at Capitol. June 19.1996
with Sen. JohnMc Cain
with Congressman Bob Barr
with General John K Singlaub
CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.
CaliToday .NVR .Phê Bình . TriThucVN
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU
CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS
BIÊTKÍCH -STATENATION - LƯUTRỮ -VIDEO/TV
DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢOCỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO - VĂNHỌC - MỤCLỤC-POPULATION - WBANK - BNG ARCHIVES - POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION
VẤN ĐỀ - LÀMSAO - USFACT- POP - FDA EXPRESS. LAWFARE .WATCHDOG- THỜI THẾ - EIR.
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
ADVERTISEMENT
Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic- Sputnik
https://www.intelligencesquaredus.org/
Space - NASA - Space News - Nasa Flight - Children Defense
Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam.US Histor. Insider
World History - Global Times - Conspiracy - Banking - Sciences
World Timeline - EpochViet - Asian Report - State Government
https://lens.monash.edu/@politics-society/2022/08/19/1384992/much-azov-about-nothing-how-the-ukrainian-neo-nazis-canard-fooled-the-world
with General Micheal Ryan
US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS . TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC - COVERTACTION
EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS
AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR
POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTOPI-CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEER- TASS- DAWN
NATURAL- PEOPLE- BRIGHTEON - CITY JOURNAL - XINHUA
NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM
CHƯƠNG 38
F. GIAI CẤP THỊ DÂN VÀ NHÓM NGƯỜI
TRƯỞNG GIẢ HỌC LÀM SANG
Nguyễn Mạnh Quang
Thị dân là những người cự ngụ ở trong các thành
phố. Trước khi bị Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Pháp- Thập Ác Vatican
đánh chiếm và thống trị, nước ta cũng đã có một số rất nhiều người
sống trong các thị trấn. Nhưng lúc đó, chưa có các nhà máy kỹ nghệ
và không có giai cấp quan lại sống bám chặt lấy thành phố, cho nên
con số người sống ở thành phố rất ít. Hơn nữa, vào thời đó, dù là
sống ở độ thị, nhưng nếp sinh họat của thị dân gần giống như những
người dân ở nông thôn. Hồi đó, dù là sống ở trong
nông thôn hay ở thành thị, dân ta vẫn còn giữ được cái bản chất
“nhân chi sơ, tính bản tiện” của trời phú cho với những đặc tính
“mộc mạc, thật thà, ngay thẳng, hồn nhiên và chất phác”. Nhưng từ
khi giang sơn ta đổi chủ, nước ta bị áp đặt phải sống dưới ách thống
trị của Liên Minh Xâm Lăng Pháp – Thập Ác Vatican, nền văn hóa Da-tô
được phổ biến trong các trường Dòng, trường đạo và các trường công
lập, nhất là ở trong các thành phố lớn. Việc này ảnh hưởng mạnh mẽ
tới tâm hồn học sinh, nhất là con em thuộc các gia đình giàu có hay
khá giả (có con em theo học các trường học này). Nền văn hóa Da-tô
mang nặng tính cách siêu phong kiến và đạo đức giả. Vì thế, những
người thấm nhiễm nền văn hóa này có cung cách hành xử giả dối bề
ngoài nặng tính cách “đội trên đạp dưới”, xun xoe, ninh bợ những
người có chức tước, địa vị, quyền hành và khinh rẻ những người ngoại
giáo, những người lép vế thế cô và những người thấp hèn. Tất cả hiện
lên những nét đặc thù trong nếp sống văn hóa Da-tô với những cung
cách hành xử và xảo ngữ hết sức là ghê tởm, ghê tởm đến độ nhà trí
thức Da-tô Nguyễn Văn Trung phải lắc đầu ghi nhận như sau: “Ai có
dịp gần gũi các giám mục Việt Nam đều có chung nhận xét rằng về mặt
cá nhân, các Ngài có vẻ đạo mạo, cởi mở, dễ mến, trừ một ít vị tỏ ra
cao ngạo, khép kín, quan liêu. Những trong lề lối làm việc, các
giám-mục thường rất độc tài, độc đoán. Trong đối xử thường tỏ ra kỳ
thị, ban phát ân huệ, coi thường bề dưới, ganh tị và kèn cựa với
đồng liêu để lập công với Tòa Thánh. Những điểm nổi bật là tiền hậu
bất nhất, việc làm không đi đôi với lời rao giảng, trọng ngoại khinh
nội, tham phú phụ bần, vô cùng sợ hãi Tòa Thánh, đến nỗi có những
linh mục nói rằng, “Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm”,…..” 1
Kể từ khi Liên Minh Thánh Pháp – Thập Ác Vatican
đánh chiếm và thống trị nước ta, thành phố là những nơi cư trú của
nhóm thỉểu số quan lại (các viên chức chính quyền) tại chức cũng như
khi về hưu. Được chính quyền biệt đãi và lại dựa vào chính quyền để
cướp đọat tài sản và bóc lột nhân dân, bọn người này trở nên giầu
có, tiền bạc dư thừa, nhưng bị nhân dân thù ghét, cho nên khi còn
làm quan cho giặc cũng như khi nghỉ việc dù là về hưu hay bị đuổi,
giới người này luôn luôn ở lại thành thị hay ở trong xóm đạo để nhờ
chính quyền hay tín đồ Da tô bảo vệ an ninh. Đây là những thành phần
có tiền bạc rung rinh mua sắm nhiều. Thêm vào đó, thành phố cũng là
nơi đầu cầu tiếp vận các lọai hàng ngọai hóa và nội hóa, rồi từ đó
phân phối đi nhiều nơi khác trong các vung tiếp cận. Vì lý do này,
có nhiều người ở nông thôn tìm đến thành phố để mưu sinh bằng nghề
buôn bán sỉ và lẻ.
Hơn nữa, thành phố cũng là nơi các nhà máy kỹ
nghệ được thiết lập và cần nhiều nhân công làm việc ở trong đó. Cũng
vì thế mà có nhiều người nghèo khó thuộc loại vô sản tìm đến thành
phố để kiếm vịêc làm tại các nhà máy này. Đặc biệt là trong hoàn
cảnh ruộng đất ở nông thôn bị tập trung vào trong tay nhóm thiểu số
phú hào, cho nên con số nông dân vô sản càng trở nên đông hơn. Không
có ruộng cầy, lại bị bọn phú hào ở nông thôn chèn ép, anh em nông
dân vô sản nạn nhân đành phải từ giã nơi quê cha đất tổ di chuyển
đến thành phố bươn chải hoặc là làm nghề buôn thúng bàn bưng, bán
hàng rong ở trên các đường phố, kéo xe ba gác để chờ đô vật hay vật
liệu, đạp xe xích lô, hoặc là kiếm việc làm tại các nhà máy kỹ nghệ,
hoặc là đi ở đợ cho các nhà giầu có hay các nhà “quan”.
Vì những lý do trên đây, mà trong thời “trăm năm
nô lệ giặc Tây”, thành phố trở nên đông đúc và nước ta xuất hiện
thêm một giai cấp mới nữa là giai cấp thị dân. Giai cấp thị dân gồm
có một số là thành phần "công chức", một số rất nhỏ là chủ
nhân các cơ sở kinh doanh lớn, chủ nhân các cửa tiệm buôn, chủ nhân
một gian hàng trong chợ, và hơn 70% là những dân nghèo làm nghề buôn
thúng bán bưng, bán hàng rong, công nhân xe ba gác, công nhân đạp xe
xích lô, công nhân làm tại các nhà máy kỹ nghệ, công nhân tùy phái
trong các công sở và công viên, phu lục lộ làm đường quét đường,
gánh rác đổ thùng, những người làm nghể ở đợ, làm đầy tớ hầu hạ,
giặt dũ, nấu ăn, bế trẻ nhỏ hay vú em tại các gia đình công chức hay
các gia đình khá giả.
Nếp Sống Tiểu Tư Sản Với Thói Quen Trường Giả Học làm Sang
Trong tiểu mục này, người viết KHÔNG BÀN ĐẾN
những người dân nghèo chiếm tới hơn 80% thị dân ở trong các thành
phố trên toàn lãnh thổ Việt Nam, mà chỉ nói đến những người giầu có,
tiền bạc rung rinh. Những người này có đời sống khá giả, nhàn nhã,
khác biệt hẳn với những thị dân nghèo khó và đại khối nông dân
(chiếm tới hơn 90 phần trăm dân số) bám sát lấy ruộng đất ở trong
các làng thôn ở đồng quê. Cũng vì có nhiều tiền bạc, họ sống đời
phong lưu an nhàn và bắt chước theo nếp sống “trưởng giả học làm
sang"; của giới tiểu tư sản Âu Châu chịu ảnh hưởng của nền đạo
lý và văn hóa Da-tô nặng tính cách đạo đức giả do Liên Minh Đế Quốc
Thực Dân Pháp – Thập Ác Vatican du nhập vào Việt Nam từ hậu bán thế
kỷ 16.
Hầu hết những người này chỉ học xong lớp
5 tiểu học (lớp supérieure bậc tiểu học), một số học hết lớp 9 có
bằng thành chung, một số rất ít đã học xong lớp 11 hay 12, một số có
bằng TúTai II Pháp và một số ít hơn nữa có bằng cử nhân luật hay tốt
nghiệp trường Hậu Bổ. Sau này ở miền Nam, thị dân có thêm một số đã
học xong bậc cử nhân
(undergraduate)
và một số rất nhỏ có trình độ học vấn cao hơn. Tất cả đều tiếp nhận
học vấn qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ do Giáo Hội La Mã
chủ trương. Vì thế mà loại người được gọi là trí thức (xuất thân từ
các trừong trung học và đại học ở Việt Nam từ cuối thập niên 1910
cho đến năm 1945 và ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975),
trừ một vài trường hợp ngoại lê, hầu như tất cả đều không biết sử
dụng trí óc để “cách vật trí tri” (dùng lý trị để tìm hiểu sự vật).
Kiến thức của họ hết sức là hẹp hòi và nông cạn, nhưng họ lại tự cho
là người trí thức. Thông thường, họ đánh giá kiến thức của một người
theo khả năng nói và viết tiếng Pháp của người đó, chứ không căn cứ
vào trình độ hiểu biết sâu rộng về một bộ môn trong ngành khoa học
xã hội (social science), khoa học nhân văn (môn học hết sức quan
trọng để hình thành nhân cách và hun đúc lòng yêu nước và tinh thần
dân tộc) hay khoa học như lý, hóa, toán. Ngày nay, ở hải ngoại,
những tín đồ Da-tô đã từng theo học các trường Dòng hay xuất thân từ
các chùng viện ở Việt Nam và những người đã từng theo học các trường
Pháp vẫn còn có quan niệm về kiến thức theo cái tiêu chuẩn ngu dốt
“ếch ngồi đáy giếng Da-tô” như vậy.
Nếp sống hàng ngày của những người này là khi ở
nhà và trong giờ ngủ thì mặc quần áo ngủ kiểu Pijama. Họ không phải
thức khuya dậy sớm trần mình nơi đồng ruộng như người nông dân ở
nông thôn, như anh em công nhân làm việc quần quật ở trong sở làm từ
sáng sớm tinh sương cho đến khi mặt trời khuất bóng mới được trở về
nhà. Họ là những thành phần lè phè, sống đời thong dong nhàn nhã,
làm việc và ăn ngủ theo giờ giấc"sáng cắp ô đi, tố cắp về". Thời
biểu trong cuộc sống hàng ngày của họ tính theo kim đồng hồ: Sáng
ra, mãi tới 7 giờ mới thức dậy. Dậy rồi đủng đinh đi làm những công
việc vệ sinh theo thường lệ, rồi ngồi vào bàn ăn, ăn sáng, vừa uống
cà phê hay sữa bò pha nước sôi (do đầy tớ hay vợ con sắp sẵn mang
tới) vừa đọc báo. Ăn xong, họ xách ô đi đến sở làm, làm việc cho đến
11:30 sáng trở về nhà ăn trưa, nghỉ ngơi hay ngủ trưa, rồi khoang
1:30 chiều lại thủng thỉnh nhẩy lên xe đạp hay xe kéo đến sở làm,
rồi khỏang 5 giờ mới về; về tới nhà rồi, họ lo tắm gội, thay quần
áo, rồi lại ngồi vào ghế dựa xả hơi và đọc sách báo giải trí.
Mọi công việc vặt trong gia đình từ nấu ăn, giặt giũ, quét nhà, lau
chùi đồ đạc đều do vợ con hay đầy tờ làm hết, bản thân họ không bao
giờ sờ mó tới việc gì ngoài việc đi làm hay đi giao dịch để kiếm mối
làm. Lại có nhiều người thích uống rượu Tây, ăn cơm Tây với thịt
beefsteak và khoai tây chiên hơn là ăn cơm với tôm tép, cá kho và
rau xào hoặc rau luộc chấm nước tương hay nước mắm. Có những người
lúc nào miệng cũng ngậm thuốc lá phì phà làm ra vẻ sang trọng giống
như quan thày người Pháp. Lúc nào cũng khề khà, khệng khạng, đủng
đỉnh, làm oai ra vẻ là người sang trọng. Phải chăng vì thực trạng
này mà ngôn ngữ Việt Nam mới nẩy sinh ra cụm từ "trường giả học làm
sang"? Đặc tính thích uống rượu Tây, thích ăn cơm Tây, thích uống
sữa bò của họ đã được nhà thơ Trần Tế Xương ghi lại bằng hai câu thơ
như sau:
Chi bằng đi học làm thầy phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.
Ngòai những đặc tính trên đây, hạng
người “trưởng giả học làm sang” này thường hay mang căn
bệnh tự tôn,
tự phụ, háo danh, ganh ghét, ganh tài, đố ki, tị hiềm, tự tư, tự
lợi, bôc hốt, lấn lướt, vơ vào. Ở bất kỳ trường hợp nào, họ cũng
muốn chiếm cho được phần hơn (aggressive). Ngay cả trong cách giao
dịch và ứng xử với những người bạn mà họ cho là thân thiết nhất, họ
cũng luôn luôn lấn lướt, ăn vào và chiếm cho được phần hơn. Hình như
cái bản chất mộc mạc, thật thà, ngay thẳng, hồn nhiên và chất phác ở
trong những người dân nơi
đồng
quê hay tỉnh nhỏ đã mất hẳn trong “con người thị dân tiểu tư sản
trưởng giả học làm sang” này. Tất cả cái gì ở nơi con người họ là
nặng tính cách "trình diễn",làm ra vẻ như là sang
trọng", hoàn tòan có tính cách bề ngòai, giả dối hơn là thật
thà và thành thực. Họ thích nói sang, làm ra vẻ như học cao, hiểu
rộng như là một nhà trí thức hay đại trí thức; thích nói oai, làm
oai như là một người có quyền thế; thích làm dáng chạy theo
"mode" của các phong trào đương thời, nhưng mang bản chất
úy tử tham sinh, nhát sợ, không có một chút gì gọi là cái dũng của
kẻ sĩ; những khi gặp khó khăn, gian khổ hay nguy hiểm thì họ thóai
chí, chùn bước bỏ cuộc hay đầu hàng. Đối với bạn bè thân thiết của
họ, nếu chẳng may gặp khó khăn, họ tìm cách lảng tránh, sợ vạ lây.
Đặc biệt là họ rất sính nói tiếng Pháp hơn là nói tiếng Việt, chê
bai những người theo học chữ Hán và giới Nho mà họ gọi là là bọn hủ
Nho, là nhữngngười dốt nát không biết chữ Pháp, khinh rẽ những người
dân sống trong nông thôn là "dân nhà quê";. Họ thường tụ lại tán gẫu
với nhau về thi ca và văn chương Pháp mà họ đã được học qua bậc
trung học theo chương trình Pháp. Họ thuộc lòng bài Le Lac của
Lamartine (1790- 1869) và kịch tác Le Cid của Pierre Corneille
(1606-1684) hơn là những ngạn ngữ Việt Nam và Truyện Kiều. Thực
trạng này đã thể hiện ra mấy vần thơ dưới đây của nhà thơ Xuân Diệu:
Tôi nhớ Rimbaud và Verlaine
Hai chàng thi sĩ choáng hơn men.
Say thơ xa lạ, mê tình bạn,
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.
(Tình Trai) 2 Nguyễn Tấn Long Nguyễn Hữu
Trọng, Thi Nhân Tiền Chiến - Quyển
Thượng (Sàigòn: Sống Mới, 1968) tr 683.
Người viết biết rõ, cho đến ngày nay ở hải ngọai,
những người đã theo học tại các trường Dòng hay trường đạo, trường
Pháp và những tín đồ Da-tô tu xuẩt, vẫn còn mang căn bệnh sính nói
tiếng Pháp, chê bai và khinh rẻ những người Việt không biết tiếng
Pháp.Vì quen thói phong lưu "Tối rượu sâm banh, sáng sữa
bò", cho nên họ không có khả năng kiên trì chịu đựng những gian
khổ khó khăn. Vì thế mà khi phải theo đuổi một việc làm lâu dài đòi
hỏi phải chịu đựng gian khổ, thì họ dễ sinh ra nản lòng, thoái chí
rồi bỏ cuộc. Cũng vì thế mà đời sống của họ thường là gắn liền với
chế độ bảo hộ của liên minh giặc Pháp - Vatican. Vì bản tính lãng
mạn và thích làm dáng, theo "mode", ưa thích chạy theo
thời, cho nên khi có luồng sinh khí mới thổi vào Việt Nam, thì họ là
những người bị cuốn hút đi theo. Đây là thời kỳ từ năm 1935 cho đến
khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng lên trong toàn quốc vào ngày 19
tháng 12/1946.
Từ cuối thập niên 1930, quân Nhật hùng cứ khắp
miền duyên hải Trung Hoa, đưa ra thuyết Đại Đông Á và Á Châu của
Người Á Châu, rồi ngày 22/9/1940, Liên Minh Xâm Lược Pháp – Thập Ác
Vatican khiếp sợ Nhật phải chấp nhận để cho 6 ngàn quân Nhật tràn
vào Đông Dương. (Tới mùa thu năm 1945, con số quân Nhật trú đóng ở
Dông Dương lên tới 60 ngàn.) Tình trạng này đã khiến người da vàng
không còn mặc cảm thua kém người da trắng nữa. Cũng vì thế mà từ đó
có nhiều đảng phái xuất hiện họat động theo gương người Nhật cương
quyết vùng lên đánh đuổi người da trắng ra khỏi quê hương để giành
lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Trong số các đảng cách mạng Việt
Nam xuất hiện vào thời kỳ này (1935-1945), có các chính đảng như
Quốc Dân Đảng của ông Vũ Hồng Khanh, (xin đừng lầm lẫn Quốc Dân Đảng
này với Việt Nam Quốc Dân Đảng của nhà ái quốc Nguyễn Thái Học),
Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội của ông Nguyễn Hải Thần, Việt Nam
Quang Phục Đảng (Đảng Da-tô), Đảng Đại Việt (Đảng
quan lại), Mặt Trận Việt Minh, và Đảng Cộng Sản
Việt Nam (được thành lập từ năm 1930). Phần lớn những thành phần
lãnh đạo và đảng viên của các đảng cách mạng này hầu hết là những
người xuất thân từ giai cấp thi dân tiểu tư sản, địa chủ và phú nông
trong nông thôn. Riêng mặt Trận Việt Minh có rất nhiều thành phần
xuất thân từ giới phú nông, bần nông, cố nông và lao động nghèo khổ.
Ngược lại, đảng Việt Nam Quang Phục, thì, ngọai trừ một vài trường hợp, gồm toàn những quan lại và
viên chức làm việc cho chính quyền Bảo Hộ Pháp –Thập Ác Vatican với
hai nhân vật chủ chốt là tín đồ Da-tô Cường Để và Ngô Đình Diệm. Khi
liên quân giặc Pháp – Thập Ác Vatican trở lại tái chiếm Đông Dương,
thì toàn dân ta lao vào cuộc chiến chống giặc giữ nước, lớp lớp
người đi đòi lại núi sông cho dân tộc. Trong những lớp người này, có
rất nhiều thị dân tiểu tử sản hăng hái lên đường theo kháng chiến.
Nếu kháng chiến thành công trong một thời gian ngắn khoảng chừng một
hay hai năm, thì họ nghiễm nhiên trở thành những người anh hùng
trong cuộc chiến. Thế nhưng, chiến tranh vẫn tiếp diễn kéo dài qua
hết năm này sang năm khác, hai năm, ba năm, rồi bốn năm, năm năm mà
giặc vẫn còn ngang ngược, hoành hành, vẫn còn tác oai tác quái. Thời
gian càng dài, gian khổ càng gia tăng và đới sống của những người
kháng chiến chống giặc xâm lăng càng ngày càng trở nên gian khổ hơn,
nguy hiểm hơn. Tình trạng này đã làm cho một số nhiều người xuất
thân từ giai cấp thị dân “trưởng giả học làm sang” không còn kiên
nhẫn chịu đựng được nữa, đành phải bỏ cuộc, trốn về bản quán (home
town) của họ do liên quân Pháp – Thập Ác Vatican kiểm sóat, hay tìm
đến một thành phố lớn sống “trùm chăn”, làm khách bàng quan
đứng ngoài cuộc chiến cho an thân. Tình
trạng này được gọi là ”cầu an”; hay "trùm chăn". Vì có quá
nhiều người "tiểu tư sản"; bỏ hàng ngũ kháng chiến và trốn
về vùng Liên quân Pháp – Thập Ác Vatican kiểm sóat như vậy, cho nên
thời đó người ta gọi là "phong trào dinh tề". Thế rồi, vì
sinh kế, họ phải dấn thân nhập cuộc vào phe liên minh giặc Pháp –
Thập Vatican để kiếm một chỗ làm trong cơ quan nào đó trong chính
quyền bù nhìn tay sai của giặc, hay ở trong một sở làm hoặc tại văn
phòng của các đơn vị trong đoàn quân viễn chinh xâm lược để kiếm
sống cho qua ngày. Cũng có nhiều người tình nguyện nộp đơn xin theo
học các trường quân sự của liên minh giặc rồi nghiễm nhiên trở thành
một sĩ quan trong đòan quân đánh thuê cho giặc. Từ khi chính quyền
bù nhìn Bảo Đại ban hành động viên vào ngày 15/7/1951, có nhiều
người bị gọi đi học các khóa sĩ quan hay hạ sĩ quan trừ bị tại các
trường võ bị Thủ Đức, Nam Định, Mang Cá và các trung tâm huấn luyện
quân sự ở Quảng Yên, Nha Trang, Quán Tre, v.v… Ở vào thình trạng
này, họ đã bị "cuốn i theo chiều gió" mặc cho thời thế
xoay vần miễn sao sống lại được cái thời "tối rượu sâm banh sáng sữa
bò", tìm lại cái hương vị cuộc đời lãng mạn trong những năm trước
chiến tranh, để có thể làm dáng theo cái "mode trưởng giả học làm
sang" của ngày nào. Thế là “con người thị dân tiểu tư sản học làm
sang” trước kia đã đi theo phong trào yêu nước gia nhập vào hàng ngũ
kháng chiến, nhưng vì không muốn mất đi cái nếp sống phong lưu,
không chịu đựng được gian khổ, đành phải giả từ kháng chiến quay về
đi theo giặc, chống lại nhân dân. Ở vào trường hợp này, những người
còn có lương tâm, cảm thấy ngường ngượng với chính mình, khiến cho
tâm sự mang mang, thầm than thân là "sinh bất phùng thời", lúc nào
cũng mang một nỗi buồn ray rứt, sợ rằng sẽ bị thế hệ mai sau khinh
rẽ vì đã không làm tròn nghĩa vụ với quê hương. Tâm sự này đã được
thi sĩ Vũ Hòang Chương ghi lại bằng mấy dòng thơ buồn ảo não:
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa,
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh
Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ.
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị.
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.
Đó là những người còn có lương tâm, còn có liêm
sỉ, biết lẽ phải trái, biết sót thương cho vận nước long đong. Còn
những người đã từng theo học các trường Dòng, trường đạo, trường
Pháp, trưởng Quốc Học Huế đã bị tẩy não và thấm nhuần giáo lý Da-tô,
dù không phải là tín đồ Da-tô, thì những ý niệm về tình yêu quê
hương và tình yêu tổ quốc của họ cũng đã bị những cụm từ "ơn Chúa",
"Hông Ân Thiên Chúa" và những lời dạy của nhà trường lấn át, khiến
tâm hồn họ đã trở thành thanh thản đi theo giặc và chiến đấu cho
giặc như những người lính trong các đoàn quân thập tự trong thời
Trung Cổ hay trong các Giáo Khu Phát Diệm, Bùi Chu và các xóm đạo ở
vùng đồng bằng sông Hồng trong những năm 1949-1954.
Càng về sau, nhất là vào những năm chót của Kháng
Chiến 1945-1954, cuộc chiến càng trở nên khốc liệt, tình trạng an
ninh của người nông dân ở trong các làng thôn càng trở nên nguy
hiểm. Tình trạng này càng khiến cho những thành phần giầu có (có đủ
tiền bạc) tìm cách chạy vào các thành phố để "cầu an" rồi
dần dần biến thành những thị dân tiểu tư sản. Nếu họ không phải là
những kẻ "trùm chăn" để đựoc an thân, thì cũng gia nhập
vào đoàn quân đánh thuê của liên minh giặc Pháp – Vatican. Vào lúc
này, liên minh giặc đã khôn khéo ngụy trang chính quyền bù nhìn Bảo
Đại bằng danh xưng "chính quyền quốc gia" và quân đội đánh
thuê cho liên minh giặc Pháp – Thập Ác Vatican bằng danh xưng "quân đội quốc gia". Khi đất nước bị chia đôi thành hai
miền Nam và miền Bắc, Pháp chuẩn bị rút khỏi Việt Nam, Hoa Kỳ nhẩy
vào thay thế Pháp, cấu kết với Vatican, đưa ông Ca-tô Ngô Đình Diệm
lên cầm quyền, và vi phạm Thỏa Hiệp Genève (điều khoản quy đinh việc
thống nhất đất nước vào tháng 7 năm 1956) để vừa biến miền Nam thành
tiền đồn chống Cộng phục vụ cho nhu cầu chiến lược "be bờ"
ngăn chặn Cộng Sản ở Đông Nam Á của Hoa Kỳ, vừa biến miền Nam thành
một vương quốc Kitô trực thuộc Tòa Thánh Vatican. Lúc đó, tiền viện
trợ Hoa Kỳ đổ vào như nước để tái thiết miền Nam giống như Hoa Kỳ đã
làm ở Âu Châu, ở Nhật, ở Nam Hàn, ở Đài Loan, ở Thổ Nhĩ Kỳ, v.v..vào
những năm 1947-1950. Nhưng bất hạnh cho miền Nam, những khoản tiền
viện trợ khổng lồ ấy lại chạy vào túi riêng của gia đình họ Ngô, vào
cái túi tham không đáy của giới giáo sĩ Da- tô và tín đồ Da-tô người
Việt. Hầu như đại khối nhân dân miền Nam chẳng được hưởng gì cả,
ngọai trừ một nhóm thiểu số sống ở trong các thành phố được "hưởng
ké" theo quy luật kinh tế giây chuyền mà thôi. Kể từ đó, Giáo Hội La
Mã, gia đình nhà Ngô, giới tu sĩ áo đen, bọn lưu manh xu thời và
nhóm thiểu số Ca-tô họat đầu chính trị dựa thế “bọn hắc y dâm tặc”
bám chặt lấy chính quyền đạo phiệt Ca-tô, xun xoe làm tay sai đắc
lực cho bạo quyền nhà Ngô để được “vinh thân phì gia”. Trong khi đó,
được Hoa Kỳ và Thập Ác Vatican hết lòng nâng đỡ, bao che và bạo vệ,
anh em nhà Ngô và băng đảng “hắc ý dâm tặc” tha hồ làm mưa làm gió ở
miền Nam.. Nhờ vậy mà bọn người “thà mất nước, chứ không thà mất
Chúa” này tha hồ tư tung, tự tác, ăn cắp những khỏan tiền ngọai
viện, cướp đọat tài nguyên quốc gia, biển thủ công quỹ, buôn lậu,
chuyển ngân lậu, sử dụng chính quyền để kinh tài bất chính rồi
chuyển ra ngọai quốc, và một số lớn chạy vào kho nhà Chúa theo quy
luật "Tous les chemins mènent a Rome". Tất cả đã được
trình bày rõ ràng trong sách Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng
Hòa Foundation (Chương 6, trang 250-51) và sách Việt Nam Đệ Nhất
Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Chương 19, tr 404- 431).
Vì Hoa Kỳ và Tòa
Thánh Vatican vi phạm điều khỏan quy định tổng tuyển cử để thống
nhất đất nước bằng hòa bình, vô kế khả thi, miền Bắc đành phải phát
động cuộc chiến để thống nhất đất nước. Vì thế mà chiến tranh bùng
nổ. Một khi chiến tranh đã bùng nổ, thì yếu tố nhân dân vẫn là quan
trọng hơn cả, và phe nào được đại khối nhân dân nhiệt liệt ủng hộ,
thì phe đó sẽ đạt được thắng lợi cuối cùng. Muốn được đại khối nhân
dân ủng hộ, thì phải có chính nghĩa, nghĩa là phải nêu lên mục tiêu
chiến đấu cho nhân dân, vì phúc lợi của nhân dân, vì quyền lợi tối
thương của tổ quốc, của dân tộc, và những người lãnh đạo phải có
thành tích dấn thân vì nhân dân; quân đội phải có kỷ luật, phải biết
tôn trọng nhân dân, thương quý nhân dân, không ăn cướp của dân,
không bắt gà của dân, không hiếp dâm phụ nữ. Phe nào có đủ: những
yếu tố trên đây thì phe đó sẽ được đại khối nhân dân nhiệt liệt ủng
hộ và liều chết cùng chiến đấu với phe đó.
Suốt trong chiều
dài cuộc chiến giải phóng quê hương (1945-1954) và cuộc chiến thống
nhất đất nưỡc (1954-1975), có một số khá nhiều thị dân trường giả
học làm sang, dù là tín đồ Da-tô hay không, không hề tham gia vào
cuộc chiến ở bất cứ bên nào cả. Nếu là tín đồ Da-tô ngoan đạo thuộc
lọai "thà mất nước còn hơn mất Chúa", họ đã hăng say đi
theo liên minh giặc Pháp – Thập Vatican chiến đầu cho Giáo Hội La Mã
để mở mang nước Chúa. Nếu cũng là tín đồ Da-tô đã phản tỉnh và đã ý
thức được quyền lợi tối thượng của dân tộc, họ đi theo Kháng Chiến
chống lại quân cướp xâm lăng Pháp và Thập Ác Vatican. Nếu không phải
là tín đồ Da-tô và ý thức được ý nghĩa cao cả của hai cuộc chiến
giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, họ đã sát cánh với anh em
thanh niên đồng lứa tuổi ở trong các đơn vị chiến đấu ở ngòai chiến
trường. Nhưng những người này đã không làm như vậy. Suốt 30 năm
(1945-1975), cả nước lao vào cuộc chiến sinh tử đòi lại quê hương
cho dân tộc và thống nhất đất nước, họ vẫn sống lè phè, say sưa, đú
đởn ở trong các thành phố trong vùng giặc tạm chiếm như Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định, v.v..., . Sau tháng 7/1954, họ vào miền Nam, tiếp
tục cuộc sống lè phè, say sưa đú đởn. Trong khi đó thì những người
đồng lứa tuổi với họ, lớp lớp lên đường đi chiến đấu để rồi ngã gục
trước làn đạn của đối phương. Khi cuộc chiến kết thúc vào tháng
4/1975, để thanh toán món nợ lương tâm, Hoa Kỳ mở
rộng vòng tay đón nguời Việt nạn nhân
chiến tranh dựng lại cuộc đời, bọn “trưởng giả học làm sang” cũng
tìm cách nhẩy vào ăn có trong vụ này. Căn bản không có một nghề
nghiệp gì khả dĩ có thể lao vào xã hội Hoa Kỳ kiếm kế sinh nhai, họ
trở thành một thứ dân chuyên nghịệp sống trên lưng xã hội (vivre sur
le dos de la socíeté). Nhờ đồng tiền trợ cấp xã hội, không phải lo
kiếm việc mưu sinh, họ lại tiếp tục cuộc sống lè phè say sưa và đú
đởn, rồi khi bốc đồng nổi hứng, cái bản chất “trưởng giả học làm
sang” lại hiện ra qua những lời lẽ hợm hĩnh đến cùng
Điển hình cho sự
kiện này là bài thơ
Đời ta, sử chép cả
ngàn chương
Sao không, hạt cát
sông Hằng ấy
Còn chứa trong
lòng cả đại dương
Ta thấy hình ta
những miếu đền
Tượng thờ nghìn bệ
những công viên
Sao không, khói
với hương sùng kính
Đều ngát thơm từ
huyệt lãng quên. T
Ta thấy muôn sao
đứng kín trời
Chờ ta, Bắc Đẩu
trở về ngôi
Sao không, một
điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ
đáy thẳm khơi
Ta thấy đường ta
Chúa hiện hình
Vườn ta Phật ngủ,
ngõ thần linh
Sao không, tâm
thức riêng bờ cõi
Địa ngục ngươi là,
kẻ khác ơi !
Ta thấy nơi ta
trục đất ngừng
Và cùng một lúc
trục đời ngưng
Sao không, hạt bụi
trong lòng trục
Cũng đủ vòng quay
phải đứng dừng.
Ta thấy ta đêm
giữa sáng ngày
Ta ngày giữa tối
thẳm đêm dài
Sao không, nhật
nguyệt đều tăm tối
Tự thuở chim hồng
rét mướt bay.
Ta thấy nhân gian
bỗng khóc òa
Nhìn hình ta khuất
bóng ta xa
Là phát sinh từ
huyết lệ ta
Ta thấy rèm nhung
khép lại rồi.
Hạ màn, thế kỷ hết
trò chơi
Sao không, quay
gót, tên hề đã
Chán một trò điên
diễn với người.
Ta thấy ta treo cổ
dưới cành
Rất hiền giấc ngủ
giữa rừng xanh
Sao không, sao
chẳng không là vậy
Khi chẳng còn chi
ở khúc quanh.
Mai Thảo
(Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền-1989)
Ông Mai Thảo không
phải là tín đồ Da-tô, nhưng ông lớn lên và trưởng thành trong môi
sinh thành phố và được rèn luyện trong các trường học của chính
quyền liên minh Pháp -Thập Ác Vatican. Khi đất nước trở mình và toàn
thể nhân dân ta lao vào cuộc chiến đánh đuổi liên quân xâm lăng Pháp
– Thập Ác Vatican giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc, ông không
hề biết đến lời dạy của tiền nhân “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách”. Ông thản nhiên đứng ngòai cuộc chiến như một kẻ bàng quan và
ung dung sống lè phè hưởng thụ rượu ngon, gái đẹp, ngâm vịnh thơ văn
tại một thành phố lớn trong vùng giặc tạm chiếm ở miền Bắc. Khi đất
nước chia đôi thành hai miền Nam Bắc vào tháng 7 năm 1954, ông khăn
gói lên đuờng vào miền Nam tiếp tục sống cuộc đời lè phè và đú đởn
trong thành phố thủ đô Sàigòn.
Tại miền Nam, hai
chính quyền đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Da-tô Nguyễn
Văn Thiệu đã làm không biết bao nhiêu hành động phản dân hại nước,
chướng tai gai mắt với dã tâm biến miền Nam thành một vương quốc
Dâ-tô mà thực chất là một thuộc địa của Vatican. Cũng vì thế mà
những tên gián điệp của Vatican như Alexandre de Rhode, Puginier,
Pellerin, v.v…, những thằng Vịêt gian Da-tô như Lê Phát Đạt, (Huyện
Sĩ), Trần Bá Lộc (Tổng Đốc Lộc), Đỗ Hữu Phương (Tổng Đốc Phương),
Pétrus Trương Vĩnh Ký, Trần Lục, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Trường Tộ, Ngô
Đình Khôi, Nguyễn Bá Tòng, Nguyễn Duy Khang, Lê Bảo Tịnh, và các đia
danh Da-tô khét tiếng như Bùi Chu và Phát Diệm, tất cả đều được vinh
danh đặt tên cho các đường phố và trường học ỏ trong thành phố thủ
đô Sàigòn. Thậm chí cả đến Giám-mục Ngô Đình Thục còn sống sờ sờ
cũng đuợc vinh danh đặt tên cho một đại lộ trong thành phố Vĩnh
Long. Rồi chính quyền đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm đẩy mạnh chương
trình Kitô hóa miền Nam bằng bạo lực, Phật giáo bị đàn áp, học sinh
sinh viên bị truy lùng và bị bắt giam cả hơn ngàn người trong một
ngày, trường học bị đóng cửa. Tình trạng này đã khiến cho quân
dân miền Nam đứng lên đạp đổ bạo quyền đòi lại quyền làm
người cho người dân miền Nam. Để chống lại nhân dân miền Nam, Thập
Ác Vatican cho ra đời cái gọi là “Phong Trào Phục Hưng Tinh Thần Ngô
Đình Diệm” và “Lực Lương Đòan Kết” dưới quyền chỉ huy của Linh-mục
Hoàng Quỳnh và tên con chiên Nguyễn Gia Hiến và đưa ra khẩu hiệu
“Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” để thi hành chính sách “không
được ăn thì đạp đổ” tạo nên cảnh hỗn lọan ở miền Nam trong cả ba năm
trời. Cuối cùng đế quốc này cũng đã thành công dựa vào cây dù của
Hoa Kỳ tạo nên được chế độ quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu và biến
miền Nam thành một xã hội “nhất đĩ, nhì cha, tam sư, tứ tướng”.
Những hành động này của Thập Ác Vatican càng làm cho nhân dân Miền
Nam càng phẫn uất, càng hăng say đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền.
Thấy vậy, Hoa Kỳ phải đổ hơn nửa triệu quân vào miền Nam bảo vệ chế
độ quân phiệt Da-tô tay sai của họ. Tình trạng này khiến cho cuộc
chiến thống nhất đất nước bước vào giai đọan vô cùng gay go và cực
kỳ quyết liệt. Trong suốt chiều dài lịch sử 1945-1975 với không biết
bao nhiêu đau thương và nước mắt như vậy, ông Mai Thảo đều chứng
kiến cả, nhưng ông vẫn hành động như là một kẻ bàng quan đứng ngòai
cuộc chiến. Các trường học và đường phố Sàigòn vẫn nhởn nhơ mang tên
tuổi những tên gián điệp người Âu, tên tuổi những thằng Da-tô Việt
gian và những địa danh Da-tô nổi trội hơn khiến cho danh tính những
anh hùng dân tộc của đất nước bị khuất lấp trước những danh tính của
những tên tội đồ và Da-tô Việt gian xú uế này. Ấy thế mà ông vẫn làm
ngơ không có một lời nào nói lên tiếng nói của một nhà văn. Những sự
cố như Phật Giáo bị đàn áp, trường học bị đóng cửa, học sinh, sinh
viên bị truy lùng, bị bắt giam và bị tra tấn, ông vẫn bình chân như
vại, quân đội vùng lên làm Cách Mạng đạp đổ bạo quyền, tín đồ Da-tô
nổi lọan chống lại chính quyền Cách Mạng , ông cũng vẫn khoanh tay
đứng nhìn như người ngoại cuộc.
Sau tháng 4 năm
1975, ông ở lại Việt Nam một thời gian. Thấy rằng trong hòan cảnh
mới, ông không còn thể lè phè say sưa và đú đởn như ngày xưa được
nữa, ông tìm đường vượt biển sang Hoa Kỳ định cư. Ở Hoa Kỳ, trong
những lúc trà dư tửu hậu, ông thường tự khoe là chỉ có ông mới có tư
cách nói lên văn hóa Việt Nam, chỉ có ông mới có thể nói lên nỗi khổ
đau của dân tộc Việt Nam. Có một lần, ngồi ở trong bàn nhậu tại một
nhà người bạn ở thành phố Tacoma, ông cũng lập lại những câu nôi
ngông nghênh và hợm hĩnh trên đây, nghe thấy ông nói như vậy, người
viết đặt vấn đề với ông rằng: "Ông biết rõ là tác giả cuốn "Giờ Thứ
25" mà tác giả chỉ sống dưới ách thống trị của quân Đức Quốc Xã vỏn
vẹn có 6 năm trời. Ấy thế mà ông ta đã hoàn thành tác phẩm vĩ đại
này nói rõ tình cảnh khốn khổ của nhân dân Lỗ Ma Ni (Roumania) nằm
dưới ách thống trị của quân Đức xâm lăng. Vì giá trị lớn lao của nó
mà tác phẩm này đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng và được phổ biến
rộng rãi cho hầu hết nhân dân thế giới đều biết. Còn ông, ông sống
trong một quốc gia có bốn ngàn năm văn hiến, được thấm nhuần tư
tưởng “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” và “việc nước trước
việc nhà”. Đất nước chẳng may phải
trải qua cả gần một thế kỷ dưới ách thống trị bạo tàn của Liên Minh
Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Thập Ác Vatican, 6 năm quân Nhật
chiếm đóng cùng với và 30 năm chiến tranh. Chắc chắn là ông biết rõ
điều này. Hôm nay, ông khoe với mọi người ở trong bàn tiệc này rằng,
ông đã có tới 30 tác phẩm văn chương. Vậy xin hỏi ông, có tác phẩm
nào của ông nói lên được thảm cảnh của dân tộc ta trong suốt thời kỳ
“Trăm năm nô lệ giặc Tây” và
hai cuộc chiến kéo dài cả 30 năm giống như cuốn
"Giờ Thứ 25"
không?”
Nghe câu hỏi này,
mặt ông bí xị vì ông không trả lời được.
Ấy thế mà khi gần
chết, không biết vì nguyên nhân nào ông lại sáng tác bài thơ quái
đản"Ta thấy hình ta những miếu đền" trên đây. Phải
chăng vì thấy những trường học và đường phố Sàigòn mang tên những
thằng Da-tô Việt gian, cho nên ông cũng muốn có một trường học hay
một đường phố nào mang tên ông giống như vậy? Người viết không biết
TẠI SAO ông không tự nghĩ xem ông đã làm gì cho tổ quốc, cho dân tộc
mà ông dám nói ra những lời ngược ngạo và hợm hĩnh như vây? Nói như
thế có nghĩa là ông quả quyết khẳng định rằng nhân dân Việt Nam sẽ
vinh danh ông bằng cách đặt tên ông cho các trường học, các đường
phố, các công viên và lập đền lập miếu, tạc tường để thờ ông như thờ
các vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang
Trung, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học, v.v… Là một người có học, ít
ra ông cũng đã học hết lớp 12 của chương trình trung học, TẠI SAO
ông lại không tìm hiểu để biết rằng các cụ Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan
Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan Văn Trị không hề có
một bài thơ nào hợm hĩnh như vậy mà nhân dân Việt Nam vẫn vinh danh
các ngài giống như những anh hùng dân tộc kể trên? Và trên toàn thể
lãnh thổ Việt Nam, tên tuổi của các ngài đều đuợc đặt tên cho các
trường học, đường phố và công viên.
Tương tự như vậy, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chẳng cần phải sáng tác một bản nhạc nào hay bài thơ nào ngông nghênh và hợm hĩnh như bài thơ "Ta thấy hình ta những miếu đền" trên đây mà vẫn được nhân dân Việt Nam kinh mến và vinh danh trong lòng họ, ngọai trừ những phường cuồng nô vô tổ quốc “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” và bọn “trưởng giả học làm sang” chịu ảnh hưởng sâu đậm của “nền văn hóa Da-tô”, mới không biết đến niềm đau của đất nước trong cảnh"một ngàn năm nô lệ giặc Tầu, một trăm năm đô hộ giặc Tây và hai mươi năm nội chiến từng ngày ..."
Bài thơ
"Ta thấy hình ta những miếu
đền" là một
trong những bằng chứng nói lên cái đặc tính “ngông nghênh và hỡm
hĩnh" của bọn người "trưởng giả học làm sang” chịu ảnh
hưởng sâu nặng của nền văn hóa Da-tô. Bọn người “trưởng giả học làm
sang” này không biết chính bản thân đã tiếp nhận nền học vấn của họ
qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ do Giáo Hội La Mã chủ
trương và đã được triệt để thi hành ở trong các xóm đạo đã từ lâu,
trong các trường Dòng, trường đạo từ năm 1862, rồi sau đó lại được
thực dân Pháp triệt để thi hành trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam cho
đến năm 1945 và ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Bọn
người “trưởng giả học làm sang” tại Việt Nam trong thời gian nói
trên chính là sản phẩm của chính sách ngu dân của Giáo Hội La Mã. Vì
thế mà họ không biết sử dụng trí óc để “cách vật trí tri”, mà chỉ
biết nhận xét sự việc qua hình thức bề ngòai, qua danh xưng và qua
tên gọi, chứ không hề tìm hiểu hay biết đến bản chất hoặc căn nguyên
của vấn đề. Ngoài ra, họ là còn mang nặng căn bệnh tham lợi, háo
danh, thèm khát quyền lực đến độ mất hết cả nhân cách. Họ hoàn toàn
không biết thế nào là tình tự dân tộc, không hiểu thế nào là tình
yêu nước. Cũng vì thế họ mới bị Vatican cho vào mê hồn trận với
những thuật ngữ rỗng tuếch “người Việt Quốc gia”, “chính nghĩa quốc
gia” chiến đấu cho “dân chủ, tự do và tôn giáo” mà không biết rằng
họ đã chui vào “cái rọ Da-tô” (Catholic loop) mà hình ảnh rõ ràng
nhất là tình trạng chậm tiến, nghèo đói, lạc hậu (1) tại các nước Âu
Châu trong các thế kỷ 18, 19, 20, (2) tại Châu Mỹ La-tinh, (3) tại
Phi Luật Tân, (từ thế kỷ 16 cho đến ngày nay, tại Rwanda, v.v... Cái
gương của “cái giáo hội khốn nạn” này rành rành với những tên “hắc y
dâm tặc” hàng ngày lộng hành tác oai tác quái, hiếp dâm các trẻ em
vị thành niên và nữ tín đồ. Tất cả những hành động ghê tởm của bọn
người “khoác áo chùng đen” đều được phơi bày ra trong sách sử, trên
báo chí cũng như qua các cơ quan truyền thanh, truyền hình,
internets, blogs, E-mail, và các nhóm điện thư. Ấy thế mà những
người tiếp nhân cái nền văn hóa Da-tô đạo đức giả (“bọn trưởng giả
học làm sang”) mà vẫn chưa chịu mở mắt. Rõ ràng là họ có mắt như mù,
nhục nhằn thay!
Trong thời gian
1954-1975, tiền bạc Hoa Kỷ đổ vào miền Nam tới cả 200 tỷ Mỹ Kim và
có một thời, có tới hơn nửa triệu quân lính Mỹ hiện diện trên lãnh
thổ miền Nam. Tình trạng- này đã tạo nên cảnh phồn vinh giả tạo ở
miền Nam Việt Nam. Nhiều khu phố trong các thành phố lớn ở miền Nam
và các nới kế cận các căn cứ đóng quân của hơn nữa triệu quân này đẫ
trở thành những trung tâm giải trí bán dâm cho bọn quân lính này.
Cũng vì thế mà hồi đó, con số gái điếm và làm vợ hờ cho quân lính
ngoại nhập vọt lên đến mức độ vô cùng khủng khiếp với cả nửa triệu
người. Tình trạng này cho thấy rõ miền Nam hồi đó đã trở thành một
xã hội đĩ điếm nổi tiếng trên thế giới với câu vè “nhất đĩ, nhì cha,
tam sư tứ tướng”, và nổi tiếng thế giới mà nhà viết sử Stanley I.
Kutler viết trong Encyclopedia of The Vietnam War (New York: Simon
& Schuster McMillan: 1996) như sau:
“Đối với hầu hết người dân trong các thành phố, đời sống càng ngày
càng trở nên khó khăn. Vào năm 1972, có vào khỏang 800 ngàn trẻ em
mồ côi lang thang trên các vỉa hè trong các đường phố ở Sàigòn và
một số thành phố khác, sống bằng nghề ăn mày, đánh giầy, rửa xe, móc
túi và dẫn khách làng chơi về cho chính chị gái và mẹ của chúng. Có
vào khoảng 500 ngàn gái điếm và gái bán ba, trong đó có nhiều người
là bà vợ của anh em quân nhân trong quân đội miền Nam. Họ phải làm
cái việc ô nhục này để phụ cặp đồng lương chết đói của ông chồng
không đủ nuôi cho một người. Ngoài ra, lại còn có khoảng 2 đến 3
triệu người, trong đó có những người già cả hay thương phế binh của
quân đội miền
Nam không thể nào tìm được công ăn việc làm.
Vào năm 1974, tình trạng đói đã lan rộng ra nhiều nơi trên lãnh thổ
miền Nam. Theo cuộc thăm dò của anh em sinh viên Ca-tô thì ngay
trong khu vực giầu có nhất trong thành phố Sàigòn, chỉ có 1/5 tổng
số gia đình có đủ ăn, một nửa tổng số gia đình cho là có thể lo được
mỗi ngày một bữa cơm và một bữacháo bằng thứ gạo rẻ tiền nhất. Các
gia đình còn lại đều đói cả. Đói và thất nghiệp đưa đến tội ác, tự
tử và biểu tình trong khắp các vùng do chính quyền Sàigòn kiểm
soát.”
Stanley I. Kutler,
Encyclopedia of The Vietnam War (New York: Simon & Schuster
McMillan: 1996. Pp. 600-601. Nguyên văn: “Life became
increasingly hard for most people in the urban areas of South
Vietnam. By 1972 approximatly 800.000 orphans were roaming the
streets of Saigon and some other cities begging, shining shoes,
washing cars, picking pockets, and pimping for their sisters or
mothers. There were reportedly some 500.000 bargirls and
prostitutes, many of whom were wives of South Vietnamese soldiers
who participated in these activities to supplement their husbands’
salaries, which were usually inadequate to buy enough rice to feed
one person. In addition, there were about 2 to 3 million persons,
many of them older people or disabled RVNAF veterans, who could not
find work at all. By 1974 hunger had become so widespread that,
according to a poll conducted by Catholic students even in the
wealthiest section of Saigon, the Tan Dinh district, only one-fifth
of the families had enough to eat. Half of the families could afford
only one meal of steamed rice and one meal of gruel per day, the
remainder went hungry. Hunger and unemployment result in an increase
in crime, suicides, and demonstration throughout the areas under
South Vietnamese control.”
Trong khi đó, thi
ở các vùng nông thôn mà chính quyền Sàigon không thể kiểm soát được
bị quân đội Mỹ (với sự đồng thuận của chính quyền Diệm): “Cho rải
cho rải 77 triệu lít chất độc Da Cam xuống đồng ruông và rừng cây ở
miền Nam Việt Nam (Trung và Nam Bộ) gây ra tác hại nguy hiểm cho
2.63 triệu mẫu Tây (ha) và gần 5 triệu người sống trong 52.585 thôn
ấp.” Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam
(Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 35 và 171.,
Tình trạng này đã
khiến cho nhiều gia đình ở nông thôn đổ ra các thành phố để kiếm
việc làm. Vì thế các thành phố và tỉnh lý ở miền Nam càng ngày càng
đông dân hơn. Cũng vì thế mà có thêm nhiều người thị dân tiểu tư sản
thấm nhiễm nếp sống "trưởng giả học làm sang” hơn trước.
Thói Quen Huênh Hoang Khoác Lác Bịp Đời Của hạng Người Tiểu Tư Sản Học Làm Sang
Ngoài những thói
quen ghe tởm trên đây, các ông thị dân trưởng giả học làm sang còn
có thói quen huêng hoang khoác lác, bịp đời hết sức lố bịch, không
biết ngượng với lương tâm. Có thể là thói quen này cũng là con đẻ
của thói quen trưởng học giả sang trên đây. Đây là thói quen không
biết được sự hữu hạn về kiến thức hay cái biết của mình, mà cứ làm
ra vẻ ta đây là người học cao, hiểu rộng, thông kim bác cổ như là
một nhà đại trí thức. Người viết có khá
nhiều kinh nghiệm
về vấn đề này. Dưới đây là bằng chứng do chính cảc ông trí thức nửa
mùa này viết ra trong tác phẩm của họ (văn bia) mà ai cũng có thể
kiểm chứng được.
1.- Trường hợp ông
cựu luật sư, cựu thượng nghị sĩ Nguyễn Văn Chức. Ông cựu luật sư này
là tác giả cuốn Việt Nam Chính Sử (Falls Church, VA: Alpha, 1992)
trong đó nơi trang 259-60, sau khi nêu ra một số những điểm chính
của bức điện tín số 2063 đề ngày 30-10-1963 của Đại Sứ Henry Cabot
Lodge gửi về Hoa Kỳ, ông viết:
"Bức điện tín
2093 nói trên của đại sứ Lodge là một kiệt tác của sơ hở, mâu thuẫn
và ngu xuẩn.."."Tuân Tử của nước Tầu, Talleyrand của nước
Pháp và Metternich của nước Áo, hiện đang ngủ dưới đáy mồ, nếu được
đọc bức công điện của nhà ngoại giao Lodge, chắc chắn họ sẽ đội mồ
mà chỗi dậy, và kêu trời cái chất xám của chính giới Mỹ. Bất lương,
ngu xuẩn và mâu thuẫn. Có lẽ tướng Harkins cũng đã nhìn thấy cái bất
lương, ngu xuẩn và mẫu thuẫn của đại sứ Lodge …". Nguyễn Văn
Chức, Việt Nam Chính Sử (Falls Church, VA: Alpha,
1992), tr 259-260
Trong Quyển Hai của bộ sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã, người viết đã trình bày đầyđủ và rõ ràng cái hiện tượng quái đản mang căn bệnh hợm hĩnh, huênh hoang khóac lác củaông trí thức Da-tô "trưởng học làm sang" này. Ở đây xin ghi những điểm ông trí thức Da-tô nửa mùa này "dốt đặc không biết gì về đại triết gia Tuân Tử, không biết gì về một ông vua trở cờ, vua hối mại quyền thế Talleyrand trong thời Cách Mạng 1789 và thời Đại Đế Napoléon I, không biết gì về tư cách hèn hạ của nhân vật Metternich đã phải nhờ vào thế lực gia đình nhà vợ mới ngoi lên được vũ đài chính trị để làm tay sai đắc lực cho Tòa Thánh Vatican.” Vì thế mà người viết không bàn về nội dung bức điện tín số 2063 và cũng không bàn về việc ông Chức cho rằng bức điện tín là "một kiệt tác của sơ hở, mâu thuẫn và ngu xuẩn" mà chỉ đặt vấn đề là tại sao ông Chức đem nhà ngoại giao của Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge ở giữa thế kỷ 20 để so sánh với bậc đại hiền triết Tuân Tử của nước Trung Hoa trong thời Thượng Cổ, và dựa vào tiêu chuẩn nào để so sánh nhà ngoại giao Henry Cabot Lodge trong thời hậu bán thế kỷ 20 với hai nhà ngoại giao Talleyrand và Metternich của Âu Châu vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.
Chúng ta
hãy tìm hiểu xem sự so sánh như vậy có hợp lý hay không?
A.- Trước hết,
chúng ta hãy nhân xét việc ông Chức nói về việc ông Cabot Lodge so
sánh với nhà hiền triết Tuân Tử: Tài liệu nói về Tuân Tử cho thấy
rằng Tuân Tử là một bậc đại hiền của Trung Hoa, chứ không phải là
một nhà ngoại giao và cũng chưa hề bao giờ được chính quyền của nước
nào đề cử đến một quốc gia khác để du thuyết về một vấn đề gì. Ông
chỉ là một nhà hiền triết thuần túy. Người viết không thể nào hiểu
được tại sao ông Nguyễn Văn Chức lại đem so sánh nhà ngoại giao
Henry Cabot Lodge của siêu cường Hoa Kỳ ở vào giữa thế kỷ 20 với một
bậc đại hiền Trung Hoa trong thời Thuợng Cổ. Hai nhân vật thuộc hai thời đại khác
nhau, hoạt động trong những lãnh vực hoàn toàn khác nhau. So sánh
như vậy thì có khác nào đem con chim sống ở trên cây so sánh với con
cá sống ở dưới nước. Tại sao một người đã từng hành nghề luật sư ở
Sàigon vào những năm trước năm 1975 mà lai có thể làm một việc so
sánh kỳ cục đến vô lý như vậy? Phải chăng ông Nguyễn Văn Chức muốn
dùng cái danh tiếng của nhà đại hiền này để lòe thiên hạ, làm ra vẻ
ông ta là người thông kim bác cổ, đã đọc rất nhiều sách văn học và
lịch sử chăng?
B.- Bây giờ, chúng
ta xem việc ông Chữc đem ông Cabot Lodge ra so sánh với ông vua trở
cờ Talley rand và nhà chính khách Metternich dựa vào thế lực nhà vợ
để nhẩy lên sân khấu chính trị:. Tìm hiều các tài liệu nói về cuộc
đời và những thủ đọan hay mánh khóe của hai nhân vật này trong những
năm còn lăm le nhẩy lên sân khấu chính trị và
Qua nhiều năm tìm
hiểu, người viết thấy rằng, đặc tinh huênh hoang, khoác lác hợm hĩnh
là đặc tính chung của những tín đồ Da-tô người Việt trong giới cầm
bút và làm trong ngành truyền thông. Phần lớn, những người này, có
một số người có một chút kiến thức đã học xong chương trình của một
ngành chuyên môn ở đại học bậc cử nhân (undergraduate), có một số
nhiều người khác chưa học xong cấp 3 ở bậc trung học (trung học đệ
nhị cấp). Ấy thế mà họ lại học đòi theo cái thói "dởm"
trường giả học làm sang do người Pháp và các ông cố đạo du nhập vào
Việt Nam.
Không biết khi sỉ
vả ông Đại Sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge là "bất lương, ngu xuẩn
và mâu thuẫn";, ông Nguyễn Văn Chức có biết rằng khi làm
việc so sánh như vậy, chính ông Chúc đang làm một việc ";bất
lương, ngu xuẩn và mẫu thuẫn" hay không? Câu trả lời xin nhường
lại cho độc giả.
2.- Trường hợp ông
cựu thẩm phán Nguyễn Cần có bút hiệu là Lữ Giang và Tú Gàn. Ai cũng
biết rằng ông Nguyễn Cần là một tín đồ Da-tô đã học xong ba năm luật
được ưu tiên cho vào làm thẩm phán tại một tòa án trong chế độ đạo
phiệt Da-tô ở Miền Nam Việt Nam trong những năm trước tháng 4/1975.
Như vậy, căn bản chuyên môn của ông là luật học, chứ không phải
ngành sử. Cũng chỉ vì vừa là tín đồ Da-tô cuồng tín, vừa là người đã
từng giữ chức
Trong tác phẩm Evangelization
Vietnamese Buddhist Refugees đệ trình phân khoa thần học tại
Claremont (presented to the Faculty of the School of Theology at
Claremont) tháng 5 năm 1995, nơi trang 76, ông Nguyễn Xuân Sơn viết:
"We need not
be ashmed to share the saving power of Jesus Christ, whom, as we
have mentioned , the Buddhist refugees need the most in their time
of crisis. Moreover, we need to be more concerned about the
conversion of Buddhism, especially in the case of Mahayana. This I
believe, can be done only through dialogue with the Buddhist
intellectuals. Vietnamese tradition gives the highest respect to
scholars: "sĩ, nông, công, thương"; (The scholar is the
first, "second is the farmer, third is the government official,
and the last is the businessman). To that end, The Vietnamese
Christian Church, as a whole, need to prepare a working agenda for
the task of evangelization of Buddhists at the intellectual
level." 3 Viết đoạn văn trên đây, ông trí thức Kitô Tiến sĩ
Nguyễn Xuân Sơn để lộ cái dốt của ông ta về xã hội cổ truyền của dân
tộc Việt Nam. Nếu ông ta biết rõ cái dốt của ông ta về phạm vi này,
thì không có gì để nói cả. Thế nhưng, ông ta lại thích làm ra vẻ ta
đây là người hiểu biết, học cao hiểu rộng. Vì thế, ông ta mới rơi
vào tình trạng viết về xã hội tứ dân của Việt Nam trong"cái
thời trước khi đất nước ta rơi vào ách thống trị của liên minh giặc
Pháp – Thập Ác Vatican" là như vậy. (Công là công chức và
thương là nhà kinh doanh) . Đúng nghĩa của chữ "công"
trong xã hội tứ dân ở Việt Nam ngày xưa là "những người làm
nghề thủ công nghệ (artians) hay các ông thợ trong các nghề chuyên
môn như thợ mộc, thợ nề, thợ đóng cối xay, thơ chạm hay các nhà điều
khắc, còn "thương" có nghĩa là thương nhân (merchants),
chứ không phải là doanh nhân hay doanh nghiệp gia
"businessman".
4.- Ông Tiến sĩ
Vương Gia Thụy.- Ông tiến sĩ này là tác giả cuốn Getting To Know The
Vietnamese Culture (New York: Frederick Ungar Publishing, 1976),
trong đó nơi trang 22, ông viết:
"The
Vietnamse man: According to Confucian teaching, to be a man one must
take four important steps: he must be first know how to ciltivate
himself (tu thân); then he must govern or run his family properly
(tề gia ); without these two prerequisites, he might not be able to
rule the country (trị quốc); and only after fulfillment of the three
above required steps might he pacify the whole world (bình thiên
hạ). In order to achieve the first step of self-cultivation, he must
meet five requirement: 1) he must be merciful, kind, beneviolent,
and human (nhân) ; 2) he must adhhere to rites and ceremonies and
strictly observe the family and social hierarchies (lễ); 3) he must
help the needy and
desperate (nghĩa); 4) he must have strong will power and
determination (chí); 5) he should be consistent and loyal so that
people can trust and have confidence in him (tín)." 4
Ông Tiến-sĩ này
không hiểu được từ hay chữ "nghĩa" trong đạo Khổng và hiểu
lầm chữ "trí" sang chữ "chí" trong bản văn nói
về phần này của nền đạo lý Khổng Mạnh. Mong rằng ông tiến sĩ Vương
Gia Thụy cũng nên tìm đọc cuốn the Ageless Chinese - A history by
Dun J. Li (New York:Charles's Sons, 1978) và đọc thêm cuốn A
Historical Survey of Educational Developments In Vietnam (Lexington,
Kentucky, University of Kentucky, 1959) của Tiến sĩ Vũ Tam Ích để
hiểu rõ về đạo Khổng. Trong trường hợp có thể đọc và hiểu được tiếng
Việt, ông Tiến-sĩ Thụy nên tìm đọc bộ sách Nho Giáo của tác giả Trần
Trọng Kim, Khổng Học Tinh Hoa của Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ và bộ sách
Khổng Học Đăng của cụ Phan Bội Châu để biết rõ về đạo Khổng.
5.- Trưởng hợp ông
Giáo-sư Nguyễn Ngọc Bích. Ông Nguyễn Ngọc Bích xuất thân từ một giá
đình quan lại trong thời Liên Minh Pháp – Thập Ác Vatican thống trị
Việt Nam và là một trí thức có tên tuổi ở hải ngoại. Ví không nhận
thức được cái hữu hạn trong cái mớ kiến thức mà ông đã học hỏi và
thâu nhận được trong cuộc đời của ông, cho nên ông mới nhẩy vào lãnh
vực văn học Việt Nam (có thể không nằm trong lãnh vực ông nghiên cứu
hay có nghiên cứu mà không được tường tận). Tình trạng vơ vào này
khiến cho ông đã dịch chữ “biển dâu” trong văn chương Việt Nam sang
tiếng Anh là “mulberry sea” và chữ “cá mè” thành chữ “sesame fish”.
Sư kiện này khiến cho ông Lê Trúc Huynh ghi lại mấy lời ngỡ ngàng
như sau: “Cách đây hơn 10 năm , tôi có đọc một vài bài thơ Việt được
một vị học thiệt có bằng Tiến Sĩ đàng hoàng và hình như ông ta cũng
có chân trong hội Văn Bút VN ở hải ngoại thì phải, dịch ra tiếng ...
Ăng Lê.
Ông dịch chữ
"biển dâu trong câu thơ". Biển dâu xanh ngát / hóa một cồn
lau / ra chữ “mulberry -sea" và chữ "cá mè" trong câu
"Phú ông xin đổi một xâu cá mè" ra chữ “ sesame
fish". Tôi ngơ ngẩn hoài một thời gian khá lâu về mấy chữ Việt
được dịch ra tiếng Anh này. Chả lẽ các thầy, cô dạy cho tôi chữ
"biển dâu" có nghĩa là sự thay đổi trong cuộc đời, xuất
xứ; từ câu "thương hải biến vi tang điền"( biển xanh
hóa ra ruộng dâu ), còn cá mè là tên 1 loại cá sông, ăn rất béo và
ngon miệng và mè là tên 1 loại hạt thuộc loại mễ cốc , đều dạy trật
lất hết sao?” 5
Và ông Aladin
Nguyên viết trong thaoluan@yahoogroups.com , ngày 30/6/2005 trong
đó có hai đoạn với
nguyên văn như sau:
“2.- Nguyễn ngọc
Bích vì háo danh muốn lấy le với đời, muốn trổ tài cho mọi người
biết ta đây là giỏi, là tài, là bậc thông thái nên gã đã đem thơ
Kiều của Nguyễn Du và những thơ hay của Việt Nam ra dịch sang tiếng
Anh, mà trong đó có câu "tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ
Xương" chuyển thành "Tho Xuong chicken soup" hoặc chữ
"biển dâu" (trải qua một cuộc bể dâu những điều trông thấy
mà đau đớn lòng hoặc biển dâu trong tích tang điền...) để trở thành
tiếng Anh là "mullberry sea"; một cách ẩu trỉ và ngu đần
đến thế.
3.- Vì chuyện
"biển dâu" (mullberry sea) này mà khi sinh tiền ký gỉa Tú
Rua Lê Triết đem nó ra mà phê bình, góp ý sửa sai với "giáo
sư" Nguyễn ngọc Bích qua nhiều số báo, ấy thế mà NNB đã viết
sai, làm quấy lại không biết phục thiện, sửa đổi lại bản dịch của
mình, lại còn ngoan cố cứng đầu, quay sang mắng chửi chụp mũ người
đã phê bình mình là ký gỉa Tú Rua Lê Triết một cách thậm tệ Nhưng
khi Ông Tu Rua Lê Triết sống thì Nguyễn Ngọc Bích không lần nào dám
hó hé lên tiếng với Ông ấy cả, dù là lên tiếng để tranh luận nói về
chuyện "biển dâu .. dâu bể" (mullberry sea) của cuộc đời,
hoặc là bàn đến một... tô canh gà nổi tiếng ở vùng Thọ Xương kia đi
chăng nữa.” 6
6.- Trường hợp ông
Da-tô Cao Thế Dung: Đây là nhân vật khá nổi bật về thành tích bịp
bợm và nói láo trong xã hội Da-tô ở miền Nam Việt Nam trước tháng
4/1975 và ở Bắc Mỹ từ mùa thu năm 1975 cho đến ngày nay. Những thành
tích ghê gớm này đều được sách báo hải ngoại trình bày khá đầy đủ và
cũng vì thế ông “tiến sĩ ma” này đã trở thành đề tài tiếu lâm trong
những lúc trà dư tửu hậu tại các bàn nhậu hay trong những giờ tán
gẫu của những người
1.- Lột Mặt Nạ
Những Con Thò Lò Chính Trị của tác giả Lê Trọng Văn (San Diego, CA:
Mẹ Việt Nam, 1991), nơi các trang 5-146.
2.- Một Ngày có 26
giờ của tác giả Nguyên Vũ (Houston, TX: Văn Hóa, 1995), nơi các
trang 133-146.
Ngoài ông Mai Thảo
và 6 nhân vật lừng danh nổi tiếng về xạo và huênh hoang khoác lác để
bịp đời như trên, còn có rất nhiều người khác xuất thân từ giai cấp
quan lại, phú hào hay thị dân cũng mang căn bệnh xạo và huênh hoang
khoác lác không kém gì các nhân vật trên đây. Điển hình là các ông
tiến sĩ thứ thiệt như Tiến-–sỉ sử học Hoàng Ngọc Thành, giáo-sư Phạm
Cao Dương, Tiến-sĩ Lâm Lễ Trinh, Tiến-sĩ Tôn Thất Thiện, Tiến sĩ
Nguyễn Văn Thắng bút hiệu
Thiện Ý (người hô
hào, kêu gọi 1 triệu rưỡi giáo dân Ki-tô nộp đơn kiện Tiến-sĩ Trần
Chung Ngọc và nhóm Giao Điểm về việc viết về những điều sai lầm và
tội ác trong Kinh Thánh Ki-tô và những khu rừng tội ác của Giáo Hội
La Mã trong gần hai ngàn năm qua), Bác-sĩ Nguyễn Thị Thanh (người
cùng Tiến Sĩ Nguyễn Văn Thắng hô hào và kêu gọi 1 tỉ rưỡi tín đồ
Ca-tô nộp đơn kiện Tiến-sĩ Trần Chung Ngọc và nhóm giao điểm như đã
nói ở trên), Tiến-sĩ Nguyễn Học Tập, Kỹ-sư Nguyễn Gia Kiểng, v.v…
Đây là những tín đồ Da-tô người Việt làm việc trong các cơ quan
truyền thông hay trong bộ máy tuyên truyền của Giáo Hội La Mã ở miền
Nam trong những năm 1954-1975 và ở hải ngoại cũng như ở trong nước
từ năm 1975 cho đến ngày nay.Làm thế nào để biết được hạng người
này?
Người ta thường
nói “Văn tức là người”. Đọc một bản văn hay một tác phẩm, chúng ta
không những có thể biết cả phong cách, tính tình ngay thẳng, chât
phác, thật thà hay quay quặt, lắt léo và lươn lẹo của tác giả, mà
còn có thế biết cả trình độ văn hóa cũng như kiến thức và kinh
nghiệm trong cuộc sống của tác giả nữa. Do đó, chúng ta chỉ có thể
kiểm chứng tình trạng nhập nhằng lẫn lộn, không biết phân biệt sự
khác nhau giữa chính và tà, giữa lẽ phải và
A.- Đọc những tác
phẩm của họ có liên hệ đến lịch sử Việt Nam như Việt Nam Tôn Giáo
Chính Trị Quan (1991) của Linh-mục Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Chính Sử
(1992) của cựu luật-sư Nguyễn Văn Chức, Những Bí Ẩn Đàng Sau Các
Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam (1994) và Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau
Cuộc Chiến Việt Nam (1999) của Lữ Giang, Bên Giòng Lịch Sử của
Linh-mục Cao Văn Luận, Việt Nam Huyết Lệ Sử (1996) của Cao Thế Dung,
Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1996) và Công Và
Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006
(San Jose: Nghĩa Phú, 2009) của Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân
Đức, Những Huyền Thoại & Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm (1998)
của Vĩnh Phúc, Ngô Đình Diệm: Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở (1989) của
Nguyễn Văn Châu, Việt Nam Giáo Sử của Linh-mục Phan Phát Huồn
(1965), Việt Nam: Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia - Cộng Sản - Tập I
(2002) của nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu,
Lương Văn Toàn, Lê Hữu Phú và Hoàng Đức Phương, Tổ Quốc Ăn Năn
(2001) của Nguyễn Gia Kiểng, Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê (1998)
của Minh Võ, Việt Nam Mất Lỗi Tại Ai? (1993) của Nguyễn Đức Chiểu,
Việt Nam 1945-1995 -Tập I (2004) của Lê Xuân Khoa, Khi Đồng Minh
Tháo Chạy (2005) của Tiến-sĩ Nguyễn Tiến Hưng, v.v…
B.- Theo dõi những
bài viết của họ có liên hệ đến lịch sử Việt Nam hay liên hệ với Giáo
Hội La Mã đăng trong các báo chí Việt Nam tại hải ngoại.C.- Theo dõi
những lời lẽ và luận cứ (trong các bài viết hay trong các E-mail
(điện thư),diền đàn điện tử)
trình bày quan điểm hay tranh luận giữa những người Việt hải ngoại
tự nhận là “những người Việt quốc gia” hay “những người quốc gia
chân chính yêu nước” Thường thường, họ không biết và không thể đưa ra
những luận cứ có khả năng thuyết phục, và rơi vào
thế bí đối với những sự thật nói về tội ác của Giáo Hội La Mã
và của tín đồ Da-tô trong việc cấukết với đế quốc thực dân Pháp đánh
chiếm và thống trị Việt Nam từ năm 1858 cho đến 1945 và trong thời
Kháng Chiến 1945-1954, cũng như đối với sự thật về cái quá khứ làm
Việt gian bán
Khổng giáo dạy rằng, "tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã". Ông Socrate (470-399 TTL) cũng dạy rằng, "Connais toi, toi-même". Vì thế, người dân Đông Phương chịu ảnh hưởng của nền văn minh Khổng Mạnh và những người Tây phương chịu ảnh hưởng của triết gia Scorate thuờng có tính tình thật thà chân chất "biết đến đâu, tâu đến đó" và"biết thì thưa thốt,không biết thì dựa cột mà nghe".
Ngược lại, trong
đạo Kitô, các nhà lãnh đạo của tôn giáo này cũng như tất cả các ông
chức sắc trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã và các nhà
truyền đạo của tôn giáo này là những tên đại bịp, đại nói láo và là
những tên đạo đức giả đại gian và đại ác, cho nên chính họ mới mắc
chứng bệnh huênh hoang, khoác lác, cố gắng tối đa dùng những điều
điều gian dối để lừa bịp người đời. Đây là sự thật rõ ràng nhất mà
bất kỳ người nào biết sử dụng lý tríị để tìm những điều họ nói hay
rao truyền và những hành động của họ cũng đều có thể nhìn ra thấy sự
thật này. Bằng chứng hiển nhiên là trong thực tế, họ chẳng biết gì
về thế giới thần linh, chẳng bíết là có thiên đường hay không, chẳng
biết là có địa ngục hay không. Ây thế mà cái miệng của họi vẫn cứ
thao thao bất tuyệt giảng giải về thiên đường, về hỏa ngục giống như
là các ngài đã ở thiên đường và đã ở địa ngục trở về. Nếu có người
xin họ cho biết địa chỉ của thiên đường và địa chỉ của hỏa ngục, thì
họ chỉ nói mơ hồ rằng thiên đường ở trên trời và địa ngục ở dước âm
ty, âm phủ. Nói rằng họ là những tên đại gian đại ác là vì những
rặng núi tội ác chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua là do
chính họ đã gây nên. Họ là những người chỉ có cái miệng phát thanh
như con vẹt và hành động như con chó Pavlov. Họ hoàn toàn dựa vào
những tín lý huyễn hoặc hoang đường được hệ thống hóa trong cái gọi
là đạo Kitô và nhờ quyền lực của Vatican mà trở thành những người có
những quyền lực tuyệt đối như một thứ bạo chúa ở trong phạm vi quản
nhiệm của họ. Cái hệ thống tín lý quái đản này gồm tòan những chuyện
hoang đường, phản nhân luân, bất nhân, bất nghĩa, bạop ngược, dã man
và cái nghề linh mục là cái nghề học về môn học "tán hươu tán
vượn, nói láo nói phét dùng để lòe đời, bịp đời hầu thủ lợi" giống
như chuyện quái đản rằng" ông Hà Bá tại khúc sông Chương Hà ở đât
Nghiệp Đô thuộc nước Ngụy ở Trung Hoa đòi cưới vợ mỗi năm một
làn". Học giả Charlie Nguyễn viết về môn thần học bịp bợm và
cái thực trạng "ăn ốc nói mò" của cái nghề làm linh mục
này như sau:
"Cái gọi là
sự học vấn của các trường tôn giáo hoặc sư uyên bác của các học sĩ
Ulamas thực chất chỉ là một môn học "tán hươu tán vượn" về
những điều huyễn hoặc của thần học (theology). Thần học của Hồi Giáo
cũng tương tự như thần học của Do Thái Giáo hoặc Kitô Giáo. Thần học
là một môn học đầy tính chất hoang tưởng viển vông nhảm nhí. Càng đi
sâu vào thần học, con người càng lún sâu vào "ốc đảo tâm
linh" xa rời thực tế và đầy đặc những định kiến sai lầm.
Những
mảnh bằng "Tiến Sĩ Thần Học" là những giấy chứng chỉ công nhận sự
ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ đến khi nào có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ
đó mới cảm thấy xấu hổ đã được cấp những mảnh bàng về thần học mà
thôi." (Charlie Nguyễn, Thực Chất Đạo Công Giáo Và Các
Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2003), tr 335- 336.
Các ông giáo sĩ và
tín đồ Da-tô là những người được rèn luyện theo khuôn mẫu
"tán hươu tán vượn" , rồi lại học hỏi được những
kinh nghiệm nói láo, tán dóc, huênh hoang khóac lác của những bậc
tiền bối hay đàn anh của họ trong cái nghề chuyên sống bằng cái nghề
đem chuyện trên trời nói cho người dưới đất nghe với một tài nghệ
siêu việt làm ra vẻ như là các ngài đã từng ở trên trời trở vể trần
thế nói lại cho tín đồ biết về sự thực mà chính mắt các ngài đã
chứng kiến ở trên đó. Nếu gọi đạo Kitô là văn hóa thì đây là thứ văn
hóa nói láo láo, văn hóa bịp, văn hóa tán hưou tán vượn. Cũng vì thế
mà mấy ông trí thức Kitô người Việt trên đây mới trở thành những tên
đại bịp, và chỉ có những hạng người đại bịp như vậy mới nói càn, nói
láo, nói bậy trong tác phẩm của họ như thế mà không biết ngượng với
lương tâm và biết nhục với mọi người.
KẾT LUẬN: Giới
người thị dân tiểu tư sản là con đẻ của xã hội Tây Phương, một xã
hội đã bị đạo Kitô La Mã khống chế và bị cưỡng bách phải tin theo hệ
thống tín tín lý hoang đường, huyễn hoặc, nhảm nhí, láo khoét, phản
nhân luân, phi nhân, bạo ngược và dã man đã có từ thế kỷ 4. Nói cho
rõ hơn, giới người thị dân trưởng giả học làm sang, thích làm dáng ở
Việt Nam là phó sản của Giáo Hội La Mã, cái giáo hội mà học giả
Da-tô Henri Guillemin đã phải gọi là "Cái Giáo Hội Khốn
Nạn" (Malheureuse Église), văn hào Voltaire gọi là "cái
tôn giáo ác ôn". Cái tôn giáo ác ôn này chuyên nghề sử dụng
những thủ đoạn bịp bợm để mê hoặc và lừa dối người
đời, chuyên môn
dùng bạo lực và khủng bố để khống chế nhân dân dưới quyền. Mãi cho
tới khi Cách Mạng Pháp bùng nổ vào năm 1789, nhân dân Âu Châu mới
dám đứng thẳng người lên chỉ vào mặt Vatican mà bảo rằng đạo Kitô là
"đạo bịp", rồi sử dụng những biện pháp mạnh "lấy bạo
lực để đối đầu với bạo lực"của Tòa Thánh Vatican và bọn tín đồ
Ca-tô cuồng tín tay sai tại các địa phương. Đạo Kitô vào Việt Nam từ
giữa thế kỷ 16 để dọn đường và chuẩn bị đi rước giặc Pháp vào Việt
Nam. Sau đó không bao lâu, cái phó sản"trưởng giả học làm sang"
thích làm dáng cùng những tất cả đặc tính "dởm" (kiểu cách
lòe đời) của nó trong xã hội Da-tô củng theo chân người Pháp vào
Việt Nam, để rồi lan tràn ra hết tất cả thị trấn đông người ở rải
rác trong toàn
quốc. Cũng vì thế mà ngày nay ở hải ngoại có đầy dẫy những người
Việt mang căn bệnh "trưởng giả học làm sang" và “dởm hết sức
dởm” giống y hệt như mấy ông trí thức Da-tô nửa mùa đã được người
viết nêu đích danh ở trên. Hạng người này cũng thường lanh chanh,
băng xăng, bắng nhắng trong mấy cái hội đồng chuột, trong đám người
tư nhận là “người Việt Quốc Gia chân chính” cương quyết “giữ vững
lằn ranh Quốc – Cộng” thường hay tụ tập với nhau, hè nhau "rung
đùi phun chí lớn" tại các địa phương ở Bắc Mỹ.
PHỤ BẢN
PHƯƠNG XA
Nhổ neo rồi
thuyền ơi xin mặc sóng
Xô về Đông hay
giạt tới phương Đoài.
Xa mặt đất
giữa vô cùng cao rộng,
Lòng cô đơn
cay đắng họa dần vơi.
Lũ chúng ta
lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương
ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Bể vô tận sá
gì phương hướng nữa,
Thuyền ơi
thuyền theo gió hãy lênh đênh
Lũ chúng ta
đầu thai nhầm thế kỷ,
Một đôi người
u uất nỗi chơ vơ.
Đời kiêu bạc
không dung hồn giản dị.
Thuyền ơi
thuyền xin ghé bến hoang sơ.
Men đã ngấm,
bọn ta chờ nắng tắt,
Treo buồm cao,
cùng cao tiếng hò khoan.
Gió đã nổi
nhịp giăng chiều hiu hắt,
Thuyền ơi
thuyền theo gió hãy cho ngoan.
Vũ Hoàng Chương
CHÚ THÍCH
1 Nhiều tác giả,
Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tuyển Tập 2 (Spring, TX: Ban Nghiên Cứu
Ðạo Giáo, 1998), tr.116..
2 Nguyễn Tấn Long
& Nguyễn Hữu Trọng, Thi Nhân Tiền Chiến - Quyển Thượng (Sàigòn:
Sống Mới, 1968) tr 683.
3 Son Xuan Nguyen,
Evangelization Vietnamese Buddhist Refugees (Ann Arbor. Michigan,
Umi Dissertation Services, 199), tr
76.
4Vuong Gia Thụy,
Getting To Know The Vietnamese Culture (New York: Frederick Ungar
Publishing, 1976, tr 22.
5 Lê Trúc Huỳnh.
“Linh Hồn Ðánh Mất.” www.VietHaven.com Ngày 19/12/2002.
6 Aladin Nguyên.
“Nguyễn Ngọc Bích là ai?”thaoluan@yahoogroups.com, ngày 30/6/2005.
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Giai Cấp Thị Dân Và Các Nhóm Trưởng Gỉa Học Làm Sang Nguyễn Mạnh Quang
Những Yếu Tố Thuận Lợi Giúp Cho Chữ Quốc Ngữ Latin Phát Triển
Hậu Qủa Thời Pháp Thuộc: Lịch Sử,Văn Hóa Việt Bị Xóa Trắng Kim Âu
Vatican 5 Lần Vận Động Ngoại Cường Xâm Lược Việt Nam Nguyễn Mạnh Quang
Giáo Hội La Mã: Lịch Sử - Hồ Sơ Tội Ác Nguyễn Mạnh Quang
https://www.bishop-accountability.org/category/news-archive/abusetracker/
https://en.wikipedia.org/wiki/Catholic_Church_sex_abuse_cases_in_the_United_States
https://hockinhthanh.weebly.com/uploads/7/8/3/9/7839436/khai_huyen_-_warren_w._wiersbe.pdf
https://www.dautruongdanchu.org/2018/11/ngo-inh-diem-la-tam-ai-viet-gian.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%87m
https://lyhoclythuyet.blogspot.com/2015/08/vi-sao-goi-la-tam-ai-viet-gian.html
https://nghiencuulichsu.com/2013/11/21/ngo-dinh-diem-ong-la-ai/
https://luatkhoa.org/2019/05/luoc-khao-tu-tuong-ho-chi-minh-ly-tuong-ngo-dinh-diem/
https://thuvienhoasen.org/a16584/37-ngo-dinh-diem-mot-so-danh-gia-suu-tam-cua-le-xuan-nhuan
https://onnguonsuviet.com/a716/che-do-doc-tai-ngo-dinh-diem-phan-10-
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu