* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT - EPOCH
Từ trái qua phải: Bùi AnhTrinh, Nguyễn Đình Chiến, Chu Di Tuyển, Kim Âu Hà Văn Sơn, Trương Văn Hùng
Date: Th 7, 7 thg 9, 2019 vào lúc
18:33
Subject: Bạn hiền thân mến
To: Kim Au <kimau48@gmail.com>
Bạn hiền thân mến,
Khi mày cùng với tụi thằng Tâm, Hòa,
Hùng, Luật… bỏ học, đăng ký “Biệt kích nhảy Bắc” thì tụi tao nghĩ
rằng tụi mày muốn tìm cảm giác mạnh, hay cao hơn chút nữa là muốn
làm người hùng… Nhưng chỉ vài tháng sau đó thì tin thằng Tâm bị mất
tích ngoài Bắc, tin Hòa, Hùng tử trận và Luật mất tích khiến tụi tao
không dám nghĩ bậy về tụi mày nữa và cũng biết tính mạng của mày chỉ
còn tính từng ngày… Và quả nhiên chỉ vài tháng sau thì có tin mày đã
bị bắt ngoài Bắc, tụi tao kể như mày và Tâm, Luật đã chết chứ làm
sao có ngày về…
Cuối năm đó thì tụi thằng Tài, Hợi,
Long… nhảy núi, do hậu quả của vụ tham gia biểu tình “biến động Miền
Trung”. Đến nông nỗi này thì tụi tao không muốn khen mà cũng
chẳng dám chê tụi nó nhưng trong lòng cũng nghĩ là tụi nó cũng thuộc
loại muốn làm anh hùng, nhưng là một thứ anh hùng đáng sợ hơn tụi
mày.
Thế rồi qua năm sau là biến cố Mậu
Thân. Lệnh tổng động viên được ban hành, những thằng nào không muốn
làm người hùng cũng phải đi làm anh hùng. Rốt cục thì ba cái thứ anh
hùng gặp nhau ngoài chiến địa. Tao nghĩ âu cũng là đẹp mặt tổ
tiên…!!
Tao không biết năm Mậu Thân ở ngoài Bắc
tụi mày suy nghĩ gì về tụi tao, nhưng chắc là mày đáng đời cho mấy
thằng con nhà lành bắt đầu tập tành nếm mùi đánh nhau. Trong khi đó
tụi tao bước chân vào lính mà chẳng hề dám nghĩ là mình đi làm người
hùng.
Cuộc đời tao bắt đầu tiêu tùng từ cái
trận Mậu Thân đáng nguyền rủa đó. Giờ đây tao phải viết lại đầu đuôi
trận đó với con mắt nhìn của ba bên bốn phía để cho người đời thấy
được cái số phận của đất nước Việt Nam cũng chẳng khác gì số kiếp
của mày và tao.
http://quanvan.net/tran-mau-than-1968/
BÙI ANH TRINH
TRẬN MẬU THÂN 1968,
(11), SỰ THẬT VỀ TRẬN KHE SANH
Địa thế trận địa Khe Sanh
Quốc Lộ 9 của
Việt Nam chạy song song với sông Bến Hải, cách 20 cây số về phía
Nam,
bắt đầu từ vùng bờ biển Quảng Trị
lên đến biên giới Lào-Việt và chấm dứt tại bờ sông Cửu Long, biên
giới Lào- Thái.
Căn cứ Khe Sanh nằm giữa Đường 9
và sông Bến Hải, gần biên giới Lào, cách 12 cây số.
Từ sau Hiệp định Geneve 1954 Quốc lộ 9 là
đường huyết mạch tiếp tế cho các tiền đồn hoạt động tại vùng cực Bắc
của biên giới Lào, Nam Việt Nam. Và căn cứ Khe Sanh là tiền đồn ngăn
chận vùng địa đầu giới tuyến, kiểm soát trục lộ xâm nhập của quân
Bắc Việt vào Nam bằng đường xe hơi của Lào bên kia biên giới.
Đầu năm 1967
tướng tư lệnh quân đội Mỹ cho mở rộng căn cứ Khe Sanh thành một cứ
điểm hỏa lực có cả sân bay như là cứ điểm Điện Biên Phủ trước kia.
Đơn vị trấn giữ là Trung đoàn 26
Thủy quân lục chiến Mỹ cùng với 1 tiểu đoàn Cơ giới (thiết giáp) và
1 đại đội tình báo chiến lược.
Tổng số quân khoảng 3.500 người.
Trên Quốc lộ 9,
cách biên giới Lào 2 cây số có đồn Làng Vei là một đồn Biệt Kích Mỹ
(CIDG) do một toán cố vấn Mỹ 14 người và một toán cố vấn Việt Nam 13
người làm cán bộ chỉ huy.
Quân số Biệt kích trong đồn là 450
người, hầu hết sắc tộc Bru (Vân Kiều).
Tháng 10 năm
1967, nằm trong kế hoạch Tổng công kích Mậu Thân, Hà Nội điều tới
quanh Khe Sanh 2 sư đoàn là Sư đoàn 325.C ( Sư đoàn 325 thứ ba ) và
Sư đoàn 304.B ( Sư đoàn 304 thứ nhì ).
Trong khi đó có 2 sư đoàn trừ bị
nằm tại phía Bắc vĩ tuyến 17.
Đó là sư đoàn 320 và Sư đoàn
324.B. ( Mỗi sư đoàn khoảng 10.000 người )
Năm 1967, ngày 6
tháng 12, Hà Nội quyết định thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch Khe Sanh
(Mặt trận B.5).
Do Thiếu tướng Trần Quý Hai làm Tư
lệnh và Thiếu tướng Lê Quang Đạo làm Chính ủy.
Lúc này quân CSVN tại khu vực Khe
Sanh là 2 sư đoàn ( 20.000 người ).
Năm 1968, ngày
22-1, Tiểu đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ được không vận đến tăng cường cho
Khe Sanh.
Ngày 27-1, tăng cường thêm Tiểu
đoàn 37 Biệt động quân VNCH, nâng tổng số lực lượng phòng thủ căn cứ
là 7 tiểu đoàn ( khoảng 5.000 lính Mỹ và 1.000 lính VN ).
Sở dĩ có sự tăng
cường quân số vì Tướng Tư lệnh quân đội Mỹ tại VN là Westmoreland
đọc được bài viết của Tướng Giáp đăng trên báo Quân đội Nhân dân;
trong đó Giáp hăm sẽ đánh lớn với
quân Mỹ tại vùng Quảng Trị
Căn cứ Khe Sanh trong chiến dịch Tổng công
kích Mậu Thân
Năm
1968, ngày 31-1, trận Tổng công
kích Mậu Thân nổ ra trên toàn quốc, quân CSVN chiếm đóng thành phố
Huế;
Hà Nội chỉ thị cho Mặt trận B.5 :
““Phải diệt căn cứ Làng Vây trong ngày 6 tháng 2 để phối hợp tác
chiến chung với toàn Miền”.
Năm 1968, ngày
6-2, lúc 11 giờ 30 tối,
quân CSVN tấn công đồn Làng Vei,
lực lượng tấn công gồm Trung đoàn 24 biệt lập, Tiểu đoàn 2 của Trung
đoàn 675 pháo binh, Tiểu đoàn 198 của Trung đoàn 203 thiết giáp (14
chiếc xe tăng PT.76), 2 tiểu đoàn công binh, 2 đại đội đặc công, 1
đại đội súng máy phòng không, 1 trung đội súng phun lửa.
Lúc chiến trận nổ ra, trong đồn Làng Vei có
450 lính Biệt kích Mỹ người sắc tộc Bru, 14 cố vấn HK do Đại úy
Willoughby làm trưởng toán và 13 cố vấn VN do Trung úy Phạm Duy Quân
làm trưởng toán.
Lúc 1 giờ sáng ngày 7-2, quân CSVN tràn
ngập khu trung tâm đồn Làng Vei. Quân phòng thủ bị đánh bại bởi xe
tăng PT.76.
Năm 1968, ngày
7-2, buổi sáng, Tướng Tư lệnh quân đội Mỹ tại VN là Westmoreland bay
ra Đà Nẵng để theo dõi trận Làng Vei.
Trong đêm ông đã bị dựng dậy 2 lần
vì Chỉ huy trưởng Liên đoàn 5 Lực lượng đặc biệt HK cho biết là quân
TQLC/ Mỹ tại căn cứ Khe Sanh không chịu tiếp viện cho đồn Làng Vei
theo như kế hoạch phối hợp hoạt động đã ấn định trước giữa LLĐB/Mỹ
và TQLC/Mỹ.
Tướng
Westmoreland đích thân ra lệnh giải cứu đồn Làng Vei bằng trực
thăng, nhưng chỉ cứu được 14 trong số 24 cán bộ LLĐB/HK và VN, 10
người còn lại đã bị tử thương.
Còn lính Biệt kích Bru thì họ tự
gải cứu bằng cách chạy về buôn làng dẫn vợ, ôm con chạy xuống Khe
Sanh.
Cũng trong buổi
sáng ngày 7-2, các tướng lãnh Mỹ tại Đà Nẵng đã báo cáo cho
Westmoreland biết rằng quân CSVN hiện diện tại vùng giới tuyến là 7
sư đoàn;
gồm có 2 sư đoàn bao vây căn cứ
khe Sanh, 2 Sư đoàn bố trí tại vùng bờ biển phía nam sông Bến Hải, 1
sư đoàn vùng thượng nguồn phía nam sông Bến Hải, 1 sư đoàn bố trí
tại phía Bắc Đà Nẵng – Nam Thừa Thiên, và 1 sư đoàn đang đánh vào
Thừa Thiên.
*( Tuy nhiên sự
thực chỉ có
sư đoàn 325 và sư đoàn 304 tại Khe
Sanh và 2 Trung đoàn đang đánh Thừa Thiên ).
* Chú giải :
Sai lầm của Tướng Westmoreland
Tướng
Wesrtmoreland bị đè nặng với con số 7 sư đoàn xung quanh Huế khiến
cho ông phải xin thêm quân.
Không phải do lỗi các ông tướng Mỹ
báo cáo láo mà thực sự là cơ quan tình báo của quân đội Mỹ quá tồi,
họ quá tin tưởng vào CIA nhưng CIA chỉ chuyên môn sưu tầm tin bằng
cách mua tin.
*( Nhưng thói
đời là hễ có người mua tin thì sẽ có “con buôn tin”. Mà hễ là con
buôn thì luôn luôn xảy ra tình trạng “hàng dõm”.
Cái tai hại là người mua tin không
thể nào kiểm chứng được là hàng thật hay hàng giả.
Điều này đã được ông Trùm CIA
Frank Snepp nêu ra trong tác phẩm Decent
Interval.
Mãi tới sau 1975 thì CIA mới phát
hiện ra điều này.
Trong khi người viết bài này, BAT,
cũng từng là một “con buôn” tin cho CIA trước 1975 cho nên biết rất
rõ ).
Trước đây Westmoreland mạnh dạn thành lập
cứ điểm Khe Sanh bởi vì ông cho rằng nếu quân CSVN tấn công Khe Sanh
bằng các sư đoàn bộ binh và pháo binh như tại Điện Biên Phủ thì ông
sẽ dùng B.,52 thả bom rải thảm xung quanh căn cứ, giống như kế hoạch
của Ngũ Giác Đài dùng để giải vây cho Điện Biên Phủ năm 1954.
Tuy nhiên cho
tới khi quân CSVN tổng tấn công khắp Miền Nam thì báo chí thi nhau
cảnh báo về một trận Điện Biên Phủ thứ hai tại Khe Sanh.
Những lời cảnh báo được lập đi lập
lại với nhiều nhân vật khác nhau khiến cho Westmoreland cũng bắt đầu
lo lắng.
Trong khi đó Washington liên tục
nhắc chừng ông đừng để bị gài bẩy như Điện Biên Phủ và khuyên nên
rời bỏ Khe Sanh.
Đến ngày 22-3-1968, một trong những nhà
bình luận sử học nổi tiếng của Mỹ là Tiến sĩ Arthur Schlesinger,
bình luận gia của tờ Post, đã viết về trận Khe Sanh đang diễn ra:
“Tổng thống
Johnson muốn ví mình với Lincoln…nhưng ông không có lòng can đảm
loại bỏ những ông tướng nào không đủ khả năng cầm quân để chiến
thắng quân địch…Nếu là Lincoln thì ông ta không để Westmoreland ngồi
lâu không quá 3 tháng.” ( Hồi ký của Wsetmoreland, trang 483.
Schlesinger được báo chí quốc tế
gọi là “nhà thông thái” ).
Kế hoạch bom rải thảm
Năm 1968, ngày
9-2, một trận đụng độ xảy ra giữa 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 1/9
TQLC/Mỹ và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 101 D CSVN.
Kết quả trân đụng độ phía HK có 26
chết, 27 bị thương;
phía CSVN có 51 chết, 78 bị
thương.
Ngày 10-2, hai trung đoàn 66 và 9 thuộc Sư
đoàn 304 B; và hai trung đoàn 101 D, 95 C thuộc Sư đoàn 325 C của
CSVN áp sát xung quanh căn cứ khe Sanh, chốt giữ 13 cao điểm để hình
thành trận địa tấn công.
Ngày 11-2,
hai phi cơ
C.123 của Mỹ bị trúng đạn pháo
kích tại phi trường Khe Sanh, một chiếc bị nổ tung, một chiếc bay về
được tới Đà Nẵng.
Kể từ lần này máy bay tiếp tế cho
Khe Sanh không đáp hẵn xuống phi trường mà bay sát mặt phi đạo rồi
bấm dù cho dù lôi các kiện hàng ra cửa bụng sau phi cơ,
rơi xuống mặt phi đạo.
Ngày 23-2, liên
tục trong 8 tiếng đồng hồ, quân CSVN pháo kích 1.300 quả đạn vào căn
cứ Khe Sanh.
Một
quả đạn rơi trúng kho đạn của căn cứ, kho đạn bị nổ khiến 10 binh sĩ
HK bị chết và 51 bị thương.
Cũng bắt đầu từ ngày này, Tướng
Westmoreland cho thi hành kế hoạch thả bom rải thảm dọn sạch chung
quanh căn cứ Khe Sanh :
Bắt đầu từ giữa tháng 2 cho tới đầu tháng
4, mỗi ngày có 300 phi xuất rải bom, trung bình cứ 5 phút có 1 phi
xuất, tổng cộng là 35.000 tấn bom (!).
Cũng trong thời gian trên, có 2.602 phi vụ
B.52, tổng cộng 75.000 tấn bom.
Cũng trong thời gian trên, có trên 100.000
quả đạn pháo 175 ly bắn xung quanh Khe Sanh, trung bình mỗi ngày bắn
1.500 quả.
Với lượng bom
đạn như vậy, chung quanh Khe Sanh trong vòng bán kính 10 cây số, tất
cả đều biến thành bùn.
Hai sư đoàn quân CSVN ( 20.000
người ) đang bao vây Khe Sanh cùng chung số phận với cây cối và đất
đá.
Ngày 29-2, lúc 9
giờ 30 tối, một tiểu đoàn CSVN tại phía Đông căn cứ Khe Sanh, là nơi
chưa bị bom rải thảm, đã tấn công tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 37
BĐQ/VNCH nhưng bị đẩy lùi.
Sáng hôm sau quân VNCH lục soát
đếm được 70 xác quân CSVN.
BÙI ANH TRINH
Bản đồ từ Quảng trị đi Khe Sanh
(12) PHÂN TÍCH CHIẾN THUẬT BOM RẢI THẢM
TRONG TRẬN KHE SANH
“Điện Biên Phủ thứ hai” thất bại
Năm 1968, giữa
tháng 3.
Hồi ký của Tướng Westmoreland :
“Đến giữa tháng Ba có dấu hiệu cho thấy địch bỏ Khe Sanh;
mưu toan muốn tạo Khe Sanh thành
Điện Biên Phủ thứ hai đã thất bại.
Quân Bắc Việt bắt đầu rút về bên
kia biên giới Lào”…
“
Từ Khe Sanh các đơn vị của Sư đoàn Không kỵ, quân đội VNCH, TQLC Hoa
Kỳ bủa ra mọi hướng để thanh sát kết quả cuộc không tập và yểm trợ
pháo binh trong suốt mấy tháng trước…ban tham mưu của tôi ước đoán
quân Bắc Việt bị thiệt ít nhất từ 10.000 đến 15.000 trong nổ lực
biến Khe Sanh thành Điện Biên Phủ nhưng bất thành. Hoa Kỳ bị thiệt
205 binh sĩ” (Bản dịch của Duy Nguyên trang 500).
Chú giải : Bom rải thảm
Trong khi đó tài liệu “Quân đội Nhân dân
Việt Nam” của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân CSVN ghi nhận lực lượng
CSVN tham dự trận Khe Sanh là :
“Các sư đoàn bộ binh 304, 320, 324B và 325
(từ tháng 5, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 vào thay cho các sư đoàn
324B và 325 đi chiến trường khác), Trung đoàn 270 (Vĩnh Linh) và 2
tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, 1 đoàn và 5 đại đội đặc
công, 5 trung đoàn pháo binh (16, 45, 84 và 204), 3 trung đoàn pháo
phòng không, 1 tiểu đoàn tăng – thiết giáp, 1 tiểu đoàn thông tin, 1
tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn hoá học, 1 trung đoàn và 2 tiểu
đoàn công binh, 1 đại đội súng phun lửa, 6 tiểu đoàn vận tải và lực
lượng vũ trang các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá”.
Lực lượng này (
khoảng 70.000 người ) hơn hẵn so với lực lượng CSVN trong trận Điện
Biên Phủ.
Trong khi quân phòng thủ tại Điện
Biên Phủ là 12.000, còn quân phòng thủ tại Khe Sanh là 6.000.
Và kết quả cuối cùng là căn cứ Khe
Sanh vẫn vững vàng suốt
một tháng rưỡi chiến đấu mà chỉ
thiệt hại 205 người.
Tài liệu của
quân đội CSVN ghi rằng Sư đoàn 325 (tức là 325C) và Sư đoàn 324B đi
chiến trường khác nhưng thực ra là “đi về bên kia thế giới”.
Sư đoàn 320 nhập trận sau, trấn
giữ chận viện trên Quốc lộ 9 nên thoát khỏi bị B.52 chôn vùi.
Sư đoàn 324B cũng nhập trận sau
nhưng phải vào thay thế Sư đoàn 304B nên chịu chung số phận với
325C.
Còn 304B bị thiệt hại nặng ngay
mấy ngày đầu nên được kéo ra ngoài chốt giữ các yếu điểm trên Quốc
lộ 9, khu vực biên giới, nhờ vậy mà không đến nỗi bị xóa sổ.
Người đời đọc
tài liệu quân sử của chiến tranh Việt Nam nghe nói nhiều về bom rải
thảm B.52 nhưng ít ai được chứng kiến tận mắt hay được xem phim ảnh
về kết quả sau một cuộc thả bom của B.52.
Chỉ có các toán thám sát của Lực
lượng Đặc biệt VNCH và Mỹ mới lường được sức mạnh của bom B.52; *(
Người viết bài này, BAT, đã từng nhảy toán kiểm chứng kết quả các
phi vụ B.52 nên biết rõ ).
Mỗi phi tuần B52
thường là 3 chiếc bay theo hàng ngang, mỗi chiếc rải bom theo hàng,
bề ngang khoảng 300 m và bề dài là 2.000 mét.
Trong diện tích 300 mét ngang và
2.000 mét dọc có 84 trái bom 500 cân Anh và 24 trái bom 725 cân Anh.
Mỗi trái bom 750 cân tạo ra một hố
bom đường kính 15 mét, sâu từ 3 tới 5 m.
Mỗi trái bom 500 cân tạo ra hố bom
nhỏ
đường kính 10m.
Do đó một khi có một phi tuần B.52
ném bom thì trong diện tích bề ngang 1 cây số, bề dài 2 cây số không
có một sinh vật nào sống sót do bị sức ép của bom chứ chưa nói đến
bị miểng.
Còn cây cối thì
bị chặt đứt nằm chồng chéo ngổn ngang 3, 4 lớp không thể nào đi qua
được.
Nếu ngồi
trên máy bay quan sát L.19 hay máy
bay trực thăng nhìn xuống thì cũng không thể nào nhìn thấy được
những gì dưới đống cây.
Cứ như vậy mà quân CSVN bị chôn
vùi hằng trung đoàn, sư đoàn cùng một lúc mà không ai phát hiện ra
được;
nghĩa là sau một trận B.52 thì
nguyên một khu vực đóng quân trở thành một nấm mộ khổng lồ. Vậy mà
Westmoreland đã cho thả tới 2.602 phi vụ, tức là 867 nấm mộ khổng lồ
bao quanh căn cứ Khe Sanh, mỗi nấm mộ bề dài 2 cây số và bề ngang 1
cây số.
Tuy nhiên con số
2.602 phi vụ B.52 với 75.000 tấn bom, và mỗi ngày 300 phi xuất phản
lực với 35.000 tấn bom dành cho 15.000 xác địch quân là quá phí, phí
tới độ không chấp nhận nổi. Tính ra mỗi xác chết CSVN phải lãnh tới
hơn 7 tấn bom.
Ngoài ra còn có 100.000 trái đạn
đại bác175 ly, tính ra mỗi xác
chết CSVN cõng thêm 7 trái đạn 175 ly nữa ( Khối thuốc nổ trong 1
trái đạn 175 ly đủ sức nhấc một chiến xe tăng 27 tấn lên khỏi mặt
đất ).
Hành quân giải tỏa Khe Sanh
Năm 1968, ngày
22-3, nhà sử học nổi tiếng của Mỹ là Schlesinger viết trên tờ Post
về việc quân CSVN bao vây Khe Sanh hơn 1 tháng qua : “Các nhà lãnh
đạo còn chút lương tâm và thông minh phải tìm cách di tản ngay tức
khắc số binh sĩ bị kẹt trong vòng vây”….!!
Trong khi đó thực tế tại Khe Sanh
cho thấy bài báo của Schlesinger vô cùng khôi hài.
Trước sự nôn
nóng của dư luận báo chí Mỹ;
Tướng Westmoreland, Tư lệnh quân
đội Mỹ tại VN, quyết định mở một cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh
sau khi ông biết chắc là toàn bộ quân CSBV đã rút về bên kia biên
giới.
Tuy nhiên để cho chắc ăn ông đã
điều động tới 2 sư đoàn làm nỗ lực chính và 2 sư đoàn làm nỗ lực phụ
( Tổng cộng khoảng 40.000 người ).
Nỗ lực chính gồm Sư đoàn 1 Kỵ binh
không vận Mỹ.
Trung đoàn 6 và Trung đoàn 1
TQLC/Mỹ.
Lữ đoàn Nhảy dù VNCH.
Nỗ lực phụ gồm Sư đoàn 3/TQLC/Mỹ
và Sư đoàn 1/BB/VNCH.
Ngày 1-4,
Nổ lực chính bắt đầu triển khai
hành quân với 300 trực thăng và 148 khẩu đại bác.
Ngày 4-4, Lữ
đoàn Nhảy dù VNCH được thả xuống khu vực phía Tây Khe Sanh, tức là
vùng biên giới Lào Việt để chận quân CSVN từ Khe Sanh rút về biên
giới, qua Lào.
Nhưng cũng là để bảo vệ an toàn
cho các cánh quân Mỹ đang lục soát xung quanh Khe Sanh, ngăn chận
quân CSBV có thể từ bên kia biên giới tràn sang với xe tăng và đại
pháo.
Cũng trong ngày
này Tiểu đoàn 1/5 Khinh kỵ Mỹ chạm súng với một tiểu đoàn CSVN đang
cố thủ tại một đồn Pháp cũ trên khu vực Quốc lộ 9.
Quân Mỹ bị thiệt hại nặng, trung
tá Tiểu đoàn trưởng bị tử thương.
Tiểu đoàn 2/5 Không vận HK được
đưa vào tiếp ứng nhưng quân CSVN đã rút đi.( Một tiểu đoàn khinh kỵ
Mỹ khoảng 550 người, một tiểu đoàn TQLC Mỹ khoảng 650 người ).
Cùng ngày, Tiểu đoàn 1/9/TQLC/HK từ căn cứ
Khe Sanh mở cuộc hành quân chiếm lại đồi 471, đếm được 148 xác CSVN
bỏ lại chiến trường.
Ngày 6-4, Tiểu đoàn 1/9/TQLC/HK lục soát
tái chiếm các đồi 552 và 862 nhưng không gặp sự kháng cự.
Cùng ngày, Tiểu
đoàn 2/26/TQLC/HK từ căn cứ khe Sanh bung ra lục soát tái chiếm đồi
558 nhưng gặp sự chống cự mãnh liệt của một đơn vị cấp đại đội (
khoảng 100 người ), phải 3 ngày sau quân Mỹ mới chiếm được đồi sau
khi ngọn đồi đã biến thành bùn.
*( Có lẽ đại đội này sống sót giữa
các trận bom nhưng mất liên lạc với Sư đoàn của họ.
Vì còn lương thực cho nên họ tiếp
tục nằm lại tại đó để chờ lệnh cấp trên ).
Cũng trong ngày
này, Lữ doàn Nhảy dù VNCH dàn đội hình hàng ngang từ biên giới Lào
tiến về căn cứ Khe Sanh.
Khi đến gần căn cứ thì chạm địch.
Quân CSVN kêu pháo binh bắn tràn
lên trận địa tiêu diệt cả hai bên khiến cho Đại đội 33 Nhảy dù tổn
thất nặng. *( Đây là đơn vị CSVN sống sót nhờ bám sát Căn cứ Khe
Sanh nên không bị bom B.52 ).
Ngày 8-4, cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh
chấm dứt, tổng kết quân Hoa Kỳ có 92 chết, quân VNCH có 34 chết,
quân CSVN bỏ lại tại trận 1.304 xác và 21 bị bắt.
Chú giải : Đánh trận theo áp lực của báo
chí
Trước khi quyết
định thiết lập Khe Sanh như là một “cứ điểm Bộ binh- Không quân” thì
tướng Westmoreland đã tham khảo rất kỹ lưỡng với các nhà quân sự
học, nhất là các tướng lãnh Pháp.
Các tướng Pháp từng tham chiến tại
Việt Nam đều khuyên nên giữ Khe Sanh như một tiền đồn trấn ải cho
vùng địa đầu giới tuyến.
Trong khi đó các
ông tướng Ngũ Giác Đài lại sợ rơi vào một trận Điện Biên Phủ thứ
hai.
Hồi ký của Westmoreland ghi lại :
“Trong khi địch dồn quân tại Khe Sanh, ngày nào tôi cũng nhận được
thư từ Hoa Thịnh Đốn gửi sang nhắc chừng tôi đừng để bị gài bẫy như
Điện Biên Phủ và khuyên tôi nên bỏ Khe Sanh”.
Áp lực của các
nhà quân sự tài tử, tức là các ông giáo sư dạy sử hay các nhà bình
luận báo chí đã khiến cho Tướng Westmoreland có những cân nhắc quá
đáng.
Ông đã mời một vị Đại tá quân sử
của Ngũ Giác Đài phân tích chiến thuật chiến lược của Khe Sanh so
với Điện Biên Phủ; nhưng đáng buồn là vị Đại tá này khuyên không nên
giữ Khe Sanh.
Tướng
Westmoreland sử dụng tới 7 tấn bom và 7 viên đạn 175 ly cho mỗi xác
chết địch quân chứng tỏ ông tướng và ban tham mưu của ông quá tệ.
Nhưng
vì tự cao và tự ái cho nên Westmoreland chớ hề tham khảo ý kiến của
các tướng lãnh VNCH, không phải họ tài giỏi hơn các ông tướng Mỹ
nhưng họ rành CSVN hơn.
*( Trung tá Ngô
Quang Trưởng có thể ngồi một chỗ mà “đánh hơi” được quân CSVN giấu
súng ở chỗ nào.
Hoặc ông ta đứng hút thuốc, ngắm
giòng sông Ea Drang mà “tiên tri” ngày mai quân của ông đụng địch
tại đâu, lúc mấy giờ.
Hoặc Trung tướng Trần Ngọc Tám
ngồi một chỗ mà tiên tri quân CSVN sẽ đánh lớn trong tết Mậu Thân và
họ sẽ thua ).
Mặc dầu quân
CSVN chết chất đống dưới những nấm mộ khổng lồ của B.52 nhưng Lê
Duẩn không màng tới những chuyện đó bởi vì con trai của ông ta đang
du học tại Pháp hoặc đang nằm trị bệnh tâm thần tại Hà Nội, ông ta
chỉ biết “tấn công, tấn công, đại tấn công…Và chiến thắng, chiến
thắng, đại chiến thắng…”.
13) MỸ CHOÁNG VÁNG
Năm 1968, ngày
31-1, mùng một tết.
Lúc 3 giờ sáng, đội Biệt động số
11 thuộc Đoàn F.100 CSVN gồm 17 người dùng bộc phá đánh vỡ một mảng
tường rào Tòa đại sứ Mỹ và tràn vào trong khuôn viên, bắn chết 4
Quân cảnh rồi chia nhau tấn công vào nhà riêng của Đại sứ, tòa nhà
làm việc của Tòa Đại sứ và các nhà khác;
nhưng họ bị lính Thủy quân lục
chiến từ trong các tòa nhà bắn ra nên lần lượt bị tiêu diệt; 16
chết, Đội trưởng bị bắt sống.
Lúc 8 giờ30 sáng, trong khuôn viên tòa đại
sứ Mỹ đang còn ngún khói chiến trận, Tướng Wesmoreland họp báo trấn
an dư luận báo chí Mỹ và Quốc tế, ông cho rằng với tầm cỡ của một
cuộc chiến rộng lớn như thế này, quân CSVN chắc chắn sẽ chuốc lấy
thất bại.
Tuy nhiên báo
chí đã tung tin ngược với lời tuyên bố của Westmoreland : “Dường như
người ta nói láo bằng một sự bênh vực mỹ miều và một chiến thắng
ngoạn mục mà Westmoreland cùng nhiều người khác muốn tô điểm”;
“Westmoreland đang đứng trên đống
gạch vụn mà dám huênh hoang rằng mọi thứ sẽ tốt đẹp…” ( Hồi ký của
Westmoreland, bản dịch của Duy Nguyên trang 470 ).
Một tuần sau khi trận tổng tấn công mở màn
Năm 1968, một tuần sau trận tổng tấn công,
Tổng thống Thiệu xuất hiện trên đài truyền hình Mỹ qua chương trình
“Face The Nation”.
Tài liệu của Đại sứ Bunker ghi nhận :
“Ellsworth đã xem chương trình ấy qua đài truyền hình Quân đội Hoa
kỳ : Ngoại trừ Bob Shaplan còn giữ được phong cách lịch sự, những
người khác đều có thái độ hằn học khi chất vấn ông ta.
Thế nhưng bằng
những dẫn chứng xác đáng, bằng Anh ngữ, Thiệu đã trả lời trôi chảy
mọi vấn đề.
Ông ta luôn luôn chủ động, trầm
tỉnh và lịch sự ( Stephen Young, Victory Lost, bản dịch của Nguyễn
Vạn Hùng trang 190 ).
Ông Thiệu trầm
tỉnh bởi vì ông ta nắm rõ tình hình và ông ta biết làm thế nào để
đối phó với tình hình.
So với cuộc trả lời phỏng vấn
trước đó của Tướng Westmoreland thì rõ ràng Tướng Thiệu bản lĩnh
hơn.
Ông đã thuyết phục được giới báo
chí bằng những lập luận có dẫn chứng và chứng minh.
Trong khi đó những câu trả lời của
Westmoreland chỉ càng làm cho các phóng viên nghi ngờ thêm, cuối
cùng thì họ kết luận rằng ông tướng nói láo.
Năm 1968, ngày
8-2, Thượng nghị sĩ Robert Kennedy mở màn cuộc tranh cử chức tổng
thống Hoa Kỳ với lời tuyên bố : “Đã đến lúc Hoa Kỳ phải đối diện với
sự thật rằng một cuộc chiến thắng bằng quân sự chẳng bao giờ tìm
thấy được và sẽ chẳng bao giờ xảy ra” .
Cuối cùng ông kêu gọi thỏa thuận
cho CSVN được tham gia chính quyền Miền Nam Việt Nam.
Đây là một đề nghị tưởng như là
mưu tìm hòa bình nhưng thực chất là “bỏ rơi Nam Việt Nam”.
Năm 1968, ngày
11-2, bình luận gia của đài truyền hình CBS Mỹ là Walter Cronkite
đến Việt Nam để quan sát tình hình sau trận Mậu Thân.
Khi trở lại Mỹ ông
phát biểu trên đài truyền hình
rằng “Hoa kỳ đã lún sâu vào chỗ không lối thoát” và “Đó là hậu quả
của một cuộc chiến bi thảm… Tôi sẽ làm mọi thứ có thể làm được để
chấm dứt cuộc chiến”.
*( 39 năm sau Cronkite trở lại Việt Nam và
được Tướng Võ Nguyên Giáp cho biết là CSVN đã thua trắng tay trong
trận Mậu Thân ).
Năm 1968, ngày
13-2, qua một cuộc điện đàm, Tướng Westmoreland yêu cầu Tướng Tổng
tham mưu trưởng liên quân Mỹ là Earle Wheeler tăng quân khẩn cấp cho
chiến trường Nam Việt Nam.
Wheeler đến Sài Gòn để lượng giá
yêu cầu tăng quân của Westmoreland, sau đó ông trở về Mỹ và tỏ ra bi
quan :
“Wheeler cho rằng trong đợt tấn công đầu
tiên, cộng quân gần như đã thành công trong việc chiếm giữ hằng chục
thành phố, thị trấn, điều đó có nghĩa là, hy vọng một cuộc chiến
thắng bằng quân sự của phe đồng minh còn trong mong manh, xa vời”
(Stephen Young, Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 204
). Tuy nhiên sau đó ông cũng chấp thuận đề nghị tăng 206.000 quân
của Tướng Westmoreland.
*Chú giải : Theo
thông tin tình báo từ CIA, Phòng 2 Bộ Tổng tham mưu QL/VNCH ghi nhận
trước tết quân CSVN được ước tính khoảng 323.500 người (Tài liệu của
Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng phòng tình báo Bộ TTM/ VNCH ).
Trong khi sự thực toàn bộ lực
lượng của CSVN trước trận Mậu thân chỉ có 85.000 quân…(!!).
So sánh con số ước tính 323.500
với con số thực tế 85.000 cho thấy cơ quan tình báo CIA siêu đẳng
tới mức nào.
Và theo tài liệu
báo cáo của Bộ Tổng tham mưu QLVNCH do Nha quân sử phổ biến thì
trong tháng 2 năm 1968, nghĩa là sau 30 ngày nổ ra trận chiến, quân
CSVN bỏ xác tại các chiến trường là 41.181 người;
bị bắt làm tù binh là 7.391 người.
Thống kê này không tính số xác
được mang đi hoặc bị thương.
Và trong tháng 3 năm 1968 thì quân
CSVN bỏ xác tại chỗ là 17.192; bị bắt làm tù binh 2.070 người.
Tổng cộng nội trong 2 tháng đã có
60.000 người chết và 9.400 người bị bắt.
Số còn lại đã bỏ
ngũ trở về quê sinh sống, chỉ riêng tại Quân khu 9 (Miền Tây) con số
bỏ ngũ là 12 ngàn ( Quân Khu 9, 30 Năm Kháng Chiến;
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ).
Nghĩa là lực
lượng quân đội của CSVN đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Thế nhưng theo như thông tin tình
báo mà Bộ TTM/VNCH nhận được từ CIA thì sau tháng 2 năm 1968 quân
CSVN còn tới 283.500 người.
Gồm 97 tiểu đoàn và 18 đại đội
biệt lập.
Chia ra Vùng 1 chiến thuật 35 tiểu
đoàn và 18 đại đội biệt lập.
Vùng 2 chiến thuật 28 tiểu đoàn.
Vùng 3 chiến thuật 15 tiểu đoàn.
Và vùng 4 chiến thuật 19 tiểu đoàn ( Tài liệu của Trung tá Phạm Văn
Sơn, Giám đốc Nha Quân sử/VNCH ).
Chính con số ước
tính này của CIA đã khiến cho Tướng Westmoreland quyết định xin tăng
thêm 206.000 quân.
Chuyện xin tăng quân làm cho ông
mất uy tín đối với dân chúng Mỹ và cả với Tổng thống Johnson.
Nhận xét bi đát của CIA
Năm 1968, ngày
26-2, “Cơ quan tình báo CIA tại Hoa Thịnh Đốn đã đệ nạp chính phủ
một bản
nghiên cứu tổng hợp nhằm tái lập
chính sách tại Miền Nam Việt Nam từ A đến Z.
Bản báo cáo này đưa ra nhận định
rằng chính quyền Miền Nam Việt Nam quá yếu kém, vì vậy trong tương
lai không thể nào đủ khả năng để đương đầu với Cọng sản Hà Nội.
Một bản phúc trình thứ ba, cũng tương tự
như thế, CIA cho rằng, trong vài tháng sắp tới, tình hình nguy khốn
sẽ xảy ra cả về phía quân đội lẫn chính quyền Miền Nam Việt Nam, vô
phương cứu vãn ( Stephen Young, Victory Lost, bản dịch của Nguyễn
Vạn Hùng trang 185 ).
Năm 1968, ngày
29-2, một tháng sau trận Mậu Thân.
Tân Bộ trưởng Quốc phòng Clark
Clipfford thay thế cựu bộ trưởng MacNamara.
Ngày 1-3-1968, Clark Clifford nhận
được một bản phúc trình của các chuyên gia quân sự tại Ngũ Giác Đài
: “Phải thay đổi toàn bộ, nếu không thì không thể thực hiện (kịp) kế
hoạch chấm dứt chiến tranh”. (
Tức là kế hoạch đầu hàng trong
danh dự:
rút quân và điều đình chung tiền
lấy lại tù binh ).
*Chú giải :
Theo hồi ký của MacNamara thì ông
đã xin với Tổng thống Johnson được thôi chức từ đầu tháng 11 năm
1967 và Tổng thống đã chấp thuận.
Nhưng theo sách “Vietnam: A
History” của Stanley Karnow thì tác giả quả quyết rằng Tổng thống
Johnson yêu cầu MacNamara từ chức.
Nhưng sau này
tài liệu mật của Nhà Trắng được giải mã cho thấy Tổng thống Johnson
phát hiện McNamara đi đêm với Robert Kennedy, ngầm ủng hộ Kennedy
tranh cử với Johnson trong nhiệm kỳ tới cho nên ông thông báo chia
tay với McNamara, nhận được thông báo của Johnson, McNamara nộp đơn
từ chức.
Vô tình đơn từ chức của ông vừa
nộp thì xảy ra trận Mậu Thân cho nên Nhà Trắng đợi 1 tháng sau tết
Mậu Thân mới loan báo.
Năm 1968, cuối tháng 2. Tài liệu của Đại
sứ Bunker do Stephen Young phổ biến : “Thiệu ước tính, cộng quân sẽ
không trở lại cuộc chiến du kích với những đơn vị lẻ tẻ tại nông
thôn.
…
Thiệu tiên liệu,
Hà Nội sẽ ngồi vào bàn hội nghị vào cuối năm 1968 và đầu năm 1969.
Điều Thiệu tiên đoán đã xảy ra
đúng” ( Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 199 )…
“Thiệu sau đó đã chỉ thị cho các đơn vị quân đội Miền Nam Việt Nam
quay trở lại bảo vệ nông thôn” (trang 211).
Năm 1968, giữa
tháng 3, văn bản xin tăng thêm quân Hoa Kỳ của Tướng Westmoreland bị
một nhân viên dân sự làm việc trong Bộ Quốc phòng tiết lộ cho tờ báo
New York Time ( Sau này được xuất bản với tên “The Pentagon Papers”
).
Dư luận Mỹ nổi lên công kích
Westmoreland dữ dội, cho rằng ông ta đã lừa bịp khi đứng trong khuôn
viên tòa đại sứ tuyên bố rằng CSVN sẽ thất bại khi mở cuộc tổng công
kích.
Tin tức bay về Hà Nội, Lê Duẩn quyết định
xua 2 sư đoàn Bắc Việt (16.000 quân) tấn công căn cứ Khe Sanh đang
được 5.000 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và 1.000 Biệt động quân VNCH
trấn giữ. Washington rúng động, phóng viên báo chí quốc tế đổ xuống
sân bay Huế để săn tin về một trận Điện Biên Phủ thứ hai.
Năm 1968, ngày 23-3, Tướng Westmoreland
được thông báo chuẩn bị rời chức vụ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam
để về Washington nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Lục quân.
Năm 1968, ngày 31-3, Tổng thống Johnson đọc diễn văn loan báo giảm ném bom Bắc Việt, kêu gọi hòa đàm; và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ 2.
(14) CSVN THUA TRẮNG TAY
Từ 1964 Lê Duẩn
phấn khởi với tin chiến thắng của du kích Miền Nam như chiến dịch
Đồng Khởi tại Bến Tre, trận Tua Hai ở Tây Ninh, trận Ấp Bắc, trận
Bình Giả, trận Ba Gia.
Tuy nhiên với sự hiểu biết của một
nhà hoạt động cách mạng dày dạn kinh nghiệm, ông không tin là dân
quân du kích Miền Nam có thể thắng được “Mỹ ngụy”.
Nhưng
Lê Duẩn không còn gnhi ngờ gì nữa
khi ông nhận được bức thư cầu hòa của Tổng thống Johnson ngày
8-2-1967.
Chính bức thư này là một bằng
chứng xác thực nhất về hiệu quả chiến đấu của quân du kích CSVN.
Ông đã đích thân cầm lá thư này đi
xin viện trợ vũ khí của Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.
Cả hai nơi nhanh chóng thỏa mãn
yêu cầu của ông.
Lê Duẩn thấy
ngay là Mỹ đã thua mặc dầu Liên Xô và Trung Quốc chưa viện trợ vũ
khí tối tân cho CSVN.
Chỉ có súng AK không thôi mà họ đã
buộc Tổng thống Mỹ phải xuống nước cầu hòa, vậy thì một khi có đạn
pháo và vũ khí chống tăng, chống máy bay thì chắc chắn quân du kích
Miền Nam sẽ thắng.
Niềm tin chiến
thắng mạnh đến nổi Lê Duẩn đích thân điều binh khiển tướng, gạt tay
bợm đời Võ Nguyên Giáp qua một bên.
Đối với Lê Duẩn thì VNG thực sự
chẳng có tài cán gì nhưng ông quên một điều là ông ta và cả tướng
Tổng tham mưu trưởng là Văn Tiến Dũng chưa qua một trường lớp quân
sự nào cho nên các ông không đủ kiến thức để thẩm định hay hoạch
định chiến tranh.
Chiến tranh du
kích chỉ cần kinh nghiệm trên địa bàn hoạt động của một địa phương
nào đó.
Nhưng chiến tranh trên toàn quốc;
chống lại máy bay, pháo binh, xe tăng và các đại đơn vị Bộ binh thì
không tài nào áp dụng kinh nghiệm hoạt động du kích.
Thế mà Lê Duẩn đã quyết định đưa
du kích quân ra chọi với đại đơn vị Bộ binh và đại bác, máy bay, xe
tăng vào ban ngày thì chẳng khác nào xua chó đi bắt voi :
Thứ nhất là quân
số quá ít so với quân số đối phương.
Thứ hai vũ khí quá thô sơ so với
vũ khí của đối phương.
Thứ ba hệ thống vận chuyển và liên
lạc không bì một góc của đối phương.
Thứ tư hệ thống tình báo chiến
thuật của các cơ sở nằm vùng là con số không bởi vì những người cho
tin chẳng hiểu gì về hoạt động quân sự.
Thứ năm địa bàn đánh nhau là thành
phố, quân CSVN tránh cho khỏi bị đi lạc là may lắm rồi.
Cuối cùng là dân chúng thấy quân
CSVN ở đâu thì họ đều chỉ cho quân đội VNCH.
Ngoại trừ Huế,
trong vòng 1 tuần lễ quân đội VNCH đã dẹp xong toàn bộ lực lượng vũ
trang của CSVN.
Điều này chứng minh được rằng thực
lực quân CSVN chẳng có bao nhiêu so với các con số đang nằm trên các
bàn giấy tại Ngũ Giác Đài.
Cái giá phải trả do sai lầm của chúng ta :
Hồi ký của Ủy
viên Bộ chính trị Mai Chí Thọ đã dành một chương nói về hậu quả của
trận Mậu Thân với tiêu đề: “Cái giá phải trả do sai lầm chủ quan của
chúng ta sau trận Mậu Thân 1968”.
Trong đó ông viết :
“Sau Mậu Thân,
địch phản kích dữ dội khiến lực lượng ta bị tiêu hao nhiều.
Lực lượng võ trang mà ta đã bí mật
mai phục ở Miền Đông Nam bộ sau Hiệp định Geneve ( Cũng là lực lượng
chủ lực đánh trận Tua Hai ), trong chiến tranh chống Mỹ, phát triển
thành Trung đoàn chủ lực của Miền Đông Nam bộ, đã bị tiêu hao gần
hết trong và sau Mậu Thân.
Có thể nói đây là đơn vị chủ lực
đầu tiên của Nam bộ trong kháng chiến chống Mỹ…”.
Đoạn này cho
thấy thực tế trước Mậu Thân quân CSVN tại chiến trường B.2 (Miền
Đông Nam Bộ) chỉ có 2 Trung đoàn ( Khoảng 4.000 người ).
Hai trung đoàn này xuất thân từ
225 tay súng đánh trân Tua Hai vào năm 1960 và cả hai trung đoàn đã
bị tiêu diệt trong trận Tổng công kích đợt 1….Thế nhưng theo ghi
nhận của CIA và Phòng tình báo của MACV thì quân số của CSVN tại B.2
là 3 sư đoàn, gồm có Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, và sư đoàn 9 (khoảng
30.000 người).
Quyển sách lịch
sử
“Quân Khu 9, 30 Năm Kháng Chiến”
do nhà xuất bản Quân đội Nhân dân xuất bản ghi lại tình hình tại
riêng Quân khu 9 sau trận Mậu Thân:
“Sau Mậu Thân
1968, Quân khu 9 cũng như toàn chiến trường Miền Nam giành được
thắng lợi lớn (sic); song, do ta chuyển hướng không kịp, nhất là các
tỉnh vùng trung tâm sông Hậu, nên chủ lực và địa phương tổn thất
nặng nề.
Mỗi tiểu đoàn xuất quân chiến đấu
đông tới bốn, năm trăm người… khi trở về chỉ còn lẻ tẻ vài chục
xuồng, mỗi xuồng vài ba người…
Đến cuối năm 1969, địch đã bình định lấn
chiếm gần hết vùng giải phóng trước đây, chỉ còn căn cứ U Minh và
khu giải phóng Nam Cà Mau…
Tỉnh Cà Mau có
13 xã giải phóng nhưng chỉ thu được có 7 tân binh bổ sung cho bộ đội
chủ lực Khu, 6 người bổ xung cho bộ đội Huyện.
Trong khi đó toàn khu (Chưa tính
Vĩnh Trà) có 12.000 chiến sĩ bỏ ngũ về nhà.
Còn ở Vĩnh Trà tình hình cũng
tương tự như vậy…”.
Đây là bằng
chứng đáng tin cậy nhất về thực trạng của quân đội CSVN sau trận Mậu
Thân.
Thế nhưng buồn cười là phía Mỹ (
CIA ) lại cho rằng sau trận Mậu Thân quân đội Cọng sản đã chiến
thắng oanh liệt và họ đang lừng lên, sắp sửa giáng cho quân đội Mỹ
một trận Điện Biên Phủ thứ hai tại Khe Sanh (sic).
Tài liệu của Hà Nội : Nghị quyết 21/Ban
chấp hành Trung ương Đảng
Năm
năm sau trận Mậu Thân, và sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Trung
ương Đảng CSVN có đủ bình tâm ngồi đánh giá lại kết quả của cuộc
tổng công kích và ghi vào Nghị quyết 21/BCHTU ngày 13-10-1973 :
“Qua đợt tiến
công nổi dậy 68, cả thế và lực của ta bị tổn thất nghiêm trọng.
Lực lượng vũ trang nói chung, lực
lượng đặc công biệt động nói riêng thiệt hại nặng nề.
Lực lượng chính
trị quần chúng bị địch phát hiện và thẳng tay đàn áp.
Nhiều chi bộ, cấp ủy, đoàn thể
quần chúng cách mạng ở vùng tạm chiếm, vùng tranh chấp bị phá vỡ.
Các vùng giải phóng rộng lớn ở
nông thôn bị thu hẹp dần.
Thế trận chiến
tranh nhân dân 3 vùng chiến lược bị suy giảm.
Mất dần bàn đạp tấn công, chỗ đứng
chân cũng thu hẹp dần, nhiều đơn vị lực lượng vũ trang địa phương
cũng như chủ lực, các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy các mặt trận, các
địa phương phải cơ động lên biên giới, sang đất bạn tạm trú đóng
quân, xốc lại đội hình, bổ sung người, vũ khí tiếp tục chiến đấu.
Và 28 năm sau, tài liệu “Tổng Kết Cuộc
Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước” phát hành tại Hà Nội năm 1996 ghi
nhận : “ Sau đợt Tổng tiến công Tết ta không kịp thời rút kinh
nghiệm, chậm chuyển hướng và không thấy hết được những âm mưu thủ
đoạn mới của địch…
Cho đến những tháng cuối 68, đầu 69, cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân ta ở Miền Nam đứng trước một
tình thế đầy thử thách phức tạp và chồng chất khó khăn…Tình trạng
mất dân, mất đất đã diễn ra ở nhiều nơi, vùng giải phóng và vùng
tranh chấp bị thu hẹp…”.
Thú nhận của những người trong cuộc
Hồi ký của tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp :
“Quân và dân Tây
Nguyên bước vào năm 1969 gặp muôn vàn khó khăn, có lúc tưởng chừng
không thể khắc phục được, nhất là lương thực.
Trong quyển sổ công tác số 16 của
tôi còn ghi lại, toàn chiến trường vào thời điểm tháng 2 năm 1969 số
gạo dự trữ chỉ còn khoảng 40 tấn.
Nguy cơ thiếu đói là không thể
tránh khỏi đối với cán bộ, chiến sĩ Tây Nguyên” (trang 273).
Lúc này lực lượng của quân CSVN
tại Tây Nguyên là 1 sư đoàn ( khoảng 10.000 người ), 40 tấn gạo chỉ
đủ ăn trong 7 ngày.
Hồi ức của ông Võ Văn Kiệt được nhà báo Huy
Đức ghi :
Mậu Thân quả là đã gây được những tiếng
vang chính trị trong lòng nước Mỹ, nhưng những người trực tiếp ở
chiến trường như ông đã phải chứng kiến sự hy sinh quá lớn. Ông nói:
“Lúc đó tôi đau đến mức nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn quân giải
phóng đã hy sinh trên toàn chiến trường.” ( Huy Đức, Hiện tượng Võ
Văn Kiệt , chương 1 ). Nghĩa là tất cả 85 ngàn quân của Miền Nam và
30 ngàn quân chính quy Bắc Việt đã chết hết.
Tự truyện của Đại tướng Lê Đức Anh do Khúc
Biên Hòa ghi :
“Tôi có gặp anh
Trần Bạch Đằng ( Anh Trần Bạch Đằng cùng ở Tiền phương 2 với anh Võ
Văn Kiệt ), anh Linh cũng đang có mặt tại đây.
Tôi đề xuất không nên mở đợt 2
đánh vào nội đô nữa vì không còn yếu tố bí mật bất ngờ…” ( Khúc Biên
Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh, trang 90 ).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn
với ký giả Walter Cronkite của đài CBS :
“ Cho tới nay tôi vẫn không hiểu nổi tại sao người Mỹ các anh lại chấm dứt thả bom Hà Nội (1972). Các anh đã tròng cổ được chúng tôi rồi. Nếu các anh nhấn thêm một chút nữa, chỉ một hoặc hai ngày nữa, chúng tôi đã sẵn sàng đầu hàng. Cũng giống như trận tết Mậu Thân, các anh đã đánh bại chúng tôi rồi”. ( Cuộc phỏng vấn tại Hà Nội ngày 8-12-2007 ).
(15) MỸ ĐẠI THẮNG NHƯNG MỸ TƯỞNG
THUA
Tưởng thua, con tàu nước Mỹ quay đầu
Năm 1968, hai
tháng sau trận Mậu thân, ngày 18-3 tại Washington, Đại sứ VNCH tại
Mỹ là Bùi Diễm xin gặp Tổng thống Johnson.
Ông được Tổng thống mời tiếp kiến
vào khoảng 5 giờ chiều.
Bùi Diễm kể lại :
“Lúc ngồi xuống,
đối diện sát ông, tôi mới nhận thấy là mới cách đó vài tháng ( lần
trước tôi gặp ông là tháng 11 năm 1967 ) mà ông già hẵn đi.
Trông ông có vẻ mệt mỏi, ưu tư
hiện rõ trên nét mặt, dường như gánh nặng của chiến tranh Việt Nam
đang thử thách sức chịu đựng của ông”
“Trong phòng
không một tiếng động.
Bên ngoài trời đã sẩm tối.
Đến khi tôi dứt lời thì Tổng thống
Johnson ngồi yên đến hai ba phút rồi mới chậm rãi phát biểu ý kiến.
Ông nói : “Nếu chúng ta không
thắng thì rắc rối to.
Tôi đã cố gắng hết sức nhưng một
mình tôi không thể cầm cự mãi được” ( Bùi Diễm, Gọng Kìm Lịch Sử,
trang 363 ).
Năm 1968, ngày
20-3, Đại sứ Bùi Diễm đến gặp tân Bộ trưởng Quốc phòng Clark
Clifford.
Ông Diễm kể lại :
“Ông không ngần ngại, nói đốp chát, cộc
lốc, đi thẳng vào vấn đề… Ông nói : “Lúc này không còn phải là lúc
dùng những danh từ mỹ miều ngoại giao nữa… .. Dân chúng Hoa kỳ đã
mất hết tinh thần, và sức ủng hộ của chúng tôi có giới hạn… … Chúng
ta bắt buộc phải tìm ra một giải pháp nào đó, nếu không thì chắc
chắn sẽ có tai họa”. ( Trang 365 )
Năm 1968, vài
ngày sau 20-3, Đại sứ Bùi Diễm đến gặp Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk.
Và ông kể lại lời của Ngoại trưởng
Mỹ : “Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác, và mục tiêu của chúng
tôi không còn là thắng lợi quân sự nữa, nhưng là hòa bình trong danh
dự” ( Bùi Diễm, Gọng Kìm Lịch Sử, trang 366 ).
Năm 1968, ngày
31-3, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố giảm ném bom Bắc Việt và không
ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2.
Để đáp lại, Hà Nội tuyên bố sẵn
sàng gặp nhau tại Paris để thương lượng ngưng bắn.
Chú giải : Tính toán của chiến lược
gia số 1 của Mỹ
Quyết định bất
ngờ của Tổng thống Johnson có vẻ như là một biểu hiện của sự mệt mỏi
và chán ngán;
khiến cho dư luận quốc tế, kể cả
Hà Nội, tin rằng đây là hậu quả của đợt tổng công kích tết Mậu Thân.
Tuy nhiên hồi ký của Bộ trưởng
Quốc phòng Clark Clifford, người thay thế McNamara, cho biết Tổng
thống Johnson không còn lựa chọn nào khác :
Johnson được coi
như là “tác giả” của chiến tranh Việt Nam.
Nhưng giờ đây dân chúng Mỹ đòi hỏi
phải chấm dứt chiến tranh, nghĩa là không còn ủng hộ ông nữa.
Do đó ông không thể quay 180 độ để
biến thành người chống chiến tranh như Thượng nghị sĩ Robert
Kennedy.
Nếu ông cứ giữ
vững lập trường theo đuổi chiến tranh thì ông sẽ không đắc cử mà
trái lại đảng Dân Chủ có thể mất đi cơ hội tiếp tục giữ chiếc ghế
Tổng thống Mỹ trong nhiệm kỳ sắp tới.
Vì vậy ông rút lui để ứng cử viên
Dân chủ Humphrey có cơ hội thắng cử với chiêu bài xúc tiến hòa đàm
chấm dứt chiến tranh.
Ngoài vấn đề
tranh cử, Tổng thống Johnson còn phải đối diện với vấn đề cải tổ xã
hội, xóa khoảng cách khác biệt giữa giới giàu với người nghèo;
một chính sách mà ông đã hứa khi
ra tranh cử năm 1964.
Mục sư Luther King đang mở một
phong trào vận động phản đối Jonson không thực hiện lời hứa cải tổ
xã hội cũng như phản đối chiến tranh Việt Nam.
Rõ ràng lúc đó
Johnson không thể nào có đủ ngân sách cho chương trình cải tổ xã hội
vì phải tăng thuế mới có đủ ngân sách thực hiện cải tổ xã hội trong
khi một nửa ngân sách quốc phòng đã dồn hết cho chiến tranh Việt
Nam.
Nếu chính phủ xin tăng thuế thì
chắc chắn Quốc hội buộc Tổng thống phải rút quân trước khi chấp
thuận tăng thuế.
Vì vậy giải pháp rút quân là
chuyện “no choice” (không còn chọn lựa nào khác) đối với Tổng thống
Johson.
Hơn nữa, những lời tham vấn của tân bộ
trưởng Quốc phòng Clark Clifford đã cho Tổng thống Johnson thấy rằng
vấn đề không phải là nên rút quân hay không, mà là nên theo đuổi
chiến tranh Việt Nam hay không? Nếu không thì rút quân.
Sở dĩ Clifford có ý nghĩ đó vì sau khi nhận
chức Bộ trưởng Quốc phòng thì ông nhận được thỉnh cầu của Tướng
Westmoreland xin tăng thêm 206 ngàn quân, Clifford đã hỏi Tham mưu
trưởng liên quân Mỹ là Tướng Wheeler cùng với các sĩ quan trong Bộ
tham mưu liên quân:
Nếu thêm 200 ngàn quân chúng ta có biết
chắc sẽ thắng hay thua không?
Nếu 200 ngàn quân vẫn chưa đủ thì bao nhiêu
mới đủ?
Và một khi đã đủ thì có chắc sẽ không bao
giờ xin thêm nữa không? Thí dụ như Hà Nội thấy Mỹ tăng quân thì họ
cũng tăng quân thì tính làm sao?
Không có câu trả lời khẳng định nào được
đưa ra, nghĩa là các ông tướng cũng mù mờ về những gì đang xảy ra
tại Việt Nam, và rồi cũng không ai dám chắc những gì sẽ xảy ra. Từ
buổi hội ý này, Bộ trưởng Clifford đã có quyết định dứt khoát phải
rút quân khỏi Việt Nam.
Có thể nói thời
bấy giờ, và cả 20 năm sau này, Clifford là một chính trị gia lỗi lạc
nhất của Mỹ.
Từ một thiếu úy Hải quân đồng hóa
( không qua trường đào tạo sĩ quan căn bản ) vào năm 1944.
Nhờ
tài năng và bản lĩnh, hai năm sau Clifford đã trở thành đại tá phụ
tá Hải quân cho Tổng thống Truman, và 2 tháng sau khi mang lon đại
tá, ông đã trở thành phụ tá đặc biệt của Tổng thống Truman.
Sau 6 năm làm
việc với Truman, Clifford trở về hành nghề luật sư nhưng với uy tín
đầy mình và quen biết hầu hết các nhân vật quan trọng của Mỹ cũng
như của Thế giới.
Ông là cố vấn cho hầu hết các Tổng
thống Hoa Kỳ trong hai thập niên 1960-1970.
Trong đời ông kết thân với 9 vị
Tổng thống Mỹ.
Do đó khi ông nhận lời giữ chức Bộ
trưởng Quốc phòng thì cũng có nghĩa là ông quyết định ra tay giải
quyết chính trị Mỹ trong thời kỳ sóng gió do cuộc chiến tranh VN.
Vừa mới nhập
cuộc Clifford đã dễ dàng đi tới quyết định rút quân chỉ vì lý do là
theo đuổi chiến tranh Việt Nam không có lợi.
Ông đã đưa ra cho chính ông và cho
nhân dân Mỹ 2 lựa chọn :
một là theo đuổi chiến tranh với
kết quả biết chắc là bất lợi, hai là rút quân về.
Điều này chứng tỏ Clifford không
đủ bản lĩnh như danh tiếng của ông ta, chẳng qua là ông ta gặp may
quá nhiều.
Clifford chớ hề
nghĩ tới chuyện giao đại sự vào tay người Việt cho nên Mỹ đã bỏ lỡ
nhiều cơ hội bằng vàng. ( Stephen Young, Cuộc Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ
).
Tiếc là Washington không có cái
đầu nào cao hơn cái đầu của Clifford nên mới đưa tới nông nỗi thảm
bại của quốc gia Mỹ, một quốc gia chưa bao giờ biết rút lui kể từ
ngày lập quốc.
Vấn đề gải quyết
chiến tranh Việt Nam có tới hằng ngàn lựa chọn từ thấp tới cao, từ
hay tới dở chứ không phải chỉ có 2 lựa chọn.
Chẳng hạn như lựa chọn thứ 3 là
giao việc chống Cộng cho người Việt Nam.
Mỹ chỉ yểm trợ về tài chánh, vật
liệu thì tức khắc người Việt Nam sẽ làm hay hơn các cố vấn Mỹ và
quân đội Mỹ rất nhiều.
*( Điều này được
chứng thực trong cuộc đọ sức giữa quân đội VNCH và 200.000 quân Bắc
Việt vào năm 1972; mặc dầu năm đó quân đội VNCH như người bệnh mới
dậy sau khi quân đội Mỹ đột ngột rút về gần hết, nhường chiến trường
lại cho quân đội VNCH.
Nhưng quân đội VNCH chiến thắng dễ
dàng ).
Những gì Nguyễn
Văn Thiệu đối phó với Washington chứng tỏ ông ta rất cứng cựa và bản
lĩnh.
Giờ đây nếu phải đối phó với Lê
Duẫn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh…
thì ông ta thừa sức. *( Ông ta chỉ có một cái tội duy nhất là không
nghe lời Mỹ ngồi vào bàn đàm phán trong thư thế thua cuộc cho nên
người Mỹ nhìn ông ta như là “kẻ phá hoại hòa bình” ).
Người Việt bắt đầu tự lo cho số
phận của mình
Năm 1968, ngày
3-4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ
cùng xuất hiện trong một buổi họp báo.
Tổng thống Thiệu công bố cho dân
chúng biết về quyết định giảm ném bom Bắc Việt của Tổng thống Mỹ.
Trả lời phỏng
vấn, ông Thiệu cho biết giữa ông và Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tuy
có nhiều điểm dị biệt nhưng trong công việc
quốc gia, những vấn đề hệ trọng
ông đều thảo luận với Phó Tổng thống và chỉ quyết định khi hai người
cùng đồng ý.
Ông cũng loan báo việc Phó Tổng
thống đảm trách chỉ huy Lực lượng Nhân dân tự vệ, là lực lượng bán
vũ trang mới được thành lập trên toàn quốc.
Năm 1968, ngày 4-4, Mục sư Martin Luther King bị ám sát. Chính phủ Mỹ giảm được một áp lực chống đối chiến tranh Việt Nam. Nhưng dư luận lại cho rằng có thể ông mục sư bị giết do chủ trương phản chiến, do đó rộ lên phong trào tẩy chay các ứng cử viên chủ trương tiếp tục chiến tranh Việt Nam trong cuộc bầu cử sắp tới.
(16) TỔNG CÔNG KÍCH ĐỢT 2
Sau trận Tổng
tấn công đợt 1, tự truyện của Đại tướng Lê Đức Anh ghi lại : “Tôi có
gặp anh Trần Bạch Đằng ( Anh Trần Bạch Đằng cùng ở Tiền phương 2 với
anh Võ Văn Kiệt ), anh Linh cũng đang có mặt tại đây.
Tôi đề xuất không nên mở đợt 2
đánh vào nội đô nữa vì không còn yếu tố bí mật bất ngờ…”
Mặc dầu trình độ chỉ biết đọc biết viết
nhưng Lê Đức Anh có con mắt nhìn của một chuyên gia quân sự, ông
thấy ngay vấn đề là dân chúng không có nổi dậy, cho nên kế hoạch
tổng công kích tổng nổi dậy đã hoàn toàn thất bại.
Thế nhưng Nguyễn
Văn Linh và Võ Văn Kiệt không thể báo cáo sự thực cho Lê Duẩn, bởi
vì lâu nay các ông cứ nằn nì Lê Duẩn cung cấp vũ khí và tài chính.
Các ông cam đoan rằng một khi quân
nổi lên thì dân tràn theo, giống như cuộc nổi dậy cướp chính quyền
năm 1945.
Trong khi đó tin
tức từ Washington bay về Hà Nội cho thấy là quân Mỹ đã thua.
Bằng chứng hiển nhiên là Bộ trường
Quốc Phòng McMamara từ chức, Tư lệnh quân Mỹ tại Việt Nam
Westmoreland mất chức, Tổng thống Johnson tuyên bố giảm ném bom Bắc
Việt và không ra tranh cử nhiệm kỳ 2…Lúc đó Lê Duẩn có ngu mới không
hạ lệnh tổng tấn công tiếp đợt 2, đợt 3.
Không phải đe dọa suông mà ông
quyết còn người nào đánh người đó, ông sẽ cho đưa quân Miền Bắc vào
tiếp ứng.
Vì vậy các ông
Cọng sản Miền Nam đành phải vét hết lực lượng còn lại để tử chiến.
Lực lượng còn lại là một số đơn vị
tại vùng biên giới chưa di quân về kịp trong dịp giao thừa tết Mậu
Thân. Riêng tàn quân từng tham gia đợt 1 thì mạnh ai về nhà nấy chứ
không ai dại gì đi đánh tiếp.
Diễn tiến trận đánh
Năm 1968, đầu
tháng 4, Phó chính ủy Quân khu 4 của CSVN là Thượng tá Tám Hà ra hồi
chánh với chính quyền VNCH.
Ông cho biết CSVN dự trù tổng tấn
công đợt 2 với
tổng số quân công kích tại Sài Gòn
có khoảng 10.000 người *( Nhưng sự thực chỉ có khoảng 3.500 người ).
Năm 1968, ngày
5-5, tại Sài Gòn, lúc 3 giờ sáng, nhiều toán đặc công CSVN xuất hiện
tại nhiều nơi như khu Chợ Cầu Muối, Cầu Kho, khu Đề Thám, Bùi Viện,
Gò Vấp, Phú Thọ Hòa, Khánh Hội.
Mỗi toán đặc công khoảng 4,5
người; có toán 10,12 người, họ rải truyền đơn kêu gọi nổi dậy.
Lực lượng Cảnh
sát dã chiến VNCH của các quận Sài Gòn lục soát và tấn công các toán
đặc công CSVN.
Đến 6 giờ chiều thì hoàn toàn
thanh toán hết các toán đặc công.
Có 32 đặc công bị chết, 27 bị bắt
sống, thu 70 súng cá nhân.
Phía CSDC có 6 chết.
*Lúc 4 giờ sáng
:
1 tiểu đoàn địa phương CSVN pháo
kích và tấn công đơn vị TQLC của VNCH đang phòng thủ tại Cầu Sài Gòn
trên xa lộ Biên Hòa nhưng bị Tiểu đoàn 3/TQLC đánh bật, chạy giạt về
phía Giồng Ông Tố.
Cùng giờ, Tiểu đoàn Dĩ An CSVN ( Cơ động
tỉnh Đồng Nai, khoảng 350 người ) tấn công cầu Bình Lợi, bị Tiểu
đoàn 6 TQLC ( 650 người ) đẩy lui trong ngày.
Ngày 6-5, 1 tiểu
đoàn thuộc Trung đoàn 272 CSVN ( Chủ lực Miền , khoảng 400 người )
tập trung tại khu Mả Thánh Tây chuẩn bị tấn công vào phi trường Tân
Sơn Nhất.
Lúc 3 giờ sáng một toán tiền thám
của tiểu đoàn CSVN nổ súng vào chiếc xe kiểm soát phòng thủ tại cổng
phía Tây phi trường Tân Sơn Nhất, trên xe có Đại tá Không quân Lưu
Kim Cương tử trận.
*Lúc 8 giờ sáng
:
Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù VNCH ( 550
người ) đang nghỉ huấn luyện tại Biên Hòa nhận được lệnh về Sài Gòn
tấn công vào khu Mả Thánh Tây. Xế trưa thì Tiểu đoàn 7 ND bắt đầu
chạm địch, đến chiều tối thì thanh toán xong tiểu đoàn CSVN, đếm
được 60 xác, bắt sống 11 người, tịch thu 30 súng, trong đó có 1 đại
bác không giật 57 ly.
Ngày 7-5, mờ
sáng. Một toán đặc công CSVN lén lút rải truyền đơn tuyên truyền tại
đường Tự Đức, Quận 1, Sài Gòn;
bị xe tuần tiểu của cảnh sát phát
hiện, toán đặc công rút vào chiếm một viện bào chế dược phẩm để cố
thủ.
Một đơn vị Cảnh sát dã chiến ập
tới nơi xảy ra chiến trận cùng một lúc với Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc
Loan, Tổng giám đốc Cảnh sát.
Trong lúc cùng
với toán cảnh sát tấn công vào nơi quân CSVN đang cố thủ, Tướng Loan
bị đạn trúng đầu gối.
Sau 5 cuộc giải phẩu không thành
công, Tướng Loan phải cưa mất một chân.
Ngày 7-5, Hai
tiểu đoàn còn lại của Trung đoàn 272 CSVN tấn công Phú Thọ Hòa và
Bến Phạm Thế Hiển.
Tiểu đoàn 267 CSVN (địa phương)
tấn công vùng Minh Phụng, Chợ Lớn và cố thủ trên các cao ốc với súng
phòng không và đại bác 57 ly.
Tiểu đoàn 38
Biệt động quân VNCH phối hợp với Thiết Giáp tấn công giải tỏa khu
Phú Thọ Hòa.
Tiểu đoàn 35 Biệt động quân VNCH
tấn công giải tỏa khu Minh Phụng.
Hai ngày sau thì giải tỏa xong cả
hai khu
Đêm 7-5, Đại tá
Đàm Văn Quý ( Phụ tá hành quân của Tướng Loan ) tử trận trong khi
ông đi kiểm soát phòng thủ tại đường Hậu Giang, Chợ Lớn.
Khi xe của ông đến gần một chốt
canh gác của Cảnh sát dã chiến thì ông thấy có dấu hiệu không còn
người trong đó cho nên ông ra lệnh cho tài xế quay trở lui. Lúc xe
vừa trên đường quanh thì toàn đặc công CSVN trong trạm gác bắn theo
nhiều loạt đạn và có 1 viên trúng người của Đại tá Quý.
Ngày 8-5, hai
tiểu đoàn địa phương CSVN ( khoảng 700 người )
tấn công khu Cầu Chữ Y, quận 8.
Tiểu đoàn 2/TQLC/VNCH ( 650 người
) phối hợp với thiết giáp tấn công giải tỏa xong trong ngày hôm sau.
Cùng ngày, Tiểu đoàn 1 và Tiểu
đoàn 7 Nhảy dù VNCH hành quân lục soát và bao vậy 1 đại đội quân
CSVN tại khu 18 Thôn Vườn Trầu.
Sau 2 ngày thì đại đội CSVN bị
tiêu diệt và ra hàng.
Ngày 12-5, tình hình yên tĩnh trở lại, toàn
bộ quân CSVN rút ra khỏi thành phố.
Năm 1968, sau nửa tháng yên tĩnh, ngày
25-5, Trung đoàn Đồng Nai CSVN ( Chủ lực Miền ) xâm nhập vào vùng Bà
Chiểu, đến khu chùa Tập Thành xã Bình Hòa thì đụng độ với Tiểu đoàn
5 Dù VNCH.
Ngày 27-5, 2 tiểu đoàn địa phương CSVN từ
vùng Đồng Ông Cộ xâm nhập vào Ngã Năm Bình Hòa đánh chiếm vùng Phú
Lâm.
Quân VNCH gồm 1
tiểu đoàn Biệt động quân, 2 đại đội TQLC và 1 đại đội Cảnh sát dã
chiến tấn công đẩy quân CSVN dạt vào khu Quận 6 Chợ Lớn.
Trong cuộc tấn công tiêu diệt quân
CSVN tại khu Nguyễn Tri Phương, vào ngày 2-6 một trực thăng Hoa Kỳ
bắn lạc hỏa tiễn vào vị trí của bộ chỉ huy hành quân VNCH khiến 6 sĩ
quan cao cấp bị chết.
Ngày 31-5, Trung
đoàn Quyết Thắng CSVN
*( Theo lý thuyết thì 1 trung đoàn
chủ lực miền có khoảng 1.500 quân.
Nhưng đây là gom góp đám tàn quân
của tổng tấn công đợt 1 nên thực sự quân số cả trung đoàn chỉ có 400
người ) xâm nhập vùng Hạnh Thông Tây Gò Vấp, đụng độ với Tiểu đoàn 6
TQLC/VNCH ( khoảng 650 người ) tại cầu Băng Ky.
Ngày 3-6, Trung
đoàn Đồng Nai CSVN ( Cũng khoảng 400 người ) bị đánh tan, Trung đoàn
trưởng tử trận.
Số quân còn lại khoảng 250 người
rút về hướng bắc Tân Uyên.
Ngày 7-6, toán quân cuối cùng của 2 tiểu
đoàn địa phương xâm nhập vùng Chợ Lớn ( Tiểu đoàn 6 Bình Tân và Tiểu
đoàn 308 ) gồm 49 người đã ra hàng, số còn lại đã bị chết và bị bắt.
Ngày 17-6, Trung
đoàn Quyết Thắng CSVN phối hợp với tàn quân của Trung đoàn Đồng Nai
tấn công vào khu vực cầu Băng Ky và Ngã ba Cây Thị, bị Tiểu đoàn 6
và Tiểu đoàn 1 TQLC đánh tan.
Trung đoàn phó Quyết Thắng là Đại
úy Phạm Văn Xưởng ra hàng.
Theo lời khai của Xưởng thì trước
khi vào trận đánh quân số của trung đoàn là 400 người với vũ khí đầy
đủ.
Đến chiều
ngày 17-6 chỉ còn 229 người, trong
số đó có 120 bị thương.
Trung đoàn trưởng Ba Vinh chết
ngay lúc đầu.
Ngày 18-6, toàn bộ tàn quân của Trung đoàn
Quyết Thắng gồm 152 người đã ra hàng, trong số này có 2 ca sĩ là Bùi
Thiện và Đoàn Chính.
Ngày 19-6, tình
hình yên tỉnh trở lại trên toàn quốc với tổng kết 3 trung đoàn chính
quy CSVN hoàn toàn bị đánh tan.
Hầu hết bị tiêu diệt ngoài số
chiến binh đầu hàng hoặc ra hồi chánh .
Trong số đó có Đại tá Lê Văn Ngọt,
tư lệnh phó Sư đoàn 5 CSVN;
Thượng tá huỳnh Thành Đồng, Tham
mưu trưởng bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 1.
Trung tá Phan Việt Dũng, Trung
đoàn trưởng Trung đoàn 165 thuộc Sư đoàn 7/CSVN;
Trung tá Huỳnh Cự và Thượng tá Tám
Hà.
*Chú giải :
Tổng kết cuộc tổng tấn công đợt 2,
quân đội CSVN chỉ mở có 6 cuộc tấn công với cấp tiểu đoàn hoặc trung
đoàn;
so với đợt 1 là 29 cuộc tấn công
cấp tiểu đoàn trở lên.
Nhưng lần này các tiểu đoàn và
trung đoàn chỉ là những đơn vị được phóng đại.
Thí dụ như Trung đoàn Quyết Thắng
là trung đoàn chủ lực Miền nhưng quân số chỉ có 400 người, so với
một trung đoàn chính quy Bắc Việt là 2.600 người.
Thế nhưng báo
chí Mỹ lại đánh giá lần này lực lượng của CSVN hùng hậu hơn bởi vì
họ đã pháo kích 433 lần so với 268 lần trong đợt 1 ( Tài liệu của
Trung tướng William E. Potts, Trưởng Phòng tình báo của quân đội Hoa
Kỳ ).
Và rồi căn cứ vào số pháo kích,
báo chí Mỹ suy ra lực lượng CSVN mạnh gấp đôi lần trước.
Trong khi con số pháo kích là một
bằng chứng cho thấy CSVN chỉ gây tiếng vang bằng tiếng nổ chứ không
còn người.
Ngoài ra trong lần này CSVN có sáng kiến là đốt nhà dân để làm màn khói che mắt máy bay quan sát cho nên tuy đợt 2 quy mô nhỏ hơn nhưng lửa cháy khắp nơi khiến cho báo chí quốc tế đánh giá là đợt 2 khủng khiếp hơn.
(17) LÊ DUẨN ĐẠI THUA MÀ TƯỞNG
THẮNG
Năm 1968, ngày 23-3, Tướng Westmoreland
được thông báo chuẩn bị rời chức vụ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam
để về Washington nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Lục quân.
Năm 1968, ngày
31-3, Tổng thống Mỹ Johnson đọc diễn văn loan báo giảm ném bom Bắc
Việt, kêu gọi hòa đàm;
và tuyên bố không ra tranh cử Tổng
thống nhiệm kỳ 2.
Lê Duẩn bị lừa
Những tin tức nóng hổi từ Washington được
tình báo Liên Xô chuyển về Hà Nội khiến Tổng bí thư Lê Duẩn ngơ
ngác, ông ta không ngờ mình mới vừa đại chiến thắng, có nằm mơ ông
ta cũng không tin nổi là địch đã mất vía đến nỗi phải thú nhận bại
trận và van xin hòa đàm.
Thế là ông ta
quyết định vét hết quân và đạn dược còn lại để tổ chức tổng tấn công
đợt hai.
Lần này không phải để “tổng nổi
dậy”;
mà là để “tổng tháu cáy”.
Nghĩa là nỗ lực hù dọa Mỹ sau khi
dư luận Mỹ hoảng loạn do vì MacNamra từ chức, Westmoreland bay chức
và Johnson không ra tranh cử nhiệm kỳ 2 ( Coi như từ chức ).
Ngoài ra Lê Duẩn
còn ra lệnh cho các phương tiện truyền thông của CSVN “mở hết máy”
để ca ngợi chiến thắng tại Miền Nam cũng như ca ngợi tài chỉ huy
thiên phú Võ Nguyên Giáp.
Thuở đó dân chúng hai miền Nam Bắc
hễ mở mắt dậy là nghe tin Westmoreland mất chức,
Mac Namara từ chức,
Jhoson
không dám tái ứng cử, Tướng Võ Nguyên Giáp tuyên bố, Hồ chủ tịch
khen ngợi, v.v…
Không những mạnh
miệng trong chiến tranh tuyên truyền, Lê Duẫn còn mạnh miệng hơn nữa
tại Hội nghị Paris.
Ông muốn biến Hội nghị Paris trở
thành một Hội nghị Geneve thứ hai.
Ông ra lệnh cho Trung ương cục
Miền Nam ( Phạm Hùng ) hãy tổ chức những đợt tổng tấn công lần 2,
lần 3, lần 4, lần 5… cho tới khi nào quân Mỹ tháo chạy như quân Pháp
đã chạy sau trận Điện Biên Phủ.
Ông sẽ đưa thêm quân bổ sung từ
ngoài Bắc vào.
Trong khi đó
thực tế tại chiến trường Miền Nam hoàn toàn trái ngược với tưởng
tượng của Lê Duẩn.
Sau trận Tổng tấn công đợt 2, tự
truyện của Đại tướng Lê Đức Anh ghi lại :
“Sau đợt 2, tôi
đề nghị dứt khoát thôi, rút ra.
Dân chỉ giúp đỡ chứ không “nổi
dậy” thì quân ta không ở nữa, rút ra!
Riêng biệt động thành ở lại thực
hiện “điều lắng” (tan, hòa tan vào dân).
Anh Linh lặng im và đồng ý.
Hồi đó, làm việc ở R (rờ) “làm
thinh là đồng ý”… ( Khuất Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh, trang 90,
91.
Cơ quan Rờ tức là Trung ương Cục
Miền Nam ).
Đoạn này cho
thấy chính Lê Đức Anh cũng không ngờ là dân không hề nổi dậy.
Chẳng những dân không nổi dậy mà
lại “bỏ chạy” khi thấy quân CSVN tiến vào.
Thực tế tại Huế đã cho thấy dân bỏ
chạy là phải.
Và sau khi đợt 3 kết thúc (tháng 10 năm
1968), hồi ký của Ủy viên Bộ Chính trị Mai Chí Thọ ghi nhận : “Sau
đợt tiến công Mậu thân lần 3, lực lượng ta đã đuối sức nhiều, nhưng
do các báo cáo không đúng với thực tế khiến lãnh đạo cấp trên không
nắm sát tình hình ở các địa phương dẫn đến sai lầm chủ quan trong
việc quyết định tiếp tục tấn công các đợt 4 và 5.
Lúc đó đồng chí
Võ Văn Kiệt, đồng chí Trần Bạch Đằng và tôi đã báo cáo tình hình
thực tế về Trung ương Cục.
Cả ba chúng tôi cùng ký vào bức
điện đề nghị chuyển hướng mục tiêu, không nên tiếp tục tổng công
kích, tổng khởi nghĩa nữa, nhất là đánh vào Sài Gòn và các đô thị”.
( Mai Chí Thọ, Theo Bước Chân Lịch Sử, trang 173 ).
Báo cáo láo
Tổng cổng kích
đợt 1 chết gần hết, tổng công kích đợt hai chết sạch.
Đến tổng công kích đợt 3 trên toàn
quốc chỉ có 2 trận đánh cấp tiểu đoàn ( Mỗi tiểu đoàn du kích địa
phương khoảng 350 người ), và riêng tại Sài Gòn thì chỉ có pháo kích
được đúng 19 quả ( trong khi đợt 2 là hằng chục ngàn quả ).
Đến nông nỗi đó
mà Hà Nội lại ra lệnh tổng công kích đợt 4, đợt 5 (!).
Bí quá các ông Võ Văn Kiệt, Trần
Bạch Đằng và Mai Chí Thọ mới đồng lòng báo cáo sự thật về cho Phạm
Hùng ( Bí thư Trung ương cục Miền Nam, đang nằm tại Mặt trận B.1,
tức là bên kia biên giới Miên ).
Dĩ nhiên các ông
không thể nói rằng lâu nay chúng tôi báo cáo láo.
Nhưng các ông bắt đầu báo cáo rằng
tuy chiến thắng nhưng ta cũng bị hao tốn quá nhiều lực lượng.
Mỗi ngày các ông báo cáo tổn thất
một mớ, lần hồi đến tháng 6 năm 1969 (sau đợt 4) thì các ông báo cáo
quân của các ông còn Zéro.
Lúc đó Hà Nội mới ngồi tổng kết và
thấy từ đầu năm 1969 tới tháng 6 năm 1969 quân CSMN đã chết hết
500.000 quân.
Sở dĩ các ông
Miền Nam phải báo cáo như vậy vì lâu nay các ông đã khai khống số
quân của các ông để dụ cho Hà Nội cung cấp vũ khí và tiền bạc.
Các ông biết chắc Hà Nội không thể
nào biết được thực tế các ông có bao nhiêu quân và chết bao nhiêu
quân.
Cho nên các ông khai khống vô tội
vạ để Hà Nội cung cấp vũ khí và tiền bạc gấp đôi, gấp ba; và cũng để
trừ hao Lê Duẩn sẽ giảm bớt hoặc trừ hao bị thất thoát trên đường
vận chuyển.
Chính vì khai
khống vô tội vạ mà quân số trên lý thuyết của các ông lên tới
500.000 quân trong khi thực tế của trận Mậu Thân ( Tổng kết lời khai
của các tù binh về đơn vị của họ trên khắp các mặt trận toàn quốc )
cho thấy tất cả quân số của
CSMN là 85.000.
Hồi ký của Tướng
Westmoreland, bản Việt ngữ trang 399 : “Một năm sau khi tôi rời
nhiệm sở, Tướng Giáp của Bắc Việt tiết lộ cho nhà báo Ý Đại Lợi
Oriana Fallaci, hay rằng đến thời điểm đó (nửa đầu năm 1969) quân
Bắc Việt đã thiệt hại trên nửa triệu quân.
Con số này nhiều bằng bình phương
con số do chúng tôi ước tính” ( Nghĩa là Ngũ Giác Đài ước tính trong
khoảng thời gian nửa đầu năm 1969 quân CSVN bị chết 707 người ).
Lúc đó Tướng
Westmoreland đang làm Tham mưu trưởng Lục quân tại Ngũ Giác Đài, ông
đã duyệt lại các trận đánh trong nửa đầu năm 1969 thì không thấy có
một trận nào đáng kể.
Và cho tới 20 năm sau, khi viết
hồi ký, Westmoreland vẫn tin rằng chuyện CSVN bị thiệt hại 500 ngàn
quân trong nửa đầu của năm 1969 là có thật (sic).
Tuy nhiên cần
phải lưu ý về con số 500.000 quân CSVN bị chết do Tướng Giáp cung
cấp cho Fallaci. Lúc đó, đầu năm 1969, Võ Nguyên Giáp đang là tội đồ
của Đảng CSVN ( Cầm đầu nhóm “Xét lại chống đảng” ).
Cho nên Tướng Giáp không đủ tư
cách để tiết lộ một tin động trời như vậy mà phải là do lệnh của Lê
Duẩn.
Lê Duẩn muốn cho người Mỹ tin rằng
ông ta sẵn sàng thí thêm nhiều triệu quân nữa và sẵn sàng kéo dài
chiến tranh thêm 10 năm hay 20 năm.
Báo chí quốc tế thi nhau ca tụng Võ Nguyên
Giáp
Năm 1968, ngày
11-2, bình luận gia của đài truyền hình CBS Hoa Kỳ là Walter
Cronkite đến Việt Nam để quan sát tình hình sau trận Mậu Thân.
Khi trở lại Hoa Kỳ ông
phát biểu trên đài truyền hình
rằng “Hoa Kỳ đã lún sâu vào chỗ không lối thoát” và “Đó là hậu quả
của một cuộc chiến bi thảm… Tôi sẽ làm mọi thứ có thể làm được để
chấm dứt cuộc chiến”.
Nhưng
cũng ông ký giả Walter Cronkite
này, 39 năm sau, ông ta đến Hà Nội để làm phóng sự truyền hình.
Hà Nội sắp xếp cho ông ta được
tiếp xúc với Tướng Võ Nguyên Giáp đã 95 tuổi.
Tướng Giáp cười ha hả khi nghe
Cronkite hỏi thăm về chiến thắng vĩ đại của ông trong trận Mậu Thân,
ông thú thực với Cronkite :
“ Cho tới nay
chúng tôi vẫn không hiểu nổi tại sao người Mỹ các anh lại chấm dứt
thả bom Hà Nội (1972). Các anh đã tròng cổ được chúng tôi rồi.
Nếu các anh nhấn thêm một chút
nữa, chỉ một hoặc hai ngày nữa, chúng tôi đã sẵn sàng đầu hàng.
Cũng giống như trận tết Mậu Thân,
các anh đã đánh bại chúng tôi rồi”.
Nguyên văn được
truyền trên đài CBS : “What we still don’t understand why you
Americans stopped the bombing of Hanoi.
You had us on the rops.
If you had pressed us a little
harder, just another day or two, we were ready to surrender. It was
the same at the battles of Tet.
You defeated us” ( Cuộc phỏng vấn
được phát trên đài truyền hình CBS ngày 8-12-2007 ).
Trong thời điểm
diễn ra trận Mậu Thân thì Võ Nguyên Giáp đang như con cá nằm trên
thớt, ông ta ngày đêm cầu Trời khẩn Phật cho Lê Duẩn thua…(
Bởi vì lúc này tất cả đàn em thân
cận của VNG đều bị bắt giam và bị ép cung phải khai cho tướng Giáp
cầm đầu âm mưu chống Đảng ).
Trong khi đó các đối thủ của VNG
trong trận Điện Biên Phủ lại ngày đêm cầu Trời khẩn Phật cho Võ
Nguyên Giáp thắng…( Nếu Giáp thắng Mỹ thì cái thua của Pháp tại Điện
Biên Phủ đỡ nhục…).
Trong suốt trận Mậu Thân báo chí Mỹ thi nhau đi tìm các chiến lược gia về Đông Dương, họ nhờ các đại gia quân sự Pháp lên tiếng phân tích chiến thuật bí hiểm của nhà quân sự thiên tài Võ Nguyên Giáp. Và rồi cũng vì bị tác động bởi hù dọa của các chiến lược gia Pháp mà dân chúng Mỹ dứt khoát phải đem con em của họ trở về..!!!
(18) TỔNG CÔNG KÍCH ĐỢT 3
Bắc Kinh muốn CSVN trì hoãn đàm phán
Năm 1968, ngày
9-5, phái đoàn Hà Nội đến Paris, trưởng phái đoàn là Xuân Thủy và
phó là Hà Văn Lâu.
Trước khi lên đường Xuân Thủy đã
nhận được chỉ thị của Lê Duẩn : “Hãy lợi dụng diễn đàn Paris để
tranh thủ công luận thế giới” .
Sau đó Xuân Thủy ghé qua Bắc Kinh
để gặp Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.
Chu cho rằng Hà
Nội đã hớ khi nhanh chóng chấp thuận đề nghị hòa đàm của Johnson,
theo Chu thì phải đòi hỏi nhiều hơn nữa bởi vì ta đang chiếm ưu thế.
Sau đó Chu khuyên : “Hãy trì
hoãn”. ( Lưu Văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Giữa Lê ĐứcThọ Và
Kissinger Tại Paris )
Trong khi đó phái đoàn Mỹ do Averell
Hariman làm trưởng đoàn, và phó là Cyrus Vance.
Năm 1968, ngày
13-5, cuộc họp tại Paris bị trễ 3 ngày so với dự định.
Tuy nhiên cuộc họp không đi đến
kết quả nào vì việc ấn định các thành phần tham dự.
Phía Mỹ thì muốn là một cuộc họp
bàn tròn gồm đại diện 3 chính phủ của 3 quốc gia tham chiến là Mỹ,
Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam.
Trong khi đó Hà Nội chỉ muốn một
cuộc họp tay đôi giữa Bắc Việt và Mỹ.
Năm 1968, ngày
10-6, CSVN làm lễ thành lập Chính phủ lâm thời Cọng hòa Miền Nam
Việt Nam để nhằm làm thành một chính phủ thứ tư trong hòa hội Paris.
Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu
tuyên bố không thừa nhận chính phủ của MTGPMN;
và VNCH sẽ không ngồi vào hội nghị
mà trong đó MTGPMN được coi như là quốc gia thứ tư.
Ngày 12-6, Tại
hội nghị Paris, Hariman đề nghị với Lê Đức Thọ mở những cuộc đàm
phán riêng, song song với các cuộc họp chính thức, Thọ đồng ý. Sở dĩ
đàm phán riêng là để loại sự phá đám của VNCH.
Vô tình Hariman để lộ cho Hà Nội
và Bắc Kinh biết rằng Mỹ đã nôn nóng đến độ chẳng cần sự có mặt của
VNCH.
Điều này đúng như dự đoán của Chu
Ân Lai.
Vì thế Hà Nội càng cố tình chùng
chình và đưa thêm nhiều điều kiện hơn nữa.
Tổng công kích đợt 3
Năm 1968, ngày
17-8, sau nhiều ngày ngăm đe, quân CSVN mở cuộc tổng công kích đợt
3; đồng loạt pháo kích tại Vùng 1, Vùng 2 và Vùng 3 chiến thuật.
Riêng thủ đô Sài Gòn và Vùng 4 yên
tĩnh.
Năm 1968, ngày
22-8, quân CSVN pháo kích 19 hỏa tiễn 122 ly vào Sài Gòn, Chợ Lớn.
Có 10 quả rơi vào Sài Gòn, 6 quả
rơi vào Chợ Lớn, 3 quả rơi vào bến Bạch Đằng.
Tại Vùng 2, quân
CSVN
tấn công trại Bu Prang thuộc tỉnh
Quảng Đức, cách biên giới Cam Bốt 5 Km.
Trận chiến chỉ kéo dài vài ngày,
kết quả quân CSVN bị chết 776, quân Biệt kích Mỹ có 116 chết, trong
đó có 2 người Mỹ.
Đây là quân chính quy Bắc Việt mới
vào bổ sung cho quân CS Miền Nam đã bị tiêu diệt.
Chú giải : Rõ ràng là không còn
quân, không còn súng đạn
Tổng kết đợt 3,
quân CSVN mở ra 15 cuộc tấn công trên toàn quốc, nhưng chỉ có 2 trận
cấp Tiểu đoàn ( Mỗi tiểu đoàn chính quy Bắc Việt khoảng 600 người ),
và cả hai trận đều ở vùng biên giới chứ không phải trong thành thị
hay nông thôn Miền Nam.
Số lần pháo kích là 95 lần so với
433 lần trong đợt 2.
Riêng Sài Gòn chỉ có 3 lần pháo
kích với 19 quả đạn ( Trong khi ở đợt 2 thì mỗi đêm hằng ngàn quả ).
Chứng tỏ lực lượng vũ trang của
quân CSVN đã hoàn toàn tan nát, số đạn pháo cũng đã cạn kiệt.
Không phải là
CIA không nhìn ra là lực lượng quân sự của CSVN đã tiêu vong.
Nhưng
CIA không muốn nhìn nhận là lâu nay họ đã lượng giá sai về khả năng
của quân CSVN.
CIA lại càng không dám thú nhận là
lâu nay họ đã báo cáo trái ngược với sự thực.
Vì thế mà chi nhánh CIA tại Sài
Gòn không ai bảo ai mà từ trên xuống dưới đồng hè nhau làm lơ sự
thực;
thậm chí ém nhẹm sự thực.
Trong khi đó Washington đang cần những tin
tức để chứng minh rằng Mỹ đang sa lầy trên chiến trường Nam Việt
Nam, nghĩa là quân Mỹ sẽ thua nếu tiếp tục theo đuổi chiến tranh
(sic). Nhờ thế CIA tại Sài Gòn dễ dàng cung cấp những thứ tin mà
Washington cần.
Trong khi đó thì Tổng thống Thiệu và các
tướng lãnh VNCH muốn phát điên vì không hiểu nổi tại sao đang thắng
mà lại phải khăn gói tới bàn hòa đàm trong tư thế thua cuộc ?!
Không riêng
Nguyễn Văn Thiệu khó chịu, mà cả Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cũng bực
mình cho thái độ nhanh chóng đáp ứng hòa đàm của Hà Nội.
Mao và Chu không hiểu nổi tại sao
Hà Nội đang thắng như chẻ tre mà lại có vẻ như sợ thua tới nơi.
Hai ông không ngờ CSVN đã thua
trắng tay chứ không phải là sắp thua.
Nhưng cũng nhờ thái độ cương quyết
đốc thúc của Bắc Kinh mà Hà Nội lấy lại thế thượng phong tại Paris
cũng như trước dư luận thế giới.
Hà Nội đòi Mỹ ngưng ném bom vô điều
kiện
Năm 1968, ngày
15-9, tại Paris. Đại diện của Hà Nội là Xuân Thủy bắn tiếng cho biết
Hà Nội sẽ đi thẳng vào bàn hòa đàm nếu Mỹ ngưng ném bom Bắc Việt vô
điều kiện.
Hà Nội tung tin này để thăm dò xem
Mỹ chủ bại đến mức độ nào.
Ngày 30-9, Humphrey, ứng cử viên Tổng thống
của đảng Dân chủ Mỹ tuyên bố nếu trở thành Tổng thống ông sẽ ngưng
ném bom Bắc Việt vô điều kiện để kêu gọi hòa đàm và sẽ rút bớt quân
ra khỏi VN ngay trong năm 1969.
Ngày 9-10, Một
cuộc trà đàm xảy ra tại khách sạn Majestic giữa Lê Đức Thọ với
Hariman và Vance.
Hariman cho biết Chính phủ Sài Gòn
rồi đây sẽ tham dự hòa hội như là một thành phần trong phía Hoa Kỳ.
Đối lại Hà Nội có thể mang theo
MTGPMN hay một tổ chức nào khác như là một thành phần trong phía Hà
Nội..
Ngoài ra Mỹ sẽ ngưng ném bom Bắc
Việt một khi cuộc đám phán bắt đầu.
Lê Đức Thọ cho
rằng như vậy là Mỹ đã “ra điều kiện” cho việc ngưng ném bom trong
khi Hà Nội muốn Mỹ ngưng ném bom vô điều kiện trước rồi mới đàm phán
sau.
Chú giải : Ngưng ném bom vô điều kiện thì
có nghĩa là Mỹ thua
Vào lúc này, đầu
tháng 10 năm 1968, lực lượng của CSVN tại Miền Nam hoàn toàn kiệt
quệ sau khi đã vét hết toàn lực để tổ chức đợt 3 của cuộc tổng công
kích Mậu Thân.
Nhưng rốt cuộc trên toàn quốc chỉ
có 2 cuộc tấn công cấp tiểu đoàn,
và chỉ pháo kích vào Sài Gòn được
đúng 19 quả đạn pháo.
Hà Nội bắt buộc phải ngồi vào bàn
đàm phán như là một cách vớt vát thất bại chứ không còn đường nào
khác.
Thế nhưng các bộ
óc điện tử tại Washington lại nghĩ rằng quân CSVN đang ở trên thế
mạnh, họ cho rằng Hà Nội đang lợi dụng cuộc bầu cử sắp tới của Mỹ mà
làm áp lực đòi hỏi tối đa sự nhượng bộ của Mỹ.
Tuy nhiên các chính trị gia Mỹ
không ngờ rằng một khi Mỹ tuyên bố ngưng ném bom vô điều kiện thì có
nghĩa là xác nhận họ đang ở trong tư thế bị thua trận.
Còn chuyện ném
bom hay ngưng ném bom thì đối với Hà Nội không thành vấn đề.
Mỹ đã ném bom suốt từ 1965 đến nay
nhưng người và chiến cụ của CSVN vẫn đi vào Nam không sót một cân
nào ( Thực ra là đi bằng ngõ Shihanukville ).
Nếu ném bom mà làm cho Hà Nội phải
lo sợ thì họ đã xin hòa đàm từ những ngày trước Mậu Thân.
Trái lại càng
ném bom thì họ càng có cớ mà lu loa lên với thế giới rằng Hoa Kỳ tàn
hại dân lành Việt Nam.
Thế giới càng ủng hộ họ.
Trong khi đó họ không hề có một
mảy may động lòng trước cái chết của dân lành hay của lính CSVN dưới
những trận mưa bom của quân đội Mỹ.
Đối với họ thì ai đó chết chứ con
cái của họ đâu có chết.
Còn quân đội
CSVN ở vùng giới tuyến ( Phía Bắc vĩ tuyến 17 ) ngày ngày khoanh tay
ngồi nhìn phi cơ Mỹ trút bom vào chỗ không người, trên vùng rừng núi
hoang vu, trên những chiếc cầu đã gãy, trên những đoạn đường không
còn người đi.
Với lối thả bom như thế này thì e
rằng tới một ngày nào đó Mỹ không còn bom để thả chứ Hà Nội không
việc gì phải ngại.
Ngược lại, tại
Washington và trên khắp nước Mỹ,
sau khi có dấu hiệu sẽ có hòa đàm
thì báo chí, radio, TV bàn chuyện rút quân.
Người người bàn chuyện rút quân,
nhà nhà bàn chuyện rút quân với niềm hy vọng chân thành.
Thế rồi không
biết từ bao giờ mọi người dân Mỹ in trí rằng quân đội Mỹ đang trên
đà thua trận.
Do đó người ta dễ dàng xúc động
trước nghĩa cử mở đường của Hà Nội.
Giờ đây mà ai nói đến chuyện làm
phật ý Hà Nội thì đồng nghĩa với phá hoại quốc gia (sic). *( Chính
Nguyễn Văn Thiệu là nạn nhân đầu tiên bị phỉ báng vì chùng chình
không chịu đàm phán )
Trong khi trên thực tế quân đội Mỹ và VNCH vững hơn bao giờ hết. Và người hiểu rõ thực tế nhất là ông Nguyễn Văn Thiệu, ông ta đánh nhau với quân CSVN từ năm 1948 cho tới nay là 20 năm trên khắp các miền chiến địa từ Bắc chí Nam. Vì vậy ông ta ngao ngán cho sự nôn nóng của Washington.
(19) TỔNG CÔNG KÍCH ĐỢT 4
Điều quân Miền Bắc vào Nam Bộ
Năm 1968, cuối năm, Hà Nội điều bộ chỉ huy
Sư đoàn 1 tại Tây Nguyên cùng với các trung đoàn 33, 320 và 174 vào
Nam Bộ ( Hồi ký của Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, bí thư Quân ủy mặt
trận Tây Nguyên ).
*Chú giải : Trung đoàn 320 và 174 là hai
trung đoàn trực thuộc Sư đoàn 1 CSVN đang hoạt động tại Kontum, còn
Trung đoàn 33 là trung đoàn biệt lập đang hoạt động tại Ban Mê
Thuột.
Thực ra quân số
của 3 trung đoàn đã bị tan tành sau trận Dak Tô vào tháng 11 năm
1967, chỉ còn 3 Trung đoàn bộ.
Sở dĩ chỉ còn sư đoàn bộ và Trung
đoàn bộ bởi vì theo nguyên tắc tổ chức của quân CSVN thì Sư đoàn bộ
và Trung đoàn bộ luôn luôn ở nơi an toàn cách mặt trận trên 10 cây
số, ngoài tầm pháo của pháo binh địch.
Do đó khi các trung đoàn 33, 320
và 174 bị B.52 tiêu diệt tại Dak Tô thì bộ chỉ huy Sư đoàn 1 và bộ
chỉ huy 3 trung đoàn vẫn còn nguyên.
Giờ đây sau khi quân CSMN bị chết hết sau 3
đợt tổng công kích thì Hà Nội đưa quân từ ngoài Bắc vào để bổ sung
cho Sư đoàn 1 Tây nguyên rồi đưa Sư đoàn 1 Tây Nguyên vào Nam Bộ (
có lẽ quân số lấy từ Sư đoàn 324 ở Đồng Hới bởi vì sau năm 1967 sư
đoàn 324 không còn xuất hiện trong các tài liệu quân sự của CSVN,
chỉ có Sư đoàn 234.B ).
Năm 1969, đầu năm, theo tài liệu của Phòng
2 BTTM/VNCH, trong 40 ngày đầu năm, quân đội VNCH và Hoa Kỳ đã bắt
được trên 17.000 tấn đạn súng cối các loại và 500 hỏa tiễn địa địa
cỡ từ 107 ly tới 144 ly . Số vũ khí này được Liên Xô và Trung Quốc
tăng cường yểm trợ sau khi nhận thấy dấu hiệu thua cuộc của Hoa Kỳ
sau trận tết Mậu Thân.
*Chú giải : Mỹ thả hằng triệu tấn bom vào
chỗ không người
Kết quả bắt được
17 ngàn tấn đạn pháo mới chuyển đến sau 3 đợt tổng tấn công khiến
cho các nhà tham mưu quân sự Mỹ kết luận rằng dội bom trên tuyến
đường mòn HCM không có hiệu quả.
Các ông tướng Mỹ đành bó tay .
Cuối cùng họ thừa nhận phương pháp
chuyển vận vũ khí của CSVN là thần bí đối với các nhà quân sự học.
Sự thần bí đã
được giải mã sau khi tướng Lon Nol đảo chánh tại Cam Bốt.
Hóa ra vũ khí của CSVN đi bằng tàu
hàng của Trung Cọng từ Hồng Kông đến Shihanukville rồi chở bằng
đường bộ đến biên giới Việt Nam.
Như vậy hằng triệu tấn bom của Mỹ
thả tại vùng hỏa tuyến và đường mòn HCM chỉ là vô ích, thả bom vào
chỗ không người để chận một con đường không ai sử dụng tới (sic).
Trong các cuộc
đàm phán sau này phía Mỹ luôn luôn tỏ ý lo ngại phía CSVN sẽ lợi
dụng lúc Mỹ ngưng thả bom vùng hỏa tuyến mà đưa vũ khí xâm nhập Miền
Nam.
Điều này khiến cho CSVN càng thích
thú.
Một mặt họ kích cho Mỹ tăng cường
ném bom nhiều hơn nữa, một mặt họ lu loa với thế giới rằng Mỹ không
ngưng ném bom tức là không có thiện chí hòa bình
Tổng công kích đợt 4
Năm 1969, ngày
31-1, Trung ương cục Miền Nam ra chỉ thị số 71, ra lệnh chuẩn bị tấn
công một lần nữa vào dịp tết, tương tự như tết Mậu Thân nhưng không
tập trung tấn công thành thị, mà tấn công các huyết lộ tiếp vận cho
các các căn cứ Mỹ và VNCH;
đợt này tổng tấn công và tổng nổi
dậy tại vùng nông thôn.
Năm 1969, ngày
22-2, mồng 7 tết Kỷ Dậu, quân CSVN mở đầu tổng công kích đợt 4 bằng
các cuộc pháo kích vào 100 mục tiêu trên khắp Miền Nam.
Trong 5 ngày đầu pháo kích bằng
hỏa tiễn vào các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế.
Tại Vùng 2, quân
CSVN đào đường đắp mô trên các quốc lộ 1, 14,19 và tuyến đường sắt
Nha Trang – Quy Nhơn.
Tại vùng 4, quân CSVN tấn công ở
vùng nông thôn tại các tỉnh Định Tường, Châu Đốc, Kiến Tường và Vĩnh
Bình.
Tại Sài Gòn,
trước đó quân VNCH mở 500 cuộc hành quân tuần tra vùng ven biên
thành phố.
Tuy nhiên cũng có 7 cuộc pháo kích
bằng hỏa tiễn 107 ly vào thành phố, có 3 toán pháo kích bị bắn hạ
khi đang chuẩn bị pháo.
Tại Vùng 3 có một cuộc tấn công cấp trung
đoàn vào căn cứ tiếp liệu Long Bình và một cuộc tấn công cấp trung
đoàn vào trại giam tù binh Suối Máu ở Biên Hòa.
Cuộc tấn công
vào kho Long Bình bị chống trả bởi Trung đoàn Khinh kỵ 11 Mỹ.
Hơn 200 quân CSVN bị trực thăng vũ
trang Cobra bắn hạ giữa 5 lớp hàng rào phòng thủ, quân đội Mỹ chỉ bị
thiệt hại nhẹ.
Ngày 23-2, lúc 3 giờ sáng, Trung đoàn 275
CSVN xâm nhập vùng Tân Hiệp, Biên Hòa để tấn công trại giam Suối
Máu, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH và phi trường Biên Hòa.
*Lúc 5 giờ sáng
:
Tiểu đoàn 5 TQLC/VNCH ( khoảng 650
người ) cùng với 1 tiểu đoàn Biệt động quân ( khoảng 500 người ) và
1 đại đội Địa phương quân VNCH ( 100 người ) bao vây tấn công quân
CSVN.
Cuộc tấn công bắt đầu từ lúc 11
giờ sáng.
Đến 3 giờ chiều quân VNCH dùng loa
trên máy bay L.19 kêu gọi dân chúng tản cư ra khỏi vùng Tân Hiệp. Có
một số quân CSVN trà trộn trong dân chúng thoát ra ngoài.
Sau đó máy bay ném bom vào vị trí
đóng quân của CSVN và Tiểu đoàn 5 TQLC tấn công.
Kết quả bắt sống 87 người và đếm
được tại chỗ 264 xác, tịch thu hơn 100 súng.
*Chú giải : Quân CSVN biến hóa như Tề Thiên
Lực lượng tấn
công là 1 trung đoàn ( lý thuyết là 2.500 người ) nhưng quân đội
VNCH chỉ cần 1 tiểu đoàn BĐQ ( 500 người ) và 1 đại đội ĐPQ ( 100
người ) là đủ để bao vây và tiêu diệt.
Vậy 1 trung đoàn của CSVN vào lúc
này là bao nhiêu?
Câu trả lời là khoảng 400 như
Trung đoàn Quyết Thắng hay Trung đoàn Đồng Nai trong trận tổng tấn
công đợt 2.
Tướng Abrams (Tư
lệnh quân đội Hoa kỳ tại Việt Nam ) báo cáo với Washington là tổng
số quân CSVN tấn công trong đợt 2 tại vùng Sài Gòn là 4 trung đoàn (
10.000 người, theo lý thuyết mỗi trung đoàn 2.500 người ).
Nhưng thực tế cho thấy chỉ có 2
trung đoàn tấn công trong vùng Biên Hòa,
và mỗi trung đoàn có quân số
khoảng 400 người.
Sở dĩ có chuyện
tưởng như đùa này là vì sau trận tết Mậu Thân các đơn vị CSVN đều bị
tan nát, mỗi trung đoàn gom quân lại chưa đủ một tiểu đoàn.
Nhưng căn cứ vào những tin giật
gân của báo chí Mỹ, Tướng CSVN Trần Văn Trà có sáng kiến là đôn các
trung đoàn lên thành sư đoàn, đôn các tiểu đoàn lên thành trung
đoàn.
Thí dụ như một
người tù binh khai rằng họ thuộc Tiểu đoàn 167 của Trung đoàn 275
thuộc sư đoàn 5 CSVN bởi vì họ đã được cấp chỉ huy cho biết như vậy;
nhưng thực ra Sư đoàn 5 CSVN chỉ
có 1 Trung đoàn 275 và Trung đoàn 275 chỉ có 1 Tiểu đoàn 167.
Rồi thì do lời khai của anh tù
binh này và một số tù binh khác, tình báo VNCH và Hoa Kỳ ghi nhận
lực lượng CSVN tham dự trận đánh tại Biên Hòa là 1 sư đoàn ( 10.000
người ) trong khi thực chất chỉ là 1 tiểu đoàn ( một tiểu đoàn du
kích khoảng 350 người )
Năm 1969, ngày
6-3, quân CSVN tấn công trại Ben Hét do 1 đại đội Biệt kích Mỹ ( dân
sự chiến đấu ) trấn giữ, cuộc tấn công có sự tham gia của 10 xe tăng
PT.76 và 6 chiếc vận tải Molotova chở quân chạy theo xe tăng.
Máy bay Mỹ bắn hạ 2 PT.76 và 6
Molotova.
Sau khi kế hoạch tấn công nhanh
bằng chiến xa thất bại, quân CSVN tổ chức tấn công trại bằng bộ binh
nhưng gặp sự chống trả quyết liệt của quân phòng thủ với sự yểm trợ
của máy bay trực thăng vũ trang và máy bay ném bom.
Sau 56 ngày dằng
co, quân CSVN rút lui vào ngày 1-7-1968.
Trong thời gian bao vây quân CSVN
đã pháo vào đồn tất cả là 6.000 quả đạn.
Đây là trận cuối cùng của đợt 4
tổng công kích.
Trong đợt 4 CSVN
chỉ điều động lực lượng chính quy từ Bắc vào.
Số cuộc tấn công cấp tiểu đoàn
hoặc cao hơn tiểu đoàn là 16 vụ, so với 6 vụ trong đợt 2 và 2 vụ
trong đợt 3.
Chứng tỏ lực lượng địa phương hoàn
toan tan nát sau 3 đợt tổng tấn công.
Mỹ dứt khoát phải cầu hòa để tránh đại bại
Năm 1969, ngày
7-1, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Rush gọi điện thoại cho Đại sứ Bunker,
phàn nàn về việc chiếc bàn của hội nghị Paris ( Hà Nội đòi bàn
vuông, ông Thiệu đòi bàn tròn ).
Dean Rush cho biết là Tổng thống
Johnson rất tức giận về việc vô bổ này.
Sau đó Bunker
tìm đến Tổng thống Thiệu với bức công điện của Tổng thống Johnson và
cho biết Washington sẽ ngưng hỗ trợ cho Sài Gòn nếu ông Thiệu không
thay đổi thái độ mà phía Mỹ cho là “quá đáng”.
Ngoài ra Bunker cũng cho biết đây
cũng là ý kiến của tân Tổng thống Nixon và tân Ngoại trưởng Hoa Kỳ
William Rogers.
Tổng thống Thiệu
không quan tâm và tìm cách tránh mặt Bunker;
sáng thứ Hai ông nói rằng bệnh,
sáng thứ Ba ông đi kinh lý các tỉnh, ngày thứ Tư ông không có mặt
tại Sài Gòn. Mãi đến thứ Sáu ông mới tiếp Bunker.
Sau 5 giờ thảo luận, đến 8 giờ
chiều ông mới chấp thuận bàn nào cũng được.
Nhưng không ngờ tối hôm đó Paris cho biết
là Hà Nội đã chấp thuận bàn tròn thay vì bàn vuông (sic).
Theo ghi chép của Bunker thì ông
không hiểu nổi triết lý xâu xa nằm trong hình dáng cái bàn mặc dầu
Ngoại trưởng Nguyễn Chánh Thành đã mất nhiều thời gian để giải thích
cho Bunker vào hồi tháng 10.*( Bàn vuông là có 4 quốc gia, còn bàn
tròn là có 3 quốc gia ).
(20) KẾT LUẬN VỀ TRẬN MẬU THÂN
Kết quả sau 4 đợt tổng công kích
Một điều hết sức khôi hài đối với lịch sử
là trong khi CIA đưa tin về Washington rằng quân VNCH đã thua đậm
sau 4 trận “tổng công kích” Mậu Thân thì sự thực hoàn toàn ngược
lại; tài liệu của Bộ Ngoại giao CSVN do Lưu Văn Lợi công bố :
“Cuối năm 1968 trong Nam Bộ các Ấp Chiến
Đấu và những vùng xôi đậu đã bị quân đội Sài Gòn chiếm lại. Cuối
1968 chúng ta đã bị tổn thất nặng. Địch dồn lực lượng vào công tác
bình định thôn quê gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong hai năm
1969-1970. Từ khi quân Mỹ vào Việt Nam chúng ta chưa bao giờ gập
nhiều vấn nạn như trong hai năm ấy. Các căn cứ của ta ở thôn quê bị
suy nhược và vị trí co thắt lại.
“Quân ta bị tiêu diệt, không còn đất bám và
phải qua đồn trú tại Cao Miên. Chúng ta trải qua một thời kỳ hết sức
khó khăn trong những năm 1969-1970-1971. Kể từ giữa năm 1968 địch đã
tập trung đánh phá các vùng giải phóng để tiêu diệt và đẩy chúng ta
ra khỏi cứ địa”. ( Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, “Các Cuộc Thương
Lượng Lê Đức Thọ & Kissinger tại Paris”, Nhà xuất bản Thế Giới, Hà
Nội ).
Hồi ức của ông Võ Văn Kiệt được nhà báo Huy
Đức ghi lại :
Mậu Thân quả là đã gây được những tiếng
vang chính trị trong lòng nước Mỹ, nhưng những người trực tiếp ở
chiến trường như ông đã phải chứng kiến sự hy sinh quá lớn. Ông nói:
“Lúc đó tôi đau đến mức nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn quân giải
phóng đã hy sinh trên toàn chiến trường. Phần lớn căn cứ địa Quân
Giải phóng ở nông thôn đã trở thành “đất trắng” ( Huy Đức, Hiện
tượng Võ Văn Kiệt , chương 1 ).
Theo thống kê
của quân đội VNCH căn cứ theo lời khai của các tù binh trên 34 mặt
trận xảy ra trên toàn quốc thì toàn bộ quân CSVN trước khi tham gia
trận chiến là 85.000 quân, không kể 1 sư đoàn chính quy tại Tây
Nguyên và 2 sư đoàn tại Khe Sanh.
Như vậy con số hơn 11 vạn của ông
Võ Văn Kiệt có nghĩa là quân CSVN đã hoàn toàn chết hết.
Mỹ sợ bóng sợ vía do CIA lỡ báo cáo sai
Thái độ dân
chúng Nam Việt Nam qua biến cố Mậu Thân cho thấy dân tộc Việt Nam
đứng về phe chống Cộng chứ không phải như năm 1954 dân chúng Việt
Nam đứng về phe chống thực dân (Việt Minh).
Những gì xảy ra tại Huế chứng thực
điều này.
Trong 25 ngày
quân CSVN làm chủ tình hình tại Huế, dân chúng Miền Nam bất hợp tác
với CSVN và bồng bế nhau chạy về phía VNCH.
Còn những người mắc kẹt trong vùng
do CSVN chiếm đóng thì ngày đêm mong chờ quân đội VNCH đến giải cứu.
Ngoài ra không
những dân chúng thành thị mà ngay cả thôn quê cũng không có nơi nào
đứng dậy hoan nghênh quân CSVN.
Trái lại họ chịu dựng quân đội
CSVN như chịu đựng thiên tai.
Sau đó thì họ vui vẻ hoàn hồn trở
lại khi thấy quân đội VNCH đã đánh bật CSVN lên núi.
Thế nhưng tai mắt của CIA làm lơ điều này
bởi vì lục lại các báo cáo của CIA từ trước tới nay thì hoàn toàn
ngược lại, nghĩa là họ đã lỡ báo cáo rằng hầu hết dân chúng Việt Nam
ngưỡng mộ Cọng sản và luôn luôn chực chờ nổi dậy một khi quân CSVN
xuất hiện.
Chính vì những nhận xét sai lầm của CIA mà
chính phủ Mỹ quyết định đưa quân vào Miền Nam Việt Nam chứ không bao
giờ nghĩ tới chuyện giao việc chống Cộng cho dân tộc Việt Nam, là
dân tộc đầu tiên trên thế giới đã thành lập chính phủ chống cộng
(1948).
Làm trò cười cho Bắc Kinh, Hà Nội và Nam
Vang
Suốt từ năm 1965
cho tới 1970 hằng triệu tấn vũ khí của Hà Nội đi bằng tàu hàng Trung
Cọng từ Hồng Kong đến cảng Shihanukville.
Thế mà các nhà quân sự vĩ đại của
Mỹ đã ngăn chận bằng cách ném hằng triệu tấn bom xuống vùng bắc Vĩ
tuyến 17 và vùng đường mòn HCM (sic).
Ngày đêm miệt
mài, hết đoàn máy bay này đến đoàn máy bay khác nhào xuống đánh phá
con đường chiến lược hư ảo không ai dùng tới.
Rốt cuộc chỉ làm trò cười cho
những nhà lãnh đạo Bắc Kinh, Hà Nội và Nam Vang.
Từ vụ này họ suy ra các đầu óc của
Washington tài giỏi tới độ nào.
Cả thế giới có thể đánh giá sai
lầm về trình độ thông minh của Washington nhưng Bắc Kinh, Hà Nội và
Nam Vang thì không (!).
Mao Trạch Đông,
Chu Ân Lai, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Shihanuk đã cười thầm khi chứng
kiến bom nổ ngày đêm trên đường mòn HCM.
Họ cười thầm khi nghe Mỹ cáo buộc
Hà Nội lợi dụng Mỹ ngưng ném bom để chuyển vũ khí vào Nam.
Họ cười thầm khi nghe báo chí thế
giới ca ngợi vệ tinh quan sát của Mỹ theo dõi từng tàu hàng của CSVN
rời cảng Bắc Việt, ….
Trong khi đó
hằng triệu tấn vũ khí từ cảng Hồng Kông cặp bến Shihanukville mà cả
nước Mỹ không biết.
Nếu người Mỹ sớm đoán ra điều này
thì sẽ không có trận Mậu thân, không có hòa đàm Paris và quân Mỹ
không đến nỗi phải tháo chạy ( Từ của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng ).
Nhưng cái sai
lầm nặng nhất của chính phủ Mỹ không phải là không đoán ra, mà là
sau khi phát giác điều đó vào tháng 5 năm 1970 thì tất cả hè nhau
giấu nhẹm đi, vẫn để cho Ngũ Giác Đài nghĩ rằng lâu nay vũ khí vẫn
được chuyển bằng đường mòn Hồ Chí Minh.
Trong khi nếu Ngũ Giác Đài biết
được sự thật từ lúc đó thì họ sẽ có chiến thuật chến lược khác hẵn
và sẽ không có trận Hạ Lào, không có Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, không có
Hiệp định Paris và không có chiến dịch Mùa Xuân 1975.
Cả nước Mỹ bị lầm vì coi CIA như thượng đế
Cái thê thảm của
các chiến lược gia Mỹ là họ căn cứ vào thông tin của CIA.
Nhưng CIA chỉ là “một hãng buôn
tin dỏm” cho nên khi lực lượng của CSVN là 85 ngàn thì CIA đinh ninh
là 323 ngàn ( Hoàng Ngọc Lung ).
Đến khi quân CSVN chết hết trong
trận Mậu Thân thì CIA lại nghĩ rằng rằng quân CSVN còn 283 ngàn (
Phạm Văn Sơn ) và họ đang tuyển mộ thêm nhiều sau “chiến thắng” tết
Mậu Thân.
Hồi ký của Tướng
Westmoreland, bản Việt ngữ trang 399 : “Một năm sau khi tôi rời
nhiệm sở, Tướng Giáp của Bắc Việt tiết lộ cho nhà báo Ý Đại Lợi
Oriana Fallaci, hay rằng đến thời điểm đó (nửa đầu năm 1969) quân
Bắc Việt đã thiệt hại trên nửa triệu quân.
Con số này nhiều bằng bình phương
con số do chúng tôi ước tính” ( Nghĩa là Ngũ Giác Đài ước tính trong
khoảng thời gian nửa đầu năm 1969 quân CSVN bị chết 707 người ).
Và khi đã biết là quân CSVN đã chết 500.000
thì Ngũ Giác Đài không hề thay đổi kế hoạch rút quân của họ, họ vẫn
coi như quân CSVN không chết người nào và họ lọ mọ đến Paris với tư
cách của bên thua cuộc (sic).
Năm đó, 1969,
Westmoreland đang là người đứng đầu Ngũ Giác Đài, tức là đứng đầu
mọi kế hoạch quân sự của Mỹ trên toàn thế giới và đặc biệt là tại
chiến trường Việt Nam.
Thế nhưng khi được biết quân CSVN
bị chết 500 ngàn, nghĩa là chết hết, thì Westmoreland vẫn dững dưng
như không phải là việc của ông ta.
Lẽ ra sau khi
biết được tin đó thì ông ta phải ngay tức khắc hỏi lại CIA.
Và nếu cần thì vận động giải tán
CIA bởi vì quân CSVN hoàn toàn bị tiêu diệt mà CIA không biết gì
hết.
Còn nếu không giải tán CIA thì ông
cũng buộc CIA phải trả lời cho Ngũ Giác Đài và cho Tổng thống Mỹ là
thực sự CSVN hiện đang còn bao nhiêu quân tại Miền Nam Việt Nam?
Ông chỉ cần làm một việc đơn giản
như vậy thì sẽ lòi ra là CSVN đại thua trong trận Mậu Thân;
lúc đó Mỹ sẽ đến Paris với tư cách
là bên thắng cuộc chứ không phải là bên thua cuộc.
Nhưng nói cho
cùng nếu lúc đó Westmoreland muốn vặn CIA thì ông ta sẽ đụng đầu
Kissinger, trong khi Kissinger là một tay cáo già cho nên
Westmoreland dầu có muốn ra tay thì cũng thúc thủ đối với Kissinger.
Kissinger muốn nổi danh là một con
người kiến tạo hòa bình của thế gới cho nên hễ ông ta phán ra một
chuyện gì thì chi nhánh CIA tại VN có bổn phận giàn dựng chuyện đó
thành có thật.
Hễ Kissinger cần
tin CSVN hùng mạnh thì CIA nhào nặn ra bằng chứng cho thấy CSVN rất
hùng mạnh.
Hễ Kissinger cần tin quân đội VNCH
không có khả năng thì CIA nhào nặn ra bằng chứng quân đội VNCH chết
nhát.
Hễ khi nào Kissinger cần bằng
chứng Thiệu tham nhũng, độc tài thì CIA sẽ đạo diễn các màn xuống
đường chống đối Thiệu, v.v….
Rốt cuộc cơ quan tình báo siêu đẳng nhất
thế giới tự nhiên biến thành đồ chơi của một tay cơ hội chủ nghĩa.
Có lẽ đọc tới
đây thì có người cho rằng có lẽ số kiếp của dân tộc Việt Nam nó bị
như vậy…!!
Nhưng không có số kiếp nào cả, mà
là chỉ có những cái đầu óc tồi nắm vận mạng nước Mỹ và vận mạng của
cả thế giới.
Điều nguy hiểm
là cho tới nay những người trong cuộc vẫn cố tình bưng bít chuyện
này, thậm chí họ muốn sửa lại lịch sử.
Trong khi nước Mỹ, nhân dân Mỹ cần
phải mổ xẻ rốt ráo chuyện đã qua để rút kinh nghiệm cho nước Mỹ về
sau; và kể cả rút kinh nghiệm cho thế giới.
Sau chiến tranh
Việt Nam nước Mỹ cố gắng che đậy những sai lầm chết người của họ tại
Việt Nam.
Nhất là quan niệm thần thánh hóa
khả năng siêu việt của CIA.
Người Mỹ cứ tin chắc rằng CIA của
họ biết hết mọi việc, hóa phép được tất cả mọi việc,
như là … Đức Chúa Trời !!
Cho tới nay ông Donald Trump hô hào hãy làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Nhưng sự vĩ đại đó sẽ không bao giờ trở lại nếu người Mỹ vẫn cứ cố tình bưng bít những sai lầm vĩ đại trong chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến đánh dấu sự bắt đầu đi xuống của nước Mỹ.
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *