֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

     ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

     ֎ The Fall of South Vietnam

     ֎ Giờ Thứ 25

     ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

     ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

 ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

TRẠI TẬP TRUNG

 

 

PHẦN THỨ NHẤT

VÀNG ỬNG NGẬM NGÙI

(Sa Ác TH6)

 

Chương 1

 

Yêu thương tặng con tôi,

Thiên Hương và Thiên Sơn,

đă lặn lội vào rừng già Sa-Ác

và rừng lá Hàm-Tân thăm nuôi bố tù.

 

Duyên Anh

 

 

Có kẻ mê giang-hồ đến độ thèm được lột da ḿnh bọc ngoài chiếc va-ly của một lăng-tử nào đó, khi ḿnh chết. Để măi măi ngày tháng là những chuyến đi. Nếu ông ta tiên-tri cuộc đời sẽ c̣n những tuyến đường Moscou – Goulag Sibérie, Suối Máu – Phước Long, Kà-Tum- Bù-gia-mập, Long Giao – Sơn Ca, Trảng Lớn – Hà Nam Ninh,Gia Lai – Vĩnh Phú, Washington – Hà-nội Hilton, Nhà Ḿnh – Sở Công An, Đề-lao Gia Định – Chí Ḥa…. di chúc của ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu ông ta biết cuộc đời sẽ c̣n những chuyến xe lửa ngừng lại chẳng cần kéo c̣i, chẳng cần đợi đến ga nhỏ, lăng-tử chạy xuống vũng trâu đầm, múc nước uống ừng-ực ngang họng súng AK canh chừng, ông ta, chắc chắn, sẽ chán chuyện lăng-du. Ở thời đại tôi và trên quê-hương tôi có những chuyến đi đă trùm lấp định-nghĩa vô-định và thống-khổ mà tôi không sợ lộng-ngôn bảo rằng đó là những chuyến đi định-nghĩa làm người. Rồi sẽ có hồi-kư của một tù-nhân viết chính-xác về chuyến đi Sài g̣n – Hà nội được chào mừng bằng những trận mưa máu đá củ đậu củ khoai. Rồi sẽ có hồi-kư của một tù-nhân viết chính-xác về chuyến đi Sài g̣n – Phú Quốc trên chiếc tầu HQ 501 khởi hành từ bến Tân Cảng.

 

 

Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501

 

Ba ngh́n tù-nhân bó gối dưới hầm ngồi

 

Chuyến tàu đi Phú Quốc

 

Chuyến tàu đi theo định-mệnh nổi trôi

 

 

Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501

 

Ba ngh́n tù-nhân một nắp nhỏ thông hơi

 

Chuyến tầu đi Phú Quốc

 

Chuyến tàu đi thám-hiểm vực đời

 

 

Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501

 

Ba ngh́n tù-nhân ba triệu tấn mồ-hôi

 

Chuyến tầu đi Phú Quốc

 

Chuyến tầu đi rúng-động đất trời

 

 

Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501

 

Ba ngh́n tù-nhân chờ từng giọt nước rơi

 

Chuyến tầu đi Phú Quốc

 

Chuyến tầu đi cháy tiếng khô lời

 

 

Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501

 

Ba ngh́n tù-nhân ba ngh́n thú vật ră rời

 

Chuyến tầu đi Phú Quốc

 

Chuyến tàu đi định-nghĩa con người

 

 

Duyên Anh, (Thơ Tù, Nam Á Paris-1984)

 

 

Thơ không đủ định-nghĩa con người và sức chịu đựng phi thưởng của nó 2 ngày 3 đêm bó gối nhịn đói, nhịn khát dưới hầm tầu há mơm. Hăy h́nh tưởng một nắp thông hơi thường xuyên những họng súng chúc xuống đe-dọa. Hăy h́nh tưởng tù-nhân chen lẩn cầm ca đi hứng nước nhỏ giọt ăn bao nhiêu đấm đá của “chiến-hữu” – v́ xô đạp lên người ngồi – mới đến “nguồn hạnh phúc”, và uống một hơi, không dám uống hết đem về. Về chỗ khốn-khổ như rời chỗ, nước đă bị tung-tóe hết. Hăy h́nh tưởngg 2 ngày 3 đêm ỉa đái không tụt quần. Và, hăy h́nh tưởng, khi ghé bờ, cái tầu há mơm ra, phân tiểu cũng ùa ra. Tù-nhân “đổ bộ” theo phân; có người ngụp lặn cho sướng, ngoi đầu lên phân cả đống! Đó là sự thật rực-rỡ dưới ánh mặt trời mà bất cứ người tù Việt Nam nào tham dự chuyến đi trên hai chiếc tầu HQ 501 và HQ 503 đều không phủ-nhận. Có lẽ, người ta sẽ đính chính. Rằng, nó c̣n thê-thảm gấp bội. Nỗi đau đớn chưa ngưng ở đó.

 

 

Hai ngày ba đêm dưới hầm tầu

 

Mắt c̣n thèm ngủ bụng đói lả

 

Thân xác c̣n như cái mền tă

 

Sáng sớm vác xẻng đào giếng khơi

Đất biển không ch́u theo ư người

Càng sâu bao nhiêu càng lún ră

Mấy ngh́ tù-nhân khát khô cổ

Nh́n nhau muốn nói chẳng nên lời

Hạnh-phúc bây giờ là nước lă

Đội đá, lên núi hề đội đá

Đường đi- về ba cây số ngàn

Năm trăm tù-nhân xếp thành hàng

Đi th́ hồn khói hun bốc toả

Về th́ hồn cháy thiêu tàn-tạ

Chuyến đầu cố gắng vượt gian-nan

Chuyến sau gối mỏi đầu đau ran…

 

 

Duyên Anh, (Thơ Tù, Nam Á Paris-1984)

 

 

Những kẻ chịu đựng h́nh phạt của thù hận một cách can-đảm và kiên- nhẫn, khinh-thường h́nh-phạt của thù-hận, bước qua nó mà đi mà tồn-tại để tặng nhân-loại một định-nghĩa làm người, nhân-loại đă không thấy h́nh ảnh tuyệt-vời của những kẻ ấy ở những cuốn sách viết về họ, nói về họ. May mắn, nhân-loại không đọc nổi chữ Việt Nam, thành ra, họ chưa nhăn mặt biết tù-nhân chính-trị của chúng ta “ăn giun, ăn cắp cháy, ăn vụng thịt, ăn tranh cơm với heo”! Hơn mười năm nghẹn-ngào của dân-tộc, của tù-nhân lao-cải, nhân-loại đă được mở mắt những điều ǵ? Một cái xó xỉnh đề lao Gia Định khu Cl của Đoàn văn Toại chưa biết ghẻ tù thêu dệt ngu-xuẩn, bịa đặt gian-dối đă rằng “Goulag Vietnamien” ư? Muốn viết quần-đảo tù-ngục cộng-sản ở Việt Nam sau 1975, phải viết những trại tập-trung lao-động khổ-sai tại Sông Bé. Những đảo Bù Nho, Bù-gia-mập, Phú Văn, Phước Long, Hớn Quản, Đồng Xoài đă tạo thành một quần đảo biểu tượng. Có trại lao-cải của đàn bà tư-sản, vượt biên, phản-động. Có trại lao-cải của vũ-nữ, gái điếm. Có trại lao-cải của thanh-niên x́-ke, ma-túy. Có trại lao-cải của con nít. Có trại lao-cải của phế-binh. Có trại lao-cải của sĩ-quan chế-độ cũ. Có trại lao-cải của trộm cướp… Chỉ cần một cuốn sách viết chính xác về Quần-đảo Sông Bé, thế-giới sẽ thẩm-định giá trị phát triển của nền tù ngục cộng-sản Việt Nam. Nhưng chúng ta rất thờ-ơ trong sứ-mạng gây xúc-động và phẫn-nộ cho thế-giới. Chúng ta có nhiều tù-nhân khắp miền đất nước đang hiện diện ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc. Chúng ta, thay v́ có nhiều người viết hồi-kư tù ngục, càng nhiều càng tốt – để các nhà văn lớn cô- đọng, tổng-hợp, nhuận-sắc văn-chương thành một Goulag Vietnamien vĩ-đại, đúng nghĩa, làm bàng hoàng thế-giới – th́ chúng ta lại chỉ có vài cuốn. Thành thử, Goulag Vietnamien mới là cái đống rác Đoàn văn Toại, nơi đó, tù-nhân đầy đủ tự-do lập kiến-nghị và kư tên vào kiến-nghị! Thành thử, đại-diện của tù-nhân cải-tạo tư-tưởng ở Việt Nam, nhân danh tù-nhân đi họp-hành, kiện-cáo, tranh-đấu cho tù-nhân, toàn các vị ở Tây 30 năm, các vị di-tản sang Mỹ trước 30-4-1975. Bọn cai-thầu nỗi khổ này chịu khó vác bị gậy đi ăn mày sự hứa hẹn của thiên hạ. Chúng nó đă trúng mối, cả danh lẫn lợi. Và tù-nhân của chúng ta vẫn vô-vọng ngày về. Thể th́ tiếng nói đích-thực của thống-khổ đâu? Tiếng nói không ai dám ngờ-vực của các ngục-sĩ đâu? Họ đă bị chụp mũ “ăng ten” cả rồi. Bị chụp mũ từ chân ướt chân ráo đặt lên đất quê người. Họ chán nản, im lặng. Để mặc cai thầu độc-quyền đấu thầu nỗi khổ. Như bọn thống trị luồn cúi đă loại bỏ những người yêu nước chân-t́nh để độc-quyền làm đầy-tớ cho ngoại-bang, ở đất nước chúng ta. Cho nên tôi nghĩ: những chuyến đi của tù-nhân Việt Nam trên quê-hương ḿnh, những chuyến đi định-nghĩa con người: định-nghĩa làm người như chuyến đi Sài g̣n – Phú Quốc, ngay cả trong chúng ta, vẫn c̣n mơ hồ, xa lạ.

 

 

Chuyến đi của tôi tầm thường. Năm mươi tù-nhân công-kênh hành-lư nhồi nhét trên chiếc xe vận-tải chuyên chở heo, ḅ. Không ai dám ngồi. Tất cả đứng. Bạn tù của tôi báo cáo lộ tŕnh. Xe đă qua cầu xa-lộ. Qua ngă tư Thủ Đức – Trường Vơ Bị. Nhiều anh em hồi -hộp chờ qua cầu sông Đồng Nai. Không, nó rẽ lối đi Vũng Tầu. Qua Long Thành, nó chạy thẳng. Một anh mau miệng:

 

 

- Ḿnh vào Xuyên Mộc đất đỏ, các ông ạ!

 

 

Chúng tôi bắt đầu khó chịu v́ con đường này đă bị lồi-lơm nhiều, không kịp tu sửa. Sau ngày 30-4-1975, đường-xá kể như không tu sửa. Nhà nước xă-hội chủ-nghĩa đẻ ra chính-sách “dưỡng đường”nhưng ngay ở thành-phố Hồ Chí Minh “rực rỡ tên Người”, chính sách “dưỡng đường” đă trở thành “chuyện tiếu lâm Việt- cộng”. Người ta múc nhựa đun sôi đổ đầy ổ gà rồi rắc cát lên. Xe hơi chạy qua, lôi luôn cả tảng nhựa’! Có nhiều con đường được “dưỡng” bằng cát xịt nước. Nắng Sài g̣n đă làm cát bay tung mù phố-phường. Đường thành-phố đă “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xă-hội chủ-nghĩa”, quốc-lộ và tỉnh-lộ c̣n tiến vọt theo “ba luồng sóng cách-mạng” bạo hơn.  

 

Xe tới thị-xă Bà Rịa th́ rẽ vô con đường đất. Tốc-độ giảm xuống. Nó ́ ạch nuốt những bậc thang. Chúng tôi dồn lên, xô xuống liên tục. Nằm chuồng gà lâu ngày, chúng tôi đâm ra yếu ớt. Lục phủ ngũ tạng đảo lộn với đường-xá gập-ghềnh. Nhiều anh em ói mửa. Bụi đỏ luồn qua những khe bạt hở khiến chúng tôi ngộp thở. Cộng thêm mùi ói mửa chua ḷm. Chúng tôi choáng-váng mặt mày. Chẳng ai bảo ai, cả làng ngồi hết. Ngồi lên cả hành-lư. Ngồi lên cả những băi nôn mửa mà chịu đựng xe nhồi. Khi sức nóng hấp chúng tôi, bắt mồ-hôi chúng tôi tuôn chảy ướt nhèm quần áo, xe qua Bầu Lâm, Bà Tô. Hai địa danh này, ít nhất, có bốn trại lao-cải dành cho các ông trong ủy-ban xă, ấp, khóm, phường của chế-độ cũ, dành cho những người vượt biên thiếu may-mắn, dành cho tù-nhân h́nh-sự chế-độ cũ và “đệ-tử tiên nâu tiên trắng”. Ngọc Thứ Lang, tên cúng cơm Nguyễn Ngọc Tú, hỗn-danh Tú Lệch, dịch giả Bố Già tài t́nh, đă chết nơi đây v́ can tội “chống chủ-nghĩa mác-xít bằng chủ-nghĩa choác-hít”.

 

Đúng trưa, xe chở sức-vật tới đích. Nó ngừng ở sân phía ngoài trại. Tấm vải bố che kín phía sau được lột lên và cửa sắt mở tung. Chúng tôi đứng dậy chờ lệnh.

 

- Tôi gọi tên anh nào, anh ấy hô có rồi nhẩy xuống khẩn-trương. Rơ chưa?

 

Chúng tôi đồng thanh đáp:

 

- Rơ.

 

Ba lô may ở Chí Ḥa máng hai vai, tay xách giỏ thực-phẩm, chúng tôi chuẩn bị một “saut tù”, chắc chắn, lâm ly hơn “saut đêm” của thi sĩ Hà Huyền Chi.

 

- Trần Duy Cát.

 

Đằng Giao len ra và nhẩy…dù! Người lính nhẩy dù bất-đắc-dĩ ngă chúi . Vệ-binh ôm súng cười khoái-chí. Gă công-an dục:

 

- Ngồi dậy khẩn-trương! Ra xếp hàng chỗ kia!

 

Đằng Giao đứng dậy thật nhanh, sửa lại hành-lư và bước đến chỗ ngồi chỉ-định.

 

- Nguyễn Mạnh Côn.

 

Tác-giả Ba người lính nhẩy dù lâm nạn… lâm nạn thật sự. Đằng Vân Hầu 1 không thề đằng vân giá vũ. Cái tước hầu của anh đă bị xóa bỏ. Anh ta ném hai cái bị xuống trước rồi “bông nhông” sau. Như vậy, anh ta chỉ bị…khuỵu.

 

- Vũ Mộng Long.

 

Tôi nhẩy… kiểu thế vận hội lao-cải! Kiểu này khác Tango, Rumba, Valse. Càng khác Twist, Disco. Có lẽ nó là kiểu à gâu gâu. Nhưng mà vẫn ngă bổ nhoài. Tôi ngậm-ngùi đứng dậy và lặng-lẽ bước đến ngồi cạnh Đằng Giao. Huyết-thống tổ-tiên tôi không có “anh-hùng-tính” và tôi đă không có tinh-thần “uy-vũ bất-năng- khuất”. Phải chi tôi di-tản qua Mỹ trước 30-4-1 975 hay chẳng hề bị tù-đầy, tôi sẽ viết báo chửi tôi khiếp-nhược đầu-hàng cộng-sản”. Phải hét lớn: “Bố quốc-gia đây, bố đếch nhẩy, các con cộng-sản làm ǵ bố th́ làm”, rồi có bị bọn chăn trâu cắt cỏ, bị đục sưng phổi, dập lá lách, tôi sẽ phong tôi làm anh-hùng tù ngục. Tuy nhiên, sẽ không anh nào gửi về an-ủi tôi một lọ dầu cù-là… Mỹ! Vậy th́ tôi hèn và tôi khước-từ làm anh-hùng đào-ngũ ngồi viết sử đấu-tranh.

                             

- Ông thầy, ngậm ngùi quá hả? – Đằng Giao thầm-th́ hỏi tôi.

 

- Hăy c̣n xanh, nó sẽ chín vàng, chín vàng ửng, vàng như ước mơ.

 

Cái động đầu tiên của trại tập-trung đấy. Nó là tiếng ngă huỳnh-huỵch. Chúng tôi đă biến thành ch́a khóa mở một kho cười no-nê cho đám công-an coi tù. Trẻ nhẩy. Già nhẩy. Màn nhẩy dù kéo dài cả tiếng đồng-hồ. Chúng tôi ngồi giữa nắng chang-chang, đầu trần. Nô-lệ thời Trung-cổ c̣n sướng hơn chúng tôi. Công-an th́ tà-tà. Công việc tiếp-nhận tù có chi gấp-gáp. Nắng làm chúng tôi hoa mắt và khát khô họng. Chúng tôi há hốc miệng, chứ chưa thè lưỡi thôi. Lệnh bắt chúng tôi ngồi yên tại chỗ. Tôi bỗng tương-tư Chí Ḥa. Châm ngôn của tù-nhân cộng-sản là “Nơi sắp đến khốn nạn hơn nơi đă đến. Ngày mai thê thảm hơn hôm nay”. Biết thế mà vẫn thèm thay chỗ, đổi không khí và rồi chán ngán.

 

- Ông thầy!

 

- Ǵ?

 

- Ḿnh bỏ xác tại đây mất.

 

- Bậy nào.

 

- Ḿnh tù lâu quá rồi.

 

- Một vụ nghỉ hè trong đời sống. Vài tháng nữa, ḿnh về. Hè của học tṛ ba tháng. Hè của tù-nhân ba năm.

 

- Ông lại tin nó.

 

- Tôi tin tôi. Vẽ ra niềm tin mà sống chứ.

 

Công-an đă kê bàn trước mặt chúng tôi. Họ bắt chúng tôi kê-khai lư-lịch. Từng người lên bàn. Đứng nghiêm và đứng cách xa cán-bộ ba thước. Luôn luôn, cộng-sản cảnh-giác cao độ. Lớn cảnh-giác lớn. Bé cảnh-giác bé. Cảnh-giác mọi lănh-vực. Cảnh-giác làm việc và cảnh-giác rong chơi. Bài học cảnh-giác được thi-hành triệt-để. Từ trên xuống dưới. Học tập dài dài. Thời chiến và thời b́nh. Cảnh-giác địch và cảnh-giác ta.

 

Chúng tôi lại phải làm công việc kê khai tên tuổi, chỗ sinh, chỗ sống, nghề-nghiệp cũ: can tội ǵ, bị bắt ngày nào, cơ-quan nào bắt vân vân… Tôi đă khai đến nát bét lư-lịch. Có một lần, ở khu Cl đề-lao Gia Định, Hai Phận đă làm tôi sửng-sốt về tội-trạng của tôi. Họ cầm tờ khai lư-lịch của tôi đứng ngoài cửa pḥng gọi tôi:

 

- Vũ Mộng Long.

 

- Tôi là Trưởng khu, anh phải dạ vâng.

 

- Dạ.

 

- Anh can tội ǵ?

 

- Nhà văn chế-độ cũ.

 

- Sai. Anh viết lại đi.

 

- Thưa ông Trưởng khu, viết thế nào ạ?

 

- Vũ MộngLong can tội Duyên Anh!

 

Hai Phận vĩ-đại đă tặng cả pḥng một trận cười khi hắn khuất dạng. Tôi cũng cười ra nước mắt. Về sau, suy nghĩ kỹ tôi mới thấy Hai Phận vĩ-đại hơn Hồ Chí Minh. Vũ Mộng Long có tội ǵ đâu. Duyên Anh gây ra đủ thứ tội. Thế nên, tôi đă yêu Vũ Mộng Long mà ghét Duyên Anh thậm tệ. Ở đây, ở cái trại tập-trung khổ-sai lao-động tôi chưa biết tên này. Người ta chấp nhận Vũ Mộng Long, bút hiệu Duyên Anh, can tội nhà văn phản-động, dẫu hồ-sơ Trung-ương ghi rơ tôi can tội “Đảng viên Duy Dân trốn tŕnh-diện học-tập, trong tổ-chức chống phá cách-mạng hiện-hành”.

 

 

Phải mất thêm hai tiếng đồng-hồ phơi nắng nữa thủ-tục nhập trại mới của chúng tôi mới xong. Rồi chúng tôi được tách thành hai nhóm và được dẫn vào trại, chỉ-định nơi ăn chốn ở.

 

° ° °

Trại tập-trung khổ-sai lao-động này có Ḥm-thư mang bí số TH6 Xuyên Mộc, Đồng Nai. Nghĩa là trại TH6 thuộc huyện Xuyên Mộc, tỉnh Đồng Nai. Riêng huyện Xuyên Mộc đă vượt chỉ tiêu 6 trại lao-cải. Cả tỉnh Đồng Nai nhân lên bao nhiêu lần?

 

TH6, khi tôi tới, chưa nhốt tù-nhân sĩ-quan Quân-lực Việt Nam Cộng-ḥa. Mà chỉ toàn sĩ-quan cảnh-sát đặc biệt, cảnh-sát tư-pháp, sĩ-quan, hạ sĩ-quan Phủ đặc-ủy Trung-ương t́nh-báo, vài ông thẩm-phán và tù-nhân h́nh-sự đa-số mang tiền-án du-thủ du-thực dưới chế-độ cũ. Khoảng mười dẫy nhà mái tôn, nền đất, tường ghép bằng cây dài, to cỡ cánh tay, chôn sâu chẳng mấy hứa hẹn an-ninh cho những tay thích trốn trại. Mỗi dẫy nhà chứa trên dưới 150 tù-nhân gồm 3 đội. Nhà “kiến trúc” hai tầng, do tù-nhân xây cất.

 

Tầng dưới phải khom lưng, đứng thẳng người sẽ đụng đầu. “Sàn gác” cũng ghép bằng cây nhỏ c̣n nguyên vỏ, nằm ê ẩm ḿnh mẩy. Một cái cầu tiêu ba chỗ ngồi đại-tiện phía sau và ở ngay trong nhà. Cầu tiêu “kiến trúc” rất ly-kỳ xứng đáng đoạt giải Roma, nếu dự thi như kiến-trúc-sư Ngô Viết Thụ. Ngó xuống lỗ cầu sẽ thấy cái máng gỗ chứa phân. Không nên để nước tiểu và nước rửa đít chảy vào máng chứa phân. Như thế, nước tiểu sẽ ngấm qua phân, rỉ xuống đất qua kẽ hở của máng chứa phân và tạo thành mùi thối… trường-kỳ. Trường-kỳ kháng-chiến nhất-định thắng-lợi nhưng trường-kỳ thối sẽ hủy diệt khứu-giác. Do đó, “kiến-trúc-sư” tù của Đội xây cất mới dùng tôn mỏng sáng-chế một kiểu ống máng rất hiện-thực xă-hội chủ-nghĩa. Ống máng nầy nghiên-cứu kỹ-lưỡng trước khi thiết-kế. Nó vừa đúng tầm phóng ngắn của “ṿi nước”. Nhỡ phóng mạnh: văng ra ngoài không sao, đừng ào ào xuống máng chứa phân là hợp tiêu chuẩn cải tạo. Ống máng chạy về phía sau lưng tù-nhân ngồi đại tiện th́ rộng ra để tù-nhân thiếu giấy chùi, có thể, đem b́nh nước, ca nước lết lùi vài bước mà rửa hậu-môn. Nước rửa và nước tiểu trôi qua cái ống mà tuôn vào cái hồ chứa có nắp đậy, bên ngoài bức tường cây ghép. Nước tiểu sẽ dùng để tưới rau xanh. Đội rau xanh sẽ lo múc gánh đi, mỗi sáng. Và, mỗi sáng. khi các đội đi lao-động hết, trừ những ai khai ốm nằm nhà, tù-nhân thuộc Tổ vệ-sinh kéo các thùng phân đă đầy có ngọn ra, xếp lên xe cải-tiến. Xe cải-tiến là thứ xe ba-gác, lốp đặc. Miền Nam đă chê bỏ từ lâu. Nhưng, ở miền Bắc, xe cải-tiến là cuộc cách-mạng vĩ-đại nhằm giải-phóng đôi vai phụ-nữ nông- thôn. Phụ-nữ nông-thôn miền Bắc gánh gồng vất-vả. Đảng sáng-tạo xe cải-tiến. Thay v́ gánh, phụ-nữ kéo xe cải-tiến oằn vai như ḅ, như ngựa vậy. Để hợp nếp- sống văn-hóa mới, tù-nhân đậy lá chuối kín các máng chứa phân. Rồi anh ta xối nước rửa máng tiểu, rửa phân dính quanh lỗ cầu, rửa sàn cầu. Anh ta lại kê máng chứa phân mới đă lót sẵn mạt-cưa. Trại có xưởng cưa, tha hồ nhiều mạt. Công việc xong xuôi, anh ta kéo xe phân tới kho phân của đội rau xanh mà đổ. Rồi kiếm suối rửa xe, rửa máng. Rồi chọn khúc suối trên nước chảy róc-rách mà tắm gội, xát xà-pḥng thơm vài lần. Rồi kéo xe về trại. Rồi nghỉ ngơi. Rồi lo ca cóng cải- thiện bữa ăn. Một ngày lao-động có một giờ, nhàn quá.

 

Tù-nhân đặc-trách vệ-sinh nhà-cầu nhiều đặc-quyền, đặc-lợi. Có quyền đi vung-vít trong, ngoài trại. Có quyền nhận riêng thực-phẩm của nhà bếp để nấu nướng riêng. Có quyền nấu nướng hai bữa. Có thể xin rau của Đội rau xanh và câu cá, ṃ cua, xúc tép . Có thể nuôi gà nữa. Chỉ thiệt tḥi một tí là mũi sẽ điếc, sẽ hết đánh hơi thấy “thoảng hương thơm một da thịt đàn bà!.

 

Hai tù-nhân t́nh-nguyện làm công việc phu đổ thùng là hai vị thẩm-phán của Ṭa Thượng-thẩm Sài g̣n. Nhưng phu đổ thùng, bạn biết chưa? Lịch-sử đổ thùng như vầy: Trước cách-mạng 19-8-1945 , dân chúng Hà nội 2 đă chơi cái tṛ đại-tiện kiểu đại-tiện của tù-nhân ở các trại lao-cải. Dĩ nhiên, nhà xí thuộc phạm vi gia đ́nh nên nó văn-minh hơn. Năm giờ sáng, các ông phu đổ thùng chở thùng mới vào thành phổ bằng đôi bồ có nắp đậy và gánh hai thùng phân ra tận ngoại-ô bán cho nông-dân. Thuở ấy, làm nghề thầu phân béo bổ, lại không thất đức như thầu vé chợ. Nhà thầu thuê phu đổ thùng. Phân bắc quư lắm. Bởi vậy, có khối bà địa-chủ, khuyên vàng, xà-tích rủng-rỉnh mà dám xắn ống tay áo lên cao, đưa cánh tay trần chạm đáy thùng xia khoắng kỹ xem thùng xia nhiều giấy hay ít để định giá. Sau cách-mạng 19-8-1945, phu đổ thùng vẫn đeo nhăn hiệu phu đổ thùng. Măi sau cuộc cải-cách ruộng đất 1956, vô-sản vùng lên dữ-dội th́ phu đổ thùng hóa kiếp “công-nhân vệ-sinh đặc-trách” đổ thùng. Phùng Quán tả sự ghê rợn của đổ thùng:

 

 Tôi đă gặp

Chị em công-nhân đổ thùng

Yếm rách chân trần                   

Quần xăn quá gối

Run lây-bẩy chui vào hầm xia tối

Vác những thùng phân

Ta thuê một vạn một thùng

Có người không dám vác

 

Hà-nội từ 1973 đă được mệnh-danh là “thủ-đô của phẩm-cách con người”. Và, mặc dù, chủ-tịch Hồ Chí Minh ba-hoa “Đánh xong giặc Mỹ ta sẽ xây-dựng bằng mười năm xưa”, bi-cảnh đổ thùng c̣n tiếp diễn và muôn đời tiếp nối. Sự nghiệp đổ thùng của nhân-dân sống măi trong chủ-nghĩa cộng-sản Việt Nam như “Bác Hồ vĩ-đại sống măi trong sự-nghiệp” đổ thùng của nhân-dân vậy.

 

 

Tôi không hiểu tại sao hai vị thẩm-phán của Toà Thượng-thẩm Sàig̣n 3 lại dám làm công-việc mà, đói ră họng “Ta thuê một vạn một thùng, Có người không dám vác”? Nghe một vị thẩm-phán có vợ bác-sĩ y-khoa thuyết-tŕnh công-tác lao-động đổ thùng, Đằng Giao khoái quá, hỏi tôi:

 

- Hay là ông thầy và tôi t́nh nguyện đổ thùng nhé!

 

- Cảm hứng nào thế?

 

- Ḿnh ngu, ở lại để đi tù là đáng ăn một thùng cứt.Ḿnh không dám ăn th́ đi đổ vậy.

 

- Rất đúng.

 

Vị thẩm-phán nói t́nh-nguyện đổ thùng sẽ bị nghi ngờ. Phải phấn-đấu cam-go vô cùng. Nhờ đó, tôi t́m được câu trả-lời tại sao hai vị thẩm-phán anh-dũng đổ thùng. Ông Trưởng Công Cừu thuyết tŕnh về “triết học” Tam- túc cộng với Tam-giác cộng với Tam-nhân thành Nhân-vị ở một khoá học-tập Ấp Chiến Lược năm 1962 đă phán một câu chí-lư: “Người trí -thức muốn làm đẹp xă -hội, cần phải xông vào những nơi nhơ bẩn nhất để làm cho nó sạch-sẽ, thơm tho”. Đă chẳng một trí-thức nào xông vào những nơi nhơ-bẩn mà chỉ thấy trí-thức xông vào những nơi ăn-bẩn! Trí-thức, nhất là trí-thức khoa-bảng, vốn sợ khó, sợ khổ. Hôm nay bị cộng-sản nó cưỡng-bức lao-động, vẫn cố cách xoay sở chỗ nhàn-hạ, dẫu có bị ngửi phân tiểu đến điếc mũi hết ngửi nổi mùi da thịt của vợ ḿnh.

 

- Anh ạ, vợ tôi sợ tôi chết khứu giác, đă mua cái mặt nạ chống hơi ngạt gửi cho tôi.

 

- Ông có đeo mặt nạ đổ thùng không?

 

- Có!

 

- Rồi sao?

 

- Cán-bộ tịch thu.

 

- Vô lư!

 

- Vâng, thật vô lư. Cán-bộ bảo tôi thiếu thiện-chí…đổ thùng, chưa tiến-bộ c̣n nặng đầu óc tiểu-tư-sản trí-thức.

 

Thôi, tôi quên cái cầu tiêu và sự tiến-bộ đổ thùng của hai vị thẩm phán mà những ai đă ở TH6A trước và sau tôi đều thuộc tên nhớ mặt.

 

Tôi tả tiếp sinh-hoạt của “cái nhà”. Ở trại tập-trung, người ta không gọi “pḥng” mà gọi “nhà”. Tù-nhân chịu trách-nhiệm vệ-sinh, trật-tự toàn nhà gọi là Nhà-trưởng! Nhà-trưởng bắt buộc phải làm Đội-trưởng. V́ nhà có hai tầng nên thường xuyên xẩy ra căi-cọ. Thí-dụ trên gác vô ư đánh đổ nước uống, nước mắm, lau nước điếu xuống dưới. Thí dụ quét bụi, giũ bụi không báo trước.Vân vân.

 

Sinh-hoạt của các trại lao-cải rập theo một chính-sách, một tổ-chức. Mỗi trại, thông thuờng có bây nhiêu đội:

 

 

1- Đội cấp dưỡng: Phụ-trách công-tác ăn uống cho tù-nhân toàn trại.

 

2. Đội xây cất: Phụ-trách xây dựng nhà cửa cho tù-nhân và các công-tŕnh xây cất của trại.  

 

3. Đội lâm-sản: Phụ-trách công-tác chặt cây, chặt tre, cung-cấp cho đội xây dựng và chặt củi cho đội cấp dưỡng.

 

4. Đội vận-chuyển: Phụ-trách kéo, đẩy xe cải-tiến chuyên-chở thực-phẩm, hàng-hóa.

 

5. Đội rau xanh: Phụ trách trồng rau cung-cấp cho nhà bếp.

 

6. Đội nông-nghiệp: Phụ-trách trồng khoai, sắn, bắp, lúa…

 

7. Đội chăn nuôi: Phụ-trách nuôi heo, nuôi ḅ.

 

8. Đội văn-nghệ: Phụ trách ca múa, đàn sáo…

 

9. Đội linh-tinh: Đội này gồm nhiều tổ như Tổ y-tế, Tổ vệ-sinh, Tổ thiết-kế, Tổ trật-tự, Tổ thông-tin văn-hóa, Tổ thăm nuôi…

 

Nếu trại chứa 1000 tù-nhân, ít nhất, có 4 Đội rau xanh, 3 Đội lâm sản. Đội nông nghiệp th́ trại nào cũng đông cả. Một đội không quá 50 người. Đội trưởng, Đội phó, Thư-kư do Ban giám-thị chỉ-định. Tổ trưởng do cán-bộ quản-giáo chỉ-định. Đội trưởng được miễn lao-động 100 phần 100. Đội phó được miễn 50 phần 100. Thư-kư lao-động huỳnh-huỵch. Quản-giáo là ông thầy của lớp học lao-cải. Ông thầy săn sóc cả phần tư-tưởng lẫn phần lao-động. Khi dẫn đội ra hiện-trường lao-động, ông thầy quản-giáo đeo súng ngắn. Hai vệ-binh đeo súng AK. Đội trưởng là một chức vụ năo-nề nhất của thân-phận tù. Chỉ những thẳng ngu-si, đần-độn mới ham làm Đội trưởng và chức-sắc trong tù. Miễn lao-động nhưng Đội trưởng phải đôn-đốc tù-nhân của đội lao-động tích-cực. Nội cái khoản đôn-đốc lao-động đă bị chửi xéo, chửi thầm mục mả rồi. Chưa kể, Đội trưởng “phải thay mặt cán-bộ kiểm-soát tư-tưởng của đội khi không ở hiện-trường lao-động, phải báo cáo cán-bộ mọi diễn-biến tư-tưởng của đội”. Cái khoản này hăi-hùng cao độ, dễ đưa nhau vào thù hận. Hai khoản cộng lại, dồn Đội trưởng vào thế trên đe dưới búa. Ù-lỳ th́ bị quản-giáo “giáo-dục” tơi-bời, bị làm tự kiểm, bị gọi lên Ban giám-thị. Tích cực th́ bị anh em thù ghét, nguyền-rủa. Đó là thân-phận Đội trưởng. Đổ thùng yên ổn nhất, không ai thích hít phân nên chẳng ai thèm chú ư thằng đổ thùng. Khổ nỗi, ở tù là phi-ní tự-do, không có quyền chọn lựa công-tác lao-động. Muốn đổ phân lại bị làm…văn-nghệ! Không muốn làm Đội trưởng mà Ban giám-thị chỉ-định làm Đội trưởng, Nhà trưởng vẫn cứ đau khổ “hồ-hởi phấn-khởi”. Từ-chối đồng nghĩa với chống đối cách-mạng. Quan-điểm chính-trị bị nâng cao vút. Anh khinh-nhờn sự chiếu-cố của cách-mạng là anh không thích tiến-bộ, là anh nuôi dưỡng tư-tưởng phản-động, là anh cầm chắc sự khốn-nạn suốt quá-tŕnh lao-cải.  

 

Người cộng-sản dùng câu Tư-Tưởng Thể-Hiện Hành-Động làm khuôn vàng thước ngọc đề đo tâm-hồn con người. Khuôn vàng này là bảo-sinh-viện của gian dối. Con người cộng-sản và con người trong chế-độ cộng-sản suốt đời đóng kịch giả vờ. Buồn phải giả vờ vui. Đói phải giả vờ no. Đau khổ phải giả vờ hạnh-phúc. Chổng-đối phải giả vờ ủng-hộ. Đả-đảo phải giả vờ hoan-hô. Ghét phải nói yêu. Tí-hon phải nói vĩ-đại. Thua phải nói thắng. Vân vân. Chân-lư là xa-xỉ-phẩm dưới ṿm trời cộng-sản. Thi-sĩ Phùng Quán đă khao-khát sự chân-thật. Ông tuyên-chiến với chủ-nghĩa cộng-sản chỉ v́ “Tôi muốn làm nhà văn chân-thật, chân-thật trọn đời”. Những kẻ chân-thật trọn đời không có đất sống dưới ánh mặt trời Đảng. Họ sẽ bị hủy-diệt hoặc sẽ bị tẩy năo để đồng-hóa với gian dối.

 

Ở trại cải-tạo, giáo điều Tư-Tưởng Thể-Hiện Hành-Động được các bậc thẩy quản-giáo ranh con suy-diễn thêm: “Hành-động tốt th́ tư-tưởng tốt. Tư-tưởng tốt do lao-động tích-cực. Lao-động chính là thước đo giá-trị con người. Nhưng muốn tư-tưởng tốt, cần triệt-để thi-hành đúng Nội- quy, Tiêu-chuẩn cải-tạo và Nếp sống văn-hóa mới”. Những tù-nhân khôn ngoan nhất, thông-minh nhất là những tù-nhân quán-triệt cái vơ-đạo của nhà Mộ Dung. Mày muốn tư-tưởng thể-hiện hành-động th́ ông thể-hiện hành-động. Ông giả vờ khiếp-nhược, ông nín thở qua cầu. Tâm-sự của ông, ông dấu kỹ đáy tim, mày sao biết nổi. Những tù-nhân thích chân-thật, thích khoe móng vuốt thích thể-hiện sự chống đối, đều bị rơi vào bẫy…cải-tạo. Hiển nhiên, họ bị chặt hết nanh vuốt, bị đầy đoạ tới mức bị cô- lập. Cuối cùng, họ trở thành những người khiếp-nhược hơn cả những kẻ đă bị họ miệt thị khiếp-nhược.

 

 

Cộng-sản độc-quyền anh-hùng. Phải nhớ kỹ điều đó ! Họ tự nhận họ ưu-việt, ”cái nôi của loài người đỉnh cao của trí tuệ”. Sự ngạo-mạn phát-xít đó không cho phép những kẻ chống đối họ làm anh-hùng trong thế-giới của họ. Cộng-sản lại không ngu-si đần-độn như đa số những người chống họ tưởng-tượng. Họ rất giỏi sự quản-lư con người và kiêu-ngạo.

 

Cho những anh trung-sĩ giáo-dục đại-tá, nhà văn, nghệ-sĩ, thẩm-phán, bộ trưởng, bác-sĩ của chúng ta, họ quả là kiêu-ngạo xấc-xược, thứ kiêu-ngạo đầy mặc-cảm. Vị đại-tá Quân-lực Việt Nam Cộng-hoà có nên anh-dũng chống đối thằng trung-sĩ chăn trâu cắt cỏ về tư tưởng không nhỉ? Thế th́ giả vờ và gian dối là triết-lư sống tuyệt hảo ở trại lao-cải cộng-sản. Tiếc thay, người ta đă không đủ kiến-thức cộng-sản, không có kinh-nghiệm cộng-sản để đương đầu cộng-sản trong nghịch-cảnh. Nhưng trách chi? Hai mươi năm chống cộng-sản, chúng ta có nghiên-cứu chủ-nghĩa cộng-sản đâu? Chúng ta chỉ hô to một khẩu-hiệu “Đả đảo cộng-sản”!

 

 

--------------------------------

1

Một bút hiệu kư ở mục Bẩy Ngày Đêm Tính Quẩn Chuyện Đời trên tuần-báo VNTP của Nguyễn Mạnh Côn.

2

Và các thành phố, các thị-xă miền Bắc luôn.

3

Xin miễn nêu tên.

 

 

CHƯƠNG 2

 

Chúng tôi sống chung nhà với các đội cảnh-sát đặc-biệt và trung-ương t́nh-báo. Chiều qua, Đằng Giao và tôi đă chứng-kiến sinh-hoạt ca-cóng ở bếp ngoài trời sát hàng rào kẽm gai. Thấy anh em xào nấu thức ăn, chiên lạp-xưởng thật hấp-dẫn. Chúng tôi ra đi, kể như giỏ thực-phẩm đă xác-xơ, đành đứng xem mà học-tập kinh-nghiệm ca-cóng. Ở TH6, lửa chỉ được phép nổi buổi chiều khi các đội tan lao 1 về trại. Tù-nhân, mỗi người một bếp, nhóm lửa vội-vàng, nấu-nướng thật lẹ để kịp đem vào nhà. Rồi rửa mặt rửa tay chờ điểm danh. Một tiếng đồng-hồ cho các dịch-vụ lấy cơm, chia cơm, ca-cóng. Những tù-nhân không ca-cóng th́ ăn cơm ngoài sân, ca-cóng th́ đem vô, đợi cửa tù khóa sau lúc điểm danh mới thong-thả ăn uống. Chủ nhật được nghỉ, tù-nhân sinh-hoạt ca-cóng hai lần. Tha hồ nấu chè, nướng bánh và tụ tập enioy, đàn sáo, nhạc vàng…

 

 Ca là cái ca, ai cũng biết. Ca nhôm, ca sắt, ca nhựa vẫn là ca. Cóng người miền Nam gọi là lon. Kỳ thủy, hộp sữa ḅ đặc uống hết mở nắp vất đi, người miền Bắc gọi là cái ống bơ. Có nơi gọi là ống bơ. Ống bơ dùng để đong gạo. Riết rồi, bất cứ một hộp sắt, hộp thiếc nào to nhỏ, đều được gọi là ống bơ. Ống bơ rỉ th́ chán lắm. Hát như ống bơ rỉ! Cái lon sữa bột Guigoz cũng là…ống bơ, là cóng bơ. Dưới chế-độ cộng-sản, v́ toàn dân đói nên thiếu hơi, nhiều danh-từ được giản-lược half and half. Cóng bơ c̣n một tiếng cóng. Bơ ở thiên đường mù-mịt, bỏ bơ đi là đúng. Bỏ bơ là loại bỏ tư-bản, là chống đế-quốc, là vô-sản khoai sắn “cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau”… Cái cóng đa-dụng và đa-năng ở trại lao-cải là cóng Guigoz. 

 

 Hăng chế-tạo sữa bột Guigoz đă đi vào lịch-sử đấu-tranh của hai miền Nam-Bắc. Trên thế-giới, có lẽ, chỉ có nước Việt Nam bốn ngh́n năm văn-hiến giầu và nghèo b́nh-đẳng… lon Guigoz. Nhà nào cũng có lon Guigoz. V́ lon Guigoz bán ngoài thị-trường vỉa hè. Đựng đường, đựng mỡ, đựng bột thật an toàn. Đựng cà-phê th́ khỏi lo bay mất hương thơm. Thuở ta học đ̣i Mỹ, công-chức làm việc thông-tằm, lon Guigoz biến thành thứ gà-mèn lư-tưởng, đủ bữa cơm trưa ăn ngay tại cơ- quan. Sau 30-4-1975, lon Guigoz đắt giá. Một cái trị-giá hai lá cờ đỏ sao vàng tặng thêm chân-dung Bác, Mác và Lê. Lần đầu tiên trong lịch-sử cộng-sản, lon Guigoz hạ chủ-nghĩa và lănh-tụ. V́ chủ-nghĩa và lănh-tụ bắt quá nhiều tù. Và tù-nhân cần lon Guigoz làm cóng. Ca cóng, tôi không hiểu chính-xác xuất-xứ của nó. Người nói: Anh em cải-tạo miền Bắc đem về Nam. Kẻ bảo: Việt cộng nó gọi vậy ḿnh hài hước gọi theo, riết đâm quen. Điều buồn cười là, khi nổi lửa nấu bếp: đa-số tù-nhân nấu bằng nồi. Vậy th́ ca-cóng là một bí số- như TH6- là bí danh của Nấu Nướng, như Lư Thụy, Anh Ba, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, Nguyễn Tất Thành, là bí danh của Nguyễn Sanh Cuông.

 

 

 Tù-nhân kiếm giây kẽm làm cái quai cho cóng. Tùy theo sự khéo tay của mỗi người. Dở nhất là đục lỗ luồn giây rồi bẻ quặp lại. Ra hiện-trường lao-động, mỗi tù-nhân xách một cái cóng đựng nước đun sôi. Ở TH6, cóng không được phép nấu ngoài băi. Tù-nhân nấu bằng cóng thường là tù-nhân ăn một ḿnh. Ăn chung th́ vui nhưng nếu trong đám bạn ăn chung có người trốn trại, sẽ gặp cơ-man rắc rối, sẽ tự kiểm, tự khai mệt phờ. Cóng nấu nướng, nắp phải đục vài cái lỗ bốc hơi. Buổi chiều, anh em vất-vả kiếm củi, nổi lửa, ta chỉ việc đổ lưng cóng nước, bỏ vô dúm tôm khô, chút bột ngọt, tí nước mắm và thả vài lá mồng tơi, nếu ta kiếm được, rồi đậy chặt nắp, ta dùng sợi giây kẽm dài móc cái quai lon, nấu nhờ ngọn lửa tạt ra của thiên hạ. Đợi nó sôi tan nhừ tôm, ta mở nắp cóng, thẩy nắm ḿ vụn vào. Thế lả ta có cóng ḿ cải-thiện bữa ăn.

 

 Sinh-hoạt ca cóng thật sinh-động ở những chiều tù. Tôi sẽ quan-sát kỹ-lưỡng hơn. Để sáng-tạo một phương-pháp nấu-nướng thích-ứng với thời-gian hạn-hẹp của trại. Sáng nay, chúng tôi được dẫn đi tắm. Rồi về nhận quần áo tù, viết lư-lịch. Lại lư-lịch! Mỗi tù-nhân viết một lư-lịch mới. Lư-lịch này đầy đủ chi tiết. Buổi chiều, chúng tôi lên hội-trường học-tập Nội-quy trại, Bốn tiêu-chuẩn cải-tạo và hai mươi nếp sống văn-hoá mới. Nhờ học-tập, tôi biết TH6 có hai khu. Khu A là nơi tôi đang ở 2. Khu B chả rơ nơi nào. Nội-quy trại có nhiều điều khác hẳn Nội-quy nhà tù. Một điều đáng suy-nghĩ:”Cán-bộ không được phép đánh đập trại viên và cấm-chỉ trại viên nịnh hót, mua chuộc cán-bộ”. Người lên lớp chúng tôi là Trưởng trại A (Phó giám-thị TH6) Nguyễn Xuân Bến. Chúng tôi học-tập hai ngày liên tiếp. Học xong, chúng tôi sẽ được biên-chế đội và sẽ cuốc xẻng, dao búa lao-động trả nợ… đời ngụy! Nhưng, buổi chiều ngày thứ tư của trại-viên mới, xẩy ra một vụ trốn trại ngoạn-mục. Bốn sĩ-quan cảnh-sát đặc-biệt đă biến dạng khi đội điểm danh về suối tắm. Súng nổ báo động. Vệ-binh toàn trại súng ngắn, súng dài lao vào cuộc săn đuổi. Các đội tan lao về sớm đang nổi lửa ca-cóng bị dập tắt lửa, xua hết vô nhà. Người ta nhắm hướng núi Mây Tào mà truy-lùng kẻ trốn trại.

 

 Lần đầu tiên, từ thành-lập TH6, tù-nhân chính-trị trốn trại. Chỉ có hai loại tù, ở trại cải-tạo: Tù chính-trị và tù h́nh-sự. Tù chính-trị gồm sĩ-quan quân-đội và cảnh-sát, hạ-sĩ-quan Trung-ương T́nh-báo, an-ninh quân-đội, công-chức cao cấp, nghị-sĩ, dân-biểu, nghị-viên, thẩm-phán, phản-động, vượt biên, nhà văn, nhà báo. Tù h́nh-sự gồm lưu manh, trộm cắp, lường gạt, hiếp-dâm và tiền-án bất hảo. Đă xẩy nhiều vụ trốn trại thành-công ở TH6 A và những kẻ liều mạng đều là du-đảng. Có một vụ hi-hữu được tù kể lại như huyền-thoại. Một tên du-đăng trốn trại khác đời. Nó tới chuồng gà bóp cổ hai con, vào bếp trại nhóm lửa đun nước làm lông rồi luộc cả hai con gà. Nó ăn hết một con, vất lại cái đầu và cặp chân. Nó ra vườn rau xanh nhổ thêm ba cây cải bẹ rồi mới dông tuốt. Nhưng h́nh-sự trốn trại không quan-trọng bằng chính-trị trốn trại. Lực-lượng vơ-trang TH6 truy-lùng suốt đêm. Chúng tôi chưa biết kết-quả th́, ngay sáng hôm sau, chúng tôi nhận lệnh tập-trung ngoài sân với tất cả hành-lư.

 

 Và chúng tôi rời TH6 A. Người ta không muốn chúng tôi dao-động chuyện trốn trại. 

 

° ° °

 

 Ra ngoài cổng trại, có hai lối. Rẽ trái th́ về Bà Rịa. Rẽ phải th́ sang Long Khánh. Chúng tôi xếp hàng đôi, rẽ phải. TH6 B nằm trên đường qua Long Khánh. Người ta bảo chúng tôi vào khu B. Qua chiếc cầu gỗ bắc ngang ḍng suối, chúng tôi đi lung-tung. Vệ-binh áp tải và quản-giáo dẫn độ không chú-ư đến sự vô trật-tự của tù-nhân. Chúng tôi không bị c̣ng tay v́ đi bộ và lưng đeo nặng ba-lô, tay xách trĩu giỏ. Tôi chợt nhớ bài hát Sơn La của Đỗ Nhuận diễn tả cảnh tù-nhân bị phát-văng thời nô-lệ Pháp. “Sơn La âm-u, núi khuất trong sương mù. Lá rơi xuống suối, gió đưa vù….Đoàn tù tha-hương, cất bước đi trên đường…” Chúng tôi đang là “đoàn tù tha-hương, cất bước đi trên đường, đi trên đường cách-mạng vô-sản thành-công, đi trên đường giải-phóng nô-lệ, đi trên đường ưu-việt của chủ-nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng, đi trên đường dẫn đến đỉnh cao của trí-tuệ, dẫn đến cái nôi của loài người .

 

 Đă tới khúc cổ-thụ bị chôn ḿn, nổ bật gốc, cây lớn bị cưa găy nằm rạp chắn lối. Chúng tôi phải gỡ cành, dọn đường rồi leo qua các thân cây mà đi. Mỗi quăng bị khai quang, chúng tôi tháo bỏ hành-lư. Khai quang xong, lại mang hành-lư lên đường . Xuyên Mộc mang một ư-nghĩa nào? Nếu là xuyên qua gỗ, chúng tôi đă xuyên qua gỗ. Bài học lao-động thứ nhất toát mồ-hôi, rời tay, ră cẳng . Hai cây số rừng 3 cho tù-nhân Chí Hoà thật thấm-thía. Khi mặt trời cao gần đỉnh đầu, chúng tôi ra khỏi quăng đường thử-thách lao-cải đầu tiên. Và đi một khúc đường quang, chúng tôi đến TH6 B. 

 

 TH6 B là mật-khu của Việt cộng suốt cuộc chiến-tranh xâm-lăng miền Nam. Người dân thiểu-số đă có sẵn cái tên cho vùng này: Sa Ác. Sa Ác là rơi vào chỗ ác độc, rơi vào chỗ chết. Trần Bạch Đằng, tên cúng cơm Trương Gia Triều (đă bỏKỳ, thực ra là Trương Gia Kỳ Triều), bí danh Tư Ánh, tác giả Chân dung một quản-đốc, kư bút hiệu Nguyễn Hiểu Trường (Hưởng Triều đó), đăng theo kiểu feuilleton trên nhật-báo Sàig̣n Giải Phóng, đă hồi tưởng khá nhiều về những tháng ngày chuyên chở vũ-khí từ Vũng Rô vào Nam, qua các nhánh sông để ghé sông Ray. Sông Ray nằm sát Sa Ác, TH6 B. Nó là biên-giới Xuyên Mộc – Long Khánh. Tôi không biết chính-xác nó bắt nguồn từ đâu. Có người bảo nó là nhánh nhỏ của sông La Ngà. Có người bảo nó khởi nguồn từ chân núi Mây Tào. Chắc chắn nhất, nó chẩy qua Sa Ác TH6 B. Mà TH6 B là mật-khu an-toàn của Việt cộng. Vũ-khí Hà-nội tiếp tế cho các lực-lượng vơ-trang miền Đông đă đổ vào mật-khu này. Do đó, TH6 B đă là vùng oanh-kích tự-do của không-lực Việt Nam Cộng-hoà và Mỹ. Quân-đội Úc-đại-lợi đặc-trách an-ninh tỉnh Phước Tuy đă thả vô TH6 B những toán biệt-kích thám-báo. Dấu chân của Kangourou vẫn c̣n khi tôi tới (xin đọc những trang sau). 

 

Sông Ray đầy vơi theo hai mùa mưa nắng. Mùa mưa, nước đỏ ngầu, chẩy xiết và dâng cao mấp-mé sân trại. Mùa nắng, nước trong vắt, chỗ sâu nhất khoảng nửa thước, chỗ nông nhất xe hơi có thể vượt qua. Trại lao-cải TH6 B bên bờ sông Ray, chung-quanh chằng chịt hố bom lớn và những trái bom chưa kịp nổ. Nhiều cánh rừng xơ-xác v́ bom lửa. TH6 B “kiến-trúc” sơ-sài hơn TH6 A. Có hai khu-vực. Khu của công-an coi tù và khu của tù-nhân. Biên-giới hai khu là con đường chạy thẳng sang Long Khánh. Khu của công-an gồm ba dẫy: Dẫy của vệ-binh, dẫy của quản-giáo và dẫy của các chức-sắc lănh-đạo trại và văn-pḥng hành-chính. Sau ba dẫy là nhà bếp, nhà kho và nhà ăn của toàn bộ cai tù lớn nhỏ. Khu của tù-nhân mới lèo-tèo ba căn nhà và một căn đang xây cất. Hàng rào kẽm gai vây quanh khu này c̣n thấp và thưa. Tù-nhân vỏn-vẹn bốn đội, một rau xanh, một nông-nghiệp, một lâm-sản, một xây cất. Tất cả thuộc tù h́nh-sự. Chúng tôi là tù chính-trị trước tiên của TH6 B. Tôi nhớ ở Chí Hoà ra đi, tôi đếm đúng 5 chiếc xe chở heo. Đến TH6 A chỉ c̣n 2 chiếc. Vậy th́, chúng tôi, 100 tù-nhân chính-trị “tiền-phong” của trại TH6 đă được dẫn qua cổng đoạn-trường có cái biển gỗ nền đỏ chữ vàng treo cao, bên ngoài viết : Không có ǵ quư hơn độc-lập tự-do, bên trong viết : Lao-động là vinh-quang!

 

 Chúng tôi bị tách thành hai nhóm, ngồi xếp hàng đôi giữa sân nắng, hành-lư để một bên. Lại khai sơ-yếu lư-lịch. Thủ-tục nhập trại mới mà. Tôi đă quá quen thủ-tục này. Quen đến độ, có thể, thuộc ḷng lư-lịch của ḿnh cả trong chiêm-bao. Phơi nắng gần say nắng th́ chúng tôi “khăn gói quả mướp nối nhau vào một căn nhà…mới. Từ nắng chói chang vào bóng râm, tôi không nh́n thấy ǵ, ít nhất, một phút. Tôi hiểu cơ-thể tôi đă hao ṃn tháng năm tĩnh ở nhà tù. Tôi nhà văn 42 kư lô, được độc-giả yêu mến tặng biệt danh Tăm Tre Việt Nam, đă trải tấm thân c̣m-cơi của ḿnh trên những tuyến đường Nhà Ḿnh – Sở Công An, Sở Công An – Đề-lao Gia Định. Đề-lao Gia Định – Chí Ḥa ngót nghét ba năm. Ba năm- đường rầy – tôi nằm bất-động chịu đựng từng chuyến xe lửa oan-nghiệt kéo dằng-dặc những toa thù-hận nghiến lên. Chưa chết, dĩ-nhiên. Cái h́nh hài xơ-xác, bấy nát, lỗ-chỗ những vết đâm ấy, tôi lết vào cái động của trại tập-trung Sa Ác. Mắt tôi bị quáng tưởng chừng đă bị mù. Không, không nên mù, không thể mù. Cần sáng, cần rực sáng để chiếu rọi những tia lửa tím vào cái bóng tối âm-u của thù-hận với ước-mơ khám-phá niềm bí-ẩn của đời sống.

 

 Tôi đă hết hoa mắt. Căn nhà tôi vừa vào tiến-bộ hơn các căn nhà ngoài TH6 A. Cũng hai tầng, nhưng sàn bằng gỗ xẻ ghép khít và cột lớn cách các khoang đục những bậc thang để lên xuống dễ dàng. Lối “kiến-trúc” y hệt nhà khu A. Giữa là hành-lang trống, nền đất. Tường nhà khu B đan bằng tre và trét đất đỏ trộn mạt-cưa. Cầu tiêu chưa…tiến bộ. Nghĩa là, nó đứng riêng rẽ với ba nguồn thác cách-mạng văn-hóa, nông-nghiệp và khoa-học kỹ-thuật. Chúng tôi “hồ-hởi phấn-khởi” khắc-phục” bữa bo-bo buổi trưa. Nhà bếp đă không được báo trước có tù mới. TH6 B chưa có Đội cấp-dưỡng. Tù-nhân phụ-trách bếp-núc hơn 10 người hợp thành một tổ. Thêm Tổ vệ-sinh và Tổ thông-tin văn-hóa. Tổ thông-tin văn-hóa vỏn-vẹn hai mạng, kiêm-nhiệm cả trật-tự. Vậy văn-hóa là Sanh, trật-tự là Hoa, hỗn danh Hoa-nẫu. Cả hai đều can tội trộm cắp.

 

 “Nhà” thông-tin văn-hóa Sanh (tôi không biết họ của nó) nhỏ thó. Khuôn mặt nó gồ-ghề, lồi-lơm. Cặp mắt nó sâu hoắm, trắng ră. Đằng Giao ví bọn công-an coi tù là quân dữ. Gặp thằng văn-hoá Sanh, Đằng Giao lại ví công-an coi tù là phát-xít Đức để gọi thằng văn-hoá Sanh là Pháp-gian. Nó giống hệt bất cứ một tên Pháp-gian nào trong các phim diễn-tả thời Đức chiếm đóng Pháp. Trông nó gian-manh ra mặt. Nó chỉ-huy Hoa-nẫu (dân Quảng Ngăi). Sanh-gian và Hoa-nẫu đại-diện cán-bộ trực trại giáo-dục chúng tôi bài học “nhập gia tùy tục”. Chúng tôi được hân-hạnh sống chung pḥng với Đội rau xanh mà đội trưởng là Hoàng x́ coọc, đội phó là Hoàng nham, những hỗn danh bụi đời. Đội rau xanh khá đông du-đăng có tiền-án và bị đi cải-tạo v́ tiền-án. Tôi bỗng trở thành “nhân-vật hàng đầu của tù-nhân h́nh-sự TH6 B. Ở đây, có nhiều đàn em của “tứ-linh” Đại, T́, Cái, Thế. Đại Ca-thay đă chết năm 1968 . Huỳnh T́ (James Dean Hùng trong Điệu ru nước mắtcủa tôi) c̣n nằm ở Phước Long. Cái và Thế đă chết thảm tại Bù-gia-mập. Đại-bàng gẫy cánh hết. C̣n mỗi Hùng-phốc, đàn em Huỳnh T́, sống-sót về Sa Ác. Và Hùng-phốc lănh đạo đám bụi đời nhỏ tản-mạn khắp các đội của khu B.

 

 Những công-chức cao cấp, dân-biểu, thẩm-phán đă từng “cải-tạo” ở Long Thành đều biết và đều có thể làm nhân-chứng về những chuyến xe chở tù-nhân từ Bù-gia-mập về Long Thành. Đó là tù-nhân can tội tiền-án du-đăng trộm cắp Những người này đă trả nợ cho những tội-lỗi và tội-ác của họ. Và chế-độ mới, họ chưa hề gây một tội-lỗi tội- ác nào mà họ vẫn bị bắt nhốt và bị đầy-đọa thê-thảm. Con người, dẫu con người tiền-án, con người vô-án, con người h́nh-sự hay con người chính-trị vẫn là con người và phải được đối xử như con người sống hay chết, tù đầy hay tự-do. Nhưng, nhân-danh chủ-nghĩa ưu-việt của ḿnh, người cộng-sản đă hạ giá những người mang tiền-án xuống quá hàng súc-vật đă đánh đập họ đă bắt họ lao-động quá mức, đă cho họ ăn ít, đă mặc họ chết bệnh-hoạn. Cuối cùng, 1000 tù-nhân c̣n có 100 được di-chuyển từ Bù-gia-mập về Long Thành và được mô-tả như “những bộ xương biết đi”! Bồi-dưỡng một thời gian, đám tù-nhân sống sót này được liệng vào Sa Ác. Họ đă cùng những tù-nhân mang tiền-án dưới chế độ cũ, đến từ khắp nơi, hợp thành “thế-hệ tiên-phong” xây dựng trại tập-trung khổ-sai lao-động TH6 B. Hùng-phốc ở trong đám Bù-gia-mập sống sót.

 

 Mấy ngày ở khu A, tôi đă được “giang-hồ” chiêu-đăi tận-t́nh. Tôi giao-du với vài tay du-đăng gộc thôi song Điệu ru nước mắt, Vết thù trên lưng con ngựa hoang của tôi đă giao-du thân-mật với du-đăng cả nước. Ở đâu có du-đăng đọc sách tôi, ở đó tôi được đền ơn như một luật-sư biện-hộ vô-vụ-lợi cho những kẻ bị xă-hội khinh-bỉ, bị luật-pháp đánh dấu. Hiển-nhiên, tôi ca-ngợi du-đăng hào-hiệp. Bởi v́ tôi thấy Đại Cathay cao-cả hơn Nguyễn văn Thiệu; bởi v́ tôi thấy những tay anh chị đẹp-đẽ hơn bọn tướng-lănh, bộ-trưởng, nghị-sĩ; bởi v́ du-đăng nhận ḿnh là du-đăng c̣n bọn Nguyễn Văn Thiệu, th́ ăn cắp, bịp bợm mà cứ nhận ḿnh là ái-quốc? Kể cho tôi nghe, ai ở cái xă-hội miền Nam cũ đă xứng đáng được ví với nhân-vật tiểu-thuyết thần tượng Trần Đại? Cao văn Viên hay Đặng văn Quang. Phạm văn Đang hay Nguyễn Cao Kỳ? Hoàng Đức Nhă hay Nguyễn Ngọc Nghĩa? Thẩm-phán sạch-sẽ Đào Minh Lượng, người đă ghê tởm một số tù-nhân thư-lại Long Thành nói với tôi ở TH6 A: “Tôi thèm được sống chung với đám h́nh-sự. Họ không bần-tiện, ích-kỷ như tù-nhân chính trị thư-lại”… Chưa một nhà chống cộng nào chào mừng tôi một ly bia ở Paris, nhưng du-đăng đă nồng-nhiệt chúc tụng tôi c̣n sống bằng những chai champagne t́nh-nghĩa. Những người du-đăng không chụp mũ tôi v́ không đố-kỵ tài-năng với tôi. Muốn hiểu du-đăng để ngưỡng-mộ họ và để tin-tưởng một cuộc cách-mạng Tây Sơn mới sắp xẩy ra ở Việt Nam, hăy t́m đọc Hồn say phấn lạ . Đó là trường-thiên tiểu-thuyết vinh-tôn trước những Nguyễn Nhạc mới. Nguyễn Nhạc cũ, tay du-đăng bất hủ đất B́nh Khê. Kẻ nào dám làm cách-mạng chuyển-vần thời-cuộc, nước non bằng cách liều-lĩnh chui vào cũi nạp mạng cho kẻ thù? Khi tâm-hồn du-đăng dậy bất-b́nh v́ dân-tộc, v́ tổ-quốc, họ sẽ thành anh-hùng. Không ai dám nhắc đến dĩ-văng du-thủ du-thực của tên đ́nh-trưởng đất Cối Kê. V́ hắn diệt Tần Thủy Hoàng. Không ai dám nhắc đến dĩ-văng rượu chè bê- bết của biện Nhạc. V́ ông ta gây cảm-hứng cho Nguyễn Huệ.

 

 Tôi nên trở về TH6 B. Sanh-gian bảo chúng tôi tạm cất hành-lư ở những khoảng trống, đợi biên-chế đội xong cán-bộ trực trại sẽ chỉ-định chỗ nằm riêng biệt. Trước khi kẻng điểm tan lao, chúng tôi được lệnh ra tập-họp tại sân ngay cạnh nhà. Sự tổ-chức của TH6 B như sau:

 

1 Phó giám-thị, c̣n gọi là Trưởng trại B. Nhiệm-vụ của y bao quát cả tư-tưởng của công-an coi từ lẫn thực-thi chính-sách học-tập cải-tạo.

 

2. Chính-ủy. Nhiệm-vụ của y điều-hành công-an trách-nhiệm vấn-đề giáo-dục tư-tưởng tù-nhân.

 

3. Công-an trực trại. Nhiệm-vụ của y là điểm số tù-nhân xuất trại lao-động và nhập trại tan lao cùng kiểm-soát an-ninh toàn trại ban ngày. Có hai công-an trực trại.

 

4. Vệ-binh. Nhiệm-vụ của vệ-binh là canh gác trại ban đêm, canh chừng tù-nhân ngoài hiện-trường lao-động.

 

5. Quản-giáo. Nhiệm-vụ của quản-giáo là theo dơi đội về lao-động và tư-tưởng.

 

6. Giáo-dục. Nhiệm-vụ của công-an giáo-dục là. . .dạy dỗ tù-nhân và đưa tù-nhân ra gặp thân-nhân ở pḥng thăm nuôi.

 

7. An-ninh. Nhiệm-vụ của công-an an-ninh là…đánh tù-nhân!

 

 C̣n có công-an đặc-trách hồ sơ tù-nhân, công-an nấu bếp. . . Bất kể công-an già hay trẻ, cấp bậc hạ-sĩ hay đại-úy, giám-thị hay coi kho, tù-nhân đều phải gọi là cán-bộ. Vậy th́ cán-bộ trực trại, cán-bộ quản-giáo, cán-bộ giáo-dục đă đến làm việc với chúng tôi.

 

 - Theo quyết-định của Ban giám-thị, hôm nay các anh được chính-thức biên-chế thành hai đội. Tôi gọi tên anh nào anh ấy hô có rơ-ràng và đứng dậy ngồi ra góc sân.

 

 Cán-bộ giáo-dục nói xong th́ nh́n danh-sách mà đọc.

 

 - Trần Duy Cát.

 

 - Có

 

 - Đặng Hải Sơn.

 

 - Có.

 

 -Nguyễn mạnh Côn.

 

 - Có.

 

 Đọc đủ tên 50 tù-nhân, cán-bộ giáo-dục ngưng lại. Hắn nói:

 

 - Những anh c̣n lại ở chung một đội.

 

 Hắn ra lệnh hai đội tập-họp gần nhau.

 

 - Theo quyết-định của Ban giám-thị, Trần Duy Cát làm Đội trưởng; Đặng Hải Sơn, Đội phó; Nguyễn văn Thương, Thư kư. Anh Cát đâu?

 

 Đẳng Giao dơ tay:

 

 - Có tôi

 

 Cán-bộ giáo-dục gật đầu:

 

 - Tốt. Đội của anh là Đội 21 nông-nghiệp.

 

 Bước sang đội của tôi,cán-bộ giáo-dục hỏi:

 

 - Anh Vũ Mộng Long đâu?

 

 - Có.

 

 - Theo quyết-định của Ban giám-thị, anh là Đội trưởng, Nguyễn văn Thạch, Đội phó, Phạm Kim Sơn, Thư-kư. Đội của các anh là Đội 17 rau xanh. Ai thắc-mắc ǵ không?

 

 Đằng Giaao dơ tay:

 

 - Thưa cán-bộ, tôi không biết làm Đội trưởng.

 

 Cán-bộ giáo-dục nghiêm nét mặt:

 

 - Anh khước-từ sự chiếu-cố của Ban giám-thị hả? Học tập sẽ làm được. Làm sĩ-quan ngụy tiêu-diệt Việt cộng chắc anh làm giỏi đấy nhi?

 

 Đằng Giao nín thinh. Tôi tưởng Đằng Giao thành-công, sẽ bắt chước theo. Ai ngờ…

 

 - Khước-từ sự chiếu-cố của Ban giám thí là khước-từ sự khoan-hồng của cách-mạng, là chống Đảng và nhân-dân.

 

 Hoạ sĩ Đùa Dzai 4 vừa thấy bị đùa dai một tṛ đùa nâng cao quan-điểm. Dằn mặt thế gọi là giáo-dục. Ông thầy của chúng tôi tên Đương. Thầy Đương đeo quân-hàm chuẩn-úy. Thầy xoa dịu tṛ Đằng Giao:

 

 - Phấn-đấu lên, anh Cát. Không dễ ǵ ai cũng được làm Đội trưởng đâu.

 

 Thầy Đương ngó thầy Hưng, cán-bộ trực trại:

 

 - Dạy họ báo-cáo xuất trại, nhập trại.

 

 Thầy Hưng, đeo quân-hàm trung-sĩ, dạy Đằng Giao và tôi bài học báo-cáo quân-số và dạy toàn thể anh em cách đi đứn, cầm nón mũ chào kính vân vân…

 

 -Nàm thử xem sao, anh Cát!

 

 Đội trưởng Đằng Giao vẫy tay bảo đội ngồi xuống. Anh ta đếm số đội viên một lượt rồi bước lên cách đội ba bước. Anh ta hô “Đứng dậy , nón mũ bỏ ra. Nón mũ cầm tay phải, lật ngửa. Chú ư: Nghiêm! Hai hàng dọc nh́n đằng trước…thẳng? Thôi…” Đằng Giao bước xuống, đứng cạnh hàng đầu, quay mặt về phía điếm canh tưởng tượng, dơng dạc báo-cáo:

 

 - Báo-cáo cán-bộ, Đội 21 nông-nghiệp tổng số 50, lao-động 50, hiện-diện đủ, chờ lệnh cán-bộ.

 

 Thầy Hưng vẫy tay:

 

 - Cho đi!

 

 Tṛ Đằng Giao đáp:

 

 - Rơ.

 

 Tôi muốn cười quá mà không dám cười. Giá tôi được tự-do cười tôi đă cười một trận nghiêng-ngửa nhất đời tôi. Đến lượt tôi “nàm thử”, thầy Hưng ra lệnh cho 4 đội-viên của tôi bước khỏi hàng. Tôi cũng “nàm” như Đằng Giao đă “nàm”. Cám ơn tổ-tiên tôi đă khóa cái sự thèm cười của tôi đúng lúc diễn-xuất…căng.

 

 - Báo-cáo cán-bộ. Đội 17 rau xanh tổng số 50, lao-động 46, 4 bệnh nằm nhà, chờ lệnh cán-bộ.

 

 - Cho đi!

 

 Thầy Hưng khen:

 

 - Được Nhưng đó là xuất trại. C̣n nhập trại thế lào?

 

 Tôi biểu-diễn:

 

 - Báo-cáo cán-bộ, Đội 17 rau xanh lao-động 46, về đủ, xin nhập trại, chờ lệnh cán-bộ.

 

 Thầy Hưng tấm-tắc:

 

 - Chính-trị dễ tiếp thu hơn nà h́nh-sự

 

 Cái sự vô-phúc thiếu âm-đức của tôi không dừng ở chức-vụ Đội trưởng. Màn thực-tập vừa dứt, thầy Đương thăng thêm cho tôi chức Nhà trưởng “theo quyết-định của Ban giám-thị”. Tôi phải học bài học nhân-danh Nhà trưởng báo-cáo thầy trực trại buổi sáng mở cửa nhà và buổi chiều đóng cửa nhà và điều khiển tù-nhân cả nhà tập thể-dục. Kệ mẹ nó, đến đâu hay đó. Ít ra, tôi đă hách hơn Hồ Chí Minh. V́, Ngục trung nhật kư Hồ chủ-tịch không được khoe ḿnh làm Đội trưởng, Nhà trưởng trong tù. Chúng tôi nhận lệnh giải-tán rồi vào nhà nhận chỗ nằm theo sự chỉ-định của cán-bộ trực trại. Đội của tôi ở 5 khoang đầu nhà. Thu xếp hành-lư, tranh nhau nằm trên nằm dưới, dàn xếp ổn-thỏa xong th́ các đội cũ tan lao nhập trại. Tôi cắt cử người xuống bếp lấy cơm canh, chia cơm canh. Ấm ḷng ngay lập tức nhờ các cháu du-đăng h́nh-sự tặng “hai chú” Đằng Giao và Duyên Anh, cháu th́ tô ḿ vụn nấu tôm khô rau cải xanh, cháu th́ miếng thịt vừa nhận thăm nuôi, cháu th́ con cá kho câu dưới sông…

 

 Thi-sĩ Trần Tuấn Kiệt, trong cuốn sách viết về nhà văn nhà thơ Việt Nam, có nhă-ư viết về tôi. Anh ta kể lại kỷ-niệm ở quân-lao. V́ anh ta khoe là bạn của Nguyễn Thụy Long và Duyên Anh nên anh ta được tù-nhân du-đăng chiều-chuộng hết ḿnh. Anh ta bảo, nếu tôi vào tù, tôi sẽ sướng hơn vua! Tôi đă vào tù, không thấy sướng hơn vua mà chỉ thấy khổ như chó. Nhưng nếu t́nh-cảm là cái ǵ quư nhất, tôi đă được hưởng cái quư nhất của những độc-giả, đặc-biệt những độc-giả bụi đời dành cho tôi.

 

 Cơm nước xong chúng tôi ngồi tán gẫu chờ điểm danh buổi chiều. Kẻng vừa điểm, tù-nhân vội-vă xếp hàng mười trước của nhà, ngồi ngay ngắn. Tôi đă hỏi quân số Đội 3 rau xanh của Hoàng x́ coọc. Tôi phải đếm lại cẩn-thận. Tù-nhân nào ốm không ra điểm danh, phải báo-cáo và trật-tự Hoa-nẫu vô nhà kiểm-soát rồi xác- nhận với cán-bộ trực trại. Nhà của tôi mang số 1. Đáng lẽ, đội của tôi số 5 hoặc số 6, v́ TH6 B mới có 4 đội. Chắc chắn, trại sẽ tiếp-nhận thêm nhiều tù-nhân những tháng sắp tới. Thầy trực trại Hưng đă đến, theo sau là Sanh- gian và Hoa-nẫu. Tôi thực-hành bài học báo-cáo…nhà.

 

 ~ Anh em chú ư…im lặng! Báo-cáo cán-bộ, Nhà 1 tổng-số 150, tập-họp đủ, chờ lệnh cán-bộ.

 

 Thầy Hưng đếm hàng. Thầy hất tay:

 

 - Cho vào.

 

 - Rơ.

 

 Từng hàng đôi, tù-nhân vô nhà. Tôi sau chót. Hoa-nẫu cài thanh gỗ lớn chắn ngang cửa và khóa lại. Sinh-hoạt ồn-ào thả-giàn cho tới khi kẻng báo ngủ. Lúc đó là 9 giờ.

 

 

° ° °

 

 TH6 B chưa có điện. Trại tân-lập mà. Mỗi nhà thắp hai ngọn đèn dầu chế bằng keo thủy tinh không có bóng. Một ngọn để ở sà trên cửa ra vào, một ngọn trên lối vào cầu-tiêu. Điểm danh xong trực trại giao trách-nhiệm cho vệ-binh. Hai vệ-binh canh một nhà suốt đêm. Súng AK sẵn sàng khạc đạn vào kẻ trốn trại. Hai ngọn đèn lù-mù, có khi tắt một, có khi tắt hết nên vệ-binh khó kiểm-soát sinh-hoạt của tù-nhân. Bèn thêm mệnh lệnh không ghi ở Nội-quy, Tiêu-chuẩn cải-tạo và Nếp- sống văn-hoá mới: Đi ỉa, đi đái phải báo-cáo! Thế là tù-nhân sáng-tạo chuyện hài-hước đen. 

 

 - Báo-cáo cán-bộ, tôi đi đái.

 

 - Báo-cáo cán-bộ, tôi đi đái xong rồi, tôi về chỗ ngủ.

  

 - Báo-cáo cán-bộ, tôi đi ỉa.

 

 - Báo-cáo cán-bộ, tôi đi ỉa xong rồi, tôi về chỗ ngủ.

 

 - Báo-cáo cán-bộ, tôi đi ỉa nữa.

 

 Có tù-nhân chơi bạo:

 

 - Báo-cáo đái!

 

 hoặc:

 

 - Cán-bộ ỉa!

 

 Nếu vệ-binh t́m chỗ ngồi đốt lửa sưởi lạnh với nhau, không nghe thấy th́ không sao cả. Nó đi tuần, nghe thấy là réo Nhà trưởng, đánh thức cả nhà dậy nghe nó giáo-dục sỉ-vả hoặc nó bắt t́m ra ai…lạc-hậu, đầu óc nặng tư-tưởng đồi-trụy và ảnh-hưởng văn-hoá Mỹ-Ngụy sâu đậm. Giả đ̣ không báo-cáo nó nghe tiếng chân đi, nó cũng hô-hoán ầm-ỹ. Cái chức Nhà trưởng coi bộ nguy-hiểm. Ngủ chỉ sợ có bố nào cao-hứng đạp tường ṃ về sum-họp gia-đ́nh, nó sẽ đổ vạ ḿnh đồng-lơa, ḿnh làm ngơ và sẽ c̣ng tay xích chân ḿnh. Khổ nhất vẫn là màn nửa đêm bị vệ-binh thèm thuốc gọi dậy xin một điếu. Nhưng khổ hơn cả mọi nỗi khổ là Nhà trưởng phải thắp đèn và bảo-quản b́nh dầu. Trật-tự Hoa-nẫu đă tính-toán kỹ-lưỡng. Nó phát dầu đủ thắp một tuần: hết dầu ráng mà chịu bị vệ-binh “lên lớp”. Tù-nhân nghiện thuốc lào thường thích có đèn riêng cho đỡ tốn xăng đá lửa. Quư vị ấy che đèn và xin dầu kiểu “thông-cảm”. Nhà trưởng không dám cho, sợ hết dầu và sợ bị “nâng quan-điểm” giúp tù-nhân phương-tiện trốn trại hay đốt trại! Th́ bị quư vị ấy chửi bới. Quư vị ấy công khai sớt dầu ở đèn tập thể. Nằn ń quư vị ấy thông- cảm, quư vị ấy không thông-cảm. Cấm-đoán, ngại quư vị ấy xỏ xiên “giữ 1. cho chúa”. Từ cái nhỏ hóa thành cái lớn . Nhà trưởng biến thành cái đích của thị-phi. Chỉ v́ sợ hết dầu trước hạn kỳ. Chỉ v́ anh em tiếc rẻ xăng, đá lửa. Chỉ v́ anh em lười châm lửa ở đèn tập thể. Chỉ v́ anh em khoái đèn cá nhân.

 

Đêm đầu tiên nhậm chức Nhà trưởng của tôi thật năo-nùng. Tôi không ngờ nổi. Những tiếng báo-cáo “đi đái, đi ỉa” liên tục đến gần sáng. Tôi bắt đầu chán ngán cái động của trại tập-trung. Dường như, cái động hứa hẹn vang vọng một niềm bất-hạnh. Đêm cuối năm ở rừng già Sa Ác lạnh vô cùng. Tôi đă quên cái lạnh mùa đông miền Bắc hơn hai mươi năm nay nhớ lại và thấm rét mướt. Sự rét mướt chẳng c̣n ở ngoài da nữa. Nó đă thấm buốt cả thân-phận tôi. Tôi xoayngười úp bụng xuống sàn gỗ, ngẩng đầu nh́n qua chấn song gỗ của khung cửa ọp-ẹp.

 

Đêm tối. Thân-phận. Đất nước. Dân-tộc.

Thân-phận tôi là đồ bỏ. Nhưng đất nước tôi, dân-tộc tôi? Trong cuộc chạy đua việt-dă mấy chục năm giữa bọn ăn cướp và bọn ăn cắp, sự thắng bại đă rơ rệt. Chính-nghĩa của bọn ăn cắp là đào-ngũ, đào-nhiệm chạy dài. Chính-nghĩa của bọn ăn cướp là hồ-hởi phấn-khởi trả thù vặt. Ba mươi năm chính-nghĩa thổ-phỉ và chánh nghĩa “phi-lu” nhân danh hai chủ-nghĩa ưu-việt nhất của loài người, vô-sản và tư-bản; nhân danh hai quyền-lực vĩ-đại nhất và thô-bạo nhất của loài người, Liên xô và Hoa kỳ, đấm đá và tranh giành sự-nghiệp nô-bộc, đất nước tôi rách mướp, dân-tộc tôi đói rách, ngu dốt, lạc-hậu. Chiến-tranh bẩn thỉu toa rập giữa tư-bản Hoa kỳ và vô-sản Liên xô đă tàn-sát đến cả cây cỏ, muông thú của quê-hương tôi, đă đẩy dân-tộc tôi vào cuộc phiêu-lưu thù-hận, đă tạo dựng bọn tướng cướp bản-xứ khát máu và bọn trùm trộm cắp hèn-mọn, trơ-tráo. Hạnh-phúc mà vô-sản chủ-nghĩa đem từ thiên-đường Liên xô sang đất nước tôi là ǵ? Hỏa-tiễn, súng đạn, giáo-điều mác-xít, lê-nin lỗi thời. Chủ-nghĩa cộng-sản có khả-năng tiêu-diệt 1 triệu 500 ngàn dân Việt Nam mùa cải-cách ruộng đất năm 1956, có khả-năng nướng thiêu 1 triệu thanh niên miền Bắc dọc đường ṃn Hồ Chí Minh và các chiến trường miền Nam. Chủ-nghĩa cộng-sản có khả-năng làm bé nhỏ cả dạ-dầy lẫn tim óc của dân miền Bắc. Nhưng, chủ-nghĩa bách-chiến bách-thắng ấy chưa giải-phóng nổi chế độ đổ thùng ở riêng thủ-đô Hà-nội “thủ-đô của phẩm-cách con người”. Khi c̣n công-nhân vệ-sinh đặc-trách đổ thùng, c̣n phu đổ thùng, c̣n con người tăm-tối chui rúc vào cầu-tiêu vác những thùng phân đổi miếng cơm hẩm, chủ-nghĩa cộng-sản chỉ được định giá như một thùng phân lúc nhúc ṛi bọ.

 

 Hạnh-phúc mà tư bản chủ-nghĩa đem từ thiên-đường Hoa-kỳ sang đất nước tôi là ǵ? Bom lửa, xe tăng, thuốc khai quang, phi-tiễn, lựu đạn cay và lư-tưởng khai- phóng tự-do, dân-chủ chó đẻ. Chủ-nghĩa tư-bản có khả-năng đẩy hai thế-hệ thanh-niên miền Nam xuống vực thẳm chiến-tranh cho tham-vọng khốn-kiếp của nó, có khả-năng làm đảo tung đạo-nghĩa và t́nh-nghĩa Việt Nam; có khả-năng xúi dục đảo-chính, chỉnh-lư; có khả-năng giật giây tôn-giáo thù nghịch lẫn nhau; có khả-năng đưa những thằng vô-lại lên ngôi tổng-thống, thủ-tướng, bộ trưởng, tướng tá, nghị-sĩ, dân-biểu. Chủ-nghĩa ấy c̣n có khả-năng mầu-nhiệm tạo đĩ điểm thành mệnh-phụ phu-nhân, ma-cô thành lănh-tụ dân-tộc và biến con người thành công-cụ của đô-la, nô-lệ của vật-chất; biến con người thành kư-sinh-trùng ăn bám, ươn- hèn, vọng ngoại. Nhưng, chủ-nghĩa chói-chang ấy chưa tẩy xóa nổi dấu-tích ô-nhục của phản-bội đê-tiện. Khi c̣n c̣ng made in USA c̣ng tay những người Việt Nam chân-chính chống đối chủ-nghĩa cộng-sản phi nhân ở Việt Nam sau 1975, chủ-nghĩa tư-bản Hoa Kỳ cũng chỉ được định giá như một thùng phân lúc nhúc ṛi bọ.

 

 Rốt cuộc, quá độ chiến-tranh ư-thức-hệ thùng phân là đất nước héo úa, dân-tộc chia ĺa, tổ-quốc gầy ṃn. Những thằng ăn cắp bỏ chạy không quên mang theo tài-sản ăn cắp. Và chúng nó đang phè phỡn ở Hoa kỳ, miền đất hứa có chủ-nghĩa được định giá như một thùng phân. Chủ-nghĩa này tạo ra những nhà lănh-đạo lỗi-lạc để thi-triển những chính-sách đối với các nước nhỏ và các nước dưới quyền…viện-trợ. Những thằng ăn cướp được dịp tuyên-bố chiến-thắng những thằng phản-bội và những thằng ăn cắp. Và chúng nó bảo cách-mạng thành-công. Và chúng nó lùa những người Việt Nam vào nhà tù, trại tập trung. Tôi cũng bị lùa vào nhà tù 3 năm. Bây giờ, tôi bị ném ra trại tập-trung. Tôi mang cái tội ǵ nhỉ?

 

 Thoạt đầu, phỉ-quyền (bọn ăn cướp) chụp lên đầu tôi cái tội ngớ-ngẩn: Nhà văn chế-độ cũ. Tôi không phải là người của chế-độ nào cả. Tôi là người của tôi, của gia-đ́nh tôi, của bằng-hữu tôi, của độc-giả tôi và lộng ngôn một tí tôi là người của dân-tộc tôi. Không một chế-độ nào chấp-nhận những người nghệ-sĩ phản-kháng cả. Tôi là nhà văn, nhà báo phản-kháng, và có chính-kiến rơ rệt. Tôi đứng về phía những người bị trị chống đối kẻ thống-trị. Sự chống đối của tôi, tùy theo cường-độ chính-trị của thống-trị. Khi thống-trị b́nh-thường, sự chống đối của tôi hiểu theo nghĩa đối-lập. Khi thống-trị đàn áp, sự chống đối của tôi là phản-kháng quyết-liệt. Bằng văn-chương và tư-tưởng. Tôi đă thường xuyên quyết-liệt phản-kháng bọn thống-trị Sàig̣n v́ tôi muốn không c̣n, không có nữa phỉ-quyền hiện diện ở Hànội và âm-mưu thôn-tính quê-hương tôi. Phỉ-quyền lên án tôi từ năm 1970. Hẳn nhiên, phỉ-quyền Hà nội thù hận tôi. Nhưng ngụy-quyền Sàig̣n (bọn ăn cắp) ưa ǵ tôi? Nó cũng thù hận tôi. Tôi thực sự sống bằng ng̣i bút từ tháng 1-1964. Tôi viết nhật-báo từ đó. Và từ đó, tôi tuyên-chiến với bọn thống-trị Sàig̣n, đứng hẳn về phía bị trị v́ những người bị đàn áp bị bóc lột; v́ những người nghèo khổ nhất miền Nam; v́ những người lính hy-sinh nhất miền Nam, bị bạc đăi nhất miền Nam; v́ cô-nhi, quả-phụ; v́ danh-dự của tổ-quốc mà lên tiếng. Ngụy-quyền Nguyễn Văn Thiệu chưa dám bắt tôi bỏ tù. Nó tin tử-vi. Và nó sợ phản-ứng độc-giả tuổi trẻ của tôi. Nó sợ cộng-sản lợi-dụng cơ-hội nhập cuộc. Nếu quốc-gia là những ai pḥ Nguyễn văn Thiệu, suy-tôn nó, ủng-hộ nó, c̣n kỳ vọng nhiều ở nó; nếu quốc-gia là Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao văn Viên…và các vệ-tinh, tôi khước-từ thứ quốc- gia đó. Và tôi thẳng-thắn nói: Tôi là người cộng-sản không tha, quốc-gia không dung.

 

 Không thể là quốc-gia ăn cắp, lừa bịp, tôi phải chấp-nhận mọi hệ-lụy ngoài đời, trong tù; trong nước, ngoài nước . Tôi hiên-ngang chấp-nhận. Để tôi là quốc-gia của tôi. Chỗ “tựa vào” của tôi chỉ là dân-tộc Việt Nam đau-khổ. Tôi đă “tựa vào”, đang “tựa vào” và “tựa vào” đến khi nhắm mắt.

 

 Quốc-gia của tôi là quốc-gia chân-chính, quốc-gia của những người lương-thiện sáng chói. Tôi phủ nhận ngụy-quyền, phỉ quyền. Với tôi, ṛng ră ba mươi năm, đất nước ta chưa có chính-quyền. Dân-tộc ta đang mơ ước một chính-quyền tạo dựng bởi người quốc-gia chân-chính trong và ngoài nước. Chỉ khi nào đất nước ta có chính-quyền, dân-tộc ta mới có ấm no, hạnh-phúc, đoàn-tụ, thương yêu, tự-do là dân-chủ thực sự. Phỉ-quyền Hà-nội và ngụy-quyền Sàig̣n đă bất lực mưu cầu hạnh-phúc cho dân-tộc. Phỉ-quyền chỉ biết ăn cướp. Ngụy-quyền chỉ biết ăn cắp. Thổ-phỉ và đạo-tặc đều thờ chủ riêng. Phỉ là đầy-tớ Liên xô. Ngụy là đầy-tớ Hoa Kỳ. Bây giờ, thêm bốn hạng ngụy nữa: Ngụy kháng-chiến bịp-bợm, ngụy giải-phóng đội đít Tầu, ngụy cứu quốc bám chân Tây, ngụy phục-quốc chờ đèn xanh ảo tưởng Mỹ.

 

 Từ hơn 100 năm rồi, tinh-thần dân-tộc đă bị các thứ giáo-hội đè nặng trĩu, đè ngóc đầu lên không nổi. Các thứ giáo-hội đă chi-phối tinh-thần dân-tộc một cách nghiệt-ngă. Đất nước lạc-hậu của chúng ta có tới hai chục giáo-hội. Giáo-hội và tổ-quốc chứ không tổ-quốc và giáo-hội. Thứ giáo-hội mạnh nhất, thô-bạo nhất hôm nay là giáo-hội cộng-sản. Dân-tộc ta đă ủ-ê v́ các giáo-hội, đang ủ-ê v́ các thứ ngụy. Vậy làm cách nào phục-hưng tinh-thần dân-tộc và tinh-thần quốc-gia, dĩ nhiên, quốc-gia chân-chính? Vấn đề này nhà văn không đủ tư-cách giải-quyết. Bổn phận của y chỉ nhằm gợi ư.

 

 Tôi đă trải qua một đêm TH6 B.

--------------------------------

1

Tan lao: Tan lao-động.

Vào lao: Vào giờ lao-động.

Giải lao: Nghỉ lao-động

2

Khu A có xưởng cưa máy. Đầu năm 1979, các Nhà cũ bị phá để xây cất Nhà mới khang-trang, cầu-tiêu xối nước. Dĩ nhiên, Nhà nhiều hơon v́ tù nhiều hơn và sự quản-lư chặt-chẽ hơn. Sĩ-quan quân-đội từ các trại miền Tây dồn hết lên miền Đông.

3

Về sau, chính Đằng Giao đặt mốc cho đoạn đường…vào Ba Thục này.

4

Vẽ tranh hí-hoạ, Đằng Giao kư tên Đùa Dzai.

 

 

CHƯƠNG 3

 

Kẻng báo thức đă gầm-gừ. Cả Nhà thức giấc. Đèn pḥng được thổi tắt. Các quan-viên thuốc lào rít điếu cầy x̣ng-xọc. Sinh-hoạt ồn-ào trong cầu-tiêu. Màn thuốc lào, đái ỉa buổi sáng coi như chào mừng một ngày lao-động khốn-nạn. Bên ngoài c̣n nhá-nhem và sương mù dầy đặc. Tù-nhân thu dọn chỗ nằm thật ngăn-nắp. Thuốc lào đă sang tua rít thứ mấy. Khối anh phê, đáp dài trên phi-đạo sàn. Phải phê. Không phê sẽ một ngày vô-nghĩa. Những tù-nhân mới tập hút thuốc lào, chưa dám kéo hơi dài. Thành thử, rít đến khi khói vô đẫy phổi mới lăn kềnh, mắt lim-dim, tim đập mạnh, thân thể lạnh giá, tay chân quơ cào. Thuốc lào mau say mà cũng mau tỉnh. Tù lao-cải gắn bó với thuốc lào y hệt tù nhà-lao gắn bó với ghẻ.Phi thuốc lào bất thành cải-tạo. Thuốc lào là cái ǵ mà ghê thế? Ca dao có câu: 

 

Nhớ ai như nhớ thuốc lào, 

Đă chôn điếu xuống lại đào điếu lên 

 

Từ câu này, Nguyễn Tuân mới đặt cho thuốc lào cái tên thật văn-chương: Tương-tư-thảo. Nhưng tương-tư-thảo có vẻ Tầu quá. Mà Tầu không hút thuốc lào .Vậy gọi thuốc lào là cỏ nhớ. Miền Bắc hút thuốc lào trước khi hút thuốc lá, hút ống vố. Câu nhại lời bài Giải-phóng Miền Nam quy-định rơ-rệt sự hút của dân ta:

 

Miền Bắc hút thuốc lào, miền Trung hút thuốc rê, miền Nam th́ hút Capstan, Con Mèo ….

 

Thuốc lào thượng-hảo hạng miền Bắc là thuốc lào Vĩnh Bảo. Cách gói và bán thuốc lào ở miền Bắc rất… cổ-truyền. Người bán thuốc lào gánh đôi khạp gỗ đậy nắp kín đến các chợ phiên. Một bên là thuốc đă gói sẵn vào cái bao giấy mầu có in nhăn-hiệu bằng con dấu khắc thô-sơ. Một bên là thuốc nguyên bánh và thuốc rời. Gói có hai loại, to và nhỏ. Thuốc rời bán lạng. Cũng có ba hạng thuốc: thượng-hảo-hạng, ngon nhất và ngon vừa phải. Người bán thuốc bầy thuốc trên nắp khạp, châm đèn và kê điếu bát. Khách hút thử thuốc rồi mua. Ở thị-xă người ta cũng bán theo cung cách ấy. Thuốc lào đem giống vô Nam ngon nhất là thuốc Cái Sắn, hút phê lăn cù mèo. Trước 1975, có các nhăn hiệu thuốc lào Say, thuốc lào 888. Về sau thuốc 888 nổi tiếng, bèn đẻ thêm thuốc lào 555, thuốc lào 999. Sau 1975. thuốc lào 888 giả hiệu đầy thị-trường.

 

Ông đây đă bỏ thuốc lào,

Thấy ba số 8 lại đào điếu lên

 

Câu thơ ảnh-hưởng ca-dao nặng-nề này in trên bao gói thuốc lào 888. Theo đà văn-minh lăng nhách, thuốc lào gói bằng bao ni lông, mất hết 99 phần 100 tính chất cổ-truyền dân-tộc.

 

Thuốc lào rất khó trồng. Nó kén đất và phân bón. Trồng, tỉa, bắt sâu thuốc, phơi, thái, ủ thuốc là một nghệ-thuật. Thuốc ngon nhờ giống, nhờ đúng thời-gian và nhờ bí-quyết riêng của người sản-xuất. Xin miễn bàn-luận về chuyên-môn. Thuốc đi với điếu. Điếu kêu ṛn-ră nhờ cái guốc. Điếu tráp của các nhà quyền-quư th́ khảm xà-cừ, xe điếu bằng cành trúc dài, đầu bịt bạc. Điếu bát của giới trung-lưu th́ đặt trong chiếc bát cổ, đồ thông uốn bằng giây đồng tỉ-mỉ, của b́nh-dân th́ đặt trong bát gỗ đơn-sơ. Điếu cầy của nông-dân th́ làm bằng ống tre mật. Điếu tốt cần đóm tốt. Đóm bị tắt ngang xương, điếu thuốc vô vị . Thường, người ta chẻ tre thật mỏng, ngâm nước rồi phơi khô đóm cháy bền. Những tay chơi đóm, chặt luôn cây đu-đủ đă sinh trái, liệng xuống ao. Thân cây đu-đủ ch́m dưới bùn và bị “cháy ngầm”. Chừng nó nổi lềnh-bềnh, vớt lên phơi nắng cho khô. Rồi tước ra. Thế là có đóm tuyệt-diệu, bảo-đảm hút cú đúp, đóm vẫn cháy, chấp gió thổi mạnh. Điếu và đóm cộng lại thành một thành-ngữ ám chỉ bọn hầu-hạ. Nhà quyền-quư bẻ cong cái xe điếu trúc. Gă bưng điếu hiểu ư ngay. Bèn vo dúm cỏ nhớ đặt thật khéo trên miệng nó. Gă khác châm đóm. Ông chủ hít một hơi, chiêu ngụm trà tầu, nhả khói đê-mê. Sau này có điếu đóm chính-trị bỉ-ổi hơn điếu đóm thuốc lào.

 

Nước điếu của những tay chơi thuốc lào cũng công-phu lắm. Có ông dùng nước mưa kinh-niên. Có ông lại sắc nước cam-thảo. Nước đổ vào b́nh phải chạm đúng mức nào của guốc điếu. Ôi, lỉnh-kỉnh lắm. Thuở nhỏ, tôi sợ nhất cái xe điếu bằng song. Bị quất xe điếu vào mông là lươn nổi ba ngày. Điếu đóm ngoài đời nếu luận tới mức, phải viết hai chục trang sách.

 

Tôi nói về điếu đóm nhà tù. Cái thứ điếu “poọc-ta-típ” to bằng gói thuốc, chế-tạo bằng plastic, ống nhựa ngắn chút xíu, hút chỉ tổ phí thuốc. Tù-nhân đề lao Gia Định gửi mua khá nhiều. Đóm nhà tù là diêm Samasa… quốc-doanh, quẹt 3 cây cháy l; là giấy gói ḿ Con Cua, ḿ Ba Con Tôm. Những tù-nhân điệu-nghệ sáng-tạo điếu bát đặc biệt. Cái can nhựa chứa nửa lít tầu-vị-yểu là b́nh. Vỏ kem đánh răng Hynos g̣ làm guốc điếu. Ống nhựa bọc giây kẽm quai xô nhựa rút ra làm xe điếu. Nước nhiều th́ khói dịu, vô tận phổi mới đă. Tiếng điếu kêu x̣ng-xọc nặng âm-điệu tù đầy. Tù-nhân cải-tạo không chơi điếu can nhựa tầm-thường. Điếu cầy là nguồn thác cách-mạng thứ tư sau ba nguồn thác cách-mạng văn-hóa, nông-nghiệp, khoa-học kỹ-thuật. Vậy tù-nhân lấy điếu cầy làm “sự-nghiệp vĩ -đại sống măi” với thuốc lào cải-tạo.

 

Nông-dân miền Bắc không cầu-kỳ lắm về h́nh-thức cái điếu cầy. Chỉ cần cái nơ điếu cho kêu thôi. Điếu cầy của nông-dân vạt nhọn phía dưới. Để tiện cắm xuống bờ ruộng. Nhà quê Bắc-kỳ nghèo, chẳng có diêm, bật lửa. Vậy phải bện bùi-nhùi rơm mang theo với đóm. Nông-dân hút ra sao? Vê thuốc nhét kín miệng nơ, thổi bùi-nhùi, châm lửa. Bập bập ba cái, đưa ngón tay nhấn chặt thuốc rồi kéo một hơi dài đến trôi tuốt cả tàn vào nước. Rồi thổi phụt cho nước điếu bắn ra một ṿi ngắn. Rồi kéo tiếp để nghe tiếng điếu ṛn-ră. Rồi mới nhả khói. Cao-thủ điếu cầy phải hút như thế. Sáng sớm tinh mơ chưa ăn ǵ, hút một điếu Vĩnh Bảo thượng-hảo-hạng kiểu cao-thủ điếu cầy, chỉ có té bật ngửa “mắt lim dim, tim đập mạnh, lạnh tứ-chi, sùi bọt mép”… Tù-nhân cải-tạo khối người đạt chỉ-tiêu hút cao-thủ điếu cày. Hút điếu cầy phải hút ngoài băi mới tự-do phụt nước điếu. Điếu cầy đẹp nhất, công-phu nhất là điếu cầy của sĩ-quan cải-tạo ở Sơn La đem về. Ống tre dài, nơ điếu bằng đá mài, khoét tài t́nh. Nhưng chiếc điếu cầy cải-tạo đi vào lịch-sử điếu cầy dân-tộc là điếu cầy của tù-nhân Lê văn Minh tự Minh-suyễn.

 

Minh-suyễn, con trai ông chủ hàng bánh ngọt nổi tiếng đường Nguyễn Thiệp, Sài g̣n 1 , đi làm phản-động trong tổ-chức Binh-đoàn Lê văn Duyệt. Tổ chức này do Mai Chí Thọ nặn ra cùng 51 tổ chức khác. Mục đích của Thọ là giăng lưới bắt hết những người yêu nước chống cộng. Minh-suyễn sa bẫy luật-sư nằm vùng Đỗ Hữu Cảnh, bí-danh Ba Sơn 1. Minh-suyễn bị suyễn nặng, thường xuyên có 4 cái b́nh xịt tối tân Huê kỳ, xịt hết thuốc là vất đi mà khoái hút thuốc lào… phê. Anh ta thửa cái điều cầy trị giá 10 gói ḿ Con Cua, thuê một tù-nhân lâm sản t́m ống tre dài, bóng. Minh-suyễn nhờ Đằng Giao vẽ thiếu-nữ khỏa thân, tóc xơa, chân và tay bị trói chặt quanh ống điếu. Hai trái đào tiên căng nổi. Cái hoa quư của thiếu nữ, đúng cái ái ân huyệt đó, Minh-suyễn dùi lỗ để…cắm nơ. Anh ta tô mực xanh lên những nét khắc của Đằng Giao. Điếu cầy của Minh-suyễn nổi tiếng, ai cũng xin hút một điếu. Cuối cùng, điếu cầy của Minh-suyễn bị tịch thu, Minh-suyễn bị làm tự kiểm nhận tội tuyên-truyền văn-hóa đồi-trụy. Điếu cầy ấy về sau, cán-bộ giáo-dục giữ làm của riêng.

 

Tiếng điếu cầy rít liên tục làm sinh-động buổi sáng ở Nhà 1 của tôi. Tôi đă hiểu sự cần-thiết của thuốc lào. Có lẽ tôi sẽ tập hút thuốc lào. Trật tự Hoa-nẫu đă mở cửa. Chúng tôi ùa ra hít khí trời giây lát rồi ngồi xếp hàng như chiều qua. Đội trưởng Đội 3 rau xanh đă cho tôi biết trước đội của anh ta có 2 người bệnh nặng không thể ra điểm danh. Tôi cần nói thêm: Mỗi thư-kư đội được cấp dầu thắp đèn cá-nhân cho mỗi sáng đội-viên của ḿnh khai bệnh và mỗi tối thứ sáu họp đội. Bệnh nhân được nghỉ lao-động hay phải đi lao-động là do quyết định của Y-tế. Y tế của Sa Ác B do một y tá 2 tù-nhân đảm-trách dưới quyền chỉ-huy của một cán-bộ y-tế mà tŕnh-độ là biết phát thuốc…Xuyên Tâm Liên! Sa Ác B chưa có bệnh-xá, chưa có cả pḥng y-tế. Y-tá làm việc ngoài sân, trước giờ tập họp lao-động. Y-tá can tội h́nh sự rất dễ-dăi nhưng e-dè. Anh ta không dám cho tù-nhân nằm nhà nhiều. Bởi vậy, có xổ số bệnh nặng! Tù-nhân bệnh nặng thật sự có khi, đi ra ngoài lồng cầu. Tù-nhân cảm xoàng lại trúng số độc-đắc. Tôi đă trải qua ba nhà tù. Cả ba nơi, tù-nhân đều không được chích thuốc ngừa các thứ dịch hạch, dịch tả, thương-hàn, phong đ̣n gánh, đau màng óc… Ở trại tập- trung cũng vậy. Tôi nghĩ, Bộ chính-trị trung-ương Đảng cộng-sản Việt Nam quan-niệm rằng, chỉ có một thứ vi-trùng chế ngự tất cả vi-trùng là vi-trùng cải-tạo. Đă được tiêm “vác-xanh” cải-tạo, kể như miễn dịch.

 

Cán-bộ trực trại đă tới.

 

-Anh em chú ư… Im lặng! Báo-cáo cán-bộ. Nhà 1 tổng-số 150, 2 bệnh nặng nằm trong nhà, hiện diện l48 đủ, chờ lệnh cán-bộ.

 

Trật-tự-viên Hoa-nẫu chạy vô nhà, la lối:

 

- Ai nằm trong lên tiếng?

 

Hai bệnh-nhân lên tiếng. Hoa-nẫu chạy ra báo-cáo:

 

- Thưa cán-bộ, hai đau nặng.

 

Trực trại đă đếm xong tù-nhân, hất đầu:

 

- Cho tập thể-dục.

 

Tôi đáp:

 

- Rơ.

 

Thế là tôi, Nhà trưởng kiêm thêm chức-vụ huấn-luyện-viên thể-dục, điều-khiển cả Nhà vừa chạy tại chỗ vừa hét “một hai ba bốn” và vài động-tác vớ-vẩn. Những ông già được miễn thể-dục. Màn thể-dục… tù chấm dứt, Tổ trực của đội lo cơm sáng và nước sôi. Anh em khác đánh răng, rửa mặt. Cơm sáng đúng nghĩa là cơm lót dạ, một chén bo-bo nhỏ. Bo-bo nhập-cảng từ Ấn độ. Có người bảo bo-bo là lúa miến. Con gái tôi viết thư cho tôi: “Bố ạ, nhờ giải-phóng con biết nhiều địa-danh mà những bài học địa-lư đă không dạy. Thí dụ: Kàtum, Trảng Lớn, Vườn Đào, Bà Tô, Bù Nho, Sa Ác, Gia Trung… Con cũng biết thêm nhiều thực-phẩm như gạo Đại Mễ 3, bo-bo, sắn lát là những thức ăn ngon lạ hơn gạo nàng Thơm chợ Đào”…

 

Bo-bo, tôi đă thưởng-thức ở Chí Ḥa. Sau những ngày ăn bột ḿ luộc là những tháng, những năm bo-bo. Bo-bo từ nhà tù ra trại cải-tạo. Bo-bo mầu như mầu gạo lức rất dẻo và dai. Muốn thực hiện cách-ngôn “Ăn có nhai, nói có nghĩ” th́ nên ăn bo-bo. Các nhà tư-tưởng cần ăn bo-bo v́ phải nhai thật lâu mới nuốt nổi. Các nhà lănh-tụ kháng-chiến Hamburger cần ăn bo-bo. Để vừa nhai vừa nghĩ mà chấm dứt những tṛ lạc-quyên bịp-bợm. Các nhà văn, nhà báo di-tản trước 1975 cần ăn bo-bo. Để vừa nhai vừa nghĩ mà chấm dứt những bài viết chụp mũ a-dua bôi bẩn thiên-hạ và đố-kỵ hèn-mọn. Bo-bo có thể ăn 6 bữa 1 ngày. V́ ăn đầy ca vừa uống nước xỉa răng xong là đă tiêu hóa 3 phần 4 ca bo-bo. Bo-bo hỗ trợ chính sách cải-tạo của nhà nước cộng-sản. Phải rửa ruột trước khi rửa óc. Bo-bo có mày rất sắc cạnh và rất “kiên tŕ”. Nó mà dính kẽ răng th́ “bám chốt”, th́ “nằm vùng” kỹ lắm. Tăm tre mới trục xuất nổi mày bo-bo. Tăm gỗ ba Tầu bất lực. Mày bo-bo cơ hồ ám-khí phóng ngập hàm, lợi. Tḥ hai ngón tay nhổ nó ra, máu ra theo. Mỗi cái mày bo-bo là một giọt máu. Mỗi bữa bo-bo thường bị vài cái máy cắm sâu vô lợi. Máu đó nhắc nhở miếng ăn tù đầy nhục-nhằn. Máu đó làm khôn lớn những ai biết suy-tư trong thống-khổ. Những kẻ học đ̣i cạp Hamburger, Macdonald từ 29-4-1975 chưa được ăn bo-bo, không bị ăn bo-bo – chẳng dám ăn bo-bo, nên không thấy thảm-cảnh mày bo-bo đ̣i máu tù-nhân. Và họ thản-nhiên. Rất b́nh thường. Những những kẻ tự nhận là nhà văn, là kỹ-sư của linh hồn, hơn cả thản-nhiên trước một rung-động làm nên văn-chương, tư-tưởng đă vận-dụng ng̣i bút cắm sâu những cái mày bo-bo vào lợi của tù-nhân đồng-nghiệp của họ. Bằng b́nh-phẩm và bằng vu-khống đê-tiện những ǵ ḿnh không nh́n thấy. Đôi khi, cũng có “nhà văn” có cơ-hội ăn bo-bo. Tiếc rằng, thay v́ ăn bo-bo để khôn lớn, để sáng-suốt, để biết thù-hận đúng chỗ, ông ta lại chỉ “ăn vụng thịt nhà bếp, ăn cắp cháy, ăn tranh phần cơm heo” nên ông ta đă tự đồng hóa với đồ ăn cắp, tự xếp hàng với súc vật. V́ ông ta c̣n là “nhà vẽ” nên ông ta đă vẽ một bức tranh đầy mầu vàng của phân. Mầu vàng này đă trùm lên sự thật. Và đó là lập-thể. Rốt cuộc sự-nghiệp vẽ của ông ta là những bức chân-dung Hồ Chí Minh “vĩ-đại”, và sự-nghiệp văn-học nghệ-thuật của ông ta – ông này thích văn-học nghệ thuật lắm – rực rỡ nhất ở bài nhận vơ làm “biệt-kích văn-nghệ”. Chưa thấy nhà văn nào viết bài báo tồi đến thế. Tư-tưởng th́ rặt “phân tiểu”, hành văn th́ câu bất thành cú, chấm than th́ bỏ bừa bải, lập-luận th́ dựa…tin đồn. Đó là tại ham “ăn vụng thịt, ăn cắp cháy cơm” mà chê ăn bo-bo. Người như vậy, tôi nghĩ, nên thắt cổ tự tử, v́ sống vô-tích-sự. Sống bám welfare nhà nước Mỹ đă nhục, bám welfare mà chẳng sáng-tạo nổi một truyện ngắn sạch nước cản nào, càng nhục. Rơ là kư-sinh-trùng, là sán sơ-mít trong ruột Mỹ! Thánh-kinh, theo Matthew, Chúa Jésus dạy: “Cây tốt sinh trái tốt. Cây xấu sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu. Cây xấu cũng không thể sinh được trái tốt”. Một nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp, ăn vụng, ăn tranh phần khoai và cơmcháy của heo” không thể làm nổi những việc ǵ tốt đẹp. Chúa là chân-lư. Ngài đă phán xét đúng.

 

Nhưng làm sao hạng người có huyết thống “ăn vụng thịt, ăn cắp cơm cháy” dám ăn bo-bo? Bo-bo nó vào dạ-dầy nó cũng phóng mày bám chặt lấy dạ-dầy. Do đó, tù-nhân cải-tạo đa số đau răng và đau bao-tử. Dạ-dầy là cái máy nghiền nát các loại thức ăn. Vậy mà không nghiền nát được mày bo-bo. Bo-bo tiêu hóa, chất bă đem theo mày bo-bo ra ngoài. Đội 17 rau xanh của tôi, sau này, phải làm một cái cầu-tiêu “dă-chiến” để Đội phát quang có chỗ đại-tiện. Chúng tôi cần phân bón rau. Tôi đă quan-sát cái cầu-tiêu chưa kịp “tiếp thu” phân sau ba ngày “hành quân” ngang qua của Đội phát quang. Toàn bộ phân bị đế quốc Bọ Hung thôn-tính hết. Một đống mày bo-bo c̣n nguyên. Bọ hung cũng không dám ngốn mày bo-bo. Vậy mà tù-nhân cải-tạo đă nuốt mày bo-bo vào dạ-dầy! Tôi không hiểu các “sử gia” nghiên-cứu lịch-sử hiện-đại Việt Nam có chịu nghiên-cứu mày bo-bo để viết những trang lầm-than của dân-tộc. Xin lưu ư các “tiến-sĩ, sử gia” bỏ chạy trước 30-4-1975: Cả nước Việt Nam đă bị ăn bo-bo suốt hai năm 1979 và 1980. Riêng tù-nhân, ăn bo-bo từ 1979 đến…hôm nay. (khi tôi viết trang này là 1987).

 

B́nh, cóng đựng nước và ca, bát đựng bo-bo bầy hai chỗ. Đội nào chia cơm nước đội ấy. Nhà bếp cấp-phát nước mỗi ngày ba lần, sáng và trưa, trước giờ đi lao-động, và chiều. Ngoài băi lao-động, đội có người đặc-trách nấu nước sôi cấp riêng để uống lúc giải-lao. Lưng ca bo-bo, tù-nhân ăn lót dạ và lao-động 4 tiếng, giải-lao 15 phút. Không có cà-phê, dù cà-phê cá-nhân. Ở Sa Ác B, người ta bắt chúng tôi “quân-sự-hóa” mọi việc.

 

Quanh năm tích-cực, bốn mùa khẩn-trương

Vượt nắng, thắng mưa, đạt chỉ-tiêu lao-động sản-xuất

 

Hai khẩu hiệu này chưa đủ thấm-thía kiếp người lao-cải. Bạn đọc thêm hai khẩu hiệu nữa.

 

Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm

Vượt cờ xanh, giành cờ đỏ, bỏ cờ trắng, thắng cờ vàng

 

Cái gọi là học-tập lao-động cải-tạo tư-tưởng của chúng tôi nằm trong bốn khẩu hiệu oan nghiệt đó. Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm. Nghe mà ngậm-ngùi, mà phẫn-nộ. Tôi chợt hiểu v́ sao Nhân-văn giai-phẩm đă tư-tưởng dấy động, đă chủ-nghĩa xung-kích. Thời của văn-chương viễn mơ, của văn-chương chẻ sợi tóc làm tám, của tùy-bút miêu-tả cách ăn, lối mặc, kiểu uống đă đóng băng.Ở bài Những tín-hiệu sáng-tạo giới-thiệu thi-phẩm Đời bỗng dư thừa của Hà Huyền Chi, tôi đă viết như sau:

 

“Quê hương câm nín đang réo gọi những lên tiếng cần-thiết của văn-chương, của thi-ca, của âm-nhạc, của tư-tưởng lưu đầy. Nỗi réo gọi bi thương ấy, cơ hồ, đă ch́m vào cái hoang-vu ngậm-ngùi của chữ nghĩa. Đó đây, chỉ c̣n là tiếng thở dài áo-năo của hồi-tưởng, chỉ c̣n là những lượm nhặt bụi nắng hoàng-hôn của dĩ-văng. Không-khí và thời-tiết xứ người, xem chừng, hết thích-hợp với người cầm bút đă có hào-quang hai mươi năm phồn-vinh văn-học miền Nam. Chúng ta đầy đủ tự-do để viết. Nhưng chúng ta chóng quên niềm bất-hạnh, lười biếng truy-nă thân-phận ḿnh, thân-phận dân-tộc ḿnh. Nên sáng-tạo hiu-hắt . Thỉnh thoảng, cũng vài lên tiếng ném vào sự ồn-ào chạy đua leo dốc vật-chất. Th́ lại là tiếng nói chết hay tiếng nói bêu riếu chữ nghĩa. Của những kẻ tự nhận ḿnh đứng hàng đầu, thống-lĩnh ngọn núi này, chặn lấp cửa biển kia. Rốt cuộc, mươi năm mất nước, văn-nghệ sáng giá và văn nghệ dẫn lối đă biến thành những ngọn hải-đăng mù. Và thành-tích ô-nhục của nó là “áo thụng vái nhau” và “áo thụng tự vái”. Mọi vinh-quang sáng-tạo dành hết cho những người cầm bút trẻ dẫu chưa điêu-luyện và dẫu bị nhấn ch́m tội nghiệp. Hà Huyền Chi thoát bung ra cái nghĩa-địa văn-nghệ biệt xứ. Anh không thích đào mộ chôn ḿnh hoặc để người khác đào mộ chôn ḿnh. Hà Huyền Chi làm thơ, làm thơ và làm thơ… Thơ của anh không bị đồng hóa với

 

thứ thơ văn ngh́n năm không dấy động

thơ văn cột rỗng

lớp son mầu-mè tỉa-tót công-phu

thứ thơ văn tửu hậu trà dư

thơ văn chết khi cuộc đời căng nhựa sống

thơ văn ngồi khi Việt Nam khốn quẫn

thơ văn nằm khi bạo-lực diễn-hành

thơ văn tô móng tay khi dân-tộc đói nhăn răng

thơ văn nhẫy-nhụa môi son vênh-vang trưng diện.

 

Thơ Độc Ngữ

 

Hà Huyền Chi ngậm thống-khổ của dân-tộc anh, của chiến-hữu anh, của bằng-hữu anh, của bản-thân anh. Anh đă biết khôn lớn từ kinh-qua thống-khổ, từ phù-ảo sau cơn lốc nghiệt-ngă 30-4-1975. Thống-khổ tạo ra lửa. Lửa rực thơ anh. Lửa bập bùng. Lửa thắp sáng những bùi-ngùi những xao-xuyến, những rung động nguyên khối. Lửa thiêng Hà Huyền Chi khác hẳn lửa thiêng Huy Cận. Lửa thiêng Hà Huyền Chi soi tỏ một nhận đường trong mù khơi tuyệt-vọng. Lửa ấy rạng-rỡ một bóng tối dầy đặc u-mê. Nó gợi ư một thành-khẩn trả lời cho bất cứ ai tha-phương cầu-thực ở thời-đại khốn khó hôm nay: Tôi là ai, đang ở đâu, làm ǵ? Khi người ta trả lời câu hỏi này với cả tâm-hồn người ta, mọi dấu tích ô-nhục ở mọi lănh-vực sẽ được xóa sạch và sẽ chẳng bao giờ c̣n dấu tích ô-nhục mới. Người Việt Nam sẽ thương yêu nhau bằng t́nh-nghĩa Việt Nam. Không c̣n ai bần-tiện nữa.

 

Đừng tranh-chấp nghệ-thuật-vị nghệ-thuật hay nghệ-thuật-vị-nhân-sinh. Văn-học, văn-hóa và văn-hiến Việt Nam vĩnh cửu. Chớ dối gạt nhau sợ hăi nó mất mà bảo-tồn theo cung-cách ăn cắp hay chọc mắt mù để khỏi nh́n thời-đại ḿnh mà luận về miếng ăn, miếng uống, manh áo, manh quần, cách ăn, lối mặc. Tất cả sẽ chỉ chứa-chan ư-nghĩa nếu chúng ta giải-thoát được dân-tộc để c̣n có tổ-quốc và quê hương”.

 

Theo tôi, những tác-phẩm trước 1975 của Sài g̣n, những tác-phẩm gọi là tiền-chiến cũ mèm hết hơi thở, những văn-học-sử quá sớm, những kư-sự khuôn mặt văn-nghệ mọi người đều biết, những tùy-bút thu góp tái-bản bừa băi, xuất-bản lai rai, chỉ là hồi trống thu không báo hiệu một hoàng-hôn tím lạnh. Nó chẳng có tác-động ǵ ở thời-đại mê sảng, thời-đại của bọn phu đào huyệt. Nó không thể bắt câm họng những con chó điên tru-tréo bạo-lực và h́nh-phạt thù-hận. Chẳng c̣n ǵ trơ-trẽn hơn phải đọc một tùy-bút uống trà tầu khi ḿnh biết chính-xác hàng trăm ngàn tù-nhân cải-tạo uống nước chùm-bao, nước hà-thủ-ô. Và, ở những trại tị-nạn, đồng-bào ḿnh uống trà cám bằng lon coca cola mài nhẵn nắp. Nhà văn có thể rửng-rưng với chập-chùng thống-khổ của thời-đại ḿnh, của dân-tộc ḿnh đến thế ư?

 

Người ta đă chê tôi viết những tiểu-thuyết thoát-ly rung cảm cũ. Người ta muốn tôi như Hoa thiên-lư, như Cầu mơ… Người ta cứ chê và tôi nhất-định không trở lại kỷ-niệm cũ. Bởi v́, tôi đă ăn bo-bo. Bo-bo là cảm-hứng mới của tôi. Bo-bo là biểu-tượng nhục-nhằn của dân-tộc tôi. Đó là trái cô-đơn tôi t́nh-nguyện ngậm suốt quăng đời văn-chương c̣n lại. Có lẽ, nên dạy ông nhà văn “ăn cắp, ăn vụng” một bài học về trái cô-đơn khi ông ta hỏi: “trái cô-đơn hay là trái cật?” một cách ngu-xuẩn. Tôi nghĩ chả nên dạy ông ta. Một nhà văn “ăn vụng thịt”, ngậm miếng thịt đầy họng th́ sẽ chỉ tưởng-tượng trái cô-đơn là miếng thịt “ăn vụng”. Và, v́ ở trại cải-tạo, những ngày lễ lớn tù-nhân được ăn thịt lợn nhưng không được ăn ḷng lợn nên ông nhà văn “ăn cắp, ăn vụng” cứ mơ-ước “ăn cắp” một trái cật mà ngậm! Trái cô-đơn, dễ ǵ ai cũng hái được để ngậm. Ít ra, người ta phải kinh-qua 40 ngày đêm tự khai ră rượi linh-hồn, phờ-phạc thể-xác; người ta phải nghe báo-cáo chết-chóc ở Chí Hoà; người ta phải khiêng bom chưa kịp nổ, lấp hố bom đă nổ; người ta phải nh́n rơ cái sinh-động quán rượu văn-học nghệ-thuật Hamburger viết bằng mơm, đôi khi, viết theo cung-cách gầm-gừ của bầy chó câm. Và nữa, người ta nghe rơ tiếng sủa thô-bỉ của các lănh-tụ Mặt-trận chửi bới lẫn nhau v́ tiền lạc-quyên “giải-phóng dân-tộc” chia-chác không đồng đều . C̣n nhiều lắm…

 

Chia bo-bo, nước sôi xong, các đội cũ khẩn-trương nhai, khẩn-trương nuốt và khẩn-trương tập-họp chuẩn-bị lao-động. Hai đội mới ở lại. Khoảng nửa giờ sau, hai ông thầy quản-giáo đến nhận học-tṛ mới. Thầy của Đội 17 rau xanh là Để, thầy của Đội 21 nông-nghiệp là Bản. Thầy Để mang quân-hàm thượng-sĩ, thầy Bản hạ-sĩ. Thầy Để phát cho mỗi tù-nhân một tờ giấy, bảo khai lư-lịch. Lại lư-lịch! Thầy muốn nắm thật vững đội. Thầy giao nhiệm-vu cho tôi gom hết lư-lịch của đội, kiểm-soát lại rồi góp “bài” cho thầy, khi thầy hỏi. Nhờ vậy, tôi cũng “nắm” đội. Đội của tôi có 50 người th́ 44 người sinh-quán và hộ-khẩu thường-trú ở B́nh Chánh, đa-số là nông-dân, vài người đă đi lính, đă làm cảnh-sát, thợ nhà in. Tất cả đều trẻ, từ ông Quản già, đều can tội phản-động chung một vụ.

 

Ban giám-thị chọn lựa dân làm rẫy vào đội rau xanh là sáng-suốt. 44 tù-nhân phản-động B́nh Chánh có cha con ông Quản (người con tên Học), ba anh em ruột thằng Lợi, hai anh em ruột thằng Huỳnh được kể như “đoàn-tụ gia-đ́nh” trong một đội. Sáu người không thuộc thành-phần nông-dân c̣n lại là:

 

1- Phạm Kim Sơn. Anh này ở BC Chí Hoà khoe rằng anh là hải-quân Trung-úy, trốn tŕnh-diện học-tập, đi làm phản-động và bị bắt trong một trận đánh. Lư-lịch anh ta khai với quản-giáo Để th́ anh là Trung-sĩ, can tội vượt biên.

 

2- Trần Quang Thạch. Anh này lớn tuổi, khai là y-sĩ thiếu-tá bị đuổi khỏi quân-đội VNCH, can tội lư-lịch mơ-hồ, nhà ở đường Công Lư gần trường Marie Curie.

 

3- Đặng Hoàng Hà. Can tội phản-động hiện-hành.

 

4- Nguyễn Trường Thanh, giáo viên. Can tội phản-động hiện-hành, tính nết bất-thường.

 

5- Lê Văn Hoán, lớn tuổi, can tội phản-động hiện-hành, bố vợ của Thanh.

 

Và… tôi.

 

Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao nhiều “hào-kiệt” hơn. Trung sĩ Phạm Kim Sơn thích tỏ ra …trí-thức và ưa lư-luận. Anh ta c̣n trẻ lại ham nói những điều ḿnh chưa hề biết. Trần Quang Thạnh nghệ-sĩ lắm, đàn nguyệt tà-t́nh, từng là t́nh-nhân của Út Bạch Lan, vui tính và cởi mở. Đặng Hoàng Hà, em ruột Đặng Hải Sơn, giao-du với Phạm Kim Sơn là một cặp.

 

44 người B́nh Chánh hiền-lành. Chỉ có 2 làm phản-động thật sự, c̣n bị t́nh-nghi. Đảng CSVN thực thi châm-ngôn:”Giết oan hơn tha lầm”. Và họ đă nâng tỷ-lệ tù chính-trị lên mức kỷ-lục.

 

Chúng tôi làm quen nhau, trao đổi chuyện gia-đ́nh….

 

° ° °

 

Hôm sau, chúng tôi vào lao-động. Tập họp ở sân trại với các đội cũ, tôi mở to mắt nh́n khẩu-hiệu Lao-động là vinh-quangtreo cao trên cổng trại. Đằng sau cái bảng gỗ, phía bên ngoài, bạn đă biết rồi, danh-ngôn Hồ chủ-tịch Không có ǵ quư hơn độc-lập, tự-do. Khi bước vào Sa Ác, bạn được nhắc-nhở lời Bác “Không có ǵ quư hơn độc-lập, tự-do”. Định-nghĩa của danh-ngôn Hồ chủ-tịch là căn nhà, cái cầu-tiêu, hai ngọn đèn và những câu báo-cáo đi đái, đi ỉa. Và cửa nhà tù khép lại, chặn then và khoá kỹ. Sự mỉa mai không dành cho chúng ta. Nếu biết suy-luận, danh-ngôn Hồ chủ-tịch ngoài cổng nhà tù là ư-chí chiến đấu của ta. Phải, không có ǵ quư hơn độc-lập, tự-do; không có ǵ quư hơn tự-do khi ta vào tù, khi dân-tộc ta mất nó. Không biết suy-luận th́ bạn sẽ cặm-cụi vẽ chân-dung Hồ Chí Minh, sẽ “ăn cắp cháy, ăn vụng thịt” như ông nhà… văn-học nghệ-thuật Tạ Tỵ. Lao-động là vinh-quang. Để xem, vinh-quang của chúng tôi nó ra sao. 

 

Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao xuất trại đầu tiên. Tổng-thư-kư nhật-báo Sống, cha đẻ của hai nhân-vật hí-hoạ Hách-x́-xăng và thằng Ngọng, biểu-diễn báo-cáo. 

 

- Chú ư. Đứng dậy. Nón mũ dở ra cầm tay phải lật ngửa. Ca-cóng cầm tay trái. Hai hàng dọc nh́n đằng trước …thẳng. Thôi.

 

 

Đằng Giao xoay người, ngẩng mặt ngó về phía điếm gác:

 

- Báo-cáo cán-bộ, Đội 21 nông-nghiệp tổng-số 50, lao-động 50, hiện diện đủ, chờ lệnh cán-bộ.

 

- Cho đi.

 

- Rơ.

 

Quân-sự-hoá mà. Ra khỏi cổng mới được đội nón mũ. Văn-hào Nguyễn Mạnh Côn le te theo sau, bị gỡ luôn kính cận khi qua điếm gác. Tác-giả Hoà-b́nh, nghĩ ǵ làm ǵ? đă được trả lời câu hỏi dầy ngót 500 trang sách.

 

Đến lượt đội của tôi xuất trại. Đội-trưởng đi sau cùng. Tôi thấy trực-trại Hưng đếm tù và kiểm-soát ca-cóng tù mang theo. Trực-trại có…trực-giác công-an. Hắn mà bắt đội nào dừng lại, y rằng phát-giác được tù-nhân bỏ gạo vào cóng hay nhét áo không đóng dấu trong xô. Tù-nhân này sẽ bị hạch hỏi gạo và áo không đóng đấu âm-mưu ǵ? Thường là âm-mưu trốn trại. Trốn trại có nhiều cách. Hoặc đêm khuya khoét tường vượt ngục. Hoặc đợi một đêm mưa tầm-tă dỡ mái tôn đào-tẩu. Hoặc ra đi ngay ở băi lao-động. Cách đi này, muốn chắc ăn, phải chuẩn-bị kỹ-lưỡng. Nghĩa là t́m chỗ dấu quần áo, thực-phẩm ngoài băi. Mỗi ngày đem theo một chút. Trại nào cũng đóng dấu lên hết quần áo của tù-nhân, bất kể quần áo lao-động hay quần áo… để diện khi về, quần áo trại phát hay quần áo gia-đ́nh gửi. Dấu của Sa Ác mang bí-số ḥm thư TH6, chiều ngang 8 phân, chiều dài 20 phân. Dấu đóng ở lưng áo hai cái, ngực áo hai cái; ở quần bốn cái, bằng thứ mực xà-pḥng giặt không phai. Tù-nhân nào bỏ sót quần áo không chịu đóng đấu, trực trại khám hành-lư, sẽ bị làm kiểm-điểm và bị “đánh dấu” có âm-mưu trốn trại. Muốn vượt ngục thành-công, cần có bộ quần áo không bị đóng dấu và thực-phẩm đề-pḥng lạc trong rừng vài hôm. TH6 B chưa hề có tù-nhân nào trốn trại.

 

Quản-giáp Để đợi chúng tôi ngoài cổng trại. Ông thầy dẫn chúng tôi tới hiện-trường lao-động. Hai vệ-binh canh gác chúng tôi. Ở trại lao-cải, thằng công-an nào cũng có thể “giáo-dục” tù-nhân. Vậy chúng nó là thầy hết trọi. Hiện-trường lao-động của chúng tôi sát khít cơ-quan và cách bờ sông Ray 30 thước. Đó là khoảng đất có nhiều cây cháy v́ bom lửa và năm bẩy hố bom lớn, sâu trũng. Cỏ gai và cỏ nhỏ chằng-chịt. Chúng tôi sẽ trồng rau ở đây. Thầy Để gom 50 tờ khai lư-lịch, thầy gọi riêng từng tù-nhân “làm việc” rất khẩn-trương rồi thầy chọn 10 người đi lấy dao, cuốc, xẻng, búa chim, xe. Xe là miếng tôn rỉ sét, hai mép dọc bọc lấy hai khúc cây dài, đóng đinh cho khỏi tuột, dùng để khiêng đất. C̣n là tre đan khổ miếng tôn, luồn qua hai khúc cây. Và cộng-sản gọi rằng “cái xe”! Chúng tôi phải phát quang và làm phẳng phiu khu đất này rồi mới vỡ đất, lên luống trồng rrau.

 

Tôi quên chưa kể chi-tiết này: Ra tới hiện-trường lao-động, đội phải tập-họp “hai hàng dọc, nh́n đằng trước thẳng, nghiêm” để Đội-trưởng báo-cáo với vệ-binh.

 

- Báo-cáo cán-bộ, Đội 17 rau xanh tập-họp đủ 50, chờ lệnh cán-bộ.

 

Vệ-binh sẽ phán:

 

- Cho phép lao-động.

 

Bấy giờ tù-nhân mới cất ca-cóng, cởi quần áo, ḿnh trần xà-lỏn “đóng góp cho sự phồn-vinh của tổ-quốc”. Sau mỗi buổi tan lao, Đội-trưởng tập-họp đội, báo-cáo vệ-binh. Vệ-binh cho phép đi tắm. Tắm xong, Đội-trưởng tập-họp đội, đếm đủ người, báo-cáo vệ-binh. Vệ-binh cho về trại. Vệ-binh đứng canh cho đến khi đội nhập trại. Đội-trưởng miễn lao-động chân tay nhưng lao-động… mắt. Cứ khoảng 20 phút lại đếm tù và đứng cách vệ-binh 3 thước báo-cáo quân-số đang lao-động. Tù-nhân trốn trại, Đội-trưởng lănh búa tạ. Đi cải-tạo, bị chỉ-định làm Đội-trưởng là ôm tai-hoạ chưa hiểu ngày nào nó giáng xuống số-phận ḿnh. Vệ-binh không thể đứng 8 tiếng đồng-hồ, lại không thích ngồi dưới gốc cây, trên g̣ mối nên mỗi đội đều có hai cái ghế đẩu thấp dành cho vệ-binh. Nhiệm-vụ của Đội-trưởng là bưng ghế cho vệ-binh ngồi và cất ghế lúc tan lao.

 

Khi bưng ghế cho vệ-binh ngồi, tôi lại nhớ người bạn đạo-diễn Hoàng Vĩnh Lộc. Tôi quên mất năm nào của thập-niên 70, hăng phim Giao Chỉ tiếp-tân ở Majestic giới-thiệu truyện phim Người t́nh không chân-dung mà hăng sắp thực-hiện. Buổi tiếp-tân có Tổng-trưởng Ngô Khắc Tỉnh. Ông ta được mời phát-biểu về truyện phim mà ông có vinh-hạnh đọc trước. V́ cái bục cao mà Ngô Khắc Tỉnh lùn nên ông khó ḷng đọc bài phát-biểu viết sẵn đặt mặt bục. Hoàng Vĩnh Lộc nhanh chân kiếm cái két nước ngọt đem tới cho Ngô Khắc Tỉnh bước lên. Tôi vỗ vai Hoàng:

 

- Phim của mày có quanh cảnh …bưng két này không?

 

Hoàng chửi tôi:

 

- Đ.m…, mày chơi ông đau quá!

 

Rốt cuộc th́ tôi cũng lại bưng ghế. Kẻ dám lên Đài truyền-h́nh Huế năm 1972 cùng Phạm Duy, Tô Thùy Yên nhắn giùm lời hạ-sĩ Sứt, thủy-quân lục-chiến điều-khiển hoả-tiễn Tow, thách-thức Vơ Nguyên Giáp hăy cho tăng Liên-xô vào, ai ngờ có ngày lănh cái tát của cai ngục Phách và bưng ghế cho vệ-binh chăn trâu cắt cỏ. Có lẽ, người ta đánh giá tôi khiếp-nhược và đầu hàng cộng-sản qua cái bi-hài-cảnh này. Tôi chưa biết, nếu Tố Hữu bắt tôi bưng ghế, thái-độ của tôi sẽ ra sao. Chữ nếu không bao giờ có. Người cộng-sản kiêu-ngạo lắm. Họ đă chỉ để bọn chăn trâu cắt cỏ, bọn nhăi ranh trên dưới 20 tuổi giáo-dục chúng ta. Tôi sẽ chẳng có phản-ứng ǵ với đối-tượng chăn trâu cắt cỏ. Đối-tượng chiến-đấu của tôi là chủ-nghĩa cộng-sản và lănh-tụ cấp ủy-viên Bộ Chính-trị trung-ương Đảng. Rơ rệt nhất, tôi không thèm rên-rỉ, bất-b́nh những h́nh-phạt của thù-hận giáng xuống thân-phận tôi. Tôi chưa quên lời khuyên tâm-cảm của người chấp-pháp miền Nam ở Sở Công An: “Có nhiều vị anh-hùng không chết ở chiến-trường mà bị chết nhục ở cái lỗ chân trâu. Anh chớ dại chết v́ cái lỗ chân trâu.” Tôi chưa quên lời khuyên tâm-cảm của người cai ngục khác thường tên Vũ, Trưởng-khu A4 Chí Hoà: “Các anh không ở đây lâu. Tôi cũng không ở đây lâu. Tôi không thích công-tác quản-giáo tù-nhân. Tôi ít tuổi hơn các anh, xin các anh một điều : Đừng chống đối cán-bộ quản-giáo, bất cứ nơi nào. Họ không có quyền bắt các anh, không có quyền tha các anh, nhưng có quyền hành-hạ các anh, đầy-đọa các anh vào chỗ chết thảm”.

 

Sự nổi tiếng của tôi là một bất-lợi lớn, một bẽ-bàng cho tôi khi tôi vào tù. Tôi đă tạo ra những nhân-vật thần-tượng, những mẫu người hùng lư-tưởng trong tiểu-thuyết của tôi. Độc-giả say mê nhân-vật thần-tượng rồi gán-ghép cho tôi ngôi vị thần-tượng của họ. Trước 1975, đă nhiều lần tôi khước-từ ngôi vị thần-tượng phù-ảo mà độc-giả của tôi phong tặng cho tôi. Người nghệ-sĩ sáng-tạo khác người nghệ-sĩ tŕnh-diễn. Nhà văn không có thần-tượng và không thích làm thần-tượng. Thần-tượng của nhà văn là nỗi cô-đơn. Bởi v́, cô-đơn soi sáng sáng-tạo cho nhà văn. Ở bài Một chút tâm sự của người làm thơ trong tù, tôi viết: “Tôi làm thơ để quên mệt mỏi, để chống ngủ sầu. Nhưng đúng nhất, tôi làm thơ để tồn-tại. Sự tồn-tại khác với sự sống. Một số ít, trong chúng ta, quan-niệm sự sống và sự tồn-tại giống hết. Do đó, nẩy sinh ra nhiều mâu-thuẩn, ngộ-nhận chua xót. Tôi cho rằng con người tồn-tại. Và tôi không thù-hận con người . Thời-đại tôi, nhất là trong cảnh-ngộ tôi, tín-đồ bắt buộc thần-tượng của họ phải thực-hiện ư muốn của họ. Họ độc-tài, quá-khích, muốn thần-tượng của họ thù-hận những kẻ đầy đọa họ như họ thù-hận. Thần-tượng trái ư. Họ đạp đổ thần-tượng, bài-bác và bôi bẩn. Họ thù thần-tượng cũ hơn cả kẻ thù của họ nữa”.

 

Người ta trông đợi ở tôi một sự chống đối quyết-liệt bọn công-an coi tù, tôi lại … cam đành vác ghế! Tôi không thể chống đối bọn cộng-sản giẻ rách này. Thứ nhất, họ không phải đối-tượng của tôi. Thứ hai, tôi không thích chết dại ở lỗ chân trâu. Thứ ba, tôi thương họ hơn là thù-hận họ.

 

Chưa bao giờ tôi thấy triết-lư Nguyễn Du tuyệt-diệu trong câu :”Chữ Tài liền với chữ Tai một vần”. Tôi muốn nhắc lại câu nói bất-hủ trước khi bay đầu của người đồng-bóng Tang Môn :”Tài-năng là cứu-cánh, đồng thời, cũng là tai-hoạ của con người.” Cứ lèng-mèng lại khá. “Ngu-si hưởng thái-b́nh” là vậy. Tài-năng của tôi c̣n dẫn tôi đến tai-họa khác. Và tôi nằm bẹp dí giữa sức ép của phỉ và ngụy. Một số thư-lại Long Thành, khuyển mă của Nguyễn Văn Thiệu, một số sĩ-quan văn-pḥng , khuyển mă của Cao Văn Viên vấn nạn tôi và quy tội “làm mất nước” cho tôi. V́ tôi đă đối-lập Nguyễn Văn Thiệu bằng cách đi … ăn mày! Đối-lập, với nhà văn là phản-kháng, là nghĩa-vụ của người cầm bút, trừ những anh kư-giả nhà nước, những ông nhà văn giám-đốc, chánh sở…. Ở Nhà tù, tôi đă viết rơ sự cần-thiết phản-kháng để làm thăng-hoa đời sống. Tôi xin ghi lại những câu thơ Trần Dần mà tôi coi như kim-chỉ-nam của tất cả những người cầm bút:

 

Chẳng thể rúc kèn cũ rích

vác loa mồm kêu:

“Hiện tại rất thiên-đường!”

Không

Thiên-đường chúng ta

là nối đuôi nhau

vô tận triệu thiên-đường

Đi măi

chẳng bao giờ thoả.

 

Đối-lập một chế-độ không bao giờ là đối-lập tổ-quốc. Chống đối, loại bỏ một chế-độ khốn-kiếp lại là yêu-cầu cần-thiết của dân-tộc. C̣n đi ăn mày vào cái ngày báo-chí Sàig̣n xuống đường đi ăn mày th́ tôi đă, chẳng những không đi mà c̣n chống đối. Người cầm bút chiến-đấu bằng tư-tưởng, chống đối bằng tư-tưởng. Người cầm bút phẫn-nộ bằng chữ-nghĩa, không phẫn-nộ bằng bị gậy đi ăn mày, diễn tṛ hề rẻ tiền dưới mắt báo-chí thế-giới. Những kẻ không biết viết và viết chẳng ra ǵ mới đối-lập kiểu ăn mày bệ-rạc.

 

Ăn mày là ai?

Ăn mày là ta,

Đói cơm rách áo hoá ra ăn mày.

 

Cũng thế, đói tư-tưởng, rách chữ-nghĩa th́ hoá ra nhà văn, kư-giả ăn mày. H́nh-tưởng tác-giả Cậu chó đi ăn mày phản-kháng đi! Tôi e rằng không có tác-dụng ǵ cả. Tuy nhiên, kư-giả ăn mày vẫn c̣n một điểm để đề-cao cái nền dân-chủ què-quặt của Nguyễn Văn Thiệu. Dẫu sao, người ta vẫn được quyền biểu-diễn tṛ chơi dân-chủ rất hạ-cấp ấy. Và tôi là nạn-nhân khi nằm tù. Người ta mỉa mai tôi “Bây giờ dám đối-lập, dám đi ăn mày không?”! Tôi im lặng. Cái bọn vấn nạn và kết tội tôi không có kiến-thức. Họ thua cộng-sản xa. Người cộng-sản mới hiểu nổi nhà văn chống đối họ.“Bọn nhà văn là bọn biết dấu-diếm những điều cần dấu-diếm kỹ trong đầu óc của chúng” 4. Cựu-ước-kinh viết: “Có một thời im lặng và một thời lên tiếng”. Thời lên tiếng không phải là thời nằm ở nhà tù, trại tập-trung. Lên tiếng chống đối ở nhà tù là dại, lên tiếng chống đối lũ cai tù chăn trâu cắt cỏ là ngu. Lên tiếng tranh-chấp với bạn tù hẹp-ḥi, thiển-cận là xuẩn. Vậy “xếp tàn lại để dành hơi” cho một lên tiếng trong tương-lai.

 

Và b́nh-thản bưng ghế. V́ “trại-viên cải-tạo phải triệt-để tuân-hành mệnh-lệnh, chỉ-thị của cán-bộ”, Nội-quy ghi rơ. “Hùm thiêng khi đă sa-cơ cũng hèn”. Bưng ghế không nhục bằng “Để chúng dắt đi tựa trâu ḅ” như Hồ Chí Minh tự thú và không bỉ-ổi bằng “ăn cắp, ăn vụng”. Thoạt đầu, tôi rất khó chịu sự vinh-quang của “lao-động” bê ghế. Chúa ơi, Ngài dạy rằng:

 

“Đừng chống cự kẻ ác. Trái lại, hễ ai vả má hữu ngươi, hăy đưa má kia cho họ luôn. Hoặc ai muốn kiện ngươi để lấy áo trong, hăy để họ lấy luôn áo ngoài nữa. Hay là hễ ai muốn bắt ngươi đi một dặm, hăy đi hai với họ. Ai xin, ngươi hăy cho, ai muốn mượn của ngươi th́ đừng làm ngơ. Các ngươi đă nghe phán rằng: “Hăy yêu người lân cận và ghét kẻ thù nghịch”. Nhưng ta nói cùng các ngươi, hăy yêu kẻ thù nghịch các người và cầu nguyện cho kẻ bắt-bớ các ngươi hầu cho các ngôi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời. Bởi v́ Ngài khiến mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho người công-chính cùng kẻ bất-nghĩa. Nếu các ngươi yêu kẻ yêu ḿnh th́ có được phần thưởng ǵ đâu? Kẻ thâu thuế há chẳng làm như vậy sao? Lại nếu các ngươi chỉ chào anh em ḿnh mà thô, th́ có lạ ǵ hơn ai?” 5

 

Con đă tuân lời Ngài, không “chống-cự kẻ ác”, con đă bê ghế cho “kẻ thù nghịch”, con chưa thấy mặt trời soi trên kẻ thiện, mưa xuống người công-chính. Mà chỉ nghe những lời nguyền-rủa nghiệt-ngă, mà chỉ chịu đựng những vu oan giáng họa tối tăm mặt mũi. Nhưng, Chúa ơi, hơi may cho con là những kẻ nguyền-rủa con không phải là “kẻ yêu ḿnh”. Họ là khuyển mă của Nguyễn Văn Thiệu, Cao văn Viên, là đám quốc-gia bần tiện, nhơ bẩn, con có nên yêu họ, có nên đưa má hữu cho họ tát thêm sau khi họ đă tát má tả?

 

Quốc-gia bẩn kết tội tôi làm mất chế-độ khốn-kiếp của chúng nó, thù-hận tôi, chụp lên đầu tôi chục kiều mũ đê-tiện.

 

Cộng-sản ác kết tội tôi kéo dài chiến-tranh, đầy-tớ Mỹ ngụy, biệt-kích văn-nghệ, giam nhốt tôi, đầy-đọa tôi.

 

Tôi kẹt giữa hai sức ép ṛng-ră tháng ngày lao-cải. Cai tù nh́n tôi như một tội-đồ nguy-hiểm. Tù-nhân bị cộng-sản tước-đoạt đặc quyền đặc-lợi chế-độ cũ nh́n tôi như một kẻ phá hoại. Tù-nhân độc-giả của tôi nh́n tôi như một tên khiếp-nhược. Họ trông đợi hành-động ngoạn-mục của tôi trong tù như hành-động ngoạn-mục của nhân-vật thần-tượng của tôi trong tiểu-thuyết. Cuộc đời có bao giờ là tiểu-thuyết? Tiểu thuyết đă được hiểu như cuộc đời! Họ chờ đợi tôi phẫn-nộ. Tại sao họ không chờ đợi văn-hào Nguyễn Mạnh Côn cùng trại với tôi, lỗi-lạc hơn tôi? Họ bảo ông Côn già rồi, lờ-mờ rồi, hết sáng-suốt v́ đói thuốc phiện rồi. Họ muốn tôi làm vật tế thần, làm kẻ hy-sinh. Để họ hoan-hô và nếu tôi chết, họ tưởng-niệm. C̣n họ, họ thụ-động.

 

Không, tôi không khoái làm liệt-sĩ hay dũng-sĩ. Tôi không thích chết sảng: không thích vào cachot v́ bị xúi dục. Tôi hết là “thần-tượng” của những người cổ ư gán ghép tôi tước-vị thần tượng. Và bất hạnh xẩy đến cho tôi. Dài dài. Cái đám nhân-loại ích-kỷ trong nhà tù cộng-sản chỉ muốn tôi chết-. Mà tôi, tôi cần sống để viết và để tồn-tại. Vậy th́ tôi bưng ghế như mọi tù-nhân bị cưỡng-bức sai vặt những công việc ngoài ư muốn.”Ở đời trăm sự đều cay đắng Cay đắng đâu bằng mất tự-do, Mỗi lời mỗi việc không tự chủ . Để chúng dắt đi tựa trâu ḅ” 6. Hồ Chí Minh chấp nhận bị “dắt đi tựa trâu ḅ” để trở thành chủ-tịch Hồ Chí Minh “vĩ đại sống măi trong sự nghiệp” cộng-sản. Những thằng cộng sản cắc ké khác đă “bất khuất”, đă chết ngu. Để chỉ là liệt-sĩ chẳng có cái ǵ đề lại và chẳng ăn cái giải ǵ. Tôi yêu câu thơ của Nguyễn Bá Trác: “Chí ta ta biết, ḷng ta ta hay”. Cái chí của tôi, rồi người ta sẽ biết, là những ǵ tôi để lại sau khi tôi nhắm mắt.

 

Tâm sự của tôi, ở tù và ra tù, tôi gửi trong bài Gọi Tự Trường.

 

Tử Trường, Tử Trường, ơi Tử Trường

Xưa hay là sau đều thê-lương

Xưa chịu nhục-h́nh cho sử-kư

Sau làm sáng tỏ nghĩa yêu thương

 

Đă thiết-tha nhiều chuyện Lư Lăng

Tiếng than sĩ-khí buốt cung đàn

Ai dám v́ ông mà chuộc tội

Cơi đời ngu-muội phán lăng-nhăng

 

Ông đau vết hoạn lưỡi dao hèn

Từ đó cung giương một mũi tên

Theo hồn tài-tử, tên bay vút

Ngạo-nghễ hành h́nh Tư Mă Thiên

 

Cái bọn chê ông chết hết rồi

Nhưng ông sống măi như mây trôi

Hai ngh́n năm ngỡ chừng gang tấc

Mảnh đất oan này lại có tôi

 

(Thơ Tù – Nam Á Paris, 1984)

 

Tôi đă đọc một điều tuyệt diệu trong Luận Báo Vương Tam Muội “Oan ức không cần biện bạch v́ biện bạch th́ hèn nhát mà trả thù th́ oán đối tăng thêm”. Thế mà tôi đă phải biện-bạch. Bởi v́ cả phỉ lẫn ngụy vây hăm tôi, cùng chơi tôi một đ̣n quyết-liệt: Bôi bẩn, nhục mạ tôi để vô-hiệu-hóa uy-tín và khả-năng chiến-đấu chống cộng-sản bằng tư-tưởng của tôi.

 

Tôi đă biết một phái-đoàn Amnesty International từ Luân Đôn sang Việt Nam, xin vào được Chí Ḥa thăm Cao Dao và tôi, năm 1978. Tôi bị khước từ gặp AI 7. Trực-giác của tôi cho tôi biết tôi sẽ được cứu. V́ phải thả Cao Dao và tôi ra để “thể-hiện t́nh-nghĩa anh em quốc-tế” đánh đổi sự tự-do cho vài nhà văn, nhà báo cộng-sản Nam Dương bị chế-độ Suharto giam nhốt, cộng-sản mở chiến-dịch hạ gục Cao Dao và tôi, trước khi họ tha cho làm phúc.

 

Cao Dao bị gán nhăn-hiệu thảm hơn, “ăng-ten trong trại cải-tạo”. Cộng sản nửa kín nửa hở phụt tin rỉ tai cho tù-nhân. Họ chọn những đối-tượng ghét chúng tôi. Họ bịa đủ mọi chuyện, tù-nhân thêu dệt thêm. Ông “nhà văn lăo thành” Toan Ánh, kư Lă Vi, không hề bị bắt. Biết ǵ mà phao tin bẩn? Hồ sơ của công-an đâu phải thông-cáo dán tường mà ai cũng đọc, cũng biết. Đến như ông Tạ Tỵ đă học tập cải tạo, vẫn vô lư như vầy: “Nếu cách-mạng tha tôi, tôi t́nh-nguyện báo-cáo hết những tên làm văn-nghệ CIA ở Sàig̣n”. Vẫn ông Tạ Tỵ: “Câu này do chính tên công-an nói lại cho tù nghe, xong nó mỉa-mai: Chúng tôi đâu có cần anh Duyên Anh chỉ-điểm. Chúng tôi đă “nắm vững”. Nghề của chúng tôi mà”! 8

 

Nói ông Tạ Tỵ vô-lư ác ư v́:

 

1. Các nhà văn quân-đội đi tŕnh-diện từ tháng 6-1975. Tôi bị bắt tháng 4-1976. 

2. Các nhà văn, nhà báo bị bắt trong chiến-dịch 2-4-1976 1976 vào tù cả làng, có cần ai chỉ-điểm. 

3. Không có nhà văn-nghệ nào là CIA cả. Ông Tạ Tỵ bịa ra và đă làm giảm tư-cách của văn-nghệ Sàig̣n. Chỉ có công-an đổ tội văn-nghệ Sàig̣n làm việc cho CIA. 

4. Ông Tạ Tỵ ngoan-ngoăn nghe và tin tên công-an cộng-sản tiết-lộ những điều nhằm bôi bẩn tôi. Ông ta ngu quá không biết lư-luận và cũng không tự hỏi công-an bôi bẩn tôi nhằm mục-đích ǵ. 

5. Công-an coi tù không có ngôn-ngữ “Nghề của chúng tôi mà”. Coi tù là coi tù, nó mù tịt những ǵ tù-nhân khai với chấp-pháp.

 

Cái đắc chí của ông Tạ Tỵ là ông dẫn chứng “chính tên công an nói lại cho tù nghe” những lời bêu nhục tôi là bằng-chứng cụ-thể rằng cộng-sản đă mở chiến-dịch hạ gục uy-tín chống cộng tự nguyện của tôi trước khi tha tôi. Nó đánh tôi trong tù, ngoài đời; trong nước ngoài nước. Nó muốn tư-tưởng chống cộng của tôi tê-liệt, tôi về cũng như tôi chết. Bây giờ, chiến-dịch ấy trở thành lố-bịch. Công-cụ của nó rách bươm. Bây giờ, những con chó điên đă hết sủa bậy. Bây giờ là thời lên tiếng của người công-nghĩa . Bây giờ c̣n là thời của phu đào mồ phản tỉnh khơi sâu nấm huyệt tập-thể chôn vùi những tên điêu-ngoa, bịa đặt, gian dối, a-dua toa rập. Bây giờ, trên nước Mỹ tự-do, nước Mỹ không có nhà tù cho những người đối-lập tư-tưởng, nước Mỹ không có nhà tù của những thằng quốc-gia bẩn nhăn hiệu Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên, nước Mỹ không có trại tập-trung của cộng-sản, người ta định-nghĩa anh-hùng và khiếp-nhược ra sao về thái độ của vài nhà văn Hamburger đối với lũ quyền-uy ảo-tưởng?

 

--------------------------------

1- Minh-suyễn được tha năm 1982. Năm 1985 Minh-suyễn chết. Gia-đ́nh chôn cất ḥm đắt tiền, phu nhà đ̣n quốc-doanh đào mả, lấy ḥm, vất xác Minh-suyễn trên miệng huyệt. Minh-suyễn được chôn lần thứ hai (Theo tin của bạn tù mới qua Paris)

2 - Ở tù cũng như ở trại cải-tạo, y-tá không cần-thiết phải là y-tá tốt-nghiệp ở một trường nào, chỉ cần đọc được tên vài thứ thuốc và cách trị bệnh thông-thường. Thí-dụ: y-tá Đoàn Văn Toại, Lư Sen…

3 - Thứ gạo Trung-quốc viện-trợ để lâu mục nát, vo là tan thành bột.

4 - Huỳnh Bá Thành. Vụ án hồ Con Rùa, nhà xuất-bản Tuổi Trẻ, 1982.

5

Tân-ước, theo Matthew, ấn bản của The Gideons International, trang 11.

6

Hồ Chí Minh, Ngục trung nhật-kư.

7

Năm 1984, nhân-viên của AI trung-ương ở Londres viết thư cho tôi có nhắc vụ không được gặp tôi ở Chí Hoà.

8

Tạ Tỵ, báo đă dẫn.

 

 

  1. TRẠI TẬP TRUNG

  2. TRẠI TẬP TRUNG

  3. TRẠI TẬP TRUNG

  4. TRẠI TẬP TRUNG

  5. TRẠI TẬP TRUNG

  6. TRẠI TẬP TRUNG

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Gịng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA ֎ Lam vs Ngo

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 


 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

Dân tộc Việt Nam không cần thắp đuốc đi t́m tự do, dân chủ, nhân quyền ở Washington, Moscow, Paris, London, Péking, Tokyo. Đó là con đường của bọn nô lệ vọng ngoại, làm nhục dân tộc, phản bội tổ quốc, đă đưa đến kết thúc đau thương vào ngày 30 – 4- 1975 và để lại một xă hội thảm hại, đói nghèo lạc hậu ở Việt Nam gần nửa thế kỷ nay..Đă đến lúc quốc dân Việt Nam phải dũng cảm, kiên quyết đứng lên dành lại quyền quyết định vận mạng của đất nước. Kim Âu

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều

vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvViệt Học

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật KhoavVăn Chương

vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu TrữvSoHa

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNMvB́nh Dân