MINH THỊ

DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN  QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG  CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI  THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.  

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

֎֎֎֎֎֎֎

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Secret Army Secret War

֎ CIA Giải mật

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học  

 

 

♣♣♣♣♣♣

 

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008

֎ 10-2008 ֎ 11.2008 ֎ 11-2008

֎ 12-2008 ֎ 01-2009 ֎ 02-2009

֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009

֎ 09-2009 ֎ 10-2009 ֎ 11-2009

֎ 12-2009 ֎ 01-2010 ֎ 03-2010

֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010

֎ 10-2010 ֎ 11-2010 ֎ 12-2010

֎ 01-2011 ֎ 02-2011 ֎ 03-2011

֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011

֎ 10-2011 ֎ 11-2011 ֎ 12-2011

֎ 01-2012 ֎ 06-2012 ֎ 12-2012

֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014

֎ 03-2015 ֎ 04-2015 ֎ 05-2015

֎ 12-2015 ֎ 01-2016 ֎ 02-2016

֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016

֎ 12-2016 ֎ 01-2017 ֎ 02-2017

 

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Vở Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Diễn Đàn ֎ Learning ֎ Sports ֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Video/TV ֎ Lottery ֎ Đà Lạt ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government

v Associated Press v Congressional Record

v Reuter News v Real Clear Politics  

v MediaMatters v C-SPAN v.

v Videos Library v Judicial Watch v

v New World Order v Illuminatti News   

v New Max v CNSv Daily Storm v

v Observe v American Progress  v

v The Guardian v Political Insider v

v Ramussen Report  v Wikileaks  v

v The Online Books Page v Breibart

v American Free Press v Politico Mag

v National Public Radio v

v National Review - Public Broacast v

v Federation of Anerican Scientist v

v Propublica v Inter Investigate v

v ACLU Ten  v CNBC v Fox News v

v CNN  v FoxAtlanta v Gateway

v Indonesian News v Philippine News v

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican?

v Roman Catholic  

v Khoa HọcTV  v Sai Gon Echo v

v Viễn Đông v Người Việt v

v Việt Báo  v Việt List  v Xây Dựngv

v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu

v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv

v Việt Tribune v Saigon Times USA v

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v

v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v

vLao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Tấm Gương

vSài G̣n v Sách Hiếm v Thế Giới  v Đỉnh Sóng

vChúng Ta  v Eurasia  v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ

v Nguyễn Tấn Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh v TPBVNCH v1GĐ/1TPB v Bia Miệng ♣♣

 

ĐÊM CHIA LY PHÚ XUÂN

 

 5 PNHS

  

 

 

Kể từ năm Ất Dậu 1558, thiên mệnh như dành sẵn xứ Thuận Hóa cho Tiên Chúa Nguyễn Hoàng, thuộc gịng họ Nguyễn làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa. Thúc dục Tiên Chúa dùng Thuận Hóa làm bàn đạp, tiếp bước cha ông, dẫn người Việt đi tiếp đoạn đường trường chinh về phương nam mở rộng cơi bờ.

Thuận Hóa dưới thời nhà Trần vốn là hai châu Ô, Lư của Chiêm Thành. Những năm đầu thế kỷ mười bốn, thời vua Trần Anh Tôn. Vua Chiêm Chế Mân thích nét đẹp yêu kiều của thiếu nữ Việt. Lại nghe đồn Huyền Trân công chúa, con Thượng Hoàng Nhân Tôn là trang quốc sắc thiên hương, Chế Mân nhân chuyến Thượng Hoàng nam du bèn đến triều kiến, khẩn khoản xin được làm con rể Thượng Hoàng, hứa dâng hai châu Ô, Lư làm sính lễ. Thượng Hoàng trở về nói với Anh Tôn:“Ta nay tu dưỡng nên tránh việc thế. Con liệu giải quyết sự việc, sao cho hai nước Việt Chiêm giao hảo, tránh can qua mà khổ lê dân”. Anh Tôn thương em không muốn thấy cảnh chia ĺa (Huyền Trân là em gái vua), nhưng trọng Thượng Hoàng nhân ái, bèn hỏi ư các đại thần. Đám văn quan vốn xem Chiêm Thành là nước man di, ư không muốn đem hạt gạo trắng ngần mà vo nước đục, mà vần lửa rơm... Riêng Thượng Tướng Trần Khắc Chung, danh tướng thao lược khuyên vua nên bằng ḷng. Chung nói:“Trải nhiều phen quan hệ giữa Chiêm và ta chẳng mấy khi tốt đẹp. Người Chiêm nhận ra khát vọng bành trướng lănh thổ về phương nam của ta, nên lúc binh đội mạnh thường t́m cách vượt biên quấy phá không cho vùng biên giới phía nam yên ổn. Thần có dịp đi ngang hai châu Ô Lư, vùng này núi non trùng điệp, như thành vách ngăn đỡ phía tây với Ai Lao. Sâu vào hướng nam núi non hùng vĩ, trên cao đụng mây, dưới biển xanh mênh mông sóng vỗ là thành vách chống đỡ mặt nam (tức Hải Vân Sơn sau này). Sông ng̣i đan nhau tiện dụng cho thủy binh, vùng đồng lầy hung hiểm sẽ là phên giậu vững chắc ngăn ngừa người Chiêm bắc tiến. Ấy là chưa kể vùng đồng bằng ph́ nhiêu chứa biết bao cây lành quả ngọt hứa hẹn ấm no. Đưa công chúa đến Chiêm Thành khác nào đem má phấn đổi lấy trường thành, đó là vùng đất trời dành, là kế lâu dài dựng nghiệp, bệ hạ minh xét”. Vua nghĩ suy cặn kẽ, cuối cùng đám cưới vương giả giữa vua Chiêm và Huyền Trân công chúa được cử hành.

Đám quan lại, binh sĩ nhận lệnh vua lên đường trấn nhậm đất mới kéo theo thành phần cư dân phức tạp, từ những nghèo khổ vùng Thanh Hóa Nghệ An đến những người phiêu lưu, đám du thử du thực từng vào tù ra khám ào ạt đi t́m vận may nơi quê hương mới. Số đông người Chiêm đau đớn nh́n cảnh đất nước bị cắt chia dâng hiến ngoại bang, ngậm ngùi xa ĺa thôn xóm, cúi lạy ngọn tháp thần linh chơ vơ, lũ lượt vượt núi băng rừng, lênh đênh trên biển đi về phương nam. Đám dân Chiêm ở lại, có kẻ nuôi hận thù dùng bạo lực chống người Việt. Số người hiền ḥa sống cam chịu nhất quyết không rời thần linh, không bỏ quê cha sống quẩn quanh gần những ngọn tháp ngày ngày phụng thờ hương khói.

Bước nam tiến của người Việt bắt đầu trở lại vào năm Tân Hợi 1611. Lợi dụng Chiêm Thành suy yếu, Tiên Chúa Nguyễn Hoàng vượt đèo Cù Mông, đánh chiếm vùng đất phía nam lập phủ Phú Yên. Người Chiêm không ngừng chia rẽ, mộng tranh cướp ngôi vương bá dẫn đến nội chiến, quên hiểm họa xâm lăng của người Việt. Tám mươi hai năm sau, trải qua năm đời các chúa Nguyễn hùng cứ phương nam, vị chúa thứ sáu Minh Vương Nguyễn Phúc Chu chiếm Phan Rang, vùng đất cuối của Chiêm Thành. Người Chiêm như chim ĺa đàn, mang nỗi hận vong quốc tha hương. Hàng vạn người qua tận Chân Lạp, hoặc đi vào chốn thâm sơn cùng cốc sống ẩn dật nhờ cây rừng chở che khỏa lấp nỗi đau. Nhiều người vẫn bám làng thôn, nhẫn nhục sống với người Việt để ngày ngày c̣n nh́n thấy những ngọn tháp rũ buồn muốn khóc. Những người dân mất nước kia, có người gửi tâm trạng trong khúc hát khắc khoải u sầu, tiếng hát năo nề xé ruột gan luẩn quẩn trong làng thôn, quấn quít quanh ngọn tháp chơ vơ mưa nắng. Có những người Việt tấm ḷng như biển, đồng cảm nỗi đau nhục nhằn trước cảnh nước mất nhà tan, thương khúc hát bi ai kia, tô điểm làn điệu Chiêm phổ vào lời ca Việt thành khúc Nam Ai thê thiết. Nam Ai cuối cùng chọn Phú Xuân làm chốn nương thân, bởi người Phú Xuân, sau này thường được gọi là người xứ Huế, với giọng nói bổng trầm đặc biệt mới có thể nói hết cái hồn của Nam Ai. Nam Ai yêu nét trang nghiêm u tịch xứ Huế, yêu gịng sông Hương hoàng hôn khói sương, đêm trăng lung linh mờ ảo nên lưu luyến chẳng rời. Nam Ai với thời gian, như cây cầu nối kết dẫn người Chiêm người Việt lại gần nhau, xoa mờ mặc cảm chiến bại, xoa dịu mối hờn vong quốc. Cuộc bể dâu dù tang thương rồi cũng mờ phai theo tháng năm, c̣n lại chăng, cái đáng trân quư chỉ là tấm ḷng giữa những con người...

***

Mùa hạ năm Mậu Ngọ 1738, Ninh Vương Nguyễn Phúc Trú từ trần. Con trai cả của chúa, Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát thay ngôi cha, trở thành vị chúa thứ tám của gịng họ Nguyễn. Nối tiếp truyền thống ông cha, chúa sùng đạo Phật, xưng là Từ Tế đạo nhân. Vị chúa trẻ trung mới hai mươi lăm tuổi mang ước vọng thay da đổi thịt phương nam, xứng ngôi bá chủ luôn các lân quốc như Chân Lạp Xiêm La, vượt hẳn quyền uy họ Trịnh ở phương bắc. Vừa lên ngôi, chúa họp ngay các cận thần bàn việc hệ trọng. Cận thần của chúa thường là đám văn vơ quan trẻ trung, tuổi dưới ba mươi, cùng trang lứa với chúa. Chúa thông minh thực tế, cho người trẻ năng động dám nói dám làm. Những viên quan trọng tuổi nặng nợ áo cơm, kinh nghiệm sống biến họ thành những người dè dặt đến độ sợ trách nhiệm. Chúa nói:“Ta nh́n kỹ địa đồ, thấy đất Phú Xuân đứng ở thế trung tâm, như sao Bắc Thần đứng thế cao mà các sao khác chầu vào. Đó là thế đất dựng nghiệp muôn đời không thể bỏ. Ta nên dời dinh về đấy, các khanh nghĩ thế nào?” Tham Mưu Nguyễn Cư Trinh tuổi mới ngoài hai mươi nhưng nổi tiếng hay chữ, cai trị giỏi và rất mực thanh liêm góp ư:

-Thần vốn người huyện Hương Trà nên nhận ra Phú Xuân là vùng đất tốt. Đường thủy có nhiều cửa biển hung hiểm, đường bộ bắc nam có Hoành Sơn và Hải Vân làm thành lũy. H́nh thế núi sông vững như bàn thạch, như hổ như tượng, như ngưu như long. Đó là kỳ quan trời dành cho ta dựng nên kinh đô bề thế vững chăi.

Văn quan Nguyễn Đăng Thịnh phụ họa:

-Thần nhận thấy sông Dinh (sau này gọi là sông Hương) như thanh long uốn lượn, mang hương thơm của các loài thảo mộc từ thượng nguồn, qua những thôn xóm an lành cây xanh rợp bóng, phong cảnh hữu t́nh tạo cho Phú Xuân vẻ đẹp mỹ miều. Phía đông bắc lại có Bằng Sơn dáng uy nghi cân đối. Hai bên lại có Tả Phù Hữu Bật. Gịng sông kia và ngọn núi này tạo cảnh sơn thủy hữu t́nh. Đứng trên núi Bằng vào ngày đẹp trời sẽ thấy phong cảnh toàn vùng. Từ những rừng thông xanh vi vút hát ca, đến những vùng ruộng vườn xanh tốt, xa hơn nữa là mầu xanh thẳm của vùng biển đông bát ngát mênh mông. Phú Xuân xứng đáng trung tâm văn hiến của cả vùng đất phương nam trù phú.

 

Kế hoạch dời Chính Dinh vào Phú Xuân được xúc tiến ngay. Hàng vạn quân dân xứ Quảng được điều về Phú Xuân xây dựng cung điện, đường xá, làm cầu nối đôi bờ nam bắc sông Dinh. Chúa quy hoạch vùng dành riêng cho đám quan lại. Thương gia từ nhiều nơi, nhất là đám thương gia ở Phố Hội Quảng Nam kéo về Phú Xuân lập các thương điếm. Chợ Dinh ngày càng đông đúc, tấp nập kẻ bán người mua.

Mùa xuân năm sau mọi việc ổn định, chúa cùng triều thần chuyển về Chính Dinh Phú Xuân. Chúa ngày đêm chăm lo việc nước, cải tổ nhiều điều. Quyền lực chúa Nguyễn nay bao trùm hầu hết vùng Thủy Chân Lạp. Người Việt bất chấp hiểm nguy tiến dần vào phương nam, vùng lưu vực hai sông Cửu Long và Đồng Nai. Vùng đất với những sông ng̣i chằng chịt đan nhau, rừng cổ thụ lẫn rừng thưa nối tiếp dẫy đầy ác thú. Cho dù trăm vạn hiểm nghèo bất trắc “Chèo ghe sợ sấu cắn chưn. Xuống bưng sợ đỉa lên rừng sợ ma”vẫn không ngăn nổi khát vọng nam tiến của người Việt. Vùng đất mới phía nam dần dần biến thành nơi cư ngụ của bao sắc dân: Việt, Tàu, Chàm, Miên và những người thiểu số khác... Họ không cùng quá khứ nhưng cùng khát vọng chung xây dựng tương lai sáng tươi. Tất cả cùng ḥa nhịp sống chung thân ái biến miền nam thành vùng đất trù phú ph́ nhiêu, vùng đất lành nuôi dưỡng mời gọi những cánh chim lưu lạc.

Mùa xuân năm Canh Tư 1744, trong dinh có cây sung nở hoa. Chúa vui mừng cho là điềm lành, triệu tập cận thần họp bàn ư muốn xưng vương. Chúa nói:“Mấy năm nay ta điều nghiên kỹ t́nh h́nh Đàng ngoài. Kể từ khi Trịnh Giang lên nắm ngôi chúa, thực chất hắn chỉ là người ươn hèn, xa xỉ dâm dật nên trong nước biến loạn. Những người trực ngôn lên tiếng khuyên can đều bị biếm chức. Giang dùng công quỹ xây dựng chùa chiền hành cung phủ đệ tráng lệ nguy nga, dân è cổ gánh sưu cao thuế nặng. Nông dân uất ức nổi dậy nhiều nơi làm t́nh h́nh càng thêm hỗn loạn. Đám hoàng tộc nhà Lê như Duy Mật, Duy Chúc âm mưu đốt kinh thành mong lật đổ họ Trịnh nhưng thất bại chạy vào chiếm vùng thượng du Thanh Hóa. Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh phải truất quyền Giang lên ngôi chúa. Doanh khá hơn Giang nhưng vẫn chưa ổn định nổi t́nh h́nh. Xét như thế th́ cái lực của Đàng trong vượt hẳn Đàng ngoài, dân ta giàu, nước ta mạnh, vùng đất ta làm chủ cũng hùng vĩ bề thế hơn. Ta nghĩ đă đến lúc nên cải đổi danh vị cho hợp với thời thế.”

Đám cận thần bàn bạc, vài ngày sau dâng biểu xin chúa định vương vị. Biểu văn ca tụng công đức chúa cao dầy xứng lên ngôi cao để thuận ư trời, hợp ḷng trăm họ khao khát.

Đầu hạ, chúa lên ngôi vương. Để tỏ rằng đây là bước khởi đầu của vận hội mới, chúa ban hành hàng loạt cải tổ, lập các bộ, thay đổi triều phục quan lại cũng như y phục dân chúng. Chính Dinh Phú Xuân đổi thành Đô Thành Phú Xuân. Để xứng danh đô thành, chúa truyền kiến trúc thêm cung điện đền đài. Nào điện Kim Hoa, gác Triêu Dương, đài Lương Xuân, đ́nh Giáng Hương... Đô thành dần trở thành chốn phồn hoa đô hội, phố chợ tiếp nối, đường phố đan nhau như bàn cờ. Trên sông Dinh thuyền bè qua lại như mắc cửi, trên bến dưới thuyền tấp nập. Giới quan lại được chúa ưu tiên cấp đất xây cất dinh thự ẩn giữa những vườn cây xanh tươi bao quanh bởi hàng rào dâm bụt tạo vẻ cổ kính trầm mặc, nét đặc sắc của Phú Xuân không nơi nào có. Các quan đua nhau làm đẹp nhà cửa, chạm khắc công phu mỹ thuật. Phú Xuân trở thành tâm điểm của giới quư tộc, tao nhân mặc khách khắp nơi tụ về đề thơ ngâm vịnh. Đám thi nhân mơ mộng không bằng ḷng với tên sông Dinh, đặt cho gịng sông tên mới. Hương Giang mỹ miều như thiếu nữ phới phới xuân t́nh ủ hương thơm hoa lá, mang chất thơ trầm lắng tô điểm đô thành. Khách đến núi Ngự vào buổi b́nh minh nắng vàng rực rỡ long lanh trên gịng sông lặng lờ uốn quanh, hoặc lúc hoàng hôn ảm đạm u tịch, cảm nhận thấm thía vẻ đẹp như thơ như họa của một góc trời Phú Xuân. Sông Hương Núi Ngự trở thành biểu tượng của chốn đế đô văn vật...

 

 

***

 

 

Đầu mùa đông, những cơn mưa thác lũ biến gịng Hương hiền ḥa thành biển sóng phù sa thịnh nộ. Những cơn mưa nhè nhẹ tiếp nối mờ đục đất trời, mưa lê thê gọi về những cơn gió lạnh tê tái. Mưa cầm chân chim muông trong tổ, cây cỏ ủ ê mà ḷng người cũng héo úa. Dù thời tiết khắc nghiệt cách mấy, hàng ngàn người vẫn lầm lũi đội mưa, chuyển gạch đá xây dựng cho xong vườn Hậu Uyển trước mùa xuân năm sau. Các viên quan đốc công luôn miệng ḥ hét, quay tít ngọn roi da thúc dục mọi người gắng sức. Những tiếng dô ḥ dô ta át tiếng mưa rơi, xua cơn gió buốt. Bao nhiêu kỳ hoa dị thảo từ nhiều nơi xa xăm được mang vào khu vườn, kể cả những cây lớn được bứng nguyên gốc cẩn thận, chăm bón kỹ sợ cây héo khô. Ai nấy thừa hiểu ư chúa là ư trời, không làm xong nhiệm vụ tất đầu ĺa khỏi cổ. Cho dù chúa mộ đạo, xưng là Từ Tế đạo nhân nhưng không có nghĩa độ lượng dung tha kẻ thừa hành sai sót. Đạo đức của kẻ cai trị khác xa với đạo đức thường t́nh thế nhân... Rất may tháng cuối năm bớt mưa, công việc xúc tiến nhanh hoàn thành Hậu Uyển trước tết chỉ độ dăm ngày. Mọi người mừng vui vừa trút gánh nặng. Chúa hả hê v́ khu vườn là món quà đầu xuân chúa tặng Trần phu nhân, người vợ được chúa sủng ái hơn tất cả mọi phu nhân khác trong hậu cung, kể cả Chính phu nhân.

Những ngày đầu xuân nắng ấm, cây cảnh được chăm bón, săn sóc bởi những bày tay khéo léo vươn ḿnh đón xuân. Chúa dẫn Trần phu nhân dạo quanh Hậu Uyển ngắm nghía những hồ nước trong xanh, nào cầu vồng nào thủy tạ khắc h́nh chim muông, tứ linh, nét khắc tinh xảo của những tay điêu khắc lừng danh từ Ngũ Hành Sơn xứ Quảng được triệu về tô điểm. Phu nhân trầm trồ ngợi khen. Chúa vui, ḷng như mở hội. Phu nhân dừng lại nh́n ngọn núi đứng giữa hồ nước xanh tượng trưng bể khơi, trên núi tạc h́nh thiếu nữ trông như tiên nga cầm cành đào, bên cạnh là văn nhân áo xanh nho nhă. Chúa nói:“Đó là tượng h́nh núi Thần Phù ở xứ Thanh, trên núi có động Bích Đào. Phong cảnh nên thơ hữu t́nh là nơi thần tiên thường ghé đến. Đời nhà Trần có người Từ Thức gặp tiên Giáng Hương cũng ở nơi này. Những h́nh tạc kia là chỉ tích ấy.”

Chỉ ḥn non bộ kỳ vĩ núi non trùng điệp gần bên, chúa nói:“Khanh biết ḥn non bộ tượng h́nh ǵ không? Rặng núi dài như chuỗi ngọc gồm mười hai ngọn nối liền là núi Trinh Tường ở phía tây bắc đất tổ. Làng Gia Miêu huyện Tống Sơn trấn Thanh Hóa. Đây là nơi an táng chúa tổ và phu nhân (Nguyễn Kim, thân phụ Tiên Chúa Nguyễn Hoàng). Ngôi mộ táng đúng hàm rồng, tương truyền cứ năm trăm năm mới mở một lần. Trời dành sẵn cho gịng họ Nguyễn báu huyệt. Khi vừa táng xong bỗng cửa huyệt khép kín. Rồi mưa to gió lớn, sấm giăng chớp giật xé trời. Mọi người kinh hăi chạy toán loạn. Lát sau trời quang mây tĩnh, mọi người tụ lại chỉ thấy núi đá liên tiếp, cây cối xanh um không c̣n nhận ra huyệt mộ nên về sau lễ vọng, con cháu chỉ hướng vào núi vái lạy mà thôi. Ta nay ở xứ này nhưng cũng có ngày quyết dành lại đất tổ”.

Trời ngả nắng, chúa và phu nhân ngồi trong thủy tạ. Bọn nội quan bày sẵn bàn tiệc gồm đủ sơn hào hải vị. Viên quan rót mỹ tửu rót trong chén ngọc dâng chúa thưởng thức. Phu nhân nể ḷng chúa chỉ uống nửa chung mỹ tửu mà đôi má đă nhuộm hồng mười phần xinh tươi duyên dáng... Chúa say đắm nh́n phu nhân, bỗng nhớ chuyện mười năm trước khi chưa kế nghiệp tiên vương, công tử Nguyễn Phúc Khoát một lần ghé ngang huyện Phong Lộc thăm dân t́nh. Có người giỏi nghề tướng số, danh nổi khắp vùng, chuyên coi nhân h́nh mà đoán hậu vận chẳng sai đến gặp công tử. Nhân nói đến nữ tướng, người thầy tướng không ngớt khen quan Khám Lư họ Trần người Phong Lộc có con gái tuổi mới đôi mươi xứng trang quốc sắc, tướng quư đáng bậc mẫu nghi thiên hạ. Thầy tướng tả:“... nàng có nước da trắng long lanh ánh trăng, mái tóc như mây, mày cong lá liễu phủ đôi mắt nhung trong như trời xanh buổi sớm. Má hồng môi thắm, miệng xinh, tươi như hoa hé nụ...” Công tử mới nghe tả sơ mà tâm can mê mẩn. Trở về Chính Dinh, công tử xin phụ vương được phép cùng nàng trăm năm kết tóc. Được phụ vương ưng thuận, công tử khẩn báo tin cho họ Trần định ngày đến nộp sính lễ. Buổi đầu tiên đến xem mắt mỹ nhân, công tử choáng váng ngây dại trước nhan sắc quá ư diễm lệ, ngàn vàng khó đổi. Công tử mừng vui, thầm cám ơn trời tặng báu vật. Ngay tháng sau, đám cưới vương giả được cử hành.

Trần phu nhân về làm dâu nhà chúa vẫn sống giản dị đạm bạc, khéo xếp việc nhà lại giỏi chiều chồng nên được công tử hết mực thương yêu. Khi công tử Khoát lên ngôi chúa, cái t́nh của chúa với phu nhân vẫn nồng thắm như thuở ban đầu... Chúa âu yếm mời phu nhân cùng uống chung rượu quư. Đêm khuya trăng tàn, chúa vui uống tràn quá chén. Đích thân phu nhân d́u chúa vào hậu cung. Hôm sau khi chúa vừa thức giấc, phu nhân tự tay pha mời chúa thưởng trà. Thấy dáng phu nhân mỏi mệt, chúa truyền nội giám thỉnh ngay ngự y Phúc Lư vào nội cung chẩn bệnh cho vợ.

Ngự y Phúc Lư người Tây Dương (tên thật Koeffler), là giáo sĩ đạo Gia Tô nhưng được chúa trân trọng do tính nhân ái, lại giỏi về y học, thiên văn, nói rành tiếng Việt. Phu nhân hay ốm vặt, không hợp với thuốc của các quan ngự y trong triều mà chỉ chịu thuốc của giáo sĩ Phúc Lư. Chúa chiều ư vợ mời giáo sĩ làm ngự y, Phúc Lư vui vẻ nhận lời. Thâm tâm giáo sĩ muốn lấy ḷng chúa hầu dễ dàng truyền đạo Gia Tô ở Phú Xuân và nhiều nơi khác. Chúa thường nói với quần thần, khen người Tây Dương giỏi kỹ thuật chế tàu chiến, súng đạn, đoán trước gió mưa băo tố... nên cần gần họ để học cái hay. Quần thần nhiều kẻ bất đồng nhưng lặng thinh. Họ chê người Tây Dương kiêu ngạo hợm hĩnh không hợp lễ giáo người Việt. Phu nhân quư mến giáo sĩ, chỉ có ông là người duy nhất được phép vào hậu cung do phép tắc nhà chúa đặt rất nghiêm khắc. Phu nhân thán phục sự hy sinh và tấm ḷng cao cả của các giáo sĩ, chấp nhận đời sống tu hành không vợ con, lại bỏ nước tha hương bất chấp hiểm nguy, chuyên tâm rao giảng tin mừng, kêu gọi con người thờ phụng, sống theo lời chúa. Giáo sĩ khôn ngoan khéo chiều ư chúa lẫn phu nhân, những mong hồng ân Thiên Chúa soi sáng, mở ḷng cho họ nhận biết nước chúa. Có lần giáo sĩ gợi ư xa vời, phu nhân tinh ư hiểu ra, nói:

-Đạo của ngài dạy con người làm lành tránh dữ khác chi đạo Phật ta tôn thờ. Nhưng luật đạo quá nghiêm chỉ cho phép đàn ông một vợ, lại không chịu cho bổn đạo thờ cúng tổ tiên nên trái với nghi lễ tập tục nước ta. Chúa thượng quen có nhiều vợ nhưng vẫn bao dung cho phép các ngài tự do truyền đạo chẳng là ưu đăi lắm sao? Ngài hẳn nhớ các tiên chúa đă từng nghiêm khắc cấm đạo, ngay cả vua Tàu cũng chẳng dung đạo ngài.

Giáo sĩ ôn tồn:

-Đa tạ chúa thượng và phu nhân rộng lượng. Chúng tôi nào dám bội bạc, hằng ngày vẫn cầu ân trên che chở chúa thượng và phu nhân, cầu cho dân ngài sống thịnh vượng ấm no hạnh phúc. Với chúng tôi chỉ có nước chúa là vĩnh cửu, chúng tôi yêu thương mọi người như ḿnh để mai sau được về hưởng phúc trên nước chúa. Được lăi cả thế gian mà mất thiên đàng nào có ích chi?

-Nước thiên đàng của ngài ở đâu. Có ai trên đời thấy được nước ấy?

-Những ai có đức tin sẽ tin lời chúa. Chúa chúng tôi dậy:Phúc cho những ai không thấy mà tin.

Giáo sĩ biết khó thuyết phục nhà chúa cũng như giới quư tộc quen hưởng thụ, thích có nhiều thê thiếp nên có câu “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”. Ông chỉ mong duy tŕ măi t́nh trạng giao hảo tốt đẹp giữa người Việt và người da trắng. Nhưng mọi sự không tốt đẹp măi như ông hằng cầu mong, công cuộc truyền giáo đang tốt đẹp bỗng đất bằng nổi sóng, nguyên do lại quá giản dị do sự vụng về tham lam, thiển cận và kiêu ngạo của viên chức đại diện triều đ́nh Pháp tên là Lă Pha (Le Poivre).

Lă Pha từng du lịch qua nhiều xứ Viễn Đông. Đến Đàng trong, Lă Pha nhận xét cảng Hội An là nơi buôn bán phồn thịnh, rất đông người Tàu, người Nhật lập thương điếm nhưng sự giao thương giữa người Việt và người da trắng c̣n nhiều hạn chế. Triều đ́nh Pháp cử Lă Pha đến Đàng trong, tŕnh bày với chúa Nguyễn việc mở thương quán, ư muốn dành độc quyền mua nguồn hương liệu quư như quế, tiêu, trầm hương... đang do người Ḥa Lan nắm giữ. Lă Pha đến cửa Hàn rồi ra Phú Xuân xin yết kiến chúa, tặng chúa nhiều phẩm vật, tŕnh chúa nhiều mặt hàng khác như đồ gốm, giấy, các loại nỉ nhung quư... như một cách rao bán. Số hàng bán nhiều mà tiền thu ít. Lă Pha tức giận phải chờ đợi ṛng mấy tháng, lúc chán nản muốn trở về Pháp lại không mua được các mặt hàng tốt theo ư muốn. Lă Pha than phiền với nhân viên trong đoàn, cho Đàng trong là nước được cai trị bởi tập đoàn xấu xa, tham lam và ngu dốt. Vậy muốn dành độc quyền buôn bán với nước ấy phải có sức mạnh, phải cần bạo lực...

Những lời nói của Lă Pha cuối cùng đến tai chúa. Chúa tin là thật v́ đă xẩy ra nhiều trường hợp người Tây Dương xích mích, nhục mạ người Việt. Đám cận thần không ưa người Tây Dương làm biểu văn tâu chúa đ̣i tuyệt giao với người da trắng. Thỉnh cầu chúa triệt đạo Gia Tô, đạo này xét cho cùng là tà đạo nhằm lừa bịp những người dân ngu, nhẹ dạ cả tin. Cái mối nguy lớn nhất là các giáo sĩ lợi dụng truyền đạo nhưng mục đích chính là mở đường cho người Tây Dương xâm lược.... Sau vài ngày suy nghĩ, chúa truyền cấm đạo, trục xuất hết các giáo sĩ trừ Phúc Lư được xem như ngự y. Kế hoạch được thi hành triệt để bí mật.

Giáo sĩ Phúc Lư cư ngụ trong căn nhà nhỏ trong khuôn viên nhà thờ Phường Đúc. Công việc thường lệ của ông là hành lễ mỗi sáng sớm vào khoảng đầu giờ dần. Cả ngày ông chuyên chú nghiên cứu y dược và học thêm tiếng Việt để dậy giáo lư cho tân ṭng. Buổi sáng hôm ấy ông dậy sớm nhưng chờ măi không thấy người bơ già kéo chuông lễ. Ông khoác áo định sang nhà thờ xem động tĩnh. Vừa vào khu nhà thờ, ông nh́n thấy con đường dẫn đến nhà thờ đầy quân sĩ gươm giáo tuốt trần đứng án ngữ. Vừa thấy ông, viên quan chỉ huy đến cúi chào, ra lệnh ông trở về nhà. Ông hỏi tại sao, viên quan lạnh lùng đáp y chỉ biết thi hành theo lệnh thượng cấp. Biết có biến, giáo sĩ đành trở về chờ xem sự thể. Luôn một tuần lễ, ông bị giam lỏng trong nhà. Đôi lần gặp viên quan, ông xin được vào yết kiến chúa thượng nhưng luôn bị từ chối. Khu nhà thờ vắng lặng thiếu bóng giáo dân, ḷng ông rối như tơ, chỉ biết cầu nguyện. Ông đoán nhà chúa đă đổi thái độ với đạo Gia Tô nhưng không rơ số phận các giáo sĩ cũng như giáo dân. Với ông, họ vẫn đối xử tốt, cứ vài ngày viên quan cho quân mang thực phẩm đến cho ông tự nấu nướng lấy. Hai tháng sau, buổi sáng cuối xuân năm Canh Ngọ 1750, giáo sĩ đang thơ thẩn ngoài vườn bỗng thấy viên quan mời ông vào gặp chúa thượng. Ông mừng rỡ thay vội quần áo lên ngựa theo viên quan vào cung. Thấy chúa đứng ngay cửa hậu cung, ông cung kính vái chào. Chúa nói:“V́ quyền lợi của đất nước, ta không thể để các giáo sĩ tiếp tục truyền đạo”. Chúa cho biết các giáo sĩ đều đă bị đưa ra khỏi nước, giáo dân không bị trừng phạt nhưng bị buộc bỏ đạo. Giáo sĩ nói:

-Thưa chúa thượng, đă mấy tháng tôi bị quản thúc tại nhà, chẳng được hành lễ do giáo dân bị cấm, ḷng vẫn tự hỏi đạo chúng tôi nào có chi sai trái?

Chúa nói:

-Đạo của ông ngược với phong tục tập quán nước ta. Lễ giáo dạy con người uống nước nhớ nguồn, phải thờ cúng tổ tiên th́ đạo ông ngăn cấm. Các ông nói truyền đạo nhưng thực sự đến dọ thám mở lối xâm lược. Nước Xiêm La đă từng là nạn nhân của người Tây Dương, ông há chẳng thấy.

Giáo sĩ thừa hiểu với chúa không bao giờ nên tranh luận mà chỉ phục tùng, hỏi:

-Chúa đuổi hết giáo sĩ, sao lại dung tôi?

-V́ ta coi ông là ngự y của phu nhân, ta chỉ muốn ông làm việc ấy. Ông thuận chăng?

-Tôi lấy đức bác ái làm đầu, yêu thương con người như yêu chính ḿnh. Tôi cảm tạ chúa thượng và phu nhân ưu ái. Thưa chúa thượng, sức khỏe phu nhân có khả quan?

-Bởi lẽ ấy nên ta triệu ông. Phu nhân không khỏe, thường ốm vặt, biếng ăn mất ngủ.

Chúa nói xong bỏ vào trong, viên nội quan bước ra mời giáo sĩ qua pḥng bên. Giáo sĩ bước vào đă thấy phu nhân ngồi chờ sẵn. Bà ra dấu mời ông ngồi:

-Ngài vẫn mạnh?

Giáo sĩ từ tốn:

-Cảm tạ phu nhân, tôi vẫn khỏe nhưng ḷng chẳng vui.

-Ta biết mọi chuyện nhưng không ai dám can chúa thượng. Mong rằng sự khó chóng qua.

-Tôi cũng nghĩ thế. Bấy nay phu nhân thấy trong người ra sao?

-Ta thấy người thường hâm hấp nóng vào mỗi chiều, biếng ăn khó ngủ. Nhiều đêm trằn trọc đến canh tư mới thiu thiu. Tháng trước chúa thượng cho ngự y đến chẩn bệnh, y nói do chân hỏa vượng cho uống giải nhiệt nhưng thuốc men hàng tháng chẳng bớt.

Giáo sĩ nh́n sắc diện phu nhân, nước da xanh tái, mắt sâu mỏi mệt, môi thâm khô chứng tỏ bệnh nhuốm đă lâu. Phu nhân nói:“Xưa chị ta cũng bệnh như ta, chỉ vài tháng là mất”. Giáo sĩ nh́n phu nhân, nét buồn vương vấn trong đôi mắt sâu thẳm. Ông bỗng dưng ái ngại, đoán phu nhân mang bệnh nội thương trầm trọng, căn bệnh do di truyền có thể đă vượt khả năng của ông. Ông bắt mạch, cho phu nhân uống liều thuốc hạ nhiệt, khuyên bà nên tĩnh dưỡng, tránh buồn phiền lo lắng... Từ đấy, hàng tuần giáo sĩ lại vào thăm bệnh phu nhân. Càng thăm bệnh càng thất vọng, phu nhân cứ yếu dần như cây khô nhựa sống. Giáo sĩ muốn tỏ thật cho chúa và phu nhân biết ḿnh đă hết khả năng nhưng ngại ngần chưa biết thưa thốt thế nào... Phu nhân nh́n ánh mắt người thầy thuốc, lại thấy sức khỏe cứ tàn lụi dần, cử động mệt mỏi khó khăn, thuốc uống vào như nước lă. Bà linh cảm số phận ḿnh đă an bài, kiếp người có sinh có tử, nên b́nh tĩnh chấp nhận là hơn.

Tháng bảy năm ấy mưa nhiều, mưa sụt sùi khóc vợ chồng Ngâu xum họp rồi ĺa xa. Mưa lê thê ngày nọ ngày kia mù trời ảm đạm. Một chiều mưa, phu nhân đang nằm vùi bỗng trở dậy, truyền cung nữ đem phấn son trang điểm, lại thay quần áo mới bằng lụa hồng, mầu hồng chúa vẫn yêu. Đám cung nữ phục dịch tưởng phu nhân đă khỏe. Lát sau chúa đến, thấy phu nhân trang điểm xinh đẹp, chúa tươi cười mừng vui, nghĩ phu nhân dần hồi phục. Mấy tháng phu nhân ốm đau, hàng ngày chúa vẫn đến ân cần tṛ chuyện săn sóc. Chúa ngồi bên vợ hồi lâu, phu nhân cảm động rưng lệ như muốn nói mà thốt chẳng nên lời. Trời chiều âm u, chúa rời phu nhân đến thư pḥng bàn việc triều chính khẩn. Ánh mắt phu nhân như van nài chúa lưu lại... Trời tối sẫm, đám cận thần ra về chỉ c̣n ḿnh chúa ngồi lại thư pḥng. Bỗng viên thái giám tất tả chạy vào báo tin phu nhân mệnh vong. Chúa thấy trời đất quay cuồng,hét lên một tiếng ngă nhào bất tỉnh...

Tin phu nhân mất loan truyền nhanh, vương tộc Nguyễn tụ tập cả ở hậu cung. Đám ngự y đă cứu chúa lai tỉnh, dâng chúa uống xong tách trà sâm. Chúa uống xong thẩn thờ bước sang pḥng phu nhân, chẳng thèm nh́n đám gia tộc đang tụ tập trong hành lang bàn tán chuyện tṛ. Chúa vừa bước vào pḥng, hai công tử đang đứng bên giường mẹ thấy cha bỗng khóc rống. Phu nhân nằm như yên ngủ, hai tay để trên ngực. Chúa nghẹn ngào... Phu nhân ra đi lặng lẽ không lời trăn trối. Đám cung nữ kể tối ấy, sau khi chúa rời pḥng, phu nhân buông màn nằm nghỉ. Lát sau cung nữ vào mời phu nhân dùng cơm mới hay bà đă ra đi.

Đêm ấy chúa không ngủ, lặng ngồi bên xác vợ. Đám thái giám cung nữ đứng chầu chực bên ngoài. Tất cả lặng yên, nghiêm trọng sợ làm chúa kinh động. Không ai ngu dám đùa với mạng sống. Chúa không ngủ nên không ai dám đi ngủ. Đêm tĩnh lặng nặng nề, tiếng muỗi vo ve... Khoảng nửa đêm, chúa truyền viên thái giám mang đến bầu rượu...

Sáng hôm sau, trời mờ sáng. Quần thần tụ tập ở chính điện chờ chúa thiết triều. Cả đô thành Phú Xuân biết tin Trần phu nhân, người vợ được chúa sủng ái nhất vừa từ trần đêm trước. Đám quan lại lác đác có kẻ đeo khăn tang, túm năm tụm ba bàn tán. Đám vơ tướng tỏ ra ngờ vực giáo sĩ Phúc Lư, cho người da trắng tráo trở khó tin không nên giao thiệp gần gũi, có khi mang họa vào thân. Trời hừng sáng, quần thần ổn định vị trí. Chúa từ nội điện bước ra, vẻ mệt mỏi ủ dột ngồi tựa trên ngai. Quan Lễ Bộ tâu chúa việc lo tang lễ. Chúa nói chưa vội, truyền khẩn cấp cử người vào Phố Hội triệu danh y người Tàu giỏi thuật ướp thi hài về đô thành. Chúa gọi quan Chưởng Dinh, đanh thép:“Ngươi đến bắt ngay Phúc Lư , đưa hắn đến Cửa Hàn, lệnh xuống tàu rời khỏi nước, việc khẩn chớ chần chờ”. Nói xong truyền băi triều.

Trong nội cung, đám thái giám cung nữ luẩn quẩn quanh pḥng phu nhân không dám rời bước. Giờ ăn cũng chia toán, thay phiên nhau ăn xong lại tụ về, lầm lũi lặng yên, giờ ngủ cũng vậy. Tất cả đều sợ vắng mặt lúc chúa cần sai việc có thể lĩnh đủ tai họa. Hôm sau, hàng trăm thợ khéo ở đô thành được gọi vào làm gấp căn pḥng lớn ngay trong Hậu Uyển. Căn nhà mái ngói, kèo cột cửa chính phụ chạm khắc cầu kỳ. Bàn thờ hương án đầy đủ. Đám thợ khác thực hiện quan tài nắp đậy bằng tấm kính lớn. Ai nấy đều hiểu chúa dành căn nhà làm chỗ đặt thi hài phu nhân. Việc giữ thi hài dài lâu do danh y người Tàu thực hiện hơn nửa tháng mới xong. Từ đấy, đám cung nữ, thái giám ngày ngày thay phiên lo hương khói cúng quả. Ngày vọng ngày sóc lại có các vị sư đến tụng kinh siêu độ. Đôi ngày chúa lại đến ngồi bên quan tài, u buồn nh́n thi hài người vợ yêu qua tấm kính... Vua chúa yêu thương buồn vui cũng khác người thường.

Thu qua đông tàn... Một năm trôi qua. Người dân đô thành trước thường bàn tán chuyện vị chúa đa t́nh, chuyện đêm đêm bóng ma thiếu phụ áo trắng mờ mờ sương khói thơ thẩn trong Hậu Uyển... nay dường như cũng lăng quên dần. Riêng đám thái giám cung nữ vẫn khổ cực v́ cái xác chết nhưng ngậm tăm, hàng ngày quẩn quanh lo hương khói với bộ mặt cố t́nh tạo vẻ rầu rĩ thảm sầu. Uy quyền tuyệt đối của vua chúa làm mất sức đề kháng của bề tôi đă quen nhẫn nhục cam chịu.

Cuối tháng bảy chúa gặp gỡ quần thần, truyền Chưởng Dinh tuyển hàng trăm thợ nề giỏi ở đô thành chuẩn bị xây lăng mộ. Địa điểm được chọn là vuông đất bằng trên ngọn đồi thấp thuộc xă Dương Xuân. Họa đồ ngôi mộ thiết kế khá lớn gồm hai ṿng thành có cổng vào, giữa là nấm mộ. Cách ṿng ngoài vài trượng có nhà bia. Lại truyền các quan trong viện Hàn Lâm họp nhausoạn thuật lại ngôn hạnh phu nhân lúc b́nh sinh để khắc vào bia đá. Bài văn bia gần chín trăm chữ, mở đầu bằng câu: Việt cố quư tần tặng Chiêu Nghi Từ Mẫn Trần liệt phu nhân chi mộ (Mộ bà Trần phu nhân là quư tần cũ nước Việt tặng Chiêu Nghi thụy Từ Mẫn). Văn bia nay vẫn c̣n, lời văn bi thiết, người đời đọc phải ngậm ngùi thương cảm...” Hỡi ơi, trăng thu sáng bị mây che phủ, chồi xuân lan vừa hé vội tàn. Trời thẳm xanh có thấu, mỹ nhân châu ch́m ngọc nát, quế héo hoa rơi đi chẳng trở về!...”

Dân đô thành lại bắt đầu đồn đại, rằng thi thể phu nhân biến dạng buộc chúa phải chôn, rằng có thày địa lư tài giỏi chỉ cho chúa phúc địa... Vui mừng nhất vẫn là đám người phục dịch trong hậu cung. Đúng ngày đầu tháng mười một năm ấy, năm Tân Mùi 1751, lễ an táng Trần phu nhân long trọng cử hành. Quan Chưởng Dinh muốn lấy ḷng chúa, ngầm sai thủ hạ bảo dân buộc khăn tang ngoài ngơ, trên hàng cây hai bên đường dẫn đến mộ huyệt. Đô thành Phú Xuân trắng màu tang...

Từ ngày an táng phu nhân, Phụ Chính đại thần Trương Phúc Loan như thấu hiểu nỗi đau luôn ra sức nghĩ suy làm đẹp ḷng chúa. Loan cho thủ hạ đi khắp nơi tuyển những đào hát danh tiếng hàng đêm ca hát diễn tuồng tích cho chúa khuây nỗi buồn. Loan thường nói với quần thần:“Chúa thượng tin yêu giao ta trọng trách, phải cố làm sao để người vui tươi, bảo vệ ḿnh vàng giữ yên xă tắc, cai quản trăm họ”. Có người biết câu nói của Loan chỉ cốt lấy ḷng chúa, kín đáo cười mỉm lặng thinh. Ngay cả dân đô thành, ngoài các dinh ai cũng biết giây liên lạc mật thiết gịng tộc giữa quan Phụ Chính với nhà chúa. Phúc Loan là em ruột Trương nguyên phi, thân mẫu của chúa, nên quan hệ với chúa là cậu ruột. Gịng họ Trương nhiều đời có những bề tôi lương đống, rường cột bảo vệ cơi bờ Đàng trong nên được các chúa phong thưởng hậu hĩ. Đến đời Phúc Loan, dù chỉ là kẻ tầm thường văn vơ chẳng hơn người vẫn được trọng dụng phong chức tước lớn chỉ v́ có người chị ruột được tiến cung. Loan bản chất tham lam vô độ chỉ biết có tiền, bất cần liêm sỉ. Lợi dụng quyền phụ chính, Loan thường sai đám thủ hạ sách nhiễu đám thương nhân buộc phải hối lộ, biếu xén quà cáp... Ước muốn duy nhất của Loan là làm sao tóm thu các mối lợi kinh doanh nhưng c̣n e dè phép nước. Nhiều năm gần gũi, Phúc Loan biết tính chúa kỹ lưỡng bạc tiền, thường xuyên kiểm tra việc thu chi thuế má. Chúa sợ công quỹ thất thoát nên cương quyết bài trừ tham quan ô lại. Chúa thường dặn các quan:“Thuộc lại gian tham sách nhiễu gây cho dân thống khổ, phải xét trị thanh trừng nghiêm khắc”.

Một hôm Loan gặp Thái Giám Chữ Đức, tay chân của Loan, cũng là người thân tín thường xuyên gần gũi hầu hạ chúa từ ngày chúa lên ngôi báu. Loan hỏi:

-Bấy lâu ta mang nhiều đào hát về, hàng đêm ca múa, bọn ca kỷ có làm chúa thượng vui?

Chữ Đức cung kính:

-Bẩm tướng công, chúa thượng chỉ vui phần nào. Ngài chê đào hát nhiều đứa lớn tuổi, lại có chồng con nên dù hát hay múa dẻo nhưng kém bề hấp dẫn. Vẻ đẹp chỉ nhờ son phấn giả tạo. Nhiều đêm hạ quan t́m cách nói xa gần, ư chúa thượng vừa mắt ai, hạ quan sẵn sàng bảo nó hầu hạ nhưng chúa thượng vẫn lơ là. Có đêm ngài ngự ở cung nguyên phi, có đêm uống rượu say ngự ngay trong hậu cung.

Phúc Loan trầm ngâm suy tính:

-Ta biết chúa thượng đắm sắc vẫn nhớ Trần phu nhân. Dĩ độc trị độc, làm sao ta t́m được trang giai nhân tuyệt sắc tiến cung, nhất định chúa sẽ vui vẻ quên sầu. Lúc đó ngươi càng được chúa yêu v́, công danh ta có cơ thăng tiến. Ngươi nên nhớ chức phận càng cao, bổng lộc càng nhiều. Ngươi biết chốn đô thành có ai xứng danh ngọc nữ?

-Hạ quan suốt ngày du dú trong cung, thân thể khiếm khuyết chẳng vướng nợ đời nên màng chi nữ sắc. Nói vậy nhưng tướng công yên tâm, hạ quan sẽ nghĩ cách.

Ngay hôm sau, Chữ Đức sai đám thủ hạ đi khắp hang cùng ngơ hẻm đô thành, la cà chốn trà đ́nh tửu điếm dọ hỏi nhà nào có con gái đẹp. Phần Phúc Loan cũng sai thân tín đi các phủ tuyển đào hát mới. Loan nói:“Chúng bay chẳng cần chi hát hay múa dẻo, hát không hay luyện măi cũng thành hay. Múa vụng luyện măi cũng thành dẻo. Chỉ cần gái chưa chồng, nhan sắc, thân thể đẫy đà mông nở vú to”. Chỉ non nửa tuần trăng, Phụ Chính Trương Phúc Loan đă tuyển được vài chục cô gái nhan sắc lập đội nữ nhạc. Những cô gái trẻ xinh đẹp từ thành đến quê mang thân cá chậu chim lồng, ngơ ngác giữa chốn cung vàng điện ngọc. Hàng ngày các cô phải thức dậy từ sáng sớm, ra sức tập luyện lời ca tiếng nhạc cùng là múa may, măi đến tàn nắng mới được nghỉ ngơi ăn uống, bồi dưỡng sức lực để hôm sau tiếp tục như thế... Phúc Loan vẫn lo lắng v́ vẫn chưa t́m được trang giai nhân mơ ước, luôn thúc dục Chữ Đức ra công kiếm t́m, kèm những lời hăm dọa nếu việc không thành. Chữ Đức mặt như chàm đổ, sợ toát mồ hôi v́ biết quan Phụ Chính chẳng bao giờ đùa dỡn. Chữ Đức ăn chay nằm đất, ngày ngày dâng hương niệm phật độ tŕ cho việc chóng thành. Vài ngày sau, được thủ hạ báo tin t́m được giai nhân, Chữ Đức mừng hơn bắt được vàng, tức tốc lên ngựa đến phủ Phụ Chính. Đức bẩm:

-Bẩm tướng công, hạ quan đă t́m ra ngay chốn đô thành có giai nhân xứng trang quốc sắc, trầm ngư lạc nhạn, nguyệt thẹn hoa nhường... nhưng, nhưng có trở ngại.

Phúc Loan quắc mắt:

-Sao lại trở ngại, mà trở ngại chi? Ngươi không biết ư chúa thượng là ư trời, ngài thừa mệnh trời trị trăm họ.

-Bẩm tướng công, hạ quan nói có trở ngại bởi trang giai nhân, nàng là tiểu thư Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con gái út của Điền Quốc Công. Chúa thượng với nàng là anh em đồng đường.

Phúc Loan chợt nhớ Quốc Công Nguyễn Phúc Điền là chú ruột của chúa, Điền đă qua đời, để lại dinh cơ đồ sộ gần chợ Dinh. Biết vậy nhưng Loan vẫn ra uy quát mắng:“Ta chỉ muốn đưa nàng vào cung múa hát giải khuây cho chúa, cớ chi ngươi rắc rối nhắc chuyện đồng đường đồng sá?” Nói xong cho Chữ Đức về cung, hẹn sáng sớm đến phủ nhận lệnh.

Đêm ấy Phúc Loan trằn trọc nghĩ suy, chúa háo sắc nhưng với cô em chung họ máu? Phúc Loan biết tính chúa cương quyết, đă muốn là phải được. C̣ợn ḿnh không bao giờ bỏ qua mộng triệu phú, đời phải lắm của nhiều tiền, có tiền mua được cả tiên, phải được chúa tín cẩn th́ mộng lớn mới thành. Phúc Loan quyết định đưa Ngọc Cầu vào cung, nhưng trước hết phải gặp mặt xem nàng có thật sự tuyệt sắc.

Sáng sớm Chữ Đức đến phủ, Phúc Loan hỏi:

-Ta tạm tin là Ngọc Cầu nhan sắc. Nàng hiện ở với ai?

-Bẩm tướng công, hiện nàng ở cùng hai người anh là Phúc Viên và Phúc Nghiễm. Cả hai làm việc ở các bộ, nghe đâu đều không khá giả bởi Viên mê bài bạc, c̣n Nghiễm mê gái và rượu.

-Ngay hôm nay ngươi đưa nàng đến gặp ta, nhớ mang kiệu son và binh hộ tống.

Chữ Đức ngần ngừ:

-Hạ quan nghĩ nàng thuộc vương tộc, ta phải tỏ ra lễ nghĩa. Làm sao thuyết phục hai anh nàng thuận ư, nàng mới được phép rời nhà.

-Ngươi không biết làm cách nào được việc sao?

-Hạ quan nhận lệnh tướng công chẳng dám lơ là, lại nghĩ việc muốn thành phải có tướng công trợ giúp. Ư hạ quan muốn bẩm tướng công hứa hẹn sẽ thăng cấp chức, ban bổng lộc. Cụ thể ban thưởng ngay món tiền hậu, chắc chắn họ mừng vui v́ hiện sống chẳng khá giả.

Phúc Loan bĩu môi:

-Tiền, tiền ư. Đồng tiền liền khúc ruột, cứ động tí lại là tiền. Của giả ta bao lăm, cứ chi ra mà nguồn thu không có c̣n đâu vốn liếng?

Chữ Đức phân bua:

-Tướng công muốn mưu đại sự sá chi chuyện nhỏ. Cho họ tí tiền khác nào chơi nước cờ thí tốt hăm xa.

Phúc Loan cả cười khen Chữ Đức mưu trí, bước vào hiên sau bàn chuyện với phu nhân. Nói măi phu nhân mới chịu mở rương trao Chữ Đức hai trăm quan tiền và chục nén vàng...

Chữ Đức hăm hở ra đi. Ngay buổi xế tiểu thư Ngọc Cầu đă có mặt tại phủ Phụ Chính. Phúc Loan mừng rỡ trước vẻ đẹp lộng lẫy khiêu gợi của cô gái, nghĩ gỗ đá thấy nàng cũng động t́nh. Trương phu nhân vừa gặp, đon đả nắm tay Ngọc Cầu dắt vào nhà trong. Phu nhân ngọt ngào:

-Ta nghe danh con sắc nước hương trời, nên xin các công tử cho phép con tạm ở với ta, học thêm ca múa có dịp vào cung giúp vui chúa thượng. Con đă đẹp, lại múa hay hát giỏi tất ngài rộng lượng ban bổng lộc, thiếu chi châu báu ngọc ngà.

Ngọc Cầu bấy lâu côi cút, nghe phu nhân ân cần nhỏ nhẹ, lại nhắc ngọc ngà châu báu nên vui mừng an tâm. Bao năm sống với ngươi anh mê cờ bạc túng thiếu, Ngọc Cầu tuy mang tiếng vương tộc nhưng sống thiếu thốn mọi bề, ăn mặc đơn sơ như thứ dân, chỉ mong ṿng xuyến đeo tay cũng chẳng có, nhiều lúc tủi phận khóc thầm. Được rời khỏi người anh khác chi rời nơi tù hăm tối tăm. Đối với chúa, tuy mang tiếng anh em nhưng thật sự xa cách. Ngọc Cầu chỉ gặp anh đôi lần trong dịp tết, hồi chúa c̣n là công tử nên t́nh nghĩa chẳng mấy đậm đà, thậm chí anh em gặp gỡ chẳng nhớ mặt nhau. Sống túng thiếu đành cam, đâu dám nghĩ tới chuyện nhờ vả người anh ở ngôi cao tuyệt đỉnh.

Ngọc Cầu thông minh, thích múa hát nên chuyên cần luyện tập. Chưa hết tuần trăng đă nằm ḷng nhiều câu ca điệu vũ, tấn thối uyển chuyển nhịp nhàng thanh quư như tiên nữ múa khúc Nghê Thường. Phúc Loan cả mừng, phu nhân cũng vui không kém, chịu bỏ tiền mua tặng Ngọc Cầu thêm nữ trang, Cầu cảm động mến thương coi phu nhân như hiền mẫu. Phu nhân nói với chồng:“Ông để ư Ngọc Cầu nhiều nét hao hao giống bà Chiêu Nghi (tức Trần phu nhân) nhưng khiêu gợi sắc sảo hơn nhiều”. Phúc Loan gật gù khen vợ tinh mắt, nhắc câu thuận vợ chồng tát cạn biển đông. Phu nhân nhắn nhủ Ngọc Cầu:“Con vào cung nhớ hầu hạ chúa thượng chu đáo, được chúa đoái tưởng khác chi phận cá hóa rồng”. Ngọc Cầu vâng dạ, thật sự chẳng hiểu nổi ư phu nhân và quan Phụ Chính. Kế hoạch đưa Ngọc Cầu vào cung được tính toán kỹ càng từng bước, trách chi vị chúa phương nam háo sắc sa ngă lưới t́nh để Phúc Loan thao túng triều đ́nh, đẩy cơ nghiệp họ Nguyễn từ đỉnh cao xuống vực thẳm suy vong...

 

 

***

 

 

Phúc Loan hỏi Chữ Đức:

-Từ ngày viên ngự y người Tàu tự xứ Quảng vào hầu, chúa thượng an vui phiền năo ra sao?

-Bẩm tướng công, lúc mới vào cung ngự y khoe hạ quan, rằng phương thuốc của y danh gia bí truyền, từng được các vua Tàu khen ngợi, chỉ cần đôi liều là cây gậy ngọc cứ như thiết côn, dũng mănh xông pha trận mạc bất kể đêm ngày. Hạ quan tưởng y đại ngôn, sau mới thấy xuân dược của y hiệu nghiệm lạ lùng. Chúa thượng trước ủ rũ nay như c̣ diệc gặp mưa, nay hàng đêm gần gũi dăm bà, tung hoành “hoa dinh cẩm trận” chẳng hề mỏi mệt. Ngài vui vẻ gần như thuở c̣n phu nhân kề cận.

-Ngươi về chuẩn bị chu đáo đêm hát tối mai, nói với nhạc quan dành vai đào chính cho tiểu thư Ngọc Cầu, trong khúc “Chiêm nữ du xuân”. Ta cũng sẽ vào cung hầu chúa. Trước khi dự yến nhớ nhắc ngự y dâng ngài mấy liều xuân dược.

Chữ Đức ra về, thừa biết đêm hát tối nay vô cùng hệ trọng khác với lệ thường. Chữ Đức lệnh đám cung nữ thái giám lau chùi quét dọn, treo đèn kết hoa. Đêm hát chỉ dành cho chúa và quan Phụ Chính. Vài cung nữ nhanh nhẹn sắc sảo được chọn hầu hạ điếu đóm dưới quyền Chữ Đức. Kẻ khác tuyệt nhiên cấm bén măng.

Xế chiều, Phúc Loan vào cung. Chúa ưu ái cho Loan cùng ra hoa viên dự yến, thưởng công Phụ Chính bấy lâu khó nhọc quốc sự. Loan tâu:“Tâu chúa, nước chỉ có một mặt trời, thần với chúa thượng vẫn nghĩa vua tôi chẳng dám phạm thượng”. Loan để chúa ngồi giữa, c̣n ḿnh kê ghế thấp ngồi chếch sang mé trái. Chúa rất đẹp ư, khen Loan tôi trung. Rượu ngon càng uống càng nồng, chúa vui uống tràn, càng vui hơn khi nghe Loan nói đêm hát tối nay sẽ có người ngọc trong vai Chiêm nữ xinh như tiên nga giáng thế. Tiệc tàn khi bóng đêm dần lan, phủ lấp mầu đỏ rực rỡ của hàng phượng vĩ cuối vườn, khóm mẫu đơn đầu hè cũng ch́m trong bóng tối. Phúc Loan ra dấu Chữ Đức mời chúa vào hậu cung thưởng nhạc vũ.

Căn pḥng ấm cúng thoảng hương trầm, ánh nến lung linh huyền ảo, tiếng nhạc mơ hồ xa vắng. Các Chiêm nữ lả lướt uốn lượn thân ḿnh theo sóng nhạc, tuyệt vời đôi bồng đảo nhấp nhô. Chữ Đức đứng hầu chúa, dán mắt vào đám Chiêm nữ, tự xót phận ḿnh bất hạnh bởi cái quư giá nhất của y nay chỉ dùng vào việc thải chất nước dư trong người. Chúa ngồi chăm chú ngất ngây, mải mê trước đám ca nhi đêm nay xinh đẹp lạ thường, ḷng náo nức chờ xem đào chính, ắt hẳn xinh đẹp hơn các ả kia bội phần... Tiếng nhạc bỗng chuyển như sóng dậy ḥa tiếng trống tiếng phách dồn nhịp thôi thúc. Trên sân khấu, hàng trăm ánh nến bừng sáng sau lớp giấy bóng đỏ vàng. Giữa khung cảnh hoành tráng kỳ ảo lạ thường như chốn bồng lai, cô Chiêm nữ xuất hiện rực rỡ với nụ cười nghiêng thành đổ nước, chúa đổ người về phía trước bàng hoàng, phút chốc mơ hồ h́nh bóng người vợ yêu quá cố... Chiêm nữ yêu kiều lả lướt phơi phới xuân t́nh uốn lượn nhịp nhàng trước mặt chúa. Chúa cầm ḷng chẳng nổi, men rượu cộng với xuân dược kích thích lửa dục bừng bừng. Chúa đứng phắt dậy truyền Chữ Đức đưa nàng vào hậu cung. Chúa nói xong rảo bước. Đêm nhạc vũ dừng, mọi người ngơ ngác... Đêm ấy chúa như gà chọi gặp mái tơ, cơn mưa gió băo giông vùi dập ngọc nữ. Ngọc Cầu ứa nước mắt chịu đựng không dám khóc thành tiếng. Lúc chúa ch́m sâu giấc ngủ, nàng phủ tấm chăn mỏng lên người chúa, bó gối ngồi lặng yên trong góc giường. Ray rứt. Oan nghiệp xui khiến người đàn ông đầu đời của nàng lại là vị chúa phương nam, là người anh em chú bác... Đành thôi ván đă đóng thuyền.

Sáng sớm chúa tỉnh giấc thấy Ngọc Cầu nằm co ở góc giường. Chúa vỗ nhẹ, Ngọc Cầu khóc:

-Chúa thượng, em không dám phật ư người. Nhưng em là Ngọc Cầu, con gái Điền Quốc Công..

Chúa trấn tĩnh ngay sau một thoáng thảng thốt. Nghĩ chuyện đă lỡ có hối càng bận tâm. Chúa an ủi:

-Ta chẳng cần biết ái khanh là ai, ta là chúa tể Đàng trong, ta yêu ái khanh, muốn ái khanh là vợ, trọn đời bảo bọc. Ái khanh hiểu thế là đủ...

Chuyện thâm cung lan tràn, vương tộc xôn xao, riêng Nguyễn nguyên phi, người vợ cả của chúa vẫn b́nh thản lạnh lùng làm chúa chột dạ. Chúa hỏi Phúc Loan. Loan đáp:

- Chuyện t́nh duyên éo le ngang trái xẩy ra nơi chốn thâm cung xét cũng b́nh thường. Thuở trước, Công Thượng Vương (tức Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan, con thứ Chúa Săi) chẳng ngăn được ḷng. Sau khi người anh cả Nguyễn Phúc Kỳ mất, chúa say mê Tống phu nhân, vợ của người anh, sống với bà như vợ chồng. Người người đều ngăn nhưng ư chúa đă quyết cũng đành chịu. Chúa thượng nay chỉ cần đưa phu nhân ra sống biệt lập ở điện Trường Lạc. Với thời gian, mọi chuyện rồi sẽ rơi vào quên lăng.

Chúa gật gù:

-Quan Phụ Chính chí lư. Ta c̣n nhớ chuyện thời Trần, vua Thái Tôn bị Thái Sư Trần Thủ Độ buộc phải bỏ vợ là Chiêu Thánh hoàng hậu, lấy chị ruột của bà là Thuận Thiên công chúa. Thuận Thiên có mang ba tháng, lại đang là vợ của Trần Liễu. Éo le ngang trái ở chỗ Trần Liễu là anh ruột nhà vua. Ngay Thái Sư Thủ Độ, ngài là con nuôi họ Trần nhưng sau lại lấy Thiên Cực công chúa làm vợ, bà này trước là hoàng hậu, vợ vua Lư Huệ Tôn. Trong gia tộc họ Trần, bà kể như vai em của Thái Sư.

Ngay hôm sau, Phúc Loan sai thợ sửa sang lại điện Trường Lạc. Chúa kín đáo đưa Ngọc Cầu ra đấy, anh em ngày đêm vui vầy hoan lạc. Ngọc Cầu khéo léo chiều chuộng hết mực nên càng được chúa yêu thương. Thỉnh thoảng chúa mới hồi triều, kỳ dư mọi việc trong ngoài một tay Phúc Loan giải quyết. Phúc Loan hể hà, tự hào vừa thắng nước cờ thí tốt hăm xa. Thái Giám Chữ Đức bỗng trở thành người thế lực... Hai người anh Ngọc Cầu, Phúc Viên Phúc Nghiễm được bổ vào đội thủy cơ ở cửa Eo (Thuận An) và Phố Hội Quảng Nam, trở thành tay chân đắc lực kinh tài của quan Phụ Chính. Tài sản Phúc Loan tăng lên mà cơ nghiệp nhà chúa lún dần. Triều thần hoang mang chia rẽ. Kẻ như cờ bay theo gió tôn phù kẻ mạnh cốt yên sống, hưởng chút bổng lộc cơm thừa canh cặn. Kẻ bất măn ngậm tăm chẳng dám một lời can gián vị chúa đa t́nh tăm tối. Năm sau, Ngọc Cầu hạ sinh công tử Nguyễn Phúc Thuần nên càng được chúa sủng ái. Phúc Loan nhen nhúm mưu đồ dành ngôi báu cho Phúc Thuần một khi chúa mệnh vong. Có lần Phúc Loan hỏi chúa việc chọn người kế vị. Chúa nói đă có chủ trương. Loan hỏi tới, chúa trả lời dứt khoát công tử nào tài đức sẽ được chọn mặt gửi vàng. Loan tinh ư biết công tử thứ chín Nguyễn Phúc Hiệu sẽ là người kế vị. Phúc Hiệu cương nghị thông minh, phong lưu mă thượng, tư chất hơn người thường cùng chúa bàn luận quốc sự. Mùa xuân năm Canh Th́n 1760. Một buổi chiều chúa đang ở điện Trường Lạc nhận hung tin Phúc Hiệu đột ngột từ trần. Chúa thất sắc hăi kinh, đau đớn cảnh chia ĺa phụ tử, thương con đầu xanh mệnh bạc mới hai mươi mốt tuổi đầu. Chúa đem con của Hiệu là Phúc Dương (Hoàng Tôn Dương) vào cung cho nguyên phi dưỡng dục.

Sau cái chết của Phúc Hiệu, chúa ưu tư lặng lẽ thích sống một ḿnh, chiều chiều ngồi nơi hậu hiên uống rượu hết chung này đến chung khác. Chẳng bao lâu h́nh dung tiều tụy, mới ngoài bốn mươi mà tóc đă pha sương. Chúa vẩn vơ nghĩ Phúc Hiệu mất có thể do ḿnh đă trái mệnh trời, bỏ trưởng lập thứ. Chúa quyết định chọn con trưởng Nguyễn Phúc Chương kế vị dù Chương hiền lành chậm chạp, không hợp ư chúa. Ba năm sau, năm Quư Mùi 1763. Những ngày đầu xuân, đô thành Phú Xuân vang tiếng pháo mừng xuân mới, trai thanh gái lịch nhởn nhơ du xuân ngoạn cảnh. Trong nội cung, đám thái giám cung nữ được tự do vui xuân, tụ tập bày cuộc đỏ đen, say sưa chè chén. Chúa cởi mở nh́n mọi người vui chơi cũng thấy vui lây. Niềm vui của chúa chẳng được bao lâu bởi ngay chiều ấy, công tử Nguyễn Phúc Chương đang khỏe mạnh bỗng chết bất ngờ mới ba mươi tuổi ngoài... Triều thần nhiều người ngờ vực, nghi ngại. Các tṛ vui xuân ở đô thành khựng lại, chẳng ai dám đùa với nỗi đau của nhà chúa. Nội cung tang tóc thảm sầu, nguyên phi ngày đêm vật vă khóc than thương con mệnh bạc. Chúa ḷng như xát muối, thẫn thờ ngơ ngác. Chúa tin lời đồng bóng, ăn chay nằm đất, lập đàn giải oan nghiệp, đặt lệ gọi các công tử là mụ hay mệ tránh họa hữu sinh vô dưỡng. Phần mộ Phúc Chương được trấn yểm trừ tà. Chúa tạm yên tâm.

Trước bảy ngày cử hành tuần Chung Thất (49 ngày sau khi từ trần), đưa hương hồn Phúc Chương vào chùa quy y, nương náu cửa Phật. Chúa truyền lập đạo tràng, thỉnh Đại Lăo Ḥa Thượng chùa Báo Quốc và chư tăng luân phiên tụng niệm. Chúa chọn chùa Báo Quốc bởi cảnh chùa do chính chúa truyền trùng tu bề thế, ban biển sơn son thiếp vàng khắc năm chữ “Sắc Tứ Báo Quốc Tự” lại ghi thêm hàng chữ “Quốc Vương Từ Tế Đạo Nhân Ngự Đề”. Từ Tế đạo nhân là pháp danh của chúa.

Từ đấy chúa thường ăn chay niệm phật, sáng sớm thức giấc tĩnh tọa nhập thiền, cảm thấy thân tâm an lạc thư thái. Nhiều hôm chúa lên chùa thăm lăo sư. Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Thiên phong cảnh hữu t́nh, trời mây bát ngát. Chúa đắm ch́m trong chốn tĩnh lặng ngắm hoa nở ban mai, ngàn chim ríu rít, nghe hơi gió thoảng, mảnh trăng lung linh trên đỉnh trời lồng lộng. Có lần mời lăo sư thưởng trà trong trai pḥng, chúa nói:

-Ta trót sinh trong chốn lầu son gác tía, vương nghiệp trần nên chuốc phiền năo. Nay muốn t́m chốn chân như, thoát cơi u minh oan nghiệp ngập đầy, những mong lăo sư đôi lời chỉ giáo.

-Bần tăng xuất gia từ tấm bé. Đến nay ngoại bảy chục tuổi đời đă có sáu mươi tuổi hạ (tuổi tu hành). Trải bao năm sống nơi u tịch, đă quen khổ hạnh, sống giản dị ngày ngày kinh kệ như xa hẳn cơi trần đầy rẫy sân si, thoát chước cám dỗ. Bước đường tu đạo ít trắc trở hơn những người nơi chốn phồn hoa đô hội. Chúa thượng nhận mệnh trời trị trăm họ, sự thế phức tạp đa đoan, dùng cái thông tuệ mang lại trăm họ an lạc vui sướng, vui với cái vui của người. Ấy là tâm phật. Bến giác ngay ở cái tâm nào phải cất công t́m kiếm. Tu tại gia là cái tu cao nhất, sá chi ở chùa mới là cơi tu? Sách có câu”Nhất thiết thế gian pháp, vô phi Phật pháp”. Các pháp trong cơi thế đều là Phật pháp, tại ta không liễu ngộ, nên cho là không phải.

Chúa nghe sảng khoái trong ḷng, trở về triều làm cuộc đổi đời, sống giản dị, tránh xa hoa sắc dục. Tính chuyện mai sau, chúa chọn công tử thứ hai Nguyễn Phúc Luân là người kế vị (Phúc Luân là thân phụ Phúc Ánh, tức vua Gia Long sau này). Chúa đắn đo chọn người phụ trách dạy dỗ Phúc Luân xứng giữ ngôi báu. Nội Hữu Trương Văn Hạnh và Thị Giảng Lê Cao Kỷ, hai viên quan đức độ tài năng xuất thân từ viện Hàn Lâm được giao trọng trách. Phúc Loan lo lắng bởi muốn dành ngôi vương cho Phúc Thuần, con của Ngọc Cầu. Loan bàn với Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Thống, người rất thân tín, cũng là con rể của chúa. Thống nói:“Tướng công chớ lo, trước tiên phải bành trướng thế lực. Khi đă nắm toàn quyền trong tay, ta tha hồ đặt để người kế vị. Kẻ chống đối sẽ bị tiêu diệt”. Phúc Loan cho là phải, ra sức củng cố thế lực, dùng tiền bạc chức tước kết nạp tay chân thủ hạ. Chúa thường xuyên đau yếu, lại thấy việc nước yên ổn nên an tâm, không hề biết ḿnh đang nuôi ong tay áo...

Đầu hạ năm Ất Dậu 1765, dân đô thành xôn xao bàn tán điềm bất tường. Ngày ngày, hàng đàn ve không biết từ đâu về. Ve bu đen trên hàng phượng vĩ ven đường, trên các tàng cây trong vườn. Tiếng ve kêu bi ai rền rĩ, từ xế trưa đến lúc mặt trời khuất bóng. Trong Hậu Uyển, ve nhiều đến độ lính cấm vệ phải dùng sào dài xua đuổi. Người ta bảo ve khóc, nhưng cớ ǵ ve lại khóc than? Thời gian ấy chúa ngă bệnh. Bốn ngự y thay phiên hầu hạ bên giường. Bệnh tiến triển chậm, thuốc thang chẳng bớt. Phúc Loan thường xuyên đến vấn an. Chúa ân cần phủ dụ, nói mai sau chúa về chầu liệt thánh, quan Phụ Chính v́ nước gắng sức khuông phù tân chúa. Phúc Loan khóc lạy thề tận trung.

Chúa trở bệnh ngày càng trầm trọng, lúc tỉnh lúc mê, không nói được. Ngày ngày chỉ uống nước sâm pha cháo lỏng. Phúc Loan hỏi các ngự y. Ngự y buồn bă nói tính mệnh chúa mười phần nguy kịch, khó qua nổi mùa trăng. Đă có chủ trương, Phúc Loan lệnh các ngự y rời hậu cung chỉ đến khi được phép Phụ Chính. Lấy cớ chúa cần tĩnh dưỡng, Loan cấm chỉ mọi người thăm viếng kể cả nguyên phi và vương tộc. Chỉ Phúc Loan và Chữ Đức được quyền tự tiện ra vào hậu cung. Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Thống chỉ huy hàng ngàn cấm vệ canh gác hậu cung nghiêm nhặt. Có lần nguyên phi dẫn Phúc Luân xin vào thăm chúa, Thống quyết cản ngăn đành gạt lệ ra về.

Những ngày đầu tháng năm, Phúc Loan biết chúa sắp thở hơi cuối cùng, mật bàn với Cửu Thống và Chữ Đức bắt đầu thực hiện mưu đồ. Một người học tṛ giỏi bắt chước nét chữ ở gần chợ An Cựu được Chữ Đức thuê thực hiện việc giả nét chữ chúa để viết lại di chiếu. Toàn văn bản giữ nguyên, chỉ thay tên người kế vị, từ Phúc Luân thành Phúc Thuần. Viết xong, người học tṛ được Chữ Đức thưởng hậu mừng rỡ lạy tạ ra về. Y không về được đến nhà bởi khi qua đ̣ sông Hương bị chết đuối...

Sáng sớm ngày mồng bảy, chúa từ trần không trăn trối, ra đi đơn độc không vợ con thân tộc bên giường trừ Phúc Loan và Chữ Đức. Phúc Loan gặp Cửu Thống xúc tiến tiếp kế hoạch. Thống sai bộ hạ đến nhà Nội Hữu Trương Văn Hạnh mời vào Dĩ Nhiên đường bàn chuyện cơ mật. Văn Hạnh đă biết chúa lâm trọng bệnh, nay được gọi đoán có chuyện chẳng lành tất tả vào cung. Gặp Cửu Thống đón ngay cửa, Thống dẫn Hạnh đi qua hành lang nhỏ hẹp tăm tối. Đang đi cùng, Thống bỗng lùi ra sau, ánh thép lóe lên, Nội Hữu Trương Văn Hạnh bị lưỡi gươm đâm từ sau lưng ra trước ngực chết tức khắc. Thống vào gặp Loan nói đă tính xong Văn Hạnh, hẹn đến tối sẽ thanh toán nốt Thị Giảng Lê Cao Kỷ. Loan hỏi sao phải chờ đến tối, Thống đáp Cao Kỷ hiện đang tĩnh dưỡng trong căn nhà vắng vẻ ở ngoại thành, chỉ cần dăm người đủ hạ thủ, hành động ban đêm thuận tiện kín đáo, khỏi gây kinh động. Cùng lúc ấy, Chữ Đức nhận lệnh Phúc Loan dẫn hơn trăm quân đến làng Dương Xuân mời công tử Phúc Luân vào cung gặp chúa thượng. Loan nói:“Ngươi cứ làm như rất b́nh thường đến mời hắn. Khi tống giam vào ngục thất, nhớ để ở khu biệt lập, tuyệt đối cấm tiếp xúc. Kẻ nào vi phạm chém ngay”. Nội ngày ấy mọi việc hoàn thành. Sáng sớm hôm sau, Phúc Loan báo tin vương tộc và triều đ́nh chúa đă băng hồi sáng sớm, ở ngôi 27 năm, thọ 51 tuổi.

Tin chúa băng xảy ra cùng lúc với vụ mưu toan phản nghịch. Triều thần hoang mang kinh ngạc bởi kẻ chủ mưu lại là công tử Nguyễn Phúc Luân, người con thứ hai của chúa, người mà triều thần nghĩ sẽ kế vị ngôi báu. Vài ngày sau, công tử thứ mười sáu Nguyễn Phúc Thuần nhận di mệnh làm chúa Đàng trong. Chúa mới mười hai tuổi, kết quả mối t́nh loạn luân giữa phụ vương và phu nhân Ngọc Cầu. Lễ đăng quang cử hành trọng thể đúng lễ nghi trong không khí u ám nặng nề. Tân chúa giảm thuế, đại xá thiên hạ. Ngay hôm sau, Bộ H́nh đăng bố cáo:“... Lợi dụng lúc chúa thượng hấp hối, nghịch tử Nguyễn Phúc Luân cùng bọn nghịch thần Trương Văn Hạnh, Lê Cao Kỷ âm mưu làm chuyện thoán nghịch quyết đoạt ngôi báu. Thiên bất dung gian, chúng chưa kịp thi hành thủ đoạn đă bị quan Phụ Chính phát giác đập tan. Bọn nghịch tặc đứa bị kiên giam, đứa đă đền tội...”. Triều thần ngờ vực nhưng giữ thái độ yên lặng bởi phe cánh Phúc Loan đă nắm binh quyền.

Phúc Thuần xưng là Định Vương, giữ truyền thống liệt thánh sùng đạo Phật nên lấy pháp danh Khánh Phủ đạo nhân. Chức tước Phúc Loan bây giờ rất dài, có nghĩa quyền lực bao trùm trong triều ngoài cơi: Quốc Phó, Quản Tượng Cơ kiêm Tào Vụ. Hai người anh của phu nhân Ngọc Cầu, Phúc Viên được phong chức Chưởng Thủy Cơ, Phúc Nghiễm trở thành Nội Hữu, Chưởng Dinh, quản Bộ Lại và Bộ Binh, lănh Tả phủ chưởng phủ sự dinh Quảng Nam. Vận mệnh xứ Đàng trong một tay Phúc Loan định đoạt, tha hồ làm mưa làm gió vơ vét tiền của... Tham lam nhưng khôn ngoan, Loan t́m cách lấy ḷng cả những người chống đối bằng cách cho thủ hạ đến biếu xén quà cáp trám miệng. Việc triều chính v́ thế tạm yên. Vị chúa trẻ chỉ thích nghe đàn ca hát xướng, lại được Chữ Đức dạy đủ món ăn chơi kiểu người lớn nên suy yếu bạc nhược...

***

Chúa Vơ Vương mất ngày mồng bảy. Khoảng mười ngày sau tại trấn Hà Tiên, Tham Mưu Nguyễn Cư Trinh mới nhận hung tin. Sáng hôm ấy Trinh đang ngồi bên án thư chọn lựa câu chữ họa bài thơ “Giang Thành dạ cô” (tiếng trống ban đêm ở Giang Thành) của Tổng Trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ vừa gửi tặng hôm trước. Trinh bồi hồi xúc cảm buông bút, bỏ dở câu kết bài thơ đang lạc vận, thẫn thờ bước ra hiên sau ngồi uống trà một ḿnh... Ngẫm cuộc đời ngắn ngủi như bóng câu thoáng qua cửa sổ. Cư Trinh nhẩm tính từ ngày xa Phú Xuân thoắt gần mười lăm năm, cũng là thời gian Trinh xa cách chúa. Nghĩ t́nh chúa hậu đăi, Trinh ngậm ngùi cảm cái thâm t́nh. Bên ngoài là nghĩa chúa tôi nhưng bên trong thân như bằng hữu. Khi chúa c̣n là thế tử, người anh con chú bác với Trinh là Nguyễn Đăng Thịnh làm Thị Giảng (thày dạy học thế tử). Thịnh đĩnh đạc, chữ tốt văn hay nổi danh khắp cơi. Cư Trinh đỗ Hương Cống được bổ tri phủ, văn tài chẳng nhường người anh. Chúa quư trọng Trinh vừa giỏi văn chương, cũng là người khẳng khái mưu lược giỏi cai trị, thường mời đàm đạo cả ngày không chán. Chúa ví ḿnh với Trinh chẳng khác chúa Săi với quân sư Đào Duy Từ thuở xưa. Khi chúa lên ngôi, Trinh được sung vào viện Hàn Lâm, một tay soạn thảo điển chương từ lệnh. Chuyện loạn luân giữa chúa và Ngọc Cầu làm nhiều người chán nản bất măn. Trinh bàn với Đăng Thịnh:“Thày Quản Tử thường dạy học tṛ. Nước có bốn giềng là lễ nghĩa liêm sỉ. Đứt một tất nghiêng, đứt hai tất nguy, đứt ba tất đổ, đứt bốn tất diệt. Anh từng là thày dạy chúa, nay xảy ra cớ sự chẳng lẽ ngồi yên?” Đăng Thịnh thủng thỉnh:“Chú tưởng tôi vô t́nh chăng? Bao đêm trăn trở, cuối cùng nghĩ nên lặng thinh do biết tính chúa cương quyết, đă muốn là phải được. Vả lại nay ván đóng thuyền, can gián ích chi. Chuyện nhà người khó nói, ngay cả vương tộc c̣n lặng thinh nữa là ḿnh. Miễn làm sao quốc sự trôi chảy, bốn cơi ấm no là đủ”. Cư Trinh lặng chẳng nói nhưng ḷng không vui. Vua chẳng hiền tất gần xu nịnh mà xa người tài, kiếm đâu ra hào kiệt giúp nước... Nhân ở Quảng Ngăi người Mọi Đá Vách nổi loạn, Trinh xin chúa đem quân b́nh định, cũng là cách xa chốn đô thành tránh nh́n sự thế.

Nguyễn Cư Trinh cùng đám gia tướng đi thuyền từ Phú Xuân vào cửa Hàn, theo đường bộ vào Quảng Ngăi. Vùng đất từ cửa Hàn vào Hội An dân tương đối sống sung túc, nhưng càng về phía nam dân sống thưa thớt nghèo khổ, khác hẳn với Phú Xuân giàu có xa hoa. Giới quan lại nhà cao cửa rộng, chạm trổ điêu khắc cầu kỳ khoe sang giàu. Ngay thứ dân cũng ăn mặc chải chuốt dùng toàn tơ lụa mua từ các thuyền buôn của người Tàu, người Nhật. Trong khi đa phần dân Quảng thiếu cơm ăn áo mặc. Sự cách biệt giàu nghèo quá đáng, xă hội nhiều bất công tất dân không thể có cuộc sống thái ḥa. Trinh nghĩ nếu cứ tin vào báo cáo của các dinh về t́nh trạng xă hội sẽ rất nhiều sai lạc, làm láo báo cáo hay. Đến Quảng Ngăi, bước vào công đường, Trinh thấy hàng ngàn thanh niên tuổi khoảng 16 trở lên ngồi từng hàng mười người, cổ bị xiềng trong gông tre dài tựa cái thang. Trinh hỏi viên đội trưởng. Đội trưởng trả lời đó là đám thanh niên mới bị bắt đem về sung quân. Lại hỏi sung quân sao gọi bị bắt, bị xiềng từng xâu như thế. Đội trưởng bảo không làm vậy dân sẽ trốn, rất ít người t́nh nguyện sung quân, sợ bị điều đi đánh Mọi Đá Vách. Trinh ngán ngẩm truyền tháo cùm, chỉ định nơi ăn chốn ở cho tân binh, giải thích nhiệm vụ của binh lính là bảo vệ cho dân yên sống chăm lo sản xuất giúp nước an ninh giàu mạnh. Ngay hôm sau Trinh lệnh các vơ quan bắt đầu cho luyện binh, Trinh nhận ra số đông quan lại tắc trách, ngại khổ ngại khó, tinh thần bạc nhược.... Sau hàng tháng tổ chức chấn chỉnh đội ngũ, Trinh dành thời gian thăm dân, Trinh nhận ra do tổ chức hành chính thiếu lương hảo tạo ra t́nh trạng tồi tệ, nếu thế giặc mạnh làm sao đánh dẹp? Trinh quyết định dâng biểu văn lên chúa yêu cầu chấn chỉnh việc cai trị bởi dân là gốc nước, gốc không vững tất nước không yên. Xă hội bất công ḷng người ly tán, dân không có việc nghèo khổ khó khăn. Hằng sản không có th́ hằng tâm cũng không giữ được. Cách tổ chức cai trị không hợp lư, quan lại viên chức ưa việc áp bức hơn giúp dân, giỏi quấy nhiễu hơn phục vụ nên dân oán thán giao động trở thành bất trị mà gây loạn... Biểu văn gửi đi nhưng chẳng thấy chúa có ư kiến ǵ. Trinh đoán có lẽ Phụ Chính Trương Phúc Loan ém đi chăng? Cuối cùng Trinh dẹp yên loạn lạc. Năm Quí Dậu 1753 nước Chân Lạp lại biến loạn, chúa lại cử Trinh làm Tham Mưu cầm binh sang đánh dẹp.

Nước Chân Lạp gồm Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp. Người Miên (tên người Việt gọi người Chân Lạp) hiền lành, sùng đạo Phật làm chủ một vùng đất rộng lớn ph́ nhiêu. Lẽ ra Chân Lạp phải giàu mạnh nhưng hoàng tộc chia rẽ. Những cuộc tranh dành ngôi vương bá liên tục làm xă hội rối loạn nên suy yếu dần. Các thế lực tranh cướp khi cầu người Xiêm, khi lụy người Việt. Lănh thổ Chân Lạp cứ thế co dần. Nguyễn Cư Trinh vào nam, chỉ sau vài năm b́nh định, toàn vùng Thủy Chân Lạp đă lọt vào tay người Việt. Lănh thổ xứ Đàng trong rộng lớn kéo dài từ Nam Bố Chính đến mũi Cà Mau. Cư Trinh chọn trấn Hà Tiên đóng quân, giao du thân t́nh với Tổng Trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ, con người hào hiệp lại giỏi thi phú. Tứ là con Tổng Binh Mạc Cửu.

Mạc Cửu người phủ Lôi Châu tỉnh Quảng Đông là thương gia giàu có, làm chủ đội thương thuyền buôn bán với nước ngoài. Cửu mưu đồ phản Thanh phục Minh nhưng mộng lớn không thành, đành đem gia quyến trốn sang Chân Lạp, được vua Chân Lạp phong quan tước. Nhận thấy t́nh h́nh Chân Lạp thường xuyên rối loạn, Cửu đem quân trấn tỉnh Màng Khảm. Nơi đây thương mại phát triển, nhiều tàu buôn nước ngoài thường đến giao thương. Cửu mở ṣng bài lấy xâu, khuếch trương thương mại trở nên giàu có thế lực. Đám lưu dân nhiều nơi đến cư ngụ, kẻ buôn bán, người canh tác đất đai... Thấy Màng Khảm phong cảnh hữu t́nh, lại nghe dân đồn vùng sông biển thường có người tiên xuống tắm, Mạc Cửu đặt tên vùng này là Hà Tiên. Năm Mậu Tư 1708, Mạc Cửu ra Chính Dinh yết kiến chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu xin nộp cống xưng thần. Thấy Cửu tướng mạo khôi vĩ, cung kính lễ độ. Chúa hài ḷng phong chức Tổng Binh. Năm Bính Th́n 1736 Cửu mất. Chúa Ninh Vương cho Mạc Thiên Tứ nối nghiệp cha trấn giữ Hà Tiên.

Thiên Tứ thông minh mẫn tiệp, làu thông kinh sử. Nối nghiệp phụ thân, Tứ tiếp tục phát triển Hà Tiên. Nhận thấy thành phần cư dân phức tạp gồm cả người Việt, người Tàu, người Chiêm, người Miên... Đa phần tính khí nhẹ nhơm, hào phóng lại chuộng xa hoa, hủ tục mê tín c̣n nhiều. Thiên Tứ chăm lo mở mang dân trí, mở trường mời thày về dạy chữ nho. Tứ họp các tay văn nhân tài tử lập Chiêu Anh Các, thường gặp gỡ xướng họa hoàn thành nhiều thi tập giá trị lưu truyền hậu thế. Khi gặp Nguyễn Cư Trinh, Tứ tâm đầu ư hợp kết bạn tâm giao. Khi chén rượu, khi cuộc cờ... Cả hai thường dạo khắp vùng t́m nơi danh lam thắng cảnh đề thơ xướng họa. Nào là “B́nh Sơn điệp thúy” ca tụng vẻ đẹp vùng núi B́nh với những con suối xanh trong chảy ra Đông Hồ, rồi “Lộc Trĩ thôn cư” tả cảnh làng quê êm đềm trên g̣ Lộc Trĩ. Có hôm từ sáng tinh mơ, hai người bạn tâm giao đến ngọn Đại Tượng đắm hồn trong tiếng chuông chùa buổi sớm, hoặc đến băi Nam Hải nh́n những ngọn sóng bạc đầu lũ lượt nhấp nhô... Đang miên man suy nghĩ chợt Thiên Tứ bước vào. Tứ hỏi:

-Ông hay tin chúa thượng từ trần?

Cư Trinh không đáp khẽ gật đầu. Tứ tiếp:

-Tôi vừa thiết lập hương án, chờ ông đến lễ luôn thể.

Trinh uể oải:

-Chờ đến mai chẳng muộn. Trước khi cử lễ ta nên loan báo tin buồn đến tướng sĩ ba quân, cũng là dịp tôi tạ cái ân t́nh với người khuất núi.

Trinh đứng dậy pha ấm trà mới. Tứ lặng yên giây lâu, hỏi:

-Chúa thượng mất, mệnh trời sẽ chọn ai trao ngôi minh chúa phương nam?

-Sao ông nói thế, triều thần ai chẳng biết chúa thượng có ư truyền ngôi báu cho công tử Phúc Luân, từng cử Cao Kỷ và Văn Hạnh làm Thị Giảng...

Tứ lắc đầu:

-Tôi cũng nghĩ như ông, nhưng mệnh trời chẳng muốn thế. Người lên ngôi báu lại là công tử thứ mười sáu Nguyễn Phúc Thuần. Ngài lên ngôi xưng là Định Vương. Quan Phụ Chính được phong Quốc Phó. Tôi vừa nhận tin vội báo ông hay.

Trinh thất sắc, cầm tách trà run tay vội đặt xuống bàn:

-Ôi sao lại có thể như thế? Việc xảy ra chắc chắn do bàn tay Phụ Chính Trương Phúc Loan tác động, bởi tôi nghe chúa thượng đau ốm liệt giường vài tháng mới mất. Ông hẳn biết tân chúa là con phu nhân Ngọc Cầu, lại non nớt mới mười hai tuổi đầu... Xưa nay xứ Đàng trong làm ǵ có chức Quốc Phó, Phúc Loan chuyên quyền làm bậy... Loạn đến nơi rồi!

-Ông dám cả quyết?

-Phúc Loan tham lam vô độ, lưng mềm lưỡi dẻo, lại là cậu ruột nên chúa tin dùng. Hắn ra tay tụ bè kết đảng, ngay hai tên vô lại Phúc Nghiễm và Phúc Viên, anh ruột phu nhân Ngọc Cầu được chúa thượng phong chức lớn, tôi biết ngay mối loạn ở Phú Xuân đều do Phúc Loan gây ra.

Trinh ngừng, những giọt nắng đầu ngày lung linh trên mấy đóa hồng nhung tàn úa xác xơ. Trinh tiếp:

-Tôi nghĩ nay mai ta sẽ nhận thêm nhiều tin xấu. Bọn Chân Lạp thân Xiêm La không biết chừng lại nhân cơ hội dấy loạn...

Thiên Tứ thở dài, ưu tư nh́n ra khoảng không. Nắng lên cao dần...

Cư Trinh tiên đoán đúng, vài ngày sau có tin Phúc Luân âm mưu nổi loạn bị hạ ngục. Lê Cao Kỷ và Trương Văn Hạnh bị giết. Cả Trinh lẫn Tứ hoang mang ngồi đứng chẳng yên. Gần năm sau, Trinh nhận được lệnh hồi triều, bồn chồn lo lắng hỏi Tứ. Tứ đáp:

-Tôi đă nghĩ chuyện này từ lâu, Phúc Loan muốn tóm thâu quyền bính, dùng người thân tín cầm binh nơi xa. Hắn biết ông cương trực khó thuyết phục nên e ngại lệnh cho ông hồi triều, cũng là cách đoạt binh quyền, chặt chân tay vây cánh của ông. Tôi tin hắn chẳng dám hại ông v́ ông có uy tín. Ông về Phú Xuân tùy cơ ứng biến bảo vệ lấy thân ḿnh.

Buổi chia tay ngậm ngùi lưu luyến, Tứ tiễn chân bạn mấy dặm đường mới trở về...

Cư Trinh về đến Phú Xuân triều yết chúa Định Vương, chúa hỏi dăm ba câu sơ sài rồi bước vào hậu cung. Quốc Phó Phúc Loan nói:

-Bấy lâu ông vất vả cực nhọc chốn biên trấn xa xôi, triều đ́nh chẳng bao giờ quên công lao bậc huân thần nên triệu ông về đô thành gia phong thêm chức tước mục đích tưởng thưởng, cũng là cách tạo điều kiện cho ông hưởng chút an nhàn lúc tuổi xế chiều.

Trinh hờ hững vái tạ, nói kẻ trung thần suốt đời tận tụy bởi hưởng ân chúa lộc nước nào quản chi thân. Ngay hôm sau, Trinh nhận việc ở bộ lại, suốt ngày bận bịu giấy tờ sổ sách, măi khi trời sẫm tối mới trở về tư thất ở ngoại thành. Đang định dùng bữa chiều, gia nhân vào báo có quan Hàn Lâm Nguyễn Quang Tiền đến viếng. Tiền là tay văn chương cự phách ở Phú Xuân rất được chúa Vơ Vương trọng dụng. Chúa thường sai Quang Tiền làm những bài thơ đề vịnh tại cung điện, danh lam thắng cảnh, văn thư thù ứng với các nước lân bang... Đến khi chúa sai soạn thảo thư gửi quan tỉnh Phúc Kiến xưng là An Nam Quốc Vương, Tiền quyết không soạn, cho xưng hô như vậy là trái lẽ bị chúa cách chức. Tiền không hề trách móc than văn, trở về đời sống thứ dân an bần lạc đạo, làm thơ ngâm vịnh, dạy dăm ba học tṛ sống qua ngày. Khi chúa Vơờ Vương mất, chúa Định Vương lại phục chức cho làm ở Viện Hàn Lâm.

Nghe Quang Tiền đến, Cư Trinh không kịp xỏ dép vội chạy ra cổng đón cố nhân. Đôi bạn già tóc hoa râm ̣a vở niềm vui, tay bắt mặt mừng bước vào nhà. Trinh sai gia nhân làm gà đăi khách. Cả hai ngồi trên chiếc phản gụ chuyện văn. Trinh nói:

-Xa ông thấm thoát đă mười lăm năm. Tuy xa mà ḷng vẫn nhớ vẫn gần, vẫn thường hỏi thăm tin tức mỗi khi gặp khách Phú Xuân. Biết ông hoạn lộ gian truân, ḷng già ái ngại. Tôi mới về công việc đa đoan chưa gặp ông, nào ngờ ông nhanh chân đến trước.

-Cái t́nh bằng hữu là thế, c̣n hơn phu thê đầu gối tay ấp, kề cận đêm ngày. Mừng ông an khang sau bao năm tháng trấn giữ biên trấn. Tuổi ta gần đất xa trời, lại nh́n thấy nhau là quư, c̣n mong chi hơn.

Hai chung rượu vừa vơi lại đầy, gia nhân mang đồ nhắm, khoanh tay đứng hầu. Trinh khoát tay ra hiệu cho lui. Quang Tiền hỏi:

-Xa Phú Xuân lâu, ông về thấy có chi lạ?

-Cái lạ th́ nhiều, lạ đường lạ phố, lạ cảnh lạ người. Chính tôi cũng là người lạ giữa Phú Xuân đô hội phồn hoa. Nhớ ngày chia tay ở cửa Eo (Thuận An), hai ta tóc vẫn xanh, nay tôi pha sương mà ông bạc trắng...

Một thoáng yên lặng ngậm ngùi, khuôn mặt Trinh đăm chiêu xa vắng. Cuộc đời như gịng sông chảy măi chẳng ngừng. Tiền nâng chung rượu uống cạn, bỗng cảm hứng ngâm mấy câu thơ Đặng Dung:... Thế sự du du nại lăo hà. Vô cùng thiên địa nhập hàm ca... Trăng lấp ló sau rặng tre, gió nhẹ lung lay khóm trúc đầu hè. Trinh lên tiếng:

-Sao ông bỏ không ngâm hai câu tiếp. Ha ha! Thời lai đồ điếu thành công dị. Vận khứ anh hùng ẩm hận đa... Xứ Đàng trong bấy lâu đâu có chức Quốc Phó. Nay chúa thượng bỗng phong Phúc Loan chức ấy. Chúa non trẻ, ông ở Viện Hàn Lâm hẳn rơ việc này ai chủ trương?

-Chẳng ai chủ trương, chính Phúc Loan tự phong.

Trinh hằn học:

-Vậy các đại thần và vương tộc đâu cả rồi?

-Các đại thần bị hắn dùng bổng lộc chức tước mua chuộc trám họng. C̣n vương tộc cũng ươn hèn, giá áo túi cơm. Ngay khi Phúc Luân bị tống ngục vu cho làm phản nào ai dám lên tiếng? Sau này hắn lại cho hai con trai ḿnh là Phúc Thặng và Phúc Nhạc cưới các công nữ Ngọc Nguyện và Ngọc Đảo (con chúa Vũ Vương). Tay chân thủ hạ hắn nắm hết quyền hành trong triều ngoài cơi. Thế lực như vậy ai dám hó hé.

-Tôi nghe tư dinh của hắn ở Phấn Dương, vàng bạc châu báu chứa đầy hầm. Cách nào hắn giàu đến thế?

-Tất cả nguồn lợi trên rừng dưới biển vùng Thuận Quảng do hắn và thủ hạ tóm thu. Công quỹ chỉ c̣n được đôi phần. Thôi mới tái ngộ, ta nên bỏ qua chuyện đó, thế sự du du nại lăo hà... Mười mấy năm qua, cái kho thi văn của ông chắc chẳng nghèo?

-May tôi c̣n được thú vui ấy. Cũng là chút ǵ để lại con cháu mai sau. Ở Hà Tiên tôi với Mạc Thiên Tứ thường nhàn du đề thi ngâm vịnh, lại có thêm Đạm Am văn tập. Đạm Am là biệt hiệu của tôi từ thuở bước vào quan trường.

Đôi bạn ngâm nga xướng họa, như muốn mượn rượu lăng quên đời. Đêm khuya, trăng cao trên đỉnh trời, ánh trăng mờ ảo sương khói. Quang Tiền giă bạn ra về bởi sáng mai chúa thiết triều sớm...

Sáng hôm sau, khoảng cuối giờ dần bá quan đă tề tựu đông đủ chờ chúa thiết triều. Đến đầu giờ măo, văn vơ hai hàng nghiêm chỉnh nhưng chờ măi chẳng thấy chúa. Quốc Phó Phúc Loan cũng chẳng thấy đâu. Có người hỏi quan Lễ Bộ tại sao. Quan khẽ lắc đầu. Chờ lâu chán nản, bá quan tự động tản hàng tụ tập chuyện văn. Trong lúc nhốn nháo, thái giám Chữ Đức từ hậu cung bước ra chính điện dơng dạc như ra lệnh:“Chúa thượng se ḿnh không thiết triều, ngài Quốc Phó đang đợi bá quan đến tư dinh Phấn Dương bàn chuyện triều chính”. Chữ Đức nói xong bước vào hậu cung. Cư Trinh ngao ngán nh́n Quang Tiền:“Quốc sự phải bàn ở triều đường, cớ chi phải đến dinh Quốc Phó. Tôi quyết không đến”. Quang Tiền gật đầu tán thành. Thấy trời c̣n sớm, Cư Trinh ngỏ ư rủ bạn dạo chơi phố chợ. Quang Tiền bằng ḷng, cả hai rời triều đường lên ngựa đi về phía chợ Dinh.

Sáng sớm phố thị đă đông đảo người qua lại. Đường cái lớn ở giữa, hai bên nhà ngói san sát, bóng cả cây cao, phố nọ tiếp phố kia, trên bến dưới thuyền ngang dọc như mắc cửi. Đến gần chợ Dinh, hai người ngạc nhiên khi thấy bộ hành bỗng dưng dạt hết vào ven đường. Một toán lính cấp trăm người do hai viên đội trưởng cỡi ngựa đi đầu. Hai bên có vài tên lính cầm roi ḥ hét dẹp đường dáng điệu hung dữ. Hai người ḱm ngựa đứng giữa đường xem sự thể. Hai viên đội trưởng tới gần thấy Cư Trinh vội xuống ngựa vái chào. Cư Trinh nh́n đám lính thấy tên nào cũng c̣n trẻ, to lớn vạm vỡ, hất hàm hỏi:

-Tụi bay là lính ở đâu?

Viên đội trưởng lễ phép:

-Bẩm quan, chúng tôi là lính dinh Phấn Dương, thuộc toán hỏa đầu quân.

Trinh cười:

-Hóa ra tụi bay là lính nấu bếp hèn chi đứa nào cũng to béo. Lính trẻ khỏe nên cho đi giữ biên trấn, nhà bếp lẽ ra nên dành cho đám lính già.

Trông thấy đám lính tên nào cũng gánh gồng, Trinh biết tụi này đi chợ sớm:

-Tụi bay đi chợ, nào phải đi ăn cướp, cớ chi gây náo loạn phố xá, phiền nhiễu đến dân. Nhớ chấn chỉnh, lần sau bắt gặp ta chẳng dung đâu.

Nói xong Trinh dục ngựa tiến bước, không kịp nh́n thấy nụ cười khinh mạn thách thức của viên đội trưởng. Trinh nói với Tiền:

-Phúc Loan lộng hành coi khinh phép nước, chẳng lẽ ai cũng ngậm tăm. Yên lặng là nuôi dưỡng gian hùng, tôi sẽ có thái độ, quyết không chịu nhục mất phẩm giá kẻ sĩ.

Nghe bạn nói, Quang Tiền lặng yên, khẽ thở dài, thâm tâm rất lo ngại v́ biết Trinh cương trực, đă nói là làm. Ngược lại Phúc Loan độc ác nham hiểm tất không chịu nhịn. Kẻ cầm quyền trong tay nào sợ chi ai?

Đêm ấy về nhà, Trinh trằn trọc. Nếu không ngăn chận, sẽ có ngày cơ nghiệp chúa Nguyễn tan tành, xứ Đàng trong đổi chủ. Gịng họ ḿnh bao đời phù chúa lẽ nào khoanh tay nh́n vận nước suy vong. Hàng tháng trôi qua, Trinh c̣n biết thêm chúa bị bất lực, không gần được đàn bà. Bọn thái giám nghĩ ra cách bắt những tên lính khỏe mạnh giao hợp với cung nữ cho chúa xem. Chúa mê mẩn thích chí đ̣i nạp thê (cưới vợ). Chúa lại mê xem tuồng tích hát xướng chẳng hề để ư việc nước, giao toàn quyền định đoạt việc trong ngoài cho Quốc Phó. Cư Trinh quyết định dâng biểu văn trao tận tay chúa. Biểu viết:“... Dân là gốc nước. Dân không yên tất sinh biến. Bấy lâu thần thấy ngoài dân thóc cao gạo kém, phần do nhà giàu thu thóc không chịu bán ra v́ đồng tiền mất giá, phần năm qua mất mùa, nếu không cứu nguy, cảnh chết đói tất sẽ diễn ra. Ngay đô thành là chốn phồn hoa nay xuất hiện nhiều hành khất. Đă thế, đám quan lại ở các nơi xa nhiều người quen thói ức hiếp dân lành, chưa kể sưu cao thuế nặng. Chỉ hơn năm xảy biết bao điềm kinh dị. Quảng Nam động đất, núi lở rồi mưa lũ gây chết người. Qui Nhơn sâu rọm ḅ đen đường phố phải dùng lửa đốt, sâu vàng phá hoại mùa màng. Tháng trước ngay tại Hải Vân Sơn sao sa phát nổ đỏ rực trời ai nấy kinh hăi... Thuở tiên vương (chỉ Vơ Vương) sinh tiền, mỗi khi thấy điềm lạ lại ăn chay niệm phật cầu quốc thái dân an, vỗ về trăm họ, xét lại chính sách có chi khiếm khuyết. Thần nhớ ngài thường dùng gương xưa răn dạy các công tử, ngài nói:“Nước mất là do đế vương bất xứng, gần gũi nịnh thần, xa lánh tôi trung, ăn chơi phóng đăng chẳng biết lo cho dân khiến dân lầm than đói khổ mà sinh loạn...”

Chúa đọc xong trao cho Quốc Phó. Phúc Loan xem xong rất giận nhưng làm vẻ điềm tĩnh, cười nói:“Quan Lại Bộ khéo vẽ chuyện, làm chi có cảnh như ông ấy tả. Nay thiên hạ thái b́nh, chúa thượng có thú vui riêng cứ hưởng, đời người mấy chốc, tội chi làm khổ thân ḿnh.” Chúa nghe hài ḷng.

Đợi măi chẳng thấy chúa nói ǵ, Cư Trinh chán nản, từ đấy quyết định cáo ốm không dự bàn việc triều chính. Phúc Loan nói với thủ hạ:“Ta thừa biết Cư Trinh bấy lâu chống ta, ta muốn cô lập hắn nào ngờ hắn tự cô lập ḿnh. Rồi hắn sẽ chết trong cô đơn và uất hận”. Phúc Loan tiên đoán đúng. Thời gian sau, Cư Trinh ốm liệt giường hàng tháng rồi từ trần...

 

 

***

 

 

Năm Canh Dần 1770, đám quan lại tay chân Quốc Phó Trương Phúc Loan tại Phú Xuân sống xa hoa nhàn hạ trong khi ngoài dân thóc cao gạo kém, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Tại Quảng Ngăi, Mọi Đá Vách thấy thời thế bất ổn lại nổi loạn, lắm khi tràn xuống đồng bằng cướp phá thường xuyên đe dọa cuộc sống dân lành. Phúc Loan lo sợ, một mặt tăng cường quân bảo vệ Phú Xuân, lại điều quân từ hai phủ Phú Yên Qui Nhơn ra Quảng dẹp loạn. Đầu năm sau, t́nh thế vừa tạm ổn lại nhận tin quân Xiêm La đă tấn công chiếm Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ rút về Trấn Giang (Cần Thơ) dâng biểu về triều tạ tội mất đất. Tại Chân Lạp. Quân Xiêm chiếm Nam Vang lập vua mới. Trong lúc Phúc Loan rối rắm t́m cách giải quyết t́nh h́nh phía nam lại nhận biểu văn của Tuần Phủ Qui Nhơn báo tin khẩn:“... tên Biện Lại Nguyễn Nhạc người ấp Tây Sơn thua cờ bạc trốn vào vùng sơn cước cùng với hai em là Lữ và Huệ xúi giục dân chúng nổi lên làm loạn, thanh thế rất lớn, khẩn xin triều đ́nh cho viện binh đánh dẹp...” Loan cả giận vỗ án hét:“Xá chi lũ cờ bạc trộm cướp mà phải xin viện binh. Vậy đặt hắn làm tuần phủ làm chi cho tốn gạo”. Loan định băi chức Khắc Tuyên, đám thủ hạ khuyên can măi mới nguôi giận. Loan tuyệt nhiên coi thường đám giặc cướp Tây Sơn, phó mặc cho Khắc Tuyên giải quyết t́nh h́nh, lại nghiêm lệnh nếu lơ là sẽ bị băi chức. Tuyên lo sợ, từ đó chẳng dám báo cáo ǵ thêm về triều. Thủ lĩnh Tây Sơn Nguyễn Nhạc khôn ngoan bản lănh nắm được t́nh h́nh không bị đe dọa, ra sức phát triển lực lượng.

Bấy giờ xứ Quảng nhiều vùng bị đói, người đói ăn thất thểu như những bóng ma vật vờ chẳng biết nương tựa vào đâu. Dân căm phẫn hận chúa Nguyễn nhu nhược để Quốc Phó Loan tham ô lũng đoạn triều chính gây cảnh lầm than cơ cực. Nguyễn Nhạc cho thủ hạ ra Quảng chiêu dụ người vào Thượng đạo khẩn hoang phá rẫy, canh tác vùng đất mênh mông chập chùng rừng núi. Đám dân lưu vong nghèo khổ sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu để kiếm miếng ăn, sau này hầu hết trở thành nghĩa quân Tây Sơn. Ngoài người Kinh, Nguyễn Nhạc c̣n vận động được sự ủng hộ và thần phục của các sắc dân thiểu số vùng Tây Sơn Thượng. Các tù trưởng tôn Nhạc là “vua Trời”. Lực lượng Tây Sơn ngày càng lớn mạnh, vừa luyện binh, vừa sản xuất dự trữ lương thảo...

 

 

Phủ Qui Nhơn những ngày tàn đông, chỉ c̣n non tháng đến tết Quí Tỵ 1773. Trời đă về chiều, những giọt nắng vàng vọt cuối ngày chỉ c̣n le lói trên vùng đồi núi xa mờ. Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên vẫn ngồi ở công đường suy tư lo lắng. Báo cáo của các hương chức cho biết số đông dân đinh nghèo khổ trong phủ không nộp sưu thuế, rủ nhau trốn vào vùng sơn cước theo bọn giặc cướp. Trên đường phố, trong quán chợ đầy rẫy đám cùng dân từ Quảng tràn vào xin ăn. Người ta kể nhiều nơi ở Quảng, ngay đến vợ con đám quan chức cũng phải đến các nhà giàu có vay thóc gạo, thậm chí xin ăn bởi tiền th́ có nhưng không đào đâu ra gạo để mua. Qui Nhơn cũng chẳng khá ǵ, khẩu phần binh lính phải giảm bớt. Tuyên nghĩ nếu triều đ́nh không cứu nguy kịp thời, chỉ non tháng nữa t́nh trạng Qui Nhơn cũng sẽ tồi tệ như những vùng khác. Không những thế, bọn giặc Tây Sơn của Nguyễn Nhạc tuy chưa ra tay hành động vẫn là mối ám ảnh không ngừng. Hôm sau, đích thân Tuyên cùng vài vệ sĩ mặc như dân thường cỡi ngựa ra ngoại thành xem dân t́nh. Cảnh phố buồn thiu, ăn mày lũ lượt. Nhiều nhà cửa đóng then cài, sợ đám dân vong mạng dở thói du côn trộm cướp. Thiên hạ hờ hững chẳng mấy ai tha thiết nghĩ đến việc chuẩn bị đón xuân mới. Cuộc sống bất an đói khổ làm sao có thể vui xuân. Qua khỏi phố chợ, Tuyên bỗng thúc ngựa nhanh bước khi chợt thấy người đàn ông khăn đóng áo dài, bước thấp bước cao đang đi ở góc phố. Đó là Giáo Hân, tay danh sĩ nổi tiếng ở phủ. Nguyên phủ Qui Nhơn có ba ông giáo nổi tiếng chữ tốt văn hay là Giáo Hoài (Vơ Xuân Hoài), Giáo Hân và Giáo Hiến (Trương Văn Hiến). Riêng Giáo Hiến giỏi cả vơ nghệ, là thày dạy học của hai người em Nguyễn Nhạc là Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Sau này cả Giáo Hiến lẫn Giáo Hoài đều bỏ trường vào Thượng đạo làm quân sư cho Nguyễn Nhạc. Phủ nay chỉ c̣n Giáo Hân.

Giáo Hân đỗ Hương Cống nhưng không ra làm quan, lấy cớ tàn tật, chân bước thấp cao thiếu vẻ uy nghi đường bệ của bậc phụ mẫu chi dân. Nói vậy mà không phải vậy. Những người gần gũi Giáo Hân đều công nhận Hân là người ưu thời mẫn thế. Sở dĩ Hân không chịu ra làm quan v́ đoán biết thời thế sắp đại loạn nên sống ẩn dật an phận, tránh cảnh trâu ḅ húc nhau ruồi muỗi chết. Tuần Phủ Tuyên vốn quư trọng Giáo Hân, thỉnh thoảng vẫn mời Hân vào phủ đàm đạo quốc sự. Đă mấy tháng, Tuyên bận bịu việc quan, khắc khoải lo toan không có dịp gặp gỡ người bạn tâm đầu. Tuyên xuống ngựa vồn vă:“Ông giáo”. Giáo Hân kịp nhận ra quan Tuần Phủ, trố mắt ngạc nhiên. Hân chưa kịp nói, Tuyên tiếp:“Ông chớ ngạc nhiên, tôi đi xem dân t́nh bất ngờ lại gặp ông, mời ông ghé phủ ta có nhiều việc đàm đạo”. Tuyên ra dấu cận vệ nhường ngựa cho ông giáo, cả hai phi nhanh về phủ... Tuyên bảo gia nhân bày tiệc, Giáo Hân nói:“Có rượu chè tất tôi phải ở lâu, phiền ông cho người báo tin kẻo người nhà nóng ruột đợi chờ”. Đôi bạn nâng chén, Tuyên nói:

-Bấy lâu đa đoan chẳng có dịp gặp, tôi định tết đến thế nào cũng ghé ông, có đôi điều muốn thỉnh ư.

-Tôi an phận thủ thường, vui với vài đứa học tṛ, thế sự chẳng màng đầu óc tối tăm. Ông quan quyền hẳn rành sự thế, thỉnh tôi chi thêm bận ḷng.

-Ông khiêm nhượng nói thế, tôi làm quan nhưng tai mắt ở dân, ông là người học rộng trải đời hẳn rơ. Thú thật với ông hoàn cảnh tôi hiện nay rối rắm, ăn không ngon ngủ không yên. Gặp buổi thóc cao gạo kém dân chúng ta thán, chúa thượng chẳng lo việc nước mà Quốc Phó cũng lơ là chẳng có chính sách cụ thể giúp dân. Ở phủ ta, tôi từng biết đám cùng dân nhiều người trốn vào vùng sơn cước theo bọn giặc cướp. Tôi chưa mấy lo nhưng tháng trước được tin Giáo Hiến và Giáo Hoài cũng bỏ trốn vào Thượng đạo theo Nguyễn Nhạc, mối lo tăng dần bởi hai tay đều là những người có học, nay bỏ đi tất có lư do, ảnh hưởng tâm lư không nhỏ. Tôi không dám coi thường Nguyễn Nhạc như những bọn giặc cướp khác, linh cảm bọn này sẽ gây biến loạn. Ông ở trong dân, gần gũi tất biết nhiều chuyện. Chỗ thân t́nh xin ông bộc bạch chớ ngại.

Giáo Hân yên lặng giây lâu, hỏi:

-Về Nguyễn Nhạc ông chỉ biết chừng đó thôi ư?

-Tôi biết Nhạc giàu có nhờ làm đầu nậu nghề buôn trầu nguồn, ba anh em hắn vơ nghệ cao cường. Sau này Nhạc xin được chân Biện Lại chuyên việc thu thuế. Hắn mê cờ bạc, thâm lạm công quỹ bỏ trốn vào rừng tụ tập đám dân vong mạng, dụ dỗ người Mọi vùng Thượng đạo, tự xưng thủ lĩnh... Mấy phen tôi cử Tri Huyện Tuy Viễn đem quân tiễu trừ, lần nào cũng thiệt hại hàng chục mạng. Tôi khiển trách, viên Tri Huyện bảo bọn cướp có hàng ngàn, lại ở lẫn với dân. Quân tiến vào lùng sục chẳng thấy giặc, lại bị chúng dùng tên độc bắn tỉa, quân sĩ hoang mang sợ hăi bỏ trốn. Hắn ước lượng phải có lực lượng lớn bao vây tiêu diệt. Tôi dâng biểu về triều, Quốc Phó chê tôi bất lực giận dữ đ̣i cách chức, từ đấy tôi lặng thinh.

Giáo Hân trầm ngâm ngồi nhâm nhi, nghĩ tội cho quan Tuần Phủ không nắm rơ t́nh h́nh do xa cách dân. Triều đ́nh Phú Xuân đang đứng bên bờ vực thẳm do thiển cận tham lam, chỉ biết vơ vét tham nhũng gây cảnh lầm than làm mất ḷng dân. Ngay tại triều đ́nh, nhóm vương tộc đều có ư muốn loại trừ Phúc Loan, truất phế Định Vương, đưa hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương lên ngôi chúa.

Giáo Hân nghĩ phận dân đen chỉ cần cơm no áo ấm, cuộc sống yên lành. C̣n chuyện triều chính, ai muốn làm vương tướng ǵ cũng mặc. Giáo Hân nghĩ Tây Sơn nổi dậy chỉ làm đất nước thêm ly loạn, dân t́nh đói khổ. Anh em Tây Sơn vũ dũng có thừa nhưng Giáo Hân ngờ vực, không tin con người Thủ Lĩnh Nguyễn Nhạc có tài kinh bang tế thế giúp dân thoát cảnh lầm than. Bởi vậy vài tháng trước, Giáo Hiến gặp Giáo Hân, cố thuyết phục Hân theo Nguyễn Nhạc nhưng Hân từ chối. Giáo Hân nghĩ nên nói hết t́nh h́nh bên ngoài cho Tuần Phủ rơ để y dâng biểu văn về triều may ra có cách ngăn chận kịp thời hiểm họa. Hân nói:

-Trong dân gian loan truyền nhiều chuyện thần bí về Nguyễn Nhạc, rằng ngôi mộ thân sinh họ Nguyễn táng đúng quư huyệt. Nhạc là chân mạng đế vương được Ngọc Hoàng trao báu kiếm “thế thiên hành đạo”. Giáo Hiến là quân sư của Nhạc, nắm rơ t́nh h́nh Phú Xuân nên đưa ra chiêu bài”diệt quyền thần, tôn phù Hoàng Tôn Dương”. Tôi c̣n nghe Nhạc thu phục được nhiều tay hào kiệt như Vơ Văn Dũng, vợ chồng Trần Quang Diệu Bùi Thị Xuân... Ngay cả những tay lục lâm thảo khấu, vơ nghệ cao cường vùng Tây Sơn cũng tôn Nhạc làm thủ lĩnh. Tôi quen Nhạc từ lâu, hắn hào hiệp nghĩa khí nhưng tham vọng làm vua một cơi bởi tuyệt đối tin tưởng thần quyền. Tôi đoán chẳng c̣n bao lâu nữa Nhạc sẽ khởi binh, ông nên pḥng trước, chờ nước đến chân e không kịp.

Nghe Hân nói Tuyên lo lắng. Ngay hôm sau truyền phủ huyện tăng cường luyện quân, canh pḥng cẩn mật các nơi hiểm yếu ngăn chận dân trốn theo giặc.

Tết Quí Tỵ buồn tẻ trôi qua. Ra giêng, Tuần Phủ Tuyên càng nhận thêm nhiều báo cáo. Quân Tây Sơn chia từng toán nhỏ vào các làng mạc thu thóc gạo của người giàu chia cho dân nghèo, t́m cách thu phục ḷng dân. Dân nghèo hàm ân kẻ cứu giúp, coi Tây Sơn là đội quân nhân nghĩa. Quân Tây Sơn ngày càng lộng hành, công khai đi từng đoàn hàng trăm người trang bị cả súng tay, coi quan quân chẳng ra ǵ. Đầu mùa thu, Thủ Lĩnh Nguyễn Nhạc thấy thanh thế đă lớn có thể khởi binh. Nhạc xưng là Tây Sơn Vương, tổ chức quân đội, phong quan chức văn vơ cho đám thân tín. Cuối thu năm ấy, Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc bất ngờ khởi binh, dùng kế nội công ngoại kích dễ dàng chiếm thành Qui Nhơn. Tuần Phủ Tuyên thoát chạy một ḿnh bỏ cả vợ con gia đ́nh ở lại. Hai kho lương thực lớn nhất phủ cũng bị chiếm. Nguyễn Nhạc hạ lệnh thả tù tha thuế, tuyển thêm quân thẳng tiến ra Quảng Ngăi. Phía nam, Tây Sơn khống chế luôn Phú Yên. T́nh thế quân triều lâm cảnh nguy khốn.

Tin Quy Nhơn thất thủ làm Phú Xuân kinh hoàng. Ngoài dân nhốn nháo, có kẻ lo xa vội trữ gạo thóc mắm muối pḥng khi loạn lạc. Đám vơ quan binh lính bấy lâu nhàn rỗi trở nêạn biếng nhác, gươm kiếm mỏi mệt nay nghe có loạn tinh thần sa sút kinh sợ. Phố xá vắng người. Đêm đêm nhà nhà then gài cửa đóng. Trong triều quan lại chia rẽ, nhóm vương tộc với một số quan lại muốn phế chúa Định Vương nhu nhược tôn phù Hoàng Tôn Nguyễn Phúc Dương. Họ nghĩ Nguyễn Nhạc sẽ quy phục triều đ́nh khi Hoàng Tôn Dương lên ngôi chúa, đất nước trở lại thanh b́nh thoát cảnh gươm đao. Tại dinh Quốc Phó tấp nập đám vơ quan đến chầu chực, lo lót cầu cạnh. Quan chưởng cơ nọ nại cớ đau yếu, quan tán lư kia than gia đ́nh khó khăn... để khỏi phải ra chiến địa.

Chúa lúc ấy đă ngoài hai mươi, đủ khả năng đảm đang việc nước khẩn cấp họp quần thần. Giải pháp cuối cùng phải đem đại binh vào ngay Quảng Nam bởi mất xứ này, Phú Xuân sẽ bị đe dọa. Hai pḥ mă của chúa Vơ Vương, Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Thống và Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Sách chỉ huy hai đạo quân tiến vào Quảng Nam. Hai bên giao tranh trận đầu ở Bến Ván. Quân Tây Sơn theo kế hoạch của Nguyễn Nhạc lùi sâu vào phía nam. Đến Bến Đá thuộc Quảng Ngăi, Nhạc tổ chức phục binh đánh tan quân triều. Cửu Thống, Cửu Sách cởi cả giáp măo bỏ quân thoát chạy.Mấy vơ tướng chậm chân đều tử trận.

Tin thất trận nhanh chóng về Phú Xuân. Phe vương tộc và một số đại thần họp bí mật t́m cách trừ khử Quốc Phó Loan. Chưởng Cơ Nguyễn Phúc Văn, con trai thứ ba của chúa Vơ Vương tố cáo Phúc Loan tư thông với Tây Sơn. Văn cho người giả nét chữ Phúc Loan, viết thư riêng gửi Nguyễn Nhạc. Thư có dấu ấn tín dinh Quốc Phó. Trong khi chúa do dự, Phúc Loan xuống tay trước, bắt giết một số người chủ mưu hại ḿnh. Phúc Văn bỏ trốn bị bộ hạ Phúc Loan đuổi theo bắt được, d́m chết ở phá Tam Giang.

T́nh h́nh vô cùng rối ren, chúa khẩn cấp cho đem cả Nội Quân, đám quân chủ lực chuyên canh gác bảo vệ phủ chúa do Cai Đội Nguyễn Phúc Hương làm Tiết Chế lên đường cứu viện Quảng Nam. Lực lượng pḥng thủ Phú Xuân c̣n rất mỏng. T́nh thế càng trở nên bi đát. Quân Tây Sơn lại đại thắng, Chưởng Cơ Cửu Thống và Tiết Chế Phúc Hương lần lượt chết tại trận tiền. Thi hài hai pḥ mă được mang về Phú Xuân, đám tang cử hành giản dị lặng lẽ nhưng tướng sĩ Phú Xuân càng thêm kinh hăi bởi thấy thế Tây Sơn rất mạnh. Rất may danh tướng triều đ́nh, Cai Cơ Nguyễn Cửu Dật (con Chưởng Cơ Cửu Sách) mưu trí dụng nghi binh ḱm chân Tây Sơn. Dù không tiến thêm được ra phía bắc nhưng lực lượng Tây Sơn lại bành trướng về phía nam chiếm luôn Diên Khánh B́nh Thuận. Cửu Dật khẩn gửi biểu văn về triều xin tiếp viện, báo cáo địch t́nh:“... Tây Sơn Nguyễn Nhạc mưu trí xảo quyệt thu phục được khá nhiều bọn lục lâm thảo khấu vơ nghệ cao cường như Vơ Văn Dũng, vợ chồng Trần Quang Diệu Bùi Thị Xuân, Vơ Văn Tuyết, Lê văn Hưng... Ngay cả bọn nho gia chữ nghĩa cũng cam tâm theo giặc như Vơ Xuân Hoài, Nguyễn Thung, Trương Mỹ Ngọc, La Xuân Kiều, Cao Đắc Tựu, Triệu Đ́nh Tiệp. Sáu tên văn nhân này thường được người Quy Nhơn ca tụng là Lục kỳ sĩ. Bọn cướp biển người Tàu là Tập Đ́nh và Lư Tài cũng đem hết lực lượng phù Nguyễn Nhạc. Bọn lính Tàu cao lớn, cạo tóc giắt bím. Trước khi xuất trận thường uống rượu say, cởi trần, cổ đeo giấy vàng bạc bùa phép rất đỗi quái dị khiến quân ta kinh sợ phải lùi. Thần nghĩ quân Tây Sơn tuy đông nhưng vẫn không quá mạnh khiến ta phải thua. Xin chúa thượng cấp ngay viện binh tinh nhuệ, đồng thời cử binh Gia Định đánh ở mặt nam chiếm lại những vùng đă mất. Tây Sơn tất khốn bởi lâm thế lưỡng đầu thọ địch...” Chúa y kế của Cửu Dật. Phúc Loan đành phải lấy nửa số quân canh dinh Quốc Phó sung vào viện binh do Chưởng Dinh Nguyễn Phúc Nghiễm làm Tiết Chế. Chúa truyền làm lễ xuất quân trọng thể, cờ bay rợp trời, chiêng trống khua vang cho quân tăng nhuệ khí. Đoàn quân thẳng tiến vào mặt trận Quảng Nam. Chỉ vài ngày sau, chúa nhận hung tin từ Bố Chính dinh: Ba vạn quân Trịnh do Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc đang trên đường tiến vào nam. Chúa thất kinh hồn vía, Phúc Loan kinh sợ không kém khuyên chúa khẩn gọi đoàn quân tiếp viện Quảng Nam trở lại giữ đô thành.

 

 

***

 

 

Thăng Long thành mùa hạ năm Giáp Ngọ 1774 dưới thời chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Chúa nối nghiệp Minh Vương vừa tṛn bảy năm. Được học cả văn lẫn vơ từ thuở ấu thơ, chúa thuộc nhiều kinh sử, thích làm thơ, thông minh quyết đoán cải tổ triều chính không nệ phép cũ, bên ngoài ra sức dẹp nội loạn. Kể từ năm Canh Dần 1770, đám phản nghịch cuối cùng do hoàng thân Lê Duy Mật cầm đầu, sau ba mươi năm hùng cứ vùng thượng du Thanh Hóa đă bị dẹp tan. Từ đấy bốn cơi yên ổn, chúa không v́ thế lơ là việc luyện binh, dự trữ lương thực pḥng khi chinh chiến. Triều thần nhiều người tài giỏi. Văn quan gồm đám danh sĩ Bắc Hà như Nguyễn Nghiễm (thân phụ thi hào Nguyễn Du), Nguyễn Hoàn, Lê Quư Đôn, Ngô Th́ Nhậm, Nguyễn Khản... Vơ tướng có Hoàng Ngũ Phúc, Hoàng Đ́nh Thể, Hoàng Phùng Cơ, Bùi Thế Đạt... đều là những danh tướng dầy công trận mạc. Tháng năm oi ả. Mặt trời khuất từ lâu mà trời vẫn nồng nực. Chúa ra hoa viên dạo mát, thẩn thơ quanh ḥn non bộ ngắm nghía công tŕnh tuyệt vời của Hồng Lĩnh Hầu Nguyễn Khản (anh ruột thi hào Nguyễn Du), tay nghệ sĩ tài hoa, phong lưu công tử lừng danh đất bắc. Chúa quư Khản coi như bè bạn, dành Khản đặc ân được vào nội cung bất cứ lúc nào. Bỗng viên nội quan xuất hiện, tâu chúa có biểu văn thượng khẩn của Trấn Thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt. Chúa bước vội vào thư pḥng. Thế Đạt tường tŕnh t́nh h́nh rối loạn đang xảy ra ở Đàng trong, trong triều Phúc Loan chuyên quyền tham ô nhũng lạm dân chúng oán ghét. Ngoài cơi giặc Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu đă chiếm gần hết dinh Quảng Nam. Đạt tâu chúa nên thừa cơ động binh chinh phạt Nam Hà.

Chúa suy nghĩ hồi lâu, mỉm cười đắc ư, truyền nội quan đến dinh Tham Tụng Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm mời quan khẩn cấp vào nội cung. Nguyễn Nghiễm biết có việc cơ mật vội thay mũ áo, thay v́ dùng kiệu chậm chạp. Nghiễm lệnh gia nhân thắng ngựa lên đường.

Chúa ngồi chờ sẵn tại thư pḥng, đưa biểu văn cho Nghiễm đọc. Chúa nói:

-Đă hơn trăm năm, các đời tiên vương cũng như ta ngưng chinh phạt họ Nguyễn bởi quốc sự đa đoan, chỉ muốn nuôi dân nên ngưng chinh chiến. Thực tâm ta vẫn mong có ngày cất quân hỏi tội lũ phản nghịch, dựng đại kỳ Tĩnh Vương trên đỉnh Hải Vân, lấp kín sông Gianh, thả thuyền nhàn du trên sông Hương, cho ngựa uống nước ngay gịng Lệ Thủy. Nay Đàng trong t́nh thế rối ren, gịng ngụy Phúc Thuần ươn hèn ngu xuẩn để ngụy phó Phúc Loan chuyên quyền thao túng, ra sức bóc lột, lương dân đói khát khổ cực hận ngút trời cao. Ấy là lúc ta nên động binh trừng phạt, chiếm nước suy loạn. Khanh nghĩ thế nào?

Vị lăo thần mái tóc điểm sương, khuôn mặt uyên bác đăm chiêu từ tốn:

-Thần cũng một ư như chúa thượng. Đôi phen đến Bố Chính, nh́n gịng sông Gianh chia cắt mà ḷng quặn thắt. Những mong có ngày nối nhịp cầu xum họp, người nam kẻ bắc thông thương qua lại. Chẳng c̣n phân biệt trong ngoài, tất cả cùng dưới mái nhà nước Việt rợp mũ áo triều đ́nh.

-Ta vẫn c̣n e địa thế Đàng trong hung hiểm, các chiến lũy xưa vẫn là chướng ngại khó qua.

-Đàng trong nhân tâm ly tán, lâu không chinh chiến tướng mỏi quân lười, cho dù thành cao hào sâu chẳng ngăn được bước tiến quân ta. Cho dù Đào Duy Từ có tái sinh cũng cuốn vó chạy dài.

Chúa nghe hoan hỉ:

-Khanh điềm đạm uyên thâm hẳn có kế sách?

-Thần nghĩ khởi binh phải chính nghĩa. Chúa thượng trước tiên tâu vua tế cáo Giao Miếu. Xuống dụ thiên hạ kể tội họ Nguyễn, v́ đại nghĩa động binh chinh phạt nghịch cường thỏa ḷng cùng dân trăm năm ngóng trông. Người họ Nguyễn ḷng ngay quy thuận sẽ được toàn sinh, vỗ về tha thứ, cho phục chức bởi thương gịng dơi thế huân. Vả lại Đàng trong đói kém, ta nên chuẩn bị đủ lương thực. Quân đi đến đâu lương theo tới đó, thật tâm cứu dân thoát cảnh cơ hàn. Đạt hai chữ nhân ḥa là yếu tố tất thắng.

Chúa vui mừng, lại hỏi:

-Theo khanh, ai đáng mặt thống suất đại binh?

-Thần thiết nghĩ, lĩnh ấn nguyên nhung chẳng ai xứng hơn Đại Tư Đồ Quốc Lăo Việp Quận Công (Hoàng Ngũ Phúc).

-Quốc lăo một đời lao nhọc chiến chinh, nay tuổi đă thất thập, ta nên để người ngơi nghỉ, lánh chốn đao binh.

-Thần mới đến vấn an người vài hôm, thấy người vẫn tráng kiện minh mẫn, chắc chi trai trẻ đă hơn. Thống suất phải là bậc anh hùng cái thế, bốn cơi vang danh, bọn nghịch vừa nghe táng đảm kinh hồn.

Chúa gật gù. Đêm đă khuya, chúa nói quan Tham Tụng về nghỉ sáng mai bàn tiếp công việc. Đêm ấy chúa trằn trọc, vừa chợp mắt đă mơ thấy trên kỳ đài Phú Xuân, đại kỳ thêu hai chữ Tĩnh Vương tung bay phất phới. Phần Nguyễn Nghiễm, quan Tham Tụng trắng đêm thao thức suy nghĩ kế sách b́nh nam. Trời chưa sáng rơ, Nghiễm giục gia nhân chuẩn bị lên kiệu vào thẳng nội cung. Chúa đă thức dậy ngồi thưởng trà, truyền nội quan ra ngoại thành triệu ngay Quốc Lăo...

Quốc Lăo Hoàng Ngũ Phúc hăng hái nhận trong trách. Phúc nói:

-Thần vinh hạnh được chúa giao trọng trách lúc đă ở cái tuổi “ thất thập cổ lai hy”. Cho dù thịt nát xương tan vẫn kết cỏ ngậm vành. Xưa Tử Nha tuổi bát tuần vẫn lĩnh ấn nguyên nhung, Phục Ba Mă Viện tuổi thất thập vẫn thanh gươm yên ngựa dăi dầu chiến địa. Thần nay vẫn tráng kiện quyết theo gót người xưa không phụ ḷng chúa thượng chiếu cố.

Chúa mừng rỡ truyền xúc tiến ngay kế sách b́nh nam. Sắc phong Ngũ Phúc làm Thống Suất B́nh Nam Đại Tướng Quân, được toàn quyền xử dụng đám danh tướng Bắc Hà dưới trướng. Danh tướng lúc ấy nhiều người họ Hoàng như Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đ́nh Thể, Hoàng Đ́nh Bảo hăng hái luyện binh. Tay gia nhân thân tín của Ngũ Phúc là Cống Chỉnh (Nguyễn Hữu Chỉnh) được điều vào trung quân bàn việc tham mưu. Trấn Thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt làm Đốc Suất, phụ tá Thống Suất chuẩn bị dự trữ lương thực.

Cuối thu mọi việc chuẩn bị hoàn tất. Ba vạn quân Trịnh theo hai đường thủy bộ rầm rộ xuất chinh tiến thẳng vào Bắc Bố Chính. Nhờ nội tuyến, một đêm thượng tuần tháng mười, Ngũ Phúc hạ lệnh vượt sông Gianh. Quân Trịnh vượt sông ào ạt như vào chỗ không người. Trấn Thủ quân Nguyễn dinh Nam Bố Chính Quận Công Nguyễn Phúc Tiệp kinh hoảng, một mặt khẩn báo Phú Xuân, mặt khác dụng kế hoăn binh ngăn Trịnh. Phúc Tiệp sai hai thủ hạ thân tín mang rượu thịt sang doanh trại Thống Suất khao quân, gọi là đón mừng đại binh vua Lê chúa Trịnh không quản đường xa khó nhọc vào giúp quân Nguyễn dẹp loạn Tây Sơn. Trong thư riêng gửi Ngũ Phúc, Tiệp viết:“... nhờ hồng ân hoàng thượng, bọn ngụy Tây Sơn đă bị chận đứng, ở vào thế lưỡng đầu thọ địch tất sẽ bị diệt nên không dám nhọc công Thống Suất và đại binh...” Ngũ Phúc xem thư biết ư Phúc Tiệp gian trá nhưng ra vẻ b́nh thản, sai bày tiệc khoản đăi, ân cần phủ dụ sứ giả, hỏi han t́nh h́nh Đàng trong. Sứ giả Kiêm Long cảm kích tỏ thật mọi chuyện, lại nói bóng gió:“Bẩm Thượng Công, cổ nhân từng dạy: Đường không đi không đến, chuông không đánh không kêu. Tùy ư Thượng Công định đoạt”. Ngũ Phúc hiểu ư, ngay hôm sau ra lệnh tiến quân. Thế quân Trịnh rất mạnh, Phúc Tiệp lùi về giữ lũy Đồng Hới. Lũy Trấn Ninh thất thủ, quân Trịnh thừa thắng chiếm dinh Quảng B́nh tiến sâu vào Quảng Trị. Tại Thăng Long nhận tin chiến thắng, vua Lê chúa Trịnh thân chinh dẫn đại binh vào Nghệ An động viên tinh thần tướng sĩ. Ngũ Phúc viết hịch kể tội Phúc Loan:“... Quốc Phó Trương Phúc Loan là đứa tiểu khí tà tâm, chuyên dùng kẻ gian nịnh hăm hại người trung lương, ly cựu gián thân, giết kẻ này lập kẻ khác. Hắn chẳng khác giống sài lang, thích điều cay việc độc, lấy thuế dân nặng như hút máu mủ, bớt lương lính như nhổ răng nhổ móng, cách cai trị nguy cấp như lửa cháy lông mày, dụng h́nh phạt thâm độc như chọc thủng con ngươi. Ḷng dân căm hận ngút trời khiến Tây Sơn kết tụ bọn gian manh làm đồ đảng, đông như ong như kiến, dữ tợn như sói như beo gây loạn chiếm cứ Quảng Nam. Vậy muốn cho dân sống lại, ta vâng mệnh Tĩnh Vương cất quân dẹp loạn tặc, khử cường thần. V́ nghĩa cứu nguy, tuyệt không có ư thừa lúc gian nan mà lợi dụng...” Bài hịch chẳng mấy chốc loan tới Phú Xuân.

 

 

 

***

 

 

Đô thành Phú Xuân vốn là chốn phồn hoa đô hội. Khi Tây Sơn đánh Quảng Nam, Phú Xuân đă chấn động. Tin quân Trịnh tiến vào Quảng Trị càng làm dân đô thành kinh hoảng, nhất là giới giàu có quan lại. Nhiều người tản cư về vùng quê xa, kẻ lo đào hầm hố bí mật chôn châu báu. Nỗi lo âu sợ hăi biến chốn phồn hoa xưa trở nên vắng lặng như cảnh đ́u hiu chợ chiều. Chúa Định Vương lo âu bứt rứt, nghĩ kế cùng sẽ trao quyền cho Hoàng Tôn Dương, c̣n ḿnh và vương tộc tạm lánh vào Gia Định. Khu vực phủ chúa và dinh Quốc Phó, hàng ngàn lính canh gác cẩn mật, gươm giáo tuốt trần. Phúc Loan đọc tờ hịch của Hoàng Ngũ Phúc sợ toát mồ hôi, tính t́nh trở nên khó chịu thường cau có gắt gỏng, đâm ra ngờ vực mọi người. Đám thủ hạ được lệnh chủ theo dơi gắt thành phần quan lại mưu chống Quốc Phó. Phúc Loan hỏi ư người con trưởng Phúc Thặng. Thặng đáp:“Con thấy thế quân Trịnh rất mạnh, họ nhất định sẽ chiếm Phú Xuân. Ta tẩu vi thượng sách, cha kíp chuẩn bị thuyền bè chở gia quyến và của cải vào Gia Định tạm lánh, ấy là kế vẹn toàn”. Phúc Loan nghe con bàn cho là phải. Loan nói:“Cha tính gọi đám quân của Chưởng Dinh Nguyễn và Thành Quận Công về bố trí pḥng thủ rồi sẽ theo kế của con. Dẫu sao ta cũng phải bàn qua với chúa thượng cho phải lẽ trước khi lên đường ”. Thặng cho là phải.

Chưởng Dinh Nguyễn Cửu Pháp và Quận Công Nguyễn Phúc Thành (con thứ tư của chúa Vơ Vương) đang luyện binh ở Qui Sơn nhận lệnh Quốc Phó, dẫn trên ba ngàn quân trở về Phú Xuân. Theo kế hoạch của Cửu Pháp, đoàn quân di chuyển đêm tránh làm dân kinh động. Hai vị chỉ huy cưỡi ngựa sánh đôi đi tập hậu. Cửu Pháp nói với Phúc Thành:“Mấy bữa trước Cửu Dật thư cho tôi nói mặt trận Quảng Nam khó giữ lâu bởi Nguyễn Nhạc quyết chiếm (Cửu Dật là con Cửu Pháp). Nay quân Trịnh lại vào, tôi e Phú Xuân khó giữ. Ông đă đọc tờ hịch của Hoàng Ngũ Phúc đ̣i bắt Quốc Phó giao nộp?” Phúc Thành yên lặng giây lâu, nói:

-Ông với tôi t́nh thân như huynh đệ nên chẳng có chi dấu diếm. Bấy lâu tôi khuất thân là bởi Phúc Loan thế mạnh, không làm ǵ được hắn nên đành ngộ biến tùng quyền. Hắn đă giết bao người trong vương tộc, hận ấy dễ ǵ tôi quên. Nay ta cũng nhân cơ hội này rửa mối thù, cùng là diệt cái họa cho Đàng trong.

-Tôi cũng có ư ấy, nhưng kế sách ra sao, phải vẹn toàn bí mật. Lại phải ra tay ngay kẻo chẳng c̣n dịp khác.

-Ông nói đúng, ta phải làm ngay bởi tôi đoán Phúc Loan sẽ nhanh chân mang tài sản cùng gia đ́nh chạy vào Gia Định. Ta đang ở lợi thế là được hắn tín cẩn. Tôi nghĩ thượng kế là t́m cách lấy bớt quân hiện đang bảo vệ dinh Quốc Phó của hắn, dụng kế điệu hổ ly sơn dụ hắn vào hậu cung, bắt giữ rồi giao ngay cho tướng Trịnh. Số quân ông và tôi chỉ huy khá đông đủ sức khống chế nếu đám con cái thủ hạ của hắn chống cự.

Chưởng Dinh Cửu Pháp yên lặng, g̣ cương cho ngựa bước chậm, hỏi tiếp:

-Việc hệ trọng, ta có nên bàn với chúa thượng?

Quận Công Phúc Thành không suy nghĩ trả lời ngay:

-Chúa thượng nhu nhược, nếu bàn với người chắc chi người dám quyết định. Như thế càng bất lợi cho ta, tôi nghĩ chỉ cần bàn sơ với Hoàng Tôn Dương, tôi vai chú tương đối dễ nói. Hoàng Tôn Dương vốn căm ghét Phúc Loan từ lâu chắc chắn sẽ thuận kế hoạch của ta.Thế quốc biến buộc ta phải làm không c̣n cách chi khác. Việc đă rồi chúa thượng cũng bó tay. Đêm nay ta về Phú Xuân, mai chúa thượng họp khẩn. Tôi có sẵn chủ trương, ông cứ lặng yên hoặc nói xuôi theo ư tôi là việc sẽ thành.

Cửu Pháp thở dài:

-Mong việc sẽ thành, ông liệu bắt Phúc Loan giao nộp có ngăn được bước quân Trịnh?

-Không bao giờ, quân Trịnh dứt khoát sẽ chiếm Phú Xuân. Bắt xong Phúc Loan ta sẽ rút quân vào Quảng Nam trợ chiến cho Cửu Dật chống Tây Sơn, lập pḥng tuyến ngay Hải Vân Sơn, dựa vào thế hiểm để ngăn quân Trịnh, lo bảo vệ chúa thượng và vương tộc chạy thẳng vào Gia Định củng cố lực lượng. Đó là kế vẹn toàn.

Hai vị tướng về đến Phú Xuân theo đúng kế hoạch đến Quốc Phó gặp Phúc Loan. Cả hai vẻ như chưa biết ǵ về tờ hịch của tướng Trịnh Hoàng Ngũ Phúc. Thấy Loan bồn chồn lo lắng, Phúc Thành nói:

-Thượng công chớ quá lo lắng bởi t́nh thế không phải tuyệt vọng, ta nay yếu thế phải nhượng địch một bước, cũng như cho nó vào trọ một đêm rồi t́m cách đuổi đi. Kế của tôi, trước tiên ta tỏ ra ḥa hoăn dụng kế hoăn binh, chúa thượng và thượng công tạm lánh vào Gia Định củng cố lực lượng. Tôi và quan Chưởng Dinh sẽ lùi về Quảng Nam yểm trợ Cửu Dật. Nếu Trịnh có ư diệt Tây Sơn, ta rút toàn bộ lực lượng về trấn giữ Phú Yên, nhường mặt trận cho Trịnh diệt Tây Sơn. Ta ở vào thế tọa sơn quan hổ đấu. Lực lượng ta ở Gia Định c̣n rất mạnh, lương thảo đầy đủ thừa sức ngăn cản hoặc đánh bại kẻ địch.

Cửu Pháp phụ họa:

-Tôi vừa nhận thư Cửu Dật cho biết Lưu Thủ Gia Định Tống Phúc Hợp đă chiếm lại toàn bộ Phú Yên, bắt đầu mở những trận đánh thăm ḍ chuẩn bị tái chiếm Qui Nhơn. Quân Tây Sơn đă núng thế, khí thế giảm sút không được như lúc mới khởi loạn.

Phúc Loan nghe lộ vẻ an tâm, Loan nói:

-Ngay chiều nay tôi và hai ông sẽ họp quân cơ với chúa thượng, việc đă liệu nên làm gấp, chớ để nước đến chân mới nhảy.

Trên đường trở lại dinh chúa, hai tướng Phúc Thành và Cửu Pháp tiếp tục bàn mưu. Thành nói:“Hôm nay tôi sẽ dụng kế lấy bớt quân của Phúc Loan, giả lập kế hoạch rút vào Gia Định, sớm lắm hai ngày nữa mới bắt Loan được. Tham Mưu Lê (Lê Công B́nh) chỉ huy cấm quân bảo vệ vương phủ là người thân tín của tôi. Gia đ́nh y hàm ân tôi nên tôi bảo nhảy vào lửa y cũng chẳng từ. Tôi sẽ phác họa sơ kế họach với Hoàng Tôn Dương. Phần ông cứ làm như tôi đă liệu. Nếu trời c̣n phù Nguyễn th́ việc tất thành. Ta nên b́nh tĩnh chớ quá lo lắng”.

Quá ngọ, chúa Định Vương cùng Quốc Phó Phúc Loan, Quận Công Phúc Thành và Chưởng Dinh Cửu Pháp họp quân cơ ở hậu cung. Bọn nội quan không được phép lai văng. Phúc Thành tường tŕnh t́nh h́nh quân sự cặn kẽ. Thành nói cốt để chúa và Phúc Loan yên tâm:“Tâu chúa thượng, cái đáng ngại nhất là quân Trịnh ở mặt bắc. Thần đoán Trịnh sẽ khẩn cấp đánh Phú Xuân dù ta có nhượng bộ cách nào. Tuy nhiên bước đầu ta cứ nhượng để hoăn binh, bảo vệ việc chúa thượng và thượng công rút an toàn vào Gia Định. Tôi tính số quân của ta c̣n bảo vệ Phú Xuân chỉ non bốn ngàn, trong đó hai ngàn ở dinh Quốc Phó, năm trăm giữ dinh chúa. Số c̣n lại giữ an ninh các điểm trọng yếu trong đô thành. Trong tay quan Chưởng Dinh (Cửu Pháp) c̣n non ba ngàn, vậy cần tăng cường cho Chưởng Dinh khoảng ngàn quân gấp kéo ra lập pḥng tuyến ngăn Trịnh. Ta giữ nguyên năm trăm quân giữ dinh chúa, năm trăm giữ dinh thượng công, số quân c̣n lại tôi sẽ điều động khi cần trong phạm vi đô thành. Việc di chuyển vào Gia Định sẽ dụng thủy binh. Tôi dành cho vương tộc và thượng công mỗi dinh năm mươi chiến thuyền vận chuyển đồ đạc và người, ngay ngày mai xúc tiến việc chuyển những ǵ cần thiết nhất xuống thuyền đậu trên sông Hương sẵn sàng di chuyển. Quân cơ khẩn cấp, chớ khá chần chờ”.

Chúa và Phúc Loan bàn tính hồi lâu, thuận kế hoạch Phúc Thành đề nghị. Mờ sáng hôm sau, đám quân gác phủ chúa cũng như dinh Quốc Phó như đàn kiến tha mồi chuyển đồ xuống thuyền đến tối mịt với xong. Người ta đồn một nửa số thuyền chở toàn vàng bạc châu báu của nhà chúa và Quốc Phó. Ngày kế tiếp, Chưởng Dinh Cửu Pháp nhận thêm quân kéo ra phía bắc. Phúc Thành dặn Cửu Pháp:“Ông cho quân di chuyển chậm, ém quân trong rừng gần Phấn Dương chờ ngày mai tôi bắt Phúc Loan xong sẽ đem hắn giao nộp ngay tướng Trịnh, ông đem quân trở lại bao vây dinh Phúc Loan đề pḥng đám con cháu gia nhân hắn có thể phản ứng”. Cửu Pháp y kế ra lệnh xuất quân.

Sáng hôm sau Phúc Loan thức giấc khi trời c̣n mờ sương, hai cha con ngồi dùng trà ở nhà sau. Phúc Thặng báo cha biết mọi việc đă ổn, lại cắt cử ba trăm quân bảo vệ đoàn thuyền cẩn mật. Số vàng bạc châu báo, vật quư liệt kê cẩn thận hàng trăm trang giấy. Loan chăm chú đọc tỏ vẻ hài ḷng. Thặng đề nghị cha nên đi ngay sợ sau này t́nh h́nh bất ổn. Loan suy nghĩ giây lâu trả lời:

-Con nghĩ phải. Chiều nay cha sẽ bàn với chúa thượng việc này, chắc chắn người cũng đồng ư. Cha yên tâm bởi dù quân Trịnh chiếm được Phú Xuân th́ tài sản và người nhà ta vẫn an toàn mọi mặt. Phần con khi cha đă đi, nếu thấy t́nh thế nguy ngập nên bỏ Phú Xuân ngay, chớ chần chờ nguy hiểm. Cha nghĩ Quảng Nam trước sau ǵ cũng lọt vào tay Trịnh hoặc Tây Sơn. Tốt hơn ta nên rút vào nam nhường chiến địa họ. Khi t́nh h́nh ngă ngũ, bại thắng đă phân, ta sẽ nghĩ kế chiếm lại Phú Xuân.

Xế trưa, Phúc Loan lên kiệu vào cung, hai mươi vệ sĩ dàn hàng sau trước bảo vệ chủ lên đường. Thấy Phúc Loan rời dinh, tên gia nhân dọ thám phi ngựa như bay về báo tin Quận Công Phúc Thành. Thành đang ở nội cung, lệnh Tham Mưu Lê Công B́nh chẩn bị thi hành độc kế. Khi Phúc Loan một ḿnh đi vào dăy hành lang nhỏ trong nội cung, Công B́nh bất ngờ bước tới cản đường, ṿng tay thi lễ:“Thượng công, chúng tôi vô lễ”. Phúc Loan đang ú ớ kinh ngạc đă bị hai vơ sĩ quật ngă, trói chặt, nhét giẻ vào miệng, trùm kín người bỏ vào tù xa. Phúc Thành và Hoàng Tôn Dương bước tới xoa tay mừng rỡ nói với Công B́nh:“Ngươi chuyển hắn thẳng ra hành dinh Quảng Trị giao nộp Hoàng Ngũ Phúc”. Công B́nh chỉ huy đoàn quân thẳng xuống bến sông theo đường thủy ra Quảng Trị. Cùng lúc tại Phấn Dương, Chưởng Dinh Cửu Pháp kéo quân vây dinh Quốc Phó, loan tin Quốc Phó đă bị bắt, gọi đích danh Trương Phúc Thặng buộc phải đầu hàng để tránh đổ máu...

Trở lại nội cung, chúa Định Vương đang ngồi bên án thư, nôn nóng chờ Quốc Phó và Quận Công Phúc Thành tiếp tục mật nghị quân cơ, tuyệt không hay biết chuyện xảy ra bên ngoài. Nghe tiếng chân người, chúa nh́n ra cửa kinh ngạc thấy Hoàng Tôn Dương đang từ hành lang bước tới thư pḥng. Chúa không hề triệu sao Dương đường đột xuất hiện, lại thấy Phúc Thành đeo kiếm theo sau. Chúa không hiểu sao Thành lại mang vũ khí vào nội cung, linh cảm có việc bất tường.

Cả hai vừa bước vào pḥng, Phúc Thành lên tiếng:“Tâu chúa thượng, chúng tôi vừa lập mưu bắt Phúc Loan giao nộp tướng Trịnh. Thế quốc biến, muốn cứu nguy ta không thể làm khác”. Chúa ú ớ kinh hăi mặt như chàm đổ, muốn đứng dậy mà chân cứ khụy xuống, miệng lắp bắp hỏi “tại sao tại sao”. Hoàng Tôn Dương dơng dạc:“Chúa thượng b́nh tâm, Phúc Loan ḷng lang dạ thú, bấy lâu thao túng triều chính, mưu toan xô ngă cơ nghiệp liệt thánh bao đời dầy công xây dựng, nay là lúc hắn phải đền tội ác. Ta mượn tay Trịnh diệt hắn là lẽ phải, có chi phải tiếc nuối?” Chúa lặng yên cúi đầu, không khí nặng nề u uất. Hai người đang đứng trước mặt ḿnh, Quận Công Phúc Thành và Hoàng Tôn Dương, một người vai anh, một người vai cháu nhưng chẳng thân cận gần gũi chúa bằng Phúc Loan. Thậm chí chúa c̣n ngờ vực người cháu là Dương đang mưu đồ giành ngôi vị của ḿnh. Nếu không có Phúc Loan, chúa chẳng bao giờ có ngôi vị hôm nay. Do vậy tuy biết Phúc Loan chuyên quyền tham lam nhưng chúa nể trọng không dám có lời phiền trách. Lát sau chúa nói:“Ta chỉ xin các ông chớ làm hại đến gia quyến người...” Phúc Thành nói:“Chúa thượng yên tâm, nay lúc dầu sôi lửa bỏng, ta nên b́nh tâm nghĩ cách đối phó. Tôi nghĩ chúa thượng tức tốc dâng biểu văn lên vua Lê, tờ khải chúa Trịnh và thư riêng cho Hoàng Ngũ Phúc. Đại lược nói Tây Sơn nay suy yếu, ta dư sức tự lo liệu không nhọc công vua chúa can thiệp xem ư họ thế nào. Nếu họ tiếp tục tiến quân, ta thi hành kế sách định sẵn là rút vào Gia Định”. Chúa thở dài nói:“Tùy các ông định liệu”. Phúc Thành gọi nội giám lệnh quan Hàn Lâm vào gấp nội cung. Bên ngoài trời thẫm, bóng đêm dần lan, những ngọn nến trong pḥng tỏa sáng. Quan Hàn Lâm chăm chú ngồi soạn các bản văn, đắn đo từng câu chữ. Sau nhiều lần chỉnh đi chỉnh lại, măi đến gần giờ tư mới buông bút. Quan bắt đầu đọc rành mạch từng bản, đầu tiên biểu văn dâng vua Lê, chúa chăm chú lắng nghe”... Thuận Quảng biên thần Nguyễn Phúc Thuần cẩn tấu Hoàng Thượng vạn vạn tuế”. Biểu văn lời lẽ cung kính ngắn gọn”... Thần kính cẩn dâng lễ mọn bái tạ ḷng nhân của Hoàng Thượng như trời che đất chở, cẩn tấu dâng lễ mọn vàng 30 nén”. Chúa cúi đầu thở dài. Đến tờ khải chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm:“... Kẻ Biên Thần cúi đầu dâng lễ, tỏ chút ḷng thành, cầu mong Vương Thượng thu nạp để đền đáp ơn cứu vớt che chở bao dung. Kính dâng vàng 20 nén”. Sau cùng là thư gửi Hoàng Ngũ Phúc:“Thuận Quảng đẳng xứ thiểm quốc thích Nguyễn Phúc Thuần kính tŕnh Thượng Tướng Quốc Lăo đài soi xét”. Chúa vừa nghe đọc hết câu, uất ức chẳng ngăn được giọt lệ long lanh khóe mắt:“Hỡi ơi, ta đường đường vị chúa phương nam, sao phải lụy người đến thế!” Hoàng Tôn Dương không nén được cảm xúc lên tiếng:“Chúa thượng chớ khá u sầu. Xưa Câu Tiễn nếm phân vua Ngô mà dựng lại nước. Chúa thượng so với cổ nhân lẽ nào chịu sút. Xin b́nh tâm giải quyết thế nguy cho quần thần phấn chấn tin tưởng”.

Mờ sáng hôm sau, năm mươi kỵ binh hộ tống sứ giả lên đường thẳng ra hướng bắc. Chúa lại tăng cường hàng ngàn quân tinh nhuệ cho Thống Binh Phúc Tiệp ḥng ngăn quân Trịnh nếu Trịnh tiếp tục tiến binh. Khi sứ giả gặp Hoàng Ngũ Phúc dâng thư và hai trăm lạng vàng làm lễ khao quân. Phúc vui vẻ nhận, nói với sứ giả:“Giặc Tây Sơn chưa dẹp xong nên chưa thể lui quân, sẽ hội quân ở Phú Xuân mưu kế đánh dẹp”. Hai ngày sau, Phúc ra lệnh tiến binh. Tướng tiên phong Hoàng Phùng Cơ dễ dàng đánh tan quân Thống Binh Phúc Tiệp, thẳng đường tiến vào Phú Xuân...

Tại Phú Xuân, chúa Định Vương liên tiếp nhận tin thua trận. Đám vơ tướng người tử trận, kẻ đầu hàng. Dân quân nhốn nháo, mọi sinh hoạt ngừng trệ. Đă có một số quan lại đem gia đ́nh bỏ trốn về vùng quê, hoặc dùng thuyền đi về phía nam lánh nạn. Dân chúng lo trữ thóc gạo, đám du thử du thực tụ tập cướp phá. Ngay dinh Quốc Phó cũng bị hàng trăm tên dùng gậy gộc cuốc xẻng xông vào đánh lính canh hôi của. Phú Xuân hỗn loạn, chẳng c̣n ai nghĩ đến chuyện cúng tiễn Táo Quân về chầu trời.

Hai hôm sau, Hoàng Tôn Dương theo lệnh chúa bảo vệ số đông vương tộc theo đường bộ rút vào Quảng Nam. Ngày hai mươi bảy, chúa nghĩ đă đến lúc phải bỏ Phú Xuân, đích thân chúa cùng trăm cấm binh hộ tống đến chùa Phúc Thành bên bờ sông An Cựu, nơi mẫu thân (tức phu nhân Ngọc Cầu) đang tu tŕ khẩn khoản mời mẹ vào cung chuẩn bị lên đường. Từ ngày chúa Vơ Vương mất, phu nhân buồn sự thế,cho trùng tu cảnh chùa hôm sớm vui cùng lời kệ câu kinh. Phu nhân nói:“Mẹ đă già, tâm nguyện xa lánh phàm trần nương náu cửa Phật, con cứ yên tâm ra đi lo việc nước. Đưa mẹ theo ích chi, chỉ làm quẩn bước chân”. Biết không thể lay chuyển ḷng mẹ, chúa khóc lạy từ biệt...

Cũng ngày ấy tại nhà Nguyễn phu nhân, quả phụ Quận Công Nguyễn Phúc Luân. Căn nhà nằm ven ông Hương, cách dinh chúa non hai dặm đường. Căn nhà vắng lặng được bao bởi hàng rào dâm bụt. Bên trong là vườn nhăn xum xuê bốn mùa xanh lá. Cụm mai trước nhà năm ấy nở vội như sợ mất mùa xuân. Những cánh hoa thản nhiên nhởn nhơ trước gió... Trong nhà, phu nhân vừa khóc, vừa soạn quần áo cho vào chiếc tay nải, hành trang của cậu con trai mười bốn tuổi Nguyễn Phúc Ánh. Ánh sẽ theo chúa vào Gia Định nay mai. Phu nhân biết chuyến đi hệ trọng, có thể là lần vĩnh biệt đứa con yêu quư. Phúc Ánh cặm cụi lau chùi xong thanh báu kiếm gia truyền từ hiên sau bước vào nhà. Thấy mẹ khóc, Ánh nói:“Hoàn cảnh buộc như thế, mẹ than khóc càng thêm năo ḷng con trẻ ra đi. Xin mẹ nén ḷng, con đi rồi con sẽ về. Phú Xuân là đất liệt thánh dựng nghiệp quyết không thể bỏợ...” Ánh dơ cao thanh kiếm, ánh mắt cương nghị tự tin nh́n lưỡi thép xanh loang loáng chém sắt như bùn. Ánh nh́n lên bàn thờ có bài vị phụ thân nói tiếp:“Đă ba đêm, đêm nào con cũng mơ thấy cha về. Cha không nói, tŕu mến nh́n con, trao báu kiếm rồi quay gót. Con tin cha hiển linh hằng phù hộ mẹ con ḿnh”. Phu nhân nh́n con, thiếu niên mới mười bốn nhưng thân h́nh vững chắc, tác phong đĩnh đạc như đă mười chín đôi mươi. Phu nhân đến ngồi trên sập gụ ra dấu Ánh ngồi cạnh:“Con sắp rời mẹ, ḷng già đứt ruột. Nay đến lúc mẹ tỏ thật cùng con chuyện nhà bấy lâu dấu kín. Mười năm trước, khi ông nội từ trần ( chúa Vơ Vương), người để di chiếu chọn cha con làm người kế vị. Phúc Loan gian ác cấu kết với bọn quyền thần sửa di chiếu, vu cha con tội phản nghịch tống giam ngục tối, đặt Phúc Thuần lên ngôi cao. Mấy tháng sau hắn thả cha con, người về được ít lâu lo buồn vong mệnh...” Phu nhân nói đến đấy nghẹn lời. Có tiếng vó ngựa dồn dập ngoài ngơ. Phúc Ánh biết đám cấm quân vâng mệnh chúa đến đón ḿnh vào dinh chuẩn bị lên đường.

Viên đội trưởng bước vào nhà cung kính chào phu nhân, nói vâng mệnh chúa đến đón công tử vào dinh. Phu nhân khẽ gật đầu, bước tới bàn thờ chồng thắp hương đèn. Giữa ánh nến lung linh, hương trầm dần lan. Phúc Ánh thắp hương quỳ lạy trước bàn thờ thân phụ. Khấn vái xong Ánh đứng dậy, phu nhân khóc lớn. Ánh nghẹn ngào lạy mẹ, đeo kiếm khoác tay nải bước thẳng ra ngơ...

Ngày cuối năm Giáp Ngọ 1774, khi màn đêm buông bao phủ đô thành Phú Xuân thê lương vắng lặng. Chúa Định Vương cùng đoàn tùy tùng hơn trăm người lặng lẽ xuống thuyền. Đầu canh ba, giờ giao thừa linh thiêng, đoàn thuyền đă xa bờ lênh đênh trong đêm đen gió lộng sóng gầm. Chúa bắt đầu thắp hương cúng liệt thánh. Ánh nến khi leo lét, khi bập bùng theo triều sóng nhấp nhô. Chúa bỗng nhớ những xuân xưa, giờ là lúc quần thần tụ họp chúc thọ chúa. Khắp đô thành Phú Xuân, tiếng pháo nổ vang đón chào xuân mới. Ḷng người rộn ră reo vui trong cảnh thái ḥa. Nay c̣n đâu!! Nghĩ đến đấy chúa cầm ḷng chẳng nổi, nước mắt ngắn dài... Phúc Ánh tới gần bàn thờ quỳ lạy niệm hương, lễ xong lạnh lùng đeo kiếm bước ra mũi thuyền. Ánh nắm chặt chuôi kiếm, tia mắt long lanh nh́n xé màn đêm. Nào ai biết đó là lúc tận đáy ḷng sâu thẳm, Nguyễn Phúc Ánh đang nói lời nguyền:“Phú Xuân, nay tạm chia ly mai ngày ta trở lại. Than khóc chi thêm nhục nhă. Chỉ có máu, máu kẻ thù mới rửa sạch mối hận này!”

 

 

***

 

 

Phú Xuân thất thủ. Con đường sắp tới chúa tôi họ Nguyễn phải trải qua đầy bất trắc gian nguy. Tây Sơn ḥa Trịnh, dồn nỗ lực diệt Nguyễn. Đám danh tướng Tây Sơn như Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vơ Văn Dũng... mặc sức tung hoành trên khắp chiến trường Gia Định, đánh quân Nguyễn nhiều phen tơi tả. Lần lượt chúa Định Vương và Hoàng Tôn Nguyễn Phúc Dương Dương bị thảm sát. Nguyễn Phúc Ánh mới mười bảy tuổi được tôn làm Đại Nguyên Súy nhiếp quốc chính. Quân Nguyễn vẫn không đương cự nổi sức mạnh Tây Sơn. Đại Nguyên Súy Ánh gian lao khổ cực, bị lùng diệt phải trốn chạy khắp vùng châu thổ Cửu Long, trôi giạt qua nhiều hải đảo vùng vịnh Xiêm La, bao phen thoát chết trong đường tơ kẽ tóc như phép lạ. Vị chỉ huy trẻ tuổi Nguyễn Phúc Ánh trưởng thành trong gian truân máu lửa, trong thù hận ngút trời... Chất liệu biến Ánh thành con người quyền biến bản lĩnh, quyết định tàn nhẫn lạnh lùng miễn đạt được mục đích. Ánh phiêu dạt sang Xiêm La, cầu cứu vua Xiêm đem trên hai vạn quân về nước lại bị Nguyễn Huệ đánh tan tác mảnh giáp không c̣n. Ánh lại nương nhờ Giám Mục người Pháp Bá Đa Lộc đem con trai của ḿnh Nguyễn Phúc Cảnh mới bốn tuổi sang cầu viện chính phủ Pháp, hứa dành cho Pháp nhiều quyền lợi sau này...

Hữu chí cánh thành, vận may mỉm cười với Ánh. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ băng, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc cũng từ trần. Người nối nghiệp Tây Sơn, vua Cảnh Thịnh nhu nhược, triều đ́nh Tây Sơn bè phái chia rẽ mở đường thênh thang cho Phúc Ánh khôi phục cơ đồ.

Kể từ đêm giao thừa năm Giáp Ngọ 1774, đă hai mươi sáu năm Phúc Ánh rời Phú Xuân. Mùa hạ năm Tân Dậu 1801, thiếu niên năm xưa thực hiện đúng lời nguyền trở lại chốn cũ, không là kẻ chạy trốn, mà với tư cách kẻ chiến thắng cuối cùng...

 

 

 

 

HẾT

 

 

 


 

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 



 

 

Your name:


Your email:


Your comments: