* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu

* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos 

* Biệt kích  -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV

* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí

* Khảo  Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo

* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý

* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery

* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hào Kiệt For Rent

  3. Trò Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

  4. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  5. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư

  13. Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  14. Phân Định Chính Tà

  15. Giáo Hội La  Mã:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

  16. Secret Army Secret War - CIA Giải mật

  17. Mật Ước Thành Đô: Trò Bịa Đặt

  18. Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

  19. Lãnh Hải Việt Nam ở Biển Đông

  20. Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

  21. Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

  22. Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

  23. Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

  24. Trò Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

  25. Hài Kịch Nhân Quyền

  26. CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

  27. Tội Ác PG Ấn Quang

  28. Âm mưu của Ấn Quang

  29. Vụ Đài VN Hải Ngoại

  30. Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

  31. Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

  32. Lịch Sử CTNCT

  33. Tượng Đài: Lưu Xú - Lưu Manh

  34. Về Tác Phẩm Vô Ðề

  35. Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh

  36. Bút Ký Tôi Phải Sống

  37. Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

  38. Đặc Công Đỏ Việt Thường

  39. Kháng Chiến Phở Bò

  40. Băng Ðảng Việt Tân

  41. Mặt Trợn Việt Tân

  42. Tù Binh và Hòa Bình

  43. Nước Mắt Trước Cơn Mưa

  44. 55 Ngày Chế Độ Sài Gòn Sụp Đổ

  45. Drug Smuggling in Vietnam War

  46. The Fall of South Vietnam

  47. Giờ Thứ 25

  48. Economic assistant to South VN 1954- 1975

  49. RAND History of Vietnam War era

  50. Chiến Sĩ Vô Danh 

 

 

LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019

-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019

 

THAM KHẢO

Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019

May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019

 

Beginner's Guide Web Design

Responsive Web Design

Professional Web Design

Learning Web Design 4

A List Apart Responsive Web Design

Responsive Web Design Ethan

The Book of CSS3

Mastering Resposive Web Design HTML 5

HTML Tutorial

HTML5 CSS3 Responsive Cookbook

Principle of Web Design

Real Life Responsive Wed Design

Learning Responsive Web Design

Learn HTML and CCS

Pro HTML 5 Accessi

Thiết Kế Web


http://www.expression-web-tutorials.com/

https://www.w3schools.com/howto/howto

_css_social_media_buttons.asp

https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q

https://www.codecademy.com/en/forum_

questions/532619b28c1ccc0cac002730

https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro

https://archive.org/details/responsivewebdesign

https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/

Computer Page

 

https://vimeo.com/

http://www.imdb.com/

https://www.crackle.com/

https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies

https://archive.org/details/feature_films

https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/

 

 

Kim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearningTrang Chủ Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

THÁNG 9-2019

 

UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV

PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT  NBCSPORT  ESPNSPORT - EPOCH

 

   

Từ trái qua phải: Bùi AnhTrinh, Nguyễn Đình Chiến, Chu Di Tuyển, Kim Âu Hà Văn Sơn, Trương Văn Hùng

 

 

Date: Th 7, 7 thg 9, 2019 vào lúc 18:33

Subject: Bạn hiền thân mến

To: Kim Au <kimau48@gmail.com>

Bạn hiền thân mến,

Khi mày cùng với tụi thằng Tâm, Hòa, Hùng, Luật… bỏ học, đăng ký “Biệt kích nhảy Bắc” thì tụi tao nghĩ rằng tụi mày muốn tìm cảm giác mạnh, hay cao hơn chút nữa là muốn làm người hùng… Nhưng chỉ vài tháng sau đó thì tin thằng Tâm bị mất tích ngoài Bắc, tin Hòa, Hùng tử trận và Luật mất tích khiến tụi tao không dám nghĩ bậy về tụi mày nữa và cũng biết tính mạng của mày chỉ còn tính từng ngày… Và quả nhiên chỉ vài tháng sau thì có tin mày đã bị bắt ngoài Bắc, tụi tao kể như mày và Tâm, Luật đã chết chứ làm sao có ngày về…

Cuối năm đó thì tụi thằng Tài, Hợi, Long… nhảy núi, do hậu quả của vụ tham gia biểu tình “biến động Miền Trung”.  Đến nông nỗi này thì tụi tao không muốn khen mà cũng chẳng dám chê tụi nó nhưng trong lòng cũng nghĩ là tụi nó cũng thuộc loại muốn làm anh hùng, nhưng là một thứ anh hùng đáng sợ hơn tụi mày.

Thế rồi qua năm sau là biến cố Mậu Thân. Lệnh tổng động viên được ban hành, những thằng nào không muốn làm người hùng cũng phải đi làm anh hùng. Rốt cục thì ba cái thứ anh hùng gặp nhau ngoài chiến địa. Tao nghĩ âu cũng là đẹp mặt tổ tiên…!!

Tao không biết năm Mậu Thân ở ngoài Bắc tụi mày suy nghĩ gì về tụi tao, nhưng chắc là mày đáng đời cho mấy thằng con nhà lành bắt đầu tập tành nếm mùi đánh nhau. Trong khi đó tụi tao bước chân vào lính mà chẳng hề dám nghĩ là mình đi làm người hùng.

Cuộc đời tao bắt đầu tiêu tùng từ cái trận Mậu Thân đáng nguyền rủa đó. Giờ đây tao phải viết lại đầu đuôi trận đó với con mắt nhìn của ba bên bốn phía để cho người đời thấy được cái số phận của đất nước Việt Nam cũng chẳng khác gì số kiếp của mày và tao. 

http://quanvan.net/tran-mau-than-1968/ 

BÙI ANH TRINH

 

TRẬN MẬU THÂN 1968,

 

 

 

(11), SỰ THẬT VỀ TRẬN KHE SANH

Địa thế trận địa Khe Sanh

 

Quốc Lộ 9 của Việt Nam chạy song song với sông Bến Hải, cách 20 cây số về phía Nam,  bắt đầu từ vùng bờ biển Quảng Trị lên đến biên giới Lào-Việt và chấm dứt tại bờ sông Cửu Long, biên giới Lào- Thái.  Căn cứ Khe Sanh nằm giữa Đường 9 và sông Bến Hải, gần biên giới Lào, cách 12 cây số.

 

Từ sau Hiệp định Geneve 1954 Quốc lộ 9 là đường huyết mạch tiếp tế cho các tiền đồn hoạt động tại vùng cực Bắc của biên giới Lào, Nam Việt Nam. Và căn cứ Khe Sanh là tiền đồn ngăn chận vùng địa đầu giới tuyến, kiểm soát trục lộ xâm nhập của quân Bắc Việt vào Nam bằng đường xe hơi của Lào bên kia biên giới.

 

Đầu năm 1967 tướng tư lệnh quân đội Mỹ cho mở rộng căn cứ Khe Sanh thành một cứ điểm hỏa lực có cả sân bay như là cứ điểm Điện Biên Phủ trước kia.  Đơn vị trấn giữ là Trung đoàn 26 Thủy quân lục chiến Mỹ cùng với 1 tiểu đoàn Cơ giới (thiết giáp) và 1 đại đội tình báo chiến lược.  Tổng số quân khoảng 3.500 người.

 

Trên Quốc lộ 9, cách biên giới Lào 2 cây số có đồn Làng Vei là một đồn Biệt Kích Mỹ (CIDG) do một toán cố vấn Mỹ 14 người và một toán cố vấn Việt Nam 13 người làm cán bộ chỉ huy.  Quân số Biệt kích trong đồn là 450 người, hầu hết sắc tộc Bru (Vân Kiều).

 

Tháng 10 năm 1967, nằm trong kế hoạch Tổng công kích Mậu Thân, Hà Nội điều tới quanh Khe Sanh 2 sư đoàn là Sư đoàn 325.C ( Sư đoàn 325 thứ ba ) và Sư đoàn 304.B ( Sư đoàn 304 thứ nhì ).  Trong khi đó có 2 sư đoàn trừ bị nằm tại phía Bắc vĩ tuyến 17.  Đó là sư đoàn 320 và Sư đoàn 324.B. ( Mỗi sư đoàn khoảng 10.000 người )

 

Năm 1967, ngày 6 tháng 12, Hà Nội quyết định thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch Khe Sanh (Mặt trận B.5).  Do Thiếu tướng Trần Quý Hai làm Tư lệnh và Thiếu tướng Lê Quang Đạo làm Chính ủy.  Lúc này quân CSVN tại khu vực Khe Sanh là 2 sư đoàn ( 20.000 người ).

 

Năm 1968, ngày 22-1, Tiểu đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ được không vận đến tăng cường cho Khe Sanh.  Ngày 27-1, tăng cường thêm Tiểu đoàn 37 Biệt động quân VNCH, nâng tổng số lực lượng phòng thủ căn cứ là 7 tiểu đoàn ( khoảng 5.000 lính Mỹ và 1.000 lính VN ).

Sở dĩ có sự tăng cường quân số vì Tướng Tư lệnh quân đội Mỹ tại VN là Westmoreland đọc được bài viết của Tướng Giáp đăng trên báo Quân đội Nhân dân;  trong đó Giáp hăm sẽ đánh lớn với quân Mỹ tại vùng Quảng Trị

Căn cứ Khe Sanh trong chiến dịch Tổng công kích Mậu Thân

Năm  1968, ngày 31-1, trận Tổng công kích Mậu Thân nổ ra trên toàn quốc, quân CSVN chiếm đóng thành phố Huế;  Hà Nội chỉ thị cho Mặt trận B.5 : ““Phải diệt căn cứ Làng Vây trong ngày 6 tháng 2 để phối hợp tác chiến chung với toàn Miền”.

Năm 1968, ngày 6-2, lúc 11 giờ 30 tối,  quân CSVN tấn công đồn Làng Vei, lực lượng tấn công gồm Trung đoàn 24 biệt lập, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 675 pháo binh, Tiểu đoàn 198 của Trung đoàn 203 thiết giáp (14 chiếc xe tăng PT.76), 2 tiểu đoàn công binh, 2 đại đội đặc công, 1 đại đội súng máy phòng không, 1 trung đội súng phun lửa.

 

Lúc chiến trận nổ ra, trong đồn Làng Vei có 450 lính Biệt kích Mỹ người sắc tộc Bru, 14 cố vấn HK do Đại úy Willoughby làm trưởng toán và 13 cố vấn VN do Trung úy Phạm Duy Quân làm trưởng toán.

 

Lúc 1 giờ sáng ngày 7-2, quân CSVN tràn ngập khu trung tâm đồn Làng Vei. Quân phòng thủ bị đánh bại bởi xe tăng PT.76.

 

Năm 1968, ngày 7-2, buổi sáng, Tướng Tư lệnh quân đội Mỹ tại VN là Westmoreland bay ra Đà Nẵng để theo dõi trận Làng Vei.  Trong đêm ông đã bị dựng dậy 2 lần vì Chỉ huy trưởng Liên đoàn 5 Lực lượng đặc biệt HK cho biết là quân TQLC/ Mỹ tại căn cứ Khe Sanh không chịu tiếp viện cho đồn Làng Vei theo như kế hoạch phối hợp hoạt động đã ấn định trước giữa LLĐB/Mỹ và TQLC/Mỹ.

Tướng Westmoreland đích thân ra lệnh giải cứu đồn Làng Vei bằng trực thăng, nhưng chỉ cứu được 14 trong số 24 cán bộ LLĐB/HK và VN, 10 người còn lại đã bị tử thương.  Còn lính Biệt kích Bru thì họ tự gải cứu bằng cách chạy về buôn làng dẫn vợ, ôm con chạy xuống Khe Sanh.

Cũng trong buổi sáng ngày 7-2, các tướng lãnh Mỹ tại Đà Nẵng đã báo cáo cho Westmoreland biết rằng quân CSVN hiện diện tại vùng giới tuyến là 7 sư đoàn;   gồm có 2 sư đoàn bao vây căn cứ khe Sanh, 2 Sư đoàn bố trí tại vùng bờ biển phía nam sông Bến Hải, 1 sư đoàn vùng thượng nguồn phía nam sông Bến Hải, 1 sư đoàn bố trí tại phía Bắc Đà Nẵng – Nam Thừa Thiên, và 1 sư đoàn đang đánh vào Thừa Thiên.

*( Tuy nhiên sự thực chỉ có  sư đoàn 325 và sư đoàn 304 tại Khe Sanh và 2 Trung đoàn đang đánh Thừa Thiên ).

* Chú giải :  Sai lầm của Tướng Westmoreland

Tướng Wesrtmoreland bị đè nặng với con số 7 sư đoàn xung quanh Huế khiến cho ông phải xin thêm quân.  Không phải do lỗi các ông tướng Mỹ báo cáo láo mà thực sự là cơ quan tình báo của quân đội Mỹ quá tồi, họ quá tin tưởng vào CIA nhưng CIA chỉ chuyên môn sưu tầm tin bằng cách mua tin.

*( Nhưng thói đời là hễ có người mua tin thì sẽ có “con buôn tin”. Mà hễ là con buôn thì luôn luôn xảy ra tình trạng “hàng dõm”.   Cái tai hại là người mua tin không thể nào kiểm chứng được là hàng thật hay hàng giả.  Điều này đã được ông Trùm CIA Frank Snepp nêu ra trong tác phẩm Decent  Interval.  Mãi tới sau 1975 thì CIA mới phát hiện ra điều này.  Trong khi người viết bài này, BAT, cũng từng là một “con buôn” tin cho CIA trước 1975 cho nên biết rất rõ ).

Trước đây Westmoreland mạnh dạn thành lập cứ điểm Khe Sanh bởi vì ông cho rằng nếu quân CSVN tấn công Khe Sanh bằng các sư đoàn bộ binh và pháo binh như tại Điện Biên Phủ thì ông sẽ dùng B.,52 thả bom rải thảm xung quanh căn cứ, giống như kế hoạch của Ngũ Giác Đài dùng để giải vây cho Điện Biên Phủ năm 1954.

Tuy nhiên cho tới khi quân CSVN tổng tấn công khắp Miền Nam thì báo chí thi nhau cảnh báo về một trận Điện Biên Phủ thứ hai tại Khe Sanh.  Những lời cảnh báo được lập đi lập lại với nhiều nhân vật khác nhau khiến cho Westmoreland cũng bắt đầu lo lắng.  Trong khi đó Washington liên tục nhắc chừng ông đừng để bị gài bẩy như Điện Biên Phủ và khuyên nên rời bỏ Khe Sanh.

Đến ngày 22-3-1968, một trong những nhà bình luận sử học nổi tiếng của Mỹ là Tiến sĩ Arthur Schlesinger, bình luận gia của tờ Post, đã viết về trận Khe Sanh đang diễn ra:

“Tổng thống Johnson muốn ví mình với Lincoln…nhưng ông không có lòng can đảm loại bỏ những ông tướng nào không đủ khả năng cầm quân để chiến thắng quân địch…Nếu là Lincoln thì ông ta không để Westmoreland ngồi lâu không quá 3 tháng.” ( Hồi ký của Wsetmoreland, trang 483.  Schlesinger được báo chí quốc tế gọi là “nhà thông thái” ).

Kế hoạch bom rải thảm

Năm 1968, ngày 9-2, một trận đụng độ xảy ra giữa 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 1/9 TQLC/Mỹ và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 101 D CSVN.  Kết quả trân đụng độ phía HK có 26 chết, 27 bị thương;  phía CSVN có 51 chết, 78 bị thương.

Ngày 10-2, hai trung đoàn 66 và 9 thuộc Sư đoàn 304 B; và hai trung đoàn 101 D, 95 C thuộc Sư đoàn 325 C của CSVN áp sát xung quanh căn cứ khe Sanh, chốt giữ 13 cao điểm để hình thành trận địa tấn công.

Ngày 11-2,  hai phi cơ  C.123 của Mỹ bị trúng đạn pháo kích tại phi trường Khe Sanh, một chiếc bị nổ tung, một chiếc bay về được tới Đà Nẵng.  Kể từ lần này máy bay tiếp tế cho Khe Sanh không đáp hẵn xuống phi trường mà bay sát mặt phi đạo rồi bấm dù cho dù lôi các kiện hàng ra cửa bụng sau phi cơ,  rơi xuống mặt phi đạo.

 

Ngày 23-2, liên tục trong 8 tiếng đồng hồ, quân CSVN pháo kích 1.300 quả đạn vào căn cứ Khe Sanh.  Một quả đạn rơi trúng kho đạn của căn cứ, kho đạn bị nổ khiến 10 binh sĩ HK bị chết và 51 bị thương.

Cũng bắt đầu từ ngày này, Tướng Westmoreland cho thi hành kế hoạch thả bom rải thảm dọn sạch chung quanh căn cứ Khe Sanh :

Bắt đầu từ giữa tháng 2 cho tới đầu tháng 4, mỗi ngày có 300 phi xuất rải bom, trung bình cứ 5 phút có 1 phi xuất, tổng cộng là 35.000 tấn bom (!).

Cũng trong thời gian trên, có 2.602 phi vụ B.52, tổng cộng 75.000 tấn bom.

Cũng trong thời gian trên, có trên 100.000 quả đạn pháo 175 ly bắn xung quanh Khe Sanh, trung bình mỗi ngày bắn 1.500 quả.

Với lượng bom đạn như vậy, chung quanh Khe Sanh trong vòng bán kính 10 cây số, tất cả đều biến thành bùn.  Hai sư đoàn quân CSVN ( 20.000 người ) đang bao vây Khe Sanh cùng chung số phận với cây cối và đất đá.

Ngày 29-2, lúc 9 giờ 30 tối, một tiểu đoàn CSVN tại phía Đông căn cứ Khe Sanh, là nơi chưa bị bom rải thảm, đã tấn công tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 37 BĐQ/VNCH nhưng bị đẩy lùi.  Sáng hôm sau quân VNCH lục soát đếm được 70 xác quân CSVN.

 

BÙI ANH TRINH

 

 

Bản đồ từ Quảng trị đi Khe Sanh

 

(12) PHÂN TÍCH CHIẾN THUẬT BOM RẢI THẢM TRONG TRẬN KHE SANH

“Điện Biên Phủ thứ hai” thất bại

 

Năm 1968, giữa tháng 3.  Hồi ký của Tướng Westmoreland : “Đến giữa tháng Ba có dấu hiệu cho thấy địch bỏ Khe Sanh;  mưu toan muốn tạo Khe Sanh thành Điện Biên Phủ thứ hai đã thất bại.  Quân Bắc Việt bắt đầu rút về bên kia biên giới Lào”…

 “ Từ Khe Sanh các đơn vị của Sư đoàn Không kỵ, quân đội VNCH, TQLC Hoa Kỳ bủa ra mọi hướng để thanh sát kết quả cuộc không tập và yểm trợ pháo binh trong suốt mấy tháng trước…ban tham mưu của tôi ước đoán quân Bắc Việt bị thiệt ít nhất từ 10.000 đến 15.000 trong nổ lực biến Khe Sanh thành Điện Biên Phủ nhưng bất thành. Hoa Kỳ bị thiệt 205 binh sĩ” (Bản dịch của Duy Nguyên trang 500).

Chú giải : Bom rải thảm

Trong khi đó tài liệu “Quân đội Nhân dân Việt Nam” của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân CSVN ghi nhận lực lượng CSVN tham dự trận Khe Sanh là :

“Các sư đoàn bộ binh 304, 320, 324B và 325 (từ tháng 5, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 vào thay cho các sư đoàn 324B và 325 đi chiến trường khác), Trung đoàn 270 (Vĩnh Linh) và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, 1 đoàn và 5 đại đội đặc công, 5 trung đoàn pháo binh (16, 45, 84 và 204), 3 trung đoàn pháo phòng không, 1 tiểu đoàn tăng – thiết giáp, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn hoá học, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội súng phun lửa, 6 tiểu đoàn vận tải và lực lượng vũ trang các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá”.

Lực lượng này ( khoảng 70.000 người ) hơn hẵn so với lực lượng CSVN trong trận Điện Biên Phủ.  Trong khi quân phòng thủ tại Điện Biên Phủ là 12.000, còn quân phòng thủ tại Khe Sanh là 6.000.  Và kết quả cuối cùng là căn cứ Khe Sanh vẫn vững vàng suốt  một tháng rưỡi chiến đấu mà chỉ thiệt hại 205 người.

Tài liệu của quân đội CSVN ghi rằng Sư đoàn 325 (tức là 325C) và Sư đoàn 324B đi chiến trường khác nhưng thực ra là “đi về bên kia thế giới”.  Sư đoàn 320 nhập trận sau, trấn giữ chận viện trên Quốc lộ 9 nên thoát khỏi bị B.52 chôn vùi.  Sư đoàn 324B cũng nhập trận sau nhưng phải vào thay thế Sư đoàn 304B nên chịu chung số phận với 325C.  Còn 304B bị thiệt hại nặng ngay mấy ngày đầu nên được kéo ra ngoài chốt giữ các yếu điểm trên Quốc lộ 9, khu vực biên giới, nhờ vậy mà không đến nỗi bị xóa sổ.

 

Người đời đọc tài liệu quân sử của chiến tranh Việt Nam nghe nói nhiều về bom rải thảm B.52 nhưng ít ai được chứng kiến tận mắt hay được xem phim ảnh về kết quả sau một cuộc thả bom của B.52.  Chỉ có các toán thám sát của Lực lượng Đặc biệt VNCH và Mỹ mới lường được sức mạnh của bom B.52; *( Người viết bài này, BAT, đã từng nhảy toán kiểm chứng kết quả các phi vụ B.52 nên biết rõ ).

Mỗi phi tuần B52 thường là 3 chiếc bay theo hàng ngang, mỗi chiếc rải bom theo hàng, bề ngang khoảng 300 m và bề dài là 2.000 mét.  Trong diện tích 300 mét ngang và 2.000 mét dọc có 84 trái bom 500 cân Anh và 24 trái bom 725 cân Anh.  Mỗi trái bom 750 cân tạo ra một hố bom đường kính 15 mét, sâu từ 3 tới 5 m.  Mỗi trái bom 500 cân tạo ra hố bom nhỏ  đường kính 10m.  Do đó một khi có một phi tuần B.52 ném bom thì trong diện tích bề ngang 1 cây số, bề dài 2 cây số không có một sinh vật nào sống sót do bị sức ép của bom chứ chưa nói đến bị miểng.

Còn cây cối thì bị chặt đứt nằm chồng chéo ngổn ngang 3, 4 lớp không thể nào đi qua được.  Nếu ngồi  trên máy bay quan sát L.19 hay máy bay trực thăng nhìn xuống thì cũng không thể nào nhìn thấy được những gì dưới đống cây.  Cứ như vậy mà quân CSVN bị chôn vùi hằng trung đoàn, sư đoàn cùng một lúc mà không ai phát hiện ra được;  nghĩa là sau một trận B.52 thì nguyên một khu vực đóng quân trở thành một nấm mộ khổng lồ. Vậy mà Westmoreland đã cho thả tới 2.602 phi vụ, tức là 867 nấm mộ khổng lồ bao quanh căn cứ Khe Sanh, mỗi nấm mộ bề dài 2 cây số và bề ngang 1 cây số.

Tuy nhiên con số 2.602 phi vụ B.52 với 75.000 tấn bom, và mỗi ngày 300 phi xuất phản lực với 35.000 tấn bom dành cho 15.000 xác địch quân là quá phí, phí tới độ không chấp nhận nổi. Tính ra mỗi xác chết CSVN phải lãnh tới hơn 7 tấn bom.  Ngoài ra còn có 100.000 trái đạn  đại bác175 ly, tính ra mỗi xác chết CSVN cõng thêm 7 trái đạn 175 ly nữa ( Khối thuốc nổ trong 1 trái đạn 175 ly đủ sức nhấc một chiến xe tăng 27 tấn lên khỏi mặt đất ).

 

Hành quân giải tỏa Khe Sanh

 

Năm 1968, ngày 22-3, nhà sử học nổi tiếng của Mỹ là Schlesinger viết trên tờ Post về việc quân CSVN bao vây Khe Sanh hơn 1 tháng qua : “Các nhà lãnh đạo còn chút lương tâm và thông minh phải tìm cách di tản ngay tức khắc số binh sĩ bị kẹt trong vòng vây”….!!    Trong khi đó thực tế tại Khe Sanh cho thấy bài báo của Schlesinger vô cùng khôi hài.

Trước sự nôn nóng của dư luận báo chí Mỹ;  Tướng Westmoreland, Tư lệnh quân đội Mỹ tại VN, quyết định mở một cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh sau khi ông biết chắc là toàn bộ quân CSBV đã rút về bên kia biên giới.  Tuy nhiên để cho chắc ăn ông đã điều động tới 2 sư đoàn làm nỗ lực chính và 2 sư đoàn làm nỗ lực phụ ( Tổng cộng khoảng 40.000 người ).  Nỗ lực chính gồm Sư đoàn 1 Kỵ binh không vận Mỹ.  Trung đoàn 6 và Trung đoàn 1 TQLC/Mỹ.  Lữ đoàn Nhảy dù VNCH.  Nỗ lực phụ gồm Sư đoàn 3/TQLC/Mỹ và Sư đoàn 1/BB/VNCH.

Ngày 1-4,  Nổ lực chính bắt đầu triển khai hành quân với 300 trực thăng và 148 khẩu đại bác.

Ngày 4-4, Lữ đoàn Nhảy dù VNCH được thả xuống khu vực phía Tây Khe Sanh, tức là vùng biên giới Lào Việt để chận quân CSVN từ Khe Sanh rút về biên giới, qua Lào.  Nhưng cũng là để bảo vệ an toàn cho các cánh quân Mỹ đang lục soát xung quanh Khe Sanh, ngăn chận quân CSBV có thể từ bên kia biên giới tràn sang với xe tăng và đại pháo.

Cũng trong ngày này Tiểu đoàn 1/5 Khinh kỵ Mỹ chạm súng với một tiểu đoàn CSVN đang cố thủ tại một đồn Pháp cũ trên khu vực Quốc lộ 9.  Quân Mỹ bị thiệt hại nặng, trung tá Tiểu đoàn trưởng bị tử thương.  Tiểu đoàn 2/5 Không vận HK được đưa vào tiếp ứng nhưng quân CSVN đã rút đi.( Một tiểu đoàn khinh kỵ Mỹ khoảng 550 người, một tiểu đoàn TQLC Mỹ khoảng 650 người ).

Cùng ngày, Tiểu đoàn 1/9/TQLC/HK từ căn cứ Khe Sanh mở cuộc hành quân chiếm lại đồi 471, đếm được 148 xác CSVN bỏ lại chiến trường.

Ngày 6-4, Tiểu đoàn 1/9/TQLC/HK lục soát tái chiếm các đồi 552 và 862 nhưng không gặp sự kháng cự.

Cùng ngày, Tiểu đoàn 2/26/TQLC/HK từ căn cứ khe Sanh bung ra lục soát tái chiếm đồi 558 nhưng gặp sự chống cự mãnh liệt của một đơn vị cấp đại đội ( khoảng 100 người ), phải 3 ngày sau quân Mỹ mới chiếm được đồi sau khi ngọn đồi đã biến thành bùn.  *( Có lẽ đại đội này sống sót giữa các trận bom nhưng mất liên lạc với Sư đoàn của họ.  Vì còn lương thực cho nên họ tiếp tục nằm lại tại đó để chờ lệnh cấp trên ).

Cũng trong ngày này, Lữ doàn Nhảy dù VNCH dàn đội hình hàng ngang từ biên giới Lào tiến về căn cứ Khe Sanh.  Khi đến gần căn cứ thì chạm địch.  Quân CSVN kêu pháo binh bắn tràn lên trận địa tiêu diệt cả hai bên khiến cho Đại đội 33 Nhảy dù tổn thất nặng. *( Đây là đơn vị CSVN sống sót nhờ bám sát Căn cứ Khe Sanh nên không bị bom B.52 ).

Ngày 8-4, cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh chấm dứt, tổng kết quân Hoa Kỳ có 92 chết, quân VNCH có 34 chết, quân CSVN bỏ lại tại trận 1.304 xác và 21 bị bắt.

Chú giải : Đánh trận theo áp lực của báo chí

Trước khi quyết định thiết lập Khe Sanh như là một “cứ điểm Bộ binh- Không quân” thì tướng Westmoreland đã tham khảo rất kỹ lưỡng với các nhà quân sự học, nhất là các tướng lãnh Pháp.  Các tướng Pháp từng tham chiến tại Việt Nam đều khuyên nên giữ Khe Sanh như một tiền đồn trấn ải cho vùng địa đầu giới tuyến.

Trong khi đó các ông tướng Ngũ Giác Đài lại sợ rơi vào một trận Điện Biên Phủ thứ hai.  Hồi ký của Westmoreland ghi lại : “Trong khi địch dồn quân tại Khe Sanh, ngày nào tôi cũng nhận được thư từ Hoa Thịnh Đốn gửi sang nhắc chừng tôi đừng để bị gài bẫy như Điện Biên Phủ và khuyên tôi nên bỏ Khe Sanh”.

Áp lực của các nhà quân sự tài tử, tức là các ông giáo sư dạy sử hay các nhà bình luận báo chí đã khiến cho Tướng Westmoreland có những cân nhắc quá đáng.  Ông đã mời một vị Đại tá quân sử của Ngũ Giác Đài phân tích chiến thuật chiến lược của Khe Sanh so với Điện Biên Phủ; nhưng đáng buồn là vị Đại tá này khuyên không nên giữ Khe Sanh.

Tướng Westmoreland sử dụng tới 7 tấn bom và 7 viên đạn 175 ly cho mỗi xác chết địch quân chứng tỏ ông tướng và ban tham mưu của ông quá tệ.  Nhưng vì tự cao và tự ái cho nên Westmoreland chớ hề tham khảo ý kiến của các tướng lãnh VNCH, không phải họ tài giỏi hơn các ông tướng Mỹ nhưng họ rành CSVN hơn.

*( Trung tá Ngô Quang Trưởng có thể ngồi một chỗ mà “đánh hơi” được quân CSVN giấu súng ở chỗ nào.  Hoặc ông ta đứng hút thuốc, ngắm giòng sông Ea Drang mà “tiên tri” ngày mai quân của ông đụng địch tại đâu, lúc mấy giờ.  Hoặc Trung tướng Trần Ngọc Tám ngồi một chỗ mà tiên tri quân CSVN sẽ đánh lớn trong tết Mậu Thân và họ sẽ thua ).

Mặc dầu quân CSVN chết chất đống dưới những nấm mộ khổng lồ của B.52 nhưng Lê Duẩn không màng tới những chuyện đó bởi vì con trai của ông ta đang du học tại Pháp hoặc đang nằm trị bệnh tâm thần tại Hà Nội, ông ta chỉ biết “tấn công, tấn công, đại tấn công…Và chiến thắng, chiến thắng, đại chiến thắng…”.

13) MỸ CHOÁNG VÁNG

Năm 1968, ngày 31-1, mùng một tết.  Lúc 3 giờ sáng, đội Biệt động số 11 thuộc Đoàn F.100 CSVN gồm 17 người dùng bộc phá đánh vỡ một mảng tường rào Tòa đại sứ Mỹ và tràn vào trong khuôn viên, bắn chết 4 Quân cảnh rồi chia nhau tấn công vào nhà riêng của Đại sứ, tòa nhà làm việc của Tòa Đại sứ và các nhà khác;  nhưng họ bị lính Thủy quân lục chiến từ trong các tòa nhà bắn ra nên lần lượt bị tiêu diệt; 16 chết, Đội trưởng bị bắt sống.

Lúc 8 giờ30 sáng, trong khuôn viên tòa đại sứ Mỹ đang còn ngún khói chiến trận, Tướng Wesmoreland họp báo trấn an dư luận báo chí Mỹ và Quốc tế, ông cho rằng với tầm cỡ của một cuộc chiến rộng lớn như thế này, quân CSVN chắc chắn sẽ chuốc lấy thất bại.

Tuy nhiên báo chí đã tung tin ngược với lời tuyên bố của Westmoreland : “Dường như người ta nói láo bằng một sự bênh vực mỹ miều và một chiến thắng ngoạn mục mà Westmoreland cùng nhiều người khác muốn tô điểm”;  “Westmoreland đang đứng trên đống gạch vụn mà dám huênh hoang rằng mọi thứ sẽ tốt đẹp…” ( Hồi ký của Westmoreland, bản dịch của Duy Nguyên trang 470 ).

Một tuần sau khi trận tổng tấn công mở màn

Năm 1968, một tuần sau trận tổng tấn công, Tổng thống Thiệu xuất hiện trên đài truyền hình Mỹ qua chương trình “Face The Nation”.

Tài liệu của Đại sứ Bunker ghi nhận : “Ellsworth đã xem chương trình ấy qua đài truyền hình Quân đội Hoa kỳ : Ngoại trừ Bob Shaplan còn giữ được phong cách lịch sự, những người khác đều có thái độ hằn học khi chất vấn ông ta.

 

Thế nhưng bằng những dẫn chứng xác đáng, bằng Anh ngữ, Thiệu đã trả lời trôi chảy mọi vấn đề.  Ông ta luôn luôn chủ động, trầm tỉnh và lịch sự ( Stephen Young, Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 190 ).

Ông Thiệu trầm tỉnh bởi vì ông ta nắm rõ tình hình và ông ta biết làm thế nào để đối phó với tình hình.  So với cuộc trả lời phỏng vấn trước đó của Tướng Westmoreland thì rõ ràng Tướng Thiệu bản lĩnh hơn.  Ông đã thuyết phục được giới báo chí bằng những lập luận có dẫn chứng và chứng minh.  Trong khi đó những câu trả lời của Westmoreland chỉ càng làm cho các phóng viên nghi ngờ thêm, cuối cùng thì họ kết luận rằng ông tướng nói láo.

Năm 1968, ngày 8-2, Thượng nghị sĩ Robert Kennedy mở màn cuộc tranh cử chức tổng thống Hoa Kỳ với lời tuyên bố : “Đã đến lúc Hoa Kỳ phải đối diện với sự thật rằng một cuộc chiến thắng bằng quân sự chẳng bao giờ tìm thấy được và sẽ chẳng bao giờ xảy ra” .  Cuối cùng ông kêu gọi thỏa thuận cho CSVN được tham gia chính quyền Miền Nam Việt Nam.  Đây là một đề nghị tưởng như là mưu tìm hòa bình nhưng thực chất là “bỏ rơi Nam Việt Nam”.

Năm 1968, ngày 11-2, bình luận gia của đài truyền hình CBS Mỹ là Walter Cronkite đến Việt Nam để quan sát tình hình sau trận Mậu Thân.  Khi trở lại Mỹ ông  phát biểu trên đài truyền hình rằng “Hoa kỳ đã lún sâu vào chỗ không lối thoát” và “Đó là hậu quả của một cuộc chiến bi thảm… Tôi sẽ làm mọi thứ có thể làm được để chấm dứt cuộc chiến”.

*( 39 năm sau Cronkite trở lại Việt Nam và được Tướng Võ Nguyên Giáp cho biết là CSVN đã thua trắng tay trong trận Mậu Thân ).

Năm 1968, ngày 13-2, qua một cuộc điện đàm, Tướng Westmoreland yêu cầu Tướng Tổng tham mưu trưởng liên quân Mỹ là Earle Wheeler tăng quân khẩn cấp cho chiến trường Nam Việt Nam.  Wheeler đến Sài Gòn để lượng giá yêu cầu tăng quân của Westmoreland, sau đó ông trở về Mỹ và tỏ ra bi quan :

“Wheeler cho rằng trong đợt tấn công đầu tiên, cộng quân gần như đã thành công trong việc chiếm giữ hằng chục thành phố, thị trấn, điều đó có nghĩa là, hy vọng một cuộc chiến thắng bằng quân sự của phe đồng minh còn trong mong manh, xa vời” (Stephen Young, Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 204 ). Tuy nhiên sau đó ông cũng chấp thuận đề nghị tăng 206.000 quân của Tướng Westmoreland.

*Chú giải : Theo thông tin tình báo từ CIA, Phòng 2 Bộ Tổng tham mưu QL/VNCH ghi nhận trước tết quân CSVN được ước tính khoảng 323.500 người (Tài liệu của Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng phòng tình báo Bộ TTM/ VNCH ).  Trong khi sự thực toàn bộ lực lượng của CSVN trước trận Mậu thân chỉ có 85.000 quân…(!!).  So sánh con số ước tính 323.500 với con số thực tế 85.000 cho thấy cơ quan tình báo CIA siêu đẳng tới mức nào.

Và theo tài liệu báo cáo của Bộ Tổng tham mưu QLVNCH do Nha quân sử phổ biến thì trong tháng 2 năm 1968, nghĩa là sau 30 ngày nổ ra trận chiến, quân CSVN bỏ xác tại các chiến trường là 41.181 người;  bị bắt làm tù binh là 7.391 người.  Thống kê này không tính số xác được mang đi hoặc bị thương.  Và trong tháng 3 năm 1968 thì quân CSVN bỏ xác tại chỗ là 17.192; bị bắt làm tù binh 2.070 người.  Tổng cộng nội trong 2 tháng đã có 60.000 người chết và 9.400 người bị bắt.

Số còn lại đã bỏ ngũ trở về quê sinh sống, chỉ riêng tại Quân khu 9 (Miền Tây) con số bỏ ngũ là 12 ngàn ( Quân Khu 9, 30 Năm Kháng Chiến;  Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ).

Nghĩa là lực lượng quân đội của CSVN đã bị tiêu diệt hoàn toàn.  Thế nhưng theo như thông tin tình báo mà Bộ TTM/VNCH nhận được từ CIA thì sau tháng 2 năm 1968 quân CSVN còn tới 283.500 người.  Gồm 97 tiểu đoàn và 18 đại đội biệt lập.  Chia ra Vùng 1 chiến thuật 35 tiểu đoàn và 18 đại đội biệt lập.  Vùng 2 chiến thuật 28 tiểu đoàn.  Vùng 3 chiến thuật 15 tiểu đoàn. Và vùng 4 chiến thuật 19 tiểu đoàn ( Tài liệu của Trung tá Phạm Văn Sơn, Giám đốc Nha Quân sử/VNCH ).

Chính con số ước tính này của CIA đã khiến cho Tướng Westmoreland quyết định xin tăng thêm 206.000 quân.  Chuyện xin tăng quân làm cho ông mất uy tín đối với dân chúng Mỹ và cả với Tổng thống Johnson.

Nhận xét bi đát của CIA

Năm 1968, ngày 26-2, “Cơ quan tình báo CIA tại Hoa Thịnh Đốn đã đệ nạp chính phủ một bản  nghiên cứu tổng hợp nhằm tái lập chính sách tại Miền Nam Việt Nam từ A đến Z.  Bản báo cáo này đưa ra nhận định rằng chính quyền Miền Nam Việt Nam quá yếu kém, vì vậy trong tương lai không thể nào đủ khả năng để đương đầu với Cọng sản Hà Nội.

 

Một bản phúc trình thứ ba, cũng tương tự như thế, CIA cho rằng, trong vài tháng sắp tới, tình hình nguy khốn sẽ xảy ra cả về phía quân đội lẫn chính quyền Miền Nam Việt Nam, vô phương cứu vãn ( Stephen Young, Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 185 ).

 

Năm 1968, ngày 29-2, một tháng sau trận Mậu Thân.  Tân Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clipfford thay thế cựu bộ trưởng MacNamara.  Ngày 1-3-1968, Clark Clifford nhận được một bản phúc trình của các chuyên gia quân sự tại Ngũ Giác Đài : “Phải thay đổi toàn bộ, nếu không thì không thể thực hiện (kịp) kế hoạch chấm dứt chiến tranh”. (  Tức là kế hoạch đầu hàng trong danh dự:  rút quân và điều đình chung tiền lấy lại tù binh ).

 

*Chú giải :  Theo hồi ký của MacNamara thì ông đã xin với Tổng thống Johnson được thôi chức từ đầu tháng 11 năm 1967 và Tổng thống đã chấp thuận.  Nhưng theo sách “Vietnam: A History” của Stanley Karnow thì tác giả quả quyết rằng Tổng thống Johnson yêu cầu MacNamara từ chức.

 

Nhưng sau này tài liệu mật của Nhà Trắng được giải mã cho thấy Tổng thống Johnson phát hiện McNamara đi đêm với Robert Kennedy, ngầm ủng hộ Kennedy tranh cử với Johnson trong nhiệm kỳ tới cho nên ông thông báo chia tay với McNamara, nhận được thông báo của Johnson, McNamara nộp đơn từ chức.  Vô tình đơn từ chức của ông vừa nộp thì xảy ra trận Mậu Thân cho nên Nhà Trắng đợi 1 tháng sau tết Mậu Thân mới loan báo.

 

Năm 1968, cuối tháng 2. Tài liệu của Đại sứ Bunker do Stephen Young phổ biến : “Thiệu ước tính, cộng quân sẽ không trở lại cuộc chiến du kích với những đơn vị lẻ tẻ tại nông thôn. 

 

Thiệu tiên liệu, Hà Nội sẽ ngồi vào bàn hội nghị vào cuối năm 1968 và đầu năm 1969.  Điều Thiệu tiên đoán đã xảy ra đúng” ( Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 199 )… “Thiệu sau đó đã chỉ thị cho các đơn vị quân đội Miền Nam Việt Nam quay trở lại bảo vệ nông thôn” (trang 211).

 

Năm 1968, giữa tháng 3, văn bản xin tăng thêm quân Hoa Kỳ của Tướng Westmoreland bị một nhân viên dân sự làm việc trong Bộ Quốc phòng tiết lộ cho tờ báo New York Time ( Sau này được xuất bản với tên “The Pentagon Papers” ).  Dư luận Mỹ nổi lên công kích Westmoreland dữ dội, cho rằng ông ta đã lừa bịp khi đứng trong khuôn viên tòa đại sứ tuyên bố rằng CSVN sẽ thất bại khi mở cuộc tổng công kích.

 

Tin tức bay về Hà Nội, Lê Duẩn quyết định xua 2 sư đoàn Bắc Việt (16.000 quân) tấn công căn cứ Khe Sanh đang được 5.000 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và 1.000 Biệt động quân VNCH trấn giữ. Washington rúng động, phóng viên báo chí quốc tế đổ xuống sân bay Huế để săn tin về một trận Điện Biên Phủ thứ hai.

 

Năm 1968, ngày 23-3, Tướng Westmoreland được thông báo chuẩn bị rời chức vụ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam để về Washington nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Lục quân.

 

Năm 1968, ngày 31-3, Tổng thống Johnson đọc diễn văn loan báo giảm ném bom Bắc Việt, kêu gọi hòa đàm;  và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ 2.

 

(14) CSVN THUA TRẮNG TAY

Từ 1964 Lê Duẩn phấn khởi với tin chiến thắng của du kích Miền Nam như chiến dịch Đồng Khởi tại Bến Tre, trận Tua Hai ở Tây Ninh, trận Ấp Bắc, trận Bình Giả, trận Ba Gia.  Tuy nhiên với sự hiểu biết của một nhà hoạt động cách mạng dày dạn kinh nghiệm, ông không tin là dân quân du kích Miền Nam có thể thắng được “Mỹ ngụy”.

 

Nhưng  Lê Duẩn không còn gnhi ngờ gì nữa khi ông nhận được bức thư cầu hòa của Tổng thống Johnson ngày 8-2-1967.  Chính bức thư này là một bằng chứng xác thực nhất về hiệu quả chiến đấu của quân du kích CSVN.  Ông đã đích thân cầm lá thư này đi xin viện trợ vũ khí của Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.  Cả hai nơi nhanh chóng thỏa mãn yêu cầu của ông.

 

Lê Duẩn thấy ngay là Mỹ đã thua mặc dầu Liên Xô và Trung Quốc chưa viện trợ vũ khí tối tân cho CSVN.  Chỉ có súng AK không thôi mà họ đã buộc Tổng thống Mỹ phải xuống nước cầu hòa, vậy thì một khi có đạn pháo và vũ khí chống tăng, chống máy bay thì chắc chắn quân du kích Miền Nam sẽ thắng.

 

Niềm tin chiến thắng mạnh đến nổi Lê Duẩn đích thân điều binh khiển tướng, gạt tay bợm đời Võ Nguyên Giáp qua một bên.  Đối với Lê Duẩn thì VNG thực sự chẳng có tài cán gì nhưng ông quên một điều là ông ta và cả tướng Tổng tham mưu trưởng là Văn Tiến Dũng chưa qua một trường lớp quân sự nào cho nên các ông không đủ kiến thức để thẩm định hay hoạch định chiến tranh.

 

Chiến tranh du kích chỉ cần kinh nghiệm trên địa bàn hoạt động của một địa phương nào đó.  Nhưng chiến tranh trên toàn quốc; chống lại máy bay, pháo binh, xe tăng và các đại đơn vị Bộ binh thì không tài nào áp dụng kinh nghiệm hoạt động du kích.  Thế mà Lê Duẩn đã quyết định đưa du kích quân ra chọi với đại đơn vị Bộ binh và đại bác, máy bay, xe tăng vào ban ngày thì chẳng khác nào xua chó đi bắt voi :

 

Thứ nhất là quân số quá ít so với quân số đối phương.  Thứ hai vũ khí quá thô sơ so với vũ khí của đối phương.  Thứ ba hệ thống vận chuyển và liên lạc không bì một góc của đối phương.  Thứ tư hệ thống tình báo chiến thuật của các cơ sở nằm vùng là con số không bởi vì những người cho tin chẳng hiểu gì về hoạt động quân sự.  Thứ năm địa bàn đánh nhau là thành phố, quân CSVN tránh cho khỏi bị đi lạc là may lắm rồi.  Cuối cùng là dân chúng thấy quân CSVN ở đâu thì họ đều chỉ cho quân đội VNCH.

 

Ngoại trừ Huế, trong vòng 1 tuần lễ quân đội VNCH đã dẹp xong toàn bộ lực lượng vũ trang của CSVN.  Điều này chứng minh được rằng thực lực quân CSVN chẳng có bao nhiêu so với các con số đang nằm trên các bàn giấy tại Ngũ Giác Đài.

 

Cái giá phải trả do sai lầm của chúng ta :

 

Hồi ký của Ủy viên Bộ chính trị Mai Chí Thọ đã dành một chương nói về hậu quả của trận Mậu Thân với tiêu đề: “Cái giá phải trả do sai lầm chủ quan của chúng ta sau trận Mậu Thân 1968”.  Trong đó ông viết :

 

“Sau Mậu Thân, địch phản kích dữ dội khiến lực lượng ta bị tiêu hao nhiều.  Lực lượng võ trang mà ta đã bí mật mai phục ở Miền Đông Nam bộ sau Hiệp định Geneve ( Cũng là lực lượng chủ lực đánh trận Tua Hai ), trong chiến tranh chống Mỹ, phát triển thành Trung đoàn chủ lực của Miền Đông Nam bộ, đã bị tiêu hao gần hết trong và sau Mậu Thân.  Có thể nói đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của Nam bộ trong kháng chiến chống Mỹ…”.

 

Đoạn này cho thấy thực tế trước Mậu Thân quân CSVN tại chiến trường B.2 (Miền Đông Nam Bộ) chỉ có 2 Trung đoàn ( Khoảng 4.000 người ).  Hai trung đoàn này xuất thân từ 225 tay súng đánh trân Tua Hai vào năm 1960 và cả hai trung đoàn đã bị tiêu diệt trong trận Tổng công kích đợt 1….Thế nhưng theo ghi nhận của CIA và Phòng tình báo của MACV thì quân số của CSVN tại B.2 là 3 sư đoàn, gồm có Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, và sư đoàn 9 (khoảng 30.000 người).

 

Quyển sách lịch sử  “Quân Khu 9, 30 Năm Kháng Chiến” do nhà xuất bản Quân đội Nhân dân xuất bản ghi lại tình hình tại riêng Quân khu 9 sau trận Mậu Thân:

 

“Sau Mậu Thân 1968, Quân khu 9 cũng như toàn chiến trường Miền Nam giành được thắng lợi lớn (sic); song, do ta chuyển hướng không kịp, nhất là các tỉnh vùng trung tâm sông Hậu, nên chủ lực và địa phương tổn thất nặng nề.  Mỗi tiểu đoàn xuất quân chiến đấu đông tới bốn, năm trăm người… khi trở về chỉ còn lẻ tẻ vài chục xuồng, mỗi xuồng vài ba người…

 

Đến cuối năm 1969, địch đã bình định lấn chiếm gần hết vùng giải phóng trước đây, chỉ còn căn cứ U Minh và khu giải phóng Nam Cà Mau…

 

Tỉnh Cà Mau có 13 xã giải phóng nhưng chỉ thu được có 7 tân binh bổ sung cho bộ đội chủ lực Khu, 6 người bổ xung cho bộ đội Huyện.  Trong khi đó toàn khu (Chưa tính Vĩnh Trà) có 12.000 chiến sĩ bỏ ngũ về nhà.  Còn ở Vĩnh Trà tình hình cũng tương tự như vậy…”.

 

Đây là bằng chứng đáng tin cậy nhất về thực trạng của quân đội CSVN sau trận Mậu Thân.  Thế nhưng buồn cười là phía Mỹ ( CIA ) lại cho rằng sau trận Mậu Thân quân đội Cọng sản đã chiến thắng oanh liệt và họ đang lừng lên, sắp sửa giáng cho quân đội Mỹ một trận Điện Biên Phủ thứ hai tại Khe Sanh (sic).

 

Tài liệu của Hà Nội : Nghị quyết 21/Ban chấp hành Trung ương Đảng

 

 Năm năm sau trận Mậu Thân, và sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Trung ương Đảng CSVN có đủ bình tâm ngồi đánh giá lại kết quả của cuộc tổng công kích và ghi vào Nghị quyết 21/BCHTU ngày 13-10-1973 :

 

“Qua đợt tiến công nổi dậy 68, cả thế và lực của ta bị tổn thất nghiêm trọng.  Lực lượng vũ trang nói chung, lực lượng đặc công biệt động nói riêng thiệt hại nặng nề.

 

Lực lượng chính trị quần chúng bị địch phát hiện và thẳng tay đàn áp.  Nhiều chi bộ, cấp ủy, đoàn thể quần chúng cách mạng ở vùng tạm chiếm, vùng tranh chấp bị phá vỡ.  Các vùng giải phóng rộng lớn ở nông thôn bị thu hẹp dần.

 

Thế trận chiến tranh nhân dân 3 vùng chiến lược bị suy giảm.  Mất dần bàn đạp tấn công, chỗ đứng chân cũng thu hẹp dần, nhiều đơn vị lực lượng vũ trang địa phương cũng như chủ lực, các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy các mặt trận, các địa phương phải cơ động lên biên giới, sang đất bạn tạm trú đóng quân, xốc lại đội hình, bổ sung người, vũ khí tiếp tục chiến đấu.

 

Và 28 năm sau, tài liệu “Tổng Kết Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước” phát hành tại Hà Nội năm 1996 ghi nhận : “ Sau đợt Tổng tiến công Tết ta không kịp thời rút kinh nghiệm, chậm chuyển hướng và không thấy hết được những âm mưu thủ đoạn mới của địch…

 

Cho đến những tháng cuối 68, đầu 69, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân ta ở Miền Nam đứng trước một tình thế đầy thử thách phức tạp và chồng chất khó khăn…Tình trạng mất dân, mất đất đã diễn ra ở nhiều nơi, vùng giải phóng và vùng tranh chấp bị thu hẹp…”.

 

Thú nhận của những người trong cuộc

 

Hồi ký của tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp :

“Quân và dân Tây Nguyên bước vào năm 1969 gặp muôn vàn khó khăn, có lúc tưởng chừng không thể khắc phục được, nhất là lương thực.  Trong quyển sổ công tác số 16 của tôi còn ghi lại, toàn chiến trường vào thời điểm tháng 2 năm 1969 số gạo dự trữ chỉ còn khoảng 40 tấn.  Nguy cơ thiếu đói là không thể tránh khỏi đối với cán bộ, chiến sĩ Tây Nguyên” (trang 273).  Lúc này lực lượng của quân CSVN tại Tây Nguyên là 1 sư đoàn ( khoảng 10.000 người ), 40 tấn gạo chỉ đủ ăn trong 7 ngày.

 

Hồi ức của ông Võ Văn Kiệt được nhà báo Huy Đức ghi :

Mậu Thân quả là đã gây được những tiếng vang chính trị trong lòng nước Mỹ, nhưng những người trực tiếp ở chiến trường như ông đã phải chứng kiến sự hy sinh quá lớn. Ông nói: “Lúc đó tôi đau đến mức nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn quân giải phóng đã hy sinh trên toàn chiến trường.” ( Huy Đức, Hiện tượng Võ Văn Kiệt , chương 1 ). Nghĩa là tất cả 85 ngàn quân của Miền Nam và 30 ngàn quân chính quy Bắc Việt đã chết hết.

 

Tự truyện của Đại tướng Lê Đức Anh do Khúc Biên Hòa ghi :

“Tôi có gặp anh Trần Bạch Đằng ( Anh Trần Bạch Đằng cùng ở Tiền phương 2 với anh Võ Văn Kiệt ), anh Linh cũng đang có mặt tại đây.  Tôi đề xuất không nên mở đợt 2 đánh vào nội đô nữa vì không còn yếu tố bí mật bất ngờ…” ( Khúc Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh, trang 90 ).

 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn với ký giả Walter Cronkite của đài CBS :

“ Cho tới nay tôi vẫn không hiểu nổi tại sao người Mỹ các anh lại chấm dứt thả bom Hà Nội (1972). Các anh đã tròng cổ được chúng tôi rồi.  Nếu các anh nhấn thêm một chút nữa, chỉ một hoặc hai ngày nữa, chúng tôi đã sẵn sàng đầu hàng.  Cũng giống như trận tết Mậu Thân, các anh đã đánh bại chúng tôi rồi”.  ( Cuộc phỏng vấn tại Hà Nội ngày 8-12-2007 ).

(15) MỸ ĐẠI THẮNG NHƯNG MỸ TƯỞNG THUA

Tưởng thua, con tàu nước Mỹ quay đầu

 

Năm 1968, hai tháng sau trận Mậu thân, ngày 18-3 tại Washington, Đại sứ VNCH tại Mỹ là Bùi Diễm xin gặp Tổng thống Johnson.  Ông được Tổng thống mời tiếp kiến vào khoảng 5 giờ chiều.  Bùi Diễm kể lại :

 

“Lúc ngồi xuống, đối diện sát ông, tôi mới nhận thấy là mới cách đó vài tháng ( lần trước tôi gặp ông là tháng 11 năm 1967 ) mà ông già hẵn đi.  Trông ông có vẻ mệt mỏi, ưu tư hiện rõ trên nét mặt, dường như gánh nặng của chiến tranh Việt Nam đang thử thách sức chịu đựng của ông”

 

“Trong phòng không một tiếng động.  Bên ngoài trời đã sẩm tối.  Đến khi tôi dứt lời thì Tổng thống Johnson ngồi yên đến hai ba phút rồi mới chậm rãi phát biểu ý kiến.  Ông nói : “Nếu chúng ta không thắng thì rắc rối to.  Tôi đã cố gắng hết sức nhưng một mình tôi không thể cầm cự mãi được” ( Bùi Diễm, Gọng Kìm Lịch Sử, trang 363 ).

 

Năm 1968, ngày 20-3, Đại sứ Bùi Diễm đến gặp tân Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford.  Ông Diễm kể lại :

 

“Ông không ngần ngại, nói đốp chát, cộc lốc, đi thẳng vào vấn đề… Ông nói : “Lúc này không còn phải là lúc dùng những danh từ mỹ miều ngoại giao nữa… .. Dân chúng Hoa kỳ đã mất hết tinh thần, và sức ủng hộ của chúng tôi có giới hạn… … Chúng ta bắt buộc phải tìm ra một giải pháp nào đó, nếu không thì chắc chắn sẽ có tai họa”. ( Trang 365 )

 

Năm 1968, vài ngày sau 20-3, Đại sứ Bùi Diễm đến gặp Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk.  Và ông kể lại lời của Ngoại trưởng Mỹ : “Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác, và mục tiêu của chúng tôi không còn là thắng lợi quân sự nữa, nhưng là hòa bình trong danh dự” ( Bùi Diễm, Gọng Kìm Lịch Sử, trang 366 ).

 

Năm 1968, ngày 31-3, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố giảm ném bom Bắc Việt và không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2.  Để đáp lại, Hà Nội tuyên bố sẵn sàng gặp nhau tại Paris để thương lượng ngưng bắn.

 

Chú giải : Tính toán của chiến lược gia số 1 của Mỹ

Quyết định bất ngờ của Tổng thống Johnson có vẻ như là một biểu hiện của sự mệt mỏi và chán ngán;  khiến cho dư luận quốc tế, kể cả Hà Nội, tin rằng đây là hậu quả của đợt tổng công kích tết Mậu Thân.  Tuy nhiên hồi ký của Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford, người thay thế McNamara, cho biết Tổng thống Johnson không còn lựa chọn nào khác :

 

Johnson được coi như là “tác giả” của chiến tranh Việt Nam.  Nhưng giờ đây dân chúng Mỹ đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh, nghĩa là không còn ủng hộ ông nữa.  Do đó ông không thể quay 180 độ để biến thành người chống chiến tranh như Thượng nghị sĩ Robert Kennedy.

 

Nếu ông cứ giữ vững lập trường theo đuổi chiến tranh thì ông sẽ không đắc cử mà trái lại đảng Dân Chủ có thể mất đi cơ hội tiếp tục giữ chiếc ghế Tổng thống Mỹ trong nhiệm kỳ sắp tới.  Vì vậy ông rút lui để ứng cử viên Dân chủ Humphrey có cơ hội thắng cử với chiêu bài xúc tiến hòa đàm chấm dứt chiến tranh.

 

Ngoài vấn đề tranh cử, Tổng thống Johnson còn phải đối diện với vấn đề cải tổ xã hội, xóa khoảng cách khác biệt giữa giới giàu với người nghèo;  một chính sách mà ông đã hứa khi ra tranh cử năm 1964.  Mục sư Luther King đang mở một phong trào vận động phản đối Jonson không thực hiện lời hứa cải tổ xã hội cũng như phản đối chiến tranh Việt Nam.

 

Rõ ràng lúc đó Johnson không thể nào có đủ ngân sách cho chương trình cải tổ xã hội vì phải tăng thuế mới có đủ ngân sách thực hiện cải tổ xã hội trong khi một nửa ngân sách quốc phòng đã dồn hết cho chiến tranh Việt Nam.  Nếu chính phủ xin tăng thuế thì chắc chắn Quốc hội buộc Tổng thống phải rút quân trước khi chấp thuận tăng thuế.  Vì vậy giải pháp rút quân là chuyện “no choice” (không còn chọn lựa nào khác) đối với Tổng thống Johson.

 

Hơn nữa, những lời tham vấn của tân bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford đã cho Tổng thống Johnson thấy rằng vấn đề không phải là nên rút quân hay không, mà là nên theo đuổi chiến tranh Việt Nam hay không? Nếu không thì rút quân.

 

Sở dĩ Clifford có ý nghĩ đó vì sau khi nhận chức Bộ trưởng Quốc phòng thì ông nhận được thỉnh cầu của Tướng Westmoreland xin tăng thêm 206 ngàn quân, Clifford đã hỏi Tham mưu trưởng liên quân Mỹ là Tướng Wheeler cùng với các sĩ quan trong Bộ tham mưu liên quân:

 

Nếu thêm 200 ngàn quân chúng ta có biết chắc sẽ thắng hay thua không?

Nếu 200 ngàn quân vẫn chưa đủ thì bao nhiêu mới đủ?

Và một khi đã đủ thì có chắc sẽ không bao giờ xin thêm nữa không? Thí dụ như Hà Nội thấy Mỹ tăng quân thì họ cũng tăng quân thì tính làm sao?

Không có câu trả lời khẳng định nào được đưa ra, nghĩa là các ông tướng cũng mù mờ về những gì đang xảy ra tại Việt Nam, và rồi cũng không ai dám chắc những gì sẽ xảy ra. Từ buổi hội ý này, Bộ trưởng Clifford đã có quyết định dứt khoát phải rút quân khỏi Việt Nam.

 

Có thể nói thời bấy giờ, và cả 20 năm sau này, Clifford là một chính trị gia lỗi lạc nhất của Mỹ.  Từ một thiếu úy Hải quân đồng hóa ( không qua trường đào tạo sĩ quan căn bản ) vào năm 1944.  Nhờ tài năng và bản lĩnh, hai năm sau Clifford đã trở thành đại tá phụ tá Hải quân cho Tổng thống Truman, và 2 tháng sau khi mang lon đại tá, ông đã trở thành phụ tá đặc biệt của Tổng thống Truman.

 

Sau 6 năm làm việc với Truman, Clifford trở về hành nghề luật sư nhưng với uy tín đầy mình và quen biết hầu hết các nhân vật quan trọng của Mỹ cũng như của Thế giới.  Ông là cố vấn cho hầu hết các Tổng thống Hoa Kỳ trong hai thập niên 1960-1970.  Trong đời ông kết thân với 9 vị Tổng thống Mỹ.  Do đó khi ông nhận lời giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng thì cũng có nghĩa là ông quyết định ra tay giải quyết chính trị Mỹ trong thời kỳ sóng gió do cuộc chiến tranh VN.

 

Vừa mới nhập cuộc Clifford đã dễ dàng đi tới quyết định rút quân chỉ vì lý do là theo đuổi chiến tranh Việt Nam không có lợi.  Ông đã đưa ra cho chính ông và cho nhân dân Mỹ 2 lựa chọn :  một là theo đuổi chiến tranh với kết quả biết chắc là bất lợi, hai là rút quân về.  Điều này chứng tỏ Clifford không đủ bản lĩnh như danh tiếng của ông ta, chẳng qua là ông ta gặp may quá nhiều.

 

Clifford chớ hề nghĩ tới chuyện giao đại sự vào tay người Việt cho nên Mỹ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội bằng vàng. ( Stephen Young, Cuộc Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ ).  Tiếc là Washington không có cái đầu nào cao hơn cái đầu của Clifford nên mới đưa tới nông nỗi thảm bại của quốc gia Mỹ, một quốc gia chưa bao giờ biết rút lui kể từ ngày lập quốc.

 

Vấn đề gải quyết chiến tranh Việt Nam có tới hằng ngàn lựa chọn từ thấp tới cao, từ hay tới dở chứ không phải chỉ có 2 lựa chọn.  Chẳng hạn như lựa chọn thứ 3 là giao việc chống Cộng cho người Việt Nam.  Mỹ chỉ yểm trợ về tài chánh, vật liệu thì tức khắc người Việt Nam sẽ làm hay hơn các cố vấn Mỹ và quân đội Mỹ rất nhiều.

 

*( Điều này được chứng thực trong cuộc đọ sức giữa quân đội VNCH và 200.000 quân Bắc Việt vào năm 1972; mặc dầu năm đó quân đội VNCH như người bệnh mới dậy sau khi quân đội Mỹ đột ngột rút về gần hết, nhường chiến trường lại cho quân đội VNCH.  Nhưng quân đội VNCH chiến thắng dễ dàng ).

 

Những gì Nguyễn Văn Thiệu đối phó với Washington chứng tỏ ông ta rất cứng cựa và bản lĩnh.  Giờ đây nếu phải đối phó với Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh… thì ông ta thừa sức. *( Ông ta chỉ có một cái tội duy nhất là không nghe lời Mỹ ngồi vào bàn đàm phán trong thư thế thua cuộc cho nên người Mỹ nhìn ông ta như là “kẻ phá hoại hòa bình” ).

 

Người Việt bắt đầu tự lo cho số phận của mình

 

Năm 1968, ngày 3-4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ cùng xuất hiện trong một buổi họp báo.  Tổng thống Thiệu công bố cho dân chúng biết về quyết định giảm ném bom Bắc Việt của Tổng thống Mỹ.

 

Trả lời phỏng vấn, ông Thiệu cho biết giữa ông và Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tuy có nhiều điểm dị biệt nhưng trong công việc  quốc gia, những vấn đề hệ trọng ông đều thảo luận với Phó Tổng thống và chỉ quyết định khi hai người cùng đồng ý.  Ông cũng loan báo việc Phó Tổng thống đảm trách chỉ huy Lực lượng Nhân dân tự vệ, là lực lượng bán vũ trang mới được thành lập trên toàn quốc.

 

Năm 1968, ngày 4-4, Mục sư Martin Luther King bị ám sát.  Chính phủ Mỹ giảm được một áp lực chống đối chiến tranh Việt Nam.  Nhưng dư luận lại cho rằng có thể ông mục sư bị giết do chủ trương phản chiến, do đó rộ lên phong trào tẩy chay các ứng cử viên chủ trương tiếp tục chiến tranh Việt Nam trong cuộc bầu cử sắp tới.

 

(16) TỔNG CÔNG KÍCH ĐỢT 2

Sau trận Tổng tấn công đợt 1, tự truyện của Đại tướng Lê Đức Anh ghi lại : “Tôi có gặp anh Trần Bạch Đằng ( Anh Trần Bạch Đằng cùng ở Tiền phương 2 với anh Võ Văn Kiệt ), anh Linh cũng đang có mặt tại đây.  Tôi đề xuất không nên mở đợt 2 đánh vào nội đô nữa vì không còn yếu tố bí mật bất ngờ…”

 

Mặc dầu trình độ chỉ biết đọc biết viết nhưng Lê Đức Anh có con mắt nhìn của một chuyên gia quân sự, ông thấy ngay vấn đề là dân chúng không có nổi dậy, cho nên kế hoạch tổng công kích tổng nổi dậy đã hoàn toàn thất bại.

 

Thế nhưng Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt không thể báo cáo sự thực cho Lê Duẩn, bởi vì lâu nay các ông cứ nằn nì Lê Duẩn cung cấp vũ khí và tài chính.  Các ông cam đoan rằng một khi quân nổi lên thì dân tràn theo, giống như cuộc nổi dậy cướp chính quyền năm 1945.

 

Trong khi đó tin tức từ Washington bay về Hà Nội cho thấy là quân Mỹ đã thua.  Bằng chứng hiển nhiên là Bộ trường Quốc Phòng McMamara từ chức, Tư lệnh quân Mỹ tại Việt Nam Westmoreland mất chức, Tổng thống Johnson tuyên bố giảm ném bom Bắc Việt và không ra tranh cử nhiệm kỳ 2…Lúc đó Lê Duẩn có ngu mới không hạ lệnh tổng tấn công tiếp đợt 2, đợt 3.  Không phải đe dọa suông mà ông quyết còn người nào đánh người đó, ông sẽ cho đưa quân Miền Bắc vào tiếp ứng.

 

Vì vậy các ông Cọng sản Miền Nam đành phải vét hết lực lượng còn lại để tử chiến.  Lực lượng còn lại là một số đơn vị tại vùng biên giới chưa di quân về kịp trong dịp giao thừa tết Mậu Thân. Riêng tàn quân từng tham gia đợt 1 thì mạnh ai về nhà nấy chứ không ai dại gì đi đánh tiếp.

 

Diễn tiến trận đánh

 

Năm 1968, đầu tháng 4, Phó chính ủy Quân khu 4 của CSVN là Thượng tá Tám Hà ra hồi chánh với chính quyền VNCH.  Ông cho biết CSVN dự trù tổng tấn công đợt 2 với  tổng số quân công kích tại Sài Gòn có khoảng 10.000 người *( Nhưng sự thực chỉ có khoảng 3.500 người ).

 

Năm 1968, ngày 5-5, tại Sài Gòn, lúc 3 giờ sáng, nhiều toán đặc công CSVN xuất hiện tại nhiều nơi như khu Chợ Cầu Muối, Cầu Kho, khu Đề Thám, Bùi Viện, Gò Vấp, Phú Thọ Hòa, Khánh Hội.  Mỗi toán đặc công khoảng 4,5 người; có toán 10,12 người, họ rải truyền đơn kêu gọi nổi dậy.

 

Lực lượng Cảnh sát dã chiến VNCH của các quận Sài Gòn lục soát và tấn công các toán đặc công CSVN.  Đến 6 giờ chiều thì hoàn toàn thanh toán hết các toán đặc công.  Có 32 đặc công bị chết, 27 bị bắt sống, thu 70 súng cá nhân.  Phía CSDC có 6 chết.

 

*Lúc 4 giờ sáng :  1 tiểu đoàn địa phương CSVN pháo kích và tấn công đơn vị TQLC của VNCH đang phòng thủ tại Cầu Sài Gòn trên xa lộ Biên Hòa nhưng bị Tiểu đoàn 3/TQLC đánh bật, chạy giạt về phía Giồng Ông Tố.

 

Cùng giờ, Tiểu đoàn Dĩ An CSVN ( Cơ động tỉnh Đồng Nai, khoảng 350 người ) tấn công cầu Bình Lợi, bị Tiểu đoàn 6 TQLC ( 650 người ) đẩy lui trong ngày.

 

Ngày 6-5, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 272 CSVN ( Chủ lực Miền , khoảng 400 người ) tập trung tại khu Mả Thánh Tây chuẩn bị tấn công vào phi trường Tân Sơn Nhất.  Lúc 3 giờ sáng một toán tiền thám của tiểu đoàn CSVN nổ súng vào chiếc xe kiểm soát phòng thủ tại cổng phía Tây phi trường Tân Sơn Nhất, trên xe có Đại tá Không quân Lưu Kim Cương tử trận.

 

*Lúc 8 giờ sáng :  Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù VNCH ( 550 người ) đang nghỉ huấn luyện tại Biên Hòa nhận được lệnh về Sài Gòn tấn công vào khu Mả Thánh Tây. Xế trưa thì Tiểu đoàn 7 ND bắt đầu chạm địch, đến chiều tối thì thanh toán xong tiểu đoàn CSVN, đếm được 60 xác, bắt sống 11 người, tịch thu 30 súng, trong đó có 1 đại bác không giật 57 ly.

 

Ngày 7-5, mờ sáng. Một toán đặc công CSVN lén lút rải truyền đơn tuyên truyền tại đường Tự Đức, Quận 1, Sài Gòn;  bị xe tuần tiểu của cảnh sát phát hiện, toán đặc công rút vào chiếm một viện bào chế dược phẩm để cố thủ.  Một đơn vị Cảnh sát dã chiến ập tới nơi xảy ra chiến trận cùng một lúc với Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc Cảnh sát.

 

Trong lúc cùng với toán cảnh sát tấn công vào nơi quân CSVN đang cố thủ, Tướng Loan bị đạn trúng đầu gối.  Sau 5 cuộc giải phẩu không thành công, Tướng Loan phải cưa mất một chân.

 

Ngày 7-5, Hai tiểu đoàn còn lại của Trung đoàn 272 CSVN tấn công Phú Thọ Hòa và Bến Phạm Thế Hiển.  Tiểu đoàn 267 CSVN (địa phương) tấn công vùng Minh Phụng, Chợ Lớn và cố thủ trên các cao ốc với súng phòng không và đại bác 57 ly.

 

Tiểu đoàn 38 Biệt động quân VNCH phối hợp với Thiết Giáp tấn công giải tỏa khu Phú Thọ Hòa.  Tiểu đoàn 35 Biệt động quân VNCH tấn công giải tỏa khu Minh Phụng.  Hai ngày sau thì giải tỏa xong cả hai khu

 

Đêm 7-5, Đại tá Đàm Văn Quý ( Phụ tá hành quân của Tướng Loan ) tử trận trong khi ông đi kiểm soát phòng thủ tại đường Hậu Giang, Chợ Lớn.  Khi xe của ông đến gần một chốt canh gác của Cảnh sát dã chiến thì ông thấy có dấu hiệu không còn người trong đó cho nên ông ra lệnh cho tài xế quay trở lui. Lúc xe vừa trên đường quanh thì toàn đặc công CSVN trong trạm gác bắn theo nhiều loạt đạn và có 1 viên trúng người của Đại tá Quý.

 

Ngày 8-5, hai tiểu đoàn địa phương CSVN ( khoảng 700 người )  tấn công khu Cầu Chữ Y, quận 8.  Tiểu đoàn 2/TQLC/VNCH ( 650 người ) phối hợp với thiết giáp tấn công giải tỏa xong trong ngày hôm sau.  Cùng ngày, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 7 Nhảy dù VNCH hành quân lục soát và bao vậy 1 đại đội quân CSVN tại khu 18 Thôn Vườn Trầu.  Sau 2 ngày thì đại đội CSVN bị tiêu diệt và ra hàng.

 

Ngày 12-5, tình hình yên tĩnh trở lại, toàn bộ quân CSVN rút ra khỏi thành phố.

 

Năm 1968, sau nửa tháng yên tĩnh, ngày 25-5, Trung đoàn Đồng Nai CSVN ( Chủ lực Miền ) xâm nhập vào vùng Bà Chiểu, đến khu chùa Tập Thành xã Bình Hòa thì đụng độ với Tiểu đoàn 5 Dù VNCH.

 

Ngày 27-5, 2 tiểu đoàn địa phương CSVN từ vùng Đồng Ông Cộ xâm nhập vào Ngã Năm Bình Hòa đánh chiếm vùng Phú Lâm.

 

Quân VNCH gồm 1 tiểu đoàn Biệt động quân, 2 đại đội TQLC và 1 đại đội Cảnh sát dã chiến tấn công đẩy quân CSVN dạt vào khu Quận 6 Chợ Lớn.  Trong cuộc tấn công tiêu diệt quân CSVN tại khu Nguyễn Tri Phương, vào ngày 2-6 một trực thăng Hoa Kỳ bắn lạc hỏa tiễn vào vị trí của bộ chỉ huy hành quân VNCH khiến 6 sĩ quan cao cấp bị chết.

 

Ngày 31-5, Trung đoàn Quyết Thắng CSVN  *( Theo lý thuyết thì 1 trung đoàn chủ lực miền có khoảng 1.500 quân.  Nhưng đây là gom góp đám tàn quân của tổng tấn công đợt 1 nên thực sự quân số cả trung đoàn chỉ có 400 người ) xâm nhập vùng Hạnh Thông Tây Gò Vấp, đụng độ với Tiểu đoàn 6 TQLC/VNCH ( khoảng 650 người ) tại cầu Băng Ky.

 

Ngày 3-6, Trung đoàn Đồng Nai CSVN ( Cũng khoảng 400 người ) bị đánh tan, Trung đoàn trưởng tử trận.  Số quân còn lại khoảng 250 người rút về hướng bắc Tân Uyên.

 

Ngày 7-6, toán quân cuối cùng của 2 tiểu đoàn địa phương xâm nhập vùng Chợ Lớn ( Tiểu đoàn 6 Bình Tân và Tiểu đoàn 308 ) gồm 49 người đã ra hàng, số còn lại đã bị chết và bị bắt.

 

Ngày 17-6, Trung đoàn Quyết Thắng CSVN phối hợp với tàn quân của Trung đoàn Đồng Nai tấn công vào khu vực cầu Băng Ky và Ngã ba Cây Thị, bị Tiểu đoàn 6 và Tiểu đoàn 1 TQLC đánh tan.  Trung đoàn phó Quyết Thắng là Đại úy Phạm Văn Xưởng ra hàng.  Theo lời khai của Xưởng thì trước khi vào trận đánh quân số của trung đoàn là 400 người với vũ khí đầy đủ.  Đến chiều  ngày 17-6 chỉ còn 229 người, trong số đó có 120 bị thương.  Trung đoàn trưởng Ba Vinh chết ngay lúc đầu.

 

Ngày 18-6, toàn bộ tàn quân của Trung đoàn Quyết Thắng gồm 152 người đã ra hàng, trong số này có 2 ca sĩ là Bùi Thiện và Đoàn Chính.

 

Ngày 19-6, tình hình yên tỉnh trở lại trên toàn quốc với tổng kết 3 trung đoàn chính quy CSVN hoàn toàn bị đánh tan.  Hầu hết bị tiêu diệt ngoài số chiến binh đầu hàng hoặc ra hồi chánh .  Trong số đó có Đại tá Lê Văn Ngọt, tư lệnh phó Sư đoàn 5 CSVN;  Thượng tá huỳnh Thành Đồng, Tham mưu trưởng bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 1.  Trung tá Phan Việt Dũng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 165 thuộc Sư đoàn 7/CSVN;  Trung tá Huỳnh Cự và Thượng tá Tám Hà.

 

*Chú giải :  Tổng kết cuộc tổng tấn công đợt 2, quân đội CSVN chỉ mở có 6 cuộc tấn công với cấp tiểu đoàn hoặc trung đoàn;  so với đợt 1 là 29 cuộc tấn công cấp tiểu đoàn trở lên.  Nhưng lần này các tiểu đoàn và trung đoàn chỉ là những đơn vị được phóng đại.  Thí dụ như Trung đoàn Quyết Thắng là trung đoàn chủ lực Miền nhưng quân số chỉ có 400 người, so với một trung đoàn chính quy Bắc Việt là 2.600 người.

 

Thế nhưng báo chí Mỹ lại đánh giá lần này lực lượng của CSVN hùng hậu hơn bởi vì họ đã pháo kích 433 lần so với 268 lần trong đợt 1 ( Tài liệu của Trung tướng William E. Potts, Trưởng Phòng tình báo của quân đội Hoa Kỳ ).  Và rồi căn cứ vào số pháo kích, báo chí Mỹ suy ra lực lượng CSVN mạnh gấp đôi lần trước.  Trong khi con số pháo kích là một bằng chứng cho thấy CSVN chỉ gây tiếng vang bằng tiếng nổ chứ không còn người.

 

Ngoài ra trong lần này CSVN có sáng kiến là đốt nhà dân để làm màn khói che mắt máy bay quan sát cho nên tuy đợt 2 quy mô nhỏ hơn nhưng lửa cháy khắp nơi khiến cho báo chí quốc tế đánh giá là đợt 2 khủng khiếp hơn.

 

(17) LÊ DUẨN ĐẠI THUA MÀ TƯỞNG THẮNG

Năm 1968, ngày 23-3, Tướng Westmoreland được thông báo chuẩn bị rời chức vụ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam để về Washington nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Lục quân.

 

Năm 1968, ngày 31-3, Tổng thống Mỹ Johnson đọc diễn văn loan báo giảm ném bom Bắc Việt, kêu gọi hòa đàm;  và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ 2.

 

Lê Duẩn bị lừa

 

Những tin tức nóng hổi từ Washington được tình báo Liên Xô chuyển về Hà Nội khiến Tổng bí thư Lê Duẩn ngơ ngác, ông ta không ngờ mình mới vừa đại chiến thắng, có nằm mơ ông ta cũng không tin nổi là địch đã mất vía đến nỗi phải thú nhận bại trận và van xin hòa đàm.

 

Thế là ông ta quyết định vét hết quân và đạn dược còn lại để tổ chức tổng tấn công đợt hai.  Lần này không phải để “tổng nổi dậy”;  mà là để “tổng tháu cáy”.  Nghĩa là nỗ lực hù dọa Mỹ sau khi dư luận Mỹ hoảng loạn do vì MacNamra từ chức, Westmoreland bay chức và Johnson không ra tranh cử nhiệm kỳ 2 ( Coi như từ chức ).

 

Ngoài ra Lê Duẩn còn ra lệnh cho các phương tiện truyền thông của CSVN “mở hết máy” để ca ngợi chiến thắng tại Miền Nam cũng như ca ngợi tài chỉ huy thiên phú Võ Nguyên Giáp.  Thuở đó dân chúng hai miền Nam Bắc hễ mở mắt dậy là nghe tin Westmoreland mất chức,  Mac Namara từ chức,  Jhoson không dám tái ứng cử, Tướng Võ Nguyên Giáp tuyên bố, Hồ chủ tịch khen ngợi, v.v…

 

Không những mạnh miệng trong chiến tranh tuyên truyền, Lê Duẫn còn mạnh miệng hơn nữa tại Hội nghị Paris.  Ông muốn biến Hội nghị Paris trở thành một Hội nghị Geneve thứ hai.  Ông ra lệnh cho Trung ương cục Miền Nam ( Phạm Hùng ) hãy tổ chức những đợt tổng tấn công lần 2, lần 3, lần 4, lần 5… cho tới khi nào quân Mỹ tháo chạy như quân Pháp đã chạy sau trận Điện Biên Phủ.  Ông sẽ đưa thêm quân bổ sung từ ngoài Bắc vào.

 

Trong khi đó thực tế tại chiến trường Miền Nam hoàn toàn trái ngược với tưởng tượng của Lê Duẩn.  Sau trận Tổng tấn công đợt 2, tự truyện của Đại tướng Lê Đức Anh ghi lại :

 

“Sau đợt 2, tôi đề nghị dứt khoát thôi, rút ra.  Dân chỉ giúp đỡ chứ không “nổi dậy” thì quân ta không ở nữa, rút ra!  Riêng biệt động thành ở lại thực hiện “điều lắng” (tan, hòa tan vào dân).  Anh Linh lặng im và đồng ý.  Hồi đó, làm việc ở R (rờ) “làm thinh là đồng ý”… ( Khuất Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh, trang 90, 91.  Cơ quan Rờ tức là Trung ương Cục Miền Nam ).

 

Đoạn này cho thấy chính Lê Đức Anh cũng không ngờ là dân không hề nổi dậy.  Chẳng những dân không nổi dậy mà lại “bỏ chạy” khi thấy quân CSVN tiến vào.  Thực tế tại Huế đã cho thấy dân bỏ chạy là phải.

 

Và sau khi đợt 3 kết thúc (tháng 10 năm 1968), hồi ký của Ủy viên Bộ Chính trị Mai Chí Thọ ghi nhận : “Sau đợt tiến công Mậu thân lần 3, lực lượng ta đã đuối sức nhiều, nhưng do các báo cáo không đúng với thực tế khiến lãnh đạo cấp trên không nắm sát tình hình ở các địa phương dẫn đến sai lầm chủ quan trong việc quyết định tiếp tục tấn công các đợt 4 và 5.

 

Lúc đó đồng chí Võ Văn Kiệt, đồng chí Trần Bạch Đằng và tôi đã báo cáo tình hình thực tế về Trung ương Cục.  Cả ba chúng tôi cùng ký vào bức điện đề nghị chuyển hướng mục tiêu, không nên tiếp tục tổng công kích, tổng khởi nghĩa nữa, nhất là đánh vào Sài Gòn và các đô thị”. ( Mai Chí Thọ, Theo Bước Chân Lịch Sử, trang 173 ).

 

Báo cáo láo

 

Tổng cổng kích đợt 1 chết gần hết, tổng công kích đợt hai chết sạch.  Đến tổng công kích đợt 3 trên toàn quốc chỉ có 2 trận đánh cấp tiểu đoàn ( Mỗi tiểu đoàn du kích địa phương khoảng 350 người ), và riêng tại Sài Gòn thì chỉ có pháo kích được đúng 19 quả ( trong khi đợt 2 là hằng chục ngàn quả ).

 

Đến nông nỗi đó mà Hà Nội lại ra lệnh tổng công kích đợt 4, đợt 5 (!).  Bí quá các ông Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng và Mai Chí Thọ mới đồng lòng báo cáo sự thật về cho Phạm Hùng ( Bí thư Trung ương cục Miền Nam, đang nằm tại Mặt trận B.1, tức là bên kia biên giới Miên ).

 

Dĩ nhiên các ông không thể nói rằng lâu nay chúng tôi báo cáo láo.  Nhưng các ông bắt đầu báo cáo rằng tuy chiến thắng nhưng ta cũng bị hao tốn quá nhiều lực lượng.  Mỗi ngày các ông báo cáo tổn thất một mớ, lần hồi đến tháng 6 năm 1969 (sau đợt 4) thì các ông báo cáo quân của các ông còn Zéro.  Lúc đó Hà Nội mới ngồi tổng kết và thấy từ đầu năm 1969 tới tháng 6 năm 1969 quân CSMN đã chết hết 500.000 quân.

 

Sở dĩ các ông Miền Nam phải báo cáo như vậy vì lâu nay các ông đã khai khống số quân của các ông để dụ cho Hà Nội cung cấp vũ khí và tiền bạc.  Các ông biết chắc Hà Nội không thể nào biết được thực tế các ông có bao nhiêu quân và chết bao nhiêu quân.  Cho nên các ông khai khống vô tội vạ để Hà Nội cung cấp vũ khí và tiền bạc gấp đôi, gấp ba; và cũng để trừ hao Lê Duẩn sẽ giảm bớt hoặc trừ hao bị thất thoát trên đường vận chuyển.

 

Chính vì khai khống vô tội vạ mà quân số trên lý thuyết của các ông lên tới 500.000 quân trong khi thực tế của trận Mậu Thân ( Tổng kết lời khai của các tù binh về đơn vị của họ trên khắp các mặt trận toàn quốc ) cho thấy tất cả quân số của  CSMN là 85.000.

 

Hồi ký của Tướng Westmoreland, bản Việt ngữ trang 399 : “Một năm sau khi tôi rời nhiệm sở, Tướng Giáp của Bắc Việt tiết lộ cho nhà báo Ý Đại Lợi Oriana Fallaci, hay rằng đến thời điểm đó (nửa đầu năm 1969) quân Bắc Việt đã thiệt hại trên nửa triệu quân.  Con số này nhiều bằng bình phương con số do chúng tôi ước tính” ( Nghĩa là Ngũ Giác Đài ước tính trong khoảng thời gian nửa đầu năm 1969 quân CSVN bị chết 707 người ).

 

Lúc đó Tướng Westmoreland đang làm Tham mưu trưởng Lục quân tại Ngũ Giác Đài, ông đã duyệt lại các trận đánh trong nửa đầu năm 1969 thì không thấy có một trận nào đáng kể.  Và cho tới 20 năm sau, khi viết hồi ký, Westmoreland vẫn tin rằng chuyện CSVN bị thiệt hại 500 ngàn quân trong nửa đầu của năm 1969 là có thật (sic).

 

Tuy nhiên cần phải lưu ý về con số 500.000 quân CSVN bị chết do Tướng Giáp cung cấp cho Fallaci. Lúc đó, đầu năm 1969, Võ Nguyên Giáp đang là tội đồ của Đảng CSVN ( Cầm đầu nhóm “Xét lại chống đảng” ).  Cho nên Tướng Giáp không đủ tư cách để tiết lộ một tin động trời như vậy mà phải là do lệnh của Lê Duẩn.  Lê Duẩn muốn cho người Mỹ tin rằng ông ta sẵn sàng thí thêm nhiều triệu quân nữa và sẵn sàng kéo dài chiến tranh thêm 10 năm hay 20 năm.

 

Báo chí quốc tế thi nhau ca tụng Võ Nguyên Giáp

 

Năm 1968, ngày 11-2, bình luận gia của đài truyền hình CBS Hoa Kỳ là Walter Cronkite đến Việt Nam để quan sát tình hình sau trận Mậu Thân.  Khi trở lại Hoa Kỳ ông  phát biểu trên đài truyền hình rằng “Hoa Kỳ đã lún sâu vào chỗ không lối thoát” và “Đó là hậu quả của một cuộc chiến bi thảm… Tôi sẽ làm mọi thứ có thể làm được để chấm dứt cuộc chiến”.

 

Nhưng  cũng ông ký giả Walter Cronkite này, 39 năm sau, ông ta đến Hà Nội để làm phóng sự truyền hình.  Hà Nội sắp xếp cho ông ta được tiếp xúc với Tướng Võ Nguyên Giáp đã 95 tuổi.  Tướng Giáp cười ha hả khi nghe Cronkite hỏi thăm về chiến thắng vĩ đại của ông trong trận Mậu Thân, ông thú thực với Cronkite :

 

“ Cho tới nay chúng tôi vẫn không hiểu nổi tại sao người Mỹ các anh lại chấm dứt thả bom Hà Nội (1972). Các anh đã tròng cổ được chúng tôi rồi.  Nếu các anh nhấn thêm một chút nữa, chỉ một hoặc hai ngày nữa, chúng tôi đã sẵn sàng đầu hàng.  Cũng giống như trận tết Mậu Thân, các anh đã đánh bại chúng tôi rồi”.

 

Nguyên văn được truyền trên đài CBS : “What we still don’t understand why you Americans stopped the bombing of Hanoi.  You had us on the rops.  If you had pressed us a little harder, just another day or two, we were ready to surrender. It was the same at the battles of Tet.  You defeated us” ( Cuộc phỏng vấn được phát trên đài truyền hình CBS ngày 8-12-2007 ).

 

Trong thời điểm diễn ra trận Mậu Thân thì Võ Nguyên Giáp đang như con cá nằm trên thớt, ông ta ngày đêm cầu Trời khẩn Phật cho Lê Duẩn thua…(  Bởi vì lúc này tất cả đàn em thân cận của VNG đều bị bắt giam và bị ép cung phải khai cho tướng Giáp cầm đầu âm mưu chống Đảng ).  Trong khi đó các đối thủ của VNG trong trận Điện Biên Phủ lại ngày đêm cầu Trời khẩn Phật cho Võ Nguyên Giáp thắng…( Nếu Giáp thắng Mỹ thì cái thua của Pháp tại Điện Biên Phủ đỡ nhục…).

 

Trong suốt trận Mậu Thân báo chí Mỹ thi nhau đi tìm các chiến lược gia về Đông Dương, họ nhờ các đại gia quân sự Pháp lên tiếng phân tích chiến thuật bí hiểm của nhà quân sự thiên tài Võ Nguyên Giáp.  Và rồi cũng vì bị tác động bởi hù dọa của các chiến lược gia Pháp mà dân chúng Mỹ dứt khoát phải đem con em của họ trở về..!!!

 

(18) TỔNG CÔNG KÍCH ĐỢT 3

Bắc Kinh muốn CSVN trì hoãn đàm phán

 

Năm 1968, ngày 9-5, phái đoàn Hà Nội đến Paris, trưởng phái đoàn là Xuân Thủy và phó là Hà Văn Lâu.  Trước khi lên đường Xuân Thủy đã nhận được chỉ thị của Lê Duẩn : “Hãy lợi dụng diễn đàn Paris để tranh thủ công luận thế giới” .  Sau đó Xuân Thủy ghé qua Bắc Kinh để gặp Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.

 

Chu cho rằng Hà Nội đã hớ khi nhanh chóng chấp thuận đề nghị hòa đàm của Johnson, theo Chu thì phải đòi hỏi nhiều hơn nữa bởi vì ta đang chiếm ưu thế.  Sau đó Chu khuyên : “Hãy trì hoãn”. ( Lưu Văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Giữa Lê ĐứcThọ Và Kissinger Tại Paris )

 

Trong khi đó phái đoàn Mỹ do Averell Hariman làm trưởng đoàn, và phó là Cyrus Vance.

 

Năm 1968, ngày 13-5, cuộc họp tại Paris bị trễ 3 ngày so với dự định.  Tuy nhiên cuộc họp không đi đến kết quả nào vì việc ấn định các thành phần tham dự.  Phía Mỹ thì muốn là một cuộc họp bàn tròn gồm đại diện 3 chính phủ của 3 quốc gia tham chiến là Mỹ, Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam.  Trong khi đó Hà Nội chỉ muốn một cuộc họp tay đôi giữa Bắc Việt và Mỹ.

 

Năm 1968, ngày 10-6, CSVN làm lễ thành lập Chính phủ lâm thời Cọng hòa Miền Nam Việt Nam để nhằm làm thành một chính phủ thứ tư trong hòa hội Paris.  Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố không thừa nhận chính phủ của MTGPMN;  và VNCH sẽ không ngồi vào hội nghị mà trong đó MTGPMN được coi như là quốc gia thứ tư.

 

Ngày 12-6, Tại hội nghị Paris, Hariman đề nghị với Lê Đức Thọ mở những cuộc đàm phán riêng, song song với các cuộc họp chính thức, Thọ đồng ý. Sở dĩ đàm phán riêng là để loại sự phá đám của VNCH.  Vô tình Hariman để lộ cho Hà Nội và Bắc Kinh biết rằng Mỹ đã nôn nóng đến độ chẳng cần sự có mặt của VNCH.  Điều này đúng như dự đoán của Chu Ân Lai.  Vì thế Hà Nội càng cố tình chùng chình và đưa thêm nhiều điều kiện hơn nữa.

 

Tổng công kích đợt 3

 

Năm 1968, ngày 17-8, sau nhiều ngày ngăm đe, quân CSVN mở cuộc tổng công kích đợt 3; đồng loạt pháo kích tại Vùng 1, Vùng 2 và Vùng 3 chiến thuật.  Riêng thủ đô Sài Gòn và Vùng 4 yên tĩnh.

 

Năm 1968, ngày 22-8, quân CSVN pháo kích 19 hỏa tiễn 122 ly vào Sài Gòn, Chợ Lớn.  Có 10 quả rơi vào Sài Gòn, 6 quả rơi vào Chợ Lớn, 3 quả rơi vào bến Bạch Đằng.

 

Tại Vùng 2, quân CSVN  tấn công trại Bu Prang thuộc tỉnh Quảng Đức, cách biên giới Cam Bốt 5 Km.  Trận chiến chỉ kéo dài vài ngày, kết quả quân CSVN bị chết 776, quân Biệt kích Mỹ có 116 chết, trong đó có 2 người Mỹ.  Đây là quân chính quy Bắc Việt mới vào bổ sung cho quân CS Miền Nam đã bị tiêu diệt.

 

Chú giải : Rõ ràng là không còn quân, không còn súng đạn

Tổng kết đợt 3, quân CSVN mở ra 15 cuộc tấn công trên toàn quốc, nhưng chỉ có 2 trận cấp Tiểu đoàn ( Mỗi tiểu đoàn chính quy Bắc Việt khoảng 600 người ), và cả hai trận đều ở vùng biên giới chứ không phải trong thành thị hay nông thôn Miền Nam.  Số lần pháo kích là 95 lần so với 433 lần trong đợt 2.  Riêng Sài Gòn chỉ có 3 lần pháo kích với 19 quả đạn ( Trong khi ở đợt 2 thì mỗi đêm hằng ngàn quả ).  Chứng tỏ lực lượng vũ trang của quân CSVN đã hoàn toàn tan nát, số đạn pháo cũng đã cạn kiệt.

 

Không phải là CIA không nhìn ra là lực lượng quân sự của CSVN đã tiêu vong.  Nhưng CIA không muốn nhìn nhận là lâu nay họ đã lượng giá sai về khả năng của quân CSVN.  CIA lại càng không dám thú nhận là lâu nay họ đã báo cáo trái ngược với sự thực.  Vì thế mà chi nhánh CIA tại Sài Gòn không ai bảo ai mà từ trên xuống dưới đồng hè nhau làm lơ sự thực;  thậm chí ém nhẹm sự thực.

 

Trong khi đó Washington đang cần những tin tức để chứng minh rằng Mỹ đang sa lầy trên chiến trường Nam Việt Nam, nghĩa là quân Mỹ sẽ thua nếu tiếp tục theo đuổi chiến tranh (sic). Nhờ thế CIA tại Sài Gòn dễ dàng cung cấp những thứ tin mà Washington cần.

 

Trong khi đó thì Tổng thống Thiệu và các tướng lãnh VNCH muốn phát điên vì không hiểu nổi tại sao đang thắng mà lại phải khăn gói tới bàn hòa đàm trong tư thế thua cuộc ?!

 

Không riêng Nguyễn Văn Thiệu khó chịu, mà cả Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cũng bực mình cho thái độ nhanh chóng đáp ứng hòa đàm của Hà Nội.  Mao và Chu không hiểu nổi tại sao Hà Nội đang thắng như chẻ tre mà lại có vẻ như sợ thua tới nơi.  Hai ông không ngờ CSVN đã thua trắng tay chứ không phải là sắp thua.  Nhưng cũng nhờ thái độ cương quyết đốc thúc của Bắc Kinh mà Hà Nội lấy lại thế thượng phong tại Paris cũng như trước dư luận thế giới.

 

Hà Nội đòi Mỹ ngưng ném bom vô điều kiện

 

Năm 1968, ngày 15-9, tại Paris. Đại diện của Hà Nội là Xuân Thủy bắn tiếng cho biết Hà Nội sẽ đi thẳng vào bàn hòa đàm nếu Mỹ ngưng ném bom Bắc Việt vô điều kiện.  Hà Nội tung tin này để thăm dò xem Mỹ chủ bại đến mức độ nào.

 

Ngày 30-9, Humphrey, ứng cử viên Tổng thống của đảng Dân chủ Mỹ tuyên bố nếu trở thành Tổng thống ông sẽ ngưng ném bom Bắc Việt vô điều kiện để kêu gọi hòa đàm và sẽ rút bớt quân ra khỏi VN ngay trong năm 1969.

 

Ngày 9-10, Một cuộc trà đàm xảy ra tại khách sạn Majestic giữa Lê Đức Thọ với Hariman và Vance.  Hariman cho biết Chính phủ Sài Gòn rồi đây sẽ tham dự hòa hội như là một thành phần trong phía Hoa Kỳ.  Đối lại Hà Nội có thể mang theo MTGPMN hay một tổ chức nào khác như là một thành phần trong phía Hà Nội..  Ngoài ra Mỹ sẽ ngưng ném bom Bắc Việt một khi cuộc đám phán bắt đầu.

 

Lê Đức Thọ cho rằng như vậy là Mỹ đã “ra điều kiện” cho việc ngưng ném bom trong khi Hà Nội muốn Mỹ ngưng ném bom vô điều kiện trước rồi mới đàm phán sau.   

 

Chú giải : Ngưng ném bom vô điều kiện thì có nghĩa là Mỹ thua

Vào lúc này, đầu tháng 10 năm 1968, lực lượng của CSVN tại Miền Nam hoàn toàn kiệt quệ sau khi đã vét hết toàn lực để tổ chức đợt 3 của cuộc tổng công kích Mậu Thân.  Nhưng rốt cuộc trên toàn quốc chỉ có 2 cuộc tấn công cấp tiểu đoàn,  và chỉ pháo kích vào Sài Gòn được đúng 19 quả đạn pháo.  Hà Nội bắt buộc phải ngồi vào bàn đàm phán như là một cách vớt vát thất bại chứ không còn đường nào khác.

 

Thế nhưng các bộ óc điện tử tại Washington lại nghĩ rằng quân CSVN đang ở trên thế mạnh, họ cho rằng Hà Nội đang lợi dụng cuộc bầu cử sắp tới của Mỹ mà làm áp lực đòi hỏi tối đa sự nhượng bộ của Mỹ.  Tuy nhiên các chính trị gia Mỹ không ngờ rằng một khi Mỹ tuyên bố ngưng ném bom vô điều kiện thì có nghĩa là xác nhận họ đang ở trong tư thế bị thua trận.

 

Còn chuyện ném bom hay ngưng ném bom thì đối với Hà Nội không thành vấn đề.  Mỹ đã ném bom suốt từ 1965 đến nay nhưng người và chiến cụ của CSVN vẫn đi vào Nam không sót một cân nào ( Thực ra là đi bằng ngõ Shihanukville ).  Nếu ném bom mà làm cho Hà Nội phải lo sợ thì họ đã xin hòa đàm từ những ngày trước Mậu Thân.

 

Trái lại càng ném bom thì họ càng có cớ mà lu loa lên với thế giới rằng Hoa Kỳ tàn hại dân lành Việt Nam.  Thế giới càng ủng hộ họ.  Trong khi đó họ không hề có một mảy may động lòng trước cái chết của dân lành hay của lính CSVN dưới những trận mưa bom của quân đội Mỹ.  Đối với họ thì ai đó chết chứ con cái của họ đâu có chết.

 

Còn quân đội CSVN ở vùng giới tuyến ( Phía Bắc vĩ tuyến 17 ) ngày ngày khoanh tay ngồi nhìn phi cơ Mỹ trút bom vào chỗ không người, trên vùng rừng núi hoang vu, trên những chiếc cầu đã gãy, trên những đoạn đường không còn người đi.  Với lối thả bom như thế này thì e rằng tới một ngày nào đó Mỹ không còn bom để thả chứ Hà Nội không việc gì phải ngại.

 

Ngược lại, tại Washington và trên khắp nước Mỹ,  sau khi có dấu hiệu sẽ có hòa đàm thì báo chí, radio, TV bàn chuyện rút quân.  Người người bàn chuyện rút quân, nhà nhà bàn chuyện rút quân với niềm hy vọng chân thành.

 

Thế rồi không biết từ bao giờ mọi người dân Mỹ in trí rằng quân đội Mỹ đang trên đà thua trận.  Do đó người ta dễ dàng xúc động trước nghĩa cử mở đường của Hà Nội.  Giờ đây mà ai nói đến chuyện làm phật ý Hà Nội thì đồng nghĩa với phá hoại quốc gia (sic). *( Chính Nguyễn Văn Thiệu là nạn nhân đầu tiên bị phỉ báng vì chùng chình không chịu đàm phán )

 

Trong khi trên thực tế quân đội Mỹ và VNCH vững hơn bao giờ hết.  Và người hiểu rõ thực tế nhất là ông Nguyễn Văn Thiệu, ông ta đánh nhau với quân CSVN từ năm 1948 cho tới nay là 20 năm trên khắp các miền chiến địa từ Bắc chí Nam.  Vì vậy ông ta ngao ngán cho sự nôn nóng của Washington.

 

(19) TỔNG CÔNG KÍCH ĐỢT 4

Điều quân Miền Bắc vào Nam Bộ

 

Năm 1968, cuối năm, Hà Nội điều bộ chỉ huy Sư đoàn 1 tại Tây Nguyên cùng với các trung đoàn 33, 320 và 174 vào Nam Bộ ( Hồi ký của Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, bí thư Quân ủy mặt trận Tây Nguyên ).

 

*Chú giải : Trung đoàn 320 và 174 là hai trung đoàn trực thuộc Sư đoàn 1 CSVN đang hoạt động tại Kontum, còn Trung đoàn 33 là trung đoàn biệt lập đang hoạt động tại Ban Mê Thuột.

 

Thực ra quân số của 3 trung đoàn đã bị tan tành sau trận Dak Tô vào tháng 11 năm 1967, chỉ còn 3 Trung đoàn bộ.  Sở dĩ chỉ còn sư đoàn bộ và Trung đoàn bộ bởi vì theo nguyên tắc tổ chức của quân CSVN thì Sư đoàn bộ và Trung đoàn bộ luôn luôn ở nơi an toàn cách mặt trận trên 10 cây số, ngoài tầm pháo của pháo binh địch.  Do đó khi các trung đoàn 33, 320 và 174 bị B.52 tiêu diệt tại Dak Tô thì bộ chỉ huy Sư đoàn 1 và bộ chỉ huy 3 trung đoàn vẫn còn nguyên.

 

Giờ đây sau khi quân CSMN bị chết hết sau 3 đợt tổng công kích thì Hà Nội đưa quân từ ngoài Bắc vào để bổ sung cho Sư đoàn 1 Tây nguyên rồi đưa Sư đoàn 1 Tây Nguyên vào Nam Bộ ( có lẽ quân số lấy từ Sư đoàn 324 ở Đồng Hới bởi vì sau năm 1967 sư đoàn 324 không còn xuất hiện trong các tài liệu quân sự của CSVN, chỉ có Sư đoàn 234.B ).

 

Năm 1969, đầu năm, theo tài liệu của Phòng 2 BTTM/VNCH, trong 40 ngày đầu năm, quân đội VNCH và Hoa Kỳ đã bắt được trên 17.000 tấn đạn súng cối các loại và 500 hỏa tiễn địa địa cỡ từ 107 ly tới 144 ly . Số vũ khí này được Liên Xô và Trung Quốc tăng cường yểm trợ sau khi nhận thấy dấu hiệu thua cuộc của Hoa Kỳ sau trận tết Mậu Thân.

 

*Chú giải : Mỹ thả hằng triệu tấn bom vào chỗ không người

Kết quả bắt được 17 ngàn tấn đạn pháo mới chuyển đến sau 3 đợt tổng tấn công khiến cho các nhà tham mưu quân sự Mỹ kết luận rằng dội bom trên tuyến đường mòn HCM không có hiệu quả.  Các ông tướng Mỹ đành bó tay .  Cuối cùng họ thừa nhận phương pháp chuyển vận vũ khí của CSVN là thần bí đối với các nhà quân sự học.

 

Sự thần bí đã được giải mã sau khi tướng Lon Nol đảo chánh tại Cam Bốt.  Hóa ra vũ khí của CSVN đi bằng tàu hàng của Trung Cọng từ Hồng Kông đến Shihanukville rồi chở bằng đường bộ đến biên giới Việt Nam.  Như vậy hằng triệu tấn bom của Mỹ thả tại vùng hỏa tuyến và đường mòn HCM chỉ là vô ích, thả bom vào chỗ không người để chận một con đường không ai sử dụng tới (sic).

 

Trong các cuộc đàm phán sau này phía Mỹ luôn luôn tỏ ý lo ngại phía CSVN sẽ lợi dụng lúc Mỹ ngưng thả bom vùng hỏa tuyến mà đưa vũ khí xâm nhập Miền Nam.  Điều này khiến cho CSVN càng thích thú.  Một mặt họ kích cho Mỹ tăng cường ném bom nhiều hơn nữa, một mặt họ lu loa với thế giới rằng Mỹ không ngưng ném bom tức là không có thiện chí hòa bình

 

Tổng công kích đợt 4

 

Năm 1969, ngày 31-1, Trung ương cục Miền Nam ra chỉ thị số 71, ra lệnh chuẩn bị tấn công một lần nữa vào dịp tết, tương tự như tết Mậu Thân nhưng không tập trung tấn công thành thị, mà tấn công các huyết lộ tiếp vận cho các các căn cứ Mỹ và VNCH;  đợt này tổng tấn công và tổng nổi dậy tại vùng nông thôn.

 

Năm 1969, ngày 22-2, mồng 7 tết Kỷ Dậu, quân CSVN mở đầu tổng công kích đợt 4 bằng các cuộc pháo kích vào 100 mục tiêu trên khắp Miền Nam.  Trong 5 ngày đầu pháo kích bằng hỏa tiễn vào các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế.

 

Tại Vùng 2, quân CSVN đào đường đắp mô trên các quốc lộ 1, 14,19 và tuyến đường sắt Nha Trang – Quy Nhơn.  Tại vùng 4, quân CSVN tấn công ở vùng nông thôn tại các tỉnh Định Tường, Châu Đốc, Kiến Tường và Vĩnh Bình.

 

Tại Sài Gòn, trước đó quân VNCH mở 500 cuộc hành quân tuần tra vùng ven biên thành phố.  Tuy nhiên cũng có 7 cuộc pháo kích bằng hỏa tiễn 107 ly vào thành phố, có 3 toán pháo kích bị bắn hạ khi đang chuẩn bị pháo.

 

Tại Vùng 3 có một cuộc tấn công cấp trung đoàn vào căn cứ tiếp liệu Long Bình và một cuộc tấn công cấp trung đoàn vào trại giam tù binh Suối Máu ở Biên Hòa.

 

Cuộc tấn công vào kho Long Bình bị chống trả bởi Trung đoàn Khinh kỵ 11 Mỹ.  Hơn 200 quân CSVN bị trực thăng vũ trang Cobra bắn hạ giữa 5 lớp hàng rào phòng thủ, quân đội Mỹ chỉ bị thiệt hại nhẹ.

 

Ngày 23-2, lúc 3 giờ sáng, Trung đoàn 275 CSVN xâm nhập vùng Tân Hiệp, Biên Hòa để tấn công trại giam Suối Máu, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH và phi trường Biên Hòa.

 

*Lúc 5 giờ sáng :  Tiểu đoàn 5 TQLC/VNCH ( khoảng 650 người ) cùng với 1 tiểu đoàn Biệt động quân ( khoảng 500 người ) và 1 đại đội Địa phương quân VNCH ( 100 người ) bao vây tấn công quân CSVN.  Cuộc tấn công bắt đầu từ lúc 11 giờ sáng.  Đến 3 giờ chiều quân VNCH dùng loa trên máy bay L.19 kêu gọi dân chúng tản cư ra khỏi vùng Tân Hiệp. Có một số quân CSVN trà trộn trong dân chúng thoát ra ngoài.  Sau đó máy bay ném bom vào vị trí đóng quân của CSVN và Tiểu đoàn 5 TQLC tấn công.  Kết quả bắt sống 87 người và đếm được tại chỗ 264 xác, tịch thu hơn 100 súng.

 

*Chú giải : Quân CSVN biến hóa như Tề Thiên

Lực lượng tấn công là 1 trung đoàn ( lý thuyết là 2.500 người ) nhưng quân đội VNCH chỉ cần 1 tiểu đoàn BĐQ ( 500 người ) và 1 đại đội ĐPQ ( 100 người ) là đủ để bao vây và tiêu diệt.  Vậy 1 trung đoàn của CSVN vào lúc này là bao nhiêu?  Câu trả lời là khoảng 400 như Trung đoàn Quyết Thắng hay Trung đoàn Đồng Nai trong trận tổng tấn công đợt 2.

 

Tướng Abrams (Tư lệnh quân đội Hoa kỳ tại Việt Nam ) báo cáo với Washington là tổng số quân CSVN tấn công trong đợt 2 tại vùng Sài Gòn là 4 trung đoàn ( 10.000 người, theo lý thuyết mỗi trung đoàn 2.500 người ).  Nhưng thực tế cho thấy chỉ có 2 trung đoàn tấn công trong vùng Biên Hòa,  và mỗi trung đoàn có quân số khoảng 400 người.

 

Sở dĩ có chuyện tưởng như đùa này là vì sau trận tết Mậu Thân các đơn vị CSVN đều bị tan nát, mỗi trung đoàn gom quân lại chưa đủ một tiểu đoàn.  Nhưng căn cứ vào những tin giật gân của báo chí Mỹ, Tướng CSVN Trần Văn Trà có sáng kiến là đôn các trung đoàn lên thành sư đoàn, đôn các tiểu đoàn lên thành trung đoàn.

 

Thí dụ như một người tù binh khai rằng họ thuộc Tiểu đoàn 167 của Trung đoàn 275 thuộc sư đoàn 5 CSVN bởi vì họ đã được cấp chỉ huy cho biết như vậy;  nhưng thực ra Sư đoàn 5 CSVN chỉ có 1 Trung đoàn 275 và Trung đoàn 275 chỉ có 1 Tiểu đoàn 167.  Rồi thì do lời khai của anh tù binh này và một số tù binh khác, tình báo VNCH và Hoa Kỳ ghi nhận lực lượng CSVN tham dự trận đánh tại Biên Hòa là 1 sư đoàn ( 10.000 người ) trong khi thực chất chỉ là 1 tiểu đoàn ( một tiểu đoàn du kích khoảng 350 người )

 

Năm 1969, ngày 6-3, quân CSVN tấn công trại Ben Hét do 1 đại đội Biệt kích Mỹ ( dân sự chiến đấu ) trấn giữ, cuộc tấn công có sự tham gia của 10 xe tăng PT.76 và 6 chiếc vận tải Molotova chở quân chạy theo xe tăng.  Máy bay Mỹ bắn hạ 2 PT.76 và 6 Molotova.  Sau khi kế hoạch tấn công nhanh bằng chiến xa thất bại, quân CSVN tổ chức tấn công trại bằng bộ binh nhưng gặp sự chống trả quyết liệt của quân phòng thủ với sự yểm trợ của máy bay trực thăng vũ trang và máy bay ném bom.

 

Sau 56 ngày dằng co, quân CSVN rút lui vào ngày 1-7-1968.  Trong thời gian bao vây quân CSVN đã pháo vào đồn tất cả là 6.000 quả đạn.  Đây là trận cuối cùng của đợt 4 tổng công kích.

 

Trong đợt 4 CSVN chỉ điều động lực lượng chính quy từ Bắc vào.  Số cuộc tấn công cấp tiểu đoàn hoặc cao hơn tiểu đoàn là 16 vụ, so với 6 vụ trong đợt 2 và 2 vụ trong đợt 3.  Chứng tỏ lực lượng địa phương hoàn toan tan nát sau 3 đợt tổng tấn công.

 

Mỹ dứt khoát phải cầu hòa để tránh đại bại

 

Năm 1969, ngày 7-1, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Rush gọi điện thoại cho Đại sứ Bunker, phàn nàn về việc chiếc bàn của hội nghị Paris ( Hà Nội đòi bàn vuông, ông Thiệu đòi bàn tròn ).  Dean Rush cho biết là Tổng thống Johnson rất tức giận về việc vô bổ này.

 

Sau đó Bunker tìm đến Tổng thống Thiệu với bức công điện của Tổng thống Johnson và cho biết Washington sẽ ngưng hỗ trợ cho Sài Gòn nếu ông Thiệu không thay đổi thái độ mà phía Mỹ cho là “quá đáng”.  Ngoài ra Bunker cũng cho biết đây cũng là ý kiến của tân Tổng thống Nixon và tân Ngoại trưởng Hoa Kỳ William Rogers.

 

Tổng thống Thiệu không quan tâm và tìm cách tránh mặt Bunker;  sáng thứ Hai ông nói rằng bệnh, sáng thứ Ba ông đi kinh lý các tỉnh, ngày thứ Tư ông không có mặt tại Sài Gòn. Mãi đến thứ Sáu ông mới tiếp Bunker.  Sau 5 giờ thảo luận, đến 8 giờ chiều ông mới chấp thuận bàn nào cũng được.

 

Nhưng không ngờ tối hôm đó Paris cho biết là Hà Nội đã chấp thuận bàn tròn thay vì bàn vuông (sic).  Theo ghi chép của Bunker thì ông không hiểu nổi triết lý xâu xa nằm trong hình dáng cái bàn mặc dầu Ngoại trưởng Nguyễn Chánh Thành đã mất nhiều thời gian để giải thích cho Bunker vào hồi tháng 10.*( Bàn vuông là có 4 quốc gia, còn bàn tròn là có 3 quốc gia ).

 

(20) KẾT LUẬN VỀ TRẬN MẬU THÂN

Kết quả sau 4 đợt tổng công kích

 

Một điều hết sức khôi hài đối với lịch sử là trong khi CIA đưa tin về Washington rằng quân VNCH đã thua đậm sau 4 trận “tổng công kích” Mậu Thân thì sự thực hoàn toàn ngược lại; tài liệu của Bộ Ngoại giao CSVN do Lưu Văn Lợi công bố :

 

“Cuối năm 1968 trong Nam Bộ các Ấp Chiến Đấu và những vùng xôi đậu đã bị quân đội Sài Gòn chiếm lại. Cuối 1968 chúng ta đã bị tổn thất nặng. Địch dồn lực lượng vào công tác bình định thôn quê gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong hai năm 1969-1970. Từ khi quân Mỹ vào Việt Nam chúng ta chưa bao giờ gập nhiều vấn nạn như trong hai năm ấy. Các căn cứ của ta ở thôn quê bị suy nhược và vị trí co thắt lại.

 

“Quân ta bị tiêu diệt, không còn đất bám và phải qua đồn trú tại Cao Miên. Chúng ta trải qua một thời kỳ hết sức khó khăn trong những năm 1969-1970-1971. Kể từ giữa năm 1968 địch đã tập trung đánh phá các vùng giải phóng để tiêu diệt và đẩy chúng ta ra khỏi cứ địa”. ( Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, “Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ & Kissinger tại Paris”, Nhà xuất bản Thế Giới, Hà Nội ).

 

Hồi ức của ông Võ Văn Kiệt được nhà báo Huy Đức ghi lại :

 

Mậu Thân quả là đã gây được những tiếng vang chính trị trong lòng nước Mỹ, nhưng những người trực tiếp ở chiến trường như ông đã phải chứng kiến sự hy sinh quá lớn. Ông nói: “Lúc đó tôi đau đến mức nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn quân giải phóng đã hy sinh trên toàn chiến trường. Phần lớn căn cứ địa Quân Giải phóng ở nông thôn đã trở thành “đất trắng” ( Huy Đức, Hiện tượng Võ Văn Kiệt , chương 1 ).

 

Theo thống kê của quân đội VNCH căn cứ theo lời khai của các tù binh trên 34 mặt trận xảy ra trên toàn quốc thì toàn bộ quân CSVN trước khi tham gia trận chiến là 85.000 quân, không kể 1 sư đoàn chính quy tại Tây Nguyên và 2 sư đoàn tại Khe Sanh.  Như vậy con số hơn 11 vạn của ông Võ Văn Kiệt có nghĩa là quân CSVN đã hoàn toàn chết hết.

 

Mỹ sợ bóng sợ vía do CIA lỡ báo cáo sai

 

Thái độ dân chúng Nam Việt Nam qua biến cố Mậu Thân cho thấy dân tộc Việt Nam đứng về phe chống Cộng chứ không phải như năm 1954 dân chúng Việt Nam đứng về phe chống thực dân (Việt Minh).  Những gì xảy ra tại Huế chứng thực điều này.

 

Trong 25 ngày quân CSVN làm chủ tình hình tại Huế, dân chúng Miền Nam bất hợp tác với CSVN và bồng bế nhau chạy về phía VNCH.  Còn những người mắc kẹt trong vùng do CSVN chiếm đóng thì ngày đêm mong chờ quân đội VNCH đến giải cứu.

 

Ngoài ra không những dân chúng thành thị mà ngay cả thôn quê cũng không có nơi nào đứng dậy hoan nghênh quân CSVN.  Trái lại họ chịu dựng quân đội CSVN như chịu đựng thiên tai.  Sau đó thì họ vui vẻ hoàn hồn trở lại khi thấy quân đội VNCH đã đánh bật CSVN lên núi.

 

Thế nhưng tai mắt của CIA làm lơ điều này bởi vì lục lại các báo cáo của CIA từ trước tới nay thì hoàn toàn ngược lại, nghĩa là họ đã lỡ báo cáo rằng hầu hết dân chúng Việt Nam ngưỡng mộ Cọng sản và luôn luôn chực chờ nổi dậy một khi quân CSVN xuất hiện.

Chính vì những nhận xét sai lầm của CIA mà chính phủ Mỹ quyết định đưa quân vào Miền Nam Việt Nam chứ không bao giờ nghĩ tới chuyện giao việc chống Cộng cho dân tộc Việt Nam, là dân tộc đầu tiên trên thế giới đã thành lập chính phủ chống cộng (1948).

 

Làm trò cười cho Bắc Kinh, Hà Nội và Nam Vang

 

Suốt từ năm 1965 cho tới 1970 hằng triệu tấn vũ khí của Hà Nội đi bằng tàu hàng Trung Cọng từ Hồng Kong đến cảng Shihanukville.  Thế mà các nhà quân sự vĩ đại của Mỹ đã ngăn chận bằng cách ném hằng triệu tấn bom xuống vùng bắc Vĩ tuyến 17 và vùng đường mòn HCM (sic).

 

Ngày đêm miệt mài, hết đoàn máy bay này đến đoàn máy bay khác nhào xuống đánh phá con đường chiến lược hư ảo không ai dùng tới.  Rốt cuộc chỉ làm trò cười cho những nhà lãnh đạo Bắc Kinh, Hà Nội và Nam Vang.  Từ vụ này họ suy ra các đầu óc của Washington tài giỏi tới độ nào.  Cả thế giới có thể đánh giá sai lầm về trình độ thông minh của Washington nhưng Bắc Kinh, Hà Nội và Nam Vang thì không (!).

 

Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Shihanuk đã cười thầm khi chứng kiến bom nổ ngày đêm trên đường mòn HCM.  Họ cười thầm khi nghe Mỹ cáo buộc Hà Nội lợi dụng Mỹ ngưng ném bom để chuyển vũ khí vào Nam.  Họ cười thầm khi nghe báo chí thế giới ca ngợi vệ tinh quan sát của Mỹ theo dõi từng tàu hàng của CSVN rời cảng Bắc Việt, ….

 

Trong khi đó hằng triệu tấn vũ khí từ cảng Hồng Kông cặp bến Shihanukville mà cả nước Mỹ không biết.  Nếu người Mỹ sớm đoán ra điều này thì sẽ không có trận Mậu thân, không có hòa đàm Paris và quân Mỹ không đến nỗi phải tháo chạy ( Từ của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng ).

 

Nhưng cái sai lầm nặng nhất của chính phủ Mỹ không phải là không đoán ra, mà là sau khi phát giác điều đó vào tháng 5 năm 1970 thì tất cả hè nhau giấu nhẹm đi, vẫn để cho Ngũ Giác Đài nghĩ rằng lâu nay vũ khí vẫn được chuyển bằng đường mòn Hồ Chí Minh.  Trong khi nếu Ngũ Giác Đài biết được sự thật từ lúc đó thì họ sẽ có chiến thuật chến lược khác hẵn và sẽ không có trận Hạ Lào, không có Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, không có Hiệp định Paris và không có chiến dịch Mùa Xuân 1975.

 

Cả nước Mỹ bị lầm vì coi CIA như thượng đế

 

Cái thê thảm của các chiến lược gia Mỹ là họ căn cứ vào thông tin của CIA.  Nhưng CIA chỉ là “một hãng buôn tin dỏm” cho nên khi lực lượng của CSVN là 85 ngàn thì CIA đinh ninh là 323 ngàn ( Hoàng Ngọc Lung ).  Đến khi quân CSVN chết hết trong trận Mậu Thân thì CIA lại nghĩ rằng rằng quân CSVN còn 283 ngàn ( Phạm Văn Sơn ) và họ đang tuyển mộ thêm nhiều sau “chiến thắng” tết Mậu Thân.

 

Hồi ký của Tướng Westmoreland, bản Việt ngữ trang 399 : “Một năm sau khi tôi rời nhiệm sở, Tướng Giáp của Bắc Việt tiết lộ cho nhà báo Ý Đại Lợi Oriana Fallaci, hay rằng đến thời điểm đó (nửa đầu năm 1969) quân Bắc Việt đã thiệt hại trên nửa triệu quân.  Con số này nhiều bằng bình phương con số do chúng tôi ước tính” ( Nghĩa là Ngũ Giác Đài ước tính trong khoảng thời gian nửa đầu năm 1969 quân CSVN bị chết 707 người ).

 

Và khi đã biết là quân CSVN đã chết 500.000 thì Ngũ Giác Đài không hề thay đổi kế hoạch rút quân của họ, họ vẫn coi như quân CSVN không chết người nào và họ lọ mọ đến Paris với tư cách của bên thua cuộc (sic).

 

Năm đó, 1969, Westmoreland đang là người đứng đầu Ngũ Giác Đài, tức là đứng đầu mọi kế hoạch quân sự của Mỹ trên toàn thế giới và đặc biệt là tại chiến trường Việt Nam.  Thế nhưng khi được biết quân CSVN bị chết 500 ngàn, nghĩa là chết hết, thì Westmoreland vẫn dững dưng như không phải là việc của ông ta.

 

Lẽ ra sau khi biết được tin đó thì ông ta phải ngay tức khắc hỏi lại CIA.  Và nếu cần thì vận động giải tán CIA bởi vì quân CSVN hoàn toàn bị tiêu diệt mà CIA không biết gì hết.  Còn nếu không giải tán CIA thì ông cũng buộc CIA phải trả lời cho Ngũ Giác Đài và cho Tổng thống Mỹ là thực sự CSVN hiện đang còn bao nhiêu quân tại Miền Nam Việt Nam?  Ông chỉ cần làm một việc đơn giản như vậy thì sẽ lòi ra là CSVN đại thua trong trận Mậu Thân;  lúc đó Mỹ sẽ đến Paris với tư cách là bên thắng cuộc chứ không phải là bên thua cuộc.

Nhưng nói cho cùng nếu lúc đó Westmoreland muốn vặn CIA thì ông ta sẽ đụng đầu Kissinger, trong khi Kissinger là một tay cáo già cho nên Westmoreland dầu có muốn ra tay thì cũng thúc thủ đối với Kissinger.  Kissinger muốn nổi danh là một con người kiến tạo hòa bình của thế gới cho nên hễ ông ta phán ra một chuyện gì thì chi nhánh CIA tại VN có bổn phận giàn dựng chuyện đó thành có thật.

Hễ Kissinger cần tin CSVN hùng mạnh thì CIA nhào nặn ra bằng chứng cho thấy CSVN rất hùng mạnh.  Hễ Kissinger cần tin quân đội VNCH không có khả năng thì CIA nhào nặn ra bằng chứng quân đội VNCH chết nhát.  Hễ khi nào Kissinger cần bằng chứng Thiệu tham nhũng, độc tài thì CIA sẽ đạo diễn các màn xuống đường chống đối Thiệu, v.v….

Rốt cuộc cơ quan tình báo siêu đẳng nhất thế giới tự nhiên biến thành đồ chơi của một tay cơ hội chủ nghĩa.

Có lẽ đọc tới đây thì có người cho rằng có lẽ số kiếp của dân tộc Việt Nam nó bị như vậy…!!  Nhưng không có số kiếp nào cả, mà là chỉ có những cái đầu óc tồi nắm vận mạng nước Mỹ và vận mạng của cả thế giới.

Điều nguy hiểm là cho tới nay những người trong cuộc vẫn cố tình bưng bít chuyện này, thậm chí họ muốn sửa lại lịch sử.  Trong khi nước Mỹ, nhân dân Mỹ cần phải mổ xẻ rốt ráo chuyện đã qua để rút kinh nghiệm cho nước Mỹ về sau; và kể cả rút kinh nghiệm cho thế giới.

 

Sau chiến tranh Việt Nam nước Mỹ cố gắng che đậy những sai lầm chết người của họ tại Việt Nam.  Nhất là quan niệm thần thánh hóa khả năng siêu việt của CIA.  Người Mỹ cứ tin chắc rằng CIA của họ biết hết mọi việc, hóa phép được tất cả mọi việc,  như là … Đức Chúa Trời !!

 

Cho tới nay ông Donald Trump hô hào hãy làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại.  Nhưng sự vĩ đại đó sẽ không bao giờ trở lại nếu người Mỹ vẫn cứ cố tình bưng bít những sai lầm vĩ đại trong chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến đánh dấu sự bắt đầu đi xuống của nước Mỹ.

 

 

 

Trận Mậu Thân   part1

Trận Mậu Thân  part 2

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lãng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lý Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Giòng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Ðịnh Chính Tà 1

  42. Phân Ðịnh Chính Tà 2

  43. Phân Ðịnh Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Giòng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 


 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

 

 

 

.

 

 

 

CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState  

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia

.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *