MINH THỊ

 

LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning

Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record v CBO

v US Government vCongressional Record

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vReuter vAP v World Tribune

v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

v MediaMattersvSourceIntelvNewsupvIntelnews

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian v Political Insider v Law v Media

v Ramussen Report  v Wikileaks  v Federalist

v The Online Books Page v Breibart  Interceipt

v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic

v National Public Radio v ForeignTrade v Slate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao v Học Viện Công Dân v Danh Ngôn

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta  v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v Người Việt Seatle v Cali Today v Trí Thức

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v Bia Miệng

VỀ TRƯƠNG VĨNH KƯ

VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN BẢN, LỐI NH̀N …

 

Nguyễn Vy Khanh

 

 

 

 

Những năm cuối thế kỷ XX có một hiện tượng tiêu cực và đặc biệt ngày càng trầm trọng, đó là việc các nhân vật lịch sử và văn hóa Việt Nam liên tục bị hạ bệ, vẽ trấu: Nguyễn Huệ, Gia Long, Nguyễn Du, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Kư, ... cũng như một số lănh tụ, tướng lănh bất kể phe phái nào. Có khi là những nỗ lực đi t́m sự thực lịch sử, có khi là những đánh giá lại, có khi gián tiếp chửi bới một chế độ, phe nhóm, có khi v́ kỳ thị tôn giáo hay v́ mặc cảm, dị ứng, biến ứng, có người riêng rẻ, lại có những tổ chức qui mô. Sự kiện 30-4-1975 đă chứng minh vai tṛ của „hoả mù“ tuyên truyền, phản thông tin trong cuộc chiến tranh đó! Trong một t́nh cảnh chung của người Việt lúc này sống chết với ... lịch sử, với hiện tượng hồi kư tạp loại, nhất là tiểu thuyết lịch sử, dă sử. Dĩ nhiên đó cũng là lư do trong nước gần đây (4-2000), tại đại hội Nhà văn lần thứ 6, việc sáng tác về các đề tài lịch sử đă được Ban Chấp hành Hội Nhà văn đề ra như là một phương hướng nhiệm vụ cần thiết cho ngũ niên tới, 2000-2005 (1). “Hoả mù“ cứ thế mà tiếp tục thôi ! Dĩ nhiên, Trương Vĩnh Kư không thoát những đ̣n hỏa mù đó! Từ ngày ông qua đời đến nay và qua nhiều cuộc đổi đời, đă có nhiều công tŕnh biên khảo và nghiên cứu về ông, khen có chê có. Trong bài này chúng tôi với chủ ư đặt lại một số vấn đề nghiên cứu căn bản, do đó chỉ xin nêu ra một số sai lầm và nghi vấn về con người và sự nghiệp Trương Vĩnh Kư, một người Việt Nam-kỳ, theo đạo Thiên chúa, làm việc cho Pháp và là người mở đường báo chí và văn học chữ quốc ngữ ở hậu bán thế kỷ XIX. Ông sống đồng thời với Phan Thanh Giản, Nguyễn Đ́nh Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, ... nhưng mỗi người một cuộc đời khác nhau, đại diện cho các khuynh hướng người Việt lúc bấy giờ đối với thực dân Pháp thôn tính Nam-kỳ.

 

1. Người ta thường phê phán Trương Vĩnh Kư làm việc với kẻ thù ngoại bang tức người Pháp.

Bước đầu là làm thông ngôn cho Hải quân Pháp là những người sẽ đánh chiếm lục tỉnh. Phê phán dễ nếu không đặt vào hoàn cảnh của đương sự. Sau khi đi tu đạo Thiên-Chúa không thành và du học từ năm 14 tuổi ở Poulo Penang, ông về thọ tang mẹ năm 1858 (2), lúc đó 21 tuổi và nay mồ côi cả cha lẫn mẹ, cũng là lúc triều đ́nh vua Tự Đức gay gắt cấm đạo, từ năm 1848 đến năm 1861 sáu lần ra chiếu cấm đạo, như chỉ dụ 13 (1860) nói rơ không cho người theo đạo làm quan chức và nếu đang làm quan phải bỏ đạo nếu không sẽ bị h́nh phạt („thắt cổ chết ngay“). Có đạo là một „tội h́nh“, Trương Vĩnh Kư sẽ làm nghề ǵ nếu không làm rẫy ruộng, nhưng ông lại mồ côi, không thân thích! Năm 1860, sau khi trốn khỏi trường Cái Nhum nơi ông tá túc và dạy trẻ em, v́ bắt đạo, ông phải trốn lên Sài-G̣n ở và làm việc cho giám mục Lefèbvre, nên khi người Pháp cần thông ngôn gấp v́ không thể tiếp xúc với dân chúng, chính giám mục này đă tiến cử Trương Vĩnh Kư làm thông ngôn cho trung tá Hải quân Jauréguiberry, tư lệnh Sài-G̣n. Lúc này thành Gia-Định đă thất thủ, Trương Vĩnh Kư lập gia đ́nh năm 1861 ở Chợ Quán. Nhưng công việc này không được lâu v́ Trương Vĩnh Kư đă có thái độ và quyết tâm làm theo ư nguyện của ông. Theo một tài liệu ông Nguyễn Đ́nh Đầu mới t́m thấy, Trương Vĩnh Kư từng tỏ ra dù hợp tác với Pháp, vẫn cho họ biết ông có con đường của ông. Một bức thư của chỉ huy trưởng D’Ariès gửi đô đốc Charner đề ngày 21-5-1861 đề cử Trương Vĩnh Kư : “trong số người Nam nói được ngôn ngữ của chúng ta chỉ có một người tên là Petrus Kư là biết khá rành rẽ có thể giữ các chức vụ Ngài muốn thiết lập bên cạnh các thẩm quyền quân sự của chúng ta“, nhưng D’Ariès than phiền thái độ hợp tác lơ là của người thanh niên 23 tuổi này: „từng là nhân viên Sở Sự vụ bản xứ Sài-G̣n, ông ta đă bị sa thải v́ thiếu mẫn cán và tận tụy, rất thông minh, rất có khả năng làm tốt công việc, nhưng ông ta dần dà đánh mất sự tin tưởng tạo được. Tôi không muốn chỉ định ông ta để ngài chọn làm thông dịch viên cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta“. Dù vậy vị tổng chỉ huy Charner nói trên vẫn chọn Trương Vĩnh Kư và đưa ra các điều kiện để D’Ariès chuyển lại họ Trương ”40 đồng một tháng và phải luôn có mặt tại Sài-G̣n“. Nhưng Trương Vĩnh Kư không chấp thuận điều kiện đó và nhân tiện bộc lộ tư cách của ông khiến D’Ariès bực tức trong thư sau đề ngày 28-5-1861: „Tính kiêu căng và các yêu sách của ông ta hơn tất cả những ǵ chúng ta có thể tưởng tượng về ông ta (...) đ̣i 110 đồng với quyền làm công việc mà ông ta ưa thích và rút lui khi nào không c̣n thích hợp...“ (3). Léonard Charner là người đă đánh hạ đồn Chí Ḥa ngày 24-2-1861.

14 tàu chiến của liên-quân Pháp và Tây-ban-nha bắn vào cửa Hàn (Đà Nẵng) lần đầu ngày 1-9-1858, và cũng như sau này tấn công Bắc-kỳ lần thứ nhất (1873), người Pháp đều gặp nhiều khó khăn v́ người Việt theo đạo Thiên-Chúa đă không hưởng ứng nổi dậy làm nội ứng như người Pháp tiên liệu. Ngày 17-2-1859, hải quân Pháp và Tây-ban-nha đă chiếm thành Gia Định, rồi đến tháng 12-1861 chiếm hết ba tỉnh miền Đông Nam-kỳ, đưa đến hoà ước Nhâm Tuất (5-6-1862). Trương Vĩnh Kư ra Đà Nẵng làm thông ngôn trong việc kư hoà ước và đ̣i bồi thường chiến phí này, ông đă tỏ ra có khả năng nghị luận và thẳng thắn khi phải tế nhị giữa hai bên, đă được cả hai phe để ư. Cho nên tháng 6-1863 cụ Phan Thanh Giản đă yêu cầu Trương Vĩnh Kư làm thông ngôn cho phái đoàn đi Paris và Madrid xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông - trong khi đó một số người như „sử gia“ Vũ Ngự Chiêu sai lầm khi nói ông làm cho Pháp, tức theo phái đoàn Pháp. Không thành, và rồi ba tỉnh miền Tây cũng bị Pháp chiếm nốt. Cụ Phan Thanh Giản đă phải uống thuốc độc tự vận ngày 20-6-1867 sau khi đành nộp thành Vĩnh Long cho Pháp để tránh chết chóc cho người dân v́ cụ đă thấy và hiểu ta không thể chống cự lại khí giới tối tân của người Pháp. Trương Vĩnh Kư lựa chọn con đường hợp tác sau mới rơ ra là ảo tưởng v́ người Pháp không thực tâm „khai hóa“, nhưng lúc đó, họ Trương không có lựa chọn khác. Đó chỉ là bước đầu v́ Trương Vĩnh Kư đi xa hơn và để lại cho hậu thế một gia tài văn hóa quan trọng mà chúng ta nên b́nh tâm luận xét. Cụ Phan hiểu thế yếu đă tự xử cho trọn đạo quân-thần, Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương tự t́m cái chết cũng cho phải đạo. Cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu ở hoàn cảnh khác, cũng trốn tránh kẻ thù, không hợp tác. Tất cả trung thành với đạo nho, hôm nay có người phê b́nh là „hủ nho“ (4). Trong bối cảnh lịch sử đó, Trương Vĩnh Kư đă lựa chọn con đường hợp tác với kẻ thù và mong chờ cơ hội để người Pháp hiểu con người Việt Nam, cũng là cách để người công-giáo trở về với dân tộc - như Nguyễn Trường Tộ sau này, chứng minh với người Pháp là người Việt theo đạo Thiên-Chúa không hẳn sẽ dễ bảo, dễ theo Pháp để phản bội lại dân tộc! Hôm nay chúng ta phê b́nh dễ dàng, v́ không sống trong hoàn cảnh. C̣n phê b́nh hợp tác với kẻ thù, sau ông, „chúng ta“ cũng đă hợp tác với kẻ thù Trung-Hoa rồi Pháp và Mỹ ! Nếu suy luận từ những thư tín của các vị thừa sai th́ cũng nên xem lại những lá thư mà ông Nguyễn Đ́nh Đẩu đă khám phá như nói trên! Ngoài ra, cũng nên ghi nhận Trương Vĩnh Kư từng làm thông ngôn cho sứ thần Tây-ban-nha yết kiến vua Tự Đức năm 1870 và làm việc cho đại sứ nước này ở Trung-Hoa năm 1874!

 

2. Trương Vĩnh Kư làm báo cho Pháp

Gia Định Báo lúc đầu là một thứ công báo của chính quyền thực dân Pháp, nhưng từ 1869 (nghị định 189 ngày 16-9-1869), Trương Vĩnh Kư, một cộng tác viên từ 1865, được cử làm Chánh-tổng-tài và Húnh Tịnh Paulus Của làm chủ bút, Tôn Thọ Tường, Trương Minh Kư, v.v., trong ban biên tập. Gia Định Báo được thêm phần truyền bá chữ quốc ngữ, khuyến khích dùng thứ chữ này để viết báo viết văn - báo khuyến khích độc giả viết chuyện ở các địa phương họ ở bằng chữ quốc ngữ; và cổ động cho lối học mới. Từ 4 trang lên 16 trang. Vô t́nh, Gia Định Báo đă đóng vai tṛ tiền phong truyền bá cái về sau gọi là văn học chữ quốc ngữ. Đến năm 1874, J. Bonet được cử làm chánh tổng tài thay Pétrus Kư, th́ tờ Gia Định Báo trở lại với vai tṛ thông tin tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa và rút lại 4 trang như trước. Trương Vĩnh Kư chỉ làm báo cho Pháp một thời gian ngắn trong suốt quá tŕnh hoạt động văn hóa của ông. Ngoài ông ra, làm báo theo lệnh Pháp hay nhận tiền của Pháp c̣n có Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Đức Quỳnh, ... Nếu thêm danh tính các khuôn mặt lớn khác đă làm báo cho Pháp, Trung-cộng, Liên Xô, cho Mỹ trước và sau 1975,... danh sách sẽ dài ra!

 

3. Chữ quốc ngữ

Trương Vĩnh Kư thông thạo nhiều thứ tiếng và cả chữ Nôm chữ Hán, nhưng ông đă có cái nh́n thực tiễn khi cổ động việc xử dụng chữ quốc ngữ để thay thế hai thứ chữ không đến được dân gian. Ông viết, phiên âm và phiên dịch các tác phẩm chữ Nôm, Hán qua chữ quốc ngữ, mà các bản dịch Tứ Thư Ngũ Kinh đă là những công tŕnh quí hiếm v́ trước đó chưa bậc tiền bối nào đă dịch ra chữ Nôm! Ông lại soạn tự điển và viết sách văn phạm tiếng Việt, làm chuyện đến lúc đó chưa ai làm qui mô. Trong bộ Sơ Học Qui Chánh (Manuel des écoles primaires) gồm 3 tập mà cuốn đầu Syllabaire Quốc ngữ xuất bản năm 1876, Trương Vĩnh Kư đă cho biết „Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế v́ lợi ích và sự tiến hóa. Vậy, người ta nên t́m cách phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện ...“ (5)

Cuốn Chuyện Đời Xưa (6) của Trương Vĩnh Kư in năm 1866 là ấn phẩm văn xuôi đầu tiên bằng chữ quốc ngữ; chúng tôi nhấn mạnh ấn phẩm v́ trước ông đă có những bản viết tay bằng chữ quốc ngữ của các vị thừa sai và tu sĩ người Việt, như Bento Thiện đă viết về lịch sử Việt Nam năm 1659, và đă có những cuốn tự điển của A. de Rhodes (Đắc Lộ), Tabert và Phan Văn Minh, v.v. Tập từ điển của Tabert (1838) có phụ lục chuyện Inê Tử Đạo Văn gồm 560 câu thơ lục bát.

Người ta đă cho rằng v́ ông làm tay sai cho thực dân và v́ là người theo đạo Thiên-Chúa nên cổ động chữ quốc ngữ là chữ của thực dân và nhà Chung. Phạm Long Điền nhấn mạnh ư này nhất. Ở đây cũng nên nêu một hiểu lầm khác: trước nay dư luận vẫn cho rằng các vị thừa sai người Bồ rồi Pháp đă buộc người Việt theo đạo Thiên-Chúa phải dùng chữ quốc ngữ và có người c̣n gán tội người Thiên-Chúa giáo đă đồng hoá chữ Nôm và Hán là chữ của „ngoại đạo“. Đây chỉ là một thuần suy diễn thiếu căn bản lịch sử. Những khám phá gần đây ở Việt Nam của nhóm các linh mục Thanh Lăng và Nguyễn Hưng đă góp phần làm sáng tỏ sự „mất gốc“ của người Việt Nam theo đạo Thiên-Chúa : chỉ riêng thế kỷ XVIII, các nhà tu hành và giáo dân đạo Thiên-Chúa đă biên soạn khoảng 14 tác phẩm chữ Nôm gồm khoảng 1 triệu hai trăm ngàn chữ với bốn ngàn hai trăm trang hiện c̣n t́m được, trong khi trong cùng thời gian, họ chỉ biên soạn khoảng 700 trang chữ quốc ngữ, tức sáu lần ít hơn (7)! Vậy đồng hoá người theo đạo Thiên-Chúa với chữ quốc ngữ làm „mất nước“ và mất „hồn nước“ tựu trung cũng chỉ một huyền thoại, một suy diễn thiếu căn bản lịch sử! Ngoài ra có những tu sĩ Việt Nam đă có cái nh́n nếu không dân tộc th́ cũng đi trước thời đại, như linh mục Lữ-Y Đoan đă diễn dịch Kinh Thánh thành Sấm Truyền Ca năm 1670. Ông đă dùng những ư niệm và ngôn ngữ của tam giáo á-đông và văn hóa dân gian Việt Nam để hiểu và diễn dịch Kinh Thánh và giới giáo quyền từ thời đó đă không cho phổ biến v́ „trái“ luật đạo - cho đến thời Vaticano thứ hai (1962-65) (8). Một trí thức dù theo đạo vẫn không mất gốc, Trương Vĩnh Kư sau này cũng đi theo con đường của ông! Sự thực th́ chữ quốc ngữ trước hết là một phương tiện cho các nhà truyền giáo dùng trong nội bộ giúp nhau ghi lại và hiểu tiếng Việt, rồi đến các cộng đoàn đạo, đến giữa thế kỷ XVIII chữ quốc ngữ phát triễn hơn v́ lư do cấm đạo và việc xử dụng bắt đầu tiện lợi. Theo nhà nghiên cứu Rolland Jacques, chữ quốc ngữ lúc đầu chủ yếu mô tả phát âm nhằm giúp người ngoại quốc mới học, nhưng về sau khi đă phổ biến đối với người Việt th́ khía cạnh âm-vị-học được ưu tiên hơn, dấu vết hăy c̣n đó trong các tự điển và tranh luận về các cách phiên âm Nôm ra quốc ngữ (9)!

Thứ nữa là lư luận chữ quốc ngữ là chữ của thực dân xâm lược. Đây là một suy diễn khác. Chữ quốc ngữ nguyên do các thừa sai người Bồ-đào-nha và người Nhật sang truyền đạo ở Việt Nam từ những năm 1620 lập ra để tiện lợi hoá việc biên chép và giao thiệp. Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) chỉ là người đă phụ trách việc tu chính lại những tự điển đă có lúc đó nhưng phổ biến hạn chế trong nội bộ, và in ấn cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên : Tự điển Việt-Bồ-La / Dictionarivm Annamiticvm Lvsitanvm, et Latinvm... (xin chú ư: Việt-Bồ-La chứ không có chữ Pháp trong cuốn tự điển này cũng như cuốn kể sau!), và Phép Giảng Tám Ngày.../ Cathechismvs pro ́s.... Ông đă tổng soạn lại những công tŕnh trước đó của các thừa sai người Bồ (10) và lúc linh mục Đắc Lộ người Pháp in ấn cuốn tự điển nói trên năm 1651, Pháp chưa đem hải thuyền chiếm Việt Nam v́ lúc đó là thời của Bồ-đào-nha và Tây-ban-nha làm chủ mặt biển, và đến một thế kỷ rưỡi sau, khi giám mục Bá-Đa-Lộc cầu cứu vua Pháp giúp chúa Nguyễn Ánh, vua Louis XVI dù đă kư hiệp ước Versailles hứa giúp chúa Nguyễn vẫn không hề nghe theo để lợi dụng cơ hội xâm chiếm Việt Nam ! Thứ nữa, giáo sĩ Đắc-Lộ đi á-đông truyền giáo đă thề phục vụ vua Bồ-đào-nha. Suy luận có thể diễn dịch từ sinh quán Avignon của ngài ở Pháp. Ngộ nhận thứ hai do câu văn A. de Rhodes viết tường tŕnh chuyến đi lần sau. Trong Divers voyages et missions (Paris, 1653) đoạn cuối chương 19, phần 3, ông viết như sau : „J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises...“. Chữ „soldats“ ở đây phải hiểu theo nghĩa thứ nh́ là „chiến sĩ“ mà phải là „chiến sĩ phúc-âm, nhà truyền giáo“, thứ nữa không nên quên sinh quán của ngài là đất của giáo hoàng! Lính Pháp vào năm 1653 chưa lên đường đi chiếm thuộc địa mà Hội Truyền giáo Paris cũng chỉ được lập sau đó, năm 1661! Những người chỉ tra từ điển thường, đă cố ư bới móc chi tiết với ư bôi xấu, bẻ quặt lịch sử dễ rơi vào cái bẫy kiến thức chủ quan, thiên kiến hoặc ám ảnh paranoiac! Cuốn A. de Rhodes Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam Và Chữ Quốc Ngữ (11) là một thí dụ điển h́nh, một thủ thuật khả nghi, vơ địch chính trị làm đồng minh để chống địch tôn giáo, thu góp bài viết mù mờ lư luận, thường đă cũ 30, 50 năm và cũng không cho biết diễn biến tư tưởng các người viết, coi thường độc giả ! Trong nước, sau nhiều „cơn băo“, cái nh́n của người nghiên cứu đă theo sự thật. Mới đây trong Giao Lưu Văn Hóa Và Ngôn Ngữ Việt Pháp của Viện Ngôn ngữ học do Ṭa đại sứ Pháp ở Hà-nội giúp xuất bản, Lư Toàn Thắng đă đánh giá lại sự đóng góp của Alexandre de Rhodes đối với sự thành h́nh chữ Quốc ngữ kết luận de Rhodes chỉ là người đóng góp một phần và chữ quốc ngữ của ông dù khá hoàn chỉnh vẫn chưa có h́nh thức như nay, do đó „cũng không thể nói là ông đă kiện toàn hay hoàn thành chữ quốc ngữ“ (12) mà nên dành công đó cho Pigneau de Béhaine!

Thật ra chỉ là một t́nh cờ của lịch sử mà chữ quốc ngữ đă trở thành công cụ cai trị của người Pháp. Phải nói chính người Pháp đă „lợi dụng“ thứ chữ lúc đó đă thông dụng trong giới tu hành đạo Thiên-Chúa để làm ngôn ngữ công văn và hành chánh, sau đó người Pháp mới có ư muốn người Việt quên đi văn hóa dân tộc để dễ đồng hoá khi cho dịch Hán Nôm ra quốc ngữ. Và chính người Pháp đă đánh sai dư luận, như Georges Taboulet trong La Geste francaise en Indochine đă viết „Cha Alexandre de Rhodes đưa Kitô giáo và nước Pháp vào Việt Nam“ (13). Một loại tuyên truyền chính trị ! Người Việt thiển cận đă không tham chiếu và đă lập lại luận điệu của ... thực dân! Dĩ nhiên có những vị thừa sai thực dân như giám mục Puginier đă tiếp tay cho nước Pháp của họ khi đánh Bắc-kỳ lần thứ nhất, nói là để vinh danh „nước Chúa“ thật ra chỉ v́ quyền lợi nước họ, hai thế kỷ sau câu viết gây hiểu lầm (ngoan cố) của A. de Rhodes nói trên! Ngoài ra lịch sử cũng ghi rằng các sĩ quan hải quân Pháp đă ngần ngại dùng các giáo sĩ trong việc đánh chiếm Nam-kỳ cũng như Bắc-kỳ! Pháp đến để bảo vệ người theo đạo đă trở thành huyền thoại, v́ đó chỉ là cái cớ, phương tiện cho mưu đồ xâm lăng của thực dân! Và chữ quốc ngữ đă là công cụ của Pháp, trong thực tế lịch sử cũng không hẳn vậy v́ sau vài bước đầu, thực dân Pháp đă thay thế chữ quốc ngữ bằng chữ Pháp trong chương tŕnh giáo dục, chữ quốc ngữ trở thành thứ yếu, „chỉ là ngôn ngữ thông dụng chứ không phải là một ngôn ngữ văn hóa“, nói theo Bằng Giang (14). Trương Vĩnh Kư đóng góp cả đời với tin tưởng ở chữ quốc ngữ, trong khi thực dân chỉ lợi dụng chữ quốc ngữ khi cần đến; nhưng cũng nhờ những tiền bối như ông, nếu không nước ta đă rơi vào t́nh trạng của Phi-luật-tân!

Không những cổ động chữ quốc ngữ, Trương Vĩnh Kư c̣n có một chủ trương rất dứt khoát về tiếng Việt. Có hai khía cạnh: thứ nhất ông chủ trương dùng tiếng Việt của tổ tiên khởi từ Bắc sau Nam tiến, thứ tiếng t́m thấy trong văn chương truyền khẩu và một số truyện Nôm như tuyện Kiều, Phan Trần,... Tức không pha chữ Hán, như thầy giảng Lữ-Y Đoan đă làm với Sấm-truyền ca trước thời Trương Vĩnh Kư. Câu văn cũng được Trương Vĩnh Kư chăm sóc và nếu so sánh các văn bản lúc đầu như bài viết trên Gia-Định Báo và Chuyện Đời Xưa (1866) với các bài viết cuối đời ông sẽ thấy có sự „tiến bộ“ tức hợp lư, sáng sủa và dễ hiểu hơn. Chính Phạm Long Điền cũng công nhận tiếng Việt của Trương Vĩnh Kư, Húnh Tịnh Paulus Của, .. không có nhiều lỗi chánh tả như tiếng Việt trên sách báo trong Nam hồi đầu thế kỷ XX (15)! Các nhà nghiên cứu văn học đă gọi đó là trường phái Trương Vĩnh Kư, đồng thời và sau ông có Nguyễn Trọng Quản, Trương Minh Kư, ... Nhưng bên cạnh có những người Nam viết sai theo nói sai. Chính đó là lư do văn viết trong Thầy Lazarô Phiền dễ hiểu hơn nhưng đă bị trường phái „b́nh dân“ lấn lướt! Mà ngày nay hai khuynh hướng viết ngôn ngữ miền Nam này vẫn c̣n thấy rơ ở Lê Xuyên, An Khê, Ngọc Linh, Vơ Kỳ Điền, Nguyễn Tấn Hưng, Phùng Nhân, ... hoặc Nguyễn Văn Sâm, Hồ Trường An, Kiệt Tấn.

 

4. Ông đă viết rất nhiều sách báo giới thiệu đất nước và con người Việt Nam, dĩ nhiên bằng tiếng Pháp: Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, Précis de géographie de l’Indochine, Produits de l’Annam, Dictionnaire biographique Annamite,v.v. Ngoài ra ông c̣n biên soạn nhiều bộ sách khảo cứu bằng tiếng Việt như Đại Nam Tam Thập Nhứt Tỉnh Thành Đô,... Ông là người đầu tiên làm cái việc mà ngày nay người ta gọi là Việt-Nam-học, sau ông có G. Dumoutier, L. Cadière, v.v. V́ là người đầu tiên làm việc một cách khoa học nên đă bị nghi làm rapport cho „Tây“ chăng ? Những công tŕnh này đă được giải thưởng của Hội địa lư Pháp và được „quốc tế“ nh́n nhận như những tài liệu căn bản. Tưởng cũng cần nhắc ở đây công d́u dắt Trương Vĩnh Kư ở bước đầu của một nhà truyền giáo người Pháp, Bovillevaux, người đă có công phát hiện Đế Thiên Đế Thích, Trương Vĩnh Kư vẫn hay nhắc đến với tên Việt „cố Long“ (3), bạn của thân sinh ông thuở sinh thời, trong thực tế là cố đạo duy nhất đă ảnh hưởng lên Trương Vĩnh Kư nếu có!

Việc giới thiệu này của ông đă bị các ông Mẫn Quốc, Phạm Long Điền, ... kết án là cung cấp tài liệu cho thực dân dễ chiếm hữu lănh thổ Việt Nam. Đây là nói đến cuốn Chuyến Đi Bắc-kỳ năm Ất Hợi và bản báo cáo đính kèm gửi đô đốc Duperré! Ông Mẫn Quốc kết án ông có „nhiệm vụ đặc phái“ làm „ gián điệp, t́nh báo, gịi trong xương gịi ra“(16). Phạm Long Điền kết : „Chuyến đi Bắc-kỳ của Trương Vĩnh Kư năm 1876 không ngoài mục đích xem xét t́nh h́nh để báo cáo tường tận cho Soái phủ Nam-kỳ và từ đó, Soái phủ Nam-kỳ chuẩn bị tiến quân ra Bắc trong một cuộc xâm lăng đại qui mô nhằm đặt toàn cơi Đông dương dưới quyền thống trị của thực dân Pháp“ (17). Có thể Trương Vĩnh Kư ngây thơ v́ quá thành thật và tự tin vào vai tṛ trung gian của ḿnh mà không thể ngờ là người Pháp lợi dụng ông chăng ?

 

5. Phương pháp nghiên cứu của Trương Vĩnh Kư đă khoa học, bằng giả thuyết và văn bản.

Đến hậu bán thế kỷ XX bên Âu tây mới có thuyết đề cao văn bản, thế mà Trương Vĩnh Kư ở hậu bán thế kỷ XIX đă xử dụng để nghiên cứu văn học ! Trương Vĩnh Kư đă xử dụng phương pháp khoa học tiến bộ so với phương pháp biên niên sử theo Trung Hoa của thời đó, ông là người đầu tiên biên soạn lịch sử Việt Nam mà lại bằng tiếng Pháp. Hai tập Petit cours d’histoire annamite (Giáo Tŕnh Lịch Sử An-Nam) xuất bản năm 1875 và 1877, cả hai tổng cộng khoảng 462 trang. Tập 1 viết về thời lập quốc đến nhà hậu Lê (2874 AD - 1428), tập sau từ 1428 đến 1875. Ông là người đầu tiên đă chứng minh lịch sử Việt Nam đă khởi đầu từ hơn 4000 năm, theo ông thời xa xưa nhất của lịch sử Việt Nam khởi từ năm 2874 trước Công-nguyên với 20 đời vua Hồng Bàng, 18 đời vua Hùng Vương và đời Thục An Dương Vương (tr. 7-17). Vận dụng, khai thác nguồn văn thư tịch và truyền thuyết, truyện cổ, ông đă dựng cơ sở lịch sử cho thời „huyền sử“, ông dựng lại đời sống, con người và xă hội thời xa xưa đó . Theo ông, „các sử gia biên niên xưa nhằm xu nịnh vua chúa, đă đặt ra những huyền thoại để khẳng định thiên mệnh của nhà vua. C̣n dân gian th́ trong các chuyện truyền khẩu, đă biết ngược ḍng thời gian xa xôi trong cái thời điểm mà lịch sử không c̣n dấu vết, có chăng chỉ c̣n dấu tích trong các ngọn nguồn thâm sâu huyền hoặc của thần thoại. Người ta không thể coi thường những chuyện kể ở những thời xa xưa, bởi v́ mặc dù chúng có khó hiểu, thậm xưng, hoặc không chặt chẽ nhưng người ta vẫn có thể rút ra, từ sự tưởng tượng và cả những nhận thức sai lầm trong đó, những kiến thức về những cái có thể có thực, hoặc ít ra là một phương hướng một dấu vết khả dĩ dùng được để t́m ra sự thực“ (18).

Thật vậy, ông đă vận dụng nhiều phương pháp khoa học và là người đi đầu viết lịch sử dân gian thay v́ chỉ chú trọng giới vua chúa quan quyền, mà khi viết về mỗi triều đại ông cũng đă viết về đời sống xă hội cũng như các khía cạnh kinh tế, văn hóa, ngoại giao, v.v.. Không bị ràng buộc như các quan sử lịch triều, sống ở đất thuộc địa, lại có một căn bản bác học, nhờ đó ông có cái nh́n tổng quát và chứng tỏ cố gắng khách quan. Khi viết chuyện vua Lê Chiêu Thống chết bên Tàu được liệm để đưa về chôn ở quê nhà, khi liệm người ta đă t́m thấy tim vua c̣n tươi đầy máu, ông bàn „Đó chỉ là một chuyện bịa đặt không căn cứ, kết quả của những tṛ phỉnh gạt thô bỉ và phạm thượng” („C’est une invention fantaisiste, le résultat de quelque grossière et profane mystification“ (tr. 207). Ông đă luận công tội các triều đại xưa và vinh danh các anh hùng dân tộc. Ng̣i bút trở nên đanh thép khi viết về Hai Bà Trưng : „Suốt 149 năm (111 av CN đến 38 CN) nước An nam đă phải chịu đựng cái ách của các viên quan cai trị Trung quốc. Nhưng cuộc đô hộ rồi cũng phải bị tiêu diệt, như tất cả những ǵ bắt nguồn từ những quá độ của bạo lực: ách đô hộ đă bị bẻ găy bởi bàn tay của một người phụ nữ“(19). Hay khi xét mặt trái chuyện Sĩ Vương : „Sĩ Vương đă du nhập sang ta nền văn học Trung quốc, cũng như đạo lư Khổng Tử, ép buộc nhân dân An-nam phải tiếp nhận làm của ḿnh, và cấm dùng thứ chữ viết phiên âm đặc biệt riêng của người An-nam. V́ biện pháp nghiệt ngă ấy mà người An-nam đă hoàn toàn mất đi thứ chữ viết riêng của ḿnh“. (20).

Xét chuyện xưa đưa đến phê phán nặng nề chuyện nay : „Dù người An-nam là công dân của nước Pháp hay của Bắc, Trung kỳ đều có chung một nguồn gốc. Dù bị ngăn chia (với phần c̣n lại nước Việt) v́ vận mạng chính trị, chúng tôi vẫn phải phản đối mạnh mẽ cái chế độ cai trị lầm lạc đă biến dân chúng thành bầy thú của vua, và là một sự bóc lột trầm trọng, có tội với xứ sở“. Ông liền ghi chú xin lỗi :“Nhưng xin người đọc đừng giận tôi v́ trong tôi tràn ngập một nỗi buồn cay đắng khi thấy đất nước phải ra nông nỗi này, chuyện đáng ra không đáng phải xảy ra“ (21). Đây là lần hiếm hoi ông lộ rơ bất b́nh đối với vua quan Tống-nho nhà Nguyễn. Bộ Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Kư xuất bản sau (1879) (8) cũng được viết ngoài ṿng cương tỏa của triều đ́nh nhà Nguyễn, như bộ của Trương Vĩnh Kư, nhưng bộ sử của họ Trương có cái nh́n quán triệt và tổng quan hơn nhiều! Cụ Nguyễn Văn Tố trong bài tiếng Pháp „Petrus Kư“ trên tập Kỷ yếu của Hội Trí tri Bắc-kỳ năm 1937 đă dành 10 trong 42 trang để phân tích và phê b́nh cuốn sử này, đă đề cao phương pháp sử có cơ sở : „… Đă đến lúc tính uyên bác Nam kỳ thay thế cho những quyển sách cũ kỹ ấy, đến lúc đó loại trừ, một mặt, tất cả những thứ tạp nhạp gọi là thông tin mượn ở sách vở Trung quốc và mặt khác dành một vị trí xứng đáng cho những dữ kiện chính xác và phong phú rất mực do sử kư ta cung cấp“ (22). Trương Vĩnh Kư cũng đă để lại một bản thảo “Truyện Đất Nam-kỳ lịch sử Đàng Trong” bằng chữ quốc ngữ viết năm 1864 „xưng tụng các chúa Nguyễn bằng vua“(23). Ông c̣n tỏ ra là một nhà ngôn ngữ học thông thái, với những công tŕnh nghiên cứu về ngôn ngữ Việt, á-đông và nhiều nước như Étude comparée sur les langues, les écritures, les croyances et les moeurs de l’Indochine, Analyse comparée des principales langues du monde, v.v. Những công tŕnh được nhiều nhà nghiên cứu Việt và Âu-Mỹ đánh giá cao như J. Thomson trong Dix ans de voyages dans la Chine et l’Indochine (1873), J. Bouchot trong Un savant et compatriote cochinchinois : Petrus J.B. Trương Vĩnh Kư (1925), cả nhà ngữ học Cao Xuân Hạo trong nước qua bài „Trương Vĩnh Kư trong lịch sử ngôn ngữ học VN“. (24).

 

6. Nhưng trên hết, qua sự nghiệp để lại, Trương Vĩnh Kư đă chứng tỏ có chủ trương làm công tác văn hóa cho dân tộc.

Nổi tiếng bác học quốc tế, tinh thông hơn hai chục sinh và tử ngữ, ông lại cổ vơ luân lư Nho giáo, ông là người có nhiều ấn phẩm về đạo lư hơn các nhà văn hoá tiền phong chữ quốc ngữ khác như Húnh Tịnh Paulus Của, Trương Minh Kư. Hành trang của Trương Vĩnh Kư là của một con người trí thức, ngoài những chức chính thức khi làm việc với Pháp, suốt đời cặm cụi v́ văn hóa, có khi trong những hoàn cảnh khó khắn về tài chính và cô đơn không được người đồng thời thông hiểu cho, c̣n người Pháp dĩ nhiên lợi dụng hơn là hợp tác về văn hóa! Trong Sĩ-Viện Thư-Phổ tức Catalogue sách xuất bản của ông in năm 1894, ông đă bày tỏ tư duy của ḿnh, một ư tưởng dẫn đạo công việc của ông : „V́ cũng nghĩ thế cục ngày nay như những lớp sóng xô t́nh người đến chỗ phụ nghĩa, chính đạo mỗi ngày một suy đồi, thuần phong mỹ tục ngày càng bị buông xuôi“ (25). Trái với ngộ nhận của nhiều người, ông không hề dịch sách Pháp ra quốc ngữ và không hề giới thiệu văn hóa Pháp; có chăng là ông giới thiệu văn hóa và đất nước Việt Nam bằng tiếng Pháp. Ông cũng là soạn giả nhiều cuốn tự điển đă xuất bản hoặc mới in thạch bản. Ông giới thiệu địa lư, lịch sử văn hóa của Việt Nam với hy vọng người Pháp hiểu dân tộc nhược tiểu bị trị hơn. Ông không hề khuyến khích, cổ động đồng bào ông học tiếng Pháp, theo văn hóa và phong tục ngoại lai. Suốt đời dù làm với Pháp hay không, ông chỉ mặc bộ áo dài thuần Việt! Thông hiểu chuyện thế giới, nh́n thấy sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật của người, ông đă có sẵn kết luận cho dân tộc ông, con đường mà ông đă vạch và đi đến cuối đời. Hợp tác với chính quyền thực dân nhưng con người và tâm hồn ông vẫn gắn chặt với đất nước, tổ tiên, ông vẫn coi ḿnh là đồng bào với người Trung Bắc. Ngược lại, Trương Vĩnh Kư luôn đề cao và phổ biến đạo lư đậm truyền thống dân tộc. Khi làm việc lănh lương của chính quyền Pháp, như khi làm Gia Định Báo, ông lợi dụng để phổ biến thơ văn yêu nước, phiên âm ra quốc ngữ - nhờ đó mà thơ văn này có thêm dịp may lưu lại cho hậu thế. Vào cuối đời, hết được người Pháp trọng dụng, ông vẫn bền chí biên soạn sách vở và trực tiếp lo việc xuất bản. Năm 1888, Trương Vĩnh Kư xuất bản tạp chí Thông Loại Khóa Tŕnh (Miscellannées ou Lectures instructives pour les élèves des écoles primaires, communales, cantonales et les familles - b́a tiếng Pháp nhưng ruột tựa và bài vở quốc ngữ, để dễ qua mắt thực dân chăng?) với mục đích cổ động phong hóa cũ, phổ biến văn hóa dân tộc kể cả văn thơ chống Pháp của Nguyễn Đ́nh Chiểu, Nguyễn Tri Phương, Bùi Hữu Nghĩa,... nhưng thiếu vốn, tạp chí chữ quốc ngữ tư nhân đầu tiên đó chỉ ra được 18 số (tháng 5 đến 10-1889). Từ số 4 tăng từ 12 lên 16 trang và ngoài TVK ra, từ số 6 tăng cường thêm Húnh Tịnh Paulus Của, Trương Minh Kư, Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh,... Mỗi số giá 60 xu thời bấy giờ bằng giá một tạ lúa, bưu điện chưa có, người mua phải đến tận Chợ Quán để mua!

Trương Vĩnh Kư dịch trọn bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh nhưng đến khi qua đời mới chỉ xuất bản được hai cuốn là Đại Học và Trung Dung (1889) của bộ Tứ Thư. C̣n hai cuốn Luận Ngữ và Mạnh Tử chỉ mới in ở dạng thạch-bản. Trong khi Vơ Phiến đề cao Phạm Quỳnh trừu tượng hóa tiếng Việt (TK21) th́ giáo sư Nguyễn Văn Trung đă thán phục Trương Vĩnh Kư đă dịch cả phần siêu h́nh học trong khi ngôn ngữ ta lúc đó chưa có sẵn chữ (26)! Trương Vĩnh Kư chăm sóc ra bộ học báo Thông-Loại Khoá-Tŕnh để phổ biến văn hóa và thơ văn dân tộc, cả thơ văn yêu nước của Nguyễn Đ́nh Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Tri Phương, Phan Văn Trị,...

Bằng Giang trong Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Kư sau khi lược qua cuốn Sơ Học Vấn Tân của Trương Vĩnh Kư đă thú nhận : „Đọc hết tác phẩm, người ta tưởng tác giả là một nhà Nho chính tông chớ không phải là một người thuộc đạo ḍng (Thiên-Chúa giáo)“ (27). Trương Vĩnh Kư có cái nh́n tổng hợp, ông muốn dung ḥa cũ mới . Theo ông, „học th́ chẳng phải là học cho biết chữ, cho thuộc tiếng mà thôi, mà lại phải học nghĩa lư, phép tắc, lễ nghi, cang thường luân lư là giềng mối mà xử trí trong việc ăn ở trong đời với thiên hạ ấy là lịch là thanh. Nên phải do cựu tùng tân mới là phải, chẳng nên mới chuộng cũ vong mà mang tiếng yểm cựu nghinh tân...“ (28). Để nhấn mạnh cái nh́n tổng hợp cần thiết cho người Việt Nam này mà khi xây trường trung học mang tên ông ở Sài-G̣n đă có câu đối được khắc trước cổng (nay đă bị Hà Nội đục bỏ) : „Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt / Tây Âu khoa học yếu minh tâm“. Một lời nhắn nhủ khác, ghi lại ở đầu sách Petit cours d’histoire annamite, nhắm kẻ hậu sinh : „Cho học tṛ các trường đất Nam-ḱ. Ớ các tṛ trai, ta xin kiếng sách nầy cho các tṛ v́ làm nó ra là làm cho các tṛ coi (...). Đến sau, khi anh em học đă thành tài, biết bắt, biết hạch được, th́ xin hăy dong thứ cho kẻ lớp trước anh em, v́ những kẻ ấy thuở trước chẳng có được những phương tiện mà học-hành như anh em bây giờ nhờ...” (tr. 4).

Ông lại chứng tỏ tài cao về chữ Nôm lúc bấy giờ chưa có tự điển và gần như ai viết sao th́ viết. Chính Nguyễn Văn Tố trong lời Tựa cuốn Trương Vĩnh Kư của Lê Thanh đă ghi nhận: „Những truyện nôm như truyện Kiều, truyện Phan-Trần, mà ông dịch ra quốc ngữ đầu tiên, tất cũng có chữ sai, nhưng không nên vin vào đấy mà phê b́nh, v́ chữ nôm của ta là một thứ chữ không có tự điển, mỗi người viết một cách, khó ḷng đọc cho đúng ngay: thử lấy một quyển nôm nào chưa ai dịch ra quốc ngữ mà đọc xem, có lắm chữ không tài nào đọc nổi, thế mới biết cái tài học của Trương Vĩnh Kư đáng tôn trọng, đáng kính phục biết bao nhiêu“. Cả về chữ Hán: „Về Hán văn ông có dịch bộ Tứ thư và quyển Minh Tâm bảo giám ra quốc ngữ, kể cũng có công với Hán học khi gần tàn, và tỏ ra là một nhà nho gồm cả văn học Âu Á, mà vẫn giữ được tính cách người Đại Nam“ (29). Cụ Nguyễn Văn Tố cũng như Lê Thọ Xuân ở trong Nam vốn là những học giả uyên bác. Riêng về cụ Nguyễn Văn Tố, nhà văn Vơ Phiến xếp vào lớp nhà phê b́nh „chỉ nói cái sai cái quấy“ (30) tức không bao giờ khen ai (!). Vậy mà cụ Nguyễn Văn Tố đă khen Trương Vĩnh Kư đủ bề! Xin đừng suy diễn rằng cụ Tố cũng lănh lương Pháp v́ làm việc tại trường Viễn-đông bác-cổ (EFEO)!

 

7. Trương Vĩnh Kư in thạch bản cuốn Vân Tiên Chú Giải năm 1887 để dùng ở trường Thông ngôn, sau đó cuốn Lục Vân Tiên Truyện phiên âm được xuất bản năm 1889, với quảng cáo „bản nhỏ, bán rẻ tiền cho người ta mua mà coi, chính chữ lại không sai chạy nguyên bản“ (31). Người nay nêu ba vấn đề : Trương Vĩnh Kư là người đầu tiên phiên âm Kim Vân Kiều Truyện năm 1875, 14 năm trước cuốn Lục Vân Tiên. Tại sao? Phạm Long Điền trong bài báo trên Bách Khoa đă dẫn kết án Trương Vĩnh Kư „có chủ đích chánh trị núp dưới chiêu bài văn hóa“ khi in cuốn Kim Vân Kiều Truyện diễn quốc ngữ năm 1875, 14 năm trước phiên âm cuốn Lục Vân Tiên (1887). Theo ông Phạm Long Điền, Trương Vĩnh Kư đă không nh́n thấy sự tiêu biểu văn hóa của truyện Lục Vân Tiên trong Nam cũng như niềm hănh diện người của vùng đất quá mới với chốn „ngàn năm văn vật“ mà đă „lại tiếp nhận đứa con tinh thần của đất Bắc để rồi Kim Vân Kiều Truyện diễn quốc ngữ ra chào đời đúng một năm trước khi họ Trương lên đường thăm sĩ phu đất Bắc trong một chuyến đi đầy bí mật...“. Thứ hai, Phạm Long Điền lại thêm lư luận Trương Vĩnh Kư hay Tôn Thọ Tường muốn đề cao Kiều v́ thân thế „đáng thương hơn đáng trách“. Như lời Tôn Thọ Tường vịnh Kiều „Để ḷng thiên cổ thương rồi trách / Chẳng trách chi Kiều, trách Hoá công“ (32). Và sau cùng, theo họ Phạm, Trương Vĩnh Kư xuất bản Kim Vân Kiều trước để chuẩn bị chuyến đi Bắc Kỳ năm sau, 1876! Thuần suy diễn ! Chúng tôi chỉ thấy qua toàn bộ sự nghiệp, Trương Vĩnh Kư vẫn tự hào là người Việt, yêu văn chương và văn hóa dân tộc, yêu tiếng Việt của Kim Vân Kiều, đến cả quên phiên âm Lục Vân Tiên của miền Nam yêu dấu của ông cho ... hậu sinh như ông Điền hài ḷng. Trương Vĩnh Kư xuất bản „trễ“ có thể v́ đă có bản phiên âm năm 1873 của G. Janneau (Paris) và bản dịch ra tiếng Pháp năm 1864 của Aubaret ! Tuy ra sau nhưng chính bản phiên âm của Trương Vĩnh Kư mới là bản đă góp phần đáng kể trong việc san định văn bản Lục Vân Tiên xuất bản hiện nay. Họ Phạm quên giáo sư Nguyễn Văn Trung của ông, trong Chữ Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc lúc đó (1974) đă lư luận rằng thực dân Pháp dùng chữ quốc ngữ có ích cho công việc cai trị hành chánh của họ mà c̣n ích lợi cho việc phục vụ mục tiêu xâm lược tinh thần người bản xứ (33). Trương Vĩnh Kư có thật đi chung đường với thực dân đâu!

 

8. Trương Vĩnh Kư c̣n có công đem hột giống những cây ăn trái từ „Miền Dưới“ tức Mă Lai, Nam Dương và Java như chôm chôm, sầu riêng, măng cụt, măng cầu, ... đem về trồng trước hết ở Cái Mơn (Vĩnh Long) miền quê ông. Trong thời gian sáu năm tu học ở Penang, mỗi lần hè về thăm mẹ, ông đă có dịp đem trái cây „Miền Dưới“ về, hột sanh cây, một ươm hai, sau nhiều năm đă thành đặc sản miền lục tỉnh. Đây là một việc có thể chính Trương Vĩnh Kư cũng không ngờ đến. Ông Quán Phong trong một bài báo (34) đă kể rơ công của họ Trương đối với nhà nông nhà vườn Nam-kỳ lục tỉnh ! Trong khi đó có những nhóm nói bâng quơ suy luận đă do các nhà buôn Nam Dương, Mă Lai đem sang mà không hề trích dẫn văn liệu! (35). Nguyễn Tấn Hưng trong một trường thiên tiểu thuyết có tính cách tự sự, Một Giấc Mơ Tiên 3, cũng đă ghi nhận „chính ông (TVK) đă du nhập chiếc áo bà ba và rất nhiều cây ăn trái lấy giống từ Mă Lai và Nam Dương như ḅn bon, lôm chôm, măng cụt, sầu riêng, sa kê,.. „(36).

 

9. Trương Vĩnh Kư đă là một „tay sai“ đắc lực cho Pháp?

Trên đă bàn qua, nay thêm vài chi tiết : Khi Trương Vĩnh Kư ra Huế được vua Đồng Khánh sắc phong chức Cơ Mật Viện Tham-tá ngày 12-4-1886, sau thêm chức Hàn Lâm Thị Giảng Học Sĩ dạy vua tiếng Pháp. Ông ra Huế v́ t́nh bạn với Paul Bert tổng-trú-sứ lưỡng kỳ (Bắc và Trung-kỳ) mới được bổ nhiệm lúc bấy giờ (8-4-1886). Trước khi nhậm chức, Paul Bert đă gặp Trương Vĩnh Kư, nhờ cả ông soạn giùm bài hịch (thư 22-3-1886) mà cuối cùng chính họ Trương đọc trước Vua, tŕnh bày 7 điểm để cứu văn t́nh h́nh bất an gay cấn giữa Pháp-Việt và lương-giáo! Nhưng vị toàn quyền muốn áp dụng chính sách trấn an hơn là độc trị gây ra kháng chiến. Hàm Nghi này không tại vị lâu, ông mất mấy tháng sau đó, ngày 11-11-1886. Trương Vĩnh Kư nay như có vai tṛ ḍm ngó hành tung triều đ́nh để báo cáo cho Pháp, nên ông từ chức trở về quê nhà sống thanh bần ở Chợ Quán, cho đến khi qua đời, 1-9-1898. Từ ngày 5-10-1886, Trương Vĩnh Kư đă viết thư cho Paul Bert từ Sài-G̣n và ông toàn quyền này hiểu con người họ Trương đă phải mời ông trở ra Huế. Trương Vĩnh Kư chỉ thật sự ở Huế sáu tháng. Huế, nơi lúc đó Tống Nho cực thịnh, quần thần bắt chước đàn anh Trung Hoa khinh rẻ người theo Âu-tây (bạch quỉ) hoặc biết tiếng lang-sa, nơi sẽ bỏ thi Hương sau cùng, hơn 20 năm sau Nam-kỳ và 4 năm sau Bắc-kỳ. Ông bỏ về Sài-G̣n viết sách, do tự ư chứ không phải v́ bị bó buộc hay cách chức như nhiều người nghĩ (37). Có chăng là Paulin Vial vốn là thượng cấp của Trương Vĩnh Kư ở Nam-kỳ và không ưa ông, ngày 11-12-1886 đă viết thư chỉ thị Trương Vĩnh Kư phải báo cáo về 6 tháng làm việc cạnh vua và nhắn đừng trở ra Huế nữa : “... Tốt hơn là ông không nên trở ra Huế nữa v́ xét về mặt quyền lợi của đất nước th́ thiết yếu nước Pháp phải được thay mặt ở thủ phủ ấy bằng một người duy nhất, đại diện chính thức, mà không có nhân vật nào khác ở bên cạnh vị đại diện ấy để hưởng một thế lực, có lúc sẽ ảnh hưởng trái ngược trở lại trên người đại diện chính thức ấy“. Vua Đồng Khánh ban cho Trương Vĩnh Kư biệt hiệu Nam Trung Ẩn Sĩ và vẫn trao đổi thư từ với ông đến khi vua mất, 25-12-1888! Paul Bihourd và Noel Pardon toàn quyền kế nghiệp Paul Bert cũng như xử lư Paulin Vial đều không dùng Trương Vĩnh Kư, v́ họ không tin ông. Trương Vĩnh Kư thân thiết với Paul Bert và theo thuyết ông này chủ trương hoà hoăn, b́nh định, trong khi những người Pháp khác chỉ muốn áp đặt guồng máy thống trị toàn cơi Việt Nam! Như vậy, người Pháp dùng Trương Vĩnh Kư nhưng thường vẫn ngại ông. Joseph Chailley-Bert trong cuốn Paul Bert au Tonkin (38) viết về Trương Vĩnh Kư : „Để thêm người làm việc cho vua, Paul Bert đă cho vào Cơ Mật Viện một nhà trí thức nổi tiếng của nước Nam-kỳ thuộc địa tên Trương Vĩnh Kư. Đây là người vẫn được người Pháp bàn tán tranh căi đặc biệt và có những ư kiến quá trớn“ . Phải chăng quá trớn cho quyền lợi Pháp? Trong một văn thư gửi toàn quyền Noel Pardon, văn thư cuối cùng liên hệ với cầm quyền Pháp, họ Trương tŕnh bày những ưu tư và giải pháp ông nghĩ để giải quyết những rối loạn ở Đông dương! Nhiều lần Trương Vĩnh Kư đă tận dụng chức vụ để bày tỏ với người Pháp những ưu tư của ông đối với người dân thường, như trong tường tŕnh ngày 28-4-1876 về Bắc kỳ, tường tŕnh vốn bị nhiều người lên án làm chỉ điểm cho Pháp chiếm Bắc-kỳ sau đó. Ông ưu tư trước hiểm họa chiến tranh hao người tốn của như cụ Phan Thanh Giản trước đó đă bày tỏ qua cử chỉ nộp thành và quyên sinh! Biết thua thiệt, nên „bất cượng chớ cượng làm chi“ (tựa sách viết năm 1882), do đó ông muốn dựa vào kẻ mạnh khoa học và giáo dục, hầu mong dân nước ḿnh tiến bộ theo! Hơn nữa, khác với Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Kư không bao giờ kết án những người Việt chọn con đường yêu nước vơ trang chống Pháp và cũng không hề nịnh hót chính phủ thuộc địa để được quyền lợi vật chất.

Người Pháp đă không :“bằng ḷng“ về Trương Vĩnh Kư nhiều lần khác. Như khi ông lo cho học sinh được triều đ́nh Huế gửi vào Sài-G̣n học trường thông ngôn, có người đă nghi ông „phản“ Pháp và chăm lo cho triều đ́nh Huế, viên thống đốc Nam-kỳ lúc đó chỉ trả lương chức Đốc học cho ông và có khi c̣n bày tṛ trả lương trễ cho ông! Chính những tṛ đời này và ông dư sức đă hiểu tâm địa người Pháp sau một thời gian „hợp tác“, cho nên sau đó cho đến chết ông sống thanh bần, lo viết và in sách để phổ dương văn học và văn hóa Việt Nam.

Ở đây xin ghi sai lầm, xuyên tạc của ông Đỗ Mậu trong Tâm Thư khi ông này tố cáo „vai tṛ cố vấn bí mật của ông ta (Trương Vĩnh Kư) do cha đỡ đầu là Paul Bert trong cuộc „đánh lừa chiến lược“ với quan lại chóp bu của triều đ́nh Tự Đức trong chuyến công du Bắc-kỳ 1876, tạo điều kiện cho bọn Pháp đánh chiếm Bắc-kỳ lần thứ hai...“(39). Đỗ Mậu ghi là viết theo tài liệu của Đỗ Quang Hưng. Ông Mậu xuyên tạc v́ trong tài liệu của ông Đỗ Quang Hưng (40), không thấy viết như thế. Sau nữa, ông Mậu sai lầm lớn, v́ năm 1876, Paul Bert c̣n ở Pháp, đến 1886 mới qua Đông-dương và khi ở Pháp Paul Bert làm hội viên viện Hàn Lâm và là nghị sĩ, không làm linh mục và từng là người chống giáo-hội Thiên Chúa Giáo v́ ông theo phe Cách mạng - nên khi qua nhận chức mới, ông chủ trương không thiên vị người theo đạo Thiên Chúa v́ phải bảo vệ tư do tôn giáo cho mọi người! Và theo ông, nếu một số nước Âu châu tiến chiếm thuộc địa các nước khác th́ đó là những quy luật tất yếu của lịch sử (41). Vả chăng Bắc-kỳ đă bị Pháp chiếm năm 1885 sau khi đă kư hoà ước Giáp Thân 1884! Có chăng là vua Đồng-Khánh du hành ra các tỉnh Bắc Trung-kỳ và bị nghĩa quân nhiều lần uy hiếp phải trở về sớm, có phải là do lời cố vấn của Trương Vĩnh Kư hay không th́ chưa thấy văn liệu xác nhận!

 

10. Trương Vĩnh Kư tin đạo Thiên-Chúa nhưng không hề tin theo đạo mà trở nên mù quáng, bất công, nhất là khi đụng đến quyền lợi tổ quốc. Trước việc cấm đạo, ông đă lên tiếng : „Người An-Nam đâu có thù ghét đạo Gia-Tô! Họ chỉ bất b́nh và phản đối những hành vi quá mức của một số linh mục dựa vào sự che chở của quân đội và chánh quyền Pháp-lang-sa, để tiếp tục thi hành những việc bạo ngược. Bởi v́, xét cho kỹ, Gia-Tô giáo và Phật giáo chẳng khác nhau bao nhiêu“ (42).

Trương Vĩnh Kư cũng không xin theo quốc tịch Pháp hay ân huệ như những người cộng tác lớn khác. Trong một thư ông trả lời bạn: „Đại phàm văn minh là ở tinh thần, chớ không ở vật chất. Ta muốn văn minh như người Tây th́ cố hết là phải luyện lấy tinh tâm trí năo để bổ lấy tinh thần văn minh, chớ nếu tâm năo ta vẫn hủ bại dă man, mà ta chỉ ghé cái danh hiệu vào sổ văn minh, khoác cái y phục của người văn minh, đó là giả dạng văn minh, th́ tôi e rằng không xứng đáng, và có điều bất lợi về sau nữa (...) Vả chăng mỗi nước riêng một tộc loại và để duy hệ tinh thần. Nước Nam ta tổ tiên Hồng Lạc (...) gia phả truyền lại bốn ngàn năm nay, nhứt đán ta dân tịch theo Tây, phục sắc theo Tây, biến hết làm tây, không c̣n cái dấu tích chi là người Nam nữa, đó ta là loài Tịch Đàm vong tổ, rồi tới đời con cháu ta nó theo cái gia phả mới của ta mà đốt quách cái gia phả cũ của tổ tiên đi, quên đứt là người Nam, th́ giống ta c̣n cũng như mất, mà cái gương diệt chủng tự ta treo lên trước. (...) Người ta sẽ cho tôi là nhu nhược, nhút nhát; tôi đă làm như vậy v́ tôi sợ muốn thoát thân ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn. Vào dân Tây tôi sẽ mất hết uy tín, uy lực của tôi và đă mất hết tín nhiệm của Vua, của triều đ́nh và của đồng bào tôi. Không lư trời sanh tôi ra là con quạ, bây giờ biểu tôi th́ một hai nói tôi là con c̣ sao đặng? Nên là điều trái tự nhiên hết sức“ (43). Trong một thư trả lời Blamcsudé, Trương Vĩnh Kư c̣n viện dẫn lịch sử. phong tục và luật pháp để giải thích thêm. Ông Mẫn Quốc trong bài viết trên Nghiên-cứu Lịch-sử (44) của Hà-nội th́ cắt trích dẫn rồi suy diễn cho là Trương Vĩnh Kư khôn ngoan không theo quốc tịch Pháp v́ sợ mất uy tín với vua quan ta và không phục vụ được cho Pháp!

Trương Vĩnh Kư cả cuộc đời làm báo, soạn sách, để lại khoảng hơn trăm tác phẩm lớn nhỏ. Ông làm những việc đó toàn thời gian cả cuộc đời trong khi ông lănh lương của Pháp khoảng 20 năm. Về chính trị ông đă cô đơn; nhưng ông đă làm với ḷng yêu nước, muốn nước được hùng mạnh, dân tộc được trường tồn. Mặt khác, lúc bấy giờ thực dân Pháp muốn xử dụng chữ quốc ngữ như là công cụ, phương tiện đô hộ; nhưng ông cũng như Húnh Tịnh Paulus Của và các vị tiền bối khác lại tận dụng kẻ hở đó để gây dựng một nền văn học hiện đại. Đi xa hơn trong thái độ t́m hiểu tiền nhân đă làm ǵ trong những hoàn cảnh đặc biệt th́ tốt, nhưng nếu phê b́nh gay gắt họ, th́ ai sẽ phê phán những cá nhân và tập thể đă nhận viện trợ hoặc chịu áp lực của Hoa Kỳ, Trung-quốc, Liên Xô, Pháp để đè nén nhân dân, gây chiến tranh chống những đế quốc nghịch thù qua anh em ḿnh hoặc để làm những việc gọi là „làm mới“ văn học? Và thế nào là yêu nước? Lịch sử sẽ luận xét sự „yêu nước“ của tất cả, từ những vị Cần vương, Văn thân Tống Nho tổ chức chống Pháp, chống chữ quốc ngữ, từ những Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Trường Tộ, ... tích cực xông xáo với khả năng và cơ hội, Trần Chánh Chiếu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... chủ trương minh tân và duy tân, đến các nhà cựu học Đông-Kinh nghĩa thục chủ trương dùng chữ quốc ngữ, hoặc Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, v.v. !

 

11. Hạ giá Trương Vĩnh Kư có Phạm Quỳnh.

Cùng năo trạng với Phạm Duy Tốn kỳ thị và tự hào văn hóa ngàn năm văn vật đối với người đất mới, vô Nam làm báo viết bài trên Lục-tỉnh Tân-văn chê nhà văn nhà báo trong Nam như Lê Hoằng Mưu, Tân Dân-Tử,.. đă bị họ phản đối. Riêng Phạm Quỳnh có thể v́ ghen tương hay nghe lời quan thầy người Pháp, trong bút kư „Một Tháng Ở Nam-kỳ“, đă viết về Trương Vĩnh Kư : „Nay có một ông Nam-kỳ bàn về các vấn đề ấy một cách rất kỳ khôi đọc đến không thể nhịn cười được tuy lời lẽ có lắm chỗ quá đáng „nôm na là cha mách qué... Ông Trương chẳng qua là một nhà làm sách giáo khoa thường cho con nít học mà thôi đă có công ǵ với Tổ quốc. Chẳng dám khinh ǵ người trước nhưng những danh sĩ nước Nam cứ như ông Trương cả th́ cũng không lấy ǵ làm vẻ vang cho nước lắm“ (45). Ngài chủ bút Nam-Phong tạp-chí cũng làm báo cho Pháp, hơn nữa lại làm cho trùm mật thám Đông-dương là Louis Marty, ngài đă tổng quát hóa cái viết của người Nam vốn có hai trường phái một b́nh dân viết theo lối đang nói, và một theo trường phái Trương Vĩnh Kư, viết đúng tiếng Việt của ông bà từ Bắc theo nam-tiến (8). Khoảng năm 1934, trên tờ Phụ-Nữ Tân-Văn có cuộc tranh luận về chữ viết của người Nam, nhà văn Phan Khôi đă tuyên dương lối viết tiếng Việt của trường phái Trương Vĩnh Kư và chê lối viết Nam „b́nh dân“ kia sai lầm. Và không lẽ ngài họ Phạm quên Trương Vĩnh Kư từng được quốc tế tuyên dương là nhà bác-học từ năm 1874, chưa kể những huân chương nhiều nước khác ngoài Pháp và là hội viên nhiều hội chuyên gia quốc tế !

Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên: Văn Học Hiện Đại 1862-1943 (1963) đề cập một cách sơ sài về cái mà ông gọi là „sự manh nha văn quốc ngữ ở Nam-kỳ“. Theo giáo sư Phạm, hai ông Pétrus Kư và Paulus Của là những „v́ sao mọc quá sớm... dóng lên những tiếng chuông có giá trị song „điệu cao họa quả“, họ đă „làm tài liệu cho một nền học Việt Nam, nhưng nền học này đă không được thiết lập nên công việc ấy bị bỏ rơi“. Lư do vẫn theo ông, „v́ Nam-kỳ không hiến hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển của văn học, nhất là văn học quốc gia“. Giai đoạn „manh nha“ này đă chỉ „đề xướng lên những công việc mà rồi nhóm Nam Phong ngoài Bắc tiếp tục“ nhưng đă „làm được một việc mà nhóm Nam-phong không dám làm, ấy là cuốn tự vị Việt Nam“, rằng „quốc văn do đó trong nhiều năm về sau ở Nam Kỳ chỉ bày tỏ trong h́nh thức báo chí phổ thông, với tŕnh độ trí thức khá ấu trĩ hoặc ở tác phẩm tiểu thuyết cho một công chúng hạ lưu dễ dăi“ (46). Cái „manh nha“ đó thật sự đă gây thành nếp, thành phong trào mà chúng tôi đă có lần chứng minh trong bài „Miền Nam khai phóng“ (47). Và hoàn cảnh mà giáo sư Phạm nói đó, thật ra một phần do người Pháp khi họ chuyển nền cai trị thực dân ra Hà Nội, lập phủ Toàn quyền, trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) và viện đại học, v́ người Pháp đă hiểu người Nam-kỳ tuy học tiếng Pháp và có vẻ chịu đồng hóa nhưng trong thực tế người Nam-kỳ rất thủ cựu dân tộc chủ nghĩa. Theo thiển ư giáo sư họ Phạm đă tỏ ra khá chủ quan và hẹp ḥi địa phương khi cho rằng „Nam-kỳ không hiến hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển của văn học, nhất là văn học quốc gia“!

Giáo sư Nguyễn Văn Trung thời trước 1975 cũng theo quan niệm chung đó, đă nghiêm khắc phê phán tác phẩm văn học thời Pétrus Kư là „nghèo nàn“, ngưng đọng, v́ các Pétrus Kư, Paulus Của chỉ là những viên chức ăn lương của thực dân để thực hiện chính sách „văn hóa, báo chí, giáo dục của thực dân“, lợi dụng chữ quốc ngữ và văn học chữ quốc ngữ cho việc „trực trị và đồng hóa“. Dù vậy ông cũng đă nh́n nhận Pétrus Kư „có tư cách hơn ... v́ làm chính trị th́ làm một cách kín đáo, c̣n làm văn hóa th́ chỉ làm văn hóa thuần túy trong chính sách của thực dân, không như Phạm Quỳnh hay Tôn Thọ Tường“ (48). Trong khi việc người Pháp cưỡng bách dùng chữ quốc ngữ chỉ v́ người Pháp muốn tiêu diệt truyền thống đạo lư, luân thường xuất phát từ sách vở Nho học, người Pháp sợ những sách này nhắc nhở ư thức về đạo lư dân tộc trong đó có ḷng ái-quốc! Trong Nam, người Pháp dùng báo chí chữ quốc ngữ để thông tin, cai trị, nhưng những người cộng tác như Trương Vĩnh Kư có đầu óc khai-phóng, thức thời, đă lợi dụng để đặt nền móng cho văn học chữ quốc ngữ. Các nhà nghiên cứu văn học của Hà Nội như Mẫn Quốc, Tô Minh Trung, Hồ Song, Nguyễn Anh, Hoàng Văn Lân, Trần Huy Liệu,... ở trong quỹ đạo „yêu nước“, chống „đế quốc“ và vinh quang thắng Pháp thời trước 1975, thắng Mỹ trước Đổi Mới 1986, không thể có lời lẽ tốt và công bằng hơn với Trương Vĩnh Kư ngoài luận điệu xem Trương Vĩnh Kư là „tên tay sai đắc lực“, là „một nhân vật phản diện điển h́nh của nhân dân ta“ (37) hay „phản quốc, làm đặc vụ, tay sai, t́nh báo cho địch“ „gịi trong xương gịi ra“ (16)! Trong cùng chiều hướng tố cáo và xóa bỏ, Phạm Long Điền và Nguyễn Sinh Duy (49) sau mấy bài báo trên Bách Khoa đă xuất bản Cuốn Sổ B́nh Sanh Của Trương Vĩnh Kư đầu năm 1975. Hai ông xóa toàn bộ sự nghiệp văn hóa của Trương Vĩnh Kư v́ theo hai ông các tác phẩm của Trương Vĩnh Kư phục vụ cho quyền lợi của Pháp. Một trong những lư luận là sách Trương Vĩnh Kư được người Pháp mua cho, b́nh tâm mà xét th́ cũng thường, vả lại hai ông quên bộ Thông-Loại Khoá-Tŕnh mà Trương Vĩnh Kư chăm chút đă phải đ́nh bản v́ thiếu nợ nhà in. Sau 1975 không thấy hai ông lên tiếng, chỉ biết hai ông là sinh viên của giáo sư Nguyễn Văn Trung và nhà xuất bản Nam Sơn đă in sách hai ông. Hai bài báo nói trên khiến ông Vương Hồng Sển đau ḷng, „lấy làm tội nghiệp cho nhà học giả tiền bối miền Nam, chết được dựng tượng, mà nay có trẻ nhỏ dám đến đái dưới gốc chân tượng“ (50) (Có người trích lại câu này và cắt nghĩa theo nghĩa đen mà không hiểu trẻ nhỏ là họ Vương ám chỉ hai hậu sinh họ Phạm và Nguyễn kia !).

Cùng chiều hướng này nhưng động cơ có thể „đa diện“ hơn, có ông Đỗ Mậu từng làm ủy viên (bộ trưởng) và phó thủ tướng „văn hóa“ của đệ nhị cộng ḥa, gần đây về nước lên đài truyền h́nh, đă gọi Trương Vĩnh Kư là „tên đại phản quốc, một tên Việt gian dùng văn hóa, báo chí giúp thực dân Pháp thống trị Việt Nam“ (51). Ở hải ngoại c̣n có các nhà khoa bảng nhóm Giao Điểm, „sử gia“ Vũ Ngự Chiêu và „tác giả“ Lê Trọng Văn! Trong nước, người cộng sản vốn chỉ có một thái độ hạ bệ Trương Vĩnh Kư v́ mặc cảm (!) với dân Nam-bộ, v́ dị ứng với chuyện „yêu nước“ theo chủ trương của họ, nên đă hạ tượng, xóa tên trường, nhưng nay đă có những tiếng nói tuy rời rạc nhưng đă có, của Sơn Nam, Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Đ́nh Đầu hay của Nguyễn Văn Hoàn của Viện văn học là người đă phát biểu rằng Trương Vĩnh Kư là „một nhà văn hóa lớn không chỉ riêng của Nam-kỳ“ và đă nh́n nhận rằng „bộ phận văn học quốc ngữ đă phát sinh và phát triển trong một không gian chính trị - xă hội phức tạp... „!

Trần Chánh Chiếu chủ báo Lục-Tỉnh Tân-văn và là người từng vận động phong trào Minh Tân sau lại hổ trợ cụ Phan Bội Châu đă viết về Trương Vĩnh Kư khi hô hào dựng tượng - về sau bị Pháp can thiệp „lấy lại“ chủ động: „Ông nầy khi sanh tiền tuy là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẽ cho các quan Lang-Sa biết phong tục lễ nghĩa của con nhà Annam cho khỏi chỗ xích mích nhau, làm cho mẹ gà phải thương con vịt. Đêm ngày lo nghĩ đặt sách này dịch sách kia cho kẻ hậu sanh dễ học. Thật(!) là quan thầy của cả Nam-kỳ“ (52). Học giả Nguyễn Văn Tố trong bài viết bằng tiếng Pháp đă nói ở trên đă tóm lược thân thế Trương Vĩnh Kư vào ba tiếng „Science, Conscience et Modestie“ (bác-học, tâm thuật và khiêm tốn) (22)! Trong bài Tựa cuốn Trương Vĩnh Kư Biên-Khảo của Lê Thanh đă dẫn, học giả họ Nguyễn đă liệt TVK vào hạng những nhà lập ngôn bất hủ : „Nước ta có đức Trần Hưng-Đạo là bậc lập đức, vua Lê Lợi và vua Gia Long là bậc lập công, ông Phan phu-Tiền đời Trần và một vài ông sứ thần nữa là bậc lập ngôn. Văy th́ hạng người làm sách để dạy đời là một hạng trong ba hạng người bất hủ ấy. Ông Trường vĩnh Kư có thể liệt vào hạng người đó, v́ không những Hán học uyên thâm, Pháp học uyên bác, ông lại c̣n tinh thông các thứ chữ ở Viễn đông (...) thực là một nhà bác ngữ uẩn súc, nước ta chưa từng có bao giờ....“ (53).

Nhà phê b́nh văn học Lê Thanh từ Bắc vào Sài-G̣n nghiên cứu tác phẩm và văn khố ở nhà thờ Trương Vĩnh Kư ở Chợ Quán đă viết lại cảm tưởng năm 1943: „Hơn một lần, nghiêng ḿnh trên di cảo vàng úa, tôi cảm thấy tâm hồn tôi săn lại, khi thấy, bằng những ḍng chữ rời rạc, tiên sinh ghi những nỗi lo phiền, buồn tủi, tôi đă cảm thấy lạnh trong tâm hồn khi đọc mấy chữ mà trên ấy tôi nhận thấy sự đau đớn nhiều hơn sức mạnh, tôi được biết rằng, v́ quá tận tụy cho nhà, cho nước, cho văn chương, tư tưởng mà tiên sinh đă phải trả cái giá đắt bằng cả cái sức khoẻ và sau cùng, cả cái đời tiên sinh“ (54).

Thuần Phong th́ khen Trương Vĩnh Kư khi so sánh với Phạm Quỳnh: „Trương Vĩnh Kư là người học tṛ thứ nhứt của chữ tây và đă cộng tác với Pháp trong cuộc định đoạt vận mệnh quốc gia ta, đáng lẽ ra tạp chí ấy ông phải làm tay sai cho Pháp để đàn áp dư luận, thâu phục nhân tâm cho Pháp và để tận diệt dấu tích chữ Nho và tinh thần ái quốc trong tâm hồn nhân dân ta, như về sau này (1917) Phạm Quỳnh đă ra làm tạp chí Nam-Phong cho Louis Marty một cách khôn khéo. Song trong tạp chí đó, người ta không thấy manh tâm ẩn ư nào theo Pháp phản dân, không t́m được sự có mặt của Pháp, ngoại trừ mươi hàng dạy tiếng Pháp ở cuối mỗi số...“ (55) . (Mà phần này chưa chắc đă do Trương Vĩnh Kư soạn dù ông là Chánh tổng tài tờ báo!).

Bằng Giang trong Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Kư tŕnh bày Trương Vĩnh Kư có „giải pháp phi truyền thống, mặc dầu có đối kháng nhưng không có một lần nào Trương Vĩnh Kư công khai xúc phạm đến danh dự của nghĩa quân là những người yêu nước kháng chiến, v́ chứng tỏ họ Trương cũng nh́n nhận tinh thần đó ở những người (qua bức thư gửi cho Paul Bert ngày 5-10-1886) hay những phong trào nghĩa quân cần vương hoặc Văn thân“ (56).

 

12. Vấn-đề diễn tiến tư tưởng của tác giả :

Nhiều nhà biên soạn sách hay rơi vào sai lầm hay thiếu sót khi trích dẫn các tác giả mà cuộc đời đă thay đổi tư tưởng nhiều lần, thay đổi v́ đổi đời, v́ chính kiến, ư thức hệ, hoặc tiến bộ, chính xác và qui mô hơn. Các sách và bài báo của các giáo sư Lư Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, các linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan trước 1975 được viết trong hoàn cảnh chiến tranh ư thức hệ tư bản-cộng sản, thiên tả v́ họ chủ trương một xă hội không tư bản; sau 1975, tư tưởng và lư tưởng của họ đă đổi khác trong một xă hội độc tài, chuyên chính, sau một thời gian ngắn hồ hỡi vui chiến thắng và thống nhất, họ đă có những sách báo không c̣n chung chiều hướng. Lữ Phương, linh mục Trần Tam Tĩnh, có những sách báo nặng nề phê phán ngay sau „chiến thắng“ 30-4-1975 nhưng sau thời Đổi mới, họ có c̣n nghĩ như vậy không? Giáo sư Nguyễn Văn Trung trước 1975 phê phán nặng nề Trương Vĩnh Kư và „bất công“ với văn học miền Nam như chính ông thú nhận (26) nhưng sau 1987 ông đă có những bài viết „công bằng“ hơn nhưng đôi khi gây nghi ngờ thêm (57)! Trích dẫn Phạm Long Điền hay Nguyễn Sinh Duy nên hiểu hai ông đều là sinh viên chịu ảnh hưởng của giáo sư Nguyễn Văn Trung trước 1975 (58). Hơn nữa phải hiểu mục đích chống TVK thời bấy giờ như Phạm Long Điền lộ cho thấy „cho nên bài học TVK c̣n là bài học lớn, súc tích, đầy ư nghĩa cho người trí thức cũng như người cầm bút hôm nay suy gẫm chọn một thế đứng trên con đường đi tới của lịch sử dân tộc“ (59).

Luận án của Cao Huy Thuần tựa đề Christianisme et colonialisme au Vietnam, 1857-1914 (Université de Paris, 1968) trước 1975 đă bị một nhóm người có mưu đồ tiêu cực dịch ra tiếng Việt, năm 1988 ở hải ngoại „nhà xuất bản“ Hương Quê ở California in lại (Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam 1857-1914), tác giả không hề hay biết, do đó không thể xem bản dịch tiếng Việt là của ông Thuần. Chính ông Thuần đă đính chính việc này trên tờ Thời Luận ở Los Angeles số ra ngày 1-7-1988, trong đó tác giả c̣n cho biết luận án của ông chỉ có một „mục đích khoa học“! Vậy mà nhiều người đă xem con thuyền phương tiện đưa người sang sông là mục đích, rồi tôn thờ con thuyền! Hơn nữa, trong bản in năm 1990, Les Missionnaires et la politique coloniale française au Vietnam 1857-1914 (60), tác giả đă lược bớt nhiều trang, nên có thể xem như ông cập nhật hóa luận án hơn 20 năm trước. Để chứng tỏ lương thiện trí thức („honnêteté intellectuelle“), người viết ít ra phải nói rơ đó là những ǵ tác giả trích dẫn đă viết vào giai đoạn nào. Xin nhắc ở đây là các cây viết thuộc hệ cộng sản như Phan Cự Đệ, Vương Trí Nhàn, Hoàng Ngọc Hiến, Chương Thâu, Trần Văn Giàu, ... đă „tiến hóa“ tư tưởng nếu không muốn nói là „mâu thuẫn“ từ thời 1954 đến nay, về văn học tiền chiến, phong trào Thơ Mới, Tự Lực văn-đoàn, Phạm Quỳnh, Nam-Phong tạp-chí, v.v. Chế Lan Viên khi chết đă để lại Di Thảo như để nói thật ḷng tức phủ nhận hết những lách, né trong quá khứ! Như vậy nay đă đầu một thế kỷ và thiên niên mới, đất nước ḷng người đă trăi qua nhiều chuộc chiến tranh chống thực dân và nội bộ, sao lại phải khơi những tro tàn 30, 50 năm trước mà chính người liên hệ đă thay đổi, mở mắt và hoàn cảnh đă khác? Với hậu ư ǵ ?

 

13. Vấn đề thư tịch:

Mất nước, mất tất cả, do đó thư tịch và văn hóa cũng không tránh bi trạng đó! Những ngưởi có chút bận tâm cho lịch sử, văn học sử và thư tịch học không thể không bất b́nh trước hiện tượng có những ấn phẩm không tôn trọng văn bản và bản quyền tác giả; hơn thế nữa c̣n cắt xén tác phẩm của người khác, thu góp bài làm một tuyển tập (anthology) rồi ghi tên người thu lượm là „tác giả“, hay trích dẫn sai nguyên văn dĩ nhiên v́ có dụng ư, hoặc thu góp bài và thư tín riêng tư mà không hề xin phép các tác giả. Ngoài cuốn Pétrus Trương Vĩnh Kư Tuyển Tập (35), c̣n có các ấn phẩm kể sau xin nêu tượng trưng : A. de Rhodes Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam Và Chữ Quốc Ngữ (11), Thiên Hồ! Đế Hồ! (của Chương Thâu bị Mr Le ở hải ngoại thêm bớt bài, từ bài gốc cuả cụ Phan Bội Châu), Ki Tô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền-Thoại (có một số bài hoặc phát biểu riêng, in không xin phép tác giả). Có hiện tượng „cầm nhần“ cố t́nh lẫn lộn tác giả (author / auteur) với người chủ biên hoặc chủ trương (editeur intellectuel / éditor) ở Âu Mỹ là người đứng ra mời hoặc chủ trương dĩ nhiên xuất bản với sự thỏa thuận của các các tác giả. Nhiều tuyển tập in ở hải ngoại rất mập mờ điểm này, thường để tên người sưu tập và đánh máy (chứ không hẳn đă là chủ biên) vào chỗ của tác giả, như cuốn Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử Trong Thế Kỷ 20, ... Trong nước dù sao vẫn ghi rơ tên người sưu tầm giới thiệu và ở chỗ khiêm tốn hơn! Tưởng tượng nếu là người Hoa kỳ hay Pháp, Anh... th́ đây là những vi phạm luật pháp! Mà „honnêteté intellectuelle“ bị „quí vị“ này hiếp đáp hơi kỹ ! Cùng những „quí vị“ này lại hay nói đến ḷng „yêu nước“. Thiển nghĩ chỉ có một t́nh yêu nước khi thành thật, không mưu đồ, điều kiện, t́nh đó không thể có ở những tṛ lộng giả thành chân, ăn cháo đái bát và vô ơn với tiền nhân !

 

14. Người Việt Nam có truyền thống trọng chữ tín, sĩ diện và danh dự nhưng không có những hành động ngoạn mục như người Nhật (có nhưng hiếm hoi Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, một số sĩ quan Việt Nam Cộng ḥa,..), thành ra mới có chuyện người sống viết hồi kư để tự đề cao, tự đính chính đồng thời bôi xấu người chết hoặc đối nghịch và bôi nhọ nhau trên báo chí, đối xử tàn tệ với bạn hơn cả với kẻ thù. Có người dựa trên kẻ chết để tự dánh bóng, để làm chính trị, ... Trương Vĩnh Kư, „toàn-cầu bác-học danh-gia“ được quốc tế công nhận từ năm 1874, thông thạo trên 20 thứ tiếng, mà sống khiêm tốn, sống theo lễ nghĩa căn bản có thể lỗi thời, vác ngà voi cho tập thể và hậu thế...! Quí học giả, nhân sĩ Nguyễn Văn Tố (22, 29), Đào Duy Anh (61), Hồ Hữu Tường (42), Vương Hồng Sển đă có những nhận xét đáng kể. Cụ Vương cụ thể trong cuốn Nửa Đời C̣n Lại (1996), cuốn in những bài viết cuối đời, đă kết luận về những „cái gương sáng suốt“: „Trương Vĩnh Kư đứng đầu, chí khí như họ Từ đời Tam quốc, sống đất Tây mà ḷng vẫn hiên ngang, không theo pḥ tá mà vẫn một ḷng v́ cố quốc, nước nhà, tuy tượng đồng bị hạ bệ mà nghe đâu sẽ có ngày xây dựng lại như cũ...“ (62). Cả Nguyễn Đ́nh Đầu (3), Nguyễn Văn Trấn, Đỗ Quang Hưng (40) xuất thân từ đảng cộng sản Việt Nam, các ông đều tôn vinh công trạng của Trương Vĩnh Kư đối với văn học và văn hóa nước nhà. Nguyễn Văn Trấn cho rằng TVK không sợ phỏng tay khi „thành thật đưa tay ra nắm lấy tay người Pháp, ông muốn nhờ ở sự gần gũi với châu âu, đem lại văn minh tiến bộ. Mà văn minh tiến bộ chỉ tồn tại trong sự đồng song phát triển của trí tuệ, đạo đức và hạnh phúc“ v́ „TVK bản thân không để mất ǵ hết, từ quốc tịch đến quốc hồn, bộ khăn đóng áo dài...“ (63). Tiếng nói những „hậu sinh“ v́ tị hiềm tôn giáo, địa phương hoặc mưu đồ chính trị hoặc cá nhân có thể sẽ bay mất, ấn phẩm của họ sẽ bị đào thải, nhưng hiểm nguy đánh giá sai lịch sử c̣n đó, v́ nói như một nhà tuyên truyền giỏi, cứ nói dù sai, sẽ có cái ǵ đó lưu lại ! Hôm nay với tài liệu thư tịch dù thất lạc nhưng vẫn c̣n, mà con người đă xuyên tạc như thế, người ở các thế hệ sau sẽ hiểu thế nào !

Hồ Hữu Tường từng xét trường hợp Trương Vĩnh Kư là „cái quá tŕnh từ một nhà trí thức hợp tác với ngoại bang đế đến một bậc sĩ phu đối với thời đại của ḿnh“ (64). Thiển nghĩ hơn thế nữa, Trương Vĩnh Kư là hành tŕnh rất trí thức của một con người „mất gốc“ (theo đạo, làm việc cho Pháp, sống ở đất thuộc địa) lúc đầu đời, đi đến một con người thuần thục yêu nước và văn hóa dân tộc ! Xin mở một dấu ngoặc rằng sách sử từng ghi lại rằng gia đ́nh Nguyễn Nhạc vốn theo đạo Thiên-Chúa nhưng khi anh em Tây Sơn nổi dậy thắng thế đă bỏ đạo. Tuy nhiên Nguyễn Lữ, một người anh khác của vua Quang Trung sống thời thế kỷ XVIII mà đă có cái nh́n tổng hợp về tôn giáo, đă chấp nhận hành lễ theo nghi thức đạo Thiên-Chúa (65) và cũng không cấm những tín ngưỡng khác bắt đầu phát triển ở Nam-hà.

V́ nguồn gốc, quá khứ, tín ngưỡng, chiến tranh và chính trị, v.v., người Việt đến nay vẫn đối đầu nhau trong nhiều vấn đề liên hệ đến dân tộc và đất nước. Thiển nghĩ chúng ta sẽ mất hết, mất cả cái „nhau“ chúng ta vẫn nghĩ c̣n („Chúng ta mất hết chỉ c̣n nhau“). Có những cái mất mát mà chúng ta coi như định mệnh hoặc bất khả kháng v́ người sống không thể làm được ǵ để níu kéo ngoài việc tưởng nhớ, như những chiến sĩ đă nằm xuống v́ lư tưởng, những nạn nhân chiến tranh, những đồng bào chết dưới ḷng biển, ... Nhưng đối với người chết và nhất là các tiền nhân, tổ tiên, thiển nghĩ chúng ta khó có thể chấp nhận thái độ phỉ báng một cách hàm hồ, ác ư. Dù ǵ th́ Trương Vĩnh Kư vẫn là người có liên hệ đến lịch sử thời người Pháp đến thôn tính Việt Nam, đă năng nổ ra tay, với lập trường phục vụ tổ quốc và dân tộc, đă tích cực đương đầu với „ngoại lai“, tiếp nhận và thu thập tinh hoa của „người“, giúp người Việt đến với khoa học, tiến bộ, làm giàu học thuật, đồng thời đă giúp đồng bào của ông làm người Việt về mặt đạo đức, văn hóa! Ngay sau „chiến thắng“ 30-4-1975, Hà Nội liền phá bức tượng Trương Vĩnh Kư ở công viên gần dinh Độc Lập (66), đổi tên trường Petrus Trương Vĩnh Kư và phá bức tượng bán thân trong khuôn viên trường dựng từ 9-1928 (67); đến nay dù Đổi Mới và sau nhiều thay đổi, tượng A. de Rhodes được dựng lại, Trương Vĩnh Kư vẫn bị xóa, không phục hồi. V́ lư do chính trị chăng? Tượng A. de Rhodes được dựng lại, „tuyên truyền“ rằng ông là ông tổ chữ quốc ngữ chỉ gây thêm ngộ nhận, „mây mù“, v́ muốn làm vui ḷng người Pháp chăng? Để trường Viễn-đông bác-cổ mở lại ở Hà-nội, để người Pháp nghiên cứu và in sách Hán-Nôm - việc Trương Vĩnh Kư đă từng làm! Một trí thức Nam-kỳ, theo đạo Thiên-Chúa,.. h́nh như vẫn là ám ảnh chính trị của guồng máy độc tài cộng sản? Mới hiểu tại sao hơn thế kỷ trước, Trương Vĩnh Kư đến chết vẫn ôm một tâm sự buồn, ghi lại rơ nhất ở hai câu kết „bài thơ tuyệt vọng“ :

“Cuốn sổ b́nh sanh công với tội,

T́m nơi thẩm phán để thừa khơi“! (68)

 

Chú-thích:

 

(1)        Phương hướng nhiệm vụ thứ năm : “Tiếp tục ḍng chảy không đứt đoạn của kư ức văn hóa, Hội Nhà Văn tạo mọi điều kiện đăy mạnh sáng tác về đề tài lịch sử và chiến tranh cách mạng...“ (Hữu Thỉnh. “Báo Cáo của Ban chấp hành Hội nhà văn khóa V...”. Văn Nghệ, 17, 22-4-2000, tr. 6). Ngoài ra, Nguyễn Hữu Sơn (Viện văn-học) trong bài „Sáng tác về đề tài lịch sử“ (Văn-Nghệ 24, 16-9-1999, tr. 6) đă ghi nhận: “... bởi tâm lư tự cường mong muốn khẳng định bản lĩnh văn hóa dân tộc trong bước chuyển gia tốc giao lưu và hội nhập quốc tế; hơn nữa được kích thích bởi những định hướng lớn của Đảng và Nhà Nước trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc truyền thống dân tộc khiến cho tâm thế sáng tác ‘hướng về cội nguồn’ ở các nhà văn càng có dịp nảy nở và phát triển...“.

(2)        “Sử gia“ Nguyên Vũ (Vũ Ngự Chiêu) đă cho rằng Trương Vĩnh Kư bị thân mẫu “bán“ cho cha cố người Pháp (Paris Xuân 1996. Houston : Văn Hóa, 1997, tr. 68). Đă bị bán mà TVK vẫn về thăm mẹ mỗi hè và khi mẹ mất đă về thọ tang! Thật ra cậu bé TVK 3 tuổi mồ côi cha được cố đạo Tám (người từng được ba cậu là lănh binh Trương Chánh Thi che chở khỏi bị sát hại v́ cấm đạo) và sau là cố Long nuôi cho ăn học chữ Hán trước chữ quốc ngữ và latinh. Riêng TVK đă có lần tự nhận là „con nuôi“ của nước Pháp cộng ḥa!

(3)        Bài nói chuyện tại Nhà văn hóa lao động thành phố Hồ Chí Minh ngày 11-10-1998 và tường thuật lại trên báo Thanh Niên số ra ngày 21-10-1998. Không thấy sử gia Vũ Ngự Chiêu nhắc đến mấy lá thư này!

(4)        Xem tranh luận về thơ Lục Vân Tiên trên tạp chí Văn Học (CA) các số 141, 142, 148, 149 (1-9, 1998).

(5)        Trích lại từ Bằng Giang. Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Kư. (TpHCM) : Văn Học, 1993, tr. 41.

(6)        Nguyên tựa là : Chuyện Đời Xưa Lựa Nhón Lấy Những Chuyện Hay Và Có Ích. Sài-G̣n. 1866. 74 tr.

(7)        Thanh Lăng. „Thử thiết lập hồ sơ về hai người con gái : một con của Phật, một con của Chúa“, tr. 14 in Về Sách Báo Của Tác Giả Công Giáo (Thế Kỷ XVII-XIX): Tài Liệu Tham Khảo. (TpHCM: Trường Đại học tổng hợp Tp HCM, Khoa Ngữ Văn, 1993), và „Tiếng và chữ người Sài-G̣n“ (di cảo). Ḍng Việt, 6, 1999, tr. 158-179.

(8)        Xem Nguyễn Vy-Khanh. „Tiếng Việt qua một số tác phẩm“ tr. 63-91 In Văn Học Và Thời Gian. (Westminter, CA : Văn-Nghệ, 2000), và tập Sấm Truyền Ca (Montréal :Tạp chí Y Sĩ, 2000. 186 tr.).

(9)        Rolland Jacques. „Bồ Đào Nha và công tŕnh sáng chế chữ quốc ngữ : phải chăng cần viết lại lịch sử?“ Định Hướng, 17, mùa Thu 1998, tr. 18-62; tr. 40.

(10)      Theo linh mục Đỗ Quang Chính, linh mục Ḍng Tên Francisco de Pina người đă dạy tiếng Việt cho linh mục Đắc-Lộ, sau chết đuối ở cửa biển Đà Nẵng, mới chính là „một trong những người đầu tiên đem mẫu tự abc vào tiếng Việt“ (Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659. Sài-G̣n : Ra-Khơi, 1972, tr. 89). Chính A. de Rhodes trong lời Tựa cũng ghi thừa hưởng công của Jaspar d’Amaral và Barbosa. Về dấu vết chữ quốc ngữ, xem R. Jacques. „Un document de linguistique comparée, japonais-chinois-vietnamien, rédigé à Macao en 1632“. Định Hướng, 19, mùa hè 1999, tr. 141-157; 21, mùa đông 1999, tr. 86-106, và Nguyễn Khắc Xuyên. Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ 1651 . Garden Grove, CA : Thời Điểm, 1993; Giáo Sĩ Đắc Lộ. http://vietcatholic.net/

(11)      Garden Grove, CA : Giao Điểm, 1998. 299 tr.

(12)      “Về vai tṛ của Alexandre de Rhodes đối với sự chế tác và hoàn chỉnh chữ quốc ngữ“ in Giao Lưu Văn Hóa Và Ngôn Ngữ Việt Pháp (TpHCM : NXB TpHCM, 1999), tr. 236.

(13)      Paris: Maisonneuve, 1955-56, tome 1, quyển 1, chương 1, trang 9-22. Hà Nội cũng theo lư luận này để kết án A. de Rhodes có mưu đồ xui người Pháp xâm chiếm nước Việt Nam.

(14)      Văn-Học Chữ Quốc Ngữ ở Nam kỳ 1865-1930. TpHCM : Trẻ, 1992. Tr. 295.

(15)      Phạm Long Điền, “Trương Vĩnh Kư trong quĩ đạo xâm lăng văn hóa của thực dân Pháp“ Bách-Khoa, 408, 11-1974, tr. 40.

(16)      Mẫn Quốc. „Trương Vĩnh Kư, một nhà bác học trứ danh đă ngang nhiên đóng vai đặc vụ t́nh báo, làm tay sai đắc lực cho giặc Pháp“. Nghiên-Cứu Lịch Sử, 60, 3-1964, tr. 40.

(17)      Phạm Long Điền. Bđd, tr. 37.

(18)      “Les monuments littéraires étant rares dans le pays des ... qu’elles prennent naissance aux sources obscures de la mythologie“ (v. 1, p. 5-6) Avant-propos. Petit cours d’histoire annamite à l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine. Saigon : Impr. du Gouvernement, 1875-1877.

(19)      “Pendant 149 ans, l’Annam eut à subir des gouverneurs chinois. Mais cette domination périt, comme tout ce qui tient de la violence, par ses excès: Le joug fut brisé par les mains d’une femme“. Op. cit., p. 23.

(20 )     “Il introduisit la littérature chinoise en entier, (...). Les Annamites perdirent complètement leur propre écriture par suite de cette mesure rigoureusement employée“. Op. cit., v. 2, p. 27.

(21)      “Nous n’oublierons point qu’Annamites de la France, ou Annamites de la Cochinchine et du Tonquin, nous avons des origines communes. Bien que séparés par les destinés politiques, nous nous élèverons de toutes nos forces contre ce système erroné d’administration, contraire à la saine économie politique, qui fait du peuple le bétail des rois; qui n’est que l’exploitation maladroite et criminelle d’une nation par la caste des fonctionnaires avides et ambitieux“. (Op. cit., v. 2, p. 251); „Je demande pardon de cette digression, que la centemplation des faits historiques m’a arrachée. On ne m’en voudra point, si un sentiment de tristesse amère me domine, lorsque je considère ce que sont devenus ces pays et ce qu’ils auraient pu être“ (p. 252).

(22)      “Petrus Kư“. Bulletin de l’enseignement mutuel du Tonkin, t. XVII, nos 1-2, janv-juin 1937, p. 25-67. Trích theo Bằng Giang, Sđd tr. 39.

(23)      Vân-Đằng Trần Văn Rạng. “Trương Vĩnh Kư với Truyện Đất Nam-kỳ“. Văn (TpHCM), 11-1990, tr. 102.

(24)      Phụ lục, tr. 160-168 In Trương Vĩnh Kư, Nhà Văn Hóa. Sđd; và Về Sách Báo... (chú 7).

(25)      Trích theo Bằng Giang, Sđd tr. 132.

(26)      Giáo sư Nguyễn Văn Trung đă nhiều lần cho biết: : „Có thể chúng tôi cũng có trách nhiệm phần nào trong việc dẹp bỏ tượng Trương Vĩnh Kư v́ nhiều năm trước 1975, chúng tôi đă đề ra một cuộc vận động phê phán Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Kư về phương diện chính trị và văn hóa“ (Trương Vĩnh Kư, Nhà Văn Hóa . Sđd, tr. 44); „Trước 1975 tôi đă viết nhiều bài, sách phê phán nghiêm khắc Trương Vĩnh Kư đặc biệt về chính trị, hơn nữa tôi c̣n gợi ư khuyến khích một vài bạn trẻ đi vào con đường đó như Phạm Long Điền, Nguyễn Sinh Duy. Những loạt bài phê phán của chúng tôi đă gây phiền muộn bất măn trong giới văn hóa miền Nam lúc đó đặc biệt hai người Hồ Hữu Tường và Vương Hồng Sển...“ (“RFI phỏng vấn nhân dịp 100 năm ngày giỗ Trương Vĩnh Kư“, Đi Tới, 13, 9-1998, tr. 22. In lại trong Nhận-Định X (Montréal : Tác giả xb, 1999), tr. 151).

(27)      Trích theo Bằng Giang, Sđd, tr. 56.

(28)      Trích theo Bằng Giang. Sđd, tr. 134.

(29)      “Tựa“. Lê Thanh. Trương Vĩnh Kư Biên-Khảo. Hà Nội : Tân Dân, 1943 (Phổ Thông bán nguyệt san, 9-1943), tr. 4.

(30)      “Phỏng vấn nhà văn Vơ Phiến về bộ sách ‘Văn Học Miền Nam’“. Văn Học (CA) 169, 5-2000, tr. 10.

(31)      Bằng Giang. Sđd, tr. 65.

(32)      Phạm Long Điền. Bđd, tr. 35.

(33)      Nguyễn Văn Trung. Chữ, Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc. (Sài G̣n : Nam Sơn, 1974), Xuân Thu tb, 1989, tr. 42.

(34)      Quán Phong. “Trương Vĩnh Kư“. Nắng Mới (Montréal), 21, 6-1993, tr. 20-24.

(35)      Pétrus Trương Vĩnh Kư Tuyển Tập. (San Diego: Việt Nam/Mr Le, 1996), tr. 89. (Ngoài b́a ghi „tác giả“ là Cửu Long Lê Trọng Văn, trang trong ghi „tác giả giữ bản quyền“ và ghi thêm “mọi trích dịch, in hay sao ... phải có sự đồng ư của tác giả“ - Người đọc tự hỏi ai là „tác giả“ và không biết ông „tác giả mới“ này đă xin phép các tác giả nguyên bản chính chưa!).

(36)      Trích bản thảo.

(37)      Như Tô Minh Trung. „Trương Vĩnh Kư tên tay sai đắc lực đầu tiên của chủ nghĩa thực dân Pháp trong lịch sử nước ta“. Nghiên Cứu Lịch Sử, 59, 2-1964, tr. 45 (Lập lại ư bài của H.H. „Giới thiệu TVK“ đă đăng trước đó (NCLS, 56, 11-1963, tr. 13-23) là loạt bài mở đầu „cuộc b́nh luận về TVK“ kết thúc với Trần Huy Liệu („Nhận định về TVK“. 63,6-1964, tr. 29-31)).

(38)      Paul Bert Au Tonkin. Paris : G. Charpentier, 1887.

(39)      Tâm Thư. Houston, TX : Văn-hóa, 1995, tr. 99-100.

(40)      Đỗ Quang Hưng. Một Số Vấn Đề Lịch Sử Thiên-Chúa Giáo Ở Việt Nam. Hà Nội : Trường đại-học tổng hợp, khoa lịch sử, 1990. Ông Hưng tường tŕnh và có kể công của Trương Vĩnh Kư, lời phê duy nhất, nếu có thể xem đó là lời phê, là khi ông gọi Trương Vĩnh Kư là „trí thức nửa dân tộc“ (tr. 68).

(41)      Thư in lại trong Jean Bouchot. Un savant et un patriote Cochinchinois : Pétrus J.B. Trương Vĩnh Kư. Sài G̣n : Nguyễn Văn Của, 1927, tr. 65.

(42)      Trích theo Hồ Hữu Tường. „Hiện tượng Trương Vĩnh Kư hay hóa tŕnh từ người trí thức đến kẻ sĩ phu“. Bách-Khoa, 404, 5-9-1974, tr. 22.

(43)      Dương Mạnh Huy, „Một người tốt của nước Việt Nam“, Lục Tỉnh Tân Văn 1927 (Trích theo Bằng Giang. Sđd, tr. 94-95).

(44)      Mẫn Quốc. Bđd, tr. 43.

(45)      “Một tháng ở Nam-kỳ“. Nam-Phong tạp-chí 17 (1919), Trích từ Nguyễn Văn Trung. Nhận Định X. Sđd, tr. 150, chúng tôi trích lại với dè dặt v́ chúng tôi không t́m thấy câu trích trong bản in lại trong Hành Tŕnh Nhật Kư (Yerres : Y Việt, 1997).

(46)      Tập 3. Sài G̣n : Tác giả xuất bản, 1965, tr. 84-85.

(47)      Nguyễn Vy Khanh. “Miền Nam khai phóng“, tr. 15-61 In Văn-Học Và Thời Gian. Sđd.

(48)      Chữ, Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc. Sđd, tr. 44, 86 và 112-115.

(49)      Nguyễn Sinh Duy. „Thương xác cùng học giả Hồ Hữu Tường về hiện tượng Trương Vĩnh Kư“, Bách Khoa, 406, 10-1974, tr. 15-25.

(50)      Vương Hồng Sển. Hơn Nửa Đời Hư . Tp Hồ Chí Minh : NXB Tổng hợp, 1992, tr. 232.

(51)      Tâm Thư. Sđd, tr. 83.

(52)      “Ông Đốc Kư“. Lục-Tỉnh Tân-văn số 29, 4-6-1908. Trích lại theo Nguyễn Văn Trung (Trương Vĩnh Kư, Nhà Văn Hóa, Sđd, tr. 34) . Câu này được nhiều sách báo trích dẫn lại nhưng sai, hoặc thành „ông thầy của cả nước và của cả Nam-kỳ“, hoặc „ông thầy đạo lư của Nam-kỳ“! Những chữ in nghiêng không có ở nguyên bản đăng lại!

(53)      Lê Thanh Sđd. Tr. (3).

(54)      Lê Thanh. Sđd, tr. 10-11.

(55)      Đồng-Nai Văn-tập, 3, 1966, tr. 43-44, trích lại theo Bằng Giang. Sđd, tr 63.

(56)      Bằng Giang. Sđd, tr. 187.

(57)      Như bài viết „Nghi vấn về tác giả Lục Vân Tiên“. Khởi Hành (CA), 45, 7-2000, tr. 7-10 : ông chủ tŕ ông là người đầu tiên lập lại nghi vấn của M.E. Villard trong một bài báo xa xưa tháng 8-1880 nghi rằng Lục Vân Tiên xuất phát từ Bắc từ ... thời thượng cổ, và vô danh!

(58)      “RFI phỏng vấn nhân dịp 100 năm ngày giỗ Trương Vĩnh Kư“. Bđd, chú 25.

(59)      Phạm Long Điền. Bđd, tr. 41.

(60)      New Haven, CT : Council on Southeast Asia Studies, Yale Center for International and Area Studies ; Amiens, France : Centre de relations internationales et de science politique, Université d’Amiens, 1990. 420p.

(61)      “Người đầu tiên có công khiến văn học ta thành sinh-diện mới ấy là Trương Vĩnh Kư (...), một nhà học giả trứ danh ở Nam-Việt ngay từ khi Nam Việt mới thành thuộc địa đă dùng chữ quốc ngữ để chuyển tả những văn Nôm hay (...) rồi lại dùng Việt ngữ để phiên dịch sách Tàu (...), sách Tây (...) và trứ thuật các sách chuyện đời xưa, phép lịch sự an nam, cờ bạc nha phiến, bằng một trhứ văn rất giản dị“. (Việt Nam Văn Hóa Sử Cương . Sài-G̣n : Bốn Phương, sd, tr. 276).

(62)      Nửa Đời C̣n Lại (Westminster, CA : Văn nghệ, 1996), tr. 369.

(63)      Nguyễn Văn Trấn. Trương Vĩnh Kư, Con Người Và Sự Thật. TpHCM : Ban Khoa-học xă hội thành ủy, 1993, tr. 210. Sách bị tịch thu sau khi in, nhưng hiện có ở nhiều thư viện Mỹ.

(64)      Hồ Hữu Tường. Bđd, tr. 19.

(65)      Lê Thành Khôi. Le Viêt Nam : histoire et civilisations, le milieu et l’histoire. Paris : Minuit, 1955, tr. 310-311.

(66)      Bức tượng nhà bác học Trương Vĩnh Kư được dựng từ năm 1927 ở công viên gần nhà thờ chánh toà Sài-G̣n lúc đầu do dân chúng và nhà báo hô hào thu góp đúc tượng từ năm 1908, sau nhà cầm quyền người Pháp muốn „lôi kéo“ về cùng phe đă hoàn thành đúc tượng và khánh thành, khi kháng chiến chống Pháp nổi dậy ở Sài-G̣n năm 1945 vẫn được tôn trọng không bị phá đổ như tất cả các tượng h́nh dấu vết của thực dân khác. Nhưng đến 30-4-1975 th́ bức tượng bị giật đổ v́ bị kẻ „chiến thắng“ xem như là tàn tích của ... quá khứ ! Giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng đă thú nhận đă hiểu sai việc dựng tượng nên đă mạnh tay với Trương Vĩnh Kư trước 1975 (Trương Vĩnh Kư, Nhà Văn Hóa. Sđd, tr 46).

(67)      Với thiên kiến, „sử gia“ Nguyên Vũ VNC đă sai lầm gán cho „chính phủ Nam-kỳ tự trị của y sĩ Nguyễn Văn Thinh lấy tên Petrus Kư đặt cho trường học bản xứ lớn nhất SG“ từ năm 1946 (Sđd, chú 2, tr. 70). Trong thực tế lịch sử, trường khai giảng khoảng tháng 9 năm 1927 với tên Collège de Cochinchine, đến ngày 18-12-1927, thống đốc Blanchard de la Brosse ra quyết định đổi tên thành Petrus Trương Vĩnh Kư và năm sau khánh thành tượng đồng TVK bán thân và trường trở thành Lycée Petrus Trương Vĩnh Kư.

(68)      Đào Văn Hội. Danh Nhân Nước Nhà. Sài-G̣n : Tác giả tái bản, 1948, tr. 223.

 

Nguyễn Vy Khanh

5-2000

 

 

 


SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: