* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT - EPOCH
Từ trái qua phải: Bùi AnhTrinh, Nguyễn Đình Chiến, Chu Di Tuyển, Kim Âu Hà Văn Sơn, Trương Văn Hùng
trinh bui <trinhbui49@yahoo.com>
Date: Th 7, 7 thg 9, 2019 vào lúc
18:33
Subject: Bạn hiền thân mến
To: Kim Au <kimau48@gmail.com>
Bạn hiền thân mến,
Khi mày cùng với tụi thằng Tâm, Hòa,
Hùng, Luật… bỏ học, đăng ký “Biệt kích nhảy Bắc” thì tụi tao nghĩ
rằng tụi mày muốn tìm cảm giác mạnh, hay cao hơn chút nữa là muốn
làm người hùng… Nhưng chỉ vài tháng sau đó thì tin thằng Tâm bị mất
tích ngoài Bắc, tin Hòa, Hùng tử trận và Luật mất tích khiến tụi tao
không dám nghĩ bậy về tụi mày nữa và cũng biết tính mạng của mày chỉ
còn tính từng ngày… Và quả nhiên chỉ vài tháng sau thì có tin mày đã
bị bắt ngoài Bắc, tụi tao kể như mày và Tâm, Luật đã chết chứ làm
sao có ngày về…
Cuối năm đó thì tụi thằng Tài, Hợi,
Long… nhảy núi, do hậu quả của vụ tham gia biểu tình “biến động Miền
Trung”. Đến nông nỗi này thì tụi tao không muốn khen mà cũng
chẳng dám chê tụi nó nhưng trong lòng cũng nghĩ là tụi nó cũng thuộc
loại muốn làm anh hùng, nhưng là một thứ anh hùng đáng sợ hơn tụi
mày.
Thế rồi qua năm sau là biến cố Mậu
Thân. Lệnh tổng động viên được ban hành, những thằng nào không muốn
làm người hùng cũng phải đi làm anh hùng. Rốt cục thì ba cái thứ anh
hùng gặp nhau ngoài chiến địa. Tao nghĩ âu cũng là đẹp mặt tổ
tiên…!!
Tao không biết năm Mậu Thân ở ngoài Bắc
tụi mày suy nghĩ gì về tụi tao, nhưng chắc là mày đáng đời cho mấy
thằng con nhà lành bắt đầu tập tành nếm mùi đánh nhau. Trong khi đó
tụi tao bước chân vào lính mà chẳng hề dám nghĩ là mình đi làm người
hùng.
Cuộc đời tao bắt đầu tiêu tùng từ cái
trận Mậu Thân đáng nguyền rủa đó. Giờ đây tao phải viết lại đầu đuôi
trận đó với con mắt nhìn của ba bên bốn phía để cho người đời thấy
được cái số phận của đất nước Việt Nam cũng chẳng khác gì số kiếp
của mày và tao.
http://quanvan.net/tran-mau-than-1968/
BÙI ANH TRINH
TRẬN MẬU THÂN 1968,
(1) TÌNH HÌNH MỸ VÀ CSVN TRONG NĂM 1967
Tự truyện của ông Võ Văn Kiệt do Huy Đức
ghi :
“Mậu
Thân quả là đã gây được những tiếng vang chính trị trong lòng nước
Mỹ, nhưng những người trực tiếp ở chiến trường như ông (Kiệt) đã
phải chứng kiến sự hy sinh quá lớn. Ông nói: “Lúc đó tôi đau đến mức
nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn Quân Giải phóng đã hy sinh trên toàn
chiến trường. Phần lớn căn cứ địa Quân Giải phóng ở nông thôn đã trở
thành “đất trắng” ( Huy Đức, Hiện tượng Võ Văn Kiệt , chương 1 ).
Theo thống kê của quân đội VNCH căn cứ
theo lời khai của các tù binh trên 34 mặt trận xảy ra trên toàn quốc
vào Tết Mậu Thân thì toàn bộ quân CSVN trước khi tham gia trận chiến
là 85.000 quân, không kể 1 sư đoàn ( 10.000 người ) chính quy Bắc
Việt tại Tây Nguyên và 2 sư đoàn ( 20.000 người ) chính quy Bắc Việt
tại Khe Sanh.
Như vậy con số hơn 11 vạn của ông
Võ Văn Kiệt có nghĩa là quân CSVN đã hoàn toàn chết hết.
Kế hoạch thai nghén từ khi Mao Trạch Đông
quyết định cung cấp tiền và vũ khí
Năm 1966, tháng 6, 2 sư đoàn Quân Mỹ và
VNCH mở cuộc càn quét từ vòng đai Sài Gòn, theo quốc lộ 13, đến vùng
Mỏ Vẹt là biên giới Việt Miên, cách Sài Gòn 50 cây số.
Theo tự truyện của tướng Lê Đức
Anh thì lúc này toàn bộ lực lượng quân sự của CSVN tại mặt trận B.2
( Đông Nam Bộ ) mới chỉ có 1 sư đoàn gồm Trung đoàn Q.761, Q.762, và
Trung đoàn 3.
Trung đoàn 3 là trung đoàn mới
tuyển mộ từ Miền Tây.( Một sư đoàn quân du kích khoảng 4.500 người
).
Để đối phó với cuộc hành quân của Mỹ, Tướng
CSVN Trần Nam Trung cho 2 trung đoàn Q.761 và Q.762 theo Trung ương
cục dạt qua mặt trận B.1 ( tức là bên kia biên giới Cam Bốt ), còn
Trung đoàn 3 và một phần của Chỉ huy sở Trung ương Cục “hòa tan” vào
dân chúng ( Ban ngày là công dân VNCH, ban đêm là cán binh CSVN ).
Năm 1966, cuối năm, theo tự truyện của
Tướng CSVN Lê Đức Anh :
“…cuối năm 1966 ông được Trung
ương gọi ra miền Bắc …
Sau đó đồng chí Lê Duẩn cử ông là
thành viên của phái đoàn Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn
sang Trung quốc …”
Khi gặp đoàn Mao chủ tịch hỏi … : “Hiện
nay cách mạng ở Miền Nam của các đồng chí có khó khăn gì?”.
…
Ông Anh cũng trả lời “… hiện nay
có khó khăn rất lớn là xe tăng và máy bay của Mỹ rất nhiều nhưng
Việt Nam thiếu vũ khí chống tăng, đánh máy bay và đánh tàu thủy;
thiếu đô la để mua gạo ở Căm Pu
Chia và Thái Lan là chủ yếu, mà mua bên đó phải mua bằng đồng đô
la”.
Nghe ông báo cáo vậy, ông Mao liền
chỉ tay vào các quan chức, những người dưới quyền ông đang có mặt
tại đó: “Hãy giải quyết cho các đồng chí Việt Nam súng đạn và tiền!”
Ông Anh nghĩ rằng ông Mao chỉ tay và nói
thế thôi chứ cụ thể nếu có được thì chắc còn lâu.
Nào ngờ … ..khi trở về Miền Nam,
ông đã thấy vũ khí được chở từ Trung Quốc sang cảng Si-ha-núc-vin,
rồi từ đây ô tô chở thằng tới kho hậu cần của Bộ chỉ huy Miền (
Khuất Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh, trang 73).
Năm 1967, ngày 22-2, quân đội Mỹ mở cuộc
hành quân mang tên Junction City, kéo dài 3 tháng trong khu vực
Chiến Khu C của CSVN.
Lực lượng hành quân khoảng 25.000
người;
gồm các đơn vị thuộc Sư đoàn 1/BB,
Sư đoàn 25/BB, Lữ đoàn 173 Dù, Lữ đoàn 196 Khinh binh, Lữ đoàn 199
Khinh binh, Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn 4/BB, 1 Lữ đoàn thuộc Sư đoàn
9/BB, Trung đoàn 11 Thiết giáp và 17 tiểu đoàn Pháo binh. Phối hợp
với 2 trung đoàn thuộc Sư đoàn 5 VNCH.
Kết quả Trung ương cục CSVN trốn qua bên
kia biên giới Cam Bốt, 100 cơ sở du kích địa phương bị phá hủy với
2.728 chết, 34 bị bắt, 139 xin ra hàng.
Phía Mỹ có 270 chết và 1.500 bị
thương. Tịch thu 194 vũ khí các loại.
Hồi ký của Tướng Westmoreland cho rằng 3
trung đoàn của CSVN đã bị đánh tan với bằng chứng là 2.728 xác chết,
nhưng tự truyện của Tướng Lê Đức
Anh cho biết thực ra 2 trung đoàn đang sống nhởn nhơ bên kia biên
giới, còn lại 1 trung đoàn ban ngày là dân VNCH, ban đêm là du kích
CSVN.
Con số 2.728 xác chết so với 194 vũ khí
bị tịch thu đã chứng minh được rằng hằng ngàn xác chết không có
súng.
Như vậy không phải là đánh trận,
mà là tấn công vào khu dân cư của CSVN.
Dĩ nhiên tất cả đều là cán binh
cọng sản, nhưng là những cán binh không có súng.
Còn con số 270 lính Mỹ chết và
1.500 bị thương thì có nghĩa là chết vì bị bắn tỉa và bị thương vì
đạp hầm chông.
Johnson cầu hòa, Lê Duẩn không cho hòa
Năm 1967, ngày 8-2, Tổng thống Hoa Kỳ
Lyndon B.Johnson gởi một bức thư cầu hòa cho ông Hồ Chí Minh :
Thưa ngài . Tôi viết cho ngài với niềm hy
vọng là cuộc chiến Việt Nam có thể chấm dứt.
Cuộc chiến này gây tổn thất nặng
nề – về sinh mạng, về thương tích, về tài sản và tình trạng khốn khó
của con người.
Nếu chúng ta không tìm được một
giải pháp hòa bình và công chính, lịch sử sẽ nghiêm khắc phán xét
chúng ta”. ( Hồ sơ lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ.
Giáo sư Lê Văn Khoa trích dịch và
đăng trong tác phẩm “Việt Nam 1945-1995”, trang 526).
Lúc này ông Hồ Chí Minh không còn họp Bộ
chính trị cho nên bức thư tới tay Lê Duẩn, ông ta biết là Mỹ đã thối
chí trong khi Hà Nội chưa ra quân.
Một mặt Lê Duẩn cầm thư này đi Bắc
Kinh và Mạc Tư Khoa để vay thêm viện trợ, một mặt lên kế hoạch chuẩn
bị Tổng tấn công chiếm Miền Nam.
Đồng thời trả lời cho Johnson :
“Chỉ sau khi có sự chấm dứt vộ điều kiện
các vụ oanh tạc và các hành động gây chiến khác của Mỹ chống VNDCCH
thì VNDCCH và nước Mỹ mới ngồi vào bàn thương thuyết và thảo luận
các vấn đề liên quan tới hai bên”.
“Nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ chịu
khuất phục trước sức mạnh, họ sẽ không bao giờ chịu thương thuyết
trước sức mạnh của bom đạn. Chính nghĩa của chúng tôi tuyệt đối
đúng.
Hy vọng rằng Chính phủ Mỹ sẽ hành
động theo lý trí”. ( Hồ sơ lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ.
Giáo sư Lê Văn Khoa trích dịch và
đăng trong tác phẩm “Việt Nam 1945-1995”, trang 528 ).
Lê Duẩn không cho hòa bởi vì ông chưa
cung cấp vũ khí cho Miền Nam mà Mỹ đã đánh không lại.
Thế
thì chỉ cần ông cung cấp súng đạn và kể cả đưa quân Miền Bắc vào thì
ông sẽ lập nên kỳ tích đánh thắng nước Mỹ là nước mạnh nhất thế
giới.
Năm 1967, tháng 2, bên kia biên giới
Miên.
Tướng Nguyễn Chí Thanh, Bí thư
Trung ương cục Miền Nam bị thương trong một trận thả bom của B.52,
ông được đưa ngay ra Hà Nội chữa trị.
Khi Nguyễn Chí Thanh về tới Hà Nội thì
cũng là lúc Lê Duẩn bắt đầu lên kế hoạch đánh chiếm Miền Nam.
Từ đó hai ông cựu trùm của xứ Nam
Bộ là Lê Duẩn và Phạm Hùng phối hợp với ông Bí thư Trung ương cục
Miền Nam Nguyễn Chí Thanh cùng nhau bàn bạc về phương án tác chiến
cho chiến dịch “Tổng công kích Tết Mậu Thân”. Lúc đó Phạm Hùng đang
là Phó thủ tướng của nội các Phạm Văn Đồng.
Tình hình nội bộ Bắc Việt
Năm 1967, ngày 5-7, Tướng CSVN Nguyễn Chí
Thanh đến chào Chủ tịch HCM để chuẩn bị lên đường trở lại Trung ương
cục Miền Nam sau 5 tháng điều trị vết thương do một trận B.52 dội
bom tại Cam Bốt..
Không ngờ chiều hôm đó ông bị lên
cơn nhồi máu cơ tim và chết tại bệnh viện vào sáng hôm sau.
Cái chết của Tướng Nguyễn Chí Thanh được
giữ bí mật cho đến năm 1984 sau khi ông Hoàng Văn Hoan đào thoát
sang Trung Quốc và viết hồi ký tố cáo Lê Duẩn giết Nguyễn Chí Thanh
bằng thuốc độc.
Để phản biện, Lê Duẩn cho người
viết sách kể rõ về cái chết của Nguyễn Chí Thanh với lời chứng của
gia đình Tướng Thanh.
Năm 1967, tháng 7, sau đám tang Tướng
Thanh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và vợ đi nghỉ mát dài hạn tại
Hungaria ( Nhằm đánh lừa tình báo của Hoa Kỳ .
Một khi Tướng Giáp cùng với vợ
rong chơi tại Châu Âu thì có nghĩa là tình hình chiến trường tại
Miền Nam không có gì ghê gớm ).
Trước khi lên đường Tướng Giáp phải viết
sẵn một bài báo nhan đề “Chiến thắng vĩ đại, trách vụ to lớn”.
Bài viết được đăng báo và đọc trên
đài phát thanh vào giữa tháng 9 năm 1967 để cho CIA in trí rằng
trong thời gian nghỉ mát Tướng Giáp không hề nghĩ đến chiến tranh.
Năm 1967, ngày 24-7, Ông Hồ Chí Minh và
Thủ tướng CSVN Phạm Văn Đồng tiếp hai sứ giả hòa bình của Tổng thống
Johnson là Raymond Aubrac và Herbert Marcovich.
Aubrac là người quen biết với HCM
thời 1946, khi HCM tham dự hội nghị Fontainebleu có trú ngụ tại nhà
của Aubrac.
Lúc HCM tiếp kiến hai sứ giả thì Tướng
Nguyễn Chí Thanh vừa mới chết vì bệnh tim trước đó hai tuần;
và Tướng Võ Nguyên Giáp đã bị đưa
đi “nghỉ mát” tại Hungaria. Theo tài liệu của Lưu văn Lợi thì hai
bên đã gần như thỏa thuận các chi tiết thực hiện đàm phán với điều
kiện Johnson phải tuyên bố ngưng ném bom Bắc Việt. *( Đây là động
tác giả để câu giờ của Lê Duẩn ).
Trong khi đó Tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ
tịch Hồ Chí Minh bị đưa ra ngoại quốc để giữ bí mật tuyệt đối cho kế
hoạch. *( Các cuộc họp Bộ chính trị để bàn về kế hoạch tấn công sẽ
không có mặt hai ông.
Ông Giáp chỉ trở về và biết được
kế hoạch tấn công vào 5 tháng sau, chỉ 1 ngày trước khi trận đánh
bắt đầu.
Sở dĩ Lê Duẩn phải đề phòng là vì
Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nguyên là cựu nhân viên tình báo của
Mỹ vào năm 1944-1945 cho nên ông sợ CIA thông qua các ổ điệp báo
Quốc tế tại Hà Nội có thể móc nối với hai người này ).
(2) TÌNH HÌNH VNCH VÀ MẶT TRẬN GPMN NĂM
1967
Tình hình nội bộ Trung ương cục Miền Nam
Năm 1967, ngày 9-7, Tướng cảnh sát Nguyễn
Ngọc Loan mở được đường dây tiếp xúc mật với ông Trần Bạch Đằng,
Thường vụ Trung ương Cục Miền Nam của ĐCSVN.
Ông Đằng cho một liên lạc viên tên
Trương Đình Tòng mang thư riêng của ông gởi cho đại sứ Mỹ Bunker.
Tài liệu của CIA : “Ngày 9/7/67 Loan (
Tướng Cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan ) giao Trương Đình Tòng cho CIA để
trả về Cục R theo đường Củ Chi. Hơn 10 ngày sau Tòng trở lại mang
thư của Trần Bạch Đằng cho biết sẵn sàng nói chuyện với Hoa Kỳ về
việc trao đổi tù nhân”.
CIA trang bị dụng cụ liên lạc cho Tòng (để
tránh việc đi qua đi lại dễ bị lộ) và ngày 28/9 CIA đưa Tòng về cục
R qua biên giới Việt Miên. CIA yêu cầu tướng Westmoreland ngưng tấn
công trong vùng đó 24 giờ để bảo đảm an toàn cho Tòng” ( CIA and The
Generals ).
*Chú giải : Trần Bạch Đằng là Ủy viên
thường trực của Trung ương Cục Miền Nam.
Thời 1951 Mao Trạch Đông cho thành
lập lại ĐCSVN thì Trần Bạch Đằng cùng Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt
được đưa ra Tuyên Quang để theo học lớp chính huấn do cán bộ Trung
Quốc giảng dạy.
Sau đó Linh và Đằng được đưa sang
học khóa chính trị tại Quảng Tây, TQ.
Riêng Võ Văn Kiệt bị mắc tội “hủ
hóa” ( Quan hệ bất chính với một nữ đồng chí đến có bầu ) nên không
được đi học TQ.
Trong thời chiến tranh 1959-1975 tại Miền
Nam Trần Bạch Đằng chỉ đứng sau Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt.
Năm 1967, sau các cuộc hành quân
càn quét của quân đội Hoa Kỳ tại vùng Tam Giác Sắt và vùng U Minh
Thượng, ông cùng với Võ Văn Kiệt lén Nguyễn Văn Linh bắt tay với
CIA.
Năm 1983 Trần Bạch Đằng viết quyển tiểu
thuyết “Ván Bài Lật Ngữa” để giải trình về việc ông ta cùng với Võ
Văn Kiệt lén liên lạc với CIA.
Trong tiểu thuyết nhân vật Nguyễn
Thành Luân là đại diện tiêu biểu cho 5 nhân vật gián điệp trong
đường dây liên lạc với CIA, đó là Phan Thúc Hứa ( X.30 ), Phạm Ngọc
Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn và Trần Bạch Đằng.
Cần ghi nhớ ngày Tướng Loan bắt tay với
Trần Bạch Đằng ( ngày 9-7-1967 ) thì Hà Nội đang làm lễ an táng
Tướng Nguyễn Chí Thanh, ông ta chết trước đó 3 ngày.
Hà Nội không hề hay biết tại Miền
Nam có kẻ đang bí mật phản bội.
Trong khi đó nhân vật cao cấp nhất của
Trung ương Cục Miền Nam là Phó bí thư Trung ương cục Nguyễn Văn Linh
cũng không hề hay biết.
Vì vậy 3 tháng sau Phó thủ tướng
Phạm Hùng vào Nam để thay Nguyễn Chí Thanh lãnh đạo Trung ương cục
Miền Nam thì Nguyễn Văn Linh vẫn vô tư ngồi soạn thảo kế hoạch chi
tiết với Phạm Hùng và Trung tướng Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng bộ
TTM của Hà Nội.
Ngược lại, tự truyện của Lê Đức Anh và hồi
ký của Mai Chí Thọ cho biết kế hoạch tổng tấn công do Nguyễn Văn
Linh và Hoàng Văn Thái bí mật sọan thảo với nhau, các ông MTGPMN chỉ
hay biết trước ngày khởi sự có 5 ngày.
Năm 1967, ngày 4-11. Tài liệu của CIA :
“Ngày 4/11 đại sứ Bunker đích thân thông báo tổng thống Thiệu về
cuộc tiếp xúc với MTGP. Hôm sau 5/11 Miller gặp Thiệu để bàn vào chi
tiết kế hoạch. Thiệu đồng ý để Loan làm việc với CIA về mặt kỹ
thuật, riêng ông ta sẽ quyết định mặt chính trị. Hoa Kỳ cảm thấy khó
khăn khi cùng làm việc với Thiệu và Loan để thảo bức thư trả lời cho
MTGP ( CIA and The Generals, bản dịch của Trần Bình Nam ).
Năm 1967, tháng 12,
Tài liệu của CIA : “Đầu tháng
12/67 Bunker đích thân gặp Thiệu và thuyết phục Thiệu đồng ý trả tự
do cho 3 người gồm bà Mai Thị Vàng, vợ của Trần Bạch Đằng, Tòng và
người mang thư đầu tiên của Kiếm. Tòng và người mang thư của Kiếm
được trả tự do tại phía Tây Sài Gòn trong vùng cộng sản kiểm soát. (
CIA and The Generals, bản dịch của Trần Bình Nam ).
Tình hình nội bộ Bắc Việt vài tháng trước
trận Mậu Thân
Năm 1967, ngày 20-9, từ Hungaria Tướng Võ
Nguyên Giáp gửi thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu, Chánh văn phòng bộ
TTM/CSVN, để hỏi thăm tình hình tại Hà Nội.
Ngày 11-11-1967, Tướng Võ Nguyên Giáp lại
gửi thư cho Đại tá Hiếu, hỏi thăm về số phận của cá nhân ông : “Lúc
về sẽ bố trí ăn ở làm việc như thế nào ?” ( Huy Đức, Bên Thắng Cuộc,
Chương XV ).
Năm 1967, ngày 23-12, Chủ tịch Hồ Chí
Minh từ nơi dưỡng bệnh ở Bắc Kinh trở về Hà Nội để dự họp Bộ chính
trị vào ngày 28-12.
Vừa về đến thì ông hỏi thăm Tướng
Võ Nguyên Giáp nhưng lúc đó tướng Giáp và vợ đang còn ở Hungaria.
Ngày 28-12, Bộ chính trị họp phiên đặc
biệt ngay bên nhà sàn của HCM.
Phiên họp kéo dài trong các ngày
28,29 và 30-12.
Ngày 31-12, HCM đến Phủ Chủ tịch để thâu
băng trước lời chúc tết sẽ phát đúng một tháng sau, vào dịp giao
thừa tết Mậu Thân ( 30-1-1968 ). Ngày 1-1-1968, HCM lên đường trở
lại Bắc Kinh. *( Lời chúc tết sẽ là hiệu lệnh mở đầu cuộc tổng công
kích Mậu Thân ).
Tháng 1 năm 1968 Tướng Võ Nguyên Giáp
được cho phép trở về nước.
Trên đường về ông ghé thăm HCM tại
Bắc Kinh ngày 25-1.
Lúc 0 giờ ngày 30-1-1968, tại Bắc Kinh :
Tiếng pháo nổ ran…cùng lúc từ chiếc đài bán dẫn, tiếng Bác Hồ vang
lên sang sảng : “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua…”…
Trong căn phòng vắng chỉ có 2
người ( Hồi ký của Vũ Kỳ, thư ký riêng của HCM.
“Hai người” là HCM và Vũ Kỳ, hai
bác cháu ngồi nghe lời chúc tết của HCM trên đài phát thanh Hà Nội,
lời chúc được thu âm trước đó 1 tháng.
Lúc này dân Trung Quốc chưa đón
giao thừa, giao thừa của TQ là ngày hôm sau, lúc 0 giờ ngày
31-1-1968 )…!
Năm 1968, ngày 6-1; Đại tá Lê Trọng Nghĩa
Cục trưởng Cục tình báo CSVN, bị bắt cùng với cục trưởng Cục tác
chiến Đỗ Đức Kiên; Đại tá Lê Minh Nghĩa, Phó văn phòng Bộ TTM
CSVN…Riêng Đại tá Nguyễn Văn Hiếu, Chánh văn phòng Bộ TTM, bị đưa đi
an trí tại Học viện Quân sự Tam Đảo.
Năm 1968, ngày 29-1, Tướng Võ Nguyên Giáp
về đến Hà Nội.
Ngày 30-1, ông được Đại tá Vũ
Lăng, Cục trưởng cục Tác chiến, báo cáo về kế hoạch tồng công kích
tại Miền Nam sẽ khai diễn vào ngày mai.
*( Việc Tướng Giáp bất thần xuất hiện tại
Hà Nội trong mấy ngày Tết khiến cho tình báo Mỹ lại tin rằng chuyện
đi nghĩ mát tại Hung chỉ là động tác giả, giờ đây thì động tác thật
của ông ta là chỉ huy trận Mậu Thân tại chiến trường Miền Nam.
Tin này khiến cho Nhà Trắng và Lầu Năm
Góc mất hồn.
Đến nỗi ông trùm CIA tại Sài Gòn
là Komer đã bị khủng hoảng thần kinh, Đại sứ Bunker buộc ông phải về
Mỹ nghỉ ngơi trong 2 tuần.
Sau đó Tổng thống Johnson đưa
Komer đi làm đại sứ Hoa Kỳ tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong khi trước kia Komer là Cố
vấn an ninh Quốc gia Hoa Kỳ, một chức vụ rất quan trọng mà sau này
Kissinger từng đảm nhiệm.
Năm 1968, ngày 6-2, ( Sáu ngày sau khi trận
Mậu Thân khai diễn ) Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, Thứ trưởng bộ quốc
phòng, bị cách chức vì có liên quan đến vụ “âm mưu chống Đảng” mà
người ta nghi là do Võ Nguyên Giáp cầm đầu.
Những người thân cận của Tướng Giáp như
Tướng Đặng Kim Giang , Tướng Lê Liêm, Đại tá Nguyễn Trọng Nghĩa, Đại
tá Đỗ Đức Kiên, Đại tá Lê Minh Nghĩa… đều bị bắt.
Theo hồi ký của Vũ Thư Hiên thì
những người này bị ép phải khai ra là do Võ Nguyên Giáp lãnh đạo.
Sở dĩ phải bắt gấp vì Lê Duẩn sợ cánh đàn
em của Tướng Giáp sẽ làm phản trong khi Lê Duẩn đang tập trung chỉ
huy Tổng công kích tại Miền Nam.
Như
vậy Tướng Võ Nguyên Giáp hoàn toàn không dính dáng đến trận tổng tấn
công Mậu Thân, trái với các sách vở quân sự hiện đang lưu hành tại
Mỹ.
(3) KẾ HOẠCH “TỔNG TẤN CÔNG, TỔNG NỔI DẬY”
Trong khi Hoa Kỳ ráo riết mở đường thương
lượng với CSVN tại Miền Nam thì tại Miền Bắc Hà Nội đang chuẩn bị
cho một cuộc tổng tấn công vào các tỉnh thành phố của VNCH.
Theo như thông tin mà Hà Nội nhận
được từ Trung ương Cục Miền Nam thì dân chúng Miền Nam Việt Nam đã
sẵn sàng nổi dậy, nếu có một cuộc kích động châm ngòi bằng các toán
quân vũ trang thì nhân dân các phố thị sẽ hùa theo xuống đường đập
tan chế độ.
Giấc mơ chiến thắng từ bức thư cầu hòa của
Tổng thống Johnson
Tổng bí thư Lê Duẩn quyết định tổng tấn
công đánh chiếm Miền Nam sau khi ông nhận được bức thư cầu hòa của
Tổng thống Johnson vào tháng Hai năm 1967.
Lúc đó Hà Nội chưa nhận được vũ
khí và tiền bạc của ông Mao Trạch Đông nhưng Lê Duẩn căn cứ theo
tinh thần bức thư thì hình như Mỹ đã thua xiểng niểng.
Quyết tâm của Lê Duẩn càng trở nên mạnh
mẻ sau khi Nguyễn Chí Thanh ra Hà Nội để chữa thương vào đầu năm
1967.
Từ đầu năm cho tới tháng 7 Nguyễn
Chí Thanh và Lê Duẩn, Phạm Hùng cùng bàn bạc để lập kế hoạch tổng
tấn công, tổng nổi dậy trên khắp Miền Nam Việt Nam.
Cuộc chuẩn bị không hề có sự tham gia của
Võ Nguyên Giáp, vì vậy Võ Nguyên Giáp đã vô tình viết một bài báo đả
kích chủ trương đánh lớn của Nguyễn Chí Thanh khiến cho Lê Duẩn nổi
giận bắt Võ Nguyên Giáp phải im tiếng. Hồi ký của Phó thủ tướng CSVN
Trần Quỳnh :
“ Xem bài báo đó Lê Duẩn gọi Giáp đến hỏi:
‘Anh viết bài báo nhắm mục đích gì vì nội dung của nó tôi thấy sai
hết. Viết để đánh lừa quân địch chăng? Nếu thế thì quân đội ta khi
đọc bài của anh cũng sẽ bị lừa nốt. Viết cho quân đội ta chăng, thế
thì anh tiết lộ bí mật về ý đồ của mình cho địch biết’. Giáp cứng
họng thanh minh ấp úng, xin lỗi rồi về”.
Không ngờ vừa xong vụ đó, Nguyễn Chí
Thanh lăn đùng ra chết ngay trong ngày sửa soạn lên đường trở vào
Nam.
Ông bị nhồi máu cơ tim vào chiều
ngày 5-7-1967 và qua đời tại bệnh viện vào 9 giờ sáng ngày hôm sau.
Nếu không thì ông sẽ lên đường vào Nam vào ngày đó (6-7-1965).
( Nguyễn Thị Bảo, “Đại Tướng
Nguyễn Chí Thanh, Nhà Chính Trị Quân Sự Lỗi Lạc” ,Nhà xuất bản Quân
đội nhân dân, 1998 ).
Sau khi Nguyễn Chí Thanh chết, Lê Duẩn cử
Phạm Hùng vào Nam thay thế Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Trung ương
cục Miền Nam.
Trong khi đó tại Hà Nội Lê Duẩn
tiếp tục bàn bạc với Trung tướng Hoàng Văn Thái, Thượng tướng Song
Hào và Đại tướng Văn Tiến Dũng để tiến hành kế hoạch.
Tuyệt chiêu đánh lừa tình báo Mỹ
Hai tháng sau, ngày 15-9, ông cho đọc
trên đài phát thanh một bài viết của Tướng Võ Nguyên Giáp và cho
đăng trên tờ Quân đội Nhân Dân với tựa đề “Chiến thắng vĩ đại, trách
vụ to lớn”
nhằm đánh lừa tình báo của Hoa Kỳ.
Hồi ký của Tướng Westmoreland, Tư
lệnh quân đội Mỹ và Đồng Minh tại VN, nói về bài báo của Tướng Giáp
:
“Tướng Giáp nói trong bài báo đăng vào
tháng 9 năm 1967 trên một tạp chí chính thức của Bắc Việt, rằng ông
ta đang tiến hành một cuộc chiến tranh trường kỳ nhân nghĩa và luôn
đề cao sự bảo toàn lực lượng” (Westmoreland không ngờ rằng lúc này
VNG đang bị đi đày tận Hungaria).
Trong bài báo đó ông Giáp cho rằng :
(1) Phải chiến đấu lâu dài, cho dù
10 năm hay 20 năm.
(2) Ưu tiên tấn công các đơn vị
quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh.
(3) Tập trung đánh lớn tại vùng
giới tuyến.
(4) Nhân dân Miền Bắc chuẩn bị đối
phó với việc Mỹ có thể đổ bộ tấn công tại Quảng Bình hay Hà Tĩnh.
Đọc được bài báo của Võ Nguyên Giáp,
Tướng Westmoreland bèn :
(1) Tính tới chuyện rút quân và
giao nhiệm vụ chiến đấu 10 năm, 20 năm cho VNCH.
(2) Tăng cường hệ thống phòng thủ
tại các căn cứ đóng quân của Hoa Kỳ.
(3) Tăng cường phòng thủ khu vực
phía Nam sông Bến Hải bằng cách chuyển Sư đoàn 101 Không vận từ An
Khê, Bình Định ra Quảng Trị ( Hồi ký của Westmoreland, bản dịch của
Duy Nguyên trang 454 và 455 ).
Trong khi đó sự
thực kế hoạch
tấn công của Lê Duẩn là nhắm vào
các mục tiêu ngược lại;
nghĩa là: (1) Chiếm ngay Miền Nam
Việt Nam trong năm 1968. (2) Chỉ tấn công các cơ sở hành chánh và
các đơn vị không tác chiến của quân VNCH. (3) Đánh khắp Miền Nam.
(4)
Còn chuyện chuẩn bị chống quân Hoa
Kỳ đổ bộ ra Bắc chỉ là động tác giả.
Tháng 10 năm 1967 Hà Nội cử Tướng Hoàng Văn
Thái vào Mặt trận B.2 ( Miền Đông Nam Kỳ ) làm Tư lệnh quân Giải
phóng Miền Nam để lên kế hoạch cho trận tổng công kích Mậu Thân.
Ngày 19-10-1967, Hà Nội tuyên bố hưu
chiến trong 7 ngày để nhân dân ăn tết, bắt đầu từ ngày 30-1-1968.
Để đáp lại thiện chí của CSVN,
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng tuyên bố hưu chiến trong 3 ngày
tết.
Ngày 31-12-1967 Bộ trưởng Ngoại giao CSVN
Nguyễn Duy Trinh tuyên bố nếu Hoa Kỳ chịu tuyên bố ngưng ném bom một
cách vô điều kiện thì Hà Nội sẵn sàng bước vào bàn đàm phán.
Đây cũng chỉ là động tác giả của
Lê Duẩn để đánh lừa Washington.
Năm 1967, ngày 28-12, Bộ chính trị CSVN
ra nghị quyết: “Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng Miền Nam của ta
sang một thời kỳ mới – Thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Lúc này
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa từ Bắc Kinh trở về nước vào ngày 23-12, sau
hội nghị thì ông lên đường trở lại Bắc Kinh tiếp tục chữa bệnh.
Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn
còn đang cùng với vợ “chữa bệnh” tại Hung Ga Ri.
* Chú giải : Sáng kiến kết hợp quân sự và
chính trị của trận Mậu Thân:
Theo tinh thần nghị quyết thì Hà Nội tin
chắc rằng một khi quân đội CSVN tràn vào các thành phố thì nhân dân
sẽ hùa theo “đứng lên giành lấy chính quyền”. …(!).
Cho tới nay các nhà nghiên cứu vẫn
thắc mắc tại sao Lê Duẩn lại có một quyết định hoang tưởng như vậy.
Thực tế xảy ra cho thấy ở đâu có
quân Cọng sản xuất hiện thì nhân dân bồng bế nhau chạy trốn về phía
VNCH.
Vậy thì dựa vào đâu mà Hà Nội dám
ra nghị quyết “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa”?
Sẽ không có gì khó hiểu nếu người ta biết
đựơc rằng từ đầu năm 1967 Nguyễn Chí Thanh ra Hà Nội chữa bệnh và
ông ta đã tỉ tê với Lê Duẩn, Phạm Hùng suốt nửa năm trời.
Trong những lần bàn chuyện “Cách
mạng” ở Miền Nam Nguyễn Chí Thanh đã lái cho Lê Duẩn tin rằng hễ
thấy mặt quân CSVN là nhân dân hùa nhau đứng dậy.
Sở dĩ Nguyễn Chí Thanh tin như vậy bởi vì
kể từ khi vào Miền Nam năm 1965 ông chỉ nằm ở Trung ương cục tại Mặt
trận B.1, tức là bên Cam Bốt.
Tại đây ông gặp các đại biểu hăng
tiết như Nguyễn Thị Định, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Trần Bạch Đằng,
Võ Văn Kiệt… Những người này luôn luôn kích ông xin Hà Nội cung cấp
vũ khí để tổ chức lực lượng đánh Mỹ.
Chẳng những cho Lê Duẩn uống nước đường,
Nguyễn Chí Thanh còn vạch ra kế hoạch tỉ mỉ đến nỗi không chê vào
đâu được.
Đơn vị nào tấn công khu vực nào,
nhân vật nào phụ trách địa bàn nào đều được đưa vào kế hoạch. Thậm
chí cũng đã in sẵn tiền giấy với niên biểu 1968 để chi dùng tại Miền
Nam sau khi chiến thắng, may sẵn quần áo đồng phục cho cán bộ Công
an v.v… ( Hồi ký của Phó thủ tướng CSVN Trần Quỳnh ).
Cuối cùng thì toàn bộ kế hoạch của Nguyễn
Chí Thanh giống như là kịch bản của các nhà làm phim, hoàn toàn xa
rời thực tế.
Vì vậy sau khi Nguyễn Chí Thanh
chết rồi mà Lê Duẩn cũng vẫn cứ ôm chặt giấc mơ không nỡ rời.
Trong khi đó có một người thấy
trước là không ăn, đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhưng ông ta
không dám lên tiếng vì sợ Lê Duẩn cho là “bàn lùi” do thiếu thiện
chí.
Không may cho Tướng Giáp, thực tế chiến
trường Miền Nam càng chứng minh rằng ông đúng thì ông càng bị Lê
Duẩn thù ghét.
Cho tới khi trận tổng công kích
thất bại hoàn toàn thì Tướng Giáp nhủn như con chi chi, chỉ sợ Lê
Duẩn thẹn quá sẽ đổ thù trút oán sang cho mình.
Vì vậy mà sau trận Mậu Thân Tướng
Giáp phải bấm lòng ca tụng chiến thắng Mậu Thân của Đảng CSVN trên
báo, trên đài.
Rốt cuộc những lời ca tụng quá đáng của
Tướng Giáp khiến cho các nhà phân tích tình báo ngồi tại Washington
tin rằng Võ Nguyên Giáp là linh hồn của trận Mậu Thân và ông ta đã
vênh vang ca tụng chiến thắng oanh liệt của chính ông ta.
Thế là người Mỹ vội vàng tính tới
chuyện đem những chàng trai của họ về nước trước khi mọi chuyện trở
nên quá muộn màng như quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ (Sic).
Cho tới năm 2008, nghĩa là 40 năm sau, Đài
phát thanh RFA đăng lời bình luận của nhà nghiên cứu Merle
Pribbenow , cựu chuyên viên ngôn ngữ của cục tình báo trung
ương CIA :
“Nhiều người trong giới nghiên cứu của
Hoa Kỳ cho rằng quan niệm về kế hoạch tổng công kích Mậu
Thân là của tướng Võ nguyên Giáp, tổng tư lệnh các lực
lượng vũ trang miền Bắc Việt Nam. Có người lại cho đó là
của tướng Nguyễn Chí Thanh, tư lệnh quân sự các lực lượng
Cộng sản chiến đấu ở miền Nam.
Tưởng chừng còn phải chờ nhiều năm
nữa mới xác minh được sự thật, nhưng gần đây những nguồn
thông tin từ Hà Nội cho thấy cả hai vị tướng kia đều không
phải là tác giả kế hoạch tổng công kích tổng nổi dậy Mậu
Thân 1968. ( Bản tin RFA ngày 16-3-2008 ).
Một sự thực rất dễ tìm nhưng CIA phải đợi
tới 40 năm sau mới biết.
Lẽ ra với trách vụ của mình, CIA
phải biết chuyện này từ tháng 7 năm 1960 tức là từ 48 năm về trước.
Cả Hà Nội đều biết Võ Nguyên Giáp
bị mất quyền lực từ năm 1960 và trở thành tội đồ của ĐCSVN từ năm
1963. Vậy mà CIA đợi tới 2008 mới biết.
Quả là một cơ quan tình báo quốc
tế siêu đẳng.
(4) HẸN GIỜ KHỞI SỰ
Những dấu hiệu cho thấy trước kế hoạch của
Lê Duẩn
Tháng 11 năm 1967, trong khi Tướng
Westmoreland đang còn lưu lại Washington thì Phó tướng của ông là
Tướng Abram gởi điện báo cho biết đã bắt được tài liệu của CSVN gần
Đắc Tô “nói về một cuộc tổng tấn công trên toàn cõi Miền Nam”.
Westmoreland bèn đưa thông tin này
ra trong một cuộc họp báo và cho biết : “Đó là trận khởi đầu để cho
biết địch sẽ bị đị bại”. ( Hồi ký của Westmoreland Bản dịch của Duy
Nguyên trang 455 ).
Trước đó, vào tháng 10 năm 1967, một đơn vị
thuộc Sư đoàn 101 Mỹ đã bắt được tài liệu cho thấy : “Bộ Tư lệnh
Trung ương CSVN kết luận rằng thời cơ đã đến để làm cách mạng trực
tiếp và thời cơ đó là một cuộc tổng công kích và Tổng nổi dậy” (
Westmoreland, trang 455 ).
Cuối tháng 11, Tướng Westmoreland dự một
buổi tiệc do Tướng Trần Ngọc Tám khoản đãi.
. Tướng Tám nói chuyện với
Westmoreland : “Ông cho tôi biết là ông linh cảm địch đang dàn trận
đánh lớn.
Có thể là một trận thư hùng sống
mái, để rồi cuối cùng chúng ta sẽ chiến thắng” ( trang 456 ).
Trung tướng Trần Ngọc Tám
( Khóa 1 VBQG Nước Ngọt ) là chỉ
huy trưởng Trung tâm Bình định Phát triển bộ TTM, Trung tâm của ông
( CORD ) thu thập tin tức từ 3 cơ quan nhánh của CIA là USOM, USID,
và Phụng Hoàng.
Tất cả những tin tức của CIA đưa
đến cho ông hoàn toàn chính xác so với thực tế. Ông thấy ngay vấn để
và đánh giá rất chính xác.
Đáng tiếc khi nói như vậy thì Tướng Tám
đinh ninh rằng Westmoreland cũng đang nắm tin tức tình báo chính xác
như ông.
Không ngờ là lúc đó CIA đang đi
đêm với Trần Bạch Đằng cho nên họ giấu Westmoreland những tin tức về
hoạt động chuyển quân chuẩn bị đánh lớn của quân CSVN.
Họ sợ ông Tướng có những phản ứng
phá hoại cuộc đàm phán giữa Tòa đại sứ Mỹ và Trần Bạch Đằng. Vả lại
theo như hồi ký của Ủy viên Bộ chính trị Mai Chí Thọ thì các ông
MTGPMN chỉ biết được lệnh tổng tấn công trước ngày khởi sự có 5
ngày.
Vì không biết là Tướng Tám nắm chắc tình
hình cho nên Westmoreland nghĩ rằng Tướng Tám “linh cảm” ( đoán quẻ
) và ông không để ý.
Nếu lúc đó ông “hỏi tới” tướng Tám
thì có lẽ ông sẽ không đến nỗi mất uy tín trầm trọng vì không tiên
liệu được tình hình.
Tại Bộ chỉ huy quân sự Miền Nam của CSVN
Tháng 10 năm 1967 Tướng CSVN Hoàng Văn Thái
từ Hà Nội đến Trung ương cục Miền Nam ( Mặt trận B.1 bên kia biên
giới Cam Bốt ) để thay tướng Trần Văn Trà làm Tư lệnh Quân Giải
phóng Miền Nam, Tướng Lê Trọng Tấn làm Phó.
Tướng Trần Văn Trà xuống làm Tư lệnh Mặt
trận Sài Gòn Gia Định.
Lúc này Trung ương Cục do Phạm
Hùng làm Bí thư và Nguyễn Văn Linh làm Phó đang nằm lánh nạn tại Mặt
trận B.1 sau các cuộc hành quân càn quét của 5 sư đoàn HK tại khu
vực biên giới Việt Miên.
Trong khi đó 2 Trung đoàn chủ lực của Mặt
trận B.2 là Trung đoàn Q.761( Sau đổi thành 271 ) và Trung đoàn
Q.762 ( Sau đổi thành 272 ) đang nằm bên kia biên giới Tây Ninh.
Còn Trung đoàn 3 ( Sau đổi thành
273 ) thì đang sống lẫn trong dân chúng ở vùng Chiến Khu C.
Theo hồi ký của Đại tướng Lê Đức Anh thì
kế hoạch tổng công kích do Nguyễn Văn Linh và Hoàng Văn Thái thiết
lập, mỗi quân khu và mỗi tỉnh được phân công riêng chứ không có họp
chung để cùng thảo luận ( Để giữ bí mật ).
Trong khi đó Đại tá Lê Đức Anh giữ
chức Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam nhưng hồi ký của ông
cho thấy ông không được tham dự soạn kế hoạch.
Theo hồi ký của Mai Chí Thọ thì mãi tới khi
nhận được nghị quyết 14 của Trung ương Đảng họp vào tháng Giêng ông
mới biết được kế hoạch tổng tấn công gồm có 5 điểm:
(1). Hướng tấn công là các đô thị, chủ yếu
là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế.
(2). Mục tiêu tấn công là các cơ quan đầu
não chiến tranh của Mỹ ngụy.
(3). Không gian tấn công là toàn Miền Nam.
(4). Thời gian tấn công là đúng giữa đêm
giao thừa tết Nguyên đán.
(5). Phương châm tấn công là đánh địch bằng
quân sự với sự nổi dậy của quần chúng.
Như vậy so với thời gian khởi sự thì các
đơn vị không đủ thời gian để chuẩn bị, nhất là chuẩn bị lên kế hoạch
và thực hiện di quân.
Và cũng vì giữ bí mật cho nên binh
sĩ không được chuẩn bị tinh thần để đánh vào khu dân cư.
Vì vậy họ hoang mang khi biết mình
phải tấn công như một đơn vị đặc công nội thành trong khi họ không
được huấn luyện và hoàn toàn không có kinh nghiệm về tác chiến trong
thành phố.
Theo kế hoạch của Hoàng Văn Thái và
Nguyễn Văn Linh thì Sài Gòn-Gia Định được tổ chức thành một khu đặc
biệt, được gọi là “Khu Trọng Điểm”, do Nguyễn Văn Linh làm Bí thư và
Hoàng Văn Thái làm Tư lệnh.
Khu Trọng Điểm đựoc chia thành 6
phân khu.
Phân khu 6 là khu vực trung tâm
Sài Gòn do Trần Bạch Đằng chỉ huy.
Nhưng gần đến ngày khởi sự thì lại chia
Khu Trọng Điểm thành 2 khu vực :
Khu vực Bắc Sài Gòn do Bộ tư lệnh
tiền phương Bắc chỉ huy. Tướng Trần Văn Trà làm Tư Lệnh kiêm Chính
ủy, Mai Chí Thọ làm Phó chính ủy và Đại tá Lê Đức Anh làm Tư lệnh
phó.
Khu vực Nam Sài Gòn do Võ Văn Kiệt
làm Chính ủy, Đại tá Trần Hải Phụng làm Tư lệnh và Trần Bạch Đằng
làm Phó chính ủy.
Bộ chỉ huy của Nguyễn Văn Linh và
Hoàng Văn Thái đóng chung với Bộ chỉ huy của Võ Văn Kiệt.
Lúc này Phạm Hùng là Bí thư Trung ương
Cục Miền Nam kiêm Chính ủy Quân Giải phóng Miền Nam nằm ở mặt trận
B.1 (Cam Bốt).
Tướng Lê Trong Tấn là Tư lệnh phó
Quân Giải phóng Miền Nam và tướng Trần Độ là Phó chính ủy Quân Giải
phóng Miền Nam cũng có tham gia trận Mậu Thân nhưng hồi ký của Lê
Đức Anh và hồi ký của Mai Chí Thọ hoàn toàn không đề cập tới.
Một trục trặc nhỏ do “người tính không bằng
trời tính”
Ngày giờ đồng loạt khởi sự được Lê Duẩn
ấn định là từ lúc giao thừa cho tới 2 giờ sáng mùng một tết Mậu
Thân.
Tuy nhiên năm đó theo lịch Hà Nội
( tính theo lịch của Lê Quý Đôn ) thì ngày mùng 1 tết là 30-1 năm
1968.
Trong khi đó dân chúng Miền Nam
lại dùng lịch của Hồng Kông ( tính theo lịch Trung Hoa ) cho nên
ngày mùng 1 lại là ngày 31-1-1968.
Mặt trận Tây Nguyên của CSVN toàn là các
đơn vị từ ngoài Bắc vào nên khởi sự tấn công theo lịch in tại Hà
Nội.
Nha Trang cũng nhận lệnh từ Tây
Nguyên nên khởi sự cùng ngày đó. Vì vậy Tây Nguyên, Nha Trang, Quy
Nhơn và Đà Nẵng khởi sự trước 1 ngày.
Ngày nay thỉnh thoảng vẫn có chuyện ngày
tết của Hà Nội chênh 1 ngày so với lịch Tàu cho nên những người Việt
ở nước ngoài đón giao thừa trước hoặc sau 1 ngày bởi vì ở nước ngoài
dùng lịch Tàu.
*( Từ năm 1954, Bộ Văn hóa thông tin của
Hà Nội căn cứ vào sách “Bảng Đối Chiếu Âm Dương Từ 1820 Đến 2010” do
Lê Đức Hoạt và Geor Cordier biên soạn. Lê Đức Hoạt đã dùng cách tính
lịch của Lê Quý Đôn.
Lê Quý Đôn học theo cách tính âm
lịch của người Trung Hoa thời Phục Hy; nhưng theo cách tính này thì
những tháng ngày nhuận có quyền đặt vào tháng ngày nào thấy tiện.
Còn người Tàu tại Hồng Kông thì căn cứ
theo sách “Nhị Bách Niên Biểu 1820-2020” của người Trung Hoa.
Sách này cũng dùng theo lối tính
của lịch Phục Hy nhưng những ngày tháng nhuận thì cũng tự đặt cho
nên có khác với lịch của Lê Quý Đôn ).
Năm 1968, ngày 30-1, lúc 0 giờ, các ông
chỉ huy Khu Trọng Điểm (Sài Gòn, Gia Định) của CSVN ngồi nghe đài Hà
Nội chợt bàng hoàng khi nghe lời chúc tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua.
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà.
Nam, Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta”.
Đây là hiệu lệnh tổng tấn công
trên toàn Miền Nam!.. nhưng hôm nay mới là 30 tết, còn 24 tiếng đồng
hồ nữa mới đúng giờ giao thừa!
Các ông quýnh lên gọi nhau dậy bàn bạc,
sau khi xem lại mọi cuốn lịch và nghe đài Sài Gòn thì chưa có gì là
giao thừa cả.
Lúc đó mới hay là Hà Nội ăn tết
trước một ngày. Thuở đó chưa ai biết là có chuyện chênh lệch giữa
lịch Ta và lịch Tàu cho nên cứ nghĩ rằng Trung ương ĐCSVN cho ăn tết
trước một ngày như vua Quang Trung trước khi đánh quân Thanh.
Các ông bảo nhau đi ngủ lại, nhưng trong
lòng cứ thấp thỏm, sợ các nơi khác ra tay trước khiến địch nó phát
hiện ra nó đề phòng thì hỏng sự, không còn tính cách bất ngờ nữa.
Quả nhiên 7 giờ sáng hôm sau thì
nghe đài phát thanh Sài Gòn phát đi tiếng nói của Phó Tổng thống
Nguyễn Cao Kỳ báo động trên toàn quốc.
Trong khi đó các ông Hà Nội chưng hững,
giờ khởi sự đã qua mấy tiếng đồng hồ mà không thấy các nơi báo cáo
gì cả, sáng ra nghe đài BBC mới hay chỉ có 6 nơi ra tay và “ngụy” nó
báo động khắp nơi rồi.
Vậy mới biết người tính không bằng
Trời tính, cố giữ bí mật cho tới giờ phút chót để tạo yếu tố bất
ngờ, thế mà mọi sự hỏng cả.
Về phía VNCH cũng yên chí là nếu CSVN có
tổng tấn công thì đã cùng tấn công rồi, chứ đâu có chuyện chỗ tấn
trước chỗ tấn sau.
Nhất là nếu có ý định tấn công Sài
Gòn thì CSVN phải đánh Sài Gòn trước nhất.
Do đó cứ nghĩ rằng ngoài 6 điểm kể
trên, CSVN có thể sẽ đánh các thành phố hẻo lánh khác mà họ có nhiều
sự tiếp trợ của dân chúng.
Không ai ngờ sự thực CSVN hẹn nhau
cùng tấn công vào giờ giao thừa nhưng giờ giao thừa Hà Nội lại khác
với giờ giao thừa Sài Gòn.
(5) NGÀY THỨ NHẤT
Năm 1968, ngày 28-1, tại Quy Nhơn. Ty An
ninh Quân đội tỉnh Bình Định khám phá một tổ chức nằm vùng của CSVN,
phối hợp cùng Phòng tình báo Tiểu khu Bình Định bắt giữ 11 người và
tịch thu một cuộn băng ghi âm.
Trong đó thâu thanh sẵn lời kêu
gọi nhân dân vũ trang nổi dậy lật đổ chính quyền; một cuốn băng khác
thâu âm lời kêu gọi của “Lực lượng đấu tranh cho hòa bình và thống
nhất”.
Những người bị bắt cho biết CSVN sẽ tấn
công Quy Nhơn trong dịp tết. Phòng tình báo Tiểu khu Bình Định
chuyển tin về Tông Tham Mưu.
Bộ Tổng tham mưu chuyển tin này
cho các Quân Khu nhưng chỉ là để lưu ý đề phòng mà thôi.
Không đặt thành tin báo động.
Tại Nha Trang, lúc giao thừa theo lịch Hà
Nội
( ngày 30-1-1968 )
Năm 1968, ngày 30-1, lúc 0 giờ 30, tại
Nha Trang.
Khoảng 160 quân đặc công CSVN và
100 người nằm vùng tại Nha Trang đã chia nhau tấn công Trung tâm
huấn luyện Hải Quân và Đài phát thanh Nha Trang, tuy nhiên gặp sự
chống trả của cả hai nơi, quân CSVN không tiến vào được bên trong
hàng rào của Trung tâm huấn luyện và Đài phát thanh.
Mờ sáng 3 toán Lực lượng đặc biệt đến
tăng cường cho Đài phát thanh và một tiểu đoàn Biệt động quân ở Dục
Mỹ tiến vào thành phố Nha Trang để giải tỏa các nơi bị tấn công.
Tới 2 giờ chiều thì thành phố trở
lại yên tĩnh.
Tại Ban Mê Thuột, lúc giao thừa theo lịch
Hà Nội
( ngày 30-1-1968 ).
*Lúc 1 giờ 30, tại Ban Mê Thuột.
Dân quân du kích CSVN đi lẫn cùng
9.000 đồng bào Kinh, Thượng tràn vào chiếm Đài phát thanh, nhà lao,
tòa hành chánh, khu cố vấn Hoa Kỳ và Bộ chỉ huy Sư Đoàn 23.
Theo hồi ký của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp thì
CSVN áp dụng chiến thuật quần chúng chiến : “Phối hợp với đòn tấn
công quân sự, Tỉnh ủy Đắc Lắc huy động 9.000 dân chúng tiến vào thị
xã đấu tranh với địch…Bà con cô bác vây chặt căn cứ Trung đoàn 45
ngụy, kêu gọi binh lính địch quay về với nhân dân” (Sic).
*Chú giải :
Cũng theo hồi ký của Tướng Hiệp
thì kết quả : “Trước làn sóng tiến công vũ bão của đồng bào các dân
tộc tỉnh Đắc Lắc, chỉ huy quân đội Mỹ đã huy động máy bay, xe tăng
dội bom, bắn rốc két và súng trọng liên vào đoàn biểu tình”.
Trong
khi đó thì Tướng Hiệp và bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên của CSVN ở
một nơi mà máy bay địch không thấy và pháo địch bắn không tới (sic).
Nhưng sau này ông nghe báo cáo lại
và xúc động ghi vào sổ tay của mình:
“Ở cánh Đông, nhân dân huyện 9 (căn cứ
kháng chiến) đang hùng dũng tiến vào thì Má Hai, người cầm cờ trúng
đạn ngã xuống.
Chị Mười nhận cờ từ tay Má Hai
trao cho vượt lên dẫn đầu chỉ huy đoàn người thì lại bị trúng đạn hy
sinh.
Má Hai tuy bị thương nhiều chỗ, đã
yếu nhưng vẫn vượt lên giương cao cờ để cùng bà con tiếp tục tiến.
Cám ơn Tướng Đặng Vũ Hiệp đã để lại cho
đời một bằng chứng xác thực về cái cách các ông đã xúi dân ngu chết
cho các ông như thế nào.
Thật là đau lòng.
*Lúc 9 giờ, các đơn vị thuộc Trung đoàn 45/
Sư đoàn 23 VNCH đang ở những vị trí phòng thủ vành đai cách thị xã
10 cây số được lệnh quay trở vào để giải tỏa trung tâm thành phố.
Khi các cánh quân của Trung đoàn 45/VNCH
trở vào thành phố thì đoàn
biểu tình đã tan lẫn vào trong dân
chúng, còn dân quân du kích thì chiếm lấy những khu nhà trong thành
phố và chiến đấu tuyệt vọng trước khi bị tiêu diệt.
Tại Kontum, lúc giao thừa theo lịch Hà Nội
( ngày 30-1-1968 )
*Lúc 2 giờ sáng, tại Kontum.
Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 174
phối hợp với dân quân du kích tấn công và chiếm đóng thị xã Tân
Cảnh, Kon Tum ( Đây là tiểu đoàn duy nhất còn tồn tại trong số 2 sư
đoàn tham chiến trận Dakto trước đó hơn 2 tháng, sở dĩ phải phối hợp
với dân quân vì thực sự quân số của Tiểu đoàn không còn bao nhiêu ).
*Lúc 2 giờ 15 sáng, Tiểu đoàn Đặc công
406 CSVN tấn công tòa hành chánh tỉnh, ty cảnh sát và Tiểu khu
Kontum.
Tiểu đoàn địa phương 304 CSVN tấn
công sân bay Kontum.
Toán quân của Trung đoàn 24 CSVN
tấn công Bộ chỉ huy Biệt khu 24
VNCH.
Chiều hôm trước, lúc xẩm tối, Tỉnh trưởng
Kontum là Trung tá Nguyễn Hợp Đoàn được tin quân CSVN đã di chuyển
vào thị xã Kontum cho nên đêm đó ông cho vợ con di tản ra khỏi tòa
hành chánh cùng với một số gia đình binh sĩ.
Ông ở lại nhà riêng trong tòa hành
chánh cùng với Trung đội Công vụ còn khoảng 14 người và một người em
trai của ông là thiếu úy mới ra trường Võ bị Đà Lạt đang đi phép mãn
khóa.
*Mờ sáng, khoảng 1 trung đội CSVN áp sát
vào bờ hào trước tòa hành chánh chuẩn bị xung phong tràn vào, lúc đó
Trung đội Công vụ có một khẩu M.79 mới được trang bị nhưng chưa ai
biết sử dụng.
Người thiếu úy mới ra trường đã
học cách sử dụng từ trong trường nên anh ta bắn khoảng 10 trái xuống
bờ hào trước tòa hành chánh, mỗi khi đạn nổ thì Trung tá Đoàn thấy
chân tay người và súng văng lên.
Sau đó không thấy địch còn phản
ứng nào khác trong khi nghe tiếng súng nổ khắp thành phố, Trung tá
Đoàn cùng Trung đội Công vụ vội rút ra khỏi tòa hành chánh để lẫn
vào khu dân cư trong thành phố.
*Lúc 8 giờ sáng, đội quân của Trung đoàn 24
CSVN bị thiệt hại nặng khi tấn công vào Bộ chỉ huy Biệt khu 24 VNCH
nên phải rút lui, trên đường rút lui bị trực thăng võ trang của quân
đội Hoa Kỳ tiêu diệt.
*Lúc 12 giờ trưa, 1 Tiểu đoàn Biệt động
Quân tiến vào giải tỏa Tân Cảnh dưới sự yểm trợ của trực thăng võ
trang Hoa Kỳ.
Tại Đà Nẵng, sáng mùng một theo lịch Hà
Nội, ( ngày 30-1-1968 ).
*Lúc 3 giờ 40.
Quân CSVN tấn công Chi khu Hội An,
cách Đà Nẵng 30 cây số về phía nam. Bộ Tư lệnh Quân khu 1 điều động
một tiểu đoàn Biệt Động quân đang nghỉ tại hậu cứ ở Đà Nẵng tiến đến
Chi khu Hội An nhưng lại được tin quân CSVN xuất hiện tại Chi khu
Hòa Vang nên bọc sang Hòa Vang và chạm địch nhưng không rõ quân số.
BTL/QK.1 điều động Thiết giáp đến tiếp ứng.
*Lúc 3 giờ 30, một trung đội Đặc công
CSVN
đột nhập vào khuôn viên BTL/QK.1
nhưng bị phát hiện, Trung đội này cố cầm cự chờ quân tiếp viện nhưng
quân tiếp viện bị chận ở Hòa Vang cho nên họ bị tiêu diệt.
Tại Quy Nhơn, sáng mồng một theo lịch Hà
Nội, ( ngày 30-1-1968 ).
*Lúc 4 giờ 10, tại Quy Nhơn.
Khoảng 1 trung đội Đặc công CSVN
tấn công Ty an ninh Quân đội, giải thoát cho 11 người nằm vùng bị
bắt trước đó 2 ngày, bắt giữ đại úy Trưởng ty an ninh làm con tin.
Sau đó toán Đặc công cùng 11 người
tham gia tấn công vào đài phát thanh Quy Nhơn.
Cùng thời gian này, 1 tiểu đoàn chủ lực
địa phương (Cơ động tỉnh) và 1 tiểu đoàn đặc công CSVN tấn công đài
phát thanh Quy Nhơn và các cơ sở hành chánh của thành phố Quy Nhơn.
Lúc này tại Quy Nhơn chỉ có 1 đại
đội Địa phương Quân của VNCH.
*Lúc 5 giờ, toán Đặc công chiếm được Đái
phát thanh Quy Nhơn, mặc dầu có người trong đài làm nội tuyến nhưng
họ vẫn không phát thanh kêu gọi dân chúng được.
*Lúc 6 giờ, Đại đội trinh sát của Sư đoàn
22 và 2 đại đội thuộc Sư đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn tiến vào Quy Nhơn tấn
công lấy lại Đài phát thanh và giải tỏa Quy nhơn.
Toán đặc công và 11 người nội
tuyến bị tiêu diệt tại Đài phát thanh.
Tại Pleiku, sáng mồng một theo lịch Hà Nội
*Lúc 4 giờ 40, tại Pleiku.
Tiểu đoàn địa phương H.15 CSVN tấn
công khu vực chợ Thuần Phong, thành phố Pleiku và hậu cứ của Trung
đoàn Thiết giáp VNCH; Tiểu đoàn địa phương 408 CSVN tấn công vào sân
bay Cù Hanh và Bộ chỉ huy Quân đoàn 2 VNCH;
Đại đội đặc công 21 CSVN tấn công
Tiểu khu Pleiku và Tòa hành chánh tỉnh.
*Lúc 7 giờ sáng, Tỉnh ủy Gia Lai CSVN huy
động 10.000 đồng bào sắc tộc tràn vào thành phố Pleiku biểu tình hỗ
trợ cho quân CSVN “giải phóng” đồng bào sắc tộc đang định cư trong
các trại tị nạn Cọng sản.
*Lúc 9 giờ 30 sáng, Tiểu đoàn địa phương
H.15 CSVN tấn công trại Thiết giáp nhưng bị các chiến xa tiêu diệt,
Tiểu đoàn trưởng bị bắt.
Tại Sài Gòn, sáng mồng một tết theo lịch Hà
Nội, nhưng là sáng 30 tết theo lịch Sài Gòn.
Năm 1968, ngày 30-1, lúc 9 giờ 30.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên
đài phát thanh tuyên bố CSVN đã vi phạm trắng trợn cam kết hưu chiến
trong dịp tết và tuyên bố hủy bỏ lệnh ngưng bắn của Chính phủ VNCH.
Tuy nhiên vì CSVN chỉ đánh có 6 nơi trên toàn quốc cho nên Tổng
thống Thiệu chỉ ra lệnh trên toàn quốc hãy gia tăng đề phòng chứ
không ngờ tới khuya thì mới biết CSVN tổng tấn công trên toàn quốc,
trong đó có cả thủ đô Sài Gòn.
6) TỪ NGÀY THỨ 2 ĐẾN NGÀY THỨ 9
Năm 1968, ngày 30-11, lúc 6 giờ chiều ba
mươi tết
( theo lịch Sài Gòn ), Biệt khu
Thủ đô của VNCH điều 1 đại đội Nhảy dù đến tăng cường canh gác Đài
phát thanh Sài Gòn, dinh Độc Lập và Tòa đại sứ Hoa Kỳ.
Bộ chỉ huy Cảnh sát quốc gia VNCH
điều 1 đại đội Cảnh sát dã chiến đến tăng cường canh gác tại các
điểm trọng yếu.
Trong khi đó Tiểu đoàn 8 Dù VNCH sẳn sàng
đến phi trường Tân Sơn Nhất để được bốc ra Đà Nẵng thay thế cho Tiểu
đoàn 5 Dù cần trở về Sài Gòn nghỉ dưỡng quân.
Đến 12 giờ khuya thì 2 đại đội đầu
tiên của Tiểu đoàn 8 Dù đã ngồi chờ tại sân bay.( Mỗi tiểu đoàn Dù
khoảng 550 người ).
Năm 1968, ngày 31-1, Lúc 2 giờ sáng, quân
CSVN tấn công Huế.
Lúc 3 giờ sáng tấn công Cần Thơ.
Lúc 3 giờ 30 sáng tấn công Phan
Thiết, Vĩnh Long.
Lúc
4 giờ sáng tấn công Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Tín.
Lúc 8 giờ 30 sáng tấn công Bộ Tư
lệnh sư đoàn 25 Bộ binh VNCH ( Hậu Nghĩa ).
Tại Sài Gòn, giờ giao thừa, sáng mùng một
tết
theo lịch Sài Gòn ( ngày 31-1-1968
).
*Lúc 0 giờ, dân Sài Gòn đón giao thừa nhưng
không có đốt pháo do có lệnh cấm từ ban sáng.
*Lúc 1 giờ sáng, đội Biệt động số 5 thuộc
Đoàn F.100 CSVN bắn B.40 vào cổng gác của dinh Độc Lập, phía đường
Nguyễn Du;
và tính xung phong tràn vào nhưng
bị lực lượng cảnh sát tại Chi cảnh sát Tao Đàn bắn dồn vào một cao
ốc 5 tầng đang xây dỡ.
Hai chiếc thiết giáp V.100 của lực
lượng phòng vệ dinh Độc Lập tiến ra tiêu diệt, 27 bị giết và 7 bị
bắt sống.
*Lúc 2 giờ sáng, một đội Biệt động thuộc
Đoàn F.100 CSVN khoảng 20 người đi trên một chiếc xe buýt đến trước
cổng số 5 của Bộ Tổng tham mưu VNCH, họp cùng một đội Biệt động khác
đang ẩn nấp trước một ngôi chùa trước cổng, tính tấn công tràn vào
cổng để bắt sống các tướng lãnh trong cư xá sĩ quan với gia đình để
làm con tin.
Nhưng khi toán Biệt động mới nhớm tràn
vào cổng để thanh toán lính gác thì một xe jeep của Quân cảnh Mỹ trờ
tới, toán Biệt động tấn công xe jeep.
Lính gác kéo rào đóng cổng và bắn
trả, Quân cảnh Mỹ báo về trạm an ninh số 3 kêu lực lượng Mỹ đến tiếp
cứu.
Toán Biệt động rút đi.
*Lúc 2 giờ 55 sáng, đội Biệt động số 4
thuộc Đoàn F.100 CSVN tấn công Đài phát thanh Sài Gòn.
Sau khi ném chất nổ hạ 3 lính Dù
đang gác, toán Đặc công 26 người tràn vào đài nhưng bị Trung đội Dù
trên sân thượng tràn xuống tấn công, toán Biệt động thối ra ngoài
nhưng bị trung đội Dù ứng chiến ở Cục An ninh Quân đội gần đó tràn
tới tấn công.
Sau 2 giờ giao tranh 14 CSVN bị
giết và 12 chạy thoát.
*Lúc 3 giờ sáng, đội Biệt động số 11 thuộc
Đoàn F.100 CSVN gồm 17 người dùng bộc phá đánh vỡ một mảng tường rào
Tòa đại sứ Hoa Kỳ và tràn vào trong khuôn viên, bắn chết 4 Quân cảnh
rồi chia nhau tấn công vào nhà riêng của Đại sứ, tòa nhà làm việc
của Tòa Đại sứ và các nhà khác nhưng họ bị lính Thủy quân lục chiến
từ trong các tòa nhà bắn ra nên lần lượt bị tiêu diệt; 16 chết, Đội
trưởng bị bắt sống.
*Lúc 3 giờ sáng, một đội Biệt động 12
người thuộc Đoàn F.100 CSVN đi trên một chiếc xe dân sự tấn công vào
cổng gác Bộ tư lệnh Hải Quân nhưng bị lực lượng phòng thủ bắn hạ
ngoài hàng rào.
10 bị giết và 2 bị bắt sống.
Khoảng 3 giờ sáng, một đội Biệt
động CSVN thuộc đoàn F.100 CSVN tấn công tòa đại sứ Phi Luật Tân
nhưng ông đại sứ thoát ra được với vết thương nhẹ, toán Biệt động
rút đi.
Cũng khoảng 3 giờ sáng, một đội
Biệt động CSVN thuộc đoàn F.100 CSVN tấn công vào nhà riêng của Thủ
tướng Nguyễn Văn Lộc tính bắt cóc Thủ tướng nhưng không tìm thấy
ông, toán Biệt động rút đi.
*Buổi trưa, trực thăng của Tổng thống Thiệu
đáp xuống Bộ TTM và họp Hội đồng nội các ngay trong Phòng hội của
BTTM.
*Buổi chiều trực thăng đổ xuống BTTM
Chiến đoàn B/TQLC gồm Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 /TQLC từ vùng hành
quân ở Cai Lậy ( Mỗi tiểu đoàn TQLC khoảng 650 người ).
Tiểu đoàn 4/TQLC từ Vũng Tàu cũng
được chuyển về Sài Gòn.
Cùng lúc này Chiến đoàn A/TQLC
đang hành quân ở Vùng 2 cũng đựơc lệnh không vận về Sài Gòn. ( Mỗi
chiến đoàn có 3 tiểu đoàn ).
*Chiều tối, Chiến đoàn B/TQLC triển khai
đội hình mở rộng kiểm soát phòng thủ xung quanh BTTM.
Buổi tối, Liên đoàn 5 Biệt động
quân gồm 4 tiểu đoàn đang trấn giữ vành đai Bắc Sài Gòn nhận được
lệnh đưa 2 Tiểu đoàn 30 và 38 về ứng chiến khu trung tâm Sài Gòn
( Mỗi tiểu đoàn BĐQ khoảng 500
người )
Năm 1968, ngày 1-2, Lúc 2 giờ sáng quân
CSVN tấn công Đà Lạt.
Lúc 2 giờ 30 sáng tấn công Kiên
Giang.
Lúc 3 giờ sáng tấn công Kiến Hòa,
Biên Hòa.
Lúc 4 giờ sáng tấn công Định
Tường, Vĩnh Bình.
Lúc 4 giờ 30 sáng tấn công Bình
Dương.
Tại Sài Gòn, sáng mồng hai tết theo lịch
Sài Gòn ( ngày 1-2-1968 )
*Lúc 3 giờ sáng, 1 tiểu đoàn ( tiểu đoàn
chủ lực Miền khoảng 400 người ) của Trung đoàn 273 CSVN tấn công Chi
Khu Thủ Đức.
Tiểu đoàn 4 Thủ Đức CSVN tấn công
khu xa lộ Biên Hòa.
Lúc 3 giờ 30 sáng, Tiểu đoàn
38/BĐQ VNCH xuất phát từ Nhà Bè tiến ra khu Phú Thọ, Trần Quốc Toản
đụng độ lẻ tẻ với Tiểu đoàn 6 Bình Tân CSVN tại trường đua Phú Thọ
và Bà Hạt.
Tiểu đoàn 30/BĐQ VNCH tiến ra khu
Hàng Xanh đụng độ mạnh với Tiểu đoàn 3 Dĩ An CSVN.
*Lúc 3 giờ 45, Tiểu đoàn 269 CSVN tấn
công vào sân bay Tân Sơn Nhất, chiếm hai tiền đồn FO 50-51 và FO
49-50.
Trong khi Tiểu đoàn 267 CSVN và 1
tiểu đoàn của Trung đoàn 271 CSVN chiếm khu hãng dệt Vinatexco để
chuẩn bị tấn chiếm sân bay.
*Lúc 5 giờ 20 sáng, Tiểu đoàn 269 CSVN
dàn hàng ngang băng qua khu đất trống cuối đường bay của Sân bay Tân
Sơn Nhất.
Hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 8 Dù
cùng 2 chiến xa M.8 tràn tới cuối đường bay để ngăn chận.
Tiểu đoàn 269 CSVN bị kẹt giữa
khoảng đất trống buộc phải lùi trở lại FO 49-50 và FO 50-51( mỗi
tiểu đoàn du kích địa phương khoảng 350 người ).
*Lúc 5 giờ 30 sáng, 1 tiểu đoàn của Trung
đoàn 271 CSVN và Tiểu đoàn 56/U80 địa phương từ hướng Bắc thành phố
Sài Gòn tiến vào ngã Hạnh Thông Tây Gò Vấp để đến trại Nỏ Thần của
Bộ chỉ huy Pháo binh VNCH và trại Phù Đổng của Bộ chỉ huy Thiết giáp
VNCH.
Tiểu đoàn CSVN thứ 3 là Tiểu đoàn
2 Gò Môn (Gò Vấp-Hóc Môn) cũng từ hướng Bắc xâm nhập qua ngã Hạnh
Thông Tây tiến về cổng số 4 Bộ Tổng tham mưu QL/VNCH.
*Lúc 7giờ sáng,
Tiểu đoàn 2 Gò Môn CSVN chiếm được
khu cổng số 4 Bộ TTM gồm tòa nhà của Trường sinh ngữ quân đội và dãy
nhà của Tiểu đoàn công vụ, đào công sự phòng thủ và chờ quân tăng
viện.
Tiểu đoàn 8 Dù VNCH cùng với xe
tăng M.41 tràn về phía cổng số 4/BTTM để tấn công Tiểu đoàn 2 Gò
Môn.
*Lúc 8 giờ sáng, một đoàn thiết vận xa
Hoa Kỳ từ Củ Chi về tăng cường cho Sài Gòn ngang qua khu vực cuối
sân bay Tân Sơn Nhất bị Tiểu đoàn 269 dùng B.40 bắn cháy 2 chiếc,
các chiến xa còn lại bắn đại bác 106 ly không giật vào hai tiền đồn
FO. Tiểu đoàn 269 CSVN phải rời hai tiền đồn dạt về khu hãng dệt
Vinatexco.
Quân Dù chiếm lại hai tiền đồn,
đếm được 162 xác CSVN.
*Lúc 9 giờ sáng, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung
đoàn 271 CSVN tấn công trại Nỏ Thần của BCH Pháo binh, chiếm được 12
khẩu pháo 105 ly nhưng không có cơ bẩm ( Lính pháo binh đã gỡ đi ).
Cùng lúc Tiểu đoàn địa phương 56/
U80 CSVN tấn công trại Phù Đổng của BCH Thiết giáp nhưng tại đây
không còn chiếc thiết giáp nào, tất cả đã bung ra hành quân.
*Buổi trưa, Tiểu đoàn 6 Dù từ Vũng Tàu về
tới sân bay Tân Sơn Nhất.
*Lúc 5 giờ chiều, máy bay của VNCH dùng loa
phóng thanh kêu gọi dân chúng trong vùng hãng dệt Vinatexco phải rời
bỏ khu vực để phi cơ ném bom vào 6 giờ chiều, tức là 1 tiếng sau;
đồng thời kêu gọi các tiểu đoàn CSVN đầu hàng.
Sáng mùng 3 tết tại Sài Gòn ( 2-2-1968 ).
*Lúc 4 giờ sáng, Thiết đoàn 3 của Sư đoàn
25 Bộ binh Hoa Kỳ từ Củ Chi băng đồng di chuyển về Tân Sơn Nhất dưới
ánh sáng của hỏa châu.
Lúc 9 giờ sáng, máy bay thả bom
khu hãng dệt Vinatexco.
Thiết đoàn 3 chiến xa HK phối hợp
với Tiểu đoàn 8 Dù VNCH tấn công vào khu hãng dệt, đếm được 300 xác
CSVN .
*Lúc 9 giờ sáng, Tiểu đoàn 6 Dù VNCH phối
hợp với 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 8 Dù tấn công Tiểu đoàn 2 Gò Môn
CSVN tại khu cổng số 4/BTTM.
Đến 10 giờ 30 Tiểu đoàn 2 Gò Môn
hoàn toàn bị tiêu diệt, một số trốn trong khu dân cư nhưng bị dân
chúng chỉ cho quân Dù bắt sống.
Năm 1968, ngày 3-2, sáng mùng 4 tết.
Lúc 1 giờ sáng, quân CSVN tấn công
Long Khánh.
Lúc 4 giờ tấn công Kiến Tường.
Năm 1968, ngày 5-2, sáng mùng 6 tết.
Tại Sài Gòn, Bộ TTM VNCH mở chiến
dịch Trần Hưng Đạo, trong 15 ngày thanh toán nốt tất cả các cánh
quân CSVN còn lẫn trong khu vực dân cư Sài Gòn Gia Định.
Lực lượng tham dự gồm có 4 tiểu
đoàn Dù, 3 tiểu đoàn TQLC, 4 tiểu đoàn BĐQ, cùng với quân đội Hoa Kỳ
và lực lượng Cảnh sát Đô thành.
Năm 1968, ngày 6-2, sáng mùng 7 tết, tại
Sài Gòn.
Lúc 10 giờ 30, Tiểu đoàn 1 và Tiểu
đoàn 3 Dù VNCH tấn công trại Phù Đổng do Tiểu đoàn 56/U.80 CSVN
chiếm giữ.
Kết quả 120 CSVN bị giết, số còn
lại kéo cờ trắng ra hàng.
Năm 1968, ngày 7-2,mùng 8 tết , tại Sài
Gòn.
Buổi trưa, Tiểu đoàn 3 Dù tấn công
trại Nỏ Thần do Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 271 CSVN chiếm đóng.
Kết quả quân CSVN rút chạy, để lại
60 xác.
Như vậy sau 1 tuần lễ tổng công kích,
quân đội CSVN đã đại bại do vì chênh lệch lực lượng.
Phía VNCH và Mỹ quá đông và vũ khí
quá mạnh. Riêng tại thành phố Huế lực lượng CSVN được sự hỗ trợ chỉ
đường của những quân nhân và người dân chạy theo Cọng sản sau cuộc
Biến động Miền Trung năm 1966 cho nên quân đội CSVN cầm cự đến 25
ngày mới tan rã.
(7) TỔNG TẤN CÔNG TẠI HUẾ
Giữa năm 1967, Lực lượng quân sự CSVN tại
Quân khu Trị Thiên chia thành 5 đoàn : Đoàn 4 phụ trách khu vực phía
Bắc đèo Hải Vân;
Đoàn 5 phụ trách khu vực thành nội
Huế và ba huyện Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang;
Đoàn 6 phụ trách hai huyện Phong
Điền, Quảng Điền;
Đoàn 9 phụ trách hai huyện Triệu
Phong, Quảng Lăng.
Và đoàn 31 phụ trách khu vực Quốc
lộ 9, dưới sự điều động của Mặt trận B.4 ( Còn gọi là Mặt trận Trị
Thiên ).
Mỗi đoàn có quân số tương đương một tiểu
đoàn địa phương (Cơ động tỉnh), khoảng từ 300 đến 400 người.
Tổng cộng 5 đoàn khoảng 2.000
người
Trong kế hoạch Tổng tấn công Mậu Thân
Quân khu Trị Thiên tăng cường thêm 2 Trung đoàn Chủ lực Miền để tấn
công Huế (Trung đoàn 4 và Trung đoàn 6, khoảng 3.500 người ) và Hà
Nội tăng cường 2 trung đoàn chính quy từ ngoài Bắc vào ( khoảng
5.000 người ).
Tổng cộng quân tấn công Huế là 4
Trung đoàn chủ lực và 8 Tiểu đoàn địa phương ( 4 tiểu đoàn Bộ binh
và 4 tiểu đoàn Đặc công ).
Ngoài ra còn có 15 đội Biệt động
thành.
Năm 1968, ngày 30-1, sáng 30 tết, Chuẩn
tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH nhận được tin
trong đêm quân CSVN tấn công các thành phố Nha Trang, Quy Nhơn, Đà
Nẵng.
Ông cho lệnh cấm quân và kêu gọi
các quân nhân đi phép trở về đơn vị.
Lúc này trong Nội thành Huế chỉ có một
đơn vị quân đội duy nhất là Bộ tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH tại
đồn Mang Cá, ở góc Đông Bắc của vòng thành.
Lực lượng trong đồn là đại đội
Tổng hành dinh của Sư đoàn, tức là đơn vị hậu cần, không tác chiến (
khoảng 100 người ).
Và một đại đội trinh sát của Sư
đoàn ( khoảng 100 người ) đang nằm ứng chiến tại hậu cứ của đại đội
ở khu Đại Nội.
Bên ngoài Thành Nội, bên kia cầu Trường
Tiền, có Bộ chỉ huy Tiểu khu Thừa Thiên với một Trung đội Công vụ,(
30 người ) cũng là trung đội hậu cần, không tác chiến.
Và gần đó là Cơ quan MACV, tức là
cơ quan Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ.
Ngoài ra cách thành phố Huế 2 cây số về
phía Đông Nam có Thiết đoàn 7 Kỵ binh VNCH.
Cách 17 cây số về phía Tây Bắc,
trên Quốc lộ 1 có Tiểu đoàn 2 Nhảy dù VNCH đang đóng quân nghỉ hưu
chiến tại một vùng quê ( 500 người ).
Cuối cùng có Bộ tư lệnh Sư đoàn 3
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đóng tại Phú Bài, cách Huế 8 cây số về
hướng Đông Nam.
Tại Huế, mùng một tết theo lịch Sài Gòn (
ngày 31-1-1968 )
*Lúc 2 giờ 30 sáng mồng một tết; Tiểu đoàn
802 thuộc Trung đoàn 6 và một đại đội Đặc công CSVN tấn công Trại
Mang Cá nhưng không thành công, đến 11 giờ trưa thì rút lui.
Cùng lúc đó Tiểu đoàn 804/ Trung đoàn 6
CSVN tấn công Phi trường Tây Lộc bị vướng rào kẽm gai nên lạc đường
tấn công nhầm sang Đại đội 81 Quân cụ VNCH nhưng bị lính Quân cụ
đánh bật ra khỏi khu vực phi trường.
*Lúc 2 giờ 30 sáng, Trung đoàn 4 CSVN
chia nhau tấn công Bộ chỉ huy Tiểu Khu Thừa Thiên, Bộ chỉ huy Cảnh
sát Quốc gia và Cơ quan MACV của Hoa Kỳ.
Nhưng cả 3 nơi đều bị đánh bật ra.
*Lúc 3 giờ sáng, 4 tiểu đoàn Địa phương, 4
tiểu đoàn Đặc công và 15 đội Biệt động thành của CSVN chia nhau tấn
công các cơ quan chính quyền VNCH, vì các nơi này không có lực lượng
quân đội cho nên đến 6 giờ sáng thì quân CSVN chiếm hầu hết các nơi
trong thành phố Huế.
*Lúc 6 giờ sáng, Quân trấn trưởng Huế là
Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng điều động Tiểu đoàn 2 Nhảy dù, Thiết
đoàn 7 Kỵ binh và Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH ( Đang
trấn giữ vùng Tây Nam Thừa Thiên, khoảng 2.500 người ) trở về tăng
cường cho thành phố Huế. Tuy nhiên tiểu đoàn Dù bị chận đánh tại Ngã
ba An Hòa, Thiết đoàn 7 bị phục kích ở ngoại ô phía Nam Huế, và
Trung đoàn 3/BB bị đánh chận ở vùng Nam Giao
*Lúc 7 giờ sáng, Từ An Cựu, Trung tá Phan
Hữu Chí, Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 7 dẫn 12 chiến xa gồm M.41 và
M113 tiến vào thành phố Huế, khi vừa mới tới Bộ chỉ huy Cảnh sát
Quốc gia thì bị phục kích, quân CSVN dùng B.40 bắn cháy 3 chiến xa.
Trung tá Thiết đoàn trưởng tử
trận.
Các chiến xa còn lại quay về phòng
thủ BCH/Tiểu khu.
*Lúc 8 giờ sáng, 2 đại đội TQLC Hoa Kỳ và 4
chiếc thiết giáp từ Phú Bài tiến vào Huế bị chận đánh tại cầu An Cựu
nhưng quân đội HK đã tiêu diệt quân phục kích và tiến vào Cơ quan
MACV vào buổi trưa.
Năm 1968, ngày 1-2, mùng 2 tết
*Lúc 3 giờ 15 sáng mồng 2 tết, Tiểu đoàn
804 CSVN trở lại tấn công Phi trường Tây Lộc và chiếm được khu bãi
đậu máy bay và khu doanh trại của Đại đội 81 Quân cụ VNCH.
Mờ sáng, Tiểu đoàn 2 Dù VNCH từ An Lỗ di
chuyển về Huế bị đánh chận ở ngã ba An Hòa từ ngày hôm qua, hai bên
cầm cự suốt đêm và đều bị tổn thất nặng.
Mờ sáng Tiểu đoàn trưởng Dù quyết
định bỏ trận địa đi vòng về phía
Đông, đến được đồn Mang Cá vào xế
chiều .
*Lúc 9 giờ sáng, Tiểu đoàn 7 Dù VNCH ( 500
người ) từ Sịa, Quảng Điền di chuyển về Huế cũng bị đánh chận tại vị
trí mà Tiểu đoàn 2 Dù vừa mới rời đi. Đến trưa Tiểu đoàn 7 theo lối
của Tiều đoàn 2 Dù vào được Đồn Mang Cá.
*Lúc 2 giờ trưa, Trung đoàn 3 Bộ binh
VNCH
bị quân CSVN đánh chận ở Nam Giao,
giao tranh từ chiều 31-1 đến sáng 1-2. Trung đoàn trưởng quyết định
để 1 Tiểu đoàn cầm cự tại chỗ, còn lại 2 tiểu đoàn đi vòng lên phía
Đông Bắc, đến Bao Vinh, lên tàu đổ bộ, đi dọc theo sông Hương và vào
tới Đại Nội vào buổi chiều.
Năm 1968, ngày 2-2, mùng 3 tết
*Lúc 7 giờ sáng ngày mồng 3 tết, Tiểu đoàn
2 Dù tấn công chiếm lại phi trường Tây Lộc và Trại Quân Cụ. Tiểu
đoàn 7 Dù làm trừ bị tại Mang Cá.
*Buổi sáng, Bộ chỉ huy Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu
đoàn 9 Dù được trực thăng vận từ Quảng Trị về tới Mang Cá ( khoảng
700 người ).
*Buổi sáng, 2 Tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ cùng
với thiết giáp từ Phú Bài tiến vào Huế, trú quân trong khu vực MACV
( khoảng 1.300 người ).
*Buổi trưa, Tiểu đoàn 4 thuộc Trung đoàn 2
của Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH được trực thăng vận từ Quảng Trị về Huế (
khoảng 500 người ).
Năm 1968, ngày 3-2, mùng 4 tết
*Lúc 7 giờ sáng ngày mồng 4 tết, Tiểu đoàn
7 Dù tấn công mở rộng khu vực kiểm soát trong Thành nội.
Buổi sáng, thêm 2 tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ
tiến vào khu MACV ( khoảng 1.300 người ).
Năm 1968, ngày 4-2, lúc 7 giờ sáng ngày
mồng 5 tết, Tiểu đoàn 9 Dù tấn công cửa Chánh Tây.
Sau hai ngày giao chiến Tiều đoàn
9 Dù lấy lại được cửa Chánh Tây.
Năm 1968, ngày 9-2, Tiểu đoàn 9 Dù tấn công
cửa Thượng Tứ.
Năm 1968, ngày 12-2, Chiến đoàn A Thủy
quân lục chiến VNCH gồm các tiểu đoàn 1,4 và 5 ( khoảng 2.000 người
) được không vận ra Huế thay thế các tiểu đoàn Dù.
Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 7 Dù còn
1/2 quân số.
Riêng Tiểu đoàn 9 Dù còn 1/5 quân
số.
Quân TQLC/VNCH tấn công lấy lại tất cả các
điểm trọng yếu trong Thành Nội, từ hồ Tịnh Tâm đến điện Thái Hòa và
Kỳ Đài Huế.
Năm 1968, ngày 16-2,
3 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 101
Không vận HK tấn công làng La Chữ, nơi đóng quân của Bộ chỉ huy Mặt
trận Trị Thiên của CSVN.
Tướng Hoàng Sâm, tư lệnh Mặt trận
Trị Thiên tử trận, Tướng Trần Văn Quang thay thế.
Đêm 16-2, Chính ủy Mặt trận Trị Thiên Lê
Minh đánh điện cho biết Tướng Hoàng Sâm đã tử trận, xin Hà Nội cho
phép rút quân ra khỏi thành phố Huế.
Hà Nội trả lời hãy tiếp tục chiến
đấu.
Năm 1968, ngày 19-2, lúc 10 giờ đêm, quân
CSVN tập trung tấn công khu phi trường Tây Lộc và một vài điểm trọng
yếu.
Nhưng đây chỉ là những tiếng súng
cuối cùng nhằm đánh lạc hướng quân VNCH và HK để cho bộ chỉ huy đầu
não của quân CSVN âm thầm rút ra khỏi thành phố Huế.
Năm 1968, ngày 22-2, hai tiểu đoàn Biệt
động quân ( khoảng 1.000 người ) đến Huế để hành quân quét sạch lực
lượng CSVN còn cầm cự trong vùng Gia Hội.
Năm 1968, ngày 24-2, lúc 5 giờ sáng, Tiểu
đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 3 của Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH
tiến vào kiểm soát toàn bộ khu nội thành, hạ lá cờ CSVN trên Kỳ Đài
Huế, kéo cờ VNCH lên, chấm dứt 25 ngày chiếm đóng của quân CSVN.
*Chú giải :
Trong thời gian chiếm đóng cố đô
Huế, quân CSVN đã bắt giam tất cả những nhân viên của chính quyền
VNCH cũng như các tổ chức chính trị không Cọng sản, đồng thời kêu
gọi quân nhân, viên chức của chính phủ Sài Gòn ra trình diện.
Sau đó họ đã giết hết những người
bị bắt cũng như những người ra trình diện.
Sau này những nhân vật chỉ huy trận đánh
phía CSVN cho biết lúc quyết định rút lui họ đã có hỏi ý kiến Hà Nội
về cách xử lý những người mà họ gọi là “tù binh”.
Nhưng Hà Nội luôn luôn trả lời ởm
ờ và cuối cùng thì cho lệnh tùy nghi quyết định.
Vì vậy Chính ủy Lê Minh ra lệnh
thanh toán tù binh trước khi rút vào rừng;
nhưng vì lúc đó các đơn vị CSVN đã
hết đạn, mỗi súng chỉ còn vài viên, cần dùng để chiến đấu tiếp, cho
nên buộc phải giết bằng cách chôn sống. Số người bị giết khoảng
5.000 người ( Chính ủy Lê Minh phản hồi cho tạp chí Sông Hương 1988
).
(8) TRẬN LÀNG VEI TẠI KHE SANH
Năm 1967, ngày 23-11, trên đất Lào, cách
biên giới Lào Việt 10 cây số.
Trung đoàn 24 CSVN tấn công đồn
Huoei Sane (Huội San) của quân đội Lào với sự phối hợp của 1 tiểu
đoàn tăng gồm 11 chiếc PT.76.
Quân CSVN chiếm được đồn trong
đêm.
Sáng 24, quân đội Lào gồm 519
người cùng với 2.000 thân nhân chạy về biên gới Việt Nam, được quân
VNCH trong đồn Làng Vei tiếp nhận và đưa về tạm trú tại đồn Làng Vei
cũ, tức là một đồn đã bỏ hoang cách đồn Làng Vei mới khoảng 1 cây số
về phía nội địa Việt Nam.
Nhận được tin xe tăng CSVN xuất hiện tại
vùng biên gới Lào, Bộ chỉ huy Lực lượng đặc biệt Mỹ tại Vùng 1 đã
tăng cường 100 súng chống tăng M.72 ( Hỏa tiễn LAW ) cho đồn Làng
Vei là một đồn địa đầu giới tuyến, nằm trên Quốc lộ 9, cách biên
giới 2 cây số.
Năm
1968, ngày 31-1, trận Tổng công
kích Mậu Thân nổ ra trên toàn quốc, quân CSVN chiếm đóng thành phố
Huế, Hà Nội chỉ thị cho Mặt trận B.5 : ““Phải diệt căn cứ Làng Vây
trong ngày 6 tháng 2 để phối hợp tác chiến chung với toàn Miền”.
Năm 1968, ngày 6-2, lúc 11 giờ 30 tối,
quân CSVN xuất phát tấn công đồn
Làng Vei, lực lượng tấn công gồm Trung đoàn 24 biệt lập ( khoảng
2.500 người ), Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 675 pháo binh, Tiểu đoàn
198 của Trung đoàn 203 thiết giáp (11 chiếc xe tăng PT.76), 2 tiểu
đoàn công binh, 2 đại đội đặc công ( khoảng 200 người ), 1 đại đội
súng máy phòng không, 1 trung đội súng phun lửa.
Trước đó 1 ngày, ngày 5-2, quân
CSVN tập trung pháo kích hằng trăm quả đạn vào căn cứ Khe Sanh.
Lúc chiến trận nổ ra, trong đồn Làng Vei
có 450 lính Biệt kích Mỹ người sắc tộc Bru, 14 cố vấn Mỹ do Đại úy
Willoughby làm trưởng toán, Trung úy Wilkins phụ tá và 12 hạ sĩ quan
chuyên viên LLĐB/Mỹ.
Phía Việt Nam có Trung úy Phạm Duy
Quân làm Trại trưởng, Trung Úy Lê Văn Quốc làm Trại phó và 10 hạ sĩ
quan chuyên viên LLĐB/VN.
Ngoài ra còn có một vị khách là Trung tá
Schungen, chỉ huy trưởng Lực lượng đặc biệt Mỹ tại Vùng 1, ông đến
đây để liên lạc với chỉ huy trưởng đoàn quân Lào, cùng đi với ông có
Trung úy Lương Văn Quý, sĩ quan hành quân của BCH/LLĐB tại Đà Nẵng (
Toán C ).
Và một vị khách công binh Mỹ là
Thiếu úy Thomas E.Todd, ông đến Làng Vei chiều hôm đó để thực hiện
công tác sửa chữa công sự phòng thủ.
Bố trí phòng thủ :
Góc Tây Bắc của Trại có 1 đại đội gồm 42
lính Dân sự chiến đấu sắc tộc Bru với 1 súng cối 81 ly và 1 đại bác
không giật 57 ly dùng để chống chiến xa.
Góc Đông Bắc của trại có 1 đại đội
gồm 82 lính Dân sự chiến đấu sắc tộc Bru với 1 cối 81 ly và 1 đại
bác 57 ly.
Góc Đông Nam của trại có 1 đại đội gồm 60
lính DSCĐ người Kinh, với 1 cối 81 ly và 1 đại bác 57 ly.
Góc Tây Nam của Trại có 1 đại đội
gồm 43 lính DSCĐ người Bru, với 1 cối 81 ly và 1 đại bác 57 ly.
Khu trung tâm trại có kho đạn và tiếp
liệu, hầm Bộ chỉ huy và 3 trung đội trinh sát với 1 súng cối 106 ly
( Súng 4.2), 1 súng cối 81 ly, 2 đại liên 50 ( 12 ly7 ) và hai đại
bác không giật 106 ly dùng để chống chiến xa; một khẩu được đặt tại
vòng đai phía Nam khu trung tâm để chận chiến xa từ đường lộ phía
Nam của trại;
một khẩu được đặt tại vòng đai
phía Bắc của khu trung tâm để chận chiến xa trên Quốc lộ 9.
Nhưng khi chiến trận nổ ra thì
khẩu 106 ly này không sử dụng được vì xạ thủ duy nhất đang đi phép.
Tại khu trung tâm còn có 1 đại đội Biệt
kích tiếp ứng ( Mike Force ) được
Bộ chỉ huy Lực lượng Đăc biệt Mỹ
tại Đà Nẵng tăng cường cho đồn Làng Vei sau khi trận Mậu Thân bùng
nổ trên toàn quốc 5 ngày trước.
Đại đội do Trung úy Longgrear chỉ
huy.
Diễn tiến trận đánh :
Ngày 06-2-1968,
*Lúc 4 giờ chiều :
1 trung đội Mike
Force ra khỏi trại để đi “nằm tiền
đồn” tại một vị trí cách trại 500 mét về hướng Tây.
*Lúc 9 giờ tối, toán tiền đồn báo cáo nghe
tiếng máy xe từ hướng Tây ( quốc lộ 9 ), đồng thời vọng gác góc Đông
Nam của trại cũng báo cáo nghe tiếng máy xe từ con lộ phía Nam.
Ngày 07-2,
*Lúc 0 giờ 15 :
Trái sáng gài trên vòng rào phòng
thủ tại cổng Đông Nam bật cháy, hiện rõ 2 đặc công và 2 xe tăng CSVN
bên ngoài vòng rào.
Hỏa châu được bắn lên soi rõ 5 xe
tăng và khoảng 200 bộ binh tùng thiết bắt đầu tấn công vào góc Đông
Nam.
3 xe tăng bị súng đại bác không giật 106
ly bắn cháy ở khoảng cách 350 mét.
Sau khi hạ xong chiếc thứ 3 thì
khẩu 106 không còn đạn, xạ thủ nhảy qua hầm súng cối thì vừa lúc đại
bác 76 ly của xe tăng thứ tư phá hủy khẩu 106 ly.
Hai chiếc tăng còn lại tiếp tục
tràn qua hàng rào phòng thủ.
Các súng chống tăng M.72 ( Hỏa
tiễn Law ) trong số 100 khẩu mới được trang bị chứng tỏ vô hiệu quả.
Cùng thời gian đó toán tiền đồn ở phía
Tây báo cáo có 4 xe tăng của CSVN trên Quốc lộ 9 đang tiến về trại
Làng Vei.
Đồng thời vọng gác góc đông Bắc
báo cáo có 2 xe tăng trên quốc 9 đang tiến tới từ hướng Đông.
Như vậy tổng cộng có 11 xe tăng
CSVN tham dự trận chiến.
Bộ chỉ huy trại gọi pháo binh của TQLC/Mỹ
tại căn cứ Khe Sanh bắn yểm trợ nhưng mãi tới nửa tiếng sau pháo
binh TQLC mới bắt đầu bắn yểm trợ chung quanh vòng đai phòng thủ.
Pháo binh CSVN cũng bắn phản pháo
vào căn cứ khe Sanh.
*Lúc 1 giờ sáng :
2 xe tăng CSVN lọt vào khu vực
phòng thủ góc Đông Nam và tiến vào khu trung tâm, gần hầm Bộ chỉ
huy.
Khoảng vài chục hỏa tiễn chống
tăng M.72
được sử dụng nhưng vô hiệu.
*Lúc 1 giờ 30 sáng :
Toán cố vấn Mỹ 6 người
tại trại Làng Vei cũ ( Nơi có 519
quân Biệt kích của Hoàng gia Lào đang trú ngụ ) thuyết phục Trung tá
Soulang của Lào cho quân cứu viện trại Làng Vei mới nhưng ông này từ
chối.
Tuy nhiên ông cũng cho súng cối 81
ly bắn hỏa châu chiếu sáng. Hai trại cách nhau 1 cây số.
*Lúc 2 giờ 30 sáng :
Một xe tăng thứ tư của CSVN còn
cách hầm Bộ chỉ huy 100 mét bị trúng đạn M.72 đứt xích nên nằm ụ một
chỗ nhưng vẫn quay súng đại bác phá hủy pháo đài trung tâm.
Xe tăng thứ 5 ủi sập cửa hầm Bộ
chỉ huy. Trong hầm chỉ huy có Đại úy cố vấn trưởng Willoughby và
Trung úy Trại trưởng Phạm Duy Quân cùng khoảng 25 người.
Trung tá Schungel cùng Trung úy Lương Văn
Quý và Trung úy Wilkins quyết định di chuyển về khu phòng ngủ của cố
vấn.
Khoảng 50 quân Biệt kích và 2 cố
vấn Mỹ thoát được ra ngoài, nấp sau một hàng tre cách trại 100 mét
*Lúc 2 giờ 45 sáng :
2 xe tăng CSVN từ hướng Tây đã lọt
vào góc tây Bắc, khẩu đại bác không giật 106 ly dùng để chống tăng
mặt Bắc không sử dụng được vì xạ thủ duy nhất đi phép.
Lúc 3 giờ 30, Lực lượng TQLC/Mỹ
tại căn cứ Khe Sanh từ chối gởi quân tiếp viện cho Làng Vei.
*Lúc 4 giờ 30 :
Quân CSVN quăng lưu đạn vào hầm Bộ
chỉ huy và tìm cách đào hang mở lối vào hầm.
Lúc 6 giờ 30 quân CSVN cho nổ mìn
hầm chỉ huy, Trung úy trại trưởng Phạm Duy Quân tử trận cùng với 5,6
người khác, số còn lại chỉ bị thương nhẹ.
*Lúc trời rạng sáng :
Trung sĩ Ashley thuộc toán cố vấn
của quân Biệt kích Lào hướng dẫn khoảng 100 lính Lào đi tiếp cứu.
Lúc 8 giờ sáng, khi toán tiếp cứu
còn cách trại 100 mét thì bị quân CSVN trong trại khai hỏa.
Trung sĩ Ashley cho lui quân và gọi máy
bay.
Máy bay ném bom bi phủ lên đồn
theo yêu cầu của
Đại úy cố vấn trưởng Willloughby
nằm dười hầm đài chỉ huy ( hầm bê tông ). Trung tá Schungel và Trung
Úy cố vấn phó Wilkins vẫn còn ẩn nấp tại một công sự trong khu
bệnh xá chứ chưa thoát được ra
ngoài
*Lúc 9 giờ 30 :
Máy bay ngưng ném bom, Trung tá
Schungel và Trung úy Wilkins ra khỏi bệnh xá, chạy về phía Đông của
khu Trung tâm.
Thêm 2 xe tăng CSVN bị máy bay bắn
cháy.
Trung tá Schungel bị thương lần
thứ 3 và phải tạm ẩn nấp trong một hầm trú ẩn.
Trong khi đó Trung úy trại phó Lê
Văn Quốc và toán 50 người chạy thoát hồi đêm di chuyển về phía Tiểu
đoàn Lào tại đồn Làng Vei cũ ( cách đồn mới khoảng 1 cây số ), gặp
toán tiếp cứu của Trung sĩ Ashley cách trại 500 mét.
Tất cả quay tở lại tiếp cứu lần
thứ hai.
Toán tiếp cứu vừa bắn vừa xông vào trại
nhưng còn cách 25 mét thì toán quân Lào rút lui.
Trung sĩ Ashley lại gọi máy bay
lần nữa.
Phi cơ ngưng thả bom thì toán tiếp
cứu xông vào lần thứ 3 nhưng thất bại.
*Lúc 11 giờ 10 sáng :
Toán tiếp cứu có thêm 1 khẩu đại
bác không giật 57 ly bắn trực xạ vào lô cốt của đồn rồi xung phong
lần thứ 4.
Khi tới gần hầm chỉ huy của khu
trung tâm thì Trung sĩ Ashley bị trúng đạn, xe cứu thương chở ông về
tới cửa trại cũ thì lại bị trúng đạn pháo kích, Ashley tử trận.
*Lúc 4 giờ chiều :
Thấy tình hình trên mặt đất đã im
tiếng súng, toán 20 người dưới hầm chỉ huy phá đất chui ra ngoài,
được Trung úy trại phó Lê Văn Quốc dùng xe jeep chở chuyền về trại
cũ.
Sau đó may bay ném bom hủy diệt trại Làng
Vei.
Toàn bộ quân nhân LLĐB Việt Mỹ
được trực thăng đưa về Đông Hà, riêng Trung úy Quốc vì trở lại trại
chở chuyến chót nên kẹt ở lại, phải theo dân chạy nạn chạy bộ về căn
cứ Khe Sanh.
Toàn bộ số Biệt kích quân trại Làng Vei và gia đình, cùng với toàn
bộ số Biệt kích quân Lào và gia đình tại trại cũ được di chuyển về
căn cứ Khe Sanh, tất cả là 6.000 người. ( 607 quân nhân và 5.400
thân nhân ).
(9) GIẢI THÍCH VỀ LỰC LƯỢNG BIỆT KÍCH TẠI
LÀNG VEI
Năm 2012 ông Trần Đỗ Cẩm đưa lên mạng bài
tường thuật về trận Làng Vei 1968, căn cứ theo tài liệu của sách báo
Mỹ, nhất là cuốn sách “Night of The Silver Star” của William
R.Phillip.
Tác giả Trần Đỗ Cẩm cũng đưa ra
nhiều nhận xét riêng của ông về chiến thuật, kỹ thuật tác chiến;
cũng như về phối hợp hỏa lực và tổ chức phối trí lực lượng.
Tuy nhiên vì tác giả là một sĩ quan Hải
quân, không rành về quân sự Bộ binh cho nên những nhận xét của ông
đều không đúng dưới con mắt nhìn của dân Bộ binh, nhất là những
người từng ở trong Lực lượng Đặc biệt VNCH :
– Trần Đỗ Cẩm : Như thường lệ, các tài liệu
Hoa Kỳ đều coi trận đánh như “tài sản” riêng, chỉ có quân nhân Hoa
Kỳ chiến đấu và có công, mặc dầu Làng Vei là một trại LLĐB của Việt
Nam.
– Bùi Anh Trinh :
Đây là một trại dân sự chiến đấu (
CIDG ), tức là do người dân tự vệ chống cộng chứ không phải của
chính phủ VNCH hay chính phủ Mỹ.
Lực lượng dân sự chiến đấu do CIA
tuyển mộ và CIA trả tiền qua cơ quan MACV.
Không thuộc vào Quân đội VNCH,
cũng không thuộc quân đội Mỹ.
Biệt kích quân DSCĐ không phải là
quân nhân cho nên không có số quân và không qua một trường huấn
luyện quân sự nào.
Thoạt đầu mỗi trại Biệt kích do một “toán
A”/LLĐB Mỹ phụ trách ( Toán A điều hành 1 trại Biệt kích khoảng 1
tiểu đoàn, Toán B điều hành nhiều trại trong một Khu chiến thuật.
Toán C điều hành các trại trong
một Vùng chiến Thuật ).
Toán A thường là 14 người, gồm 2
sĩ quan và 12 HSQ.
Nhưng vì các toán LLĐB/Mỹ không
biết tiếng Việt (Kinh) cho nên LLĐB/VNCH phái tới các trại Biệt kích
một “toán A”/LLĐB, cũng thường là 14 người, gồm 2 sĩ quan và 12 hạ
sĩ quan.
Nhiệm vụ của toán A Việt là chỉ huy các
đại đội dân sự chiến đấu, nhưng trên danh nghĩa là quân nhân cố vấn
cho các nhóm chiến đấu dân sự. Còn nhiệm vụ của toán A Mỹ là phụ
trách gọi máy bay Mỹ, kêu pháo binh Mỹ và phụ trách đếm người trả
tiền lương, phụ trách cung cấp quân trang đạn dược;
nhằm tránh thất thoát vật liệu xây
dựng cũng như tiếp liệu ( Đồn Làng Vei trị giá 1 triệu USD cho nên
người Mỹ phải phụ trách quản trị tài sản đó ).
Mới đầu thì có trục trặc về chỉ huy, do
vì không phân định rõ toán Mỹ hay toán Việt chỉ huy.
Sau nhiều lần phân xử thì mới đưa
tới quyết định toán Việt Nam phụ trách chỉ huy, còn toán Mỹ chỉ cố
vấn.
Do đó trại trưởng, trại phó là Sĩ
quan Việt Nam, các sĩ quan và HSQ gọi là “cố vấn Việt”. Còn SQ và
HSQ Mỹ được gọi là “cố vấn Mỹ”, đứng đầu là Cố vấn trưởng.
Trong khi đó các đại đội trưởng hay trung
đội trưởng Biệt kích quân là người Sắc tộc hoặc người Kinh tùy theo
lính trong đơn vị là người Sắc tộc hay người Kinh. Những người này
không qua một trường huấn luyện quân sự nào cho nên không biết gì về
chiến thuật hay xem bản đồ, gọi máy bay, pháo binh.
Vì vậy cần phải có SQ hoặc HSQ
người Kinh để dẫn đường theo bản đồ,
kêu máy bay, pháo binh, sử dụng
các vũ khí hạng nặng, hoặc điều động các đơn vị.
Báo chí hay sách vở Mỹ hễ nói về các trận
đánh của các đồn dân sự chiến đấu thì đương nhiên coi đó là chiến
công của Liên đoàn 5 LLĐB Mỹ, là một đơn vị tình báo của CIA, chứ
không thể nói đó là chiến công của quân đội VNCH.
Đặc biệt trận Làng Vei 1968 là chiến công
lớn nhất của quân đội Mỹ tại chiến trường Việt Nam bởi vì đây là lần
duy nhất quân nhân Mỹ có hân hạnh đụng độ với xe tăng CSVN và họ đã
tiêu diệt được 7 chiếc trong số 11 chiếc tham chiến.
Rốt cuộc chiến công lớn nhất của
quân đội Mỹ mà chỉ chia cho 24 người thành ra ai cũng có phần
thưởng, mà là phần thưởng lớn : 1 Danh dự huân chương, 1 Biệt công
bội tinh, và 22 Anh dũng bội tinh (19 bạc, 3 đồng ).
– TĐC : “…quân trú phòng như tê liệt khi
bất ngờ chạm trán với hàng chục tấn thép hầu như không phá hủy nổi…”
– BAT :
Quân trú phòng là 3 đại đội biệt
kích người Bru, 1 đại đội biệt kích người Kinh, 1 đại đội Biệt kích
tiếp ứng người Hờ Rê.
Tất cả đều không được huấn luyện
chiến thuật chống chiến xa và không được huấn luyện sử dụng vũ khí
chống chiến xa.
Cho nên họ không có bổn phận tử
chiến với chiến xa, mỗi khi gặp chiến xa thì họ chỉ có nhiệm vụ bỏ
chạy, giao việc chống chiến xa cho cố vấn Việt, Mỹ ( Gọi máy bay ).
– TĐC :
Chúng ta có thể kết luận: chính sự
đánh giá sai lầm khả năng xử dụng thiết giáp của địch đã đưa đến
việc trại bị tràn ngập….Tuy Đại Úy Willoughby có đôi chút cảnh giác,
yêu cầu cung cấp khoảng 100 hỏa tiễn chống chiến xa LAW, nhưng ông
cho rằng chiến xa của địch quân nếu có cũng chỉ được dùng để yểm trợ
như súng cối pháo kích từ ngoài hàng rào, thay vì trực tiếp tấn công
như đã xảy ra.
– BAT :
Ngay từ khi lập ra các đồn Biệt
kích biên phòng thì người ta đã tính tới chuyện có thể phải đối phó
với xe tăng.
Cho nên đồn Làng Vei cũng giống
như các đồn khác đã được trang bị 2 khẩu 106 ly không giật và 4 khẩu
57 ly không giật. Tất cả 6 súng này dùng để chống chiến xa.
– TĐC :
“…số hỏa tiễn còn lại không được
phân phối cho các tổ chiến đấu nơi hàng rào phòng thủ mà tập trung
trong hầm chỉ huy”.
– BAT :
Lúc này Hỏa tiễn Law (M.72) là
loại “hỏa tiễn cầm tay”còn bí mật, chưa được sử dụng kể từ khi phát
minh vào năm 1963.
Sau khi đồn Huội San bên Lào bị xe
tăng PT.76 tấn công 3 tháng trước đó thì bắt buộc Tổng tư lệnh chiến
trường Việt Nam là tướng Westmoreland phải tính tới chuyện xe tăng
CSVN sẽ xuất hiện tại Khe Sanh.
Riêng căn cứ Làng Vei được tăng cường 100
khẩu chống tăng loại bí mật chứng tỏ không phải là Tướng
Westmoreland hay Bộ tư lệnh LLĐB/Mỹ không đề phòng, trái lại họ dùng
100 khẩu M.72 ( LAW ) để phục kích, sẵn sàng chờ xe tăng CSVN để thử
nghiệm.
– TĐC :
Rất tiếc, tuy toán diệt chiến xa
do Trung Tá Schungel đích thân thành lập đã xử dụng nhiều LAW, nhưng
một tỷ số rất cao đến 90% đã không nổ, số còn lại tuy khai hỏa trúng
chiến xa nhưng không gây thiệt hại. Đây là điều rất đáng ngạc nhiên
vì LAW được chế tạo để bắn hạ chiến xa hạng trung như T-54 có vỏ
thép dầy hơn PT-76 nhiều. Sau này, có dư luận cho rằng vì LAW được
thả bằng đường hàng không nên không hữu hiệu
– BAT :
Hỏa tiễn LAW tường được gọi là
súng chống tăng M.72 là loại súng phóng hỏa tiễn, ống phóng làm bằng
sợi thủy tinh, đường kính 66 ly.
Quả đạn có khối thuốc nổ nặng 2,4
ký;
toàn thể súng cân nặng 2,6 ký.
Súng được chế tạo năm 1963 để thay
thế cho loại súng chống tăng Bazoka được sử dụng trong thời Thế
chiến 2.
So với M.72 thì Bazoka quá lỗi
thời vì nặng và cồng kềnh.
Lần này M.72 mới được đem ra sử
dụng thử nghiệm tại chiến trường cho nên chỉ có các sĩ quan Mỹ, Việt
mới biết cách sử dụng.
Khối thuốc nổ của M.72 chỉ nặng 2,4 Kg
cho nên không đủ để khoan thủng vỏ thép của xe tăng T.54 nhưng có
thể khoan thủng vỏ thép mỏng bên hông của P.76 ( xe tăng lội nước ).
Đa số trục trặc của súng M.72 là
bộ phận kích hỏa, dây kích hỏa bằng sợi nilong thường bị kẹt.
Mới đầu người ta tưởng là trục
trặc do kíp kích hỏa bị thối nhưng không phải. Ngoài ra toàn khẩu
súng nặng 2,6 ký cho nên không việc gì phải thả bằng hàng không.
– TĐC : Một loại vũ khí chống chiến xa rất
hữu hiệu nữa là mìn đặt tại những nơi dự trù chiến xa hoạt động.
– BAT :
Lúc thiết lập các đồn Biệt kích
biên phòng thì người ta không tính tới chuyện giao nhiệm vụ diệt
chiến xa cho các chiến binh dân sự, cho nên không tính tới chuyện
gài mìn để bẫy chiến xa.
Chỉ tính tới chuyện đồn bị chiến
xa xông vào mà thôi.
– TĐC : Quanh trại Làng Vei chỉ có 3 ngả
chiến xa có thể dùng để xâm nhập: đó là đường số 9 tương đối lớn từ
hướng Tây và hướng Đông và đường từ hướng Làng Troài về phía Nam.
– BAT :
Các chi tiết tường thuật cho thấy
có tới 7 chiến xa từ hướng Làng Troài, tức là hướng Nam.
Có 5 chiếc tham gia tấn công cổng
Đông Nam và 2 chiếc chạy vòng từ cổng Đông Nam ra cổng Đông Bắc chứ
không phải 2 chiếc này chạy từ hướng Đông, trên Quốc lộ 9.
Bởi vì hướng Đông trên Quốc lộ 9,
cách 1 cây số,
là đồn Làng Vei cũ đang do Biệt
kích Lào trú đóng. Và phía Đông của đồn Làng Vei cũ là thị trấn Khe
Sanh.
7 chiến xa này cũng không xuất phát từ
Làng Troài ( Sẽ bị đồn tiền tiêu phát hiện ) mà vượt sông Tchephone
tại khu vực phía Bắc Làng Troài, tức phía Nam trại Làng Vei.
Sau khi vượt sông thì chạy theo
hướng Đông để gặp con lộ đi Làng Troài, leo lên lộ mà đến trại.
Còn 4 xe tăng tấn công góc Tây Bắc cũng
không phải đi trên Quốc lộ 9 từ hướng Tây, mà là vượt sông Tchepnone
tại phía Nam của trại rồi mới đâm lên phía Bắc, leo lên Quốc lộ 9 mà
vào cổng Tây Bắc. Trên QL.9, cách trại 3 cây số về phía Tây cũng có
1 đồn tiền tiêu do 40 BKQ, 1 HSQ Việt và 2 HSQ Mỹ trấn thủ.
Đoàn xe tăng phải tránh tiền đồn
này bằng cách vượt sông ở phía Nam.
– Trần Đỗ Cẩm :
Một phương tiện khác để phát hiện
và có thể tiêu diệt chiến xa địch trước khi chúng xâm nhập hàng rào
phòng thủ là toán tiền đồn …
…chỉ có một Trung Đội Mike Force của Trung
Úy Longgrear nằm tiền đồn tại mặt Tây, cách hàng rào phòng thủ trại
chừng 500 thước, còn các Trung Đội Mike Force khác được kéo về phòng
thủ trại. Nếu có thêm các toán tiền đồn được đặt tại mặt Nam và mặt
Đông, chắc chắn chiến xa địch đã bị phát hiện sớm hơn, không cần
phải chờ tới lúc chúng đã tiến sát hàng rào phòng thủ…
– Bùi Anh Trinh :
Các toán “nằm tiền đồn” có nhiệm
vụ thám báo cho nên không có nhiệm vụ chống chiến xa.
Một khi phát hiện có chiến xa thì
họ báo về đồn và tìm cách trốn làm sao cho chiến xa địch hoặc bộ
binh tùng thiết
không phát hiện ra họ.
Hằng đêm có 1 hoặc 2 trung đội thám báo
hoạt động “nằm tiền đồn” bên ngoài trại.
Còn toán MF có nhiệm vụ đi tiếp
cứu các đồn biên phòng bị đánh.
Cho nên nhiệm vụ của MF lúc đó là
ứng chiến trong trại, chờ tiếp ứng cho các đồn tiền tiêu của trại
hoặc các trại khác gần đó.
(10)
PHÂN TÍCH CHIẾN THUẬT TRONG TRẬN LÀNG VEI
Năm 2012 ông Trần Đỗ Cẩm đưa lên mạng bài
tường thuật về trận Làng Vei 1968, căn cứ theo tài liệu của sách báo
Mỹ.Tuy nhiên vì tác giả không rành về quân sự Bộ binh cho nên những
nhận xét của ông đều không đúng dưới con mắt nhìn của những người
từng ở trong Bộ binh :
– Trần Đỗ Cẩm :
“Như vậy, sở dĩ chiến xa địch đạt
được thành quả vì cấp chỉ huy LLĐB đã ước đoán sai lầm khả năng xử
dụng chiến xa của địch”.
– Bùi Anh Trinh :
Lực lượng chiến xa CSVN không đạt
được thành quả chứ không phải là “đạt được thành quả”.
Bởi vì một khi đoàn chiến xa xuất
kích thì phải đi nguyên và trở về đủ chứ không được để cho bị hạ
chiếc nào.
Thế nhưng 11 chiếc đi mà đã có 7
chiếc bỏ xác tại trận thì nghĩa là thất bại nặng.
Một chiến xa được chế ra để đánh
cả trăm trận, cả ngàn trận chứ không phải đánh 1 trận rồi bỏ.
Bộ chỉ huy LLĐB không hề ước đoán sai về
khả năng có chiến xa xuất hiện, bằng chứng là họ đã bí mật đem tới
đó 100 súng chống chiến xa loại tối tân nhất ( hỏa tiễn Law, M.72 ).
Sách của Tướng Westmoreland và sách của Trung tá Phan Bá Kỳ có nói
rõ là BTL/LLĐB Việt, Mỹ tại Nha Trang đã chuẩn bị chờ đón đoàn xe
tăng tại Hạ Lào sau khi trận Mậu Thân bắt đầu khai diễn.
– TĐC :
Vị sĩ quan có cấp bậc cao nhất tại
trại Lang Vei là Trung Tá Schungel, cũng là cấp chỉ huy trực tiếp
của Trại Trưởng Willoughby.
– BAT :
Trung tá Schungel là chỉ huy
trưởng LLĐB
tại Vùng 1 chiến thuật ( Trưởng
toán C ).
Còn cấp chỉ huy trực tiếp của Đại
úy Willoughby là Chỉ huy trưởng LLĐB khu chiến thuật nằm tại Đông Hà
( Trưởng toán B ). Schungel đến Làng Vei như là khách ở nhờ, nhiệm
vụ của ông ta liên lạc với Trung tá Soulang của toán Biệt kích Lào.
Toán Biệt kích Lào cũng giống như
lực lượng của Đại tá Vàng Pao, là lực lượng dân sự chiến đấu của
CIA.
– TĐC :
Trung Tá Schungel đã từ chối không
vào hầm chỉ huy để tiếp tay với BCH trại, điều này cho thấy ông
không muốn nhận lãnh vai trò chỉ huy rất cần thiết trong lúc dầu sôi
lửa bỏng.
– BAT :
Ông là khách ở nhờ cho nên ông
không được quyền can thiệp vào chuyện của trại trưởng hay cố vấn
trưởng, có chăng chỉ đưa ý kiến cố vấn cho trại trưởng mà thôi.
Đơn giản là vì ông khách cao cấp
đó không biết quân lính và vũ khí trong đồn được bố trí ra sao, mỗi
đơn vị đang nằm chỗ nào, mạnh yếu thế nào; mỗi đơn vị trưởng giỏi dở
thế nào.
– TĐC :
Ngoài ra, với cấp bậc cao có uy
tín hơn, Trung Tá Schungel có thể tiếp tay đảm trách việc liên lạc
với các đơn vị yểm trợ bên ngoài. Rất có thể nếu đích thân Trung Tá
Schungel vào máy yêu cầu pháo binh TQLC tại Khe Sanh bắn yểm trợ…”
– BAT :
Chuyện này không bao giờ xảy ra
bởi vì hệ thống tổ chức trong quân đội chỉ cho phép người đồn trưởng
mới được đưa ra các yêu cầu yểm trợ mà thôi.
Còn Schungel chỉ liên lạc về Đông
Hà để nơi này chuyển cho Cố vấn trưởng Vùng 1 chiến thuật để ông này
ra lệnh cho Căn cứ Khe Sanh đưa quân hoặc bắn pháo để tiếp cứu.
– TĐC :
Phân tách kỹ về phản ứng của TQLC
( Mỹ) trong trận Làng Vei, chúng ta thấy TQLC đã không làm tròn
trách vụ yểm trợ như đã thỏa thuận. Về pháo binh, việc yểm trợ vừa
chậm trễ lại kém hữu hiệu, không trợ giúp được gì nhiều.
– BAT :
Các trại dân sự chiến đấu của CIA
có tính cách dân sự ( tự võ trang chống cộng, giống như tính cách
của lực lượng nhân dân tự vệ ), không thuộc phạm vi trách nhiệm của
quân đội Mỹ hay quân đội VNCH.
Các đơn vị Bộ binh VNCH đóng gần
các trại Biệt kích biên phòng cũng không có nhiệm vụ tiếp cứu các
trại BK, trừ khi có yêu cầu của BTL/Quân khu VNCH.
Nhiệm vụ tiếp cứu các trại BK là
lực lượng Biệt kích tiếp ứng ( Mike Force ) nằm tại phi trường Nha
Trang và Đà Nẵng.
Còn về yểm trợ pháo binh bị lúng túng là
vì trong trại yêu cầu bắn diệt chiến xa thì pháo binh TQLC Mỹ không
có nhiệm vụ diệt chiến xa, họ chỉ diệt bộ binh địch xung quanh trại
mà thôi.
Nhưng ở đây thì chiến xa địch tới
cách hàng rào vài chục mét, thậm chí đã vào vòng rào thì pháo binh
không được phép bắn, bởi vì sẽ trúng vào phe ta ở trong đồn.
– TĐC :
“Sách báo, tài liệu và dư luận Hoa
Kỳ thường có khuynh hướng bất công và thiên vị đối với đồng minh
Việt Nam. Trong trận Làng Vei, tất cả 24 quân nhân Hoa Kỳ tham chiến
đều đã chiến đấu rất anh dũng. …
Những
“Sao Bạc” Hoa Kỳ so sánh với quân nhân Việt Nam, chỉ là “Sao Lạc”.
Nghe nói sau trận Làng Vei, đa số những quân nhân Việt Nam tham dự
đều đã hy sinh vì tổ quốc tại các trại LLĐB khác sau đó không lâu”.
– BAT :
Cái này thì đúng quá, quân nhân
LLĐB Mỹ chỉ có nằm dưới hầm hoặc chạy thoát thân. Trái lại trong khi
chiến đấu họ được các chiến sĩ Biệt kích che chở tận tình cho nên
trở thành gánh nặng cho quân Biệt kích chứ không phải là đỡ gánh cho
quân Biệt kích.
Ngoài ra trong 6 ông cố vấn Mỹ tại
đồn Làng Vei cũ thì chỉ có Trung sĩ Ashley làm việc, còn 5 ông kia
không chiến đấu cũng được trực thăng cứu về Đông Hà nhưng vì huy
chương có quá nhiều cho nên mỗi ông cũng được thưởng huy chương “Anh
dũng bội tinh”.
Còn toán LLĐB/ VNCH được phái tới các
trại DSCĐ thì chẳng khác nào “đem con bỏ chợ”, trên chẳng có ai lo
mà dưới cũng chẳng có ai thương.
Có chiến đấu cho hết mình thì cũng
chẳng được gì. Chẳng qua là vì lương tâm của người chiến binh,
một khi nguy hiểm ập đến thì chỉ
biết tự cứu mình và cứu đồng đội theo bản năng của con người mà
thôi.
Các chiến binh “Dân sự chiến đấu” người
Sắc tộc thì mỗi khi đồn bị tấn công thì họ chỉ biết tìm cách thoát
ra khỏi đồn để chạy về buôn làng dẫn vợ con chạy nạn ( Buôn làng
thường cách đồn khoảng vài cây số, hễ lính trong đồn di chuyển đến
đâu thì buôn làng cũng dời theo tới đó ).
Họ không có nhiệm vụ “tử thủ” hay
“tử chiến” với quân CSVN.
Họ cũng không được giao nhiệm vụ
“bảo vệ tổ quốc Việt Nam” hay nhiệm vụ “Tiêu diệt quân xâm lăng Cọng
sản”.
Sự thật của các trại Biệt kích là như vậy
cho nên các nhà quân sử dễ mắc sai lầm nếu bàn về chiến thuật hay kỹ
thuật quân sự của quân BK.
Và các trại BK hoàn toàn của Mỹ
cho nên nếu có chiến công thì phải tính là chiến công của Liên đoàn
5 LLĐB/HK, là một tổ chức tình báo của CIA.
BÙI ANH TRINH
Chú thích của người viết :
(1). Bài viết của Trần Đỗ Cẩm cho biết
người trung úy Việt dùng xe jeep cứu các cố vấn Mỹ là Trung úy Lương
Văn Quý.
Nhưng sách “Lực Lượng Đặc Biệt”
của Trung tá Phan Bá Kỳ, xuất bản năm 2006, thì ghi rằng đó là Trung
úy Lê Văn Quốc, trại phó của đồn Làng Vei.
(2) Trung tá Phan Bá Kỳ có trích nguyên
văn bài viết của phóng viên chiến trường Robert Pisor; mà trong đó
nêu rõ danh tánh của người dùng xe jeep chở nhiều chuyến cấp cứu các
cố vấn Mỹ, Việt là Trung úy Lê Văn Quốc.
Cuối cùng Trung úy Quốc phải chạy
bộ với lính BK về căn cứ Khe Sanh với nguyên quân phục và vũ khí,
ông bị tước vũ khí tại cổng căn cứ.
Ngoài ra sách của Trung tá Kỳ cũng có vài
chỗ nhầm lẫn khi viết về vũ khí cơ hữu của trại Làng Vei ( trang 190
và 191 ) :
–
“4 súng máy 57 ly không giật”,
thực ra là 4 đại bác 57 ly không giật, nạp đạn từng viên, không phải
là súng máy.
– “2 súng máy nòng 50 ly”, thực ra là 2
súng đại liên M.2, cỡ nòng 12,7 ly.
Trong tiếng Anh thì đại liên M.2
có tên là “Browning.50 caliber machine gun” ( Cỡ nòng 0.50 inch tức
là 12,7 ly ).
Người Việt thì gọi là “đại liên
50”.
– “39 súng máy Browning với 200.000 viên
đạn”.
Thực ra súng máy Browning là đại
liên M.2.
Nhưng thực tế chỉ có 2 khẩu chứ
không thể nào có tới 39 khẩu. ( Có lẽ là “đại liên 30” cũng của hãng
Browning chứ không phải là “đại liên 50” )
Theo như kinh nghiệm của người viết bài này
( BAT, sĩ quan cố vấn trại Biệt kích của LLĐB/VN ) thì một đồn biệt
kích có hỏa lực mạnh nhất chỉ có 20 đại liên 30 mà thôi. ( Đồn Pu
Prang ).
– “47 súng máy 30 ly với 275.000 viên
đạn”.
Thực ra là đại liên M.1917A6, cỡ
nòng 7,62 ly ( 0.30 inch ) .
Tên tiếng Anh là “.30 caliber
light machine gun”.
Cũng của hãng Browning.
Người Việt gọi là “đại liên 30”.
Và trên thực tế cũng không thể nào
một đồn cấp tiểu đoàn mà lại có tới 47 đại liên 30.
Cao lắm thì chỉ có 20 khẩu mà
thôi; bởi vì mỗi đại liên cần phải có 2 xạ thủ, cho nên trong đồn
với 282 lính không đủ để sử dụng hoặc bảo vệ chừng đó súng đại liên.
Mỗi đại liên cần tối thiểu 5 tay
súng trường cá nhân bảo vệ.
(3)
Trong đồn Làng Vei có 2 khẩu đại
bác không giật 106 ly để chống chiến xa
nhưng 1 khẩu không sử dụng vì xạ
thủ (một hạ sĩ quan Mỹ ) đi phép.
Khẩu còn lại mới hạ được 3 chiếc
thì bị đại bác của chiến xa bắn hủy.
Còn 100 súng chống chiến xa M.72 (
Hỏa tiễn LAW ) hoàn toàn không hiệu quả.
Đây là loại vũ khí chống chiến xa
mới nhất của Hoa Kỳ được sử dụng thử tại chiến trường Việt Nam, ngay
lần này đã có kết quả là vô dụng nhưng các nhà máy sản xuất vũ khí
tại HK đang mở hết công xuất để sản xuất M.72 cho quân đội Hoa Kỳ
theo như đơn đặt hàng của Bộ Quốc Phòng.
Do đó
số súng M.72 lỡ sản xuất được dùng
để trang bị cho quân đội VNCH nhằm mục đích trấn an tâm lý binh sĩ
khi phải đối diện với xe tăng của CSVN.
Cho tới 1975, khi CSVN xua 3 sư
đoàn tăng vào đánh chiếm Miền Nam thì quân đội VNCH cũng chỉ có M.72
để chống tăng..
Kết quả là xe tăng của CSVN đi tới
đâu thì bộ binh VNCH tan hàng tới đó.
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *