trong ḷng để nguyên. Bèn xẻ dọc ra làm hai mảnh. Lại lấy các thứ vôi, phân voi, mật, đất thó ḥa lẫn với nhau đem bôi vào ḷng súng, cốt cho trơn, xong rồi ghép hai mảnh lại thành một khẩu súng. Lại lấy vôi, nhựa trám, nhựa thông, mật, ḥa lẫn nhau gắn vào chỗ hai mảnh ghép nhau, rồi lấy dây sắt cuộn đánh đai thân súng lại cho chắc chắn. Lại xoi một lỗ cho ng̣i thuốc vào. Nhồi đạn và thuốc súng vào để bắn, không khác ǵ súng đồng súng gang.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP ĐỐT ĐUỐC TRƯỚC GIÓ.

 

Phàm đánh trận ban đêm phải có đèn đuốc. Nếu gặp lúc gió lớn mưa to th́ làm thế nào mà đốt đuốc được? Cho nên tiên công làm phép đốt đuốc rất thần diệu. Phàm đánh trận ban đêm dẫu gặp gió băo mưa trút cũng vẫn sáng trưng, không lo tắt nữa.

 

Bài làm thuốc thần:

 

Sơn khô 2 lạng, sao qua,

Lưu hoàng 2 lạng,

Lịch thanh, tức nhựa trám 2 lạng,

Sáp ong 2 lạng,

Diêm tiêu 2 lạng,

Bột đậu đen 2 lạng.

Các vị trên tán nhỏ ra, trước đem nhựa trám nấu chảy ra cho các vị thuốc vào, lấy vải nặn thành thoi dài để vào trong ống tre, đốt ở trước gió không tắt.

 

 

 

*

*   *

 

Kiêm-trai nói: Cách làm đèn phi thiên ngày nay cũng vẫn nên cùng dùng với đuốc này.

 

PHÉP LÀM ĐÈN PHI THIÊN.

 

Lấy giấy trắng làm ḷng đèn h́nh như cái gàu múc nước, cao 2 thước, trên nhọn mà kín, dưới tṛn mà rỗng, bề ngang hơn 1 thước, dưới đáy có ṿng tṛn bằng tre; lấy dây sắt buộc như chữ thập, lấy một mớ bấc đèn tẩm dầu buộc vào chỗ dây sắt chữ thập mà đốt th́ lửa đèn sinh ra gió đèn bay lên trời, theo chiều gió mà đi, sáng khắp cả bốn bề. Làm nhiều đèn ấy đốt thả lên càng tốt. Khôn khéo biết là dường nào!

 

 

 

*

*   *

 

Các bí pháp hỏa công trên này cộng 9 điều, thực là trí diệu của cổ nhân, người học nên để ḷng học thuộc.

 

THIÊN THỦY CHIẾN

 

Cao Chiêu-dương bàn rằng: Nước là có từ thuở hồng mông1, do khí của trời sinh ra, cho nên bảo rằng sức nó khỏe mà đi thuận chiều, người nhờ nó để sống mà nó cũng giỏi giết người, có thể chở vật mà cũng có thể lật ch́m vật, từ trên cao mà chảy xuống, mạnh không cái ǵ bằng. Cho nên người xưa dùng nước vào việc binh, công dụng không thể kể hết. Như Hoàng để làm thuyền, Hàn Tín theo đó mà làm chum gỗ, Chu Du theo đó mà lập thủy trận; bao cát túi cát của Gia-cát, long thằng hải nhạc2 của Vũ-mục, tàu chiến bọc sắt của Vân-long, voi vôi, cọc gỗ của Hồng-vũ. Nay Lộc-khê làm các phép thủy vơng thủy lôi, Triệu Điền làm thủy long thủy nô, đều theo phép đời xưa mà biến hóa thôi. Xem như thế th́ thủy chiến rất nhiều phương pháp, cốt ḿnh khéo dùng. Cho nên Binh pháp nói rằng “Vận dụng khéo ở một ḷng, ngồi trong màn trướng mà quyết thắng ở ngh́n dặm”, há chẳng đúng sao. C̣n như thư sinh non mặt, tướng hèn tối dạ, khư khư câu nệ không biết biến thông, chỉ biết nước làm tắt được lửa, gió động sinh ra sóng, mà không biết cái lẽ lửa chế được nước, không gió cũng sóng, có khác ǵ ngồi đáy giếng xem trời, lấy hến đong nước biển, cũng như Triệu Quát3 chỉ biết đọc sách của cha mà không biết thông biến, những người như thế thực là đáng thương. Cho nên tôi lược cử mấy điều biên chép thành tập này, để các bậc quân tử sau này ai học binh thư sẽ theo thời thông biến, chớ như người đánh dấu mạn thuyền t́m gươm, thế th́ binh pháp của Lộc-khê may ra khỏi sai lầm.

 

Lê Thủ-chân nói: Tính nước mềm mà không yếu, khỏe mà không cứng, có lúc th́ trăng soi trong vắt, có lúc th́ nổi sóng ầm ầm, chặn lại th́ lên núi, chảy xuôi th́ về biển. Mạnh tử nói: “Như nước chảy xuống chỗ thấp, không ai ngăn được”. Đấy là tính của nước. Ngụy Vơ hầu nói: “Núi sông vững bền, tốt lắm, đấy là của báu của nước Ngụy”. Ngô hầu nói: “Ta có sông Trường-giang rất hiểm”. Tuy nói như thế cũng là khá đấy, nhưng chưa bằng nhân chỗ hiểm mà đặt hiểm, đă tinh lại cầu cho tinh thêm, trong dầu nhân thế mà phóng lửa, trên gấm theo khổ mà thêm hoa, lại càng tốt hơn. Cho nên đóng cọc ḷng sông, gài nỏ góc biển, lại vững chắc hơn, đặt thủy lôi đáy nước, đặt tên ngầm trong sông, lại càng hiểm lạ, há chẳng tốt sao? Lại xem như lúc Hán Quang-vũ thua trận chạy đến sông Ô-đà, may mà băng đóng nên qua sông được, nếu băng không đóng th́ làm thế nào? Cho nên đặt làm cầu phao trăm cấp. Thục Tiên chúa khi phi ngựa qua suối Đàn-khê, nếu ngựa không nhảy sang th́ làm thế nào? Cho nên làm ra phép chum đan để lội sông. Những bí pháp như các điều ấy, nếu không phải là người trí khôn cướp cơ tạo hóa th́ làm thế nào được! Cho nên các phép của tiên công, so với cổ nhân tới sông đánh thủy, gặp nước bắc cầu cũng chẳng kém đâu. Học giả nên kính cẩn mà học.

_______________________________________

1. Thuở mới sinh ra trời đất.

2. Dây thừng rồng và núi trong biển.

3. Triệu Quát: Tướng nước Triệu thời Chiến quốc, dùng binh chỉ theo sách học, không biết thông biến, đánh nhau với Bạch Khởi tướng Tần, bị Bạch Khởi chôn sống bốn mươi vạn quân.

 

 

*

*   *

 

PHÉP LẤY NƯỚC NGỌT TRONG BIỂN.

 

Phàm trí tướng dùng binh, trong lúc thủy chiến thống suất hàng ngh́n chiến hạm, muôn đội hùng binh, vượt biển mà đánh giặc, nhỡ ra trong quân thiếu nước ngọt th́ làm thế nào? Cho nên có phép lấy nước ngọt trong biển:

 

Trước hết sai thợ mộc đóng một cái thùng to, cao độ 5 thước, bề to sao cho xứng, chu vi kiên cố, nước không rỉ được. Đục 5, 6 lỗ nhỏ ở đáy thùng, lấy vải trắng lụa mới trải ở đáy thùng phía trên lỗ. Xong rồi mới ra băi cát ven biển đào một hốc to, thấy nước trong chảy ra, uống thấy ngọt th́ lấy cát chỗ ấy chứa vào trong thùng, chừa trên miệng thùng nửa thước. Lại làm một cái chậu gỗ cao ước 1 thước to bằng miệng cái thùng kia, đem chậu ấy để dưới thùng, rồi để cả vào trong thuyền. Đến khi qua biển, sai quân múc nước biển dội vào trong thùng gỗ lên trên cát; nên cho nước biển chảy dần dần xuống, chớ cho chảy mạnh, làm như cách lọc nước; như thế th́ nước biển thấm xuống đáy thùng mà gạn vào chậu, tự mất vị mặn mà thành vị ngọt, không khác ǵ nước giếng, dùng để giải khát cho ba quân, lo ǵ trong biển không có nước uống!

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP PHÁ XÍCH SẮT.

 

Khi chiến thuyền ta vào giang phận của giặc, bỗng gặp giặc dùng dây sắt chắn sông th́ làm thế nào? Người làm tướng ngày thường nên sai thợ sắt đúc một cái thiết đề, miệng ngang rộng 2 thước, cán gỗ dài 3 thước, để ở trong chiến hạm. Khi gặp có xích sắt chắn sông th́ lấy ba vị là diêm tiêu, lưu hoàng, nao sa cùng với than gỗ phóng vào trong thiết đề, thổi lửa nấu cho đỏ rực lên, đem đến chỗ xích sắt mà đốt, chốc lát xích sắt đỏ ra th́ lấy búa lớn mà chặt, xích sắt phải găy, thuyền ta thẳng tới như đi trên đất bằng, không ai ngăn được. Đấy là nghĩa hỏa khắc kim, trí tướng nên biết trước điều ấy.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP ĐẶT TÊN NGẦM DƯỚI NƯỚC.

 

Dùng cần tre cứng 100 cái hay 50 cái, mỗi cần dùng một ống tre dài 1 thước 5 tấc, trên có lỗ thông, dưới để mắt, dưới mắt để gióng thừa, đục một lỗ chênh chếch cắm đầu cần vào. Xong rồi, do lỗ thông ở đầu mỗi ống đều nạp tên thuốc độc cho đầy ống. Bao nhiêu cần tre đều làm như thế. Khi gần đánh nhau xét trước cửa sông chỗ nào là đường thuyền giặc đi qua th́ đem cần cắm xuống nước hai bên cửa sông. Mỗi đầu cần buộc một sợi dây gai, đuôi dây các cần buộc túm lại làm một nắm dây to, đầu nắm dây to ấy buộc ngang vào một cái gỗ dài 4, 5 tấc như h́nh chân gà, rồi đem nắm dây to ấy kéo gh́ vào sau bờ sông, như thế th́ các cần tre đều cong lên như h́nh cung mà các tên th́ hướng trở lên. Hai bên đều thế. Lại đo chính giữa cần tre ở phía ngoài cắm một cái cột ngắn ngầm dưới nước, đầu cột ấy làm cho bằng, kéo đầu nắm dây to chân gà để lên trên đầu cột ấy, lấy ḥn đá lớn mà chận, liệu chừng cho các cần tre đều cong th́ tốt. Hai bên tả hữu đều thế. Lại lấy một sợi gai buộc một ḥn đá lớn ở bên tả, buộc liền với một ḥn ở bên hữu mà chắn ngang ḷng sông, chính giữa dây gai chắn ngang ấy lại buộc một cái neo đá với những ống phao nhỏ, liệu chừng cho lềnh bềnh theo sóng, nửa ch́m nửa nổi th́ tốt. Nếu thuyền giặc chợt đến, theo ḍng nước tiến thẳng vào sông, th́ mái chèo động vào dây chắn ngang sông, máy đá hai bên rơi xuống th́ dây chân gà tuột ra, các cần tre đều bật lên mà tên ở các ống đều bắn theo nhau về một hướng.

 

*

*   *

 

PHÉP ĐÓNG CỌC L̉NG SÔNG.

 

Kiêm-trai xét: Đời chúa Nguyễn dùng cách này của Lộc-khê bắt được quân của tướng Trịnh là Gia quận công.

 

Cơ giữ nước tất lấy sông lớn làm hiểm. Song có sông lớn mà không chuẩn bị th́ giữ thế nào? Cho nên đóng cọc ḷng sông để ngăn bắt thuyền giặc, công hiệu gấp mười xích sắt chắn sông.

 

Nên sai ba quân chuẩn bị cột gỗ độ 200 cái1 cũng được, đem đến cửa sông cắm xuống nước, xa gần so le, dài ngắn không đều, h́nh như răng chó cài nhau, để ngầm dưới mặt nước không cho lộ thấy. Thuyền giặc tiến đến th́ tất bị cọc gỗ ngăn trở, dù thuyền nhẹ buồm gió tốt, ra sức mà chèo, cũng không đi được một bước.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP DÙNG CHUM TRE CHO QUÂN SANG SÔNG2.

 

Khi trí tướng đem quân đi ngầm đánh úp quân giặc, nếu gặp sông hồ ngăn trở, lại không có thuyền ghe th́ làm thế nào? Vẫn phải làm những cái chum bụng to miệng nhỏ, lấy nan tre vót mỏng đan thành h́nh chum và lại lấy vải gai tẩm dầu cùng giấy dầu và sơn bồi ngoài chum, đút nút miệng chum lại, rồi dùng ống tre khô buộc kèm vào hai bên chum, lâm thời th́ thả xuống sông, hai nách cắp mà bơi, ba quân có thể qua sông được, c̣n sợ ǵ nữa.

 

 

 

*

*   *

 

CÁCH LẤY NƯỚC LÊN NÚI.

 

Phàm nước chảy xuống chỗ thấp là lẽ thường, nhưng đập cho nó bắn lên th́ có thể qua đầu, lấp để tức nó th́ có thể lên núi. Cho nên người trí có thể làm trái cơ của tạo hóa, làm ngược tính của ngũ hành, đều có phép diệu. Ví như quân đóng ở g̣ cao, nước ở ng̣i sâu, hay là rút quân đóng đồn ở ruộng cao, mà nước th́ ở dưới thấp, thế th́ dùng ống tre mà hút nước, nước tự tung lên.

 

Cách làm: Lấy tre làm ống dài 30 thước, hoặc 50 thước, đục bỏ các mắt đi, lại làm ống ngắn bằng nửa ống dài. Chỗ đầu hai ống giáp nhau th́ cưa chéo đi. Lại đục cho hai ống ngắn cắm vào đầu ống hợp vào như h́nh chữ bát (). Lại lấy vải tẩm nhựa trám bồi vào mười lần cho kín. Sau làm một cái thùng to, vuông hay tṛn cũng được, giữa đáy thùng dùi một lỗ, đem ống dài cắm vào lỗ ấy cho vào trong thùng độ 2 thước, lại lấy vải tẩm nhựa trám bồi cho kín để đợi dùng. Khi dùng th́ lấy nút bịt kín miệng ống ngắn lại, sai người khỏe đem cái thùng ấy úp xuống đáy nước, lấy đá chặn lên không cho nghiêng lệch, rồi mới tháo bỏ cái nút ở đầu ống ra, nước tự nhiên vọt lên. (Lại có một bản chép rằng dùng nan tre đan thành một cái b́nh h́nh như quả bầu to, bồi bằng giấy dầu, dưới đáy chừa một lỗ lớn, đem ống tre dài luồn vào đấy chừng 2 thước, lấy vải nhựa trám mà bồi cho kín để đợi dùng.).

_______________________________________

1. Trần Quốc Tuấn đánh quân Nguyên chôn hàng vạn cọc ở ḷng sông Bạch-đằng.

2. So với mộc anh (chum gỗ) của Hàn Tín ở Binh thư yếu lược.

 

*

*   *

 

PHÉP LÀM CẦU PHAO TRĂM CẤP.

 

Quân sấm1 nói: Gặp núi mở đường, gặp sông bắc cầu. Nếu qua sông không có cầu th́ làm sao qua được. Cho nên dùng phép bắc cầu phao là diệu lắm.

 

Cách làm: Dùng ống tre đóng một cái khung h́nh vuông chữ tỉnh () dài 8 trước, ngang 5 thước, trong khung ấy cũng dùng ống tre xếp thẳng liền nhau, lại dùng then tre nhỏ xuyên ngang cho đầy khung, lấy dây mây buộc cho chắc chắn. Ở dưới khung, bên tả treo ba cái bong bóng to, bèn hữu cũng treo ba cái bong bóng to. Hai bên đầu khung trừ ống tre chừng hơn 5 tấc, đục ngang một lỗ, tả hữu đối nhau, đấy là cấp thứ nhất. Cấp thứ hai thứ ba đến thứ môkt trăm cũng làm như thế. Lại đặt ống dư của cấp thứ hai giáp với ống dư của cấp thứ nhất, ống dư kia ở ngoài ống dư này, ống dư này ở trong ống dư kia, lấy đanh sắt tṛn to bằng ngón tay đóng suốt hai ống với nhau, chỗ đầu dư đục lỗ ngang làm chốt, lỗ tả xuyên sang hữu, lỗ hữu xuyên sang tả. Từ cấp thứ nhất đến cấp một trăm đều làm như thế. Lúc để ở quân dinh th́ cấp thứ nhất để xuôi, cấp thứ hai lật ngược, cấp thứ ba lật xuôi cấp thứ tư lật ngược, một cấp xuôi một cấp ngược, cứ thế mà để. Đến lúc dùng th́ theo thứ tự ấy mà bỏ xuống nước, trăm vạn quân cũng sang sông được cả.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP LÀM VOI VÔI NỔI SÓNG.

 

Phàm binh cơ có giấu có phục. Cho nên người trí tướng trong khi thủy chiến, làm phép voi vôi nổi sóng phá giặc dễ như trở bàn tay. Xét vôi dẫu không chế được nước, mà nước lại khắc vôi, cổ nhân làm trận voi vôi là bởi cớ ấy. Trận voi như trận nhạn, h́nh chữ nhất (). Voi th́ đan bằng trúc, ṿi ngẩng trở lên. Lại lấy vải tẩm nhựa trám cùng giấy dầu sơn khô bồi vào thân voi 7, 8 lần, rất kỹ. Rồi lấy 1.000 cân vôi tán làm bột, nạp vào bụng voi, ṿi và cổ làm nút nút lại. Chân voi th́ buộc đá to vào. Xong rồi buộc hai voi làm một, hoặc 30 voi, hoặc 50 voi để đợi khi dùng. Phàm thấy giặc đem thủy binh đến xâm lược ta, ta lập tức đem voi vôi đặt ở trên bè, trên thuyền, dựng cờ nhử giặc, trong cờ có viết lời phản gián. Xong rồi ta đánh nhau với giặc. Giặc thấy cờ có lời phản gián, tranh đến cướp lấy. Ta sai ngay quân đun những voi vôi ấy xuống nước, tháo bỏ cái nút ở ṿi voi ra, nước vào bụng voi, vôi và nước khắc nhau hóa làm sóng dữ, hơi độc xông lên, giặc hoảng hốt rối loạn, quân ta thừa thế đánh ngay, tất là phá tan được giặc.

_______________________________________

1. Lời ca sấm về việc binh.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP ĐẶT THỦY LÔI DƯỚI NƯỚC.

 

Phàm trí tướng dùng binh, phép phục địa lôi đă có, c̣n thuật phục thủy lôi dưới nước th́ chưa thấy có. Cho nên đặt ra phép này, hoặc dụ giặc vào chỗ biển hồ sông ng̣i hiểm trở mà đánh, há chẳng thành công hay sao?

 

Phép làm: Trước hết sai thợ mộc làm hai cái ḥm gỗ, mỗi cái cao 5 thước, dài 6 thước, ngang 1 thước 5 tấc, chia làm năm tầng, rồi hợp lại làm một càng tốt. Tầng trên dùng dùi thau nhỏ và mảnh tre rắn làm máy phát động, trên máy ấy treo dao sắt như h́nh lá vải, dưới máy để đá lửa cùng thuốc súng, ng̣i và các thứ để đốt. Tầng thứ hai để 12 súng gang, mỗi khẩu dài 5 tấc, h́nh như ống tre; đều bằng gang mỏng. Lại làm nút sắt 5 phân vặn trôn ốc. Khi ḷng súng đă nhồi thuốc xong rồi, lấy nút sắt lấp kín cho kín miệng súng lại. Lại xuyên lỗ nhỏ để đặt ng̣i. Làm thế xong rồi, bèn đặt ngang ở tầng thứ hai. Rồi lại nhồi thuốc súng vào khoảng các súng để tiện cho ng̣i thuốc thấu vào. Đến tầng thứ ba cũng thế. C̣n tầng thứ tư lại dùng hai cái bầu gang, trong chứa thuốc súng như cách làm hỏa cầu, ngoài bầu lấy rơm cùng nhựa trám bao lại, rồi lấy dây sắt mà buộc cho chặt. Đến tầng thứ năm th́ chứa các thứ giấy bổi và bông để pḥng hơi nước. Lại dùng dây thau, lấy dầu nấu cho rất mềm rồi đem buộc vào chính giữa máy. Lại xuyên lỗ nhỏ ở các tầng để luồn dây thau xuống dưới đáy ḥm. Khi dùng ḥm th́ từ máy đá trở xuống xâu liền cả bốn tầng để ng̣i thuốc đi qua suốt cả. Làm như thế xong, dùng một cái ống nhỏ đài 2 tấc ngang 3 phân tiếp vào bên ngoài đáy ḥm, khiến dây thau nhỏ qua ống ấy tḥ xuống, buộc một ḥn sắt. Chỗ dưới ống ấy lấy vải sơn bọc lại cho kín. Lại lấy mỡ cá heo cùng mơ rái cá bôi vào. Lại lấy đanh sắt to đóng móc cho các tầng giáp nhau. Lại dùng dây sắt vuông bốn sợi bao cả trên dưới ḥm ấy; lại dùng dày mây mà quấn. Ngoài dây sắt và b́ ḥm đều sơn đen và bao bằng vải trắng cùng giấy Vĩnh-thọ phết nhựa trám, khiến nước không thấm vào được. Rồi sau lại dùng dây tạm làm đai ḥm, buộc ḥn sắt vào ḥm cho khởi động đậy làm rơi máy đá. Đáy ḥm lại buộc hai sợi dây gai to, đầu hai sợi lại hợp làm một để đợi dùng. Lại đeo bong bóng to ở bốn góc đáy ḥm, liệu khi đặt trong nước th́ nửa ch́m nửa nổi là tốt. Làm như thế xong rồi, bèn đến cửa biển, cắm hai cột gỗ rắn làm chỗ cho ḥm tựa, cách mặt nước một thước rưỡi, không cho hở ra. Bèn đem ḥm ấy đặt xuống nước tựa vào hai cột. Lại cắm bốn cái cột gỗ ngắn để làm giá, rồi đem ḥm để trên bốn cội ấy. Trước ḥm cắm hai cây cứng, đầu có bánh xe như kiểu ṛng rọc.

 

Ngoài cây ấy lại cắm mọt cái cột to ước thấp hơn cột có bánh xe 2 thước, đầu cột làm bằng, đặt một ḥn đá to nặng độ ngh́n trăm cân. Bèn lấy hai đầu dây hợp làm một ở đáy ḥm đặt trên bánh xe và buộc vào ḥn đá lớn làm máy. Hai bên bờ sông đều làm như thế. Rồi sau lấy dây gai nhỏ buộc bên tả bên hữu để chăng ngang qua sông và buộc vào máy đá. Làm như thế xong rồi mới cắt cái dây tạm làm đai ḥm, từ từ thả những ḥn sắt ra mà buông xuống đáy nước th́ tự nhiên yên ổn, không sợ chạy chệch đi chỗ khác. Nếu thuyền giặc chợt đến, mái chèo động vào dây nhỏ chăng ngang sông, dây động th́ ḥn đá lớn lăn xuống, đá rơi xuống đáy nước th́ các ḥm thủy lôi nổi lên mặt nước, mà ḥn sắt và dây thau ch́m xuống, máy đá lửa ở trong ḥm phát động th́ ng̣i thuốc cháy xuống các tầng, thế lửa bùng lên, sắt đá tung ra mà giặc bị cháy hết. Chính là”Muôn khoảnh thần long ngầm đáy nước, mấy đoàn quân giặc chết trong sông”

 

Lại dặn rằng: Ḥm thủy lôi này các tầng dưới dùi lỗ nhỏ đặt dây thau, buộc ḥn sắt, cùng là việc móc các tầng bằng đinh lớn và các việc khác làm xong rồi, mới làm máy đá ở tầng trên, nhất thiết không được lay động, sợ máy đá rơi sớm th́ tổn thương quân lính. Người trí tướng nên để ư làm cho cẩn thận, và đừng để tiết lậu phép diệu ấy.

 

 

Bài thuốc nạp súng nhỏ trong thủy lôi:

 

 

Diêm tiêu 10 lạng, Lưu hoàng 1 lạng 5 phân, Than dâu 5 đồng cân.

 

 

 

Bài thuốc nạp vào hai bầu trong thủy lôi:

 

Diêm tiêu 10 lạng, Lưu hoàng 5 đồng cân, Than đen 5 đồng cân, Đồng thanh 2 đồng 3 phân, Thạch châu sa 8 phân, Thạch tín 6 phân, Nao sa 8 phân.

 

 

 

Bài thuốc ng̣i:

 

Diêm tiêu 6 lạng, Lưu hoàng 5 phân, Than dâu 1 đồng cân.

 

 

*

*   *

 

Các kỳ phương thủy chiến trên này cộng 9 điều, thực là quỷ thần không lường được. Người học binh pháp nên hết ḷng mà học kỹ lấy.

 

Kiêm-trai xét: Năm Quang-hưng đời Lê Thế tôn, tiên công tôi là Nghĩa-lộc hầu, con Bảng quận công, theo đại vương Nguyễn Hoàng đi đánh giặc Mạc ở Hải-dương, đại vương sai ông đem ba chiến thuyền lớn đi tiền phong. Họ Mạc đem vài ngh́n hải phỉ đi vài trăm chiếc thuyền nhỏ xông lại khiêu chiến. Bạn ông là Đào Duy Từ1 bảo ông đem ngay tre nứa rơm rạ đóng làm bè to, thả ngang giữa sông, rồi thuyền ta đem súng lớn bắn theo. Thuyền giặc tới bị bè đằng trước ngăn trở, không xông lại được, bị súng của ta bắn ch́m, thua chạy. Ông v́ có công thắng trận ấy được phong hầu. Bèn tiến Duy Từ cho đại vương. Duy Từ giúp đại vương làm lên bá nghiệp ở cơi Nam, 2 làm khai quốc công thần, phong Lộc-khê hầu. Mới làm sách này để dạy Chiêu-vũ, Chiêu-vũ cũng thành công thần. Việc này dẫu chỉ là việc chế biến một thời, nhưng không đánh mà người phải khuất phục, chính là việc của Lộc-khê3. Nhân phụ chép vào thiên thủy chiến này, cũng đủ thấy là Lộc-khê biết dùng binh.

___________________________________

1. Sách chép là Đào Sĩ Từ người Hải-dương.

2. Bỏ hai mục:”Phép đeo bùa gỗ vông ra trận” và”Bùa hổ oai hộ mệnh” có tính chất mê tín.

3. Điều này có khác tiểu sử của Đào Duy Từ chép trong Liệt truyện tiền biên.

 

THIÊN BỘ CHIẾN

 

Cao Chiêu-dương nói: Điều cốt yếu về bộ chiến có 10 điều:

Một là từ chỗ cao trông xuống có thể đánh được.

Hai là là trại đóng dinh, phải chiếm địa lợi trước.

Ba là ở đồng bằng nội rộng th́ chiếm lấy đầu gió.

Bốn là ở cửa thung lũng rừng sâu th́ ra kỳ đặt phục.

Năm là ở băi cát sông chằm, th́ quay lưng về nước mà nhử giặc.

Sáu là ở g̣ cao bằng sáng th́ cướp trước đường lấy nước.

Bảy là hai bên bày trận tương đương th́ cần nghiêm chỉnh trước.

Tám là giặc ở núi cao th́ ngăn chặn đường nước.

Chín là giữ trước giữa bụng để chia thế giặc.

Mười là giặc tự xa đến th́ cắt đứt đường lương.

 

Mười điều cốt yếu ấy, người trí giả liệu tính. Nếu giặc ở núi cao th́ ta lấp nguồn suối; nếu giặc ở đồng rộng th́ ta nắm bến đ̣, đă chẹt cổ họng, lại đánh ở đầu khiến thế giặc chia đôi, đầu đuôi không cứu nhau được. Bấy giờ lấy mưu mà bắt, dễ như chẻ tre. Cho nên Binh pháp nói “trước làm thế địch không thể thắng được để chờ thế của địch ḿnh có thể thắng”, lời ấy thực đúng. Dẫu vậy, phương pháp cũng nhiều, nếu không có phương pháp làm sao đánh được giặc! Cho nên người xưa đắp lũy xây thành, sủa quách đào hào, để giữ bên trong, chiến xa, nhung xa, hỏa xa để giữ bên ngoài, phương pháp cũng kỹ càng chu đáo rồi. Nhưng chính lệnh thắt nút dây1 không thể giải quyết được việc rối ren đời Tần; nghệ thuật múa giáo mộc2 không thể giải vây được trận B́nh-thành3. Là v́ thời thế thay đổi, xưa nay khác nhau. Cho nên chư công4 đem hết sức thần, tạo nên các phép xe kiếm, luỹ sắt, xe súng bắn liền, ống tên ngầm kín, thực là phát thần cơ của trời đất, tiết cốt túy của hiền nhân, khiến cho người đời mắt thấy cơ mưu tinh diệu mà tự nhiên vui mừng múa tay múa chân lên.

 

Lê Thủ-chân nói: Đời xưa dùng binh cũng nhiều phương pháp, nhưng thế chẳng qua là hùng binh dũng tướng mà thôi, toàn là nhờ cờ xí che kín một trời, gươm giáo như sương lẫm liệt: nếu đến đồng bằng nội rộng th́ bày thành thế trận, gặp chỗ núi sâu hang cùng th́ đặt phục đặt kỳ, đấy là lẽ thường, chưa nghe có thần cơ bí pháp ǵ. Đến khi nghe mấy phép lạ như phép bắn một phát mười tên nỏ của Ngọa-long5, phép súng đồng hỏa lôi của Lưu Bá-ôn, ta đă phải than rằng: Dẫu trận rắn dài cuốn đất cũng chẳng đối địch nổi dây sắt đạn lửa. Đến như muôn đội hùm beo phục ở khoảng hang núi th́ chưa bằng một người có thể bắn được vài mươi tên thuốc độc. Trải đến triều ta, anh hùng lũ lượt, thi thố kỳ tài như các phép mộc pháo thần lôi làm găy chân tối mắt của Lộc-khê tiên sinh, các phép phục địa, phục tiễn, súng máy bắn liền của Bảo Thúc tiên sinh, các phép xe gươm súng máy của Cao Toàn tiên sinh, càng là huyền diệu, xem các phép ấy, kém ǵ cổ nhân! Cho nên tiên sinh ta nói:”Bảo thư nhược ngộ chinh tru nhật, bất quư hồ đa chỉ quư tinh” (sách báu này dùng khi đánh giặc, chẳng cần binh lắm cốt dùng tinh), lời nói ấy thực đáng tin vậy.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP THẦN CƠ ĐẮP LŨY TẠM.

 

Phàm người đánh giỏi động ở trên chín tầng trời, người giữ giỏi giấu ở dưới chín tầng đất. Nếu đến chỗ đồng rộng đường xa, vội vàng chưa có thành lũy, th́ giữ làm sao được? Chẳng ǵ bằng hăy làm lũy tạm mà thôi.

 

Cách làm: Bốn bề đều dùng gỗ to làm cột, cắm ở bên ngoài, mỗi cột cao hơn 10 thước, cách nhau 1 thước, lại đặt cây ngang ở khoảng giữa cho chắc, rối dùng cây chuối đặt bên ngoài, lớp lớp nối nhau, san sát liền nhau, cao hơn 10 thước, dày hơn 1 thước rưỡi, như h́nh cái lũy. Lại lấy dây mây buộc lại cho chắc. Đó là lũy trong. Lại lấy sọt tre đựng đất xếp liền nhau cao bằng cây chuối để làm lũy giữa. Lại lấy gỗ dài nhọn 10 cây xâu liền các cây chuối sít nhau như ngón tay, mỗi một cây chuối cao 11 thước 5 tấc, trừ 1 thước 5 tấc không kể, c̣n 10 thước th́ mỗi thước xâu cây gỗ dài ấy làm như h́nh bức tường. Lại sai quân lính khai rănh ở ngoài các sọt đất sâu 1 thước 5 tấc, rộng 1 thước, rồi đem những cây chuối ấy trồng xuống, như h́nh cái thành để làm lũy ngoài. Lại lấy đao gươm chông đanh cắm lên trên cây chuối. Lại dùng súng gỗ, hỏa cầu, đặt liền ở trên luỹ trong bằng sọt đất. Rồi mới sai quân lính cắt lượt tuần giữ để pḥng hỏa chiến hỏa công. Lũy tạm làm như thế, dẫu giặc dùng súng lớn dây sắt đến đánh cũng không phá được.

_______________________________________

1. Thắt nút dây: Khi chưa có văn tự, thắt nút dây để ghi nhớ công việc.

2. Múa giáo mộc: Vua Thuấn đánh họ Hữu-miêu, múa giáo mộc ở thềm mà Hữu-miêu phục.

3. B́nh-thành: Hung-nô vây Hán Cao tổ ở B́nh-thành 7 ngày, Cao tổ dùng mưu kế mới giải vây được. B́nh-thành tức là Bạch-đăng thành (ở núi Bạch-đăng) thuộc địa phận huyện Đại-đồng tỉnh Sơn-tây.

4. Chư công: Chỉ các ông Lộc-khê, Triệu Điền…

5. Tức Gia-cát Lượng.

 

*

*   *

 

PHÉP XE SÚNG BẮN LIỀN.

 

Tôi hỏi thầy rằng: “Phàm có thể lấy ít thẳng nhiều, lấy yếu địch mạnh, lấy nhỏ chế lớn, mới gọi là đánh giỏi. Nếu đương chỗ đường dài nội rộng, chiến kỳ đă gần, mà giặc đem quân trăm vạn chật núi đầy nội kéo đến, ta th́ quân ít thế yếu, vội vàng chưa có pḥng bị và đặt phục dùng kỳ th́ làm thế nào?” Thầy nói: “Phàm quần giặc tự xa xông pha gió sương mà đến, thế hẳn nhọc mệt. Ta đem ngay phép xe súng mà chế th́ dễ như trở bàn tay, có sợ ǵ đâu”. - Tôi nói: “Xin được nghe đại lược phép ấy”. Thầy nói: “Xe ấy có sáu bánh, từ trước đến sau cộng 7 thước, ngang 10 thước, ở giữa lát ván, trước xe dựng vững 20 cái cột ngắn, mỗi cột cao 1 thước 5 tấc, làm h́nh chữ thập. Lại chia ngang một xe làm hai ngăn, mỗi ngăn mười cột, sau mỗi cột đặt một cái ghế cao 1 thước 3 tấc. Xong rồi sai thợ đúc 2 ḥm sắt, h́nh như cái quạt, mỗi ḥm dày 3 phân, dài 4 thước, rộng 1 thước, chia làm hai phần nắp và đáy; trên nắp chính giữa đục một lỗ tṛn to hơn 1 tấc, liệu sao tầng nắp trên đậy vào tầng đáy dưới mà giáp nhau chính giữa th́ tốt. Một trước ḥm ở giữa chỗ nắp đáy giáp nhau đục 10 lô vuông, mỗi lỗ 1 tấc 3 phân, liệu nửa lỗ ở phần nắp cùng nửa lỗ ở phần đáy hợp lại thành một lỗ th́ khéo. Lại đúc cho mỗi ḥm 10 cái súng sắt vuông, mỗi súng dài 4 thước, to 1 tấc 2 phân, h́nh vuông ḷng tṛn. Trước mặt ḥm, mỗi lỗ xỏ một súng thẳng đến mặt sau của ḥm. Liệu đặt các súng ấy cho lỗ phát hỏa liền nhau một hàng mới được. Lại lấy sắt như đanh nhét vào chỗ giữa súng nọ súng kia giáp nhau, khiến những miếng sắt cùng các súng bằng nhau th́ tốt. Rồi sau đem hai ḥm sắt ắy đặt lên trên hai ghế, mỗi súng gác miệng vào trên cột chữ thập. Nạp thuốc đạn, mỗi súng một liều thuốc 2 viên đạn sắt, nạp xong lại nhét thuốc súng vào chỗ lỗ phát hỏa của các súng. Đem ḥm đậy kín lại, đẩy xe tiến thẳng đến trước mặt quân giặc, lấy dây lửa đốt ở lỗ trên nắp cháy thông vào trong lỗ, lỗ hỏa của súng cháy suốt vào trong ḷng súng th́ tự nhiên súng nổ tung đạn ra.

 

Xem cách làm xem này một xe 20 súng bắn, ở chỗ đồng rộng bất quá 10 xe th́ dẫu giặc có trăm vạn quân, bắn một phát cũng chết hết.

 

Kiêm-trai xét: Hai phép trên này thực có hiệu nghiệm. Trước tiên công tôi là Kết quận công ở đầu đời Quang-thiệu Lê Chiêu tôn theo quân vua đi đánh ngụy chúa là Trần Thăng ở Lạng-sơn. Tương truyền rằng lúc ấy giặc mộ quân thổ phỉ dũng cảm vài trăm kéo đến để liều chết đánh mà quân của ông đều là con em thành thị không đầy 500 người. Ông bèn sai tỳ tướng sờ trên ngực quân lính xem người nào đánh trống ngực th́ cho quỳ xuống đất một vai vác súng sắt, một người thiện xạ đứng kèm ở bên một vai vác giáo dài, du binh th́ cầm dao ngắn đứng giáp đấy, bày thành mặt trận tṛn để đợi. Lúc quân giặc đến th́ bị giáo dài ngăn trở, không xông vào được, quân thiện xạ đều bắn súng ra, quân giặc chết hết. Đấy tuy là việc ngày xưa, mà cùng với hai phép trên này ngam ngám giống nhau, nên biên vào đây để ghi hiệu nghiệm và khen tài ứng biến.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP XE GƯƠM PHÁ GIẶC.

 

Phàm trí tướng hành binh, cốt vận dụng một ḷng, không để tiết lậu, cho nên tiến th́ như gió, dừng th́ như núi, ai động đến là bị vỡ, phạm đến là bị cháy, đi đến đâu cũng vô địch. Như giặc ở trong thành cậy cao hiểm, hay là ở chỗ đường dài cậy sức mạnh tiến lên mà ta không phá được, th́ ta dùng xe gươm để đánh.

 

Cách làm: Xe có bốn bánh, trước sau to đều 8 thước, ngang 6 thước, khoảng giữa lát ván, hai bên dựng hai cột cao 6 thước 5 tấc, đầu cột làm h́nh chữ thập. Lại lấy gỗ tṛn làm ống, đường kính 1 thước, gác ngang lên đầu hai cột, lấy đanh sắt đóng vào cho chặt. Lại lấy cây gỗ rắn dài 7 thước cắm vào trong ống và lấy 1 sợi dây da thắt chặt vào cái gỗ rắn ở trong ống như h́nh cái dây khoan. Lại dùi hai lỗ ở bên cái ống luồn hai đầu dây ra cho tḥ xuống dưới, lấy hai cái gỗ buộc ngang như h́nh chữ đinh. Lại lấy hai bánh xe dày 4 tấc, mặt to 1 thước, lắp ngang vào hai đầu cái gỗ rắn, dùng đanh sắt đóng lại cho chặt. Chung quanh bánh xe đều cắm đao gươm, mỗi gươm dài 1 thước 5 tấc, dùng dây sắt buộc lại thật chặt. Lại đo từ chỗ máy trong xuyên ngang ra ngoài độ 3 thước, lấy da trâu che lại, ở ngoài da trâu lại dựng một ống cao 3 thước rưỡi, lại dùng một cái gỗ rắn cắm thẳng vào trong ống, lại lấy dây da thắt lại như trên. Lại dùi một lỗ ở bên ống, đem đầu dây thừa luồn ra, lại cho xuyên qua da trâu vào đến ống ngang trong máy, đầu dây tḥng xuống cũng làm h́nh chữ thập. Ở trên cái gỗ rắn của ống ngoài, lại đặt bằng 1 bánh xe mặt to 1 thước, lấy đanh sắt đóng vào, bốn bên cũng cắm đao gươm như ở trước. Liệu mũi gươm bánh xe ngang cách da trâu 8 tấc th́ khéo. Sau xe lại có mọt cây gỗ tḥ ra để tiện đẩy xe lên. Trên xe che bằng da trâu như mái nhà để đỡ tên đạn. Khi dùng th́ trước sai một người ngồi ở máy trong, ngoài cái ống máy ngang, trong cái da trâu, cầm cái đầu dây của ống máy thẳng mà kéo cho xoay. Lại sai một người ở đằng sau xe, trên ván lát lấy hai tay kéo hai đầu dây cho chuyển động, một tiến một lùi, một thuận một nghịch, như cách xay lúa. Như thế th́ những đao gươm hai bên và mặt trước múa rối lên, giặc không dám đến gần. Ta tiến đến dưới thành, hoặc dùng hỏa công mà đốt, hoặc dùng thang mây trèo lên, đều được như ư, lo ǵ thành giặc không phá nổi, hung đảng không trừ hết. Đấy là phép diệu xe gươm.

 

*

*   *

 

PHÉP GÀI TÊN DƯỚI ĐẤT.

 

Phàm đánh nhau với giặc ở chỗ đồng bằng nội rộng, cổ nhân bày thành thế trận, đó là lẽ thường, chưa phải là diệu. Nay có một cách gọi là gài tên dưới đất, rất là thần kỳ. Phép lạ ấy làm sao? Lấy tre cứng làm cần, không cứ nhiều ít. Xin lấy một cần mà nói. Trên dùng một ống tre, trên th́ thông miệng, dưới th́ để mắt, dưới mắt khoét một lỗ chếch để cài đầu cần tre vào, xong rồi, trong ống nạp tên thuốc độc cho đầy, mỗi cần tre đều làm như thế, hoặc 50 cái hay 80 cái cũng được. Bấy giờ mới đào một cái ao như h́nh cái quạt, sâu nông rộng hẹp th́ liệu cho vừa, đem các cần tre cắm hàng chữ nhất ở trong ao; ở đáy ao lại dùng một cây gỗ dài nhỏ làm máy, đè lên đầu các cần tre, uốn các càn tre đều cong như h́nh cung khiến các ống tên đều chiếu chếch lên trời. Ở trên máy ấy trồng một cột gỗ, đầu cột có bánh xe. Xong rồi lấy dây gai buộc vào giữa cây ngang máy, dẫn dây vào bánh xe đầu cột như phép ṛng rọc và kéo ra đằng sau. Cách hơn 30 bước, lại đào một cái lỗ tṛn, đặt tấm ván làm máy như phép thiên la áp trại1, đem các đầu dây ấy buộc vào giữa cái máy ván, rồi lấp bằng trên mặt đặt đi. Rồi đem quân khiêu chiến, giả cách thua chạy, quân giặc đuổi theo th́ xéo vào chỗ ván máy, ván sập th́ dây gai kéo, dây gai kéo th́ máy trong ao đều rớt mà các cần tre đều bật lên, tên thuộc độc ở trong các ống đều bắn tung lên, quân giặc đều chết. Cho nên Bảo thư nói rằng “Chinh phu hóa thành mo nang (bị gió thổi rơi)” là thế đấy.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP ỐNG TÊN GIẤU H̀NH.

 

Một hôm tôi hỏi bạn rằng: Trước Ngọa-long2 có phép bắn một phát mười tên, đấy là liên nỗ. Nay lấy trí khôn của chúng ta mà bàn th́ một phát nỏ có thể bắn được mười tên không?

 

Bạn tôi trả lời rằng: Trí khôn của cổ nhân ta đâu dám b́. Nhưng thánh nhân có nói: Người ngu nghĩ ngh́n điều hẳn cũng có một điều được. Nay tôi ngồi yên mà nghĩ được một phép diệu gọi là ống tên giấu h́nh. Phép ấy một nỏ cũng có thể bắn một phát vài chục tên.

 

Tôi xin được biết đại lược phép ấy.

 

Bạn nói: Phép này nên dùng tre núi làm một cái ống dài 5 thước 5 tấc, trên đầu ống làm miệng, dưới ống để mắt, dưới mắt lại để thừa độ hơn 2 tấc. Lại đo tự chỗ mắt để trở xuống cách 1 tấc dùi ngang một lỗ. Lại đo tự lỗ ấy trở xuống 1 tấc, nửa trên để vậy, nửa dưới cắt hai bên đi, chỗ cắt th́ đóng hai cái đanh thau như h́nh chữ nhị (). Xong rồi, bèn làm một cái nỏ to thật khỏe, trước lấy dây nỏ buộc vào đầu cánh bên tả của nỏ, dây dư th́ luồn qua lỗ ngang dưới ống tên, rồi đem dây buộc sang cánh bên hữu của nỏ. Xong rồi, làm một cái giá gỗ như h́nh chữ tỉnh (), giữa giá dựng một cái cột cao 1 thước 1 tấc, có bốn bánh xe để tiện xoay chuyển mà bắn. Lúc dùng th́ đem nỏ ấy để lên đầu cột ở giữa cái giá, lấy dây mây buộc cho chắc, rồi sau cho người kéo dây nỏ giương lên, mà đem hai đanh thau ở đằng sau ống tên cắm vào máy nỏ, xong rồi nạp tên thuốc độc vào ống ấy cho đầy ống, để mũi tên tḥ ra ngoài miệng ống 1 tấc làm cữ. Lại ở dưới máy nỏ buộc một sợi dây gai giữ lấy để dùng. Lúc dùng th́ sai người kéo cái dây gai, dây gai động th́ máy nỏ bật lên mà dây nỏ ống tên đều phát, các tên trong ống đều nhân sức bắn của ống tên mà bắn tung ra bốn mặt, quân giặc chống sao cho nổi!

_______________________________________

1. Thiên la áp trại: Xem ở sau.

2. Gia-cát Lượng.

 

*

*   *

 

PHÉP NẤU CƠM Ở ĐẦU NGỰA.

 

Phàm then mấy việc binh quư hồ nhanh chóng, cho nên cổ nhân nói: Canh ba nắm cơm, canh năm quân trẩy. Nếu gặp việc cần phải đi tự canh đầu, chưa kịp nấu cơm th́ làm thế nào? Cho nên đặt ra phép nấu cơm ở đầu ngựa.

 

Cách làm: Trước sai lính kỵ mă hoặc 200 hoặc 300 người, làm sẵn 200, 300 đoạn ống tre tươi lớn. Hăy nói một đoạn: dài từ 3 đốt, đốt thứ nhất làm có miệng, để hoàn toàn, đốt dưới đẽo nhỏ cho tiện cầm; lấy gạo nước do đốt trên đổ vào ống tre, lấy gỗ nút miệng lại. Dùng một bó đuốc. Các ống khác cũng làm như thế. Bấy giờ mới truyền lệnh cho 300 người lên ngựa, binh khí treo ở yên ngựa, mỗi người một tay cầm ống gạo một tay cằm bó đuốc đốt vào ống gạo. Ống ấy cháy th́ cơm chín. 300 kỵ binh đều no, hăng hái thêm lên, gặp giặc th́ đánh, ai kháng cự được!

 

Kiêm-trai xét: Đây là phép nấu cơm của Liễu quân sư truyền lại. Nhưng trước tiên công tôi là Bảng quận công theo Lê Trang tôn ở sông Mă, đi ngầm đường núi, không có nước sôi, ông sai quân lính lấy ống tre non cho gạo vào lấy lửa đốt, tự nhiên nước trong ống tre sôi lên mà thành cơm1. Khát th́ bẻ cành trám mà uống.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP THUỐC TIÊN CHỊU ĐÓI2.

 

Bài thuốc Tổ sư ứng cơ đơn:

Đào nhân 4 lạng,

Cam thảo 1 cân,

Đỗ trọng 4 lạng,

Bạc hà 4 lạng,

Hạnh nhân 1 cân (nấu chín bỏ vỏ và đầu nhọn),

Tiểu hồi 4 lạng sao chín,

Phục linh 4 lạng,

Cát cánh 3 lạng.

 

Các vị trên này tán nhỏ trộn cho đều, mỗi lần dùng một nhúm ngậm ở trong miệng, gặp các lá cây cỏ như lá thông lá bách lấy nhá ngậm cho hóa ra nước mà nuốt với thuốc này th́ nhan sắc như cũ, khí lực không kém, thực là thuốc tiên.

 

Bài thuốc Thần tiên sung phúc đơn:

Hạt vừng đen 1 cân,

Đậu đen 1 cân,

Long cốt 5 đồng cân,

Ô đầu 1 đồng cân,

Táo hồng 1 cân,

Xích thạch chi 5 đồng cân,

Pḥng phong 5 đồng cân.

 

Các vị trên này tán nhỏ ra, luyện mật làm hoàn to bằng viên đạn, lấy chu sa làm áo, mỗi lần dùng một viên, uống nước lă tống xuống, được một ngày không đói, thực là bài thuốc lạ.

 

Lại một bài nữa:

Táo hồng 1 cân,

Vừng đen 1 cân,

Nhân sâm 1 cân.

Đều tán nhỏ, luyện mật, viên to bằng viên đạn.

 

Kiêm-trai nói: Hai bài thuốc trên này khí vị b́nh ḥa, đều là ôn bổ, châm chước dồn làm một bài thuốc càng tốt.

_______________________________________

1. Đây là phép nấu cơm lam của người miền núi.

2. Đoạn đầu mục lấy nói việc Đỗ Phục-uy gặp tiên được truyền hai bài thuốc tiên, chúng tôi bỏ không dịch.

 

*

*   *

 

PHÉP THANG HAI TẦNG.

 

Phàm dùng binh lên núi qua sông, vượt nơi nguy hiểm, đều cần chuẩn bị đầy đủ. Như giặc ở trong trại thành cao vài trượng th́ dùng cách ǵ để trèo vào thành?

 

Cách làm: Làm hai tầng thang, tầng thứ nhất dài 30 thước ngang 4 thước, tầng thứ hai cũng dài 30 thước, ngang 3 thước 5 tấc. Trước đặt thang tầng thứ hai vào trong thang tầng thứ nhất, đầu thang dùng gỗ rắn làm then ngang nối hai thang làm một, ở dưới thang tầng thứ hai đóng móc sắt. Khi muốn lên thành đem hai thang giáp làm một bắc lên thành, trèo lên thang tầng thứ nhất, lên đến đầu thang th́ đem thang tầng thứ hai vất lên trên thành, đem móc sắt ở đầu thang móc vào đầu thành, quân lính bám vào mà lên. Thế là lên được thành1.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP SÚNG BẮN ĐỔ NÚI.

 

Phàm người đánh giỏi có thể lấy ít mà địch nhiều, lấy yếu mà địch mạnh. Ví như ở chỗ đồng bằng nội rộng, quân giặc trăm vạn như sông cuộn biển sôi mà đến, th́ nên dùng súng máy ma bắn, giặc tất tan găy.

 

Cách làm: Trước hết làm ba khẩu súng to, mỗi khẩu trước lấy gỗ nhỏ bó làm một bó to 2 thước dài 6 thước để làm cái cốt súng. Lại lấy gỗ rắn to 2 thước dài 5 thước 5 tấc, trên bằng dưới nhọn, đặt vào sau cái cốt để làm đáy súng. Lại lấy rơm trấu, phân voi trộn vào đất gan trâu, luyện thành bùn để bọc ngoài cốt súng và đáy súng dày 3 tấc. Lại lấy da trâu bao kín ngoài đất, lấy dây gai buộc lại cho chặt. Lại lấy đặt luyện nhỏ trước đắp vào bên ngoài da trâu, dày 2 tấc. Lại lấy thanh tre đặt thẳng ở ngoài lần đất, ghép liền cho kín, ngoài lấy dây sắt mà buộc. Xong rồi, mới lấy cái cốt ra. Lại lấy dùi sắt dùi lỗ, cho ống sắt nhỏ vào để làm lỗ ng̣i. Ba khẩu súng đều làm như thế. Xong rồi, sai thợ làm đạn dây sắt, mỗi viên đạn đường kính 1 thước5 tấc 5 phân, cưa làm hai mảnh, mỗi mảnh đục bỏ ruột sắt đi bằng cái chén, chính giữa dùi một lỗ, lấy dây sắt mà buộc, tả chằng sang hữu, hữu chằng sang tả, rồi đem dây sắt vặn lại thành một khối để vào trong ḷng hai mảnh, sao cho hai mảnh hợp lại thành một ḥn đạn th́ tốt. Bấy giờ mới lấy thuốc súng nạp vào dưới đáy súng, lại lấy đạn dây sắt nạp vào trên thuốc súng. Ba khẩu súng đều làm như thế.

 

Lại như khẩu súng giữa, nên lấy ống gang tṛn nạp vào ở trên đạn dây sắt. Phép làm ống gang có bốn hạng. Cái ống mẹ lớn dài 2 thước, to 1 thước 8 tấc, dày 1 phân; ống mẹ nhỏ dài 1 thước 8 phân, to 1 thước 7 tấc, dày 1 phân; ống con lớn dài 1 thước 5 tấc, to 1 thước 6 tấc, dày 1 phân; ống con nhỏ dài 1 thước 4 tấc, to 1 thước 5 tấc, dày 1 phân. Bốn ống, đều có nắp trôn ốc, ở dưới có đáy bằng. Trước đem ống con nhỏ nhồi thuốc súng vào, xoáy nắp trôn ốc, nạp vào trong ống con lớn; lại nhồi thuốc súng vào trong ống con lớn ngoài ống con nhỏ, cũng xoáy nắp trôn ốc lại; lại nạp ống con lớn vào trong ống mẹ nhỏ, cũng nạp thuốc súng và xoáy nắp như trước; lại đem ống mẹ nhỏ nạp vào trong ống mẹ lớn, cũng nạp thuốc súng và xoáy nắp lại. Xong tắt cả rồi lại lấy dùi sắt dùi một lỗ tự ngoài ống mẹ lớn thẳng suốt vào các ống con, để làm lỗ ng̣i, lại lấy dây ng̣i thuốc luồn vào, cái đầu thừa của ng̣i thuốc quấn vào quanh ḿnh ống mẹ lớn. Lại lấy dây gai buộc 3, 4 lần. Lại lấy bẹ chuối tươi buộc vào ngoài da gai, rồi đem đuôi ng̣i thuốc xuyên ra ngoài để chờ đồ dẫn hỏa chuyền vào, rồi nạp vào trong ḷng súng ở trên đạn dây sắt. Lại lấy vải giấy bọc một bao đạn nhỏ để lên trên các ống sắt. Đấy là cách làm khẩu súng giữa. C̣n hai khẩu súng bên tả bên hữu th́ nên dùng tên sắt dài 2 thước, lấy dây da nhỏ buộc thành một bó để vào trên đạn dây sắt. Xong rồi th́ ngoài ba khẩu súng ấy dựng hai cột ở hai bên tả hữu, mỗi cột cao quá thân khẩu súng 1 thước, đầu mỗi cột dùi ngang một lỗ rộng 2 tấc, tả hữu đối nhau. Lại lấy hai mảnh gỗ giáp lại làm một to độ 1 tấc hơn, cài vào lỗ hai đầu cột ở trên ba khẩu súng, ở giữa hai mảnh gỗ giáp nhau lại ghép ba miếng gỗ nhỏ, ngay vào ba lỗ phát hỏa của ba khẩu súng th́ tốt. Mỗi đầu mảnh gỗ lại buộc một sợi dây to, rồi sau lấy ba sợi dây gai buộc vào miếng gỗ nhỏ, đuôi dây hợp lại làm một. Khi muốn bắn th́ rút dây ấy xuống, tự nhiên cả ba khẩu súng đều nổ. Giặc dầu có phép tàng h́nh độn thổ cũng trở thành người dưới suối vàng mà thôi.

 

 

 

*

*   *

 

11 điều2 bộ chiến trên này thực là phép diệu xuất quỉ nhập thần, có cơ quư thần bất trắc. Vận dụng máy thiêng, phát minh những điều Bảo thư chưa phát, bí tàng trời đất, truyền lại những thuật lạ của Linh quỹ c̣n truyền. Người học nên hết ḷng vào đấy.

______________________________________

1. Như phép thang mây của Binh thư yếu lược, quyển IV, chương “Đánh thành”.

2. Đă bỏ đi 2 điều, chỉ c̣n 9 điều.

 

 

THIÊN GIỮ TRẠI

 

Cao Chiêu-dương nói: Phàm điều cốt yếu trong phép lập trại, trước hết phải t́m địa lợi. Cho nên người trí tướng dựa núi chia nước, bốn mặt thông nhau, trước có b́nh dương1, sau có g̣ cao, để tiện trông nh́n, núi bên tả quanh ôm để tiện phục binh, nước bên hữu thông ḍng để tiện vận lương. Nếu không được địa h́nh như thế, mà ở chỗ đồng rộng th́ chiếu theo bát quái mà đặt tám cửa, theo ngũ hành mà lập năm trại, trong mỗi trại đều có phương pháp. Cho nên người xưa chế các thuật thang mây, gỗ gạc nai, bàn chông, nữ tường, cầu treo, răng sói2, thực đă kỹ càng. Nhưng ngoài phép vẫn có kẻ gian trong, thuật vẫn có họa ngầm, cũng chưa được hoàn thiện. Cho nên các ông Lộc-khê, Triệu Điền triều ta lại đặt ra các phép thần nỗ, bính đinh, song đăng, trại túc, những phép ấy thực là tài giỏi, người xưa chưa có. Đến nay bọn chúng tôi trộm lấy sóng thừa ở biển cả, cục đá ở núi Thái-sơn, ḷng nghĩ rằng không gặp gốc rắn th́ sao biết được búa ŕu là sắc, cho nên trổ hết tài tầm thường mà chế ra các phép máy đá giữ lũy, lưới trời yểm trại 3, cùng là các phép nỏ cứng pḥng gian, dây tiên trói giặc, có khác ǵ cá nhỏ khoe tài với cá ḱnh, chim oanh khoe tài với chim bằng. Tuy nhiên gặp việc nên làm không phải nhường thầy, người ngu há chẳng có một điều nghĩ được, cho nên đem hết b́nh sinh mà chế ra các phép này, c̣n phần hay dở xin đợi các bậc quân tử xét.

 

Lê Thủ-chân nói: Kết trại đặt dinh tất phải xem địa lợi, hoặc dựa núi dựa hang, hoặc giữ hiểm nhân ghềnh, hoặc theo bát quái mà lập tám cửa, hoặc xem ngũ hành mà lập năm trại, đấy là do người trí tướng liệu định. Cổ thi có câu:

 

Trường xà bàn khúc chuyển sơn bài;

Điệp điệp vân đồn thứ đệ khai.

Đăn khán quân dinh tàng tạo hóa;

Thử vi thiên hạ đại kỳ tài.

 

(Rắn dài cuộn khúc chuyển non bày; San sát vân đồn thứ tự khai. Chỉ xét quân dinh tàng tạo hóa. Ấy là thiên hạ đại kỳ tài).

 

 

Tuy nhiên như vậy, lúc ở yên phải nghĩ đến lúc nguy. Giặc biến trá nhiều cách, không thể lường được, hoặc gian nhân thích khách ngầm đến, hoặc nhân đêm mà cướp trại đánh dinh. Cho nên trí tướng đời xưa ngồi trong trướng xem hướng gió thổi mà tính trước đặt phục xuất kỳ, đấy là phương lược của cổ nhân. Đến Lộc-khê tiên sinh th́ không xem hướng gió, không đặt phục binh. Phàm nơi đóng trại đều rào chông chà, treo bàn chông, rắc gai góc, gài tật lê, ngầm để trúc lôi4, cẩn thận như thế, giặc dẫu có cánh cũng chẳng bay đến được. Song bọn chúng tôi tưởng nắm được di chí của cổ nhân, theo được thần cơ của tiên giác, c̣n sợ chưa được tinh mật, cho nên đặt ra các phép nỏ thần giữ trại, và phép đặt chữ đinh ở thủy trại, chưa bằng tiền nhân, nhưng công dụng cũng có bổ ích một chút.

_______________________________________

1. Nơi bằng phẳng sáng sủa.

2. Về các vật này xin xem Binh thư yếu lược.

3. Chữ hán là “thiên la yểm trại”.

4. Trúc lôi: Địa lôi bằng tre.

 

 

*

*   *

 

PHÉP MÁY ĐÁ GIỮ TRẠI.

 

Phàm phép giữ rất khó, cho nên cổ nhân dùng đủ các thứ răng sói, bàn chông, hỏa tiễn, hỏa công để pḥng bị. Nhưng các phép ấy dẫu hay mà công dụng cũng khó, cho nên Lộc-khê tiên sinh chế ra phép máy đá giấu lửa để giữ thành luỹ, giặc có quân trăm vạn, bậc thang cao mà trèo lên cũng đều thịt nát xương tan, c̣n lo ǵ nó đục thành nữa.

 

Cách làm: Bốn mặt lũy, trên đầu lũy bên ngoài tận cùng dựng liền hai cột nhỏ dài 5 tấc, cách nhau hơn 30 thước, lại dùng gỗ rắn dài hơn 30 thước, rộng 1 thước, bốn góc đều có ṿng sắt. Trước đem ṿng sắt của hai góc ván ấy treo lên cột ngắn trên lũy, c̣n hai góc mé ngoài th́ bỏ xuống. Lại dựng một cái cột ở trong lũy, cao hơn luỹ 3 thước, đầu cột đặt bánh xe làm thân ṛng rọc. Lại lấy dây máy buộc ṿng sắt hai góc bên ngoài của tấm ván, dây góc bên tả chằng sang góc bên hữu, dây góc bên hữu chằng sang góc bên tả. Xong rồi, lại dùng một dây buộc vào giữa dây hai góc dắt vào trong lũy để lên trên cái ṛng rọc ở đầu cột cao, đầu dây buộc chặt vào dưới chân cột. Rồi đem đá to đặt chồng chất trên tấm ván. Bốn mặt lũy đều làm như thế. Nếu quân giặc bắc thang mây trèo thành mà lên, hay là nó đào lũy phá thành, th́ ta lập tức cắt đứt cái dây ở chân cột, tấm ván nghiêng ra mà đá đổ xuống cả.

 

Lại sai quân đào một hốc vuông vức 4 thước ở bên trong chỗ gần lũy, xong rồi, lại lấy da lợn rừng sống phơi khô làm gối cho lính nằm ở trong hốc ấy để nghe xem giặc có đào hang dưới đất hay không. Phép này thực là thần diệu.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP NỎ THẦN GIỮ TRẠI.

 

Đại tướng trước hết phải bảo trọng thân ḿnh. Nếu không như thế, thảng hoặc kẻ gian lẻn vào được mà làm hại th́ Nhà nước cậy vào đâu, xă tắc dựa vào đâu? Cho nên làm tướng ngày th́ nghiêm lệnh như Chu Á-phu1, đêm th́ pḥng gian như Trịnh tử2, mà c̣n lâm sự lo sợ ngay ngáy nơm nớp, há dám ngủ kỹ cậy mạnh mà coi thường tính mệnh đâu! Cho nên Lộc-khê tiên sinh chế ra phép đặt máy nỏ giữ trại. Giả sử Kinh Kha3 sống lại, Nhiếp Chính4 phục sinh, cũng chỉ làm người dưới suối vàng mà thôi, c̣n cậy ǵ về dao găm mũi nhọn nữa!

 

Cách làm: Dùng một cái nỏ lớn, xoi rănh đặt ba tên, dưới nỏ ở chính giữa lại làm một lỗ tṛn to hơn 1 tấc. Lại dựng một cột gỗ ở cửa trại, gần chỗ hổ môn5, đầu cột dùng một cốt sắt tṛn đóng vào 5 phân, cao hơn đầu cột 2 tấc. Rồi đem lỗ tṛn dưới nỏ lồng vào cột sắt ấy, để tiện xoay chuyển. Đầu nỏ làm một cái ṿng thau. Lại lấy hai sợi dây tơ nhỏ, một sợi giằng buộc ṿng thau vào cái bạo cửa bên tả, một sợi giằng buộc vào bạo cửa bên hữu, tạm thắt lại như cách thắt giải áo. Lại dùi đằng sau nỏ một lỗ chếch, lấy gỗ nhỏ cắm vào, nửa ở dưới nỏ nửa ở trên nỏ, để làm máy nỏ. Lại lấy một miếng gỗ đỡ ở đầu dưới máy nỏ ấy tạm cài vào bên cột máy. Rồi sau giương dây nỏ đặt vào trên máy, bên trên đặt ba tên để đợi dùng. Nếu kẻ gian vô ư xông vào, động phải dây tơ, nỏ tự xoay chuyển, rơi cái gỗ đỡ, dây nỏ bật lên, tên nỏ bắn ra.

_______________________________________

1. Chu Á-phu: Tướng đời Hán Văn Đế, rất nghiêm quân lệnh, vua đến cũng không cho vào và nói rằng trong quân chỉ biết lệnh của tướng.

2. Trịnh tử: Trịnh Tử Sản, trước khi đem quân đi đánh giặc đặt người canh cửa giữ các quan, giữ các phủ khố cẩn thận rồi mới đem quân đi.

3. Kinh Kha: Dũng sĩ nước Yên cầm dao găm vào điện vua Tần, xuưt nữa đâm được Tần vương (Tần Thủy hoàng).

4. Nhiếp Chính: Dũng sĩ người ấp Chỉ cầm gươm đâm chết tướng nước Hàn là Hiệp lũy, báo thù cho Nghiêm Trọng tử.

5. Hổ môn: Chỗ cửa đêm đi lại vẽ h́nh con hổ để tỏ uy mănh.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP DÂY TIÊN TRÓI GIẶC.

 

Phàm đêm trong dinh phải có cách pḥng gian; cách nào nên làm trước? Nên dùng dây tiên trói giặc.

 

Cách làm: Trước dựng hai cái cột lớn ở hai bên cửa tướng, hai bên cột treo hai cái đèn đỏ, bấc đèn tẩm các thứ diêm tiêu lưu hoàng. Lại lấy dây mây chằng ngang hai cột, cột bên tả buộc sang bên hữu, cột bên hữu buộc sang bên tả. Lại lấy hai miếng gỗ rắn cài vào trên dây mây, liệu cách cột mỗi bên 3 thước, hai bên đều thế. Lại sai hai người khỏe vặn hai miếng gỗ vài mươi lần rất chặt. Treo chuông đồng ở đầu hai miếng gỗ ấy. Lại lấy hai sợi dây gai buộc hai miếng gỗ ấy kéo ra ngoài cửa, làm phép máy động như phép bính đinh. Xong rồi, lại lấy một thanh gỗ rắn cắm ngang vào đầu hai miếng gỗ. Lại lấy một sợi dây da trâu buộc vào giữa thanh gỗ ngang ấy treo xuống làm một cái ṿng to, liệu chừng cái máy phát động vừa đúng vào giữa ṿng ấy th́ khéo. Lại đào lỗ ở trong ṿng ấy làm máy phát hỏa, trong máy có ng̣i thuốc ngầm thông đến đèn đỏ hai bên, để đợi dùng. Nếu có kẻ gian vô ư bước vào ṿng ấy, động vào máy th́ hai miếng gỗ chuyển ngược, chuông đồng kêu vang lên, đèn đỏ bật sáng lên, kẻ gian sẽ bị trói ngay.

 

Kiêm-trai xét: Phép này làm như phép bính đinh. Nhưng phép bính đinh thất truyền, không thể hiểu được. Cứ ư tôi nghĩ: nên đem hai dây gai buộc hai miếng gỗ kéo ra ngoài cửa hợp làm một dây, đầu dây tḥ xuống buộc vào miếng gỗ ngang nhỏ dài 2 tấc như chữ đinh (), lại đào lỗ dưới đất, lấy ván dùi hổng đặt trên miệng lỗ, lấy gỗ nhỏ buộc đầu dây đặt xuống dưới lỗ hồng của ván. Lại lấy gạch đá chặn bên tấm ván ấy, lấy đất cát rải bằng trên mặt. Dây da trâu th́ dùng ṿng sắt tṛn đường kính 5 phân buộc vào đầu dây, lại một đầu luồn vào ṿng sắt rồi mới đem buộc vào gỗ ngang trên máy. Cái đầu dây buộc ṿng sắt c̣n thừa rủ xuống, nên dẫn chạy ṿng quanh làm ṿng tṛn to, chạy bên ngoài quanh cái lỗ đặt máy.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP NỎ KHỎE PH̉NG GIAN.

 

Phàm trí tướng lập dinh đóng trại tất phải chuẩn bị trước để pḥng kẻ gian tế. Như trong cửa dinh nên làm một cái nỏ khỏe, sai thợ xoi ba ḷng bắn được ba tên. Rồi sau dựng giá gỗ cao 3 thước, đặt nỏ lên trên, buộc lại cho chặt. Đằng sau lại dựng một cái cột cao 2 thước 5 tấc, đầu cột làm bánh xe như ṛng rọc. Lại ở trước cái giá gỗ cách hơn 10 bước đào một lỗ sâu 1 thước hơn, trên nhỏ dưới to, mặt lỗ ấy làm máy đặt một tấm ván tṛn ở trên, rải đất cát cho bằng, không để lộ ra. Làm như thế xong rồi, bèn giương dây nỏ lên máy, đặt ba tên nỏ thần, mũi tên tẩm thuốc độc. Lại lấy một sợi dây gai nhỏ buộc ở máy nỏ, đem dây ấy gác lên bánh xe, rồi kéo ra trước nỏ, buộc vào tấm ván tṛn. Nếu trong đêm tối thích khách của giặc lẻn đến, chân xéo lầm vào tấm ván tṛn ở trên miệng lỗ, ván ấy rớt vào trong lỗ th́ sợi dây động, tên đều bắn ra, trúng là chết.

 

Bài thuốc độc tẩm tên.

 

Nhựa cây thấu cốt (tục gọi là nhựa cây cộng), ban miêu, từ thạch (đá nam châm), điền cơ (tục gọi là khoai dại).

 

Các vị trên giă riêng ra trữ cả vào trong ống tre, rồi đem tên nỏ bỏ vào ống tre ngâm 3 tháng 10 ngày.

 

 

*

*   *

 

PHÉP LƯỚI TRỜI YỂM TRẠI.

 

Trước tôi từng hỏi thầy rằng: Binh pháp có nói “Người đánh giỏi trước giả làm yếu, sau tỏ là mạnh, khiến người đến mà không để người khiến ḿnh đến” là nghĩa thế nào? Thầy nói: “Lấy nhàn mà đợi nhọc, gọi là ứng binh, thừa thắng mà đánh, gọi là kiêu binh. Ứng binh th́ được, kiêu binh th́ thua. Cho nên ta trước giả làm yếu là muốn làm cho giặc kiêu, sau tỏ sức mạnh là để hoàn toàn nắm sự thắng về ta”. Tôi nói: “Kế ấy làm thế nào?” Thầy nói: “Lấy lợi mà nhử họ, gọi là dụ giặc, lấy kế mà đánh úp, gọi là đặt kỳ. Lấy quân giặc tham lợi mà địch với mưu đặt kỳ, khác ǵ đàn dê đánh nhau với hổ dữ, không được là rơ ràng lắm, c̣n phải nói ǵ. Ví như quân giặc mới đến, khiêu chiến ta, ta nên yên quân không động, đợi khi nhuệ khí của giặc hơi suy, rồi ta ra quân giao chiến, giả cách thua mà chạy, bỏ cả trại sách. Quân giặc tất đuổi theo tranh cướp lấy trại, khi giặc hẳn kiêu, ta lại ra quân khiêu chiến, làm cho nó tức, đợi đến lúc đánh đương say, ta lại từ từ mà lui, giặc tất cho ta là nhát, rồi chạy suốt vào trại thiên la. Ta đánh phá giặc dễ như lấy đồ trong túi.

 

Tôi lại hỏi: “Pháp thiên la thế nào?”

 

Thầy nói: “Phép làm, trước lấy dây gai đan làm lưới to, bốn mặt đều có mảnh tre làm nẹp, bốn góc đều có ṿng sắt, mỗi ṿng đường kính 2 tấc. Lại do bốn bên lưới ấy, chia trên đất làm bốn góc, mỗi góc đóng hai cái cọc, mỗi cọc cao 2 thước, cách nhau 1 thước, đầu cọc đục suốt một lỗ tṛn to 2 tấc 5 phân, 2 lỗ ở hai cọc đối nhau; bốn góc đều thế. Lại dùng gỗ dài đẽo làm bốn cái cột neo, mỗi cái dài 8 thước, cái neo một đầu dùng cốt sắt to 1 tấc 9 phân đóng thẳng vào, một đầu dùi ngang một lỗ to 2 tấc. Lại có một thanh gỗ rắn dài 1 thước 6 tấc, to 1 tấc 9 phân. Bốn góc đều làm đủ như thế. Đến khi dùng, trước hết đem cái neo ấy để ở quăng giữa hai cái cọc, lấy thanh gỗ rắn cắm vào như h́nh chàng xay. Lại lấy cán gỗ đầu neo cắm vào ṿng sắt bốn mặt lưới, giương lưới lên cao. Lại dùng bốn cái cây nống, nống bốn cái neo lên. Xong rồi lại lấy bốn sợi dây buộc vào chân cái cây nống kéo ra. Xong rồi, lại lấy một mảnh ván vuông 2 thước, bốn góc ván ấy dùi hai lỗ, lại sai người đào ở chính giữa một cái hố vuông sâu 2 thước, trên nhỏ dưới to, đem mảnh ván vuông ấy đặt lên trên hố, rồi kéo dây ấy buộc vào lỗ ở bốn góc ván vuông ấy. Trên lưới treo các thứ đao, thương, tên, đá, ngoài lưới làm sẵn nhà sát đó như kiểu nhà trại. Nhử giặc đến đấy, quân giặc tham lợi, không ngờ tranh nhau cướp trại, xéo vào ván vuông sập xuống, dây giật cây nống bốn mặt đổ xuống, mà lưới sập chụp hết.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP CHỮ ĐINH GIỮ THỦY TRẠI.

 

Phàm khi thủy chiến, dùng chiến thuyền kết làm thủy trại, ban đêm ngủ phải có cách pḥng gian, nếu không pḥng gian th́ không phải là trí tướng. Muốn pḥng gian phải làm phép đặt chuông.

 

Cách làm: Ở giữa sông dựng hai cái cột cao 4 thước, cách nhau 10 thước, đầu cột gác một cái gỗ ngang làm chữ đinh (), hai cột đều thế. Hai bên cái gỗ ngang của mỗi cột treo hai cái thanh la đồng. Đó là phép cột chữ đinh ngang sông. Lại đi từ hai cột ấy ra ngoài 10 thước, bên tả bên hữu cũng dựng hai cột chữ đinh, cũng treo thanh la như trước (Cộng thanh la ngang sông và hai bên tả hữu là 8 cái). Trước mỗi thanh la dựng một cần tre cao vừa đến chính giữa thanh la, ở dưới mỗi cần tre trong đáy nước đều đóng cọc ngắn, đầu cọc làm bằng. Rồi buộc dây gai vào mỗi đầu cành tre, đầu dây lại buộc vào cái gỗ ngang. Lại đem cần tre kéo xuống uốn thành h́nh cung, đặt trên đầu cọc bằng, lấy đá đè lên; tám cọc đều thế. Mỗi ḥn đá lại buộc bằng dây gai, đầu các dây gai ấy hợp làm một, lại dùng một sợi dây gai dài 100 bước hay 50 bước buộc vào ḥn đá, kéo ra bên ngoài mà chăng ngang sông. Nếu có thuyền giặc ban đêm lẻn vào thủy trại, mái chèo động vào dây chăng ngang sông th́ các ḥn đá ở đầu cọc đều rơi xuống mà cần tre đều đập vào thanh la kêu vang lên th́ ta biết ngay. Đó là phép đặt chữ đinh giữ thủy trại.

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP LÀM CỜ XEM HƯỚNG GIÓ.

 

Gió là hiệu lệnh của trời, cho nên biết xem gió th́ điều hay biết trước và điều không hay cũng biết trước. Như sắp hàng binh mà không biết xem hướng gió th́ biết đâu lành dữ mà làm theo hay tránh đi. Muốn xem hướng gió th́ trước làm cờ xem gió.

 

Cách làm: Ngoài cửa trại, dựng một cái cột cao vài mươi thước, trên đầu cột đặt một cái bánh xe cùng một con diều bằng gỗ, có cái cờ nhỏ như h́nh đầu cột buồm. Lại lấy 10 cân lông đuôi gà kết làm một sợi dây dài bằng cái cột, buộc vào sau đuôi diều gỗ, đầu dây tḥ xuống; lại lấy lông ngan kết làm một búp như h́nh hoa cúc; lại lấy một sợi dây gai nhỏ bằng sợi dây lông ấy buộc vào đầu mỏ diều gỗ; đầu dây tḥ xuống buộc một ḥn sắt, để xem hướng gió. Nếu có gió th́ con diều gỗ chuyển động theo mà dây lông bay lên. Muốn biết hướng gió th́ dùng một sợi dây tơ nhỏ buộc vào dưới búp lông hoa cúc của dây lông, buộc qua sang gặp cái dây có ḥn sắt ở mỏ diều. Rồi dùng địa bàn có kim chỉ nam đặt ở dưới cái dây ngang ấy th́ biết hướng gió bốn phương tám mặt.

 

 

 

*

*   *

 

 

Lời tổng b́nh về tập Thiên

 

 

Kiêm-trai xét: Khoảng đời Lê Chiêu-thống, Nam triều có Loan-khê xử sĩ theo quân đến, đem sách nay đến yết kiến tiên công tôi là tiến sĩ chiêu thảo tổng quản cấm binh binh mă tướng quân nói rằng: “Sách này có thể dùng để cần vương đánh giặc”. Tôi thấy chỗ bàn Tập Thiên có huấn từ, tôi xin tiên công tôi hiệu đính. Nay xin thuật lời bàn rằng: Trời là ông cha của chúng sinh, là gốc rễ của vạn vật, tôn trọng tuyệt đối, to lớn không c̣n cái ǵ ở ngoài. Dẫu to như cá côn nhảy 3 ngh́n dặm, chim bằng bay 9 vạn dặm, cao như núi Thái-sơn, sâu như sông Hoàng-hà, cũng chỉ là một vật nhỏ trong bầu trời. Tôi đọc sách binh pháp không phải không nhiều, nhưng chật án đầy ḥm đều là h́nh trạng mây gió, dài ḍng đẫy sách đều là h́nh thể rắn chim. Duy có sách Hổ trướng khu cơ rất là tinh diệu, rất là giản dị. Nếu người ta học được th́ trong lúc thảng thốt vẫn bàn nói như thường, dẫu có thần binh năm lộ cũng chẳng bằng xem cá, vỗ đùi1, vận dụng một ḷng mà có thể bẻ mũi nhọn, đánh tan trận, không suy nghĩ mà làm được, không miễn cưỡng mà đúng phép, h́nh như tạo hóa tự nhiên. Cho nên tôi cách Lộc-khê hơn một trăm năm, mà xem diệu pháp lưu truyền, thần cơ tạo hóa, c̣n khiến phải thè lưỡi lạnh dạ, huống là người được thân gần học tập! Nay bốn thiên trong tập này2 cộng 36 điều, thực là then máy của hổ trướng, khóa chốt của tướng môn, thực xứng với tên Hổ trướng khu cơ vậy. Cho nên tôi đối với thiên này th́ bảo là nên tiềm tâm, tận tâm, dụng tâm, đối với các bài thơ th́ bảo là nên xét kỹ, nghĩ kỹ, xem quư, dốc làm, cũng chẳng nên sao? Nay xin làm lời huấn từ, để tỏ cái ư ba lần ra lệnh, năm lần nhắc lại.

 

Huấn từ rằng:

 

Tờ giấy mỏng điểm bao nét ngọc, sách b́a vàng sáng tựa ngọc châu. Đem văn giáo để giữ thành th́ nghĩa sâu của Lân kinh3, dùng vơ công để dẹp loạn th́ then máy của Hổ trướng4. Cầm cờ tướng đảm đương ngoài cơi, tiếng thơm lẫy lừng; ngồi trong màn quyết định mưu mô, chước thần không sót. Vén mây mù ở hang nguyệt, kính ngọc của tướng môn; quét khói bụi ở chân trời, rùa thiêng của binh trướng. Chứa cả kiền khôn vào sách báu, rất sâu rất tinh; phát tạo hóa trong lụa vàng, càng kỳ càng diệu. Xem tam tài mà đặt tên tập5, văn sáng như ngọc lành, lấy tứ tượng mà chia thiên6, chữ đẹp như châu quư. Định giang sơn của xă tắc, oanh liệt rồng bay; trong vũ trụ lập công danh, tít cao bằng liệng. Quét sạch khói lang ở cửa ải, không phải mỏi tay; đặt yên nhà nhạn trong cơi trần, không cần nhăn trán. Rửa nhật nguyệt trên mây biếc, thần phục quỷ kinh; dựng núi sông làm nghiệp to, trời tươi sao sáng. Lừng nghĩa dũng đến ngh́n thuở, nào ai địch cùng; định thái b́nh trong một thời, không ǵ sánh kịp. Sách thư xướng trước đỡ trời một tay; trúc bạch truyền đời lưu danh muôn thuở. Cứu nhân dân trong đồ thán, thua ǵ Tử Nha; trổ kinh luân ở dưới trời, kém đâu Y Doăn. Thực là khóa chốt của cửa tướng, người học phải suy; thực là then máy của nhà binh, người bậy chớ bảo. Tiên giác bao cao cả; huấn từ nên kính theo.

_______________________________

1. Xem cá vỗ đùi: Lỗ Ẩn công đi xem đánh cá ở Ấp Đường; Hán Văn đế nghe Phùng Đường nói truyện Liêm Pha Lư Mục th́ vỗ đùi mà nói rằng: Ta được Liêm Pha Lư Mục mà dùng th́ sợ ǵ.

2. Tập Thiên.

3. Kinh Xuân thu.

4. Tức là Hổ trướng khu cơ.

5. Thiên tập, Địa tập, Nhân tập.

6. Tứ tượng: Theo lời sớ của Kinh Dịch th́ tứ tượng là kim mộc thủy hỏa.

QUYỂN II

 TẬP ĐỊA 

 

 

YẾU CHỈ BÀN VỀ TRẬN.

 

Cao Chiêu-dương nói: Phép bày trận bắt đầu từ Hoàng đế đánh Xi-vưu, trên xem trời, dưới xem đất, theo số âm dương chẵn lẻ cùng việc quỷ thần tạo hóa mà làm ra phép chính kỳ biến hóa1, làm ra cơ khởi phục hành chỉ2, mà đặt ra các trận Thái cực, Thái tổ, Tiên thiên, Thái thủy, Hà đồ, khiến cho hàng trận của ba quân rơ ràng trật tự. Cho nên tiến th́ nhanh như gió, đóng th́ vững như núi. Chỗ nào đụng là đầu, biến binh chính làm binh kỳ. Ví như con rắn Thường-sơn, đánh đầu th́ đuôi cứu, đánh đuôi th́ đầu cứu, đánh giữa th́ đầu đuôi cùng cứu, mà cái thế nắm cơ, yên như bàn thạch, quân hàng ức vạn, vững như Thái sơn, công của Hoàng đế sánh cùng trời đất vậy. Về sau có sách Lục thao của Thái công, sách Tam lược của Hoàng-thạch công, sách Binh pháp của Tôn tử, sách Yếu chỉ của Tử Pḥng, phát thiên căn ở dĩ văng, ḍ nguyệt quật ở tương lai, mà làm thành 72 phép, khiến cho đời sau biết phép nhiệm mầu, th́ công các ông ấy cũng ngang với Hoàng đế vậy. Từ sau khi các ông ấy mất đi, người học binh thư đều mờ mịt không biết nguồn gốc. Đến đời Hậu Hán có bảy người hiền ở Long-trung3, ngẫm nghĩ dung hội, đem truyền bảo nhau chế ra các trận Bát môn kim tỏa, Chu thiên hồn nguyên, trận pháp ấy rơ như mặt trời mặt trăng, phát minh những điều tiền hiền chưa phát, người đời ấy xem như vén mây mù mà thấy trời xanh, cắt gai góc mà thấy đường cái, vậy công của bảy người hiền ấy cùng với công của các ông trước kia có thể ngang hàng mà không trái nhau, học giả nên kính cẩn mà đọc.

 

Kiêm-trai xét: Bảy người hiền ở Long-trung là Thủy kính Tư-mă Huy, Bàng-đức công, Gia-cát Khổng-minh, Thôi Châu-b́nh, Thạch Quảng-tuyền, Từ-Thứ, Mạnh-công Uy.

 

Lê Thủ-chân nói: Trận là bày binh, chẳng qua là bộ khúc phân minh, quân cơ chỉnh túc mà thôi. Tuy nhiên, cái đạo làm tướng mà không biết trận pháp th́ khác ǵ chân què mà chạy, ngoảnh mặt vào tường mà đứng, để đến nỗi tính mệnh ba quân xác tan ở sa trường, hồn vùi ở chiến địa, mà tiều tụy ở khoảng lưỡi gươm mũi giáo là tội bởi ai? Cho nên Hiên-viên xem trên xét dưới, thấy trời có các sao Vũ-khúc Phá-quân, đất có các tượng Ngũ nhạc Cửu châu, th́ biết khoảng trời đất đă có trận thế tự nhiên rồi, huống chi là người! Bởi thế mới đặt ra các trận pháp Thái cực, Thái tố, Thái thủy và Hà đồ, Bát quái, Tiên thiên, khắp rồi trở lại; ṿng quanh không mối, biến hóa mầu nhiệm, đều có lẽ tự nhiên của trời đất. Cho nên bạn tôi cho rằng công Hoàng đế sánh cùng trời đất cũng chẳng phải sao! Bởi v́ phép trận, không đầu không đuôi, không sau không trước, bốn phương tám mặt, hồn thiên không biết đầu mối, vạn ngựa ngh́n binh, san sát chẳng biết cửa ngơ. Đến khi giặc đánh chỗ nào th́ lấy chỗ ấy làm đầu, mà tách ra trước sau tả hữu để đến cứu. Cho nên Binh pháp nói rằng “chỗ nào đụng là đầu”, chẳng rất đúng sao!

_______________________________________

1. Chính kỳ biến hóa: Biến hóa chính làm kỳ, kỳ làm chính.

2. Khởi phục hành chỉ: Dậy nấp, đi dừng.

3. Long-trung: Tên núi ở tỉnh Hồ-bắc, nơi Gia-cát Lượng ở ẩn.

 

 

 

*

*   *

 

 

Trận thứ nhất: Thái cực bao hàm.

Trận thứ hai: Thái tố tam tài.

Trận thứ ba: Biến làm trận Thải thủy hồn nguyên

 

 

 

H́nh 1-2. Trận thứ nhất và trận thứ hai: Thái cực bao hàm và Thái tố tam tài.

 

 

 

 

H́nh 3. Trận thứ ba: Biến làm trận Thái thủy hồn nguyên.

 

 

 

BÀN VỀ BA TRẬN TRÊN.

 

Ba trận trên là phép cổ do Hoảng đế chế, số quân có 5.800 người mà đại tướng ở giữa cầm quân cơ đă 1.000 người, c̣n 4.800 người chia làm 12 đội, mỗi đội có một tỳ tướng coi 400 người. Đấy là số quân. Nếu muốn bày trận th́ trước bày trận Thái cực bao hàm, đại tướng ở giữa đánh một tiếng chiêng ba tiếng trống, trước bày trận ngũ hành, một hành làm một trận, mỗi đội 200 người. Xong rồi, lại đánh một tiếng chiêng, đội Địa bên tả cách đại tướng 30 bước mà đứng; đội Thiên bên hữu cách đại tướng 30 bước mà đứng. Xong rồi đại tướng lại đánh một tiếng chiêng, ngoài đội Địa bên tả là đội Nhật nối theo, ngoài đội Nhật là đội Dương nối theo, ngoài đội Dương là đội Phong nối theo, ngoài đội Phong là đội Xà nối theo, ngoài đội Xà là đội Phượng nối theo. Bên hữu, ngoài đội Thiên là đội Nguyệt nối theo, ngoài đội Nguyệt là đội Âm nối theo, ngoài đội Âm là đội Vân nối theo, ngoài đội Vân là đội Điểu nối theo, ngoài đội Điểu là đội Long nối theo. Thành h́nh chữ nhất (). Nếu bên tả đội Phượng gặp giặc th́ lấy đội Phượng làm chính, đội Xà làm kỳ, đội Phong tiếp chiến, đội Dương ứng cứu, đội Nhật làm chi bên tả, đội Địa làm cánh bên tả, để cùng giúp nhau. Bên hữu đội Long gặp giặc th́ lấy đội Long làm chính, đội Điểu làm kỳ, đội Vân tiếp chiến, đội Âm cứu ứng, đội Nguyệt làm chi bên hữu, đội Thiên làm cánh bên hữu. Như thế thành trận thứ nhất Thái cực bao hàm.

 

Nếu muốn biến làm trận Thái tố tam tài th́ đại tướng đánh một tiếng chiêng, thổi ba tiếng c̣i; đại tướng tiến lên bày trận ngũ hành mà đứng. Ở dưới th́ hai đội Thiên Địa cách nhau 50 bước mà đứng. Bên tả, ngoài đội Địa th́ đội Nhật đứng nối ngang theo để làm đáy trận. Bên hữu ngoài đội Thiên th́ đội Nguyệt cũng đứng nối ngang để làm đáy trận. Xong rồi, đại tướng lại đánh một tiếng chiêng th́ bên tả đội Dương đi chéo lên đứng vào bên ngoài đội Nhật, ngoài đội Dương, đội Phong cũng đi chéo lên đứng nối theo, ngoài đội Phong, đội Xà cũng đi chéo lên đứng nối theo, ngoài đội Xà đội Phượng cũng đi chéo lên đứng nối theo. Bên hữu đội Âm đi chéo lên đứng bên ngoài đội Nguyệt, ngoài đội Âm, đội Vân cũng đi chéo lên đứng nối theo, ngoài đội Vân, đội Điểu cũng đi chéo lên đứng nối theo, ngoài đội Điểu, đội Long cũng đi chéo lên đứng nối theo. Phép tiến lui, đánh đâm cũng giống trận trước. Đấy là trận thứ hai biến làm Thái tố tam tài.

 

Nếu muốn biến làm trận Thái thủy hồn nguyên th́ đại tướng đánh một tiếng chiêng, thổi ba tiếng c̣i; đại tướng cũng ở giữa mà bày trận ngũ hành. Xong rồi lại đánh một tiếng chiêng th́ đội Địa ở bên tả đi nhanh thẳng lên mà đứng ở trước trận, đội Thiên ở bên hữu lui xuống đứng ở sau trận. Đội Nhật bên tả đi chéo lên đứng ở bên tả đội Thiên, đội Nguyệt bên hữu cũng đi chéo lên đứng ở bên hữu đội Thiên, để làm mặt sau trận. Xong rồi đại tướng lại đánh một tiếng chiêng th́ đội Dương bên tả đi nhanh lên đứng ở bên ngoài đội Nhật, đội Âm bên hữu cũng đi nhanh lên đứng ở bên ngoài đội Nguyệt, để làm ruột trận. Xong rồi, đại tướng lại đánh một tiếng chiêng th́ đội Phong bên tả đi chéo lên đứng ở bên tả đội Địa, đội Vân bên hữu cũng đi chéo lên đứng ở bên hữu đội Địa, để làm mặt trước trận. Xong rồi, đại tướng lại đánh một tiếng chiêng th́ đội Xà bên tả đi ngang ra nối vào bên trên đội Phong, đội Phượng cũng đi ngang ra nối vào bên dưới đội Nhật, đội Điểu bên hữu cũng đi ngang ra nối vào bên dưới đội Nguyệt, đột Long cũng đi ngang ra nối vào bên trên đội Vân, để làm du binh ứng tiếp. Như thế th́ thành trận thứ ba Thái thủy hồn nguyên.

 

 

 

Trận Tiên thiên Hà đồ đất hẹp nhất biến.

Trận Tiên thiên Hà đồ đất rộng nhị biến.

 

 

 

H́nh 4. Trận Tiên thiên Hà đồ đất hẹp nhất biến.

 

 

 

 

 

H́nh 5. Trận Tiên thiên Hà đồ đất rộng nhị biến.

 

 

 

 

 

BÀN VỀ HAI TRẬN TRÊN.

 

Tiên thiên Hà đồ là do con long mă mang đồ thư hiện ra trên sông. Phục Hy theo đấy mà vạch ra bát quái, Hoàng đế theo đấy mà chế ra trận pháp. Số quân có 7.600 người, đại tướng lĩnh 1.000 người, c̣n 6.600 người, trước lấy 5.000 người chia làm 9 đội1 làm số thiên địa. Trong 9 đội ấy quân nhiều ít không đều nhau là theo phép chẵn lẻ trước sau của trời đất. Lại lấy 1.600 người chia làm 8 đội bát quái, mỗi đội 200 người để pḥng khi dùng đến. Phép này đại tướng đứng ở giữa, đánh năm tiếng chiêng một tiếng trống, trước bày quân làm trận ngũ hành. Xong rồi, lại đánh một tiếng chiêng một tiếng trống, cầm cờ Địa thập phất một cái th́ đội Địa thập đằng trước đứng vào bên tả đại tướng, đội Địa thập đằng sau đứng vào bên hữu đại tướng. Lại thổi một hồi c̣i, cầm cờ Bát quái phất một cái th́ các đội Bát quái đi thẳng lên chia làm hai dây, bên tả th́ bốn đội Khôn Chấn Ly Đoài đứng ở bên ngoài đội Địa thập tiền, bên hữu th́ bốn đội Cấn Khảm Tốn Càn đứng ở bên ngoài đội Địa thập hậu. Xong rồi, lại đánh một tiếng chiêng một tiếng trống, cầm cờ Thiên nhất phất một cái th́ đội Thiên nhất tiến lên đứng vào bên tả các đội Khôn Chấn Ly Đoài, bên hữu th́ đội Địa nhị cũng tiến lên đứng vào bên hữu các đội Cấn Khảm Tốn Càn. Xong rồi, lại đánh sáu tiếng chiêng bảy tiếng trống, cầm cờ Địa lục phất một cái th́ đội Địa lục tiến lên đứng ngang bên tả đội Thiên nhất, bên hữu th́ đội Thiên thất cũng tiến lên đứng ngang bên hữu đội Địa nhị. Xong rồi, lại đánh ba tiếng chiêng bốn tiếng trống, cầm cờ Thiên tam phất một cái th́ đội Thiên tam tiến lên đứng ngang bên tả đội Địa lục, bên hữu đội Địa tứ cũng tiến lên đứng ngang bên hữu đội Thiên thất. Lại đánh tám tiếng chiêng, chín tiếng trống, cầm cờ Địa bát phất một cái th́ đội Địa bát tiến lên đứng ngang bên tả đội Thiên tam, bên hữu th́ đội Thiên cửu cũng tiến lên đứng ngang bên hữu đội Địa tứ. Như thế th́ thành trận Tiên thiên Hà đồ đất hẹp nhất biến. Việc tiến lui đánh đâm chính kỳ ứng tiếp th́ cũng giống như trận Thái cực trước, không cần nói nữa.

 

Nếu muốn biến làm trận Tiên thiên Hà đồ bát quái hỗ tàng đả bổ2, th́ đại tướng đứng giữa đánh năm tiếng chiêng một tiếng trống, cũng tiến lên trước bày trận ngũ hành. Xong rồi, lại đánh mười tiếng chiêng mười tiếng trống, cầm cờ Địa thập phất lên, th́ bên tả đội Địa thập tiền tiến lên đứng chắn ngang trước mặt đại tướng, bên hữu đội Địa thập hậu lùi xuống đứng chắn ngang sau lưng đại tướng. Xong rồi, lại thổi một hồi c̣i cầm cờ Bát quái phất lên, th́ bên tả các đội Khôn Chấn Ly Đoài tiến lên đứng vào bên tả đại tướng, bên hữu các đội Cấn Khảm Tốn Càn tiến lên đứng vào bên hữu đại tướng. Xong rồi, lại đánh một tiếng chiêng hai tiếng trống, cầm cờ Thiên nhất phất lên, th́ bên hữu đội Thiên nhất lui xuống đứng vào đằng sau đội Địa thập hậu, bên hữu đội Địa nhị cũng tiến lên đứng vào đứng trước đội Địa thập tiền. Xong rồi, lại đánh sáu tiếng chiêng bảy tiếng trống, cầm cờ Địa lục phất lên, th́ bên tả đội Địa lục lui xuống đứng vào bên dưới đội Thiên nhất, bên hữu đội Thiên nhị cũng tiến lên đứng vào bên trên đội Địa tam. Xong rồi, lại đánh ba tiếng chiêng bốn tiếng trống, cầm cờ Thiên tam phất lên, th́ bên tả đội Thiên tam tiến lên đứng vào bên ngoài các đội Khôn Chấn Ly Đoài, bên hữu đội Địa tứ cũng tiến lên đứng vào bên ngoài các đội Cấn Khảm Tốn Càn. Xong rồi, lại đánh tám tiếng chiêng chín tiếng trống, cầm cờ Địa bát phất lên, th́ bên tả đội Địa bát tiến lên đứng vào bên ngoài đội Thiên tam, bên hữu đội Thiên cửu cũng tiến lên đứng vào bên ngoài đội Địa tứ. Như thế là phép âm dương xen nhau, che giấu lẫn nhau. Xong rồi, đại tướng lại thổi ba hồi c̣i, cầm cờ Bát quái phất lên, th́ bên tả hai đội Khôn Chấn rẽ ngang xuống đứng vào góc đông-bắc, hai đội Ly Đoài cùng rẽ ngang lên đứng vào góc đông-nam, bên hữu hai đội Cấn Khảm rẽ ngang xuống đứng vào góc tây-bắc, hai đội Tốn Càn cũng rẽ ngang lên đứng vào góc tây-nam. Như thế th́ thành phép Tiên thiên Hà đồ Bát quái hỗ tàng đả bổ.

_________________________________

1. 9 đội là: Thiên nhất, Địa nhị, Thiên tam, Địa tứ, Thiên thất, Địa lục, Thiên cửu, Địa bát và Địa thập. C̣n Thiên ngũ là đại tướng, mà Địa thập lại chia hai làm Địa thập tiền, Địa thập hậu.

2. Hỗ tàng đả bổ: Che giấu lẫn nhau để đánh giặc và bắt giặc.

 

 

Trận chính Bát môn kim tỏa

Trận Bát môn kim tỏa nhị biến

Trận Bát môn kim tỏa tam biến

Trận Bát môn kim tỏa tứ biến

 

 

 

H́nh 6. Trận chính Bát môn kim tỏa.

 

 

 

 

H́nh 7. Trận Bát môn kim tỏa nhị biến.

 

 

 

 

H́nh 8. Trận Bát môn kim tỏa tam biến.

 

 

 

 

H́nh 9. Trận Bát môn kim tỏa tứ biến.

 

BÀN VỀ BỐN TRẬN TRÊN.

 

Trận Bát môn Kim tỏa của Nam-dương tiên sinh đời Hậu Hán bắt chước số bát môn bát quái mà đặt ra là phép mà Khổng-minh vẫn thường dùng, h́nh như cái khóa, phép rất khít khao, cho nên Khổng-minh gọi là Kim tỏa. Trận đầu số quân một nửa chỉ có 5.000 người mà đại tướng trước lĩnh 1.000 bày trận Ngũ hành để nắm then máy, chỉ c̣n 4.000 người, chia làm 20 đội, mỗi đội đặt một tỳ tướng cai quản 200 người, có các hiệu Phong, Vân, Xà, Điểu, Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai, Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Phép trận, đại tướng đứng giữa đánh một tiếng chiêng ba tiếng trống th́ đội Vân tiến từ bên tả đứng ngang ở ngoài đại tướng, bên hữu th́ đội Phong cũng tiến từ bên hữu đứng ngang ở ngoài đại tướng, thành Vân Phong đối nhau để làm nhăn trận (mắt trận). Đă có mắt th́ bốn chi thể cùng trăm khúc xương đều theo đấy làm hiệu lệnh. Cho nên đại tướng lại đánh một tiếng chiêng ba tiếng trống th́ bên tả ngoài đội Vân là đội Kinh đứng nối theo, ngoài đội Kinh là đội Khai đứng nối theo, ngoài đội Khai là đội Hưu đứng nối theo, ngoài đội Hưu là đội Sinh đứng nối theo, ngoài đội Sinh là đội Chấn đứng nối theo, ngoài đội Chấn là đội Cấn đứng nối theo, ngoài đội Cấn là đội Khảm đứng nối theo, ngoài đội Khảm là đội Càn đứng nối theo, để làm vây cánh trận tả; bên hữu th́ ngoài đội Phong là đội Tốn đứng nối theo, ngoài đội Tốn là đội Ly đứng nối theo. ngoài đội Ly là đội Khôn đứng nối theo, ngoài đội Khôn là đội Đoài đứng nối theo, ngoài đội Đoài là đội Tử đứng nối theo, ngoài đội Tử là đội Cảnh đứng nối theo, ngoài đội Cảnh là đội Đỗ đứng nối theo, ngoài đội Đỗ là đội Thương đứng nối theo, để làm vây cánh trận hữu. Đă có mắt cùng vây cánh th́ sao không có tai? Cho nên đại tướng lại đánh một tiếng trống th́ bên tả đội Xà tiến lên đứng ở bên ngoài đội Càn để làm tai bên tả, bên hữu th́ đội Điểu tiến lên đứng ở bên ngoài đội Thương để làm tai bên hữu. Như thế là thành trận Bát môn đệ nhất biến ngang dài. Đó là trận đệ nhất biến. Nếu giặc đánh vào đội Xà bên tả th́ lấy đội Xà làm chính, đội Vân làm kỳ, các đội Càn, Khảm, Cấn, Chấn làm tả chi, các đội Sinh, Hưu, Khai, Kinh làm tả dực để cứu. Nếu giặc đánh vào đội Điểu bên hữu th́ lấy đội Điểu làm chính, đội Phong làm kỳ, các đội Thương, Đỗ, Cảnh, Tử làm hữu chi, các đội Tốn, Ly, Khôn, Đoài làm hữu dực để cứu. C̣n như đại tướng th́ ở giữa nên bị giặc đánh trước, th́ đội Vân đội Phong làm chính, đội Xà đội Điểu làm kỳ, các đội Kinh, Khai, Hưu, Tử, Càn, Khảm, Cấn, Chấn làm tả chi, các đội Tốn, Ly, Khôn, Đoài, Tử, Cảnh, Đỗ, Thương làm hữu dực, để cùng cứu ứng nhau. Thế là biến chính làm kỳ, biến kỳ làm chính, lấy trước làm sau, lấy sau làm trước, làm phép biến trận mầu nhiệm. Cho nên Binh pháp nói rằng “Trận như con rắn Thường-sơn, đánh đầu th́ đuôi cứu, đánh đuôi th́ đầu cứu, đánh giữa th́ đầu đuôi cùng cứu”. Các phép biến sau đều theo đấy mà liệu tính.

 

Đến như tái biến th́ đại tướng ở giữa, đánh một tiếng chiêng ba tiếng trống, tiến lên trên trận, bày trận ngũ hành để nắm then máy. Xong rồi, đánh một tiếng chiêng ba tiếng trống th́ bên tả đội Xà tiến trước lên đứng vào góc bên hữu trận, c̣n các đội khác cũng theo thứ tự như trận trên mà tiến nối lên, th́ đội Vân lại ở vào góc bên tả dưới trận. Thế là Thái cực nhất động mà sinh dương. Đại tướng lại đánh một tiếng chiêng ba tiếng trống, th́ bên hữu đội Điểu tiến lên trước đứng vào góc bên hữu trên trận, mà các đội khác cũng theo thứ tự mà tiến theo nối lên, th́ đội Phong lại ở góc bên hữu dưới trận. Thế là Thái cực tái động mà sinh âm. C̣n phép ứng tiếp đánh đâm cũng giống trận trước. Thế là trận Bát môn kim tỏa nhất biến vi nhị. Đấy là trận đệ nhị biến.

 

Nếu muốn biến làm trận thứ ba th́ đại tướng đánh một tiếng chiêng ba tiếng trống, tiến lên bảy trận ngũ hành, mỗi hành số binh 200 trở xuống. Xong rồi, lại đánh ba tiếng chiêng th́ bên tả bốn đội Sinh, Hưu, Khai, Kinh lui xuống đứng chắn ngang sau trận, mà bốn đội Càn, Khảm, Cấn, Chấn lui đứng về bên tả trận, bên hữu bốn đội Tử, Cảnh, Đỗ, Thương tiến lên đứng ngang ở trước trận, bốn đội Đoài, Thiên, Ly, Tốn th́ tiến đứng về bèn hữu trận, c̣n bốn đội Phong, Vân, Xà, Điểu th́ vẫn đóng yên ở bốn góc trận như trước. Phép tiến lui đánh đâm cũng giống như trước. Thế là thành lưỡng nghi sinh tứ tượng. Đấy là trận đệ tam biến.

 

Nếu muốn biến nữa th́ đại tướng đánh một tiếng trống, hai đội Hưu, Sinh ở sau trận bên tả đi chéo lên đứng ngang vào chính nam trước trận, hai đội Đỗ, Thương đi chéo lên đứng vào góc trên đông-nam, hai đội Cấn, Chấn đứng thẳng vào chính đông bên tả trận, hai đội Kinh, Khai ở sau trên bên hữu đi chéo lên đứng vào góc dưới tây-bắc, hai đội Ly, Tốn lui xuống ngang vào chính bắc sau trận, mà hai đội Cảnh, Tử ở trước trận th́ đi chéo lên đứng vào góc tây-nam, hai đội Khôn, Đoài đứng vào chính tây bên hữu trận. Xong rồi, đại tướng lại đánh một tiếng chiêng th́ đội Vân ở góc dưới bên tả đi lên đứng xen vào quăng giữa hai đội Sinh, Hưu, mà đội Xà th́ đứng xen quang giữa hai đội Càn, Khảm, đội Phong ở góc dưới bên hữu đi lên đứng xen vào quăng giữa hai đội Kinh, Khai, mà đội Điểu th́ đứng xen vào quăng giữa hai đội Cảnh, Tử ở góc trên. Thế là thành trận Bát môn Kim tỏa đệ tứ biến.

 

Trận Tiểu chu thiên thứ nhất: Thái cực hồn thiên.

Trận Tiểu chu thiên nhị biến: Lưỡng nghi phân khai.

Trận Tiểu chu thiên tam biến: Tứ tướng đối xung.

Trận Tiểu chu thiên tứ biến: Trận vuông.

Trận Tiểu chu thiên ngũ biến: Trận tṛn.

Trận Tiểu chu thiên lục biến: Trận cong.

Trận Tiểu chu thiên thất biến: Trận thẳng.

Trận Tiểu chu thiên bát biến: Trận nhọn.

Trận Tiểu chu thiên cửu biến: Trường xà đảo quyển.

Trận Tiểu chu thiên thập biến: Trường xà liên châu.

 

 

 

H́nh 10. Trận Tiểu chu thiên thứ nhất: Thái cực hồn nguyên.

 

 

 

H́nh 11. Trận nhị biến: Lưỡng nghi phân khai.

 

 

 

H́nh 12. Trận tam biến: Tứ tượng đối xung.

 

 

 

H́nh 13. Tiểu chu thiên đệ tứ biến: trận vuông.

 

 

 

H́nh 14. Tiểu chu thiên đệ ngũ biến: trận tṛn.

 

 

 

H́nh 15. Tiểu chu thiên đệ lục biến: trận cong.

 

 

 

H́nh 16. Tiểu chu thiêu đệ thất biến: trận thẳng.

 

 

 

H́nh 17. Tiểu chu thiên đệ bát biến: trận nhọn.

 

 

 

H́nh 18. Tiểu chu thiên đệ cửu biến: Trường xà đảo quyển.

 

 

 

H́nh 19. Tiểu chu thiên đệ thập biến: Trường xà liên châu.

 

BÀN VỀ CÁC TRẬN TIỂU CHU THIÊN.

 

Trận Chu thiên là trận pháp của Tôn Vơ tử. Bốn phương bốn góc cùng trung quân du binh, đều là số 8, ngoài có tám trận là Thiên, Địa, Phong, Vân, Long, Hổ, Xà, Điểu, mỗi trận có 6 đội, thành số 6×8=48. Trong có tả hiệu, hữu hiệu và hai hiệu nội tả, nội hữu, mỗi hiệu 4 đội là số 16. Cộng 8 trận 4 hiệu là số 64 đội để tượng 64 quẻ. Lại du binh 3×8 = 24 đội để tượng 24 khí của trời đất. Mỗi đội 50 người. Cả 8 trận cùng hiệu và du binh ngoài cộng 4.400 người để tượng số Tiểu chu thiên.

 

Phép trận: Dinh Tiền 6 đội cộng 300 người, gọi là trận Phong, dinh Hữu Tiền 6 đội, cộng 300 người, gọi là trận Địa, dinh Tả 6 đội, cộng 300 người gọi là trận Long, dinh Hữu 6 đội, cộng 300 người, gọi là trận Vân, dinh Hữu Hậu 6 đội, cộng 300 người, gọi là trận Xà. (Kiêm-trai xét: Tiền Hậu Tả Hữu 8 dinh 8 trận). Dinh Trung hiệu Nội tả, hiệu Nội hữu 8 đội cộng 400 người, nguyên thuộc đại tướng. Dinh Trung hai hiệu tả hữu cũng 8 đội, cộng 400 người để hộ vệ đại tướng.

 

Lúc biến trận th́ lấy bốn trận Thiên, Địa, Phong, Vân, đóng vào bốn góc làm binh chính, lấy bốn trận Long, Hổ, Điểu, Xà bày ra bốn phương làm binh kỳ. C̣n như du binh th́ để pḥng bổ khuyết các trận. Như lúc hành binh, nếu gặp chỗ đất hẹp g̣ ghề th́ cho du binh đi trước để dẫn đường. Khi đóng quân th́ du binh ở sau, hoặc để chặn đường vận lương của giặc, hoặc để phá viện binh của giặc, hoặc để đánh úp phá quân, hoặc để cắt đứt phá thế, tùy cơ ứng biến, h́nh như gió cuốn mây bay, không thể lường được. Nếu bàn chín trận cùng du binh th́ lấy chín trận làm chính du binh làm kỳ. Nếu bàn tám trận cùng trung quân th́ tám trận làm chính trung quân làm kỳ, mà binh chính nhiều binh kỳ ít. Giả như hành binh ở chỗ đường hẹp th́ trước kết trận Chu thiên nhất biến. Lấy trận Điểu làm đệ nhất, trận Địa làm đệ nhị, trận Địa là chính mà trận Điểu là kỳ, c̣n đệ tam là trận Hổ, đệ tứ là trận Thiên th́ trận Thiên là chính mà trận Hổ là kỳ Đến như đệ ngũ th́ bốn hiệu trung quân là chỗ cầm then máy để hiệu lệnh các quân. C̣n đệ lục là trận Phong, đệ thất là trận Long, th́ trận Phong là chính, trận Long là kỳ; đệ bát là trận Vân, đệ cửu là trận Xà, th́ trận Vân là chính, trận Xà là kỳ. Thế là một kỳ đương một chính trong Binh pháp. Nếu trận Điểu gặp giặc th́ trận Điểu làm chính, trận Địa làm kỳ; nếu trận Địa gặp giặc th́ trận Địa làm chính, trận Điểu làm kỳ. Cho nên Binh pháp nói “Chính lại làm Kỳ, Kỳ lại làm Chính; đánh đuôi đầu cứu, đánh đầu đuôi cứu; ṿng quanh không có đầu mối”, là nghĩa thế đấy. C̣n phép chính kỳ đánh đâm của các trận th́ cũng theo đấy mà suy ra.

 

Chu Thiên đệ nhị biến th́ chia quân làm hai dây mà tiến. Chi tả, đệ nhất là trận Phong, đệ nhị là trận Long, đệ tam là hiệu tả dinh Trung cùng hiệu Nội tả, đệ tứ là trận Vân, đệ ngũ là trận Xà. Chi hữu, đệ nhất là trận Điểu, đệ nhị là trận Địa, đệ tam là hiệu Hữu dinh Trung cùng hiệu Nội hữu, đệ tứ là trận Hổ, đệ ngũ là trận Thiên. Nếu giặc đánh vào trận nào, th́ các trận chính kỳ tả hữu cùng xúm lại mà cứu, cho nên Binh pháp nói rằng “Một chính một kỳ, cùng giúp đỡ nhau” là thế đấy. Ví như giặc đánh vào trận Phong ở chi tả th́ trận Long cứu, hiệu Tả dinh Trung cũng theo sau giáp đánh, mà hai trận Vân Xà cũng cứu ứng nhau. Nếu giặc đánh trận Xà th́ trận Vân cứu, hai trận Phong Long cũng theo sau giáp đánh mà hiệu Tả dinh Trung cũng cứu ứng nhau. C̣n chi hữu th́ nhất thiết không được động, một là b́nh tĩnh để đợi giặc, hai là để nhân chỗ hở mà đánh. Nếu giặc đánh vào chi hữu th́ binh cơ ứng địch cũng theo phép ấy.

 

Chu thiên đệ tam biến (tứ tượng) th́ chia quân mỗi dây lại tách làm hai dây mà tiến. Cho nên chi tả nội th́ đệ nhất là trận Phong, đệ nhị là hai đội hiệu Tả dinh Trung (trong 4 đội đă trích hai đội biến làm 2 đội hiệu Ngoại tả), 2 đội hiệu Nội tả (4 đội đă trích bổ 2 đội cho đại tướng), đệ tam là 2 đội hiệu Ngoại tả, đệ tứ là trận Xà. Chi hữu nội th́ đệ nhất là trận Điểu, đệ nhị là 2 đội hiệu Hữu dinh Trung (trong 4 đội đă trích hai đội biến làm 2 đội hiệu Ngoại hữu), 2 đội hiệu Nội hữu (4 đội đă trích bổ 2 đội cho đại tướng), đệ tam là 2 đội hiệu Ngoại hữu, đệ tứ là trận Thiên. Chi tả ngoại đệ nhất là du binh bổ khuyết, đệ nhị là trận Long, đệ tam là trận Vân, đệ tứ là du binh bổ khuyết. (Du binh trên đó có 12 đội th́ tách làm 3 đội nội tả du binh, 3 đội ngoại tả du binh, 3 đội bổ khuyết du binh, c̣n 3 đội th́ lui xuống bổ khuyết cho sau trận). Chi hữu ngoại đệ nhất là du binh bổ khuyết, đệ nhị là trận Địa, đệ tam là trận Hổ, đệ tứ là du binh bổ khuyết (du binh trên đó 12 đội th́ tách làm 3 đội nội hữu du binh, 3 đội ngoại hữu du binh, 3 đội bổ khuyết du binh, c̣n 3 đội th́ lui xuống bổ khuyết cho sau trận). Nếu gặp giặc th́ đại tướng đánh một tiếng chiêng, bắn một tiếng súng hiệu, hết cả biến làm trận vuông, bốn phương bốn góc, bốn chính bốn kỳ. Hiệu Tả hiệu Hữu theo hiệu lệnh của cờ đại tướng mà biến. Ví như hai bên tiếp nhau, dùng trận vuông để đánh, th́ đại tướng đánh chín tiếng trồng, cầm cờ đỏ phất lên th́ trận Điểu ra đánh. Đại tướng lại cầm cờ lục cờ vàng phất lên, đánh hai tiếng chiêng th́ trận Phong trận Địa ra đánh, lại đánh ba tiếng trống, cầm cờ xanh cờ trắng phất lên th́ trận Long trận Hổ tiếp đánh. Đại tướng cầm cờ vàng cờ trắng phất lên, đánh sáu tiếng chiêng th́ trận Vân trận Thiên ra đánh. Lại cầm cờ đen phất lên, đánh một tiếng trống, th́ trận Xà tiếp ứng. Nếu trận Điểu bất lợi th́ hiệu Nội dinh Trung tiếp ứng. Nếu trận Phong bất lợi th́ hiệu Nội hữu và hiệu Hữu tiếp ứng. Trận Long bất lợi th́ hiệu Tả tiếp ứng. Trận Vân bất lợi th́ hiệu Nội tả và hiệu Tả tiếp ứng. Trận Xà bất lợi th́ hiệu Hữu và hiệu Nội hữu tiếp ứng. C̣n du binh th́ bày như h́nh bán nguyệt, một thuận một nghịch để xung đột thế giặc. Đây là thế trận vuông.

 

Nếu ở đồng bằng nội rộng th́ kết trận tṛn: Đệ ngũ biến trận tṛn. Đại tướng phải dùng cờ vàng cùng cờ bát quái, cờ ngũ sắc, cùng các thứ chiêng trống và lệnh tiễn để làm hiệu lệnh. trận Điểu th́ dùng cờ Điểu, trận Phong th́ dùng cờ Phong, trận Long th́ dùng cờ Long, các trận khác cũng như thế. Nếu là hiệu Tả th́ dùng cờ Nhật, hiệu Hữu th́ dùng cờ Nguyệt, hiệu Nội tả th́ dùng cờ Dương, hiệu Nội hữu th́ dùng cờ Âm, như hai đạo du binh th́ dùng cờ Giác, Cang, Tâm, Vĩ, Chi, Pḥng, Cơ, Đẩu. Không nên lẫn lộn với cờ tướng. Như bốn trận Long, Hổ, Điểu, Xà th́ dựng cờ lệnh Chấn Đoài Khảm Ly của đại tướng, bốn trận Thiên, Địa, Phong, Vân th́ dùng cờ lệnh Càn Khôn Tốn Cấn của đại tướng. Nếu là du binh th́ theo lệnh liễn của đại tướng, không được trễ nải thất thố. Cho nên Binh pháp nói rằng hiệu lệnh “sáng như lửa đuốc, dữ như sấm sét” nghĩa là thế đấy. Khi xuất chiến th́ đại tướng cầm bốn cờ Khảm Ly Chấn Đoài phất lên, đánh một tiếng trống, th́ trận Điểu trận Xà ra đánh mà trận Long trận Hổ giáp đánh. Nếu bốn cờ Càn, Khảm, Tốn, Cấn phất lên, đánh một tiếng trống, th́ trận Thiên trận Địa ra đánh, mà trận Phong trận Vân giáp đánh. Nếu trận Điểu gặp giặc th́ trận Địa trận Phong giáp đánh ở tả hữu, trận Long gặp giặc th́ trận Phong trận Vân giáp đánh ở tả hữu, trận Hổ gặp giặc th́ trận Thiên trận Địa giáp đáng ở tả hữu, trận Xà gặp giặc th́ trận Thiên trận Vân giáp đánh ở tả hữu. Ví như rắn Thường-sơn đánh vào giữa th́ đầu đuôi đều ứng. Thế là phép hai kỳ một chính.

 

C̣n du binh th́ bày trận h́nh sao Đẩu để đặt quân phục mà đánh úp. Song trong du binh cũng có hiệu cờ ngũ hành, ví như lúc thăm đường, nếu đằng trước gặp núi rừng th́ dựng cờ Mộc để báo, đằng trước có sông chắn th́ dựng cờ Thủy để báo, đằng trước có khói lửa th́ dựng cờ Hỏa để báo, đằng trước có thành quách g̣ đá th́ dựng cờ Thổ để báo, đằng trước có binh mă, th́ dựng cờ Kim để báo. Đấy là ư trên dưới giao tiếp, trong ngoài giao thông của Binh pháp.

 

Nếu gặp chỗ đất gập ghềnh hiểm trở th́ biến làm trận cong: Tiểu Chu thiên đệ lục biến, trận cong. Đại tướng đánh một tiếng chiêng, cầm cờ vàng phất lên th́ trận Phong trận Vân ra đánh; đánh ba tiếng trống, cầm cờ vàng phất lên hai cái, th́ trận Thiên trận Địa ra đánh; đánh ba tiếng chiêng, cầm cờ vàng phất lên ba cái, th́ trận Điểu trận Long ra đánh; đánh bốn tiếng trống, cầm cờ vàng phất lên bốn cái, th́ trận Hổ trận Xà ra đánh. Đấy là phép chính kỳ xen nhau trong Binh pháp.

 

Nếu gặp chỗ đường cái rộng lớn th́ nên bày trận thẳng: Tiểu Chu thiên đệ thất biến, trận thẳng. Đại tướng đánh bốn tiếng trống, cầm cờ xanh phất lên bốn cái th́ trận Điểu ra đánh, mà các trận Phong Vân Long Hổ giáp đánh; đánh ba tiếng chiêng, cầm cờ xanh phất ba cái, th́ trận Địa ra đánh, mà các trận Điểu Phong Thiên Hổ giáp đánh; đánh hai tiếng trống, cầm cờ xanh phất hai cái, th́ trận Hổ ra đánh, mà các trận Điểu Địa Xà Thiên giáp đánh; đánh một tiếng trống, cầm cờ xanh phất một cái th́ trận Thiên ra đánh, mà các trận Địa Hổ Vân Xà giáp đánh. Từ tả xoay sang hữu, sau đều như thế. Đấy là phép bốn kỳ một chính trong Binh pháp.

 

Nếu như đường cong th́ nên dùng trận nhọn: Đệ bát biến, trận nhọn. Đại tướng đánh một tiếng trống, cầm cờ đỏ phất năm cái, th́ trận Long trận Điểu ra đánh, mà các trận Phong Vân Địa giáp đánh; đánh ba tiếng chiêng, cầm cờ đỏ phất bốn cái th́ trận Hổ trận Xà ra đánh; mà các trận Thiên Vân giáp đánh; đánh ba tiếng trống, cầm cờ đỏ phất ba cái, th́ trận Phong trận Thiên ra đánh, mà các trận Điểu Địa Hổ giáp đánh; đánh bốn tiếng chiêng, cầm cờ đỏ phất ba cái, th́ trận Địa trận Vân ra đánh, mà các trận Hổ Thiên Xà giáp đánh; đánh bốn tiếng chiêng, cầm cờ đỏ phất một cái, th́ trận Phong trận Địa ra đánh, mà các trận Hổ Điểu Long giáp đánh. Đấy là năm trận biến hóa.

 

Nếu như địa h́nh khuất khúc th́ biến làm trận trường xà đảo quyển: Tiểu Chu thiên đệ cửu biến. Trường xà đảo quyển. Đại tướng ở giữa, đánh một tiếng chiêng ba tiếng trống, th́ bốn trận Xà Vân Long Phong đảo lên bên tả, bày chếch như thế rắn vung, bốn trận Thiên Hổ Địa Điểu, đảo lên bên hữu, bày chếch như h́nh rắn vung, để hộ vệ đại tướng, du binh hai bên tả hữu cũng tùy thế mà bày ở ngoài. Nếu hai trận Điểu Phong gặp giặc, th́ đại tướng đánh bốn tiếng chiêng, ba tiếng trống, trận Long trận Địa ra đánh, mà các trận Vân Hổ giáp đánh, các trận Xà Thiên tiếp ứng. Đấy là phép hai kỳ hai chính trong Binh pháp.

 

Nếu là núi cao hiểm dốc, khấp khểnh gập ghềnh, sợ giặc đánh bất ngờ mà đầu đuôi không ứng nhau được th́ biến làm trận rắn dài thẳng tiến, h́nh như liên châu trường xà: Tiểu Chu thiên đệ thập biến, Trường xà liên châu. Phép này th́ trận Thiên tiến thẳng thăm đường ở đỉnh núi, nếu không có địch th́ cho người về báo mà chiếm đóng đỉnh núi. Các trận th́ theo thứ tự mà tiến. Nếu thấy có địch cũng cho người về báo, cứ từ từ mà tiến lên, không nên gián đoạn. Nếu trận Hổ bên tả không có giặc th́ cũng cho người về báo mà chiếm đóng núi bên tả, trận Địa bên hữu không có giặc cũng cho người về báo mà chiếm đóng núi bên hữu. Các trận khác cũng cứ thế mà suy. Nếu giặc đánh vào trận Thiên th́ hai trận Hổ Địa ở tả hữu giáp đánh. Nếu giặc đánh vào trận Hổ ở núi bên tả th́ trận Địa ở núi bên hữu giáp đánh. Nếu giặc lùi th́ trận Thiên tiếp mà đánh, c̣n các trận khác cũng từ từ tiến lên chiếm đóng. Nếu giặc đánh vào trận Xà đằng sau lưng th́ các trận lấy trước làm sau, lấy sau làm trước, lấy lùi làm tiến, lấy tiến làm lùi, hết rồi lại bất đầu, thể như chuỗi hạt châu, không nên gián đoạn. Cho nên Binh pháp nói rằng “Chỗ nào đụng là đầu” nghĩa là thế đó.

 

 

*

*   *

 

TỔNG LUẬN VỀ TOÀN CHỈ CHU THIÊN.

 

Xét mười trận Chu thiên, mỗi trận 64 đội, mỗi đội 50 người mà biến hóa vô cùng. Như trận đệ nhất là trận chính Thái cực hồn thiên, trận đệ nhị là trận biến Lưỡng nghi phân khai, trận đệ tam là trận biến Tứ tượng đối xung, trận đệ tứ là biến trận vuông, trận đệ ngũ là biến trận tṛn, trận đệ lục là biến trận cong, trận đệ thất là biến trận thẳng, trận đệ bát là biến trận nhọn, trận đệ cửu là biến Trường xà đảo quyển, trận đệ thập là biến Trường xà liên châu, cộng là mười trận. Trong mười trận ấy đều có phép ngũ hành, như trận tṛn thuộc kim, trận vuông thuộc thổ, trận cong thuộc thủy, trận thẳng thuộc mộc, trận nhọn thuộc hỏa, mỗi trận 64 đội, mỗi đội cũng biến thành năm trận là vuông, tṛn, cong, thẳng; nhọn, cộng là 320 trận, cùng với 10 trận ở trên là 330 tràn, cùng du binh 24 đội tức là biến thành 354 trận. V́ số Chu thiên là 365 độ, cho nên gọi là trận Chu thiên.

 

Xin đem một đội mà nói, để biết. Trong số 50 người, biến chia làm 9 trận, trận Điểu 5 người, trận Phong 5 người, trận Vân 5 người, trận Long 5 người, trận Xà 5 người, trận thiên 5 người, trận Hổ 5 người, trận Địa 5 người, cộng 40 người. Hiệu Tả 2 người, hiệu Nội tả 2 người, hiệu Hữu 2 người, hiệu Nội hữu 2 người. Cũng là một đội mà biến. C̣n các đội khác cũng theo đấy mà suy.

 

C̣n du binh 24 đội, th́ biến thành 24 trận chữ nhất, cùng với trận Hai cánh uyên ương và 5 trận vuông, tṛn, cong, thẳng, nhọn, trận Thất đẩu, trận Ngũ hành, trận Khúc đẩu, trận Đảo quyển, trận Liên châu, cộng 35 trận. Trong mỗi trận có đủ sáu thế, một là long phi, hai là hổ cứ, ba là điểu tường, bốn là xà bàn, năm là phong dương, sáu là vân thùy1. Ví như trận Phong gặp giặc mà trận Địa trận Vân giáp đánh, thế như hai cánh chim, cho nên gọi là thế điểu tường. Thế này rất dễ đánh úp giặc. Nếu trận Long trận Hổ chia làm hai chi mà tiến th́ gọi là thế phong dương, thế này dễ xuyên vào trận giặc. Nếu trận Xà ở sau trận mà đột xuất đánh một ḿnh, các trận tùy thế mà chuyển, th́ gọi là thế long phi, thế này dễ diệt giặc. Nếu trận Vân trận Thiên chia làm hai đạo mà chuyển tiến để quanh đánh bên tả bên hữu, th́ gọi là thế xà bàn, thế này dễ ṿng quanh giặc. Nếu trận Điểu ra đánh, giả cách thua chạy, khiến du binh phục để đánh úp th́ gọi là thế hổ cứ, thế này dễ cướp giặc. Nếu trận Điểu ra đánh, trung quân phục để đợi dụ giặc vào giữa ḷng rồi bốn mặt xúm quanh mà đánh, thế gọi là thế vân thùy, thế này dễ vây giặc. Phàm sáu thế ấy rất dễ dùng để đánh.

 

C̣n như đặt phục ra kỳ th́ dùng thế âm dương đắp đổi. Thế này lấy nhàn mà đợi nhọc. Như đại tướng cầm cờ vàng phất măi, chiêng trống đánh liền, th́ bốn trận Long Hổ Xà Điểu ra đánh, phút chốc lại thấy ngả cờ im trống, tất là quân lui. Lại một chốc cờ trống rầm trời, th́ bốn trận Thiên Địa Phong Vân ra đánh, ít lâu cũng lui. C̣n hiệu Tả th́ tiếp ứng các trận Thiên Địa Phong Vân, hiệu Hữu th́ tiếp ứng các trận Long Hổ Điểu Xà, một tiến một lui, hết rồi lại bắt đầu, một động một tĩnh, luân chuyển vô cùng. Đấy là thế âm dương đắp đổi.

_______________________________________

1. Rồng bay; Cọp ngồi; Chim liệng; Rắn cuộn; Gió nổi; Mây rủ.

 

 

 

*

*   *

 

YẾU LUẬN VỀ GIÁO TRƯỜNG DIỄN TRẬN.

 

Phép tập trận ở giáo trường, trước hết phải theo hiệu lệnh của tướng. Nếu tướng lệnh không nghiêm, ba quân không chỉnh, th́ làm sao tập trận mà biến hóa được. Cho nên xong ba hồi chiêng trống của đại tướng rồi th́ đại tướng cùng bốn hiệu và các tỳ tướng cùng tiến, chia làm tám vị mà tiến. C̣n du binh th́ chia làm hai đạo tiếp sau mà tiến. Chia binh như thế xong rồi, hễ hiệu cờ bát quái của đại tướng phất lên một cái và đánh một tiếng trống th́ bốn trận Long Hổ Điểu Xà cùng cất cờ hiệu, và bốn trận Thiên Địa Phong Vân cùng cất cờ hiệu bày làm trận vuông. Xong rồi, du binh biến làm h́nh bán nguyệt, mỗi người cách nhau một bước. C̣n trong 8 trận th́ mỗi trận cách nhau 100 bước, chia làm 8 cửa. Đấy là Binh pháp nói “trong trận có khách trận, trong đội có khách đội”. Thấy đại tướng cầm cờ vàng phất hai cái và nghe đánh hai hồi chiêng trống xong, th́ các trận biến làm trận tṛn. Nếu cờ vàng phất ba cái và chiêng trống đánh ba hồi th́ các trận biến làm trận cong. Nếu cờ vàng phất bốn cái và chiêng trống đánh bốn hồi th́ các trận biến làm trận thẳng. Nếu cờ vàng phất năm cái và chiêng trống đánh năm hồi, th́ các trận biến làm trận nhọn. Biến hiệu của các trận khác cũng y theo trận vuông trước. Thế là hiệu lệnh của đại tướng là ở bốn kỳ, hiệu lệnh của bốn kỳ là ở bốn chính mà biến năm trận. Xong rồi, chợt thấy đại tướng cầm cờ ngũ sắc phất một cái và nghe đánh một tiếng trống, th́ các trận đều dậy; nếu cờ ngũ sắc phất hai cái, trống đánh hai tiếng th́ các trận đều tiến; nếu cờ ngũ sắc phất ba cái, trống đánh ba tiếng th́ các trận đều tiến gấp; nếu cờ ngũ sắc phất bốn cái, trống đánh bốn tiếng th́ các trận đều lên trước. Ví như lúc giao chiến đang say chợt cờ bát quái phất một cái và thổi một tiếng c̣i th́ các trận tiến về phía đông, cờ phất hai cái và c̣i thổi hai tiếng th́ các trận tiến về phía nam, cờ phất ba cái và c̣i thổi ba tiếng th́ các trận tiến về phía tây, cờ phất bốn cái và c̣i thổi bốn tiếng th́ các trận tiến về phía bắc, cờ phất năm cái và c̣i thổi năm tiếng th́ các trận đều về. Nếu nghe đánh lẻ một tiếng chiêng th́ các trận băi chiến, đánh hai tiếng chiêng th́ các trận đều đứng, đánh ba tiếng chiêng th́ các trận đều quay lưng lại, đánh bốn tiếng chiêng th́ các trận đều lui, đánh năm tiếng chiêng th́ các trận đều về nguyên vị mà đứng, không được làm rối loạn. Ví như trận vuông thấy đại tướng cầm cờ vàng phất một cái, nghe đánh một tiếng trống, th́ trận Địa giơ cờ hiệu lên mà trận Điểu ra đánh; cờ vàng phất hai cái, trống đánh hai tiếng th́ trận Hổ giơ cờ hiệu lên trước mà trận Địa ra đánh; cờ phất ba cái trống đánh ba tiếng th́ trận Long giơ cờ hiệu lên trước mà trận Phong ra đánh. Các trận khác đều theo như thế.

 

Lại như trận tṛn, thấy đại tướng cầm cờ vàng phất 2 cái, nghe đánh chiêng 2 tiếng th́ trận Điểu trận Địa ra đánh, cờ phất 3 cái, trống đánh 3 tiếng th́ trận Phong trận Long ra đánh. Hiệu lệnh các trận khác cũng theo bốn trận này mà suy.

 

Lại như trận cong, thấy đại tướng cầm cờ vàng phất 3 cái, nghe đánh chiêng 3 tiếng th́ trận Vân trận Địa đều giơ cờ hiệu, mà trận Điểu trận Xà ra đánh; cờ phất 4 cái, chiêng đánh 4 tiếng th́ trận Phong trận Thiên đều giơ cờ hiệu, mà trận Long trận Hổ ra đánh. Các trận khác cũng theo bốn trận này mà suy.

 

Lại như trận thẳng, thấy đại tướng cầm cờ vàng phất 4 cái nghe đánh trống 4 tiếng th́ trận Long trận Xà đều giơ cờ hiệu, mà trận Phong trận Vân ra đánh; cờ phất 5 cái, trống đánh 5 tiếng th́ trận Điểu trận Hổ đều giơ cờ hiệu, mà trận Thiên trận Địa ra đánh. Các trận khác cũng theo hiệu lệnh ấy mà đánh.

 

Lại như trận nhọn, thấy đại tướng cầm cờ vàng phất 5 cái, nghe đánh chiêng 5 tiếng th́ trận Điểu ra đánh; cờ phất 6 cái, trống đánh 6 tiếng... Các trận khác cũng theo hiệu lệnh ấy mà đánh.

 

C̣n như hiệu Tả th́ trông cờ Dương mà ứng, hiệu Hữu th́ trông cờ Âm mà ứng. Đến như du binh th́ xem lệnh tiễn của đại tướng. Nếu lệnh tiễn phóng một cái th́ 4 đạo Dác, Cang, Chi, Phong ra tiếp ứng; lệnh tiễn phóng 2 cái th́ 4 đạo Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu ra tiếp ứng; lệnh tiễn phóng 3 cái th́ các đạo du binh đều tiếp ứng.

 

Đánh ngày th́ dùng hiệu cờ, đánh đêm th́ dùng hiệu đèn. Quân các trận ra dinh, cờ sắc ǵ, quần áo ǵ, phải cho ba quân tai nghe mắt thấy, ngày thường thuộc sẵn để đến khi ra trận th́ như thân sai cánh tay, cánh tay sai ngón tay, mạch lạc quán thông, ai dám không theo. Cho nên Gia-cát nói rằng phép đồ trận phải hiệu lệnh nghiêm minh, bộ khúc chỉnh tề, cùng hàng ngũ bộ số, trước sau tả hữu, tiến lui đánh đâm, cái ǵ cũng thuộc kỹ. Người dũng không thể tiến một ḿnh, người nhát không thể lui một ḿnh, cùng ḷng cùng sức, cùng phù tŕ nhau. Cho nên 5 người làm một ngũ, 50 người làm một đội, nếu một người xông lên đánh giặc mà bốn người không cứu, một ngũ gặp nguy mà chín ngũ đứng nh́n, th́ theo quân pháp mà trừng trị. Dẫu người bách tính lạ nhau cùng quân ô hợp cũng thân nhau như anh em cha con, có ai dám trái lệnh phạm pháp đâu.

 

C̣n như người chấp nhất, học phép Thái ất kỳ môn, đem ba quân bày các trận mà phương không biết, chế độ không xét, chỉ câu nệ vượng tướng cô hư1, thiên quan thời nhật2, mà về đạo làm tướng th́ mờ mịt không hiểu ǵ, thế th́ có khác ǵ sa xuống vực sâu, ngă vào hang tối, tất là bại binh tổn tướng, có dùng làm ǵ. C̣n ai nghe lời ta đây th́ hẳn là trăm đánh trăm thắng.

 

Lại xét về chân trận, cũng có phương lược chắc chắn. Ví như trận vuông, th́ trước sai trận Xà trận Điểu ra đánh, rồi sai trận Long trận Hổ giúp nhau, th́ 4 trận Thiên, Địa, Phong, Vân cũng kết làm 8 trận mà đứng. Nếu là trận tṛn th́ trước sai trận Thiên trận Địa ra đánh, rồi sai trận Phong trận Vân giáp đánh, th́ 4 trận Long Hổ Xà Điểu cũng kết làm 8 trận mà đứng. Mỗi một trận 6 đội nên chia đôi ra lấy 3 đội làm một trận, th́ các nửa trong 4 trận cũng thành 8 trận. Các trận khác cũng theo đấy mà suy.

_______________________________________

1. Vượng tướng cô hư: Chữ của đạo gia nói hành nào th́ vượng về chi nào.

2. Thiên quan thời nhật: Giờ ngày do Thiên quan xem.

 

 

 

*

*   *

 

YẾU PHÁP PHÁ TRẬN.

 

Phàm phép phá trận, đời xưa vẫn có. Nhưng phải có phương lược, nếu không có phương lược th́ phá sao nổi. Ví như bên địch bày trận vuông, trước sai trận Điểu ra đánh, rồi sai trận Phong trận Địa tiếp đánh, th́ ta bày trận tṛn, trước sai hai trận Xà Điểu đón đánh, rồi sai bốn trận Long Hổ Thiên Địa tiếp đánh. Như thế th́ họ có một mà ta có hai, lo ǵ chẳng phá được trận. Các trận khác cũng theo đấy mà suy.

 

 

 

*

*   *

 

 

Tổng b́nh về tập Địa

 

Kiêm-trai xét: Loan-khê xử sĩ dẫn lời bàn của Tùng-cúc chủ nhân nói rằng: Sách Quăng nghĩa nói thể đặt không dày th́ chở muôn vật nặng không mang nổi, cho nên Kinh Dịch nói Khôn (đất) dày chở vật, đức lớn không có bờ nào, là nghĩa thế đấy. Xem như đất đặt núi sông để ngăn Di Địch, định phong cương để dựng muôn nước, công đức biết là dường nào. Lại có núi cao chót vót, sóng dữ sục sôi, xem như cửa Kiếm-các1, cửa Hào-hàm, dẫu có đường ruột dê đường chân chim mà quân giáo đồng ngựa sắt, cũng khó bay nhảy vào được. Lại xem ḍng sông Trường-giang, sóng biển Bột-hải, dẫu có sức buồm nhẹ chèo mau mà cái nạn đắm thuyền đuối người vẫn chưa khỏi sợ. Đấy đều là đất đặt núi sông để giữ vững vậy. Tôi đọc sách Hổ trướng khu cơ đến Tập Địa th́ vỗ sách mà than rằng: Xem thành hiện xưa đặt ra trận pháp, như các trận Tiên thiên Hà đồ, Bát môn kim tỏa, cùng các trận Chu thiên tựa hồ đương chỗ đồng bằng nội rộng mà đột ngột nổi lên ngũ hồ ngũ nhạc, chín châu bốn biển, dẫu có ngh́n môn vạn hộ, bốn mặt tám phương, nhưng trong ấy hiểm trở kín đáo thế không lọt được cái kim, ví dù quân giặc trăm vạn, dơng tướng ngh́n viên cũng không làm ǵ nổi. Thế mới biết Gia-cát tiên sinh học trận pháp có thể bảo là đức ngang với trời, công ngang với đất vậy. Chỉ thấy chín sao rơ ràng, tám cửa ám hợp, chiếm cơ quan của trời đất, cướp tạo hóa của phong vân, trước sau bày thế Điểu Xà, tả hữu chia h́nh Long Hổ; bính đinh đội trước, như muôn tia lửa nóng đốt non; nhâm quư theo sau, như ngh́n đợt sóng cuộn ngập đất; thế tả xoay vần thanh khí; h́nh hữu soi suốt bạch quan; khôn thổ chỉ chiếm trung ương; hoàng đạo toàn theo mậu kỷ2. Kể trong tám cửa, đủ phần hai mươi tám sao; các trận bốn phương, ẩn cả sáu mươi tư quẻ. Quanh quanh quẩn quẩn, rối ren đội ngũ biến trường xà; chỉnh chỉnh tề tề, im lặng uy nghi như phục hổ; trận Mai hoa một xung một đột; trận Tam tài hoặc trước hoặc sau. Chẳng phải khoe bát trận thành công; chẳng phải nói lục thao thủ thắng. Học th́ học diệu kế của Khổng-minh; dùng th́ dùng thần cơ của Lă Vọng. Nếu không phải tiên núi Bạch-hạc truyền phép diệu, th́ làm sao rồng bay lên trời giúp công to?

____________________________________

1. Cửa ải ở tỉnh Tứ-xuyên ngày nay.

2. Mậu kỷ là thổ, thuộc trung ương.

 

 

HỔ TRƯỚNG KHU CƠ

 

 

 

QUYỂN III

 

TẬP NHÂN

 

 

 

YẾU CHỈ VỀ TƯỚNG

 

Phàm đạo làm tướng, có tám điều cốt yếu: Một là dốc nhân, hai là minh nghĩa, ba là cẩn tín, bốn là trí tuệ, năm là minh triết, sáu là tài năng, bảy là cương dũng, tám là uy nghiêm. Trong tám điều ấy, lấy chí thành làm chủ. Cho nên Kinh Dịch nói rằng: “Chí thành là đạo trời, giữ thành là đạo người, chưa thấy có thành mà lại không cảm động được ḷng người”. Cho nên làm tướng có tám điều cốt yếu ấy, nếu đem ḷng chí thành để giữ ǵn, th́ trên có thể giúp đỡ xă tắc chia phần lo việc với vua; dưới có thể giữ mệnh ba quân, cứu nhân dân trong cảnh khổ.

 

Nhân làm đầu mọi nết tốt, là đức của ḷng người, đạo trời lấy làm đầu, đạo người lấy làm gốc. Cho nên, thể th́ yên lặng như núi, dụng th́ mạnh mẽ khó đương. Nếu làm tướng mà không dốc ḷng nhân th́ lấy ǵ để cố kết nhân tâm cho giặc phục? Cho nên người xưa nói “Không sợ thế giặc đương cường, chỉ sợ ḷng dân đă hở”, là nghĩa thế đấy.

 

Nghĩa là lẽ phải có việc để kiềm chế ḷng người. Không có nghĩa th́ việc làm mất lẽ phải, người người tạm bợ. Cho nên làm tướng tất trước phải biết nghĩa. Nghĩa đă rơ th́ có thể hết trung báo ơn nước, xử sự đúng lẽ mà duy tŕ được ḷng người. Ngày xưa Nhạc Nghị làm tướng nước Yên mà người nước Tề phục là có nghĩa, cũng bởi thế đấy. Nếu làm tướng không biết nghĩa chính đại mà cầu lợi lặt vặt, th́ người thất phu thất phụ vác cày bừa mà đuổi đi, c̣n đánh giặc làm sao được.

 

Tín là của báu của nhà nước, là gốc dễ của muôn việc, dẫu giống vật ngu si cũng biết cảm động. Cho nên cổ nhân cảm động lợn cá1, bắn xuyên hổ đá2, há chẳng bởi ḷng thành tín sao? Tấn Văn công không tham lợi đánh ấp Nguyên3, Tề Hoàn công không trái hẹn với Tào Mạt4, rồi làm nên bá nghiệp được. Trọng Do nửa lời xử án5, Nhạc Nghị một lữ phá Tề6, đều bởi có tín đấy thôi. Cho nên thánh nhân nói rằng “Bỏ việc ăn, bỏ việc quân, duy tín không thể bỏ được”, th́ biết tín là của báu không thể khinh. Lúc b́nh thời c̣n như thế nữa là lúc loạn! Cho nên làm tướng mà cẩn tín th́ chính lệnh đưa ra, vững như vàng đá, tin như bốn mùa, không ai dám có ḷng ǵ khác. Nếu làm tướng mà bất tín, th́ trên dưới hai ḷng, quân cơ mất nhịp, dẫu đứa trẻ năm thước cũng chẳng vui ḷng, nữa là nước giặc sao!

_________________________________

1. Lợn cá: Kinh Dịch, quẻ “Trung phu” nói “Lợn cá cũng tin” là ḷng thành tín cảm động đến cùng, v́ lợn cá là giống vật ngu mà c̣n cảm động được.

2. Bắn hổ đá: Hán thư chép Lư Quảng đi săn thấy ḥn đá ở trong cỏ, nghĩ là con hổ, giương cung lên bắn, bắn trúng, đến sau thấy chỉ là ḥn đá mà tên vào đá ngập vè, lại bắn lần nữa th́ tên không cắm đá nữa.

3. Ấp Nguyên: Tấn Văn công đem quân đi đánh Nguyên, hẹn cho quân đem lương ăn 3 ngày, 3 ngày không hạ được, cho quân về. Ấp Nguyên phục là thành tín mà hàng.

4. Tào Mạt: Tề Hoàn công hội với Lỗ hầu. Tào Mạt là tướng Lỗ, cầm gươm hiếp Hoàn công. Hoàn công hẹn trả lại đất cho nước Lỗ, sau Hoàn công toan không trả, Quản Trọng can rằng: Muốn thành nghiệp bá, phải giữ lời hứa. Hoàn công bèn trả đất cho nước Lỗ.

5. Xử án: Trọng Do, tức Tử Lộ là người dũng tin, cho nên nói nửa lời cũng đủ kết xong việc án.

6. Nhạc Nghị làm tướng nước Yên, đi đánh nước Tề, v́ có tín nghĩa nên năm nước láng giềng giúp quân cho, mới đánh nổi nước Tề.

 

 

Trí là cái ǵ cũng biết. Nếu có trí tuệ th́ việc thiên hạ, dầu việc rất nhỏ trông qua cũng biết nữa là việc binh. Cho nên làm tướng có trí tuệ th́ vận dụng đúng mực, kinh quyền hợp nhịp, mà cơ biến trong phút chốc xử trí dễ như trở tay, dẫu quỷ thần cũng không thể lường, huống chi là người! Nếu làm tướng mà không trí tuệ th́ nhấc một góc, ba góc vẫn không nổi được, trong lúc xử sự chỉ như người đánh dấu mạn thuyền để t́m gươm. Lúc lâm cơ th́ khác nào sừng dê húc giậu, dầu có quân trăm vạn mạnh như Mạnh Bôn, Ô Hoạch1 cũng ngồi mà chờ chết, huống chi là trong lúc thảng thốt! Cho nên Kinh Dịch nói “Đệ tử dư thi2, đột như, kỳ lai như, phần như3, tử như, khí như4, khấp huyết liên như5”, những lời ấy có sai đâu.

 

Minh là tự ḷng ḿnh sáng thiêng không mờ tối, cho nên đối với việc thiên hạ dẫu nhỏ như mầm mống hào lư đều hiểu rơ hết. Phàm những lời gièm pha thấm thía, những lời vu cáo quanh co mà không nhận thức như kẻ không trông thấy cả xe củi, th́ đều không phải là thế bản nhiên. Cho nên làm tướng phải minh triết, để pḥng việc nhỏ, th́ trong khoảng cơ biến c̣n rơ ràng ở trước mắt, huống là t́nh h́nh bên địch. Kinh Dịch nói “Quân tử biết mềm biết rắn, biết nhỏ biết lớn, biết cơ là thần rồi; giao thiệp với người trên không nịnh, giao thiệp với người dưới không nhờn mà minh triết giữ ḿnh”, là nghĩa thế đấy.

 

Tài năng là phẩm quư của người mà rất khó được. Phàm người có tài, mở trời xoay đất, giúp nước yên dân, th́ thiên tử không bắt làm tôi được, chư hầu không đem làm bạn được. Nếu người làm vua mà không thành kính tận lễ ba lần đến đón th́ không được gặp. C̣n những tài nhỏ tầm thường, sàn sàn hèn mọn, văn không đủ giúp nước, vơ không đủ yên dân, mà dùng làm việc quân th́ là đem quân trăm vạn mà xô xuống ng̣i rănh thôi, trông cậy ǵ được.

 

Cương th́ không bị dụ v́ lợi, mà dũng cũng nhờ vào đấy, thấy điều nghĩa là làm ngay, lâm sự th́ thận trọng, như Thang Vơ một lần nổi giận mà thiên hạ được yên, thế mới là đại dũng. C̣n những người mặc áo giáp cầm giáo sắc, đánh tan trận giặc, bẻ găy mũi nhọn, và múa gươm quắc mắt, đó chỉ là dũng huyết khí, không phải là đại dũng quân tử. Cho nên làm tướng mà không cương dũng th́ bị dụ v́ lợi, thấy lợi là làm, mà ba quân không cử động chân tay được.

 

Nghiêm là việc cốt yếu của binh gia, bởi v́ quyền hành cơi ngoài về tay đại tướng. Người xưa nói “Tướng ở ngoài, mệnh vua cũng có điều không theo”, là nghĩa thế đấy. Làm tướng mà không uy nghiêm th́ quân sĩ dọc ngang, ba quân trễ nải, dầu chỗ đất bé nhỏ như nốt ruồi viên đạn cũng không đánh lấy được, huống là đối với giặc mạnh! Cho nên làm tướng trước phải hiệu lệnh nghiêm minh, ba quân chỉnh túc, giữ th́ bắt chước Chu Á-phu đóng quân Tế-liễu, lệnh th́ bắt chước Tôn Vơ tử luyện tập nữ binh. Như thế th́ sĩ tốt khi đánh giặc dẫu chết cũng không dám lui, ba quân ra trận, nếu lâm nguy càng hăng hái, dẫu giặc khỏe như gốc quánh thớ dai c̣n không đủ sợ, huống là đám giặc cỏ như đàn ong lũ kiến. Cho nên nói rằng làm tướng phải lấy uy nghiêm làm việc cốt yếu.

______________________________________

1. Mạnh Bôn, Ô Hoạch: Hai người dũng sĩ đời Tần Vũ vương.

2. Đệ tử dư thi: Con em chết xác chở đầy xe. (Kinh Dịch, Quẻ Sư hào lục ngữ).

3. Đột như, kỳ lai như, phần như: Nếu cương táo bất trung th́ thế cương đột đến, bức bách người trên như lửa đốt. (Kinh Dịch, Quẻ Ly hào cửu tứ).

4. Tử như, khí như: Đốt như thế tất có họa hại cho nên tất chết; nghịch đức như thế mọi người đều bỏ (Kinh Dịch, Quẻ Ly hào cửu tứ).

5. Khấp huyết liên như: Nơi cực hiểm mà không quân ứng viện, đến cùng chỉ khóc đổ máu mắt ra mà thôi. (Kinh Dịch, Quẻ Truân hào thượng lục).

 

 

 

*

*   *

 

PHÉP CHỌN TUỚNG LUYỆN BINH.

 

Phàm tướng là đồ quan trọng của nhà nước. Đồ cứng th́ găy, quyền trọng th́ nguy; binh là hung khí, bất đắc dĩ mới dùng đến. Cho nên binh quư tinh mà không quư nhiều, tướng cần mưu mà không cần dũng. Binh cơ không chuyên dùng một người nào, tướng quyền không chuyên giao một người nào. Bởi v́ chuyên dùng một người th́ thua, chuyên giao một người th́ mất. Cốt ở ḥa nhân tâm mà thôi. Phàm chọn người, có người ném bút nghiên mà đi lập công danh, th́ tùy tài mà bổ dùng; có người mất nhà mà thề chết, th́ trao chức mà chuyên dùng; có người đội tội mà lập công, th́ tha tội lỗi mà dùng lấy; có người bày lời mà dâng lên, th́ xem người mà dùng lời; có người bị nhục với kẻ vẻ vang mà tự sỉ, th́ xét tài mà yên ủi ḷng; có người gan dạ mà ra trận, th́ cho đi trước để thỏa ḷng. Cho nên Binh pháp nói “Cội gốc có một, là ở sai khiến người, sai người mà được chỗ cốt yếu th́ là trọng khí của miếu đường”, có phải lời nói không đâu. Phàm phép dùng th́ tùy theo tài, hỏi để nói xem trả lời có rơ ràng không, hỏi gạn cùng để xem có biến hóa không, bảo cho việc khó khăn để xem khí thế, cho uống rượu say để xem thái độ. Như thế th́ hiền ngu hay dở không thể giấu được1. Đến khi dùng, tài lớn th́ dùng làm việc lớn, tài nhỏ th́ dùng làm việc nhỏ, người hiền ngu hay dở đều không bỏ ai. Ví như dùng gỗ, gỗ tốt như kỷ tử, dẫu cao vài thước, người thợ giỏi cũng không bỏ. Cho nên Binh pháp nói “Về việc quân, năm tài không bỏ sót thứ ǵ” lời nói đáng tin thay. Như người điếc th́ chuyên việc nh́n, có thể giữ vọng lâu; người mù th́ chuyên việc nghe, có thể khiến cầm canh; người ngay không tham th́ cho giữ kho; người tham không sợ chết th́ cho đi tiên phong; người trung không mang hai ḷng th́ cho làm gián điệp. Năm tài đều dùng không bỏ sót, th́ tướng sĩ ḥa nhau, đánh một trận mà thành công. Binh pháp nói “Sĩ tốt theo mệnh, bởi v́ kính lễ hiền nhân th́ sĩ dễ đến”. Bởi v́ tính mệnh ba quân ở trong tay một tướng, tướng dùng người, như nuôi vợ con, người dũng th́ cho ăn lộc hậu, người trí th́ đem thân ủy cho, người tài th́ phong tước cho, người hiền th́ lấy lễ mà khuyến. Ví như người rét th́ cho áo mặc, người đói th́ cho cơm ăn, người ốm th́ cho thuốc uống, người chết th́ thương xót mà tống táng. Như thế th́ ḷng sĩ tốt thà chết chứ không lui để sống.

 

Binh pháp lại nói “Tướng chịu trách nhiệm lúc nguy”. Bởi v́ có lúc an th́ có lúc nguy; ăn lộc vua th́ siêng việc vua; nếu lúc an mà không lo th́ như chim yến làm tổ trên màn, như con cá bơi lội trong chậu, an thế nào được. Lúc lâm nạn th́ có tai mắt chân tay. Người không tai mắt lấy ǵ mà nghe trông, không chân tay lấy ǵ mà động tác. Cho nên người trí th́ làm tai mắt ḷng dạ, người dũng th́ làm chân tay nanh vuốt. Chớ v́ người ḿnh yêu mà tác uy; chớ v́ ḿnh có quyền mà lấn át; chớ v́ thế mà oan riêng; chớ đem thưởng cho người thân. Như thế th́ trên dưới cùng ḷng mà ba quân liều chết. Cho nên Thần kinh nói rằng “Tướng như thuyền, quân như nước, nước chở được thuyền mà cũng đắm được thuyền”. Nếu thưởng không đáng công, phạt không đúng tội, th́ ba quân đều oán. Cho nên, người có công dẫu thù cũng thưởng, người có tội dẫu thần cũng phạt; thưởng không để quá một tuần, phạt chẳng nể người thân, là nghĩa thế đấy. Cho nên Binh pháp nói “Điều cốt yếu để cho quân ḥa là ở thưởng phạt công, thủ xả minh mà thôi”. Lại nói “Tướng cần có nhiều người phụ”. Bởi v́ nhiều người phụ th́ tướng mạnh, ít người phụ th́ tướng yếu. Ví có tướng dữ như hổ lang, lại được quân như báo khuyển, tướng biết t́nh quân, quân biết ư tướng, dẫu quân nhiều đến trăm vạn, chỉ bảo cũng như chỉ bảo một người.

 

Như hành binh phải có lễ, sai người phải theo thời. Kể ra lễ là tiết văn của thiên lư, là nghi tắc của nhân sự, như người đi trước đợi người đi sau, người đi sau trông người đi trước, người bên tả đợi người bên hữu, người bên hữu đợi người bên tả; ngồi chia trên dưới, uống rượu chớ ồn ào, thấy của không tranh cướp, thấy sắc không cuống cuồng, đều là lễ cả. Thời là âm dương nóng rét, xuân hạ thu đông, sớm tối no đói. Theo thời mà sai khiến, cũng như thân ḿnh. Quư tiện dẫu khác, ḷng người giống nhau. Tướng rơ điều ấy th́ ḷng người hẳn ḥa. Được ḷng ḥa th́ Tần Việt kết làm anh em, mất ḷng ḥa th́ anh em cũng thành cừu thù. Binh pháp nói rằng “Yêu sĩ tốt như yêu gái đẹp, thần cơ không lường được; thấy sĩ tốt mà không thương th́ quân trong lắm giặc; tướng có nghĩa th́ binh có công”, là ư thế đấy.

 

Làm tướng chớ cùng ba món, mang bốn giống. Ba món là: Nói cùng lời th́ ḷng người oán, hiếu sắc đến cùng th́ trong thành loạn, dùng của đến cùng th́ thiên hạ tan. Bốn giống là giống tham th́ quân không phục, giống độc th́ quân không ḥa, giống kiêu th́ quân tất thua, giống hung th́ quyền hẳn mất. Tướng không biết như thế, sao làm cho quân ḥa được? Binh pháp nói “Ở dưới mồi thơm hẳn có cá to; ở dưới thưởng trọng hẳn có người anh dũng”. Nếu thưởng phạt không minh, dùng người không quyết, tiểu nhân làm quan ở triều đ́nh, quân tử ẩn náu ở nhà quê, th́ tướng chẳng đáng tướng, tất đem nước cho giặc. Không biết dùng người hiền th́ bị nước địch khinh. Cho nên mong người hiền như khát mong nước uống, thấy người hiền sợ tiếp đăi không kịp th́ mới phải. Binh pháp nói rằng “Áo giáp không bền, khác ǵ không mặc áo; bắn không trúng, khác ǵ không có tên bắn; có người hiền mà không biết dùng, khác ǵ không có người hiền; trong nước không ḥa, khác ǵ không có vua” là nghĩa thế đấy. Lại nói “Người trên theo lời gièm th́ kẻ dưới ĺa ḷng”. Trên dưới ĺa nhau th́ thất ḥa; thất ḥa th́ kẻ có tội cũng không sợ, người được thưởng cũng không phục, bởi v́ thưởng phạt dẫu khinh, tội t́nh rất nặng. Cầu người giỏi không bằng cầu gái đẹp là đem ḿnh cho giặc; làm tội không đáng tội là đem quân cho giặc; thưởng phạt bất minh th́ quân bất ḥa. Cho nên dùng binh lấy ḥa làm quư, lấy lễ làm đầu. Quân đóng th́ theo lễ, quân đi th́ dung uy. Cơ mưu tự khi đóng trại, ứng biến ở lúc lâm thời, thưởng phạt không nhầm, cơ biến rất đúng, th́ tự nhiên quân thắng trận.

 

Lại tướng nên bỏ tám điều tệ, chớ bỏ ba điều ḥa. Tám tệ là: kiêu mà khinh người trí, lười mà không tập, dũng mà vô mưu, tham mà ăn bẩn, rượu hỏng tính t́nh, sắc hỏng việc nước, độc mà bất nhân, chuyên mà tự đoán. Trong tám điều ấy mà mắc một điều là đem thân cho giặc. Ba điều ḥa là: ḥa với quân lính, ḥa với liêu hữu, ḥa với mấy nước láng giềng. Trong ba điều ḥa ấy nếu bỏ mất một là đem nước cho giặc. Binh pháp nói: “Tướng không có nanh vuốt; như người đói ăn thuốc độc; quân không có nghiêm lệnh, như người mù đi đêm”. Cho nên tướng phải dùng người, quân phải giữ phép mới phải. Binh pháp lại nói: “Dùng người không có phép, th́ quân sĩ xôn xao”. Bởi v́ không có phép th́ nhọc mà vô công. Cho nên dùng người có sáu cách: Một là người kiêu th́ cho đánh trước, đến đâu là tung hoành, đằng trước không thấy có giặc; đằng sau không thấy có vua, trên không nệ trời, dưới không nệ đất, tiến th́ như đất rách núi lở uy bay muôn dặm, nước địch tất phải sợ hăi. Hai là người tham th́ sai tranh lương cướp cỏ, không kể sống chết, ḷng chỉ tham lợi, lợi cho binh lương. Ba là người dũng th́ nên dùng làm chân tay đùi vế, để pḥng lúc nguy nan th́ họ liều chết. Bốn là người trung tín th́ sai làm gián điệp, sự cơ rơ ràng, đặt phục xuất kỳ, nghe lệnh tất theo, nghe trống tất đi, việc không sai trái. Năm là người già yếu th́ sai giữ kho, ngày đêm giữ cẩn thận, kẻ gian không dám xâm phạm. Sáu là người cường tráng th́ nên sai theo quân mà vận lương, gánh gạo, gánh nước, hái củi. Sáu hạng người ấy đều nên chuẩn bị cả. Cho nên Binh pháp lại nói “Chuyên hiệu lệnh, thông tin báo, chia trước sau, rơ đặt phục, truyền ra vào, vâng tiến lui, hiểu thiên thời, xét địa lợi, biện nhân ḥa” là ư thế đấy. Làm tướng trước lập thân ḿnh mà sau cho quân tập; định kế sách mà chọn nhân tài, luyện tập binh lính mà cổ lệ sĩ tốt; trí năng hơn mọi người, dũng mănh nhất tam quân, năm tài đủ cả, ba đức nắm toàn. Năm tài là nhân, trí, dũng, trung, tín. Ba đức là khoan, từ, thiện. Phàm lượng rộng như sông biển, để ḷng không mà nhận lời can, th́ gọi là khoan. Nhân thương người dưới, ơn đến ba quân th́ gọi là từ. Tài kiêm tam lược, trí đủ năm xe, th́ gọi là thiện (giỏi). Phàm người đánh giỏi vận cơ mưu ở trong màn trướng, thành công không riêng, có nhiều người giúp; quyết được thua ở lúc hành trận, động chẳng một ḿnh, tiến phải có quân. C̣n như bày trận để nắm quân lính, cắm cờ để chia đội ngũ, nổi chiêng trống để nghiêm hiệu lệnh, giăng súng đạn để vững đồn dinh, chứa chất nhiều để đủ lương cỏ, sắc gươm giáo để tránh tên đạn, ngậm tăm theo lệnh, đánh kẻng giữ dinh, công thành hiến đầu giặc, can qua luôn sẵn sàng, mệnh trời cho, ḷng người ḥa, nước láng giềng giúp, nước thù địch hàng, thế mới có thể lập công ở đương thời, để tiếng cho hậu thế.

______________________________________

1. So với chương “chọn tướng” của Binh thư yếu lược, quyển I

 

 

 

*

*   *

 

YẾU LUẬN VỀ QUÂN CƠ.

 

Quân cơ có sáu điều cốt yếu: Một là uy nghiêm, hai là hiệu lệnh, ba là chỉnh túc, bốn là tinh nhuệ, năm là tử tế, sáu là thanh liêm. Uy nghiêm là việc cuối cùng của tướng pháp, mà là việc bắt đầu của quân cơ. Vua không nhân không lấy ǵ mà sai tướng; tướng không uy không lấy ǵ mà sai quân. Tướng chỉ đông th́ không dám hướng về tây, chỉ nam th́ không dám hướng về bắc; giục tiến không dám lui, thúc lên trước giặc th́ không dám ở lại sau; nếu không theo th́ có quân pháp. Cho nên Binh pháp nói rằng “Hiệu lệnh nghiêm như sấm lớn”. Cho nên nghiêm là việc trước nhất của quân cơ.

 

Hiệu lệnh là then chốt của quân cơ, quân không có lệnh như hổ không có đầu, đến lúc cơ biến, chân tay không động tác được. Cho nên nói rằng đánh trận ban ngày th́ lấy cờ xí làm hiệu lệnh, đánh trận ban đêm lấy chiêng trống làm cơ quan. Ví như cờ phất một cái th́ tiến, cờ phất hai cái th́ lui, trống ba tiếng th́ tiến, chiêng một tiếng th́ lui, trong khoảng phương lược, cái ǵ cũng là mắt thấy tai nghe, cho nên đến lúc lâm trận, không nói mà tin, không giận mà sợ.

 

Chỉnh túc là việc gốc của quân cơ. Nếu bộ khúc rối loạn, hàng trận lộn xộn, th́ giặc coi như trẻ con, đánh dễ như bẻ cành khô, c̣n chống giặc làm sao được.

 

Tinh nhuệ tất có dũng cảm, dũng cảm tất có ḷng liều chết; có ḷng liều chết th́ vui đánh giặc mà lâm sự không sợ, xông vào giặc không lạnh ḷng, dầu quân giặc trăm vạn cũng coi bé như nốt ruồi viên đạn mà thôi.

 

Tử tế là việc thường của binh gia, không có ǵ lạ. Nhưng dùng binh mà không tử tế (nhiệm nhặt) th́ cẩu thả sơ hở, quân cơ rối loạn. Thái sơn ở trước mắt mà không trông thấy, sấm sét dậy bên tai mà không nghe thấy, làm sao có thể cử động cho đúng được.

 

Thanh liêm th́ không ham lợi. Lợi là mối đầu của hại, là triệu bại vong, cho nên Binh pháp nói “Ngày đi trăm dặm để xô về lợi th́ què thượng tướng, ngày đi năm chục dặm để xô về lợi th́ quân đến có một nửa” có phải sai đâu. Quân mà thanh liêm th́ dẫu giặc ngày ngày đem cho vàng ngọc bừa băi cũng không thèm, đứng thẳng mà nh́n vào, nữa là manh tâm cướp bóc! Đấy là việc binh cơ kiêm việc nhân nghĩa. Cho nên quân cơ lấy điều này làm điều cuối cùng.

 

*

*   *

 

PHÉP DẠY QUÂN ĐÁNH GIẶC.

 

Phàm ngày thường ước thúc, tất có quân cơ; đánh giặc xâm lăng, cũng có kế sách. Nếu không có kế sách th́ trong lúc vội vàng làm sao có thể ứng biến được. Cốt yếu có 15 phép: Một là qua chỗ hiểm pḥng nguy; hai là xét nấp phục; ba là pḥng nước độc; bốn là qua cầu phải cẩn thận; năm là dùng lửa chống lửa; sáu là lấy nhàn đợi nhọc; bảy là lấy nhọc chế nhàn; tám là nhọc nhàn đắp đổi; chín là hư trương thanh thế; mười là tránh chỗ thực đánh chỗ hư; mười một là lấy hư làm thực; mười hai là lấy thực làm hư; mười ba là pḥng gian xét biến; mười bốn là chọn đất lập dinh; mười lăm là cẩn thận thiên thời.

 

Điều thứ nhất. Ví như lấn vào cơi giạc, gặp chỗ đồng bằng nội rộng th́ nên kết trận. Nếu gặp núi sông hiểm trở, th́ sai ngay quân kiêu kỵ du binh đi trước. Nếu thấy g̣ cao rậm rạp, núi hang gập ghềnh, th́ tiền quân từ từ tiến chậm để đợi hậu quân, không được cách tuyệt gián đoạn. Đấy là yếu lược qua hiểm pḥng nguy.

 

Điều thứ hai. Nếu như đường cái dễ tiến; cũng sai du binh lên chỗ núi g̣ cao, tả hữu tiền hậu xem xét kỹ càng, nếu thấy chỗ nào chim chóc bay lên, vượn chồn chạy loạn, hoặc cây cỏ không gió mà động và bụi đất mù trời, dưới chỗ ấy hẳn có phục binh, th́ du binh quay về báo cho chủ tướng, dừng xe kết trận mà đóng lại, để đợi xem thế giặc làm sao. Đấy là yếu lược xét nấp phục.

 

Điều thứ ba. Như mới vào cho đất lạ, nước suối cũng nên cẩn thận. Nếu ḿnh chưa quen thủy thổ, không nên uống nước là một; sợ quân giặc ở trên ḍng bỏ thuốc độc vào nước là hai; nước lạ ḿnh chưa rơ tính không nên uống là ba; mùa hè nóng nực, khi độc nghi ngút, nước tự trên cao chảy uống, hoặc sắc đen mà nhiều hoa, hoặc sắc đỏ mà nhiều chất phèn, hoặc đục mà mùi chua mặn, cũng không nên uống là bốn; hoặc mùa đông mưa lũ, dưới núi nhiều khe và mạch nước phun ra, lá cây cỏ ngâm nát thành độc, cũng không nên uống là năm; hoặc đất ấy sông núi có nhiều rắn độc cỏ độc, cũng không nên uống là sáu. Nếu bất đắc dĩ phải uống, th́ sai quân chọn chỗ đất vàng, đào xuống 3 thước, lấy một ḥn đất và hùng hoàng, chu sa, mỗi thứ 1 lạng, bạch phàn 1 đồng cân, cam thảo 3 đồng cân, muối một ít, đều tán nhỏ ra bỏ vào nước quấy đều, mỗi người uống lót dạ một chén, rồi th́ sau tha hồ uống nước cũng không trúng độc. Đấy là yếu lược pḥng nước độc.

 

Điều thứ tư. Vào sâu cơi giặc, gần đến đường xung yếu, chợt thấy đất mới, trên đất cỏ khô như cháy, th́ ở dưới chỗ ấy ngờ có trá ngụy ǵ, phải ḍ xét kỹ lưỡng, rồi mới nên đi. Nếu đi qua cầu cống của giặc, th́ trước lấy đồ nặng mà chất lên thử rồi mới nên đi, không cẩn thận như thế thí sợ xảy ra tai nạn sụp đổ. Đấy là yếu lược qua cầu.

 

Điều thứ năm. Hỏa công không cần phải đợi mặt trăng phạm vào các sao Cơ Tất Dực Chẩn cũng được; nếu giặc ở dưới gió ta ở đầu gió cũng có thể dùng được. Nếu ta ở dưới gió, giặc ở đầu gió phóng lửa xuống, th́ ta cũng phóng lửa ngay, lửa của giặc đến nơi, lửa của ta đă tắt, ta nên nhắm chỗ đất đen (chỗ đă đốt cháy) mà tránh, giặc dùng hỏa công cũng không làm ǵ được. Đấy là điều cốt yếu lấy lửa chống lửa.

 

Điều thứ sáu. Xuất chiến phải xét địa h́nh, cho nên người đánh giỏi tất trước chiếm địa lợi, bày thành thế trận để đợi ra quân. Binh pháp nói “Người giỏi đánh khiến người đến mà không bị người khiến đến”, là nghĩa thế đấy. Nếu quân giặc mới đến, cờ trống chưa nghiêm, binh mă chưa chỉnh, th́ chia quân mà đánh gấp. Cho nên Binh pháp nói “Đánh như nước sông vỡ, đánh như sấm động vang”, cũng là nghĩa ấy. Nếu như đằng trước có g̣ cao rừng núi, th́ quân ta chiếm ngay lấy để làm địa lợi, nếu có giao chiến th́ lấy đấy làm chỗ phục binh, nếu có cấp bách th́ lấy đấy làm quân tiếp viện, để tiện yên ủi người ngựa của ta. Đấy là yếu lược lấy nhàn đợi nhọc.

 

Điều thứ bảy. Nếu quân giặc trước chiếm được địa lợi, hoặc núi rừng g̣ đống, hoặc đồng bằng nội rộng, mà quân ta mới đến, vội vàng chưa yên, chớ giao chiến ngay. Tức chia quân làm dương binh, nghi binh, là kế thay đổi nhau ra đánh, để chống quân giặc, đợi đến khi ngày gần tối, giặc mỏi mệt đói khát, quân muốn đánh mà tướng do dự, tướng muốn đánh mà quân dùng dằng, bấy giờ ta mới gấp sai du binh tiến thẳng lên chỗ kín bên núi mà phao tin là đánh trại giặc hoặc đi cướp lương giặc, thế th́ t́nh giặc càng ngờ vực, ḷng quân bối rối, thế trận rồi ren. Bấy giờ ta đem súng và tên lửa, nỏ khỏe, cung cứng mà đánh, đánh tả đánh hữu, đánh trước đánh sau, khiến cho quân giặc đầu đuôi không cứu được nhau. Đấy là yếu lược lấy nhọc chế nhàn.

 

Điều thứ tám. Hai bên bày trận đánh nhau, quân giặc khỏe mạnh, một tiến một lui, làm kế thay đổi nhau ra vào để quấy quân ta, mà quân ta th́ mỏi nhọc đói khát, không thể đánh được, thế th́ ta chia quân ngay làm ba đội: Đội thứ nhất làm dương binh, một thuận một nghịch, vừa đánh vừa giữ, để chống quân giặc. Đội thứ hai làm nghi binh, nghiêm chỉnh cờ xí, chiêng trống đánh luôn, để hộ vệ quân trước. Đội thứ ba th́ đặt nồi nắm cơm, bếp mỗi ngày một thêm và chứa lương cỏ để dùng gấp, ngày đêm cắt lượt. Thế là quân giặc cắt lượt nhau ta cũng cắt lượt nhau. Như thế th́ dẫu giặc đánh đêm đánh ngày quân ta cũng không mỏi mệt. Đấy là yếu lược nhọc nhàn đắp đổi.

 

Điều thứ chín. Trại giặc liên lạc dài rộng, mà binh ngựa có ít, thế là giặc hư trương thanh thế. Ta nên xuất kỳ bất ư mà đánh úp, hoặc đợi đến đêm mà cướp trại giặc; gấp sai quân giữ đường xung yếu để pḥng nó đến chụp ḿnh. Đấy là yếu lược hư trương thanh thế.

 

Điều thứ mười. Hai trận tương đương, thế như nắm sừng nhau, th́ ta ḍm giặc mà đánh trước là được. Cho nên người giỏi đánh đánh vào lúc không ngờ, đánh vào chỗ không pḥng, hoặc cắt lương của địch, hoặc chặn viện của nó, hoặc để nó đương sang sông mà đánh, hoặc đợi nó mệt mỏi tán loạn mà đánh, hoặc chặn nguồn lấy nước, hoặc chặn cả bốn ngả đường, đều do một ḷng liệu định mà thôi. Cho nên Tôn tử nói “Người giỏi đánh động ở trên chín tầng trời, tránh chỗ thực đánh chỗ hư”, là nghĩa thế đấy.

 

Điều mười một. Quân ta mới thắng, thế giặc hơi suy, mà có tin gió thổi động cờ xí, th́ đêm ấy nên pḥng giặc cướp trại. Nên gấp sai du binh đi trước phục chặn đường giặc về, rồi sai tinh binh mai phục ở chỗ kín hai bên đường. C̣n ở trong trại th́ giả làm thế yếu, hoặc cờ xí rối loạn, hàng ngũ bừa băi, giặc ắt cho là ta kiêu mà không pḥng bị, cứ xông vào không ngờ ǵ. Bấy giờ ta phát hiệu lệnh một tiếng, quân phục đều nổi dậy, quân giặc tất bị trói hết. Đấy là yếu lược lấy hư làm thực.

 

Điều thứ mười hai. Quân giặc đóng trại lâu ngày, chợt một hôm bếp nấu thêm nhiều, tất là giặc sắp bỏ trại mà trốn, cho nên giả thêm bếp nấu để đánh lừa ta. Ta lập tức sai du binh mai phục chỗ đường hiểm yếu, đợi giặc qua mà đánh, thế nào cũng được. Đấy là yếu lược lấy thực làm hư.

 

Điều mười ba. Quân gian biến trá nhiều mối, cần phái xem xét, phàm tế tác gian dối, làm cho ḷng quân sinh biến, tất là trong có cơ mưu. Hoặc dùng văn tự chế nhạo, hoặc lấy cây cỏ làm điềm tin, hoặc dùng ngôn ngữ mà thí dụ, hoặc dùng tiếng chim muông, các cơ mưu ấy là đáng sợ. Nên dùng một vài người tâm phúc, cho lẻn vào trong quân giặc giả làm bè đảng mà thám thính hư thực, th́ biết cơ biến. Đấy là yếu lược pḥng gian xét biến.

 

Điều mười bốn. Chọn đất đóng dinh, cần phải cẩn thận, cho nên người trí tướng đóng đồn đóng dinh tất chọn địa lợi. Như trước có thủy đạo, vận tải lưu thông, bên tả có núi cao, bên hữu có đồng bằng, th́ có thể đóng quân được. Nếu là chỗ sông hồ ng̣i khe, bốn mặt quanh co, th́ không nên đóng trại, sợ quân giặc cắt đứt đường đi th́ tiến lui không thông. Cho nên người trí tướng hành binh, không hướng vào g̣ cao, không đón ḍng nước, đằng trước có nước không tiến, đằng sau có khe không lui, hoặc băi sông bên tả liền sang g̣ bên hữu, hoặc một bên g̣ núi một bên sông hồ, đất ấy đều nên kiêng kỵ. Đấy là yếu lược chọn đất đóng dinh.

 

Điều mười lăm. Nếu lập trại, về mùa xuân hạ không nên đóng gần chỗ cây cỏ rậm rạp, sợ giặc tiến đánh hỏa công. Về mùa thu đông không nên đóng gần chỗ núi cao khe suối, sợ giặc thừa thế nắm nước mà chụp quân ta. Việc hành binh cũng nên cẩn thận. Đấy là yếu lược cẩn thận thiên thời.

 

 

*

*   *

 

PHÉP GIỮ THÀNH CHỐNG GIẶC1.

 

Phàm binh là hung khí. Thánh nhân nói “Lâm sự th́ lo nghĩ, hay mưu mới thành công”. Phàm lúc ngày thường, hiệu lệnh nghiêm minh, quân cơ tập thuộc, th́ đến lúc lâm sự, không đến hoang mang luống cuống, mà lúc giữ thành không đến nỗi hỏng việc. Cho nên người trí tướng lập dinh đóng trại, trước hết phải nghiêm hiệu lệnh. Như trại nào có giặc đánh vào th́ trại ấy trước nổi hiệu trống để các trại khác cũng nổi hiệu trống, làm thanh thế mà ứng xa; trại nào không có giặc th́ chỉnh bị binh mă để ứng cứu. Điều ấy đă thành lệ rồi. Trong lúc vội vàng, cơ nhanh như trở bàn tay, nếu không chuẩn bị th́ một chốc một lát, dinh trại đă không phải của ḿnh rồi. Cho nên dinh nào có giặc đến trước th́ dùng ngay hỏa phong, hỏa pháo, hỏa tiễn mà chống. Nếu quân giặc đến sát dưới thành th́ dừng móc sắt móc bay mà ném, cái ǵ cũng phải chuẩn bị trước. Nếu giặc đem rơm cỏ lấp hào th́ ta đem tên lửa quả lửa mà bắn để đốt những rơm cỏ và khí giới bằng gỗ của giặc. Giặc bắc thang mây leo lên thành, th́ ta đem gỗ đá ném xuống, bắn xuống, đốt ḷ nấu chảy sắt mà rót xuống, hoặc lấy vôi bột giấm nồng mà vung xuống. hoặc ống cát, thuốc độc mà văi xuống. Nếu quân giặc như kiến leo thành, th́ dùng đùi sắt răng sói mà đánh. Nếu giặc tay bám vào tường mà leo, th́ dùng cài đùi liền mà đánh, hoặc lấy búa mà chặt tay giặc. Nếu giặc dùng xe húc mà phá thành th́ ta dùng ṿng sắt, ṿng gỗ, dầu rái mà chống. Nếu giặc dùng thang bấu vào thành mà lên, th́ ta dùng chàng nạng mà chống. Nếu giặc dùng lừa gỗ mà đục thành th́ ta dùng xa trục, dùi sắt, đuốc đuôi én mà phá. Nếu giặc bắn súng đạn th́ ta căng màn vải mà chế. Nếu giặc dùng địa đạo mà đến đánh, th́ ta dùng phép nghe dưới đất, đào giếng mà đón, dùng hỏa cầu, pháo tích lịch và binh khí tạp mà hại. Nếu giặc lên lầu cao mà xuống thành th́ ta dùng hỏa thương hỏa tiễn mà đốt, hay là dùng ống thuốc độc mà tưới. Nếu giặc dùng hỏa công mà đốt thành th́ ta dùng túi nước, ống đất mà ném xuống, và dùng chổi gai giấp bùn mà chế. Nếu giặc đốt cửa thành th́ ta dùng cát ướt mà giập. Nếu giặc phá nữ tường đất th́ ta dùng nữ tường gỗ mà chống. Nếu giặc đánh phá cửa thành th́ ta dùng xe súng xe gươm mà chống. Các phương trên này, cái ǵ cũng rơ ràng đầy đủ, đấy là phép của cổ nhân, một bên đánh một bên giữ. Nhưng thừa thế khác nhau, xưa nay khác lối cho nên người trí tướng lâm cơ ứng biến, mầu nhiệm là ở trong ḷng, cũng không nên khư khư câu nệ. Tôn tử nói “người giỏi giữ giấu ở dưới chín lần đất”, lời ấy thực là diệu vậy.

_____________________________________

1. Lược trích phần cuối cùng của chương “Thủ thành” sách Vơ kinh tổng yếu, Tiền tập, quyển 12.

 

 

*

*   *

 

YẾU LUẬN VỀ ĐỊA THẾ1.

 

Phàm người làm tướng, trên thông thiên văn, dưới hiểu địa lư. Thiên văn là biết vận độ của nhật nguyệt tinh thần2, biết then máy âm dương rét nóng để rơ manh mối họa phúc, điềm triệu lành dữ. Địa lư là biết sự biến di của chim muông cây cỏ, biết thế hiểm dễ của núi sông hang khe, để đặt phục ra kỳ, lập dinh đóng trại. Không như học giả đời sau học thiên văn chỉ câu chấp ngày giờ tốt xấu mà không biết biến thông, học địa lư chỉ câu nệ long hổ xà tước mà không biết h́nh thế.

 

Trước có người bạn hỏi tôi rằng: Địa lư là ǵ? Tôi đáp rằng: Địa th́ có mười kiểu, bốn kiểu xấu, sáu kiểu tốt. Bốn kiểu xấu là thế nào? Một là đất thiên kháo, hai là đất tử phách, ba là đất tử trụ, bốn là đất tử ngục. Trong bốn đất ấy dẫu có trí tướng ở vào đấy cũng không làm thế nào được.

 

Bạn nói: Xin nghe h́nh thế những kiểu đất ấy.

 

Tôi đáp: Phàm bốn bề đồng bằng, giữa có thung lũng th́ gọi là thiên kháo; nên kiêng cửa thung lũng mà đừng đóng dinh, sợ giặc đánh bốn mặt mà không có lối tiến lui. C̣n chỗ bốn phương là nội rộng, trong có một núi một thung lũng th́ gọi là song thiên kháo, đất ấy th́ kiêng đầu núi, chớ đóng dinh, sợ giặc tự đằng sau qua núi mà ta mất chỗ hiểm, tiến lui đều khó, sẽ bị giặc bắt. Chỗ nào tha ma mộ địa th́ gọi là đất tử phách, sĩ tốt ban đêm hay hoảng hốt, rồi sinh bệnh tật, đó là âm cảm sinh ra. Chỗ nào bốn bên bằng phẳng, giữa có g̣ cao h́nh như cái chậu úp th́ gọi là đất tử trụ, chớ đóng dinh, một là sợ bốn phương sương gió, hai là sợ bốn mặt bị giặc. Chỗ nào bốn bề đều có g̣ núi, ở giữa bằng phẳng h́nh như cái chậu ngửa, th́ gọi là đất tử ngục, chớ đóng dinh, sợ giặc dựa cao mà đánh xuống.

 

Sáu kiểu đất tốt là ǵ? Một là thông địa, hai là quai địa, ba là chi địa, bốn là ải địa, năm là hiểm địa, sáu là viễn địa. Chỗ nào bốn phương đều có đường sá đi lại được th́ gọi là thông địa. Đất này có thể dựa vào mà đóng trại, sau có đường lương, mà tiện đường viện binh. Các ngả đường tắt th́ cần phải quan pḥng, đừng cho giặc ngầm đến. Chỗ nào quân dễ đi mà khó lại th́ gọi là quai địa. Đất này th́ sai người thám thính quân giặc, nhân lúc giặc không pḥng bị mà ta đánh úp th́ có thể phản khách làm chủ, giặc tiến lui đều khó mà sẽ bị bắt. Chỗ nào hai bên xuất chiến đều bị bất lợi th́ gọi là chi địa. Nếu có giặc trước đến khiêu chiến là giặc nhử ta, ta không nên đánh, ta nên lấy nhàn mà đợi nhọc, đợi quân giặc đến gần trại ta, ta đem quân sinh lực ra đánh, th́ tất là thắng. Đóng quân cửa thung lũng mà hai bên đều có núi cao th́ gọi là ải địa. Gặp chỗ này lập tức chia quân kết trận mà giữ cửa thung lũng để đợi quân giặc xung đột. Nếu giặc trước chiếm đất ấy, th́ ta nên kết trận ở ngoài cửa thung lũng, hai bên tả hữu đều đặt quân phục, đợi giặc ra cửa th́ ta đón mà đánh, hẳn là phải thắng. C̣n như ở chỗ cao mà đánh xuống thấp, giữ chỗ dễ đánh chỗ nguy, th́ gọi là hiểm địa. Gặp đất này th́ nên chiếm trước làm lợi. Nếu giặc chiếm được trước th́ ta lui đi, đợi cơ giặc, không nên giao chiến. Nếu hai quân cách nhau rất xa, th́ gọi là viễn địa. Nếu quân giặc khiêu chiến th́ tất có quân phục, ta nên cẩn thận.

 

H́nh thế mười kiểu đất ấy là đại lược của binh gia, c̣n như những điều nhỏ nhặt th́ không thể nói hết. Ví như chỗ gần núi cao cũng không nên đóng, là sợ trong núi có quân phục; nếu là bên cây rừng rậm rạp cũng không nên đóng, là sợ bốn phương có quân phục. C̣n như đường trước núi non khuất khúc th́ không nên khinh tiến; đường sau núi non chắn ngang, th́ không nên tiến gấp, đặt phục mà giữ, pḥng quân giặc chặn sau lưng ta. Và như trước mặt hai bên đều có núi ngăn trở, nếu quân ta đóng ở đất ấy th́ gấp sai du binh ḍ thăm đường khe bốn phía, cùng các đường tắt, đặt phục mà giữ, để pḥng giặc ngầm đến đánh ta, như thế mới là thượng sách. Cho nên đạo làm tướng tất lấy địa lư làm đầu.

 

Bạn ta nói: Mầu nhiệm thay! Ta phải viết lấy. Vậy có thơ rằng:

 

Thảng vân trí tướng thiện hành binh.

Thập pháp chi trung vật tự khinh.

Khoáng dă b́nh nguyên nghi kết trận;

Y sơn bàng thủy khả an dinh.

Dương su tu tảo pḥng hung địa;

Chấn lữ vưu đương chiếm địa h́nh.

Viễn cận hiểm di tâm tận quát;

Phong trần nhất tảo trứ phương danh.

 

(Nay xem trí tướng khéo hành binh; Mười phép trên này chớ tự khinh. Nội rộng đồng bằng nên kết trận; Dựa non bên nước khá bày dinh. Đóng quân trước hết pḥng hung địa; Cắm trại càng nên chiếm địa h́nh. Hiểm dễ xa gần ḷng thấu suốt; Phong trần quét sạch để phương danh).

_________________________________

1. So sánh với các chương “Cửu địa” và “Lục h́nh” của sách Vơ kinh tổng yếu, Tiền tập, quyển 9.

2. Nhật nguyệt tinh thần: Mặt trời mặt trăng và các v́ sao.

 

 

GIỚI THIỆU

 

 

Theo Đại Việt sử kư toàn thư, Trần Quốc Tuấn có soạn một bộ sách quân sự là Binh gia diệu lư yếu lược1 để giáo dục các tướng sĩ phép dùng binh. Lịch triều hiến chương loại chí (phần Văn tịch chí) cho biết Trần Quốc Tuấn đă soạn sách Binh gia yếu lược và sách Vạn kiếp binh thư2.

 

Nhiều người cho rằng Binh gia diệu lư yếu lược hay Binh gia yếu lược chỉ là một, cũng như Vạn kiếp tôn bí truyền thư hay Vạn kiếp binh thư chỉ là một. Nhiều người lại cho rằng Binh gia yếu lược và Binh thư yếu lược cũng chỉ là một.

 

Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cho biết Binh gia yếu lược và Vạn kiếp binh thư đă thất lạc từ lâu.

 

Ở Thư viện khoa học xă hội hiện nay có một bộ sách chữ Hán chép tay mang kư hiệu 476 đề là Binh thư yếu lược. Trang đầu bộ sách này ghi rơ rằng: “Binh thư yếu lược bốn quyển do Trần Hưng Đạo vương soạn, vương húy là Quốc Tuấn”.

 

Binh thư yếu lược mang kư hiệu 476 gồm bốn quyển. Quyển I gồm có chín chương là: 1. Thiên tướng, 2. Tuyển mộ, 3. Tuyển tướng, 4. Tướng đạo, 5. Giản luyện, 6. Quân lễ, 7. Mạc hạ, 8. Binh cụ, 9. Hiệu lệnh. Quyển II có mười một chương là: 1. Hành quân, 2. Hướng đạo, 3. Đồn trú, 4. Tuần canh, 5. Quân tư, 6. H́nh thế, 7. Pḥng bị, 8. Xem mưa gió, 9. B́nh trưng, 10. Dụng gián, 11. Dụng trá. Quyển III có bảy chương là: 1. Liệu địch, 2. Dă chiến, 3. Quyết chiến, 4. Thiết kỳ, 5. Lâm chiến, 6. Sơn chiến, 7. Thủy chiến. Quyển IV cũng có bảy chương là: 1. Công thành, 2. Thủ thành, 3. Đột vây, 4. Cứu ứng. 5. Lui tránh, 6. Được thua, 7. Đầu hàng.

 

Trong Binh thư yếu lược, th́ quyển II, quyển III và quyển IV có nhiều đoạn rút ra từ Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ3, một nho sĩ có tài kinh bang tế thế đă giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Phật) xây dựng cơ đồ hồi nửa đầu thế kỷ XVII ở Đường trong. Những đoạn này, có đoạn ghi rơ là đă rút ra từ Hổ trướng khu cơ, có nhiều đoạn tuy lấy từ Hổ trướng khu cơ, song lại không có chú thích ǵ cả. Ở quyển IV (Binh thư yếu lược) có mục “Phép làm hỏa tiễn chứa thuốc độc”; ở Hổ trướng khu cơ cũng có mục “Phép làm hỏa tiễn chứa thuốc độc”. Nguyên văn chữ Hán ở Binh thư yếu lược cũng như Hổ trướng khu cơ đều là “Hỏa tiễn trữ độc pháp”. Liều lượng các vị thuốc dùng để chế hỏa tiễn ở Binh thư yếu lược và ở Hổ trướng khu cơ giống hệt nhau. Mở đầu mục “Phép làm hỏa tiễn chứa thuốc độc” trong Binh thư yếu lược, có đoạn văn như sau: “Phàm ít không địch được nhiều, yếu không địch được mạnh, đó là lẽ thường. Nhưng Binh pháp có nói: Người giỏi đánh làm thế địch không thể thắng để đợi thế địch mà ḿnh có thể thắng. Cho nên cầm quân ba ngh́n chống giặc năm đường, phỏng ở đồng ruộng đường dài, giặc đem cả nước sang đánh, th́ lấy cái ǵ mà chống được? Nên dùng phép “hỏa tiễn chứa thuốc độc”. Đoạn văn này ở Hổ trướng khu cơ lại nhắc lại nguyên văn như thế, không sai và không thiếu một chữ nào.

_______________________________

1. Đại Việt sử kư toàn thư, t. II, tr. 82, bản dịch của Viện Sử học, Nhà xuất bản Khoa học xă hội.

2. Lịch triều hiến chương loại chí, t. IV (Văn tịch chí), tr. 120, Nhà xuất bản Sử học.

3. Có thuyết cho Hổ trướng khu cơ do Cao Khuê, môn đệ của Đào Duy Từ, căn cứ vào những điều được Đào Duy Từ truyền thụ cho mà soạn ra.

 

Trong Binh thư yếu lược có mục “Phép làm súng gỗ”, trong Hổ trướng khu cơ cũng có mục “Phép làm súng gỗ”. Trong Binh thư yếu lược có mục “Phép đốt đuốc trước gió”, trong Hổ trướng khu cơ cũng có mục “Phép đốt đuốc trước gió”, lời văn hai bên giống hệt như nhau. Về “Bí pháp làm quả nổ”, “Bí pháp làm quả mù”, “Phép chế hỏa đồng”, “Phép chế hỏa tiễn” (tên lửa), Binh thư yếu lược và Hổ trướng khu cơ cũng rất giống nhau. Nếu kể hết những đoạn, những mục giống nhau ở Binh thư yếu lược và Hổ trướng khu cơ th́ nhiều lắm. Chúng tôi chỉ đưa ra một số điểm giống nhau giữa hai bộ sách để các bạn thấy rằng giữa hai bộ sách có nhiều vấn đề cần giải quyết.

 

Binh thư yếu lược là sách được soạn ra từ thế kỷ XIII, c̣n Hổ trướng khu cơ được viết ra hồi nửa đầu thế kỷ XVII. Thời gian ra đời của hai bộ sách có một khoảng cách đến bốn trăm năm. Tại sao hai bộ sách có những đoạn, những mục giống nhau như lột? Hổ trướng khu cơ đă lấy nhiều đoạn, nhiều mục trong Binh thư yếu lược, hay ngược lại? Nếu chỉ căn cứ vào yếu tố thời gian th́ chúng ta có thể suy luận rằng khi viết Hổ trướng khu cơ, Đào Duy Từ đă rút ra nhiều tài liệu từ Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn. Nhưng nếu căn cứ vào nội dung các đoạn, các mục vừa có ở Binh thư yếu lược vừa có ở Hổ trướng khu cơ, th́ chúng ta phải kết luận rằng chính Binh thư yếu lược đă lấy nhiều đoạn, nhiều mục của Hổ trướng khu cơ. Tại sao lại như vậy? Mục “Phép chế quả nổ” trong Binh thư yếu lược cũng như trong Hổ trướng khu cơ đều nói phép làm quả nổ là của người phương Tây. Hồi thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, theo chân các thương nhân phương Tây, phép làm quả nổ được đem vào Việt-nam, cụ thể là đem vào Đường. trong trước. Hồi thế kỷ XIII, trong hai lần chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Mông-cổ chưa bao giờ Trần Quốc Tuấn dùng quả nổ đánh quân xâm lược. Hồi thế kỷ XIII chúng ta cũng chưa từng thấy quân đội nhà Trần sử dụng tên lửa (hỏa tiễn) hay tên lửa chứa thuốc độc; trong các trận đánh, chúng ta chỉ thấy quân đội nhà Trần dùng tên tẩm thuốc độc bắn quân Mông-cổ mà thôi. Như vậy rơ ràng là mục “Phép chế quả nổ”, mục “Phép làm hỏa tiễn chứa thuốc độc” cũng như ở nhiều mục, nhiều đoạn khác, đă được một nhân vật nào đó sống sau Đào Duy Từ rút ra từ Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ rồi đưa vào Binh thư yếu lược.

 

Đọc Binh thư yếu lược, chúng ta thấy nhiều đoạn không phải là của Trần Quốc Tuấn viết ra từ thế kỷ XIII. Quyển 1 chương “Tuyển mộ”, mục “Trao quyền cho tướng” viết: “Các triều Đường,Tống, Minh bị thua cũng v́ cớ đó, mà nhà Tống quá tệ, nhà Minh lại tệ hơn. Người bàn về việc nhà Tống th́ cho rằng bàn bạc nhiều mà thành công ít; người bàn về việc nhà Minh th́ cho rằng nhà Minh mất nước, không mất ở giặc cướp mà mất ở ngay từ trong cổng ngơ, không mất ở bờ cơi, mà mất ngay từ lời can của đài quan”. Nếu chỉ đọc đoạn trên, chúng ta có thể nghĩ rằng bộ Binh thư yếu lược c̣n lại cho chúng ta ngày nay đă được một người Việt-nam nào đó hồi thế kỷ XVII hay thế kỷ XVIII sửa chữa, bổ sung hay viết lại. Chúng ta cũng nghĩ như thế khi chúng ta đọc đoạn này của Binh thư yếu lược: “Xưa kia đời vua Thành tổ nhà Minh đánh Mán Miến-điện đem ba mươi vạn quân, hơn một trăm voi đến cướp Định-viễn. Vua Minh sai Mộc Thạnh và Anh Mă-thành đi đánh, bắt được voi đem về”. Nhưng đen những câu sau đây, th́ chúng ta lại nghĩ rằng Binh thư yếu lược đă được bổ sung hay viết lại hồi đầu thế kỷ XIX tức thời Nguyễn sơ: “Năm Kỷ dậu người Thanh sai Tổng đốc Lưỡng Quảng sang nước ta đánh giặc để khôi phục thành nhà Lê. Quân Ngụy Tây bày voi xông trước. Người Thanh làm cản gỗ chống ngựa1 để cản lại, đào hố để sập voi. Chước đó rất mầu, song lại thất thủ, v́ trong cái mầu có cái chưa mầu”. Những câu sau đây cũng làm cho chúng ta nghĩ như thế: “Như xưa, Tây-sơn Nguyễn Huệ chống nhau với Thạc quận công ở bến Thúy-ái, ra quân theo đường tắt mà vào kinh thành nhà Lê. Chúa Trịnh vừa về miền Tây, th́ trong phủ đă dựng cờ Tây-sơn rồi. Năm Kỷ dậu ngày mồng 5 tháng giêng, Nguyễn Huệ chia quân làm ba đạo cùng với quân Bắc tiếp chiến, mà thủy binh tiến đậu ở sông Nhị hà, đó là mưu chẹt đường về của quân Bắc”.

__________________________________

1. Một thứ chướng ngại vật chữ Hán là mộc mă, dùng để cản đường tiến của voi, ngựa.

 

Những tài liệu kể trên cho phép chúng ta bước đầu kết luận rằng: Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn đến đầu thế kỷ XIX đă được một nho sĩ am hiểu quân sự, yêu khoa học quân sự, sửa chữa và bổ sung nhiều. Nho sĩ ấy đă đọc nhiều binh thư của Trung-quốc, đă đọc Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ, rồi trên cơ sở các tri thức về quân sự của ḿnh, nho sĩ ấy đă sửa chữa và bổ sung Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn. V́ vậy Binh thư yếu lược là sách do Trần Quốc Tuấn làm ra từ thế kỷ XIII, mà lại có những đoạn nói về cuộc xâm lược của quân Minh đối với Miến-điện, có đoạn nói về cuộc đấu tranh vơ trang chống quân Thanh xâm lược do vua Quang Trung lănh đạo, lại có đoạn nói về những việc xảy ra ở đời Tự-đức.

 

Kết luận như vậy, tất có người nói: Thế th́ tại sao khi soạn Lịch triều hiến chương loại chí hồi thế kỷ XIX, Phan Huy Chú lại nói rằng Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn không c̣n nữa? Chúng ta đều biết rằng thời Phan Huy Chú biên soạn Lịch triều hiến chương loại chí là thời nước Việt-nam mới tạm thời ổn định một phần nào1, sau một thời loạn lạc kéo dài. Rất có thể dưới tay Phan Huy Chú, Binh thư yếu lược không c̣n nữa, nhưng ở một nơi nào đó, cụ thể là ở một tủ sách cửa gia đ́nh một nho sĩ nào đó, Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn có thể vẫn c̣n hoặc là toàn bộ hoặc là một phần. T́nh h́nh này có thể có được ở một số nước mà đường giao thông liên lạc khó khăn như nước Việt-nam hồi đầu thế kỷ XIX. Nho sĩ yêu Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn, đă đem bộ sách này sửa chữa và bổ sung trên cơ sở những tri thức về khoa bọc quân sự của ông. Do đó, Binh thư yếu lược tuy mang tên Trần Quốc Tuấn, vị danh tướng sống vào hồi thế kỷ XIII, mà lại có cả các đoạn trong Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ, và các cuộc chiến tranh xảy ra hồi thế kỷ XV, thế kỷ XVI, thế kỷ XVII, thế kỷ XVIII.

 

Đến đây, một vấn đề cần được đặt ra và giải quyết: Trong bộ Binh thư yếu lược mà hiện nay chúng ta có, chỗ nào là của Trần Quốc Tuấn, chỗ nào không phải là của Trần Quốc Tuấn? Đọc Binh thư yếu lược, chúng tôi thấy có chỗ đă gọi rơ rằng đă lấy từ Hổ trướng khu cơ, có chỗ tuy không ghi là lấy từ Hổ trướng khu cơ, nhưng đọc Hổ trướng khu cơ, chúng ta thấy chỗ ấy có trong tác phẩm của Đào Duy Từ. Những chỗ như thế dứt khoát không phải là của Trần Quốc Tuấn. Cũng không phải là của Trần Quốc Tuấn những đoạn chép về các sự kiện xảy ra về các đời Minh, đời Thanh, hay đời Tây-sơn. Như vậy không có nghĩa là những đoạn khác trong Binh thư yếu lược là của Trần Quốc Tuấn cả. Chúng tôi cho rằng có thể là của Trần Quốc Tuấn trước hết những đoạn rút ra từ phép dùng binh của Tôn Vũ và Ngô Khởi. Cũng là của Trần Quốc Tuấn những đoạn mà tư tưởng phù hợp với tư tưởng của ông đă tŕnh bày trong Hịch tướng sĩ hay với lời của ông nói với vua Trần Anh-tôn khi nhà vua đến thăm ông ở nhà riêng tại Vạn-kiếp hồi tháng Tám năm Kỷ hợi (1300).

 

Chúng ta đều biết rằng tháng Tám năm Kỷ hợi, Trần Quốc Tuấn bị bệnh nặng, vua Trần Anh-tôn thân đến nhà riêng của ông để thăm ông và hỏi ông về kế sách giữ nước. Trần Quốc Tuấn có nói với vua Anh-tôn như sau: “Đại khái quân giặc cậy vào trường trận, quân ta cậy vào đoản binh, đem đoản binh đánh lại trường trận là việc thường trong binh pháp. Nhưng cần phải xét: Nếu thấy quân giặc tràn sang như gió như lửa, th́ thế giặc có thể dễ dàng chống cự được; nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần, như tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay, th́ ḿnh phải dùng tướng giỏi, phải xem xét t́nh thế biến chuyển như người đánh cờ tùy thời cơ mà ứng biến cho đúng, làm thế nào thu hút được quân lính, như cha con một nhà mới có thể dùng để chiến thắng được. Và phải khoan dùng sức dân để làm cái kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước không c̣n ǵ hơn”. Phải “thu hút được quân lính như cha con một nhà”, “phải khoan dùng sức dân để làm cái kế sâu rễ bền gốc”, những tư tưởng đó hoàn toàn phù hợp với những tư tưởng sau đây của Binh thư yếu lược: “Dùng trí để phục thiên hạ, mà thiên hạ phải phục trí, nhưng trí vẫn không thắng; dùng pháp (luật) để chế thiên hạ, mà thiên hạ phải theo pháp (luật), nhưng pháp (luật) cũng không thần. Vậy trí với pháp (luật) không phải là cái hay ở trong cái hay vậy. Bậc thánh vơ trị đời, đánh ở chỗ không có thành, công ở chỗ không có lũy, chiến ở chỗ không có trận. Nhẹ nhàng như mưa rơi ở trên không, dựng nên cuộc đời vô sự”. “Ḥa mục có công hiệu rất lớn cho cuộc trị an. Ḥa ở trong nước th́ ít dụng binh; ḥa ở ngoài biên th́ không sợ có báo động; bất đắc dĩ mới phải phạt kẻ làm xằng. Vua tôi ḥa mục th́ dùng được người tài; các tướng văn tướng vơ ḥa mục th́ làm nên công nghiệp. Tướng sĩ ḥa mục khi được ban thưởng sẽ nhường nhịn nhau, nguy nan sẽ cứu nhau. Đó, ḥa mục là một đạo rất hay cho việc trị nước, hành binh, không bao giờ đổi được”.

 

Những ư kiến trên đây của Trần Quốc Tuấn biểu thị rằng ông không những là một nhà quân sự lớn, mà c̣n là một nhà chính trị lớn. Đó là nhà kinh bang tế thế vậy. Khi vạch ra những nguyên tắc hành động của viên tướng tổng chỉ huy, Trần Quốc Tuấn xuất phát từ tư tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là mục đích của đời người cũng tức là mục đích của viên tướng, viên tướng phải đấu tranh cho chính nghĩa, đấu tranh v́ lợi ích của nhân dân: “Khí lượng của tướng lớn nhỏ khác nhau. Tướng mà che điều gian, giấu điều họa, không nghĩ đến sự quân chúng oán ghét, tướng ấy chỉ huy mười người. Tướng mà sớm dậy khuya nằm, lời lẽ kín đáo, tướng ấy chỉ huy được trăm người. Tướng thẳng mà biết lo, mạnh mà giỏi đánh đó là tướng chỉ huy được ngh́n người. Tướng mà ngoài mặt hăm hở, trong ḷng ân cần, biết người khó nhọc, thương kẻ đói rét, đó là tướng chỉ huy được vạn người. Tướng mà gần người, tiến người tài, ngày thường cẩn thận, thành thực rộng răi, giỏi việc dẹp loạn, đó là tướng chỉ huy được mười vạn người. Tướng mà dùng nhân ái đối với kẻ dưới, lấy tín nghĩa để phục nước láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết địa lư, giữa biết việc người, coi bốn biển như một nhà, đó là tướng chỉ huy được cả thiên hạ không ai địch nổi”. Ở đây, tác giả Binh thư yếu lược đă vượt hẳn khuôn khổ một viên tướng tổng chỉ huy, mà trở thành một nhân vật có tài kinh bang tế thế, ở triều đ́nh th́ là tướng văn, ở ngoài mặt trận là tướng vơ kiểu như Gia Cát Lượng vậy.

___________________________________

1. Chúng tôi nói “tạm thời ổn định một phần nào” v́ suốt thời gian từ Gia Long, qua Minh Mạng, Thiệu Trị đến Tự Đức, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đă nổ ra.

Giai cấp đại quư tộc đời Trần thường biết đoàn kết với nhau. Ở những phương diện nhất định, lợi ích của giai cấp đại quí tộc nhất trí với lợi ích của nhân dân. Vua và các vương hầu đều chú ư đến nông nghiệp, công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nhờ vậy mà phát triển. T́nh h́nh trên cũng thấy phản ánh trong Binh thư yếu lược: “Thương người, dốc chí làm việc th́ được sự yêu mến. Nghe lời nói phải, xa kẻ gièm pha, th́ người xa đến với ḿnh. Đo tính trước sau rồi mới làm, đó là đề pḥng khi có biến cố. Có tội phải răn, có công phải thưởng mới có thể uốn nắn được người. Thông việc trước, suốt việc sau mới có thể giáo dục được quân chúng. Rẻ sắc đẹp, trọng con người mới được ḷng dân. Bỏ lợi tư theo lợi chung mới giữ được nước”. “Thanh liêm của cải, tiết kiệm tiêu dùng, ít say về rượu, giữ ḿnh theo lễ, thờ bề trên cho trung, có việc lo chung với quân chúng, lấy của địch mà không tích trữ (cho ḿnh), bắt phụ nữ địch mà không lưu dùng (cho ḿnh)”.

 

Trần Quốc Tuấn thương yêu tướng sĩ, luôn luôn săn sóc đến đời sống của tướng sĩ. Trong Hịch tướng sĩ ông tuyên bố: “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền cũng đă lâu ngày, không có áo th́ ta cho áo, không có ăn th́ ta cho ăn, quan c̣n nhỏ th́ ta thăng thưởng, lương ít th́ ta tăng, đi thủy th́ ta cho thuyền, đi bộ th́ ta cho ngựa, lúc hoạn nạn th́ cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ th́ cùng nhau vui cười”. Tinh thần đồng cam cộng khổ này của Trần Quốc Tuấn cũng thấy biểu hiện trong Binh thư yếu lược: “Trong quân có người ốm, tướng phải thân hành đem thuốc đến chữa, trong quân có người chết, tướng phải thương xót, đau buồn, quân đi thú xa, th́ (tướng) phải sai vợ con đến thăm hỏi. Phàm có khao thưởng th́ phải chia đều có quan và quân. Khi có cất đặt chức vị ǵ, th́ phải họp cả tướng tá lại để bàn. Mưu đă định rồi mới đánh giặc; cho nên tướng với quân có cái ơn ḥa rượu và hút máu1.

 

Trần Quốc Tuấn hiểu rơ rằng không tranh thủ được sự đồng t́nh của các tướng sĩ, th́ không thể động viên các tướng sĩ đánh giặc được. Như chúng ta đều biết, Yết Kiêu, Dă Tượng là gia nô của Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lăo là gia khách của ông. Yết Kiêu, Dă Tượng, cũng như Phạm Ngũ Lăo đều hăng hái chiến đấu chống quân Mông-cổ, và đều lập được nhiều chiến công quan trọng. Họ đă v́ Trần Quốc Tuấn mà quên ḿnh chiến đấu. Yết Kiêu, Dă Tượng và Phạm Ngũ Lăo sở dĩ gắng sức ở nơi trận mạc, một phần là v́ họ yêu nước, nhưng một phần khác cũng v́ họ được Quốc Tuấn đăi ngộ như cha với con. Việc quan tâm đến đời sống của các tướng sĩ cũng thấy biểu hiện trong Binh thư yếu lược: “Cho nên quân sĩ có cái vui mổ trâu, nấu rượu, cái khí thế ném đá vượt rào, họ yêu mến tướng như con em yêu mến cha anh, như chân tay giữ ǵn đầu mắt, không ai có thể ngăn nổi họ. Nếu đối xử khắt khe làm cho họ đau khổ, bắt họ làm những công việc quá nặng nhọc th́ tiếng oán thù không sao cho hết. Tướng mà coi quân sĩ như cỏ rác, th́ quân sĩ coi tướng như cừu thù. Mong cho họ sung vào hàng ngũ cũng c̣n khó, c̣n mong ǵ họ gắng sức đánh giặc nữa. Đó là cái chước lớn của tướng soái để vỗ về quân sĩ vậy”.

 

Căn cứ vào Tôn Vũ và Ngô khởi, Binh thư yếu lược vạch ra cái đạo của người làm tướng, đạo này có tám điều phải tránh là: 1. Ḷng tham không đáy, 2. Giết người hiền ghen người tài, 3. Tin lời gièm ưa lời nịnh, 4. Biết người mà không biết ḿnh, 5. Do dự không quả quyết, 6. Hoang dâm tửu sắc, 7. Dối trá và ḷng th́ nhát sợ, 8. Nói bậy mà không giữ lễ độ.

 

Những ư kiến trên cũng có thể là của Trần Quốc Tuấn. Tại sao chúng ta có thể biết như vậy được? Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn viết rằng: “Nay ta đọc hết các sách binh pháp của các danh gia và soạn thành một quyển gọi là Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi chuyên tập sách này theo lời dạy bảo th́ mới phải đạo thần tử. Nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo, th́ tức là kẻ thù nghịch”. Các sách binh pháp của các danh gia là những sách nào? Các danh gia ấy là những ai? Đọc Binh thư yếu lược, chúng ta thấy những sách ấy chủ yếu là Vũ kinh hay Vũ thư của Trung quốc trong đó có sách Tôn Tử hay Tôn Tử binh pháp hay Binh pháp của Tôn Vũ đời Xuân Thu. C̣n các danh gia nói đây chủ yếu là Tôn Vũ và Ngô Khởi, hai nhà quân sự đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Chúng ta có thể nói tư tưởng quân sự trong Binh thư yếu lược chủ yếu là tư tưởng của Tôn Vũ và Ngô Khởi mà Trần Quốc Tuấn muốn đem vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh Việt-nam hồi thế kỷ XIII. Xét như vậy, chúng ta sẽ thấy rằng những đoạn trích dẫn và b́nh luận ư kiến của Tôn Vũ và Ngô Khởi trong Binh thư yếu lược là của Trần Quốc Tuấn, một nhà chính trị kiêm quân sự thiên tài đă sở đắc rất nhiều ở binh pháp Tôn Ngô, và đă đem những điều sở đắc của ḿnh giáo dục cho các tướng sĩ ở dưới quyền tiết chế của ông.

 

Giả thuyết trên sẽ có giá trị, nếu có ngày chúng ta chứng minh được rằng ư kiến của Phan Huy Chú, tác gia Lịch triều hiến chương loại chí là không đúng sự thật.

__________________________________

1. Sách Hoàng Thạch Công chép rằng: Có một vị tướng tài có một ṿ rượu ngon do một người đến biếu, ông đem ṿ rượu ấy đổ xuống sông ḥa với nước, rồi cho tướng sĩ đến ḍng nước mà uống. Ba quân đều được uống rượu, v́ vậy ai nấy đều gắng sức chiến đấu. Ngô Khởi nổi tiếng là người giỏi dùng binh. Có người lính có cái nhọt đang nung mủ, Ngô Khởi ghé mồm vào nhọt mà hút máu mủ. Người lính cảm động, càng ra sức chiến đấu (Binh thư yếu lược).

Trong trường hợp Binh thư yếu lược cũng tức Binh gia diệu lư yếu lược của Trần Quốc Tuấn quả thật không c̣n nữa như Phan Huy Chú đă nói trong Lịch triều hiến chương loại chí, th́ quyển Binh thư yếu lược mang kư hiệu 476 của Thư viện khoa học xă hội sẽ là sách thế nào? Quyển Binh thư yếu lược này, chúng tôi nghĩ rằng có lẽ do một nho sĩ am hiểu khoa học quân sự, nắm được nhiều tri thức quần sự của Việt-nam và của Trung-quốc soạn ra. Theo cái phong thái thác cổ vẫn lưu hành ở Việt-nam và Trung-quốc xưa, nho sĩ ấy đă mượn tên sách của Trần Quốc Tuấn đặt cho tên sách của ḿnh nhằm tăng thêm uy tín của tác phẩm của ḿnh đối với người đọc. Cũng có thể đầu tiên sách chỉ mang tên Binh thư yếu lược thôi, nhưng sau đó một người nào đó lại thêm máy chữ “Binh thư yếu lược bốn quyển do Trần Hưng Đạo vương soạn, vương húy là Quốc Tuấn”. Chúng tôi sở dĩ viết như thế là v́ trong Lịch triều hiến chương loại chí không có sách nào của Trần Quốc Tuấn gọi là Binh thư yếu lược, mà chỉ có sách Binh gia diệu lư yếu lược hay Binh gia yếu lược1 mà thôi. Có thể một nho sĩ nào đó đă viết một quyển sách quân sự rồi đặt cho tên sách của ḿnh cái tên gần giống tên sách của Trần Quốc Tuấn, rồi người sau đó, sau khi đă sửa chữa và bổ sung Binh thư yếu lược, mới thêm mấy chữ “Binh thư yếu lược bốn quyển do Trần Hưng Đạo vương soạn, vương húy là Quốc Tuấn” như chúng tôi đă nói ở trên...

 

Tất cả đều là giả thuyết, ức thuyết. Chưa thể có kết luận khẳng định dứt khoát ai là tác giả thật sự bộ Binh thư yếu lược mang kư hiệu 476 của Thư viện khoa học xă hội. Nhưng dù thế nào đi nữa, bộ Binh thư yếu lược vẫn là bộ sách quân sự quư của chúng ta. Tác phẩm quân sự chúng ta có rất ít. Cho đến nay, có lẽ chúng ta mới có hai tác phẩm là Binh thư yếu lược và Hổ trướng khu cơ. Hổ trướng khu cơ là tác phẩm nặng về mặt thực hành hơn là mặt lư luận quân sự. Duy có Binh thư yếu lược vừa chú ư đến mặt lư luận vừa chú ư đến mặt thực hành, do đó, nó có thể là bộ sách quân sự đầu tiên của dân tộc Việt-nam đă tổng kết được các kinh nghiệm quân sự của Việt-nam từ xưa cho đến thời Nguyễn sơ.

 

Hiện nay ở miền Bắc chúng ta đang có phong trào học tập truyền thống dân tộc. Chúng ta có nhiều truyền thống ưu tú của dân tộc, trong các truyền thống ưu tú ấy, th́ truyền thống đấu tranh quân sự của dân tộc chúng ta đáng được đặc biệt chú ư. Truyền thống đấu tranh quân sự của dân tộc Việt-nam dưới thời phong kiến cụ thể như thế nào? Chúng tôi có thể nói truyền thống đó một phần quan trọng đă được đúc kết trong Binh thư yếu lược và Hổ trướng khu cơ. Viện Sử học cho dịch Binh thư yếu lược và Hổ trướng khu cơ và cho xuất bản, chính là mang muốn đáp ứng trong muôn một yêu cầu học tập truyền thống đấu tranh quân sự của cán bộ và nhân dân.

 

                                                                                              Hà-nội, tháng 11 năm 1968

                                                                                                            VĂN TÂN

                                                                                                          Viện Sử học

_______________________________

1. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí nói sách của Trần Quốc Tuấn là Binh gia diệu lư yếu lược nhưng phần Văn tịch chí lại nói sách của Quốc Tuấn là Binh gia yếu lược.

 

 

TIỂU SỬ

 

TRẦN QUỐC TUẤN

 

 

Trần Quốc Tuấn là con An-sinh vương Trần Liễu và là cháu gọi vua Trần Thái tôn bằng chú ruột. Ông sinh vào khoảng năm 1226, 1227, 1228 hoặc 1229 ǵ đó, nguyên quán ông ở làng Tức-mặc, huyện Mỹ-lộc, tỉnh Nam-định, nay thuộc tỉnh Nam-hà.

 

Khi quân Mông-cổ sang xâm lược nước ta lần thứ nhất (1257), ông tham gia cuộc kháng chiến. Năm 1283 khi quân Mông-cổ sắp sửa mở cuộc xâm lược lần thứ hai vào nước Đại Việt, Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công Tiết chế toàn bộ quân đội của nhà Trần. Đầu năm 1285, năm mươi vạn quân Mông-cổ do Thoát Hoan chỉ huy từ biên giới tỉnh Quảng-tây đánh vào nước Đại Việt, trong khi ấy mười vạn quân Mông-cổ khác do Toa-đô chỉ huy từ Chiêm-thành tiến ra Bắc. Thế giặc quá mạnh, triều đ́nh phải bỏ Thăng-long, rút vào Thanh-hóa. Ở những nơi quân giặc chiếm đóng, nhân dân làm vườn không nhà trống. Tức giận, quân giặc đi đến đâu cướp phá và giết chóc nhân dân đến đấy. Vua Trần Nhân tôn lo sợ, hỏi Trần Quốc Tuấn: “Hay ta tạm hàng để cứu muôn dân?” Quốc Tuấn khảng khái trả lời: “Nếu bệ hạ muốn hàng, trước hết hăy chém đầu thần đi đă”.

 

Để giáo dục cho các tướng sĩ phép dùng binh đánh giặc giữ nước, Trần Quốc Tuấn đă căn cứ vào các sách binh pháp của Tôn Vũ và Ngô Khởi mà soạn ra sách Binh gia diệu lư yếu lược hay Binh thư yếu lược. Ông lại viết Hịch tướng sĩ để khích lệ ḷng yêu nước và chí căm thù của các tướng sĩ đối với quân xâm lược.

 

Do chiến lược, chiến thuật đúng đắn của Trần Quốc Tuấn, do tinh thần quyết chiến của quân đội, đầu Tháng Năm năm Ất dậu (1285), quân đội nhà Trần đánh bại quân của Toa-đô ở cửa Hàm-tử làm cho Toa-đô phải đem tàn quân chạy về cửa biển Thiên-trường. Ngay sau đó, Trần Quốc Tuấn lại nhanh chóng tập trung quân đội, bất ngờ đánh vào căn cứ giặc ở Chương-dương, và đă tiêu diệt hầu hết quân Mông-cổ đóng ở đấy. Thoát Hoan thấy Chương-dương bị đánh, vội cho quân từ Thăng-long đến cứu viện Chương-dương. Quân Mông-cổ vừa rời khỏi Thăng-long được một quăng, th́ bị quân phục kích của Trần Quốc Tuấn đổ ra chặn đánh và tiêu diệt. Được tin Chương-dương bị hạ, viện binh bị diệt, Thoát Hoan hoảng sợ, vội cùng với bọn A-thích mang quân Mông-cổ vượt sông Hồng chạy sang các căn cứ quân Mông-cổ ở miến đất là tỉnh Hà-bắc ngày nay.

 

Sau khi đại thắng ở Chương-dương, và đuổi Thoát Hoan ra khỏi Thăng-long, Trần Quốc Tuấn mang quân quay lại tiêu diệt lộ quân của Toa-đô ở Tây-kết, và đến cuối tháng Năm năm Ất dậu (1285), quân Trần lại đại thắng ở Tây-kết, nguyên soái Toa-đô bị chém đầu ngay tại trận, Ô-mă-nhi sợ hăi phải chạy vào Thanh-hóa. Quân Trần thừa thắng truy kích, bắt sống được mấy vạn quân Mông-cổ.

 

Các trận thắng trên buộc Thoát Hoan và toàn bộ quân Mông-cổ phải rút lui. Nhưng trên đường rút về Trung-quốc quân Mông-cổ bị quân đội của Trần Quốc Tuấn phục kích, và bị chết rất nhiều. Thoát Hoan phải chui vào một cái thùng đồng mới trốn được về Trung-quốc..

 

Năm Đinh hợi (1287) quân Mông-cổ do Thoát Hoan chỉ huy lại xâm lược nước Đại Việt lần thứ ba. Vua Trần Nhân tôn hỏi ư kiến Trần Quốc Tuấn, Quốc Tuấn tuyên bố: “Bây giờ quân ta đă quen chiến đấu, quân giặc từ xa đến mỏi mệt, và chúng c̣n đang khiếp sợ về những trận thua trước, mất cả nhuệ khí... Năm nay đánh giặc có phần dễ hơn trước”.

 

Đầu năm Đinh hợi (1287), quân Mông-cổ dưới quyền chỉ huy của Thoát Hoan, do hai đường thủy và bộ kéo vào xâm lược nước Đại Việt. Trần Quốc Tuấn lại ra lệnh cho quân đội rút lui chiến lược. Quân Mông-cổ lại chiếm được Chi-lăng, Khả-ly, Chí-linh, Vạn-kiếp, Tam-đái-giang (Việt-tŕ), Thăng-long... quân đội nhà Trần lại đóng rải rác ở nhiều nơi, nhân dân lại làm vườn không nhà trống. Trần Quốc Tuấn lại cho quân du kích ngày đêm quấy rối các vị trí của quân Mông-cổ. Quân Mông-cổ bị hăm vào cảnh thiếu lương thực. Ngày đêm chúng chỉ c̣n việc cố thủ các vị trí để chờ các đoàn thuyền lương do Trương Văn Hổ có trách nhiệm mang đến cho chúng. Nhưng đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đă bị Trần Khánh Dư phá sạch ở Vân-đồn... Được tin đoàn thuyền lương bị phá, Thoát Hoan lại quyết định cho toàn bộ quân Mông-cổ theo hai đường thủy bộ rút lui về Trung-quốc. Trần Quốc Tuấn đă dự đoán nước cờ đó của Thoát Hoan, và ông đă cho quân đi bố trí phục kích tại các đường thủy, đường bộ mà quân Mông-cổ tất phải đi qua trên đường về nước. Tháng Ba năm Mậu tư (1288) trận phục kích quy mô nổi tiếng trong lịch sử đă diễn ra ở sông Bạch-đằng, kết quả 500 chiến thuyền Mông-cổ bị đánh đắm hoặc bị bắt, hơn ba vạn quân giặc bị giết, bị bắt, bị chết đuối, Ô-mă-nhi và Tích-lệ-cơ ngọc bị bắt sống...

 

Được tin toàn bộ quân Mông-cổ bị phá ở sông Bạch-đằng, Thoát Hoan sợ cuống quít, y vội ra lệnh cho toàn quân rút lui về nước. Trên đường chạy trốn, quân Mông-cổ lại bị quân đội của Trần Quốc Tuấn phục kích, và bị chết rất nhiều. Thoát Hoan phải do đường huyện Đan-kỷ (Lạng-sơn) chạy sang Lộc-châu rồi theo thung lũng sông Lục-ngạn, qua các địa điểm Biển-động, An-châu, Đ́nh-lạp đê vượt biên giới chạy về Tư-minh (Trung-quốc).

 

Do có nhiều công lao đánh giặc cứu nước, Trần Quốc Tuấn được phong tước Hưng-đạo đại vương, v́ vậy người ta thường gọi ông là Trần Hưng Đạo.

 

Tháng Tám năm Kỷ hợi (1300), Trần Quốc Tuấn bị bệnh nặng ở Vạn-kiếp, và đến ngày 15 tháng Tám th́ ông từ trần tại nhà riêng.

 

Trước khi Quốc Tuấn sắp từ trần, vua Trần Anh-tôn có đến nhà riêng của ông ở Vạn-kiếp để hỏi ông về kế sách giữ nước. Nhân dịp này, Quốc Tuấn có tŕnh bày với vua Anh-tôn về chiến lược đánh giặc giữ nước khi đất nước bị xâm lăng như chúng tôi đă nói ở phần “Giới thiệu”.

 

Chiến lược, chiến thuật của Trần Quốc Tuấn có thể tóm tắt như sau:

 

Nước Đại Việt nhỏ và yếu hơn nước Đại Nguyên của Mông-cổ, v́ vậy phải “lấy đoản binh mà chống trường trận” tức phải lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh, khi quân giặc mới đến, thế chúng c̣n mạnh, th́ ta rút lui để bảo toàn lực lượng, nhủ cho giặc vào sâu và dàn mỏng lực lượng ra nhiều nơi chờ khi nào có điều kiện thuận lợi mới phản công; khi ta rút lui, ta cũng phải chủ động khiến cho giặc “muốn đánh mà không đánh được”. Với chiến thuật vườn không nhà trống, với chiến tranh nhân dân, giặc không thể cướp được lương thực của nhân dân, và luôn luôn bị dân quân du kích đánh phá, quấy rối, cắt đường tiếp tế. Tinh thần quân giặc do đó tất phải giảm sút. Lúc ấy quân ta mới phản công, cắt hẳn đường liên lạc, tiếp tế của giặc, phục kích, tập kích giặc, dùng vận động chiến thần tốc đánh vào các căn cứ quan trọng của giặc, buộc giặc phải rút lui về nước, và trên đường giặc rút lui, ta phục kích tiêu điệt chúng.

 

Với chiến lược và chiến thuật trên, Trần Quốc Tuấn đă hai lần đánh bại quân Mông-cổ đă từng tung hoành, bách chiến bách thắng ở châu Á, châu Âu. Khi vạch cho vua Trần Anh-tôn kế sách giữ nước, Trần Quốc Tuấn lại nhấn mạnh rằng “phải khoan dùng sức dân để làm cái sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước, không c̣n ǵ hơn”.

 

TIỂU SỬ

 

ĐÀO DUY TỪ

 

 

Đào Duy Từ sinh vào khoảng năm 1572 ở xă Hoa-trai, huyện Ngọc-sơn (nay là huyện Tĩnh-gia) tỉnh Thanh-hóa, cha là Đào Tá Hán, mẹ là người họ Nguyễn. Ông thông minh, và học rộng biết nhiều. Ông đi thi hương ở Thanh-hóa. Hiến ty cho Đào Duy Từ là con nhà phường chèo, gạch bỏ tên không cho vào thi. Ông buồn bực quay về, căm giận chế độ vô lư của họ Trịnh lúc bấy giờ. Một hôm ông nói với bạn rằng: “Tôi nghe chúa Nguyễn hùng cứ đất Thuận-quảng, làm nhiều việc ân đức, lại có ḷng yêu kẻ sĩ, trọng người hiền... Nếu ta theo vào giúp th́ chẳng khác ǵ Trương Lương về Hán, Ngũ Viên sang Ngô, có thể làm tỏ rạng thanh danh, ta không đến nỗi phải nát cùng cây cỏ, uổng phí một đời...”. Rồi mùa đông năm Ất sủu (1627), Duy Từ trốn được vào xứ Đường trong. Đầu tiên ông ở huyện Vũ-xương hơn một tháng để nghe ngóng t́nh h́nh. Sau biết khám lư Hoài-nhân là Trần Đức Ḥa là người có mưu trí được chúa Nguyễn Phúc Nguyên tin dùng, Duy Từ vào Hoài-nhân. Ông đi ở chăn trâu cho một phú ông ở xă Tùng-châu. Phú ông thấy Duy Từ học rộng tài cao, biết ông không phải là người thường, liền đem nói với Trần Đức Ḥa. Đức Ḥa cho gọi Duy Từ đến hỏi chuyện. Thấy Duy Từ không ǵ là không thông hiểu, Đức Ḥa giữ ông lại rồi gả con gái cho. Duy Từ đem bài “Ngọa long cương” của ông đưa cho Đức Ḥa xem,. Đức Ḥa xem bài “Ngọa long cương” và nói: “Đào Duy Từ là Ngọa-long1 đời này chăng?”.

 

Một hôm, Trần Đức Ḥa đem bài “Ngọa long cương” cho Nguyễn Phúc Nguyên xem, và nói: “Bài này là do thầy đồ của nhà tôi là Đào Duy Từ làm”. Đọc bài “Ngọa long cương” Nguyễn Phúc Nguyên biết Đào Duy Từ là người có chí lớn, liền cho gọi Duy Từ đến. Mấy hôm sau, Đào Duy Từ và Trần Đức Ḥa cùng vào ra mắt Nguyễn Phúc Nguyên. Lúc ấy Phúc Nguyên đang mặc áo trắng, đứng ở của nách. Thấy thế, Duy Từ dừng lại, không vào. Phúc Nguyên hiểu ư, trở vào, mặc áo đội mũ chỉnh tề rồi ra đón Duy Từ vào nói chuyện. Duy Từ cao đàm hùng luận, tỏ ra rất am hiểu việc đời. Phúc Nguyên mừng lắm, hỏi: “Sao khanh đến muộn thế?”. Liền ngay đó Phúc Nguyên trao cho Duy Từ chức Nha úy nội tán, tước Lộc khê hầu, trông coi việc quân cơ ở trong và ở ngoài, tham lư quốc chính.

 

Từ đấy Duy Từ nói ǵ chúa Nguyễn cũng nghe. Ông bày mưu vạch kế giúp chúa Nguyễn làm nên nhiều việc lớn. Chúa Nguyễn thường nói với mọi người: “Đào Duy Từ thật là Tử Pḥng (Trương Lương) và Khổng Minh (Gia Cát Lượng) ngày nay”.

 

Tháng ba năm Canh ngọ (1630), Duy Từ khuyên chúa Nguyễn đắp lũy Trường-dục từ núi Trường-dục đến phá Hạc-hải nhằm ngăn chặn quân Trịnh ngược ḍng sông Nhật-lệ vào đánh xứ Đường trong. Năm Tân mùi (1631), theo lời Đào Duy Từ, chúa Nguyễn lại cho đắp một cái lũy nữa kiên cố hơn, dài 18 ki-lô-mét bắt đầu từ núi Đâu-mâu qua cửa biển Nhật-lệ, rồi men theo sông Lệ-kỳ và sông Nhật-lệ tiến lên phía đông bắc đến làng Đông-hải.

 

Nhờ có hai cái lũy trên, chúa Nguyễn đă ngăn chặn được các cuộc tiến công của quân Trịnh trong một thời kỳ dài.

 

Tháng chín năm Canh ngọ (1630), theo đề nghị của Đào Duy Từ, Nguyễn Phúc Nguyên cho mở cuộc tấn công vào châu Nam Bố-chánh, và chiếm được châu này.

 

Tháng mười năm Giáp Tuất(1634), Duy Từ bị bệnh nặng rồi mất, thọ 63 tuổi.

 

Đào Duy Từ chỉ làm quan với chúa Nguyễn có tám năm. Nhưng trong tám năm đó, ông đă xây dựng cho họ Nguyễn một cơ sở xă hội vững chắc, và một quân đội hùng mạnh. Nguyễn Hữu Tiến, một viên tướng có tài của chúa Nguyễn, là con rể Đào Duy Từ do Đào Duy Từ tiến cử lên chúa Nguyễn.

 

Hổ trướng khu cơ là tác phẩm do Đào Duy Từ soạn ra để dạy các tướng sĩ của xứ Đường trong. Đó là tác phẩm quân sự đuy nhất của Việt-nam c̣n nguyên vẹn cho đến ngày nay.

 

Xứ Đường trong sở dĩ có quân hùng tướng mạnh, một phần là do công lao của Đào Duy Từ. Đào Duy Từ, v́ vậy, được coi là Đệ nhất khai quốc công thần của họ Nguyễn và được thờ ở nhà Thái miếu.

_____________________________________

1. Ngọa Long là biệt hiệu của Khổng Minh Gia Cát Lượng.

 

THUYẾT MINH VỀ BẢN DỊCH

 

Những binh thư của Trung-quốc mà sách này trích lục trước hết là bộ Vơ kinh gồm bảy phần như sau:

 

Sách Tôn tử hay Tôn tử binh pháp, có khi gọi tắt là Binh pháp, do Tôn Vũ thời Xuân thu, tướng của Ngô Hạp Lư soạn. Theo Sử kư th́ sách này có 13 thiên. Đỗ Mục đời Đường nói rằng sách của Tôn Vũ nguyên có đến vài mươi vạn chữ, sau Tào Tháo bỏ bớt đi mà thành bản ngày nay.

 

Sách Ngô tử do Ngô Khởi tướng của nước Sở thời Chiến quốc soạn. Lục Mỹ Thanh đời Đường chia sách ấy làm 6 thiên, tức là bản thông hành ngày nay.

 

Sách Lục thao, đầu thời chiến quốc đă có tên sách, bản cũ đề là của Lă Vọng nhà Chu, nhưng là sách đời sau giả thác, tác giả ở vào khoảng trước đời Đường.

 

Sách Tư mă pháp, một sách binh pháp đời xưa, đề là của Tư-mă Nhương Thư nước Tề soạn, nhưng không chắc đúng.

 

Sách Tam lược, người đời sau soạn mà giả thác là của Hoàng Thạch công trao cho Trương Lương là công thần khai quốc của nhà Hán.

 

Sách Uất liệu tử, do Uất Liệu đời Chu soạn.

 

Sách Lư vệ công vấn đối, do học tṛ của Lư Tĩnh ghi chép những lời vấn đáp của Đường Thái tông với tướng là Lư Tĩnh mà thành.

 

Ngoài ra Binh thư yếu lược c̣n trích lục các sách:

 

Vũ kinh tổng yếu, do bọn Tăng Công Lượng và Đinh Độ đời Tống soạn, chép những binh pháp của đời xưa và những mưu kế phương lược của nhà Tống, gồm 40 quyển.

 

Hổ kiểm kinh, do Hứa Động đời Tống soạn, gồm 20 quyển.

 

Thúy vi bắc chinh lục, do Hoa Nhạc đời Tống soạn, gốm 20 quyển.

 

Vũ bị chí, do Mao Nguyên Nghi đời Minh soạn, gồm 19 quyển.

 

Vũ bị chế thắng chí, do học tṛ của Mao Nguyên Nghi soạn, gồm 31 quyển.

 

Kinh thế, tức là Kinh thế bát loại toàn biên, do Trần Nhân Tích đời Minh soạn, trong ấy có phần “Binh tào” từ quyển 63 đến quyển 83.

 

Hồng vũ đại định, không rơ tên tác giả, hiện Thư viện khoa học trung ương chỉ có một tập sách chép tay nhỏ gồm 6 thiên đề là Hồng vũ đại định binh thư lược biên. Theo tên sách th́ sách này thuộc đời Minh. Hồng vũ là niên hiệu của Minh Thái tổ.

 

Sách Bảo giám th́ chúng tôi không t́m thấy, trong thư mục của Tứ khố toàn thư đề yếu của Trung quốc chỉ thấy có sách Tướng giám (gương làm tướng) ghi chép sự trạng của những người hành quân giỏi của Trung quốc từ xưa, bắt đầu từ Tôn Vũ, cuối cùng là Quách Sùng Thao đời Hậu Đường.

 

C̣n bốn tác phẩm khác mà chúng tôi không t́m thấy ở Hà-nội là: Binh chế, Vạn cơ chí, Yên thủy thần kinh, Hành quân tu tri, không hiểu tác giả là ai và nội dung là thế nào.

 

Về tác phẩm Việt nam, th́ Binh thư yếu lược trích dẫn sách Binh lược và trích lục gần hết sách Hổ trướng khu cơ. Sách Binh lược th́ chúng tôi không t́m thấy, nhưng đoán là sách Việt nam về đời Nguyễn, là v́ thấy nó dẫn những việc thuộc lịch sử Việt nam từ cuộc xâm lược của quân Minh đến cuộc khởi nghĩa Tây sơn. Ngoài ra c̣n có tài liệu của Bộ Binh triều Nguyễn.

 

Sách Hổ trướng khu cơ theo Đại nam thực lục chính biên là do Đào Duy Từ soạn ra hồi nửa đầu thế kỷ XVII.

 

Hiện nay ở Hà-nội chỉ có một bản Binh thư yếu lược chép tay của Thư viện khoa học xă hội, gồm 4 quyển, đề là Trần Hưng Đạo vương soạn(!), không có tựa, chữ viết xấu, lại do nhiều người chép (xem nét chữ khác nhau), nhiều chữ sai, cũng có không ít chỗ sót. Trước khi phiên dịch, chúng tôi phải làm công việc hiệu đính bản chữ Hán. Về những đoạn văn trích lục ở các binh thư Trung-quốc th́ chúng tôi đối chiếu với nguyên văn theo các sách t́m thấy ở Thư viện khoa học xă hội. Nếu là những sách không t́m thấy ở Thư viện ấy th́ chúng tôi đành phải theo văn pháp và văn nghĩa mà hiệu đính, cũng như đối với những đoạn do chính tác giả biên soạn; về phần này, tương đói ít, th́ có khi tác giả cũng chỉ là tóm tắt ư kiến của các sách xưa thôi.

 

Theo nội dung Binh thư yếu lược như trên th́ không thể xem nó là di tác của Hưng Đạo vương được. Đấy là một bộ sách được biên soạn theo một phương pháp đặc biệt, do nhiều nhà thông hiểu binh pháp thời Trần (có thể đặc biệt là Hưng Đạo Vương), thời Lê, thời Nguyễn tiếp tục nhau mà biên soạn bằng cách trích lược những binh thư các đời của Trung-quốc và của nước ta, thỉnh thoảng những người biên soạn có thêm những đoạn có quan hệ với những sự kiện quân sự vào kinh nghiệm của nước nhà, hoặc tóm tắt ư kiến của các sách xưa một cách gọn gàng.

 

Sách này được hoàn thành ở thời nhà Nguyễn.

 

Trong khi phiên dịch chúng tôi đă bỏ những đoạn có tính chất mê tín, đặc biệt là ở chương “Thiên tượng” thuộc quyển I, ở các chương “Chiêm phong vũ” và “Binh trưng” thuộc quyển II. Phương pháp biên soạn sách này có hơi lỏng lẻo, cho nên có những đoạn ở trên đă chép mà lại chép thêm ở dưới, hoặc có một đôi đoạn h́nh như chép lộn, những đoạn chép trùng hay chép lộn ấy chúng tôi đều bỏ cả. Cuối cùng, tất cả những đoạn lấy ở Hổ trướng khu cơ chúng tôi đều bỏ đi để đem cả tập Hổ trướng khu cơ dịch làm phần phụ lục mà nêu riêng một tác phẩm về binh pháp của nước ta có ít nhiều màu sắc dân tộc.

 

Sách Hổ trướng khu cơ hiện ở Thư viện khoa học xă hội có năm bản chép tay A157, A565, A1783, A2117, A3003, Chúng tôi lấy bản số A157 là bản đầy đủ nhất để dịch, nhưng trong khi dịch chúng tôi đă đối chiếu với các bản kia và với những chương những mục được trích lục trong sách Binh thư yếu lược để đính chính những chỗ sai sót.

 

Những h́nh vẽ về trận đồ và về binh khí chiến cụ dùng trong bản dịch này là vẽ lại theo h́nh vẽ của sách Vơ kinh tổng yếu trong bộ Tứ khố toàn thư trận bản sơ tập (Thư viện khoa học xă hội số P1121), của sách Vũ bị chế thắng chí (Thư viện khoa học xă hội số AC597) và của sách Hổ trướng khu cơ (Thư viện khoa học xă hội so A157).

 

Binh thư yếu lược do Nguyễn Ngọc Tỉnh phiên dịch.

 

Hổ trướng khu cơ do Đỗ Mộng Khương phiên dịch.

 

                                                                                                                    Người hiệu đính

                                                                                                                     ĐÀO DUY ANH

 

 Hết

 

 

 

 

 

 

.

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: