MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record vCBO

v US Gov vCongressional Record vPBS

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vReuter vAP vWorld Tribune 

v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

v MediaMattersvSourceIntelvFRUSvIntelnews

v GlobalSecvGlobalIntelvEnergyvArchive

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation vVeteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian vPolitical Insider vLaw vMedia

v RamussenvWikileaksvFederalistvHistory

v The Online Books vBreibart vInterceipt

v AmericanFreePress vPoliticoMagvAtlantic

v National Public Radio vForeignTrade vSlate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v ChúngTa v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v NVSeatle v CaliToday v NVR

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v

Đông Dương: Chúng ta đă không dự tính điều này

 Phan Ba Báo chí Chiến tranh Việt NamNguyễn Văn ThiệuPhước B́nhTháng Tư 1975Đà Nẵng

 

Mất hai phần ba đất nước của ông, phân nửa số sư đoàn của ông và vật liệu chiến tranh có giá trị một tỉ dollar, chính phủ hoảng loạn và hàng triệu người chạy trốn, quốc gia của tổng thống Thiệu – mới đây c̣n là quyền lực quân sự mạnh nhất của Đông Nam Á – là như thế đó trong tuần vừa qua. Hoa Kỳ tuyên bố: “Đó không phải là cuộc chiến của chúng tôi.”

Ở Hung Long, một thị trấn buồn tẻ của tỉnh Chương Thiện trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, người nông dân kéo nhau hàng đoàn trở về nhà từ công việc đồng áng. Bất th́nh ĺnh, họ bị lính Bắc Việt bao vây. Không ai thấy họ tới, súng nổ, những người lính Nam Việt ít ỏi của thị trấn nằm trong vũng máu của họ.

Trong cùng ngày đó, ngày 6 tháng Mười Hai 1974, cũng như Hung Long, khoảng 40 tiền đồn của người Nam Việt Nam bị tràn ngập và những thị trấn trong vùng phía nam và phía tây Sài G̣n bị bắn phá, đă lâu rồi không dữ dội như vậy.

Mặc dù vậy, tin tức này không làm cho ai lo lắng. Báo chí thế giới tường thuật về Cyprus và về Cận Đông. Henry Kissinger, vừa mới trở về từ Viễn Đông, tập trung hoàn toàn vào công việc chuẩn bị cho lần xuất hiện trước các đồng minh NATO ở Bruxelles. Ngay cả Sài G̣n cũng xoa dịu: “Người cộng sản muốn giành quyền kiểm soát vụ thu hoạch”, một phát ngôn viên quân sự nói. Măi sau nhiều ngày, phát ngôn viên của chính phủ Hoa Kỳ Ron Nessen mới đưa ra một lời cảnh báo nhẹ nhàng cho Hà Nội: Hoa Kỳ theo dơi sát t́nh h́nh. “Hà Nội cần phải biết rằng những hành động quân sự đó hoàn toàn không dẫn tới đâu hết.”

Chỉ trong ṿng vài tuần, chúng đă dẫn tới lần sụp đổ về quân sự của “Việt Nam Cộng Ḥa” – quốc gia ở Đông Dương đó mà ở đỉnh cao của lần tham chiến, người Mỹ đă cho 543.400 người lính chiến đấu cho sự tồn tại của nó và đă để cho trung úy Calley tiến hành những tội phạm chiến tranh của hắn; một cuộc chiến đă gây hại nặng nề không những cho sự giàu có của nước Mỹ mà cũng cho đạo đức chính trị của Mỹ, và đă lấy đi sinh mạng của trên 56.000 người Mỹ.

Và rồi khi người Mỹ rút lui trong danh dự, như họ nói, th́ họ đă để lại lực lượng quân đội mạnh nhất Đông Nam Á: Thiệu, vệ tinh của Mỹ, có 1,1 triệu người cầm súng, được trang bị với thiết bị của Mỹ, được bảo vệ bởi một lực lượng không quân với trên 1300 máy bay và trực thăng, một trong những lực lượng lớn nhất của châu Á.

Chỉ trong ṿng ba tuần, quốc gia giống như Sparta này đă sụp đổ, 6 trong số 13 sư đoàn của Thiệu tan ră, người đứng đầu quốc gia nh́n thấy vùng thống trị của ḿnh bị giảm xuống hầu như chỉ c̣n vùng đất của người thị trưởng Sài G̣n, có thể so sánh được với sự sụp đổ bất th́nh ĺnh của nước Pháp năm 1940, đầy bi kịch hơn thảm họa đến dần dần ở Campuchia mà người đứng đầu quốc gia Lon Nol đă bay trốn tránh đến Bali trong những ngày này, một kết quả của tinh thần chiến đấu vượt trội cũng như suy nghĩ chiến lược vượt trội.

Sau cuộc tấn công ở vùng châu thổ trong tháng Mười Hai, người Bắc Việt đầu tiên tấn công vào Phước B́nh ở phía bắc của Sài G̣n. Khi Phước B́nh thất thủ, ngay lập tức họ tiếp tục hướng sự chú ư của Sài G̣n về hướng Nam, nơi Sư đoàn 5 của họ tiến hành những cuộc tấn công lớn ở vùng phía bắc của khu đồng bằng. Họ chiếm gần 2000 cứ điểm trong số 3000 cứ diểm của Sài G̣n trong vùng châu thổ.

 

Ba người lính Nam Việt Nam bị thương chạy thoát khỏi tỉnh lỵ Phước B́nh đă thất thủ. Họ thuộc trong số hơn 26.000 người đă bỏ chạy sau khi Phước B́nh thất thủ. Nhiều người đă kể lại những câu chuyện thương tâm về những cuộc phục kích dọc con đường trốn thoát của họ (AP Wirephoto)

Đầu tháng Ba, họ lại tiếp tục tấn công ở vùng cao nguyên phía đông bắc của Sài G̣n. Vào thời điểm này, công binh của họ đă hoàn thành một mạng lưới đường tiếp tế. Đặc biệt là một con đường trải nhựa xuyên qua rừng rậm đă được hoàn thành, tạo khả năng bao vây trên diện rộng các thành phố quan trọng về mặt chiến lược Pleiku và Kontom. Bây giờ th́ những người lính Hà Nội tấn công có kế hoạch vào những con đường tiếp tế của người Nam Việt Nam và đặc biệt là cắt con đường 14 chạy theo hướng bắc-nam ở nội địa.

Rồi khi thành phố Ban Mê Thuột thất thủ, Thiệu ra lệnh rút lui – bây giờ th́ đă xuất hiện những cảnh tan ră đầu tiên: các đơn vị đồn trú và thường dân hoảng sợ chạy từ Pleiku và Kontum về phía bờ biển, nơi mà Sài G̣n chỉ kiểm soát một dăy đất hẹp hầu như không thể giữ vững về mặt quân sự được nữa. Các thành công nhanh chóng này cũng gây ngạc nhiên cho cả Hà Nội. “Chúng tôi”, Đại úy Trang To, thành viên của Ủy ban Quân sự Bắc Việt ở Sài G̣n, thừa nhận, “đă không dự tính trước với việc này. Bây giờ th́ chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ đứng ở Huế.”

Họ đứng trong cố đô ở phía bắc, trung tâm lịch sử và văn hóa của đất nước, hẳn là c̣n sớm hơn cả hy vọng. V́ bây giờ, theo các cố vấn Mỹ ở Sài G̣n, “Thiệu đă phát điên rồi”. Trong cố gắng xây dựng chiến tuyến có khả năng pḥng thủ, người đứng đầu nhà nước đă bỏ cả hai tỉnh cực bắc cộng cả Huế mà không chống cự.

Ngay trước đó nhiều tuần, Thiệu đă rút hàng ngàn người của các lực lượng tinh nhuệ ra khỏi thành phố, được cho là để chuẩn bị tốt hơn cho một cuộc tấn công bất ngờ của cộng sản vào Sài G̣n. Thật sự th́, ngay cả những người thân cận của tổng thống cũng nói như vậy, những đơn vị này có nhiệm vụ giúp ngăn ngừa một cuộc đảo chánh từ các đối thủ chính trị của ông.

Lệnh rút lui của Thiệu đă làm lung lay tất cả. Trong lúc bỏ chạy hỗn loạn, những người lính chạy về cảng biển, để có được một chỗ trên một con tàu tàu, quẳng vũ khí và quần áo trên đường đi, lao xuống biển và bơi ra tới những chiếc sà lan và tàu thuyền có nhiệm vụ mang họ về Đà Nẵng.

Đà Nẵng, di tản bằng máy bay ngày 25 tháng Ba 1975

Rơi vào tay người Bắc Việt và các đơn vị Việt Cộng tiến quân kế tiếp theo đó là máy bay, hàng trăm xe tăng và đại bác cũng như hàng ngàn tấn đạn – vật liệu chiến tranh có giá trị trên một tỉ dollar. “Đó là”, nhà báo người Mỹ Kim Willenson tường thuật, “Dunkerque của Nam Việt Nam – chỉ là không một ai thề rằng sẽ quay trở lại Huế.”

Ở Đà Nẵng th́ c̣n tồi tệ hơn nữa. Ít nhất là nửa triệu người tỵ nạn từ Huế và các tỉnh lân cận, 500.000 cư dân và trên 100.000 người lính giành nhau chỗ trên một vài chiếc tàu tỵ nạn và máy bay do người Mỹ đưa ra, những chiếc máy bay mà vẫn c̣n dám đáp xuống đường băng khi nó đă lọt vào tầm vũ khí của Bắc Việt.

Trong cơn hoảng loạn, những người lính đă tàn sát thường dân để tự cứu lấy chính ḿnh. Nhiều người leo lên các khoang chứa bánh xe, nơi họ bị các bộ phận hạ cánh chặt ra thành nhiều khúc khi chúng rút vào thân máy bay.

Giám đốc người Philippine của công ty chuyên cho thuê máy bay “World Airways” tường thuật lại việc một người lính dùng tiểu liên bắn chết cả một gia đ́nh ra sao, để chính ông ấy bước vào chiếc máy bay cuối cùng rời Đà Nẵng. Khi cánh cửa của chiếc Boeing 727 đóng lại, những chiếc thông thường chở cho tới 189 hành khách, th́ có trên 300 người trên máy bay – ngoại trừ ba người phụ nữ th́ tất cả đều là lính.

Người Mỹ bị nhổ nước bọt và ném đá

Cả ở cảng biển cũng có đánh nhau để sống c̣n, nơi những người lính giật trẻ em ra khỏi ṿng tay của mẹ chúng, để, được cho là người cứu thoát, giành một chỗ trên tàu. Những người khác giết dân thường và cướp tài sản của họ, để có thể đưa tiền đi tàu cho các thuyền viên.

Tổng cộng có khoảng 50.000 người tỵ nạn thoát được khi Đà Nẵng rơi vào tay người Bắc Việt vào Chúa Nhật Phục Sinh. Cuộc tiến quân của người Bắc Việt tiếp tục diễn ra không ǵ ngăn chận lại được. Cho tới thứ sáu tuần rồi, người cộng sản đă chiếm các thành phố biển Qui Nhơn, Tuy Ḥa và Nha Trang nằm ở phía nam của Đà Nẵng và đứng cách thủ đô c̣n chưa tới 100 kilômét.

Về quân sự th́ chiến bại này dễ giải thích. Ngay từ lúc Phước B́nh thất thủ th́ một điểm yếu mang tính quyết định đă lộ ra, cái mà sau này đă trở thành tai họa cho người Nam Việt: quân đội Sài G̣n chỉ c̣n tiến hành chiến tranh theo kiểu Mỹ, sử dụng một lượng vật liệu khổng lồ. Cũng như những người thầy Mỹ của họ, họ chỉ thích chiến đấu dọc theo những con đường đă được trải nhựa, không thể thiếu được cho việc vận tải quân lính và tiếp tế – ít nhất là cho tới chừng nào mà c̣n cái ǵ đó để chuyên chở. Nhưng vật liệu của Sài G̣n không đủ cho một cuộc chiến kéo dài kiểu Mỹ.

Quân đội của Hà Nội, về kỹ thuật cũng được trang bị vũ khí ngang tầm, thực hành tính cơ động trên đất bằng. Họ chiếu bí hàng sư đoàn Nam Việt Nam, bằng cách đơn giàn là cắt đứt các quốc lộ tại những địa điểm nhất định. Hỏa tiển SAM của Xô viết đẩy lui không quân của Sài G̣n trong lúc đó.

V́ tính cơ động cao hơn nên các đơn vị Bắc Việt Nam thành công trong việc ép buộc quân đội Sài G̣n phải đồng thời chiến đấu tại những điểm nằm cách rất xa nhau trên một mặt trận dài hơn một ngàn ki-lô-mét, để chia nhỏ lực lượng của họ và buộc họ phải rút lui. “Nhưng một cuộc rút lui có trật tự”, một viên tướng Mỹ nói, “là một trong những cuộc hành quân khó khăn nhất. Và chúng ta đă không truyền đạt lại cho họ điều đó – tức là họ không có khả năng làm điều đó.”

Trong khi hiện giờ c̣n chưa rơ, rằng lúc nào th́ Việt Nam sẽ t́m thấy lần kết thúc sự tồn tại như là quốc gia sau trận Dunkerque này của họ, th́ người Mỹ đă bị chửa rủa công khai như là những người “phản bội” trên đường phố của thủ đô, thậm chí c̣n hay bị nhổ nước bọt hay bị ném đá nữa.

Washington ngạc nhiên trước những oán giận như vậy. “Đó”, Ron Nessen, phát ngôn viên báo chí của Nhà Trắng tuyên bố, “không phải là cuộc chiến của chúng tôi.”

Nó lúc nào cũng đă là như vậy rồi, chắc chắn là khi lính Mỹ c̣n chiến đấu ở Việt Nam, nhưng mà cũng cả khi họ bỏ lại người Việt một ḿnh dưới cái nhăn hiệu lừa dối “Việt Nam hóa”. Chỉ là: trong hai năm vừa qua, người Mỹ – cũng như nói chung là Phương Tây – đă quan tâm tới lạm phát, khủng hoảng năng lượng và nghi ngờ tương lai của xă hội thịnh vượng nhiều hơn là cuộc chiến được cho rằng đă giảm xuống ở Viễn Đông. Thêm vào đó, các tổng thống Nixon và Ford cũng như Kissinger của hai người đă bảo đảm trước người dân của họ hàng chục lần, rằng lúc rút ra khỏi Đông Dương, nước Mỹ đă để lại một quân đội Nam Việt rất hùng mạnh. Đại sứ Mỹ tại Sài G̣n Graham Martin rơ ràng là cũng vẫn c̣n tin như vậy sau khi Phước B́nh thất thủ: “Quân đội Nam Việt Nam cũng sẽ một ḿnh đương đầu được với một trận tấn công mới.”

Đà Nẵng ngày 28 tháng Ba 1975. Người Việt sống sót đang chờ viện trợ đă bị cắt đứt bởi đạn pháo của người Cộng sản. Trong khi một số người đứng chờ kiên nhẫn, th́ những người khác đă bắt đầu hoảng loạn trong một sự khủng khiếp của cướp bóc và hỏa hoạn. (Jack Cahill/Toronto Star via Getty Images)

Thật sự th́ sự giúp đỡ chỉ có thể đến từ người Mỹ – tất nhiên là chỉ trong trường hợp Washington sẵn sàng để cho ném ngược trở lại 15 năm trong cái mê cung chính trị của chính sách Việt Nam của họ, và bắt đầu lại từ đầu.

Thế nhưng cả Ford lẫn Kissinger đều không hề nghĩ đến việc đó, nói chi đến Quốc Hội Washington. Vào ngày 28 tháng Giêng, hai năm và một ngày sau khi kư kết Hiệp định Paris, khi Gerald Ford yêu cầu Quốc Hội thông qua số tiền viện trợ thêm cho Nam Việt Nam và Campuchia là 522 triệu dollar, ông quả quyết rằng; “Với sự trợ giúp vật chất thích đáng từ Hoa Kỳ, họ có thể giữ vững được.” Nhưng khó có khả năng là ông tin vào điều đó: Đă không thể chiến thắng được cuộc Chiến tranh Việt Nam với tṛn 140 tỉ dollar – th́ làm sao mà nửa tỉ nữa có thể làm được việc đó?

V́ “nền ḥa b́nh đầy danh dự” của Nixon bây giờ bị lột trần ra trước con mắt của thế giới như là một sự lừa dối hay tự lừa dối, nên chính phủ Hoa Kỳ chỉ c̣n muốn đẩy trách nhiệm cho việc sắp mất Nam Việt Nam và Campuchia sang cho Quốc Hội, đang bị áp đảo bởi phe Dân chủ đối lập. Henry Kissinger: “Cho tới tháng Sáu vừa rồi, t́nh h́nh quân sự ở Việt Nam là rất tốt. Rồi chúng ta (bị Quốc Hội) ép buộc phải cắt giảm – đă không thể gởi thêm trang thiết bị mới và gởi đủ đạn dược. Điều đó dẫn tới … việc là t́nh h́nh quân sự đă xấu đi.”

Đông Dương, vùng đất mà nước Mỹ đă từng muốn cứu thoát nó khỏi chủ nghĩa cộng sản, Đông Dương, thảm họa lịch sử của cường quốc Hoa Kỳ, thật sự là đă trở thành một chú thích của lịch sử, như Kissinger đă tiên đoán một cách cay độc, trở thành một chức năng của chính trị đối nội của Mỹ.

Người Dân chủ ở Washington từ chối không tiếp tục trả tiền. Như thượng nghị sĩ Robert Byrd đă tuyên bố trước, ông chỉ chấp thuận thêm một hỗ trợ tài chính nữa cho Nam Việt Nam, “khi chúng ta nhận lời bảo đảm của Chúa, được khắc lại trên đá, rằng sự việc sẽ xong với 300 triệu dollar và qua đó Nam Việt Nam được cứu thoát măi măi.”

Cũng hoài công vô ích là một nổ lực thứ hai của chính phủ, lần này th́ dựa trên t́nh h́nh quân sự đă xấu đi tới mức thảm họa ở Campuchia, và nhắm tới niềm tự hào của người Mỹ, rằng ḿnh là người Mỹ. “Tiếng động của những cây kim hỏa Campuchia và Việt Nam, đập vào những cái ổ đạn trống rỗng” sếp chiến lược của Mỹ tiên đoán, “một ngày nào đó có thể sẽ trở thành một tiếng lách cách có thể nghe được trên khắp thế giới.”

Cuối cùng, Gerald Ford đề nghị rằng nếu Quốc Hội cho phép ông tự do hành động th́ ông sẽ cam kết rằng sau ba năm, ông sẽ chấm dứt mọi yêu cầu cho Đông Dương. Thế nhưng các nghị sĩ đă tính toán rằng trong ṿng ba năm đó, nước Mỹ phải cần ít nhất là 5,5 tỉ dollar, và tổng tham mưu trưởng quân đội giải thích thêm vào đó, sự giúp đỡ của Mỹ hẳn sẽ c̣n cần thiết trong thời gian từ 5 tới mười năm. Trong phái Dân chủ của Hạ viện, viện trợ cho Campuchia thất bại với 189 trên 49 phiếu, ở Thượng viện kết quả là 38 trên 5 chống viện trợ cho Campuchia và 34 trên 6 chống lại một viện trợ cho Việt Nam.

Vào thời điểm này, như “New York Times” tiết lộ, th́ chính phủ coi như đă mất Campuchia rồi, họ chỉ muốn giữ thể diện của họ, nhưng dự đoán rằng ở Việt Nam “theo t́nh h́nh … th́ 1976 mới là năm của đợt tấn công lớn”, theo Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng Schlesinger, khi mà đợt tấn công lớn đă bắt đầu rồi.

Cuộc chiến hầu như đă bị lăng quên của Mỹ bất th́nh ĺnh lại quay trở vào những căn pḥng khách của Mỹ. Hàng ngàn cái chết có màu, những đoàn người tỵ nạn vô tận, trẻ em chết khát, chém giết v́ một chỗ di tản trong chiếc máy bay hay máy bay trực thăng, lính đào ngũ, cướp bóc – đó là những h́nh ảnh đáng sợ, nhưng cũng quen thuộc. Không phải là người ta đă từng có lần, nhiều lần nh́n tất cả những thứ đó rồi sao?

“Một tấn bi kịch to lớn của con người”

Nhưng lần này là khác. V́ lần này th́ nước Mỹ không có mặt bằng xương bằng thịt ở đó, không có lính Mỹ nằm dưới đạn pháo của cộng sản, người dân Mỹ có thể nói là ngồi ghế hàng đầu trong nhà hát – tuy xấu hổ, đầy ḷng thương hại nhưng mà cũng không quan tâm tới.

Dù điều đó là đúng và bất di bất dịch cho tới đâu, rằng Washington thậm chí c̣n không cân nhắc một lần tham chiến mới ở Đông Á, th́ thái độ đó vẫn thật là tai hại, thái độ mà Hoa Kỳ bộc lộ ra trong màn cuối cuộc chiến của họ. Chính phủ th́ ẩn nấp nhiều ngày nay, rồi chi mười triệu dollar cho một cầu di tản đường hàng không và gửi Tham mưu trưởng Lục quân Weyand sang Việt Nam, v́ ông – theo phát ngôn viên của Ford – có “quan hệ tốt” với Tổng thống Thiệu của Nam Việt Nam.

23 Tháng Giêng 1973, Paris, Pháp — Đại sứ William H. Sullivan (dưới bên phải) và Xuân Thủy (trên bên phải) xem Tiến sĩ Henry Kissinger (ở giữa thấp hơn) và Lê Đức Thọ (thứ hai từ trên bên phải) kư kết Hiệp định Ḥa b́nh Paris. H́nh: Bettmann / Corbis

Rồi Tổng thống của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ để cho tuyên bố rằng việc Đà Nẵng thất thủ là “một tấn bi kịch khổng lồ của con người, gây bất an sâu sắc cho toàn thể nhân loại văn minh” – lời nói của người chống cộng sản Ford, cái mà lại có quy mô quá lớn lao. Ngoài ra th́ ông tổng thống chơi golf ở California và cười to chạy trốn các phóng viên muốn ông phát biểu về t́nh h́nh ở Đông Dương: “Không, không, điều đó th́ không.”

Trong lúc đó, một trong những người tài giỏi nhất và là lănh tụ có nhiều ảnh hưởng nhất của phe đối lập trung lập, Giáo sư xă hội học Ton That Thien, tổng kết cho người Mỹ hay cho một người Mỹ: “Bây giờ th́ chúng tôi phải hứng chịu hậu quả của những ǵ mà Kissinger đă gây ra cho chúng tôi ở Paris.” Và: “Đó là kết quả của cái được gọi là ḥa b́nh danh dự.”

Trong khi đó th́ với Hiệp định Paris cho Việt Nam, Henry Kissinger chỉ nắm lấy một cơ hội muộn màng cho nước Mỹ để rời bỏ lần tham chiến phi lư của nó ở Đông Á, chắc chắn không phải như là người chiến thắng và không phải là không mất thể diện, nhưng mà vẫn c̣n có thể đừng để cho hàng triệu người Mỹ ở quê hương và thế giới c̣n lại kết tội chính phủ ở Washington là đào ngũ.

Các tính toán thống kê cho một cấu trúc táo bạo của một mặt tiền – mặc cho tất cả – đầy ấn tượng dường như thật sự là đă thành công: Moscow, Bắc Kinh, Hà Nội, Phương Đông cũng như Phương Tây và Thế giới Thứ Ba, phản động cũng như tiến bộ, bạn bè của nước Mỹ cũng như những kẻ thù ác liệt nhất của nó cũng đều nh́n thấy một “cơ hội của ḥa b́nh” sau lần kư kết hiệp định ngưng bắn ở Paris vào ngày 27 tháng Giêng 1973. Việt Nam cho người Việt Nam và qua đó phó mặc đất nước đầy vết bom đạn đó lại cho chính nó – và đấy dường như là cốt lơi của hiệp định bốn bên này – là lối thoát tốt nhất cho thế giới đă mệt mỏi v́ Việt Nam.

Tâm trạng này đúng là cái mà Henry Kissinger đă phỏng đoán trước, không ǵ nhiều hơn nữa. Ông muốn tạo cho nước Mỹ, bị chia rẽ thật sâu v́ Việt Nam, một cuộc rút lui danh dự, một “peace with honor” – nh́n về chính trị th́ hẳn là cái tối thiểu mà một cường quốc thế giới có thể đ̣i hỏi. Không màn kịch nào khác trong nội các, một phần táo bạo, một phần tầm thường, luôn được lập nên trong bí mật và được bố trí như là một màn biểu diễn chính trị, mà Super-Henry lại thành công được như vậy – và vẫn thất bại hoàn toàn.

Kissinger đưa ra cho Tổng thống Nixon, người trong lúc tranh cử đă hứa hẹn sẽ mang người Mỹ “trở về nhà càng nhanh càng tốt”, một sự lựa chọn khác của lập luận kiên nhẫn từ Lầu Năm Góc: Sau khi Hoa Kỳ đă tham gia vào cuộc Chiến tranh Việt Nam nhiều tới như vậy th́ chỉ có thể ép buộc đi đến kết thúc bằng nhiều quân đội hơn nữa.

Đề nghị của Kissinger: các cuộc đàm phán ḥa b́nh mà cho tới lúc đó hoàn toàn không có thành công nào giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt ở Paris cần phải được mở rộng ra. Nước Mỹ và Bắc Việt Nam, cả hai trên thực tế là chỉ là đồng minh chiến đấu, cần phải thương lượng về việc kết thúc cuộc chiến, chính phủ Sài G̣n và chính phủ lâm thời của Việt Cộng về một giải pháp chính trị sau khi ngừng bắn. Qua đó, trách nhiệm bây giờ thuộc về chính phủ Thiệu và chính phủ Việt Cộng, các chính phủ mà cho tới nay xem như đối phương không tồn tại.

Nhưng điều quan trọng cho Hoa Kỳ ở Paris là: Từ lúc ngưng bắn, rút quân cho tới lần thử nghiệm các thỏa thuận chính trị – tạo một “Hội đồng Ḥa giải Quốc gia” dưới sự tham gia của người cộng sản và trung lập, bầu cử tự do và cuối cùng là bổ nhiệm một chính phủ mới ở Sài G̣n – dường như là một khoảng thời gian dài mà nước Mỹ cần nó như là một “thời hạn khoan hồng” cho cuộc rút quân của ḿnh.

Việc giải pháp phức tạp này, chỉ được bảo đảm duy nhất qua thiện chí, cũng có thể thất bại, việc này th́ nhà tư tưởng Harvard cũng đă dự tính đến ngay từ đầu. Ngay từ năm 1970, Kissinger đă nói với SPIEGEL: Đó chỉ c̣n là việc kéo dài thời gian giữa lần rút quân của Mỹ và lần sụp đổ của Nam Việt Nam để Washington không phải gánh chịu lần sụp đổ đó.

Điều này nghe có vẻ cay độc, nhưng chỉ chứng tỏ sự thừa nhận tính không thể tránh khỏi của sự phát triển: rằng Nam Việt sẽ trở thành cộng sản và thống nhất với miền Bắc, đó là điều mà các nhà lập kế hoạch ở trong Nhà Trắng cũng biết rơ. Nhưng Kissinger, sau này cả Nixon, đă nghĩ tới một cái ǵ đó giống như Giải pháp Praha 1948 nhiều hơn: nghĩ tới một mặt trận nhân dân mà trong đó cuối cùng – kéo dài càng lâu càng tốt – th́ người cộng sản cũng sẽ chiến thắng và nhờ một cuộc đảo chính mà giành lấy quyền lực, thế nào đi nữa th́ cũng không đổ máu và được xem là “việc nội bộ” – tuy Hoa Kỳ rất lấy làm đáng tiếc, nhưng không ngăn chận lẫn ủng hộ. Và một cơ hội như vậy thật sự là đă tồn tại: rằng Nam Việt Nam, không cần có thêm hàng trăm ngàn người chết và tàn phế, không có thêm hàng triệu người tỵ nạn mới và cũng không có một thảm bại cho chính sách đối ngoại của Mỹ, có thể t́m thấy một trật tự chính trị có thể chịu đựng được.

“Người thầy nghiêm khắc trong ngoại giao và cứng rắn”

V́ vào lúc ban đầu, dường như các toan tính của Kissinger đă bị từ bỏ trong một “decent interval”: Bắc Việt Nam, sau khi đợt tấn công dịp Phục Sinh 1972 thất bại, lại thêm kiệt quệ v́ những cuộc ném bom liên tục của Không quân Mỹ, đang hết sức cần tới một lần ngưng bắn.

Những nhà cung cấp vũ khí của miền Bắc, Liên bang Xô viết và Trung Quốc, thế nào đi nữa th́ cũng nằm trong xung đột đầy nghi kỵ v́ giành giật ảnh hưởng tới Hà Nội và phần Đông Dương c̣n lại, dường như cảm thấy triển vọng b́nh thường hóa quan hệ của họ với cường quốc Hoa Kỳ là hấp dẫn.

Kissinger (thứ ba từ trái sang) gặp thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng (thứ hai từ phải sang) trong chuyến đi đến Hà Nội tháng Hai 1973. H́nh: Bettmann / Corbis

Chỉ như thế mới có thể hiểu được, rằng chiến lược của Kissinger, một ông thầy nghiêm khắc trong “ngoại giao và cứng rắn” đă lành lặn vượt qua được các chuẩn bị cho Paris: Tổng thống Hoa Kỳ có thể để cho quân đội Mỹ hành quân sang Campuchia và cuối 1972 lại cho ném bom miền Bắc Việt Nam mười hai ngày mà Hà Nội không hủy bỏ các cuộc đàm phán, và Moscow và Bắc Kinh không gây khó khăn đáng kể.

Để có ḥa b́nh nhanh hơn, người tổng thống đă cho tiến hành chiến tranh nhiều hơn – lúc đó, không ai trong Nhà Trắng chống lại lô-gíc này của Kissinger. Sáu tuần sau khi tái ném bom Bắc Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Rogers và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nguyễn Duy Trinh kư một hiệp định tương ứng với văn bản đă được đàm phán xong trong tháng Mười 1972, cái mà Bắc Việt Nam đă chấp thuận.

Thật sự th́ nhà đàm phán Kissinger cần lần gián đoạn ồn ào này, v́ ông đă tính toán sai lầm tại một điểm trong cấu trúc ḥa b́nh của ông: Thiệu, người đứng đầu quốc gia Nam Việt Nam, măi trong giờ cuối cùng trước lần ngưng bắn đă được chuẩn bị trước cho ngày 17 tháng Mười mới được Kissinger thông tin, không chơi cùng.

Không có khả năng đối phó được với những chống đối bất ngờ của chiến thuật gia khôn ngoan Thiệu, nhưng hẳn cũng là biết ḿnh có lỗi, v́ Thiệu đă chứng minh cho ông thấy những điều không chính xác nào đó trong phần văn kiện ràng buộc đối với Nam Việt Nam,  người sau này nhận giải thưởng ḥa b́nh chỉ c̣n nghĩ tới bom đạn, để tạo không gian cần thiết cho những cuộc đàm phán bổ sung.

Khi đối tác đàm phán của Kissinger, thành viên Bộ Chính trị Lê Đức Thọ, đáp giữa chặn xuống Moscow trên đường trở về, sếp Đảng Brezhnev đă khen ngợi ḥa b́nh của Kissinger: “Ví dụ này cho thấy rằng người ta cũng có thể t́m thấy một giải pháp ḥa b́nh và công bằng cho những t́nh huống xung đột khác – nhất là ở Cận Đông.” Cả Bắc Kinh cũng nh́n thấy “một đóng góp to lớn để làm giảm bớt căng thẳng”.

Hàng tỉ dollar, ngay cả sau khi rút quân

Người Mỹ đă ném 7,1 triệu tấn bom xuống Việt Nam, gấp 3,5 lần lượng bom rơi từ trên trời xuống trong Đệ nhị Thế chiến. Một triệu người Việt chết, sáu triệu người mất quê hương và phải chạy trốn trước các chiến tuyến, hơn một phần tư rừng nhiệt đới bị bom và đạn pháo xé nát và bị phá hủy nhiều năm trời bởi những chất độc làm rụng lá cây.

Ngay cả ở Nam Việt Nam, đất nước mà người Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh trong rừng rậm v́ nó, những cuộc ném bom trên diện rộng của máy bay Mỹ đă phá hủy 12 phần trăm diện tích canh tác; ở miền Bắc thù địch, gần một nửa làng mạc đă cháy tiêu.

Ngày 30-4-1972 Bắc Việt mở cuộc tổng tấn công mùa xuân vượt qua vùng phi quân sự và sông Bến Hải. Sau 5 tháng giao tranh ác liệt, quân BV đă chiếm được vùng phía bắc sông Thạch Hăn thuộc tỉnh Quảng Trị. Giới tuyến tạm thời giữa hai miền Nam Bắc từ đây không c̣n là sông Bến Hải, mà là con sông Thạch Hăn này. Sau khi Hiệp định Paris được kư kết ngày 27-1-1973, nhiều tù binh của phía BV đă được Nam Việt trao trả qua con sông này.

Câu hỏi về ư nghĩa của cuộc chiến tranh đă thất bại này, hỏi về người có lỗi cho cuộc Thập Tự Chinh ư thức hệ này, mà theo đó người ta cho rằng tự do của thế giới được bảo vệ ở Mekong, bị chết ngạt trong tiếng reo ḥ chào mừng các tù binh Mỹ trở về quê hương – và trước những câu khẩu hiệu vẫn c̣n đầy khí phách về tổ quốc th́ mối quan tâm đó cũng biến mất, rằng liệu đó có thật sự là kết cuộc của chuyến phiêu lưu Đông Dương hay không.

V́ người đóng thuế ở Mỹ vẫn c̣n phải trả tiền cho cái được cho là cuộc chiến tranh đă được Việt Nam hóa: trong những năm 1973-1974, chỉ riêng Nam Việt Nam đă nhận được 3,9 tỉ dollar viện trợ quân sự và kinh tế (Bắc Việt Nam trong cùng thời gian đó nhận được từ Moscow và Bắc Kinh 1,5 tỉ dollar).

Và 9000 cố vấn Mỹ vẫn c̣n tổ chức ở Việt Nam cỗ máy chiến tranh của Nam Việt Nam, những người mà v́ các điều kiện của lần ngưng bắn nên thời gian sau này phải cải trang thành dân thường: như là phi công, kỹ thuật viên và  chuyên gia tiếp vận. “Lầu Năm Góc Đông”, như lính Mỹ đă đặt tên cho bộ tổng chỉ huy ở Sài G̣n, vẫn tiếp tục tồn tại, thay cho các tướng lănh là 100 “tùy viên”, cố vấn Mỹ chỉ huy cảnh sát Sài G̣n, bay thay cho Air Force là các công ty tư nhân như “Air America” do CIA thành lập.

Cả ở Campuchia cũng có trên 200 “cố vấn” dân sự ngồi trong Đại sứ quán Mỹ với nhiệm vụ hướng dẫn qua vô tuyến những đoàn máy bay B-52 chống Khmer Đỏ. Đổi lại, nước Mỹ phải trả tiền lương cho quân đội được cho là gồm 300.000 người của Lon Nol – hơn một phần tư của quân đội này chỉ có trên giấy.

Và cuối cùng, khi Quốc Hội cấm Lầu Năm Góc không được tiếp tục ném bom ở Campuchia nữa, th́ Henry Kissinger là người đă t́m ra cách để ít nhất là tiếp tục cung cấp vũ khí cho Phnom Penh: Dựa trên sáng kiến của ông, người ta thuê ba công ty hàng không tư nhân, “Bird Air”, “Airlift International” và “World Airways”, để bảo đảm chiếc cầu hàng không cho thành phố Phnom Penh đang bị đe dọa.

Ellsworth Bunker, 80 tuổi, cho tới mùa xuân 1973 là đại sứ Hoa Kỳ tại Sài G̣n, nói cho bất cứ ai muốn nghe, ông cho rằng lần rút quân của người Mỹ là một “tṛ bẩn thỉu khốn nạn”, và hănh diện v́ đă giữ được một “mối tiếp xúc tốt và hữu ích” giữa các tướng lănh Nam Việt Nam và Lầu Năm Góc.

V́ vậy mà hầu như không có ǵ là ngạc nhiên, khi Hà Nội và Việt Cộng bắt đầu hoài nghi, liệu Kissinger có thể thành công trong việc thực thi ở Sài G̣n giải pháp chính trị do ông phác thảo ra hay không – chắn chắn là bước đầu của cuộc tái thống nhất trong im lặng nước Việt Nam dưới quyền của người cộng sản.

Được vuốt ve bởi sự nổi tiếng của Hiệp định Paris, Kissinger rơ ràng là nhất quyết muốn thu hoạch thành quả chính sách toàn cầu của ông. Trong tháng Hai 1973, ông bay tới Bắc Kinh và Hà Nội, và tuyên bố lúc trở về rằng, “một sự phát triển ḥa b́nh giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt là cũng có thể có” như giữa Washington và Bắc Kinh. Washington đưa ra triển vọng mười tỉ dollar giúp xây dựng cho Đông Dương, nước Mỹ muốn chi 2,5 tỉ về cho Hà Nội – như là dấu hiệu của sự ḥa giải.

Tất cả dường như đều diễn ra theo kế hoạch của Kissinger, số phận của Nam Việt Nam dường như không c̣n là một vấn đề nghiêm trọng nữa. Trong một cuộc phỏng vấn truyền h́nh sau chuyến đi thăm Hà Nội, Kissinger giải thích rằng người ta phải tính đến khả năng, rằng Việt Nam sẽ được “tái thống nhất dưới sự bảo hộ của cộng sản.”

Trong tháng Năm 1973, nhà cố vấn an ninh lại có mặt ở Paris, để bàn với người đối tác Thọ về Đông Dương, đặc biệt là về việc hai bên đổ lỗi cho nhau là luôn phá hủy và vi phạm Hiệp định.  Bây giờ, lần đầu tiên Kissinger nói một cách bi quan về một nền ḥa b́nh đáng ngờ – Quốc Hội Mỹ đă lấy cây gậy dùng trong ngoại giao cứng rắn của Kissinger ra khỏi tay tổng thống: ông không c̣n được phép ném bom Campuchia nữa. Giữa tháng Mười, Kissinger, bây giờ là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, cùng với đối tác Lê Đức Thọ nhận Giải thưởng Nobel Ḥa b́nh.

Kissinger, trong tư thế hoàn toàn là chính khách, nhận giải – Lê Đức Thọ từ chối. Ông ta cũng biết rơ như Kissinger, rằng kể từ Hiệp định Ḥa b́nh Paris đă lại có thêm hàng chục ngàn người hy sinh tại các mặt trận ở Đông Dương và cuộc chiến đă phá hủy làng mạc và nhà cửa của hàng trăm ngàn người.

Tướng Thiệu, chưa từng bao giờ được Kissinger công khai thông báo về các mục đích của Hiệp định Paris, đă từ chối đóng vai tṛ của một người quản lư di sản chính trị mà người ta muốn giao cho ông.

“Sẽ không có bầu cử, nhất là với phe trung lập và cộng sản” cho tới chừng nào c̣n “một người lính Bắc Việt duy nhất ở Nam Việt Nam”, Hoàng Đức Nhă, cố vấn trưởng có nhiều ảnh hưởng và là cháu của Thiệu, nói năm ngày sau Hiệp định Ngưng bắn.

Cay đắng v́ tṛ chơi chính trị của người Mỹ, cảm thấy cá nhân bị xúc phạm bởi thái độ của Kissinger to lớn, Thiệu c̣n để cho quân đội của ông tiến hành dọn sạch cái “da báo” đó, cái đánh dấu sự cùng hiện diện của những người cộng sản và chống cộng sản ở Nam Việt Nam trên bản đồ. “Bây giờ th́ tấm da báo bảo vệ Việt Cộng sẽ bị sờn”, một sĩ quan tham mưu Nam Việt Nam hân hoan nói trong mùa Xuân 1973.

Lúc đầu, quân đội của Hà Nội và Việt Cộng bằng ḷng với những phản đối qua lời nói và rơ ràng là tránh va chạm lớn với kẻ địch. “Lúc đó, trong mùa xuân sau Paris, chúng tôi thật sự là thơ ngây cho tới mức đă tin rằng nước Mỹ sẽ ép buộc Thiệu giữ đúng hiệp định. Sự thơ ngây này đă cướp đi nhiều cán bộ tốt nhất của chúng tôi”, theo đại tá Việt Cộng Vơ Đông Giang, đại diện của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, nói với SPIEGEL.

Nước Mỹ mất nhiều hơn là một vài tỉ tiền thuế

Một năm sau khi các “chiến dịch b́nh định” này bắt đầu, quân đội của Thiệu đă kiểm soát thêm 15% lănh thổ so với thời điểm của Hiệp định Ḥa b́nh Paris. Nước Mỹ ngạc nhiên nh́n nhận các thành công quân sự bất ngờ của quân đội Nam Việt Nam, trong Nhà Trắng, quan điểm đó lại thắng thế thêm một lần nữa, rằng “Việt Nam hóa” cuộc chiến rơ ràng là có thể.

Trong tháng Tư 1974, Sài G̣n hủy các cuộc đàm phán với chính phủ Việt Cộng về tương lai chính trị của đất nước, hai tháng sau đó là cả việc cộng tác trong ủy ban quân sự chung đă được ấn định trong Hiệp định.

 

Biểu t́nh lên án CS tấn công và chiếm tỉnh Phước Long ngày 6.1.1975, vi phạm hiệp định ḥa b́nh Paris 1973.

Măi bây giờ th́ miền Bắc bắt đầu chuyển sang thế tấn công – ban đầu vẫn c̣n là trên b́nh diện chính trị. Sự chống đối ngày càng tăng của người dân đối với chế độ tham nhũng của Thiệu, ngày càng cứng rắn hơn trong việc cấm đảng phái và kiểm duyệt báo chí, đă khuyến khích Chính phủ Lâm thời kêu gọi “lật đổ bè nhóm Thiệu”. Vào ngày 8 tháng Mười, Việt Cộng thêm một lần nữa đề nghị, gửi tới trước hết là Washington: điều kiện cho “đàm phán nhanh chóng”, để thực hiện các điều kiện của Hiệp định Ḥa b́nh Paris, là lật đổ Thiệu.

Thế nhưng Lầu Năm Góc đă đánh cược vào thành công quân sự từ lâu, và Henry, người bận rộn với nhiều việc, đối diện với các cuộc khủng hoảng ở Cyprus và ở Cận Đông, không có thời gian để suy nghĩ về hậu quả của cuộc chiến tranh lại leo thang. Được hỏi về việc này, ông trả lời, lại hoàn toàn theo kiểu ngoại giao cứng rắn: “Ngay cả khi người ta thất bại với danh dự th́ người ta vẫn là thất bại.”

Trong tháng Mười Hai 1974, Hà Nội rơ ràng là đă ra lệnh phản công: chạm trán trên tất cả các mặt trận, tăng dần cường độ, thay đổi địa điểm, từ đồng bằng sông Cửu Long cho tới cố đô Huế. Măi tới bây giờ, vào lúc chuyển sang năm mới, Hà Nội cũng tăng cường hoạt động: 19 sư đoàn, một phần được bổ sung, vượt vĩ tuyến 17 vào miền Nam. So sánh lực lượng quân đội và vũ khí vẫn c̣n nghiên về cho quân đội Nam Việt Nam: 1,2 triệu lính của Thiệu đứng đối diện với tṛn 220.000 người từ Hà Nội.

Khi rồi thảm bại của Huế và Đà Nẵng ập vào quân đội Thiệu th́ người ta mới biết rơ rằng nước Mỹ, do bỏ lỡ cơ hội sử dụng Hiệp định Ḥa b́nh Paris một cách nhất quán về mặt chính trị, đă mất nhiều hơn là một vài tỉ tiền thuế, rằng cái “decent interval” đó, mặc dù nó đă kéo dài hai năm, vẫn không đủ để miễn cho Washington trách nhiệm về lần sụp đổ của người đồng minh. Trong cuộc trốn chạy của những người lính Việt Nam nhỏ bé của Thiệu tham nhũng, được người Mỹ bảo trợ, một phần tính đáng tin cậy của Hoa Kỳ to lớn cũng đă mất đi. Ở Sài G̣n, Giáo sư Ton That Thien, tuy không phải là bạn của Hoa Kỳ, nhưng thế nào đi nữa th́ cũng không phải là người cộng sản, tiên đoán: “Không ai c̣n tin người Mỹ nữa. Israel cũng sẽ giống hệt như thế này thôi, mặc dù người Israel có thể là mạnh hơn và thông minh hơn chúng tôi.”

Việc mà Thuyết Domino, do người Mỹ nghĩ ra, có thể quật trở lại uy tín của Mỹ một cách rơ ràng như vậy th́ tất nhiên là khó có thể. Nhưng ít ra th́ Tổng thống Ford phải bảo đảm công khai vào thứ năm vừa rồi, rằng không người bạn nào của Hoa Kỳ là phải lo sợ cả, “rằng chúng ta không làm tṛn nhiệm vụ của chúng ta”. Vậy th́ Việt Nam đúng không phải là một “chú thích của lịch sử thế giới”?

Ngoài ra, những ǵ c̣n được phát biểu ở Washington trong tuần vừa rồi, khi việc Phnom Penh thất thủ chỉ c̣n là câu hỏi của từng giờ, của Sài G̣n có lẽ là câu hỏi của vài ngày, cho thấy rằng những người đứng đầu nhà nước Hoa Kỳ hoàn toàn không ở trên một độ cao thích ứng với khoảnh khắc lịch sử, với lần sụp đổ của chính sách đối ngoại của Mỹ ở Đông Á:

Tổng thống Ford đẩy trách nhiệm về mệnh lệnh rút lui quá hấp tấp sang cho Thiệu, một nhân viên cao cấp khác của Mỹ đẩy sang cho cơ quan t́nh báo, đă không biết chính xác về các kế hoạch của Thiệu và sức chiến đấu của quân đội ông ấy. Khách thăm Sài G̣n Tướng Weyand nói, Nam Việt Nam có thể giữ được mặc cho mọi điều đó, trong khi sếp của ông, Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng Schlesinger ít ra th́ cũng nói về “thảm bại một phần”. Và nhân vật chính, Henry Kissinger, th́ hoàn toàn không nói ǵ hết.

Được hỏi, ông nuốn nói ǵ về những sự kiện ở Đông Dương, kiến trúc sư của chính sách về Đông Dương của Mỹ trong bảy năm vừa qua trả lời với một câu hỏi: “Thế tôi cần phải nói ǵ?”

Phan Ba dịch từ báo Der Spiegel, số 15 năm 1975: 

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Gịng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: