MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Giờ Thứ 25

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều

vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvViệt Học

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật KhoavVăn Chương

vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu TrữvSoHa

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNMvB́nh Dân

 

LỊCH SỬ PHÁP THUỘC

 

http://thuykhue.free.fr/rfi/index.html

 

 

KHẢO SÁT CÔNG TRẠNG CỦA NHỮNG NGƯỜI PHÁP GIÚP VUA GIA LONG

 

Chương 3

 

GiaLong 01 Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777-1802

 

(Phần 1)

 

Trước khi t́m hiểu công trạng của những người Pháp “giúp vua Gia Long dựng nghiệp”, chúng ta cần nh́n lại bối cảnh chung của cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, trong 25 năm, từ 1777 đến 1802, khi Gia Long thống nhất đất nước.

 

Chương này tóm lược bối cảnh chiến tranh qua lăng kính của Đại Nam Thực Lục và Đại Nam Liệt Truyện. Tuy gọi Tây Sơn là ngụy, là giặc, nhưng sử gia triều Nguyễn ghi chép rất kỹ về giai đoạn này.

 

Những chương kế tiếp, chúng tôi sẽ giới thiệu tài liệu của những người Tây Phương sống cùng thời, xem họ viết như thế nào; để đối chiếu với những điều do các nhà nghiên cứu, các sử gia thuộc địa viết, xem sự khác biệt ra sao.

 

Tổng hợp cả ba loại tài liệu trên, chúng ta sẽ có thể t́m ra sự thực lịch sử.

 

Chúa Nguyễn chạy vào Gia Định

 

Chúa Nguyễn, ở trong Nam, kể từ Nguyễn Hoàng (1600-1613) đến Vơ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) là đời thứ tám. Vơ Vương mất, di chúc lập con thứ hai là Nguyễn Phước Luân, cha của Nguyễn Phước Ánh lên ngôi. [Hoàng tử cả là Nguyễn Phước Chương mất sớm, hoàng tử thứ chín là Nguyễn Phước Hiệu được chọn làm thế tử, cũng mất; con là hoàng tôn Nguyễn Phước Dương c̣n nhỏ].

 

Trương Phúc Loan chuyên quyền, bắt Nguyễn Phước Luân giam vào ngục, tha về th́ chết. Phước Luân được gọi là Hưng tổ.

 

Nguyễn Ánh mới 3 tuổi (tên húy là Chủng, Noăn và Ánh, sinh ngày 8/2/1762). Chủng là tên lúc nhỏ, lớn dùng tên Ánh.

 

Trương Phúc Loan lập con thứ 16 của Vơ Vương là Nguyễn Phước Thuần, sinh năm Giáp Tuất (1754), lên ngôi lúc 11 tuổi, tức Duệ Tông Hiếu Định Hoàng Đế c̣n gọi là Định Vương.

 

Tháng 3/1773 (tháng 2 Quư Tỵ), Tây Sơn khởi nghiệp. Chiếm Qui Nhơn, Quảng Nam, Quảng Ngăi và B́nh Thuận.

 

Tháng 4-5/1774 (tháng 4 Giáp Ngọ), Tống Phước Hiệp, tướng nhà Nguyễn, chiếm lại được B́nh Thuận, Diên Khánh, B́nh Khang.

 

Ở Bắc, chúa Trịnh Sâm (1767-1782) thấy trong Nam có biến, bèn quyết định đánh.

 

Tháng 6-7/1774 (tháng 5 ÂL.) quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc làm thống tướng cùng Bùi Thế Đạt, Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đ́nh Thể tiến vào Nam.

 

Tháng 11/1774 (tháng 10 ÂL.) quân Trịnh vượt sông Gianh.

 

Tháng 12/1774 (tháng 11 ÂL.) Trịnh Sâm đem thủy quân vào Nghệ An, đóng ở Hà Trung [Theo Đại Nam Nhất thống chí, phủ Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hoá, tập 2, t. 226]

 

Cuối tháng 1/1775 (tháng 12 Giáp Ngọ) Hoàng Ngũ Phúc chiếm được Phú Xuân [Huế].

 

Tháng 2/1775 (tháng 1/Ất Mùi) Định Vương chạy vào Quảng Nam, lập cháu là Nguyễn Phước Dương làm Thế tử (Đông cung) sai ở lại trấn thủ Quảng Nam, rồi cùng cháu là Nguyễn Phước Ánh (13 tuổi) con thứ ba của Hưng tổ và cung quyến chạy vào Gia Định.

 

Chữ Gia Định, thời ấy, vừa chỉ Sài G̣n, vừa chỉ cả miền Nam.

 

Ánh, dù nhỏ tuổi, được dự bàn việc quân, với chức Chưởng sử, coi quân Tả dực. (Thực Lục, I, t. 204). Tống Phước Hiệp làm Tiết chế.

 

Mạc Thiên Tứ đem các con đến yết kiến, được thăng làm Đô đốc, các con làm Chưởng Cơ, Cai Cơ, đóng giữ đạo Trấn Giang [An Giang-Hà Tiên].

 

Nguyễn Nhạc tiến đánh Quảng Nam.

 

Đông Cung đóng quân ở Cu Đê [cửa biển Cu Đê cách huyện Ḥa Vang 27 dặm về phiá Bắc].

 

Tháng 3/1775 (tháng 2 ÂL.) Hoàng Ngũ Phúc vượt Hải Vân vào đánh Quảng Nam.

 

Nguyễn Nhạc cùng các tướng Tập Đ́nh và Lư Tài, người Tầu, giao tranh với quân Trịnh của Hoàng Đ́nh Thể và Hoàng Phùng Cơ ở Cẩm Sa. Thua trận, Tập Đ́nh trốn về Quảng Đông. Lư Tài chạy về Bản Tân [biên giới Quảng Nam].

 

Nguyễn Nhạc đem Đông cung về Quy Nhơn.

 

Tháng 6/1775 (tháng 5 ÂL.), Tống Phước Hiệp chiếm lại Phú Yên.

 

Tháng 8/1775 (tháng 7 ÂL.), Nguyễn Huệ tấn công Phú Yên. Hiệp thua, lui giữ Ḥn Khói.

 

Tháng 11/1775) (tháng 10 ÂL.), Hoàng Ngũ Phúc, đóng ở Châu Ổ [địa giới Quảng Ngăi], quân bị bệnh dịch, chết một nửa, xin Trịnh Sâm rút về Thuận Hoá, rồi mất ở dọc đường.

 

Châu Văn Tiếp, người Phú Yên, đem 1000 quân về theo Tống Phước Hiệp. Lư Tài bỏ Tây Sơn theo chúa Nguyễn.

 

Đỗ Thanh Nhơn chiếm lại Gia Định

 

Tháng 3-4/1776 (tháng 2/ Bính Thân), Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ vào chiếm Gia Định.

 

Tống Phước Hựu đưa Định Vương chạy về Trấn Biên [Biên Hoà], mộ quân cần vương.

 

Tháng 4-5/1776, (tháng 3 ÂL.) Nguyễn Nhạc đắp thành Trà Bàn [Quy Nhơn], lên ngôi vua là Tây Sơn Vương. Cho Lữ làm thiếu phó, Huệ làm phụ chính (Thực Lục ghi tháng 3, Liệt truyện ghi tháng 2 ÂL.).

 

Tháng 6-7/1776 (tháng 5 ÂL.), Đỗ Thành Nhơn, thủ lănh hảo hán ở Ba Giồng tập hợp Nguyễn Huỳnh Đức (Nguyễn Hoàng Đức), Trần Búa, Đỗ Vàng, Đỗ Tai, Vơ Nhan, Đỗ Bảng và 3000 quân “Đông Sơn cần vương”, tự xưng là Đông Sơn thượng tướng quân, chiếm lại Gia Định.

 

Ba Giồng tức Tam Phụ, nơi tụ hợp ba sông Yến, Kỳ Lân và Qua Qua, có g̣ đống chập chùng, cây cối um tùm, vị trí hiểm trở, phía trước là sông cái, phiá sau, rừng chằm, là chỗ tụ nghiă của đảng Đông Sơn, Đỗ Thanh Nhơn là chủ soái (Đại Nam nhất thống chí, Tập 5, t. 95).

 

Đỗ Thanh Nhơn và Nguyễn Huỳnh Đức trở thành những đại tướng của Nguyễn Ánh.

 

Quân Đông Sơn tiến đánh Gia Định, Nguyễn Lữ thua chạy, kịp chở kho thóc 200 thuyền, về Quy Nhơn.

 

Tháng 7-8/1776 (tháng 6 ÂL.), Tống Phước Hiệp chết. Lư Tài làm phản, giữ núi Châu Thới. Đỗ Thanh Nhơn đánh không được. Định Vương phải chạy trốn.

 

Tháng 11-12/1776 (tháng 10 ÂL.), Đông cung trốn Nguyễn Nhạc về Gia Định, đem quân dẹp Lư Tài. Nh́n thấy cờ hiệu, Lư Tài quy hàng.

 

Tháng 12/1776-1/1777 (tháng 11 ÂL.) Lư Tài đón Đông Cung về Sài G̣n. Định Vương nhường ngôi cho Đông Cung làm Tân Chính Vương, c̣n ḿnh lên làm Thái Thượng Vương.

 

Đội trưởng Vơ Di Nguy và Tô Văn Đoài đem 200 quân, từ Quy Nhơn, về giúp chúa Nguyễn.

 

Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ nhất, diệt chúa Nguyễn

 

Tháng 2/1777 (tháng 1/Đinh Dậu) Nguyễn Nhạc xin Trịnh Sâm làm trấn thủ Quảng Nam để yên mặt Bắc. Sau khi Hoàng Ngũ Phúc chết, Trịnh Sâm cũng không muốn tiếp tục chiến tranh, thuận cho.

 

Tháng 4-5/1777 (tháng 3 Đinh Dậu), Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ vào đánh Gia Định.

 

Lư Tài giữ Sài G̣n. Tân Chính Vương giữ Trấn Biên [Biên Hoà].

 

Lư Tài thua chạy đến Tam Phụ [Ba Giồng, thuộc Định Tường] bị quân Đông Sơn giết chết. Tân Chính Vương lui về Tranh Giang [Gia Định].

 

Định Vương chạy đến Đăng Giang [Định Tường].

 

Nguyễn Ánh đem 4000 quân Đông Sơn đến đón, Định Vương đem quân về Tài Phụ [Giồng Tài, Gia Định].

 

Tháng 5/1777 (tháng 4 ÂL.), Nguyễn Huệ đánh Tài Phụ. Định Vương chạy sang Long Hưng, bị đuổi, chạy đến Cần Thơ hợp với quân của Mạc Thiên Tứ, sau khi thua ở Hà Tiên chạy về.

 

Định Vương sai Đỗ Thanh Nhơn đi B́nh Thuận gọi Châu Văn Tiếp, Trần Văn Thức về cứu.

 

Tây Sơn đánh Tranh Giang. Tân Chính Vương lui về Trà Tân [Định Tường], Chưởng cơ Thiêm Lộc đón Vương đến Ba Việt [Vĩnh Long].

 

Tân Chính Vương sai Tống Phước Hựu giữ Mỹ Lung [Vĩnh Long], Thiêm Lộc giữ Hương Đôi [Vĩnh Long]. Tống Phước Hoà thống lănh quân đội.

 

Tháng 8/1777 (tháng 7 ÂL.), Trần Văn Thức kéo quân Phú Yên về giúp, thua trận, chết ở B́nh Thuận.

 

Tây Sơn đánh Ba Việt, các tướng Tôn Thất Chí, Nguyễn Mẫn, Tống Phước Hựu đều bị bệnh chết, chỉ c̣n một ḿnh Chưởng cơ Tống Phước Hoà chống trả, thắng nhiều trận.

 

Tháng 9/1777 (tháng 8 ÂL.), Nguyễn Huệ đích thân đánh Hương Đôi. Thiêm Lộc chạy đi Ba Việt. Tân Chính Vương thấy quân ít thế cô, muốn chạy lên B́nh Thuận, họp với quân Châu Văn Tiếp, nhưng không thành. Tống Phước Hoà thấy không thể cứu được chúa, tự tử.

 

Ngày 19/9/1777 (ngày Tân Hợi 18/8/Đinh Dậu) Tân Chính Vương và 18 quan theo hầu bị giết. Sau được truy tặng là Mục Vương.

 

C̣n Định Vương Nguyễn Phước Thuần chạy đi Long Xuyên.

 

Tháng 10/1777 (tháng 9 ÂL.), Nguyễn Huệ sai Chưởng cơ Thành đánh Long Xuyên.

 

Ngày 18/10/1777 (ngày Canh Th́n 18/9/Đinh Dậu), Định Vương bị giết cùng với Tôn Thất Đồng (con thứ hai Hưng tổ, anh ruột Nguyễn Ánh) và các tướng: Trương Phúc Thận, Lưu thủ Lương (không rơ họ), Nguyễn Danh Khoáng.

 

Một ḿnh Nguyễn Ánh, 15 tuổi, chạy thoát.

 

Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn, để các tướng Chu, Hăn, Oai, Hoà, Chấn (không rơ họ) chia giữ các dinh ở Gia Định.

 

Nguyễn Ánh lấy lại Gia Định, xưng vương

 

Một tháng sau, Nguyễn Ánh xuất hiện lại ở Long Xuyên.

 

Tháng 11/1777 (tháng 10 ÂL.), Nguyễn Ánh tiến đến Sa Đéc cùng Đỗ Thanh Nhơn, Lê Văn Quân, họp với các tướng cũ: Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Dương Công Trừng, Hồ Văn Lân.

 

Tháng 12/1777 (tháng 11 ÂL.), quân Nguyễn đánh úp Long Hồ [Vĩnh Long].

 

Tháng 1/1778 (tháng 12 Đinh Dậu) Đỗ Thanh Nhơn chiếm Sài G̣n.

 

Tháng 2/1778 (tháng 1 Mậu Tuất) Nguyễn Ánh, 16 tuổi, được các tướng tôn làm Đại nguyên soái.

 

Tháng 3/1778 (tháng 2 ÂL.), Tổng đốc Chu (Tây Sơn) đánh Trấn Biên [Biên Hoà] và Phiên Trấn [Gia Định].

 

Tháng 4/1778 (tháng 3 ÂL.), Nguyễn Ánh sai đóng hơn 50 chiến hạm gọi tên là thuyền hiệu [tức là tầu chiến] Long Lân và mua nhiều bè hoả công.

 

Tháng 6/1778 (tháng 5 ÂL.), Lê Văn Quân và Đỗ Thanh Nhơn dẹp xong quân Tây Sơn ở Gia Định, Lê Văn Quân tiến đánh B́nh Thuận.

 

Tháng 6/1778, tại Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, hiệu Thái Đức, phong Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.

 

Trong hai năm (1778-1779), ở tuổi 16 và 17, Nguyễn Ánh tổ chức lại Gia Định.

 

Tháng 4-5/1779 (tháng 3 Kỷ Hợi), Ánh rước Từ cung từ Quảng Trị về Gia Định (khi Hoàng Ngũ Phúc chiếm Phú Xuân năm 1774, mẹ Nguyễn Ánh và các công chúa chạy ra Quảng Trị).

 

Tháng 7-8/1779 (tháng 6 ÂL.), Ánh sai Đỗ Thanh Nhơn, Hồ Văn Lân, Dương Công Trừng đánh Chân Lạp, giết Nặc Vinh (kẻ thoán đoạt), lập Nặc Ấn lên ngôi, để Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ Chân Lạp.

 

Tháng 12/1779-1/1780 (tháng 11 ÂL.) Ánh chia lại đất Gia Định. Lập hành chính và quan thuế.

 

Ngày 28/2/1780 (ngày Quư Măo 24/1/Canh Tư) Nguyễn Ánh xưng vương.

 

Thăng chức cho các tướng: Đỗ Thanh Nhơn, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Nguyễn Đ́nh Thuyên, Trần Đại Thể.

 

Lập các bộ: Lại, do Hồ Đồng phụ trách. Hộ, Trần Phúc Giai. Lễ, Nguyễn Nghi. Binh, Minh (Không rơ họ). H́nh, Trần Minh Triết.

 

Ngày 6/4/1780 (ngày Tân Tỵ 2/3/Canh Tư) sinh hoàng tử Cảnh, con của nguyên phi Tống thị, con gái Tống Phước Khuông, Ánh cưới năm Mậu Tuất (1778), lúc 16 tuổi.

 

Tháng 5/1780 (tháng 4 ÂL.) Đỗ Thanh Nhơn và Dương Công Trừng, t́m cách móc các thuyền chiến lại với nhau, đánh chiếm được Trà Vinh.

 

Tháng 7/1780 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Vương sai 2 cai cơ Sâm, Tĩnh sang Xiêm thông hiếu. Cùng lúc ấy, một thuyền buôn Xiêm đi qua Hà Tiên bị lưu thủ Thăng cướp và giết; rồi một người Chân Lạp tâu bịa với vua Xiêm là Gia Định đă gửi mật thư sai Tôn Thất Xuân, Mạc Thiên Tứ làm nội ứng để chiếm Vọng Các. Vua Xiêm nổi giận, giam Sâm, Tĩnh và bắt gia đ́nh Mạc Thiên Tứ hỏi tội. Mạc Tử Duyên (con Mạc Thiên Tứ) bị đánh chết. Mạc Thiên Tứ tự tử. Tôn Thất Xuân, Sâm và Tĩnh cùng quyến thuộc của Mạc Thiên Tứ, 53 người đều bị hại.

 

Tháng 8/1780 (tháng 7 ÂL.) Nguyễn Vương lại sai đóng thêm thuyền chiến. Đỗ Thanh Nhơn sáng tạo thuyền trường đà (bánh lái dài), rất lợi hại.

 

Tháng 4/1781 (tháng 3/Tân Sửu) Đỗ Thanh Nhơn chuyên quyền bị giết. Quân Đông Sơn nổi dậy.

 

Tháng 5-6/1781 (tháng 5 ÂL.) Vương duyệt binh: khoảng 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 thuyền chiến lớn, 2 tầu Tây, định đánh Tây Sơn, nhưng xẩy ra cuộc biến Đông Sơn, phải rút quân về.

 

Tháng 6-7/1781 (tháng 5 nhuận), thuộc hạ của Đỗ Thanh Nhơn làm phản. Phải dẹp măi.

 

Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ nh́

 

Tháng 4-5/1782 (tháng 3/Nhâm Dần) Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem 100 chiến thuyền đánh vào cửa Cần Giờ.

 

Nguyễn Vương sai Tống Phước Thiêm thống lănh quân đội, bày thủy trận chống cự ở Ngă Bẩy [c̣n gọi là Thất kỳ giang, nơi bẩy ḍng họp lại chằng chịt nhau, ở Biên Hoà, cách huyện Phước An 37 dặm về phiá tây bắc]. Quân Nguyễn thua to.

 

Một ḿnh cai cơ người Pháp tên là Mạn Hoè (Manuel hay Emmanuel) đi tầu Tây, cố sức đánh rất lâu. Mạn Hoè do Bá Đa Lộc giới thiệu, được giữ chức cai cơ, coi đội Trung Khuông. Tây Sơn đốt tầu, Mạn Hoè chết cháy. Được truy tặng là Hiếu nghiă công thần phụ quốc thượng tướng quân. Được thờ ở đền Hiển Trung ở Gia Định (Thực Lục, I, t. 211-212, Liệt truyện, tập 2, t. 506). Đối với triều Nguyễn, Mạn Hoè là người Pháp có công lớn nhất trong thời kỳ lịch sử này.

 

Nguyễn Ánh đốc binh giao tranh ở Ngă Ba [Ngă ba Nhà Bè, Biên Hoà, cách huyện Long Thành 32 dặm về phía tây Nam], Ánh thua, chạy đi Ba Giồng [Định Tường]. Tống Phước Thiêm, v́ lúc trước xui vua giết Đỗ Thanh Nhơn bị quân Đông Sơn thù, giết chết.

 

Nguyễn Ánh chạy ra Phú Quốc.

 

Tháng 6-7/1782 (tháng 5 ÂL.) Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ trở về Qui Nhơn, để hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ Gia Định.

 

Châu Văn Tiếp chiếm lại Gia Định

 

Tháng 9-10/1782 (tháng 8 ÂL.), Châu Văn Tiếp chiếm lại Gia Định, đón Nguyễn Ánh về.

 

Nguyễn Ánh sửa sang quân ngũ:

 

Châu Văn Tiếp làm ngoại tả Chưởng dinh, Tôn Thất Dụ làm ngoại hữu Chưởng dinh, vv…

 

Sai cai cơ Trung thủy Vơ Di Nguy, cai cơ Tiền thuỷ Trương Phúc Dĩnh tập hợp những thủy binh ngạch cũ, sửa đóng chiến thuyền.

 

Tây Sơn quyết định đánh Gia Định.

 

Nguyễn Ánh được tin Tây Sơn sắp vào, sai đắp đồn Thảo Câu [Vàm Cỏ] và đồn Dác Ngư [Cá Dốc] ở phiá Nam và phía Bắc sông lớn Gia Định, giao cho Dương Công Trừng và Tôn Thất Mân giữ. Trên sông dàn 100 chiến thuyền do Châu Văn Tiếp, Tôn Thất Cốc, Vơ Di Nguy… quản thủ. Giám quân Tô coi bè hoả công.

 

Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ ba

 

Tháng 2/1783 (tháng 1 Quư Măo), đại binh Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ từ cửa Cần Giờ đánh lên, tư khấu Nguyễn Văn Kim đánh bờ Bắc, đô đốc Lê Văn Kế đánh bờ Nam.

 

Bè hoả công của quân Nguyễn bị ngược gió, quay trở lại đốt thuyền ḿnh. Tôn Thất Mân tử trận, Dương Công Trừng bị bắt. Châu Văn Tiếp chạy sang Xiêm cầu cứu.

 

Nguyễn Ánh chạy đi Ba Giồng, bầy tôi chỉ c̣n nhóm Nguyễn Kim Phẩm 5, 6 người. Số quân không đầy 100.

 

Tháng 5/1783 (tháng 4 ÂL.), Nguyễn Ánh lại tập họp các đạo quân, Nguyễn Kim Phẩm tiên phong, đóng ở Đồng Tuyên [Gia Định].

 

Nguyễn Huệ tiến đánh Đồng Tuyên. Quân Nguyễn thua to. Các tướng: Đồng bị bắt; Minh, Quư, Thuyên, Huề, đều tử trận.

 

Nguyễn Ánh chạy đi Lật Giang [Gia Định] nước sông chảy mạnh. Ánh bơi giỏi, thoát chết, binh sĩ chết đuối nhiều. Ánh đi Mỹ Tho, lấy thuyền chở cung quyến ra Phú Quốc, sai Tôn Thất Cốc và Trần Đĩnh ra Cần Giờ thăm thú t́nh h́nh. Đĩnh không theo lệnh, bị Cốc giết. Đồ đảng của Đĩnh là Trần Hưng và Lâm Húc (người Tầu) chiếm giữ Hà Tiên. Nguyễn Kim Phẩm về Hà Tiên thu quân.

 

Thái trưởng công chúa Ngọc Đảo (con thứ bẩy Vơ Vương, cô Nguyễn Ánh) cũng đến coi việc quân nhu, đều bị bọn Hưng giết. Nguyễn Ánh hay tin, đem binh thuyền đến đánh, Hưng, Húc bỏ chạy. Tướng Xiêm Vinh Li Ma đem 200 quân và chục chiến thuyền đến theo.

 

Tháng 7/1783 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Ánh đóng ở ḥn Điệp Thạch (đá chồng) Phú Quốc, Phan Tiến Thuận (Tây Sơn) đến đánh, Lê Phúc Điển mặc áo ngự, liều ḿnh cứu vua.

 

Tháng 7/1783, Tôn Thất Điển (con thứ sáu Hưng tổ, em Nguyễn Ánh), Tôn Thất Cốc, chưởng cơ Hoảng và Vinh Li Ma đều bị Tây Sơn bắt, giết. Vợ Hoảng tự tử.

 

Nguyễn Ánh chạy thoát ra Côn Lôn.

 

Tháng 8/1783 (tháng 7 ÂL.) Nguyễn Huệ sai pḥ mă Trương Văn Đa vây Côn Lôn. Nhờ băo, thuyền Tây Sơn bị đắm, Nguyễn Ánh vượt ṿng vây, đến đảo Cổ Cốt, rồi quay về Phú Quốc.

 

Quân lính phải ăn cỏ, ăn rễ cây. Nguyễn Đức Xuyên liều chết kiếm đồ ăn cho Nguyễn Ánh.

 

Nghe tin Bá Đa Lộc ở Chân Bôn (Chantabun, Xiêm), Ánh sai người đến mời. Trao hoàng tử Cảnh, 3 tuổi, cùng với quốc ấn cho Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, để mẫu hậu và hoàng hậu ở lại Phú Quốc. (Thực Lục I, t. 218). Tuy nhiên trong thư viết từ Pondichéry ngày 20/3/1785 cho Hội truyền giáo, Bá Đa Lộc không nói đến việc này (Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, III, t. 84-92).

 

Thuyền Nguyễn Ánh tới cửa biển Ma Li [huyện Yên Phước, tỉnh B́nh Thuận] bị vây rất ngặt, chạy quanh bẩy ngày đêm, mới trở lại được Phú Quốc. Quần thần c̣n lại: Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội, Đỗ Văn Hựu, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm và Nguyễn Đức Xuyên.

 

Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ về lại Quy Nhơn, để Trương Văn Đa ở lại giữ Gia Định.

 

Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm

 

Tháng 2/1784 (tháng 1 Giáp Th́n) Nguyễn Ánh trú ở đảo Thổ Châu.

 

Tháng 2-3/1784 (tháng 1 nhuận) Hồ Văn Lân, Tôn Thất Hội, Lê Văn Quân, thua trận, chạy sang Xiêm.

 

Tháng 3-4/1784 (tháng 2 ÂL.) Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm, có hơn 30 quan đi theo và vài chục lính.

 

Tháng 4-5/1784 (tháng 3 ÂL.) Nguyễn Ánh đến Vọng Các, được tiếp đón tử tế.

 

Châu Văn Tiếp sau khi thua trận đă sang Xiêm cầu viện trước, được vua Xiêm chấp thuận. Định ngày cử binh.

 

Tháng 7-8/1784 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Ánh đem quân về Gia Định. Vua Xiêm sai hai người cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem hai vạn thuỷ binh và 300 chiến thuyền về giúp.

 

Nguyễn Ánh phong Châu Văn Tiếp làm B́nh Tây đại độ đốc, điều bát các quân.

 

Tháng 8-9/1784 (tháng 7 ÂL.) quân Nguyễn và Xiêm tiến đánh Kiên Giang, chiếm được Ba Xác, Trà ôn, Mân Thít, Sa Đéc.

 

Lấy Mạc Tử Sinh (con Mạc Thiên Tứ) làm tham tướng Hà Tiên.

 

Tháng 11-12/1784 (tháng 10 ÂL.) Châu Văn Tiếp đánh trận trên sông Mân Thít [Vĩnh Long], chống với Chưởng tiền Bảo của Tây Sơn, bị gươm đâm trúng, tử trận.

 

Tháng 12/1784-1/1785 (tháng 11 ÂL.) Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân làm Tổng nhung, chiếm lại được 2 đồn Ba Lai và Trà Tân ở Định Tường.

 

Thái giám Lê Văn Duyệt và đội trưởng Lê Văn Khiêm, trước bị Tây Sơn bắt, nay trốn về.

 

Nguyễn Ánh sai cai đội Nguyễn Văn Thành đi thu phục quân Đông Sơn.

 

Quân Xiêm tàn bạo đi đến đâu là cướp bóc.

 

Nguyễn Huệ vào Gia Định lần thứ tư, đại phá quân Xiêm

 

Tháng 1-2 /1785 (tháng 12 Giáp Th́n) Nguyễn Huệ vào Gia Định, phục quân ở Rạch Gầm (Định Tường) và sông Xoài Mút (Định Tường), dụ quân Xiêm đến, phá tan 2 vạn Xiêm. Lê Văn Quân thua chạy.

 

Nguyễn Ánh chạy đi Trấn Giang (An Giang), bầy tôi c̣n lại hơn 10 người.

 

Trong khi ấy, Bá Đa Lộc, vẫn c̣n quanh quẩn ở lại trong vùng, chưa đi. Sau khi Nguyễn Huệ phá tan quân Xiêm, Nguyễn Ánh khẩn cấp giục Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm và Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh (4 tuổi) sang Tây. Bá Đa Lộc đến Pondichéry (Ấn độ) cuối tháng 2/1785 (thư Bá Đa Lộc viết ngày 20/3/1785 cho Hội truyền giáo, Launay III, t. 84-92).

 

Tháng 2-3/1785 (tháng 1 Ất Tỵ) Nguyễn Ánh ở đảo Thổ Châu.

 

Tháng 4-5/1785 (tháng 3 ÂL.), quân Tây Sơn đuổi đến Thổ Châu, Nguyễn Ánh chạy qua đảo Cổ Cốt, rồi sang Xiêm.

 

Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn để Đặng Văn Trấn (Chấn) giữ Gia Định.

 

Nguyễn Ánh tạm trú ở Xiêm La

 

Theo Nguyễn Ánh sang Xiêm có 30 quần thần, 200 quân và 5 chiến thuyền: Phượng Phi, Bằng Phi, Hùng Tŕ, Chính Nghi, Thuyền Ô (Thực Lục I, t. 223). Điều này chứng tỏ Nguyễn Ánh đă đóng được thuyền đại hiệu bọc đồng, [tầu chiến bọc đồng theo kiểu Tây Phương như Phượng Phi và Bằng Phi] từ năm 1785. Tầu Phượng Phi năm 1790 sẽ giao cho Trần Văn Học và Nguyễn Văn Chấn (Vannier) cai quản (Liệt truyện II, t. 282).

 

Trong số quần thần đi theo: Tốn Thất Hội, Trương Phúc Dĩnh, Nguyễn Văn Định, Trương Phúc Luật, Tống Phước Ngạn, Nguyễn Văn Thành, Đỗ Văn Hựu, Tô Văn Đoài, Nguyễn Văn Mẫn, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Văn Khiêm… nhiều người sẽ lập công lớn sau này.

 

Nguyễn Ánh xin trú ở Long Kỳ (Xiêm gọi là Đồng Khoai), ngoại thành Vọng Các, sai người đi đón quốc mẫu và cung quyến sang.

 

Tháng 6-7/1785 (tháng 5 ÂL.), Lê Văn Quân đem 600 quân đến Vọng Các, nhiều quần thần cũ tiếp tục sang theo. Nguyễn Ánh sai làm đồn điền nuôi quân, sai ra hải đảo đóng thuyền chiến, sai người ngầm về Gia Định mộ lính.

 

Tháng 1/1786 (tháng 12 Ất Tỵ) Dương Công Trừng sau khi thua trận Dác Ngư bị bắt, trốn thoát, họp cùng Lê Thượng và Nguyễn Tần do Nguyễn Ánh sai về do thám, cùng chiếm lại Long Xuyên. Thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Tham đem quân từ Sài G̣n ra đánh.

 

Lê Thượng và Nguyễn Tần tử trận. Dương Công Trừng bị bắt lần thứ hai, không chịu hàng, bị Phạm Văn Tham giết.

 

Tháng 3/1786 (tháng 2 Bính Ngọ) Diến Điện đánh Xiêm. Vua Xiêm hỏi kế hoạch. Nguyễn Ánh thân chinh trợ chiến, sai Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành đi trước, dùng ống phun lửa để đánh. Địch quân thua to, rút về. Vua Xiêm đề nghị giúp Ánh thu phục Gia Định. Nguyễn Văn Thành gạt đi. Ánh khen phải.

 

Tháng 4/1786 (tháng 3 ÂL.) Ánh sai Hoàng Tiến Cảnh, Nguyễn Văn Nhàn, Vơ Di Nguy, Nguyễn Văn Định, Trương Phúc Luật, đem quân ra núi Giang Khảm đóng một chục chiến thuyền.

 

Quân Chà Và (Mă Lai) đánh Xiêm. Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân đem thuỷ binh dẹp tan.

 

Nguyễn Huệ diệt họ Trịnh ở Bắc

 

Ở Bắc, ngày 19/10/1782 (13/9/Nhâm Dần) Trịnh Sâm mất (Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Th́ Chí, bản dịch Ngô Tất Tố, nxb Phong trào văn hoá Sài G̣n, 1969, t. 27). Lập con thứ là Trịnh Cán, 5 tuổi, con Đặng Thị Huệ lên ngôi, có Hoàng Tố Lư (tức Huy quận công Hoàng Đ́nh Bảo) làm phụ chính.

 

Ngày 28/11/1782 (24/10 Nhâm Dần) (Hoàng Lê, t. 37), quân Tam phủ (lính Thanh-Nghệ tức kiêu binh) đảo chính, theo âm mưu của Trịnh Khải (tức Trịnh Tông), con trưởng Trịnh Sâm. Tam phủ giết Tố Lư, bỏ Trịnh Cán, lập Trịnh Khải.

 

Tháng 12/1782 (tháng 11 ÂL.) Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An, là thuộc tướng của Tố Lư, vượt biển vào Quảng Nam theo Nguyễn Nhạc, được Nhạc tin dùng, phong chức đô đốc.

 

Quân Tam phủ cậy công làm loạn ở đất Bắc.

 

Nguyễn Hữu Chỉnh xui Nguyễn Nhạc nên nhân cơ hội chiếm Phú Xuân.

 

Ngày 25/5/1786 (28/4 Bính Ngọ) (Hoàng Lê, t. 77), Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ thống lĩnh thuỷ bộ tiến đánh Phú Xuân: Nguyễn Hữu Chỉnh, tả quân đô đốc; Vơ Văn Nhậm (con rể Nguyễn Nhạc), hữu quân đô đốc; Nguyễn Lữ, thuỷ quân. Quân Trịnh thua to.

 

Ngày 31/5/1786 (4/5/Bính Ngọ) chiếm được Phú Xuân, Huệ c̣n lưỡng lự, Chỉnh xui tiến quân ra Bắc (Hoàng Lê, t. 81).

 

Nguyễn Huệ để Nguyễn Lữ giữ Phú Xuân, đem quân ra Bắc. Viết thư về bẩm Nguyễn Nhạc. Nhạc không băng ḷng, gửi người chận lại, nhưng tới nơi, Huệ đă vượt biển đi rồi.

 

Tháng 7/1786 (tháng 6 ÂL.), Nguyễn Huệ tiến đánh Thăng Long.

 

Đinh Tích Nhưỡng đại bại ở Lỗ Giang (Sơn Nam)

 

Hoàng Phùng Cơ đại bại ở sông Thúy Ái. Sáu người con đều tử trận

 

Nguyễn Huệ tiến thẳng đến bến Tây Long, Trịnh Khải ra trận chỉ huy. Tây Sơn đốt ống phun lửa xông vào, quân Trịnh tan vỡ.

 

Ngày 21/7/1786 (26/6 Bính Ngọ) Nguyễn Huệ vào Thăng Long. (Liệt truyện, II, t. 538).

 

Trịnh Khải bỏ chạy lên Sơn Tây th́ bị bắt, cắt cổ tự vận, ngày 22/7/1786 (27/6 /Bính Ngọ) (Hoàng Lê, t. 82).

 

Nguyễn Huệ vào Thăng Long, được vua Lê Hiển Tông gả Ngọc Hân công chúa.

 

Ngày 3/8/1786 (10/7/Bính Ngọ) Nguyễn Huệ đưa đồ sính lễ: Hai trăm lạng vàng, hai ngh́n lạng bạc, hai chục tấm đoạn.

 

Ngày 4/8/1786 (11/7/Bính Ngọ) làm lễ rước dâu (Hoàng Lê, t. 103)

 

Ngày 10/8/1786 (17/7/Bính Ngọ) vua Lê Hiển Tông mất (Hoàng Lê, t. 105). Lê Duy Kỳ lên ngôi, hiệu là Chiêu Thống.

 

Nguyễn Nhạc hay tin Huệ diệt xong Trịnh, sợ em cậy công kiêu ngạo, không kiểm soát được; tức tốc ngày đêm ra Thăng Long. Ở lại 10 ngày.

 

Hai anh em cùng rút quân về Nam. Bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại.

 

Chỉnh sợ, chạy theo đến Nghệ An. Huệ cho ở lại giữ Nghệ An cùng với Nguyễn Văn Duệ.

 

Trở về Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương hoàng đế, phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương trấn đất Gia Định, Nguyễn Huệ làm Bắc B́nh Vương, trấn đất Thận Hoá.

 

Anh em Tây Sơn bất hoà

 

Nguyễn Ánh trở về Gia Định

 

Mùa đông, 1786, anh em Tây Sơn bất hoà. Nguyễn Huệ đem quân đánh, Nguyễn Nhạc gọi đô đốc Đặng Văn Trấn ở Gia Định về cứu.

 

Đặng Văn Trấn để Trần Tú giữ Gia Định, đem quân về đến Tiên Châu (Phú Yên) th́ bị quân Nguyễn Huệ bắt được. Nguyễn Huệ vây Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc phải lên thành kêu khóc, Nguyễn Huệ thương t́nh rút quân về.

 

Tháng 2-3/1787 (tháng 1 Đinh Mùi), Bồ Đào Nha sẵn sàng giúp Ánh quân đội và 56 thuyền chiến đậu ở thành Goa (Ấn độ). Vua Xiêm không bằng ḷng, Ánh phải từ chối.

 

Tháng 3-4 (tháng 2 ÂL.), Tống Phước Đạm, Nguyễn Đô, Tống Phước Ngọc, Nguyễn Văn Thiệm đến yết kiến. Tống Phước Đạm báo tin anh em Tây Sơn bất hoà, Gia Định đơn yếu, đánh được và tŕnh bầy sách lược tấn công.

 

Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ giữ Gia Định cùng với thái bảo Phạm Văn Tham.

 

Ngày 13/8/1787 (1/7 Đinh Mùi) Nguyễn Ánh viết thư tạ từ vua Xiêm, đang đêm xuống thuyền đem cung quyến về nước, trú ở Ḥn Tre. Sai Vơ Di Nguy và Phạm Văn Nhân trông nom cung quyến ở Phú Quốc.

 

Thuyền Nguyễn Ánh đến Long Xuyên.

 

Nguyễn Văn Trương, Chưởng cơ Tây Sơn, đem 300 quân tinh nhuệ và 15 chiến thuyền về theo, Ánh trao chức Khâm Sai Chưởng Cơ, quản đạo Tiên phong Thuỷ dinh Trung quân.

 

Nguyễn Văn Trương chiếm đồn Trà Ôn [Vĩnh Long].

 

Nguyễn Văn Nghiă đem quân sở bộ đến giúp, được trao chức Chưởng cơ.

 

Tháng 10-11/1787 (tháng 9 ÂL.) Nguyễn Ánh đến cửa Cần Giờ. Nhiều đạo quân theo giúp.

 

Nguyễn Lữ, hay tin, lui về Lạng Phụ [Biên Hoà], đắp luỹ đất để giữ.

 

Phạm Văn Tham giữ vững Sài G̣n, quân Nguyễn không thể hạ được.

 

Tống Phước Đạm bèn giả thư Nguyễn Nhạc gửi Nguyễn Lữ sai giết Phạm Văn Tham v́ tội làm phản, rồi bỏ thư vào nhà Tham. Tham sợ quá, kéo cờ trắng, đem quân đến Lạng Phụ. Lữ nh́n thấy cờ trắng tưởng Tham đă ra hàng, vội chạy về Quy Nhơn rồi chết. Phạm Văn Tham ở lại chống đỡ.

 

Tướng Tây Sơn Nguyễn Kế Nhuận đem 10 chiến thuyền đến hàng, Ánh phong cho làm Hữu quân khâm sai b́nh Tây đô đốc.

 

Nguyễn Văn Quân thắng Tây Sơn ở Ba Lai [Định Tường] tiến đóng Mỹ Tho.

 

Phạm Văn Tham tiến đánh Mỹ Tho, Nguyễn Đăng Vân (hàng tướng Tây Sơn) bị bắt, bị giết.

 

Quân Nguyễn thắng nhiều trận, nhưng Phạm Văn Tham vẫn kiên tŕ chống giữ.

 

Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nh́

 

Ở Bắc, Trịnh Lệ [con chúa Trịnh Doanh (1740-1767)], em ruột Trịnh Sâm, trước đă mưu cướp ngôi anh; nay thấy Nguyễn Huệ về Phú Xuân, bèn nổi lên tranh quyền với Trịnh Bồng [con chúa Trịnh Giang (1730-1740), Bồng là chú của Lệ]. Vua Lê Chiêu Thống bất đắc dĩ phải phong cho Trịnh Bồng làm Án Đô Vương, dựng lại phủ chúa như cũ.

 

Họ Trịnh trở lại chuyên quyền, Lê Chiêu Thống gọi Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra giúp. Trịnh Bồng thua chạy. Bỏ đi tu. Nguyễn Hữu Chỉnh được phong chức Đại Tư Đồ.

 

Dẹp xong họ Trịnh, Chỉnh mưu việc giữ từ sông Gianh trở ra, như thời chúa Trịnh thủa trước. Nguyễn Huệ gọi về, không về, Huệ sai Vơ Văn Nhậm ra diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Lê Chiêu Thống bỏ kinh đô, theo Nguyễn Hữu Chỉnh lên đóng ở Mục Sơn (Yên Thế). Nguyễn Hữu Chỉnh thua trận, bị bắt về Thăng Long hành tội.

 

Giết Chỉnh rồi, Nhậm t́m vua Chiêu Thống không được, bèn tôn Lê Duy Cẩn làm Giám quốc.

 

Tháng 4-5/1788 (tháng 3 Mậu Thân) lại nghe tin Vơ Văn Nhậm chuyên quyền ở Bắc, Nguyễn Huệ tức tốc ra Thăng Long, bắt giết đi. Chiêu Thống chạy sang Tầu.

 

Nguyễn Huệ để Ngô Văn Sở ở lại giữ Thăng Long, rồi về Phú Xuân.

 

Tại Pháp, ngày 28/11/1787, Bá Đa Lộc kư với de Montmorin hiệp ước cầu viện ở Versailles.

 

Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định

 

Tháng 5/1788 (tháng 4 ÂL.) Vơ Tánh đem quân về giúp. Tánh người B́nh Dương. Anh là Vơ Nhàn, thuộc tướng của Vơ Thanh Nhơn. Khi Nhơn bị giết, Nhàn họp quân Đông Sơn chống lại, bị bắt và bị giết. Vơ Tánh tụ đảng ở G̣ Công hơn vạn người, phục kích đánh Tây Sơn.

 

Vơ Tánh, Châu Văn Tiếp và Đỗ Thanh Nhơn được Tây Sơn coi là ba anh hùng.

 

Nguyễn Ánh phong Vơ Tánh làm Khâm Sai Tổng nhung Chưởng cơ dinh Tiên phong, đem công chúa thứ hai của Hưng tổ là Ngọc Du (chị/em Nguyễn Ánh) gả cho.

 

Cục diện quân sự của Nguyễn Ánh, từ khi có Nguyễn Văn Trương (Tây Sơn) và Vơ Tánh về giúp, thay đổi hoàn toàn.

 

Tháng 6/1788 (tháng 5 ÂL.) Nguyễn Ánh sửa đắp đồn luỹ, cùng làm với các tướng sĩ. (Thực Lục I, t. 233).

 

Tháng 7/1788 (tháng 6 ÂL.) Ánh cho Mạc Tử Sinh (con Mạc Thiên Tứ) làm lưu thủ Hà Tiên. Lấy Nguyễn Văn Nhân làm khâm sai cai cơ vệ Thần Sách (Công binh và Pháo binh), dinh Trung quân.

 

Tháng 8/1788 (tháng 7 ÂL.) Nguyễn Ánh cử đại binh tiến đánh Gia Định.

 

Ngày 7/9/1788 (8/8 Mậu Thân), quân Nguyễn chiếm lại thành Gia Định. Phạm Văn Tham dàn hàng rào chống cự từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung. Vơ Tánh đem quân đi ṿng phiá nam Đồng Tập Trận [ở ngoại thành Sài G̣n] đánh thẳng vào Bến Nghé, chặn nẻo sau. Quân Phạm Văn Tham tan vỡ. Phạm Văn Tham lui giữ Hàm Luông [Vĩnh Long] rồi Ba Xắc [Ba Thắc, An Giang?].

 

Nguyễn Ánh sai người đến dụ hàng. Tham không chịu hàng, đắp thành đất ở hai bên bờ sông Ba Xắc, bày chiến thuyền chống giữ.

 

Nguyễn Ánh vào thành Sài G̣n, để Tôn Thất Hội chỉ huy trận điạ.

 

Tháng 10/1788 (tháng 9 ÂL.) đón cung quyến từ Phú Quốc về.

 

Chấm dứt giai đoạn lưu vong. B́nh định miền Nam.

 

Nguyễn Văn Thành được bổ làm Tổng nhung dinh Trung quân.

 

Sai Trịnh Tân Tài và Chu Văn Quan đi Hạ Châu (Singapor) mua súng đạn, lưu hoàng và diêm tiêu. Sai Nguyễn Thái Nguyên phụ trách bộ Lại; Phan Thiên Trúc Nguyễn Bảo Trí, bộ Hộ; Tống Phước Đạm, bộ Binh; Ngô Hữu Hựu, bộ H́nh.

 

Tuy chưa có bộ Lễ và bộ Công, nhưng Ánh đă lập vệ Thần Sách, tức là Công binh và pháo binh, do Nguyễn Văn Nhân điều khiển.

 

Phan Như Đăng, Trần Đại Luật, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Ṭng Châu, và Hoàng Minh Khánh, làm Hàn Lâm Viện chế cáo (báo tŕnh, luật, tắc). Lê Xuân Minh, Lê Phúc Măo, Hồ Phúc Uẩn, Vũ Công Chấn, Hồ Văn Định và Hoàng Văn Đệ lập Hàn Lâm Viện.

 

Khai khẩn đất hoang. Sửa sang luật pháp. Thành lập một triều đ́nh vững chắc. Tháng 11/1788 (tháng 10 ÂL.) ra lệnh cấm đánh bạc. Tổ chức lại quân đội. Bắt đầu đặt phủ binh. Lập sổ đinh. Lấy một nửa tráng đinh làm phủ binh, kết thành đội, thập (10), ngũ (5).

 

Theo chính sách “không việc th́ đi cày ruộng, có việc th́ làm binh” của nhà Đường (chứ không phải do Bá Đa Lộc nghĩ ra, như Faure viết sau này).

 

Tháng 11/1788 Vơ Di Nguy được thăng chức quản Nội thuỷ thuỷ Trung thuyền.

 

Vua Quang Trung đại phá quân Thanh

 

Ở Bắc, Lê Chiêu Thống chạy sang Tầu cầu cứu. Vua Càn Long sai là Tôn Sĩ Nghị, tổng đốc Lưỡng Quảng chia quân làm bốn đạo tiến đánh Thăng Long, Ngô Văn Sở lui về Tam Điệp, cấp báo Nguyễn Huệ.

 

Ngày 22/12/1788 (25/11/Mậu Thân) Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, niên hiệu Quang Trung.

 

Tháng 2/1789 (tháng 1 Kỷ Dậu), Quang Trung đại phá quân Thanh: Sầm Nghi Đống chết. Tôn Sĩ Nghị chạy về Tầu. Lê Chiêu Thống chạy theo.

 

Quang Trung sai con là Quang Thùy và Vơ Văn Dũng giữ Bắc Thành.

 

Quang Bàn giữ Thanh Hoá.

 

Nguyễn Văn Duệ giữ Nghệ An, rồi trở về Thuận Hoá.

 

Quang Trung xây dựng kinh đô ở Nghệ An, đặt tên là Phượng Hoàng Trung Đô, đắp thành luỹ, đặt kho tàng, dùng trọng binh coi giữ.

 

Tóm tắt việc Bá Đa Lộc cầu viện Pháp

 

Như trên đă nói, theo Thực Lục, tháng 8/1783 (tháng 7 Quư Măo), nghe tin Bá Đa Lộc ở Chân Bôn (Chantabun, Xiêm), Nguyễn Ánh sai người đến mời, trao hoàng tử Cảnh, 3 tuổi, cùng với quốc ấn cho Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện. Nhưng Bá Đa Lộc c̣n ở lại trong vùng này suốt năm 1774. Đến khi Nguyễn Huệ đại phá quân Xiêm tháng 1-2/1785, Nguyễn Ánh thua to, bầy tôi chỉ c̣n lại 10 người, lúc đó mới khẩn cấp giục Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm và Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh (5 tuổi) sang Tây.

 

Cuối tháng 2/1785, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh tới Pondichéry (Ấn Độ).

 

Tháng 7/1786, Bá Đa Lộc từ Pondichéry đem hoàng tử Cảnh, 6 tuổi, đi Pháp. Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm, Hồ Văn Nghị trở về Vọng Các.

 

Tại Pháp, ngày 28/11/1787, Bá Đa Lộc kư với de Montmorin hiệp ước cầu viện Versailles.

 

Ngày 18/5/1788, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh từ Pháp về tới Pondichéry. Việc thi hành hiệp ước cầu viện gặp khó khăn v́ Conway, toàn quyền Pháp ở Pondichéry, chống. Sau cùng chính vua Louis XVI, theo báo cáo của Conway, đổi ư, lệnh cho Conway không giúp Nguyễn Ánh.

 

Tháng 7/1789, Bá Đa Lộc trở về tay không với hoàng tử Cảnh, 9 tuổi. Vua sai Tôn Thất Hội đem binh thuyền ra cửa Cần Giờ đón.

 

Trong suốt thời gian này, Nguyễn Vương viết nhiều thư gửi Hội thừa sai Macao hỏi tin con, nhưng hầu như ông không nhận được tin tức ǵ cả.

 

Ở Pháp, ngày 14/7/1798, quân cách mạng phá ngục Bastille. Phe bảo hoàng trong đó có Hội thừa sai phải chạy sang Anh.

 

Thụy Khuê

 

Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-3/

 

 

Chương 3

 

Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777-1802

 

(Phần II)

 

Nguyễn Vương thu phục Gia Định

 

Cuối năm 1788, Nguyễn Vương đă chiếm được Sài G̣n và phần lớn đất Gia Định nhưng Phạm Văn Tham vẫn c̣n cầm cự ở Vĩnh Long và An Giang.

 

Vương sai Lê Văn Quân, Tôn Thất Hội, Vơ Tánh, Nguyễn Văn Trương họp nhau đánh Phạm Văn Tham ở Hổ Châu [An Giang]. Phạm Văn Tham rút về Ba Xắc [Ba Thắc, An Giang?]. Thế cùng, phải ra hàng.

 

Toàn bộ Gia Định về tay Nguyễn Ánh.

 

Tháng 4/1789 (tháng 3 ÂL.) xây hai thành Cá Dốc [Dốc Ngư] và Vàm Cỏ [Thảo Câu] là hai nơi xung yếu, cổ họng của Sài G̣n, sai Nguyễn Văn Thành trấn giữ.

 

Vương rất chú trọng đến Vệ Thần Sách (Công binh và Pháo binh): sai Tôn Thất Huyên cai quản các đội ban trực tiền vệ Thần sách dinh Trung quân; Tôn Thất Chương ban trực hậu, Phạm Văn Nhân ban trực tả, Tô Văn Đoài ban trực hữu.

 

Tháng 7/1789 (tháng 5 nhuận) Vương bàn định đánh Tây Sơn. Nhưng nghe tin Nguyễn Huệ ở Thuận Hoá đă đóng nhiều chiến hạm, đang định đánh vào Nam, lại thôi.

 

Bắt đầu đặt chức quan Điền tuấn (trông coi nông nghiệp), dùng 12 người trong Hàn Lâm Viện chế cáo (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, vv…) trông coi việc mở mang canh nông, khai phá đất hoang cho bốn dinh: Phiên Trấn (Gia Định), Trấn Biên (Biên Hoà), Vĩnh Trấn (Vĩnh Long), Trấn Định (Định Tường), khuyến khích dân trồng trọt, người nào không thích nghề nông th́ vào phủ binh. Lập trường vơ bị, chọn những người có khả năng chiến đấu trong quân ngũ, cho luyện tập trở thành quân tinh nhuệ.

 

Tháng 8-9/1789 (tháng 7 ÂL.) hàng tướng Phạm Văn Tham bị kết tội liên lạc với Nguyễn Huệ để khôi phục lại miền Nam, bị giết.

 

Tháng 9-10/1789 (tháng 8 ÂL.) sai đóng hơn 40 chiến thuyền lớn, hơn 100 thuyền đi biển.

 

Cải tổ nội các: Lập thêm bộ Lễ, Nguyễn Thái Nguyên coi, Nguyễn Bảo Trí, bộ Lại, Nguyễn Đô, bộ Hộ.

 

Tháng 11-12/1789 (tháng 10 ÂL.) đại duyệt binh tướng sĩ các dinh ở Đồng Tập Trận (ngoại ô Sài G̣n).

 

Chỉ định các tướng lănh chỉ huy các đạo, các dinh, các chi… trong toàn bộ quân đội.

 

Sai dinh Trấn Biên mua đường cát, mỗi năm 10 vạn cân, có sẵn, để đổi cho người Tây Dương lấy đồ binh khí.

 

Cải tổ binh thuyền.

 

Ngày 22/4/1790 (ngày Kỷ sửu, 9/3 Canh Tuất), đắp thành đất Gia Định, Tôn Thất Hội trách nhiệm cùng với Trần Văn Học (Liệt truyện II, t. 77-282).

 

Nguyễn Vương mua súng đạn, đóng tầu, xây dựng thành quách

 

Tháng 5-6/1790 (tháng 4 ÂL.) Lê Văn Quân chủ tŕ bàn việc xuất quân, Nguyễn Văn Thành can không được. Nguyễn Vương sai Lê Văn Quân làm tư lệnh, Vơ Tánh và Nguyễn Văn Thành, tiên phong, tiến đánh B́nh Thuận. Chiếm được.

 

Lê Văn Quân tiến đánh Diên Khánh, thua to, lui về giữ thành Hưng Phúc. Vua về Gia Định.

 

Tháng 6/1790, một số lính Pháp theo giúp Nguyễn Vương, được nhận chức cai đội. Hai năm sau nhiều người bỏ đi. Chỉ Chaigneau và Vannier ở lại đến đầu đời Minh Mạng.

 

Tháng 11/1790 (tháng 10 ÂL.) bắt đầu lập đồn điền, cấp trâu ḅ, điền khí và hạt giống, khai phá đất hoang. Đặt thái y viện. Dựng kho hoả dược. Tháng 12/1790 (tháng 11 ÂL.) sai Cai cơ Vơ Di Nguy coi đóng một chiến thuyền lớn và 15 thuyền đi biển.

 

Tháng 1/1791 (tháng 12/ Canh Tuất) sửa đắp thành đất Gia Định. Sai Trần Vũ Khách đi Giang Lưu Ba (Jakarta, thủ đô Indonesia) t́m mua đồ binh khí.

 

Lập xưởng thuỷ sư, từ bờ sông Tân B́nh đến bờ sông B́nh Trị, trên ba dặm, thuyền đi biển, thuyền chiến (h́nh thức như thuyền buôn, không mui mà nhỏ) thuyền ô (sơn đen nên gọi là ô thuyền), thuyền son (sơn đỏ gọi là chu thuyền), thuyền lê (đầu đuôi thuyền đều chạm vẽ gọi là lê thuyền), đều đậu ở đó.

 

Tháng 2/1791 (tháng 1 Tân Hợi) định lệ hàng năm duyệt binh.

 

Lê Văn Quân từ khi thua trận, cáo bệnh, vua vời không đến, bị đ́nh thần kết án. Tự vận.

 

Tháng 3/1791 (tháng 2 ÂL.) nhân dịp người Bồ Đào Nha tên là Chu Di Nô Nhi đến buôn bán, Nguyễn Ánh gửi thư cho quốc vương Bồ mua binh khí (1 vạn cây súng chim, 2.000 cỗ súng gang, mỗi cỗ nặng 100 cân, 2.000 viên đạn).

 

Gián điệp qua lại luôn, tin tức Tây Sơn, không việc ǵ là không biết.

 

Ngày 25/5/1791 (23/4 Tân Hợi) Minh Mạng ra đời, con phi thứ hai Trần Thị, con gái tham tri bộ Lễ Trần Hưng Đạt. Sau này, Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Trương… sẽ là thầy dạy.

 

Đóng hơn 100 chiếc chiến thuyền.

 

Tháng 11/1791 (tháng 10 ÂL.) lập đền Hiển Trung, thờ các công thần, theo vua từ Vọng Các.

 

Năm Tân Hợi 1791 (không rơ tháng) Nguyễn Ánh bí mật sai người cầu Đặng Đức Siêu, cựu thần chúa Nguyễn, không ra giúp Tây Sơn. Siêu lẻn vào Gia Định, hiến kế đánh Tây Sơn, trở thành quân sư, luôn luôn bên ở ḿnh Nguyễn Ánh. Tất cả những chiến dịch sau này, phần lớn do Đặng Đức Siêu làm cố vấn.

 

Tháng 2/1792 (tháng 1 Nhâm Tư) đóng năm hiệu thuyền Hoàng Long, Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến và Huyền Hạc.

 

Nguyễn Ánh sử dụng chiến thuật gió mùa: Hàng năm, khi gió nồm thổi, thuỷ quân thuận chiều gió ra đánh, hết gió quay về.

 

Sai đắp thành Mỹ Tho, góc thành đắp như dáng hoa mai, chu vi 499 trượng.

 

Hai bên sửa soạn chiến tranh

 

Tháng 4-5/1792 (tháng 3 ÂL.) vua Xiêm viết thư muốn “liên kết” để đánh Quang Trung. Bởi v́ Quang Trung đă đem quân đánh Vạn Tượng, quân Xiêm thua to.

 

Nguyễn Ánh hay tin Nguyễn Huệ đă sửa soạn hai, ba mươi vạn binh thủy bộ để đánh Gia Định. Quân bộ qua Lào đánh Nam Vang, tiến vào sau lưng Sài G̣n. Thuỷ quân vào Côn Lôn, chiếm Hà Tiên, rồi theo đường Long Xuyên, Kiên Giang đánh mặt trước Sài G̣n.

 

Tháng 5-6/1792 (tháng 4 ÂL.), Nguyễn Ánh tổ chức pḥng vệ.

 

Tháng 6/1792, Quang Trung đem 30.000 đánh Lào rồi xuống Cao Mên, nhưng lại rút về (thư của LM Le Labousse, 16/6/1792, Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine III, t. 223).

 

Trong lúc t́nh h́nh sôi bỏng, những người lính Pháp theo giúp từ 1790 chuẩn bị rút lui.

 

Tháng 6/1792, phần lớn những người Pháp đều bỏ đi hoặc bị đuổi v́ kỷ luật. Bá Đa Lộc cũng muốn xin về. [Thư của Lavoué gửi Létondal, viết tại Lái Thiêu ngày 16/6/1792. Thư Le Labousse gửi Létondal, viết từ biên giới Cambodge ngày 17/6/1792. Thư Bá Đa Lộc gửi Boiret ngày 20/6/1792 (Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine III, t. 295-297)].

 

Tháng 6-7/1792 (tháng 5 ÂL.), Nguyễn Huệ liên kết với 40 thuyền Tề Ngôi (giặc biển, người Tầu) tấn công miền B́nh Khang, B́nh Thuận.

 

Tháng 7-8/1792 (tháng 6 ÂL.) cai đội Ôlivi (Olivier de Puymanel) được thăng chức Vệ Uư ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách.

 

Trận Thị Nại 1792

 

Được tin gián điệp cấp báo Nguyễn Nhạc đóng nhiều thuyền chiến đậu ở cửa Thị Nại, sửa soạn chinh phạt Gia Định, Nguyễn Ánh quyết định đánh trước.

 

Lệnh cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Vơ chuẩn bị lương thực khí giới hành quân. Định ngày thử chiến hạm ở biển (thuyền đại hiệu và thuyền ô sai, 128 chiếc).

 

Để Tôn Thất Huy, Vơ Tánh và Tống Phước Đạm giữ Sài G̣n.

 

Biết Thị Nại không pḥng bị, Nguyễn Ánh, xuất quân từ cửa Cần Giờ, gặp gió nam thổi mạnh.

 

Các tướng thống lĩnh: Quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành, Trực tả Phạm Văn Nhân; giám quân Trung quân Nguyễn Văn Trương hộ giá, tiến thẳng tới Thị Nại.

 

Sai quân tinh nhuệ phóng hoả đốt thuỷ trại.

 

Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành đi thuyền Long [Long Phi] và thuyền Phụng [Phượng Phi], đánh thẳng vào. Đô đốc Thành bỏ chạy. Quân Nguyễn chiếm được 5 thuyền lớn, 30 thuyền đi biển, 40 thuyền sai, ba chiếc thuyền của Tề Ngôi.

 

Trận này chỉ có 10 ngày, chiến thắng lớn đầu tiên của Nguyễn Ánh, từ khi về Gia Định, khiến Quang Trung nổi giận. Hịch Quang Trung (sẽ đăng trong chương sau) chỉ trích sự thua trận này.

 

Ngày 27/8/1792, Quang Trung truyền hịch cho quan, quân, dân hai vùng Quảng Ngăi và Quy Nhơn: sẽ san bằng Gia Định.

 

Chưa kịp tiến quân, Quang Trung băng hà ngày 16/9/1792.

 

Quang Toản, 10 tuổi, lên ngôi, hiệu Cảnh Thịnh. Cậu ruột là thái sư Bùi Đắc Tuyên làm phụ chính.

 

Ở Pháp, vua Louis XVI và hoàng hậu Marie-Antoinette lên đoạn đầu đài. Nước Pháp rơi vào thời đại Kinh Hoàng (La Terreur). Số người bị giết ước lượng 100.000, trong đó có khoảng 17.000 bị lên máy chém.

 

Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn lần thứ nhất, 1793

 

Sau khi Nguyễn Huệ mất, Nguyễn Ánh lại được tin triều đ́nh Quang Toản và Nguyễn Nhạc nghi kỵ nhau, bèn quyết định đánh Quy Nhơn.

 

Thuỷ binh là điểm cốt yếu của quân Nguyễn.

 

Tháng 2-3/1793 (tháng 1 Quư Sửu) Nguyễn Ánh sai đóng thêm các thuyền đại hiệu (tầu chiến): Long ngự, Long thượng, Long hưng, Long Phi, Bằng phi, Phượng phi, Hồng phi, Loan phi, Ưng phi. (Chắc là sửa lại các tầu Phượng Phi và Bằng Phi, v́ đă có từ năm 1785).

 

Tháng 3-4/1793 (tháng 2 ÂL.) sai Phạm Văn Nhân làm phó tướng Tả quân kiêm Tri Tàu vụ.

 

Tháng 4-5/1793 (tháng 3 ÂL.) lập hoàng tử Cảnh (13 tuổi) làm Đông Cung.

 

Dựng nhà Thái học. Đặt một đông cung phụ đạo [Bá Đa Lộc] và 2 đông cung thị giảng [Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định].

 

Tháng 5-6/1793 (tháng 4 ÂL.) đem đại binh đánh Quy Nhơn, để Đông cung ở lại giữ Gia Định cùng phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân và Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm.

 

Bộ binh do Tôn Thất Hội thống lănh, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành trực thuộc, tiến đánh Phan Rí.

 

Cai cơ trấn Thuận Thành là Nguyễn Văn Chấn (Vannier) và Nguyễn Văn Hào; Chưởng cơ đạo Ba Phủ là Cổ và điều khiển Cường, đem quân Man (người Thượng) theo đường bộ tiến đánh Phan Rang.

 

Nguyễn Ánh xuất quân ra cửa Cần Giờ. Nguyễn Văn Trương và Vơ Di Nguy tiên phong, Vơ Tánh hộ giá. Phan Thiên Phúc, bộ Hộ và tham tri Nguyễn Đức Chí trông thuyền lương.

 

Tháng 6-7 (tháng 5 ÂL.) Nguyễn Ánh đến Phan Rang, sai Nguyễn Kế Nhuận đánh bảo [bảo là thành đất, rất vững] Mai Nương, quân Tây Sơn bỏ chạy.

 

Nguyễn Ánh đến Nha Trang, sai Vũ Văn Đắc và Nguyễn Văn Lượng đánh bảo Hoa Bông, Tây Sơn bỏ chạy, chiếm được phủ Diên Khánh. Nguyễn Ánh đóng ở vụng Ḥn Khói. Vơ Tánh chiếm phủ B́nh Khang.

 

Bộ binh của Tôn Thất Hội đánh bảo Phan Rí, chiếm được B́nh Thuận.

 

Thuyền Nguyễn Ánh đến cửa Xuân Đài. Sai Vơ Tánh đánh bảo La Thai [La Hai], Phạm Văn Điềm thua chạy. Vơ Tánh chiếm được Phú Yên.

 

Nguyễn Ánh tiến đến Thị Nại, Vơ Tánh chiếm các bảo ở chợ Thị Nại.

 

Tháng 7-8 (tháng 6 ÂL.) Vơ Tánh thắng trận cầu Tân Hội, tiến đánh cánh đồng B́nh Thịnh.

 

Nguyễn Nhạc sai con là Nguyễn Bảo đem quân tinh nhuệ và voi đực ra tiếp chiến.

 

Bộ binh Tôn Thất Hội cũng vừa tới.

 

Nguyễn Bảo đặt liền đồn trại từ Thổ Sơn đến Úc Sơn để chống cự.

 

Nguyễn Ánh dặn Tôn Thất Hội giả vờ tấn công từ g̣ Phú Quư, rồi đến đêm cùng Nguyễn Văn Thành lặng lẽ vượt Kỳ Sơn, hợp với Vơ Tánh đánh sau lưng.

 

Nguyễn Bảo không ngờ, quân và voi toán loạn.

 

Nguyễn Ánh sai Vũ Văn Lượng đánh bảo Úc Sơn, phóng lửa đốt trại. Lê Văn Duyệt đem quân trên núi đánh xuống, quân Tây Sơn thua to.

 

Nguyễn Bảo và Đào Văn Hổ phải lui quân về thành Quy Nhơn.

 

Nguyễn Nhạc sai đô đốc Đẩu đem 4000 quân tinh nhuệ giữ bảo Khố Sơn, ở núi Càn Dương, phủ mới của Nguyễn Nhạc.

 

Nguyễn Ánh thân đốc cấm binh đi đánh, nhưng không thể tiến được.

 

Bèn sai Nguyễn Đức Xuyên tới trước thành khuyến dụ, quân lính nghe theo không bắn nữa, nhờ Trần Công Hiến làm nội ứng, gây loạn trong thành, mới hạ được.

 

Nguyễn Ánh tập hợp các đạo quân của Tôn Thất Hội, Vơ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành vây Quy Nhơn, hạ lệnh dùng “hoả xa đại bác” (đại bác của người Tây có bánh xe di động), quân trong thành c̣n 10.000, Nguyễn Nhạc cố giữ, không thể hạ nổi.

 

Tháng 9/1793 (tháng 8 ÂL.), Nguyễn Nhạc cầu cứu Phú Xuân, triều đ́nh Cảnh Thịnh (quyền hành trong tay Bùi Đắc Tuyên v́ Quang Toản c̣n bé) cử đại binh do Thái uư Nguyễn Văn Hưng (hay Phạm Công Hưng), hộ giá Nguyễn Văn Huấn, đại tư lệ Lê Trung, đại tư mă Ngô Văn Sở, đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi, cùng đô đốc Hổ và chưởng cơ Thiêm đem hơn 30 chiến thuyền, đến cứu viện.

 

Nguyễn Ánh liệu đánh không lại, phải rút quân về Diên Khánh.

 

Nguyễn Ánh đắp thành Diên Khánh, vị trí địa đầu

 

Tháng 10/1793 (tháng 9 ÂL.), Thực Lục ghi: “Ngự giá về Diên Khánh. Thấy thành đất Hoa Bông địa thế tốt, đánh hay giữ đều tiện, bèn sai các quân và phát 3000 dân B́nh Thuận, 1000 dân Thuận Thành khởi đắp trọn một tháng th́ thành xong, gọi là Diên Khánh (tức tỉnh lỵ Khánh Hoà ngày nay. Thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, mở sáu cửa, đông và nam đều một cửa, tây và bắc đều hai cửa, trên cửa có lầu, bốn góc có cồn đất)”. (Thực Lục I, t. 299).

 

Hai người trực tiếp xây thành được ghi trong Liệt Truyện:

 

“[Tôn Thất] Hội cùng đạo binh họp lại bao vây [Quy Nhơn], giặc có quân cứu viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp Diên Khánh.”(Liệt Truyện II, t. 78).

 

“Mùa hạ năm Quư Sửu [1793, Vũ Viết Bảo] theo đi đánh Quy Nhơn, đến khi về, đắp thành Diên Khánh (…) Năm [Gia Long] thứ tư [Bảo] đem quân cùng với các quân sửa đắp kinh thành [Huế]“ (Liệt truyện II, t. 321).

 

Diên Khánh sẽ là nơi xẩy ra những đợt xung phong khốc liệt khi Trần Quang Diệu vây đánh thành. Vị trí quan trọng và sự vững bền của thành Diên Khánh, sẽ được phía Pháp nhận công là thành này do Olivier de Puymanel xây (sẽ nói đến sau).

 

Trong thành Quy Nhơn, các tướng Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Văn Huấn, sau khi Nguyễn Ánh rút, bức bách Nguyễn Nhạc. Vua Thái Đức uất ức mà chết.

 

Triều đ́nh Cảnh Thịnh phong Nguyễn Bảo, con Nguyễn Nhạc, làm Hiếu công, ăn lộc một huyện, Nguyễn Bảo uất hận. Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ thành Quy Nhơn.

 

Tháng 11/1793 (tháng 10 ÂL.) Nguyễn Ánh trở về Gia định. Để Nguyễn Văn Thành giữ Diên Khánh. Đổi Vệ Thần Sách thành Quân Thần Sách, tức là mở lớn hơn.

 

Tháng 12/1793, sai cai đội Quàng Nói Vè, đội trưởng Pa Đơ Chê (đều người Tây) sang thành Cô Á [Goa, Ấn Độ] và xứ Mă La Kha [Malacca] để t́m mua đồ binh khí.

 

Là người thích xây dựng, Nguyễn Ánh tự học, bên cạnh lại có những chuyên viên kiến trúc như Tôn Thất Hội, Trần Văn Học, Vũ Viết Bảo… những người đóng tầu giỏi như Đỗ Thanh Nhơn, Vơ Di Nguy… nhất là từ năm 1793 (không rơ tháng), Nguyễn Ánh có thêm một chuyên gia mới, sẽ trở thành bộ trưởng bộ Công chánh sau này: Trần Văn Thái, cai bạ kiêm bộ Công của Tây Sơn về quy thuận, ông là người giỏi việc đóng thuyền. Mùa thu Bính Th́n (1796), ông cùng Vơ Di Nguy, kiêm quản cả doanh ngũ thuỷ “phàm chỉ bảo cách thức đóng các thuyền đều do ở tay Thái cả”. Trần Văn Thái giữ bộ Công, đến năm Gia Long thứ 8, đổi thành Công bộ Thượng thư, thống quản thuỷ quân đến khi mất. (Liệt truyện II, t. 474).

 

Tháng 12/1793, Nguyễn Ánh triệu Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Theo lệ các chúa Nguyễn, Vương bắt con phải tập việc cai trị và giữ thành, nên sai Đông Cung Cảnh (13 tuổi) trấn Diên Khánh, vị trí địa đầu chống với Tây Sơn. Vương sai các thày dạy Bá Đa Lộc, Trịnh Hoài Đức, Ngô Ṭng Châu và các tướng: Phạm Văn Nhân, Tống Phước Đạm, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành hộ tống Đông cung. Đến tháng 2/1794, Chưởng dinh hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức cũng xin ở lại Diên Khánh để giúp Đông cung. Nguyễn Ánh sai quân đóng thêm thuyền chiến và đúc thêm binh khí, lấy cai đội Nguyễn Văn Khiêm làm phó Vệ uư vệ túc trực quân Thần Sách, sai đến Diên Khánh pḥ Đông Cung. Như vậy, hoàng tử Cảnh ở Diên Khánh với trọn bộ tổng tư lệnh quân đội và các quan đại thần là thầy dạy học. Những luận điệu sau này cho rằng Bá Đa Lộc chỉ huy và giữ thành Diên Khánh chỉ là ảo tưởng.

 

Trần Quang Diệu vây thành Diên Khánh

 

Thành Diên Khánh sẽ là nơi xẩy ra chiến trận khốc liệt giữa hai bên.

 

Tháng 4/1794 (tháng 3 ÂL.) triều đ́nh Cảnh Thịnh (tức thái sư Bùi Đắc Tuyên v́ Cảnh Thịnh c̣n nhỏ) sai thái uư Nguyễn Văn Hưng và tổng quản Trần Quang Diệu đem quân thủy bộ vào Quy Nhơn.

 

Được gián điệp báo tin, Nguyễn Ánh truyền cho Đông Cung pḥng bị. Hoàng tử Cảnh tâu lương ở Diên Khánh chỉ đủ ăn một tháng. Vua sai Nguyễn Văn Thành chở lương ra cứu ứng, đường thuỷ bị ngược gió, phải sai Nguyễn Văn Tánh, lưu thủ B́nh Thuận, chở 3000 phương gạo đi đường bộ suốt ngày đêm ra cứu.

 

Thái úy Tây Sơn Nguyễn Văn Hưng đem 40.000 quân bộ đánh Phú Yên, quân Nguyễn phải rút lui.

 

Tháng 5/1794 (tháng 4 ÂL.) Trần Quang Diệu đem thủy binh vào cửa biển Nha Trang, bộ binh của Nguyễn Văn Hưng cũng tiến đến B́nh Khang, họp quân ba mặt vây thành Diên Khánh. Vây mấy ngày liền, súng trong thành bắn ra như mưa, quân Tây Sơn bị thương rất nhiều nhưng thành kiên cố không thể tiến vào được.

 

Nguyễn Ánh thân chinh cử thuỷ binh giải vây: Tôn Thất Hội tiên phong, Vơ Tánh tập hậu, Vơ Di Nguy, hộ giá. Trần Đức Khoan, Nguyễn Văn Mỹ và Nguyễn Kỳ Kế coi lương.

 

Nghe tin đại binh Nguyễn Ánh đến, Trần Quang Diệu rút về Quy Nhơn, Nguyễn Văn Hưng lui về Phú Yên.

 

Tháng 6/1794 (tháng 5 ÂL.), quân Nguyễn chiếm lại được một số thành và đất đă mất: Tiêu Cơ, Mai Nương (Phan Rang), Phú Yên.

 

Tháng 7/1794 (tháng 6 ÂL.) Vương lại sai Vệ Uư Phan Văn Triệu, Ôlivi (Olivier de Puymanel), Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lư… cùng bộ thuộc, đến giúp Đông Cung.

 

Nguyễn Ánh thấy chưa thể đánh được thủy binh của Tây Sơn, bèn sai Tôn Thất Hội và Vơ Tánh đem tất cả thuyền về đậu ở cửa Xuân Đài.

 

Tháng 7-8/1794 (tháng 7 ÂL.) Nguyễn Ánh rút quân về Diên Khánh.

 

Sai sửa sang đắp lại thành Diên Khánh.

 

Tháng 8-9/1794 (tháng 8 ÂL.), cho Đông Cung trở về Gia Định.

 

Tháng 9-10/1794 (tháng 9 ÂL.) Vương cũng đem quân về Gia Định.

 

Để Vơ Tánh ở lại giữ Diên Khánh.

 

Trần Quang Diệu vây Diên Khánh lần thứ nh́

 

Tháng 10-11/1794 (tháng 10 ÂL.) Trần Quang Diệu và Lê Trung lại đem quân thủy bộ đánh Phú Yên. Nguyễn Long và Vơ Văn Lượng lui về giữ B́nh Khang. Vơ Tánh nhận trấn giữ cả hai mặt. Tháng 11-12/1794 (tháng 11 ÂL.) Vương ban thưởng cho Vơ Tánh và quân sĩ.

 

Vương sửa đắp quách ở ngoài bốn mặt thành Gia Định.

 

Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm mất, ông đă có công lớn giúp Đông Cung giữ thành Diên Khánh năm 1793.

 

Vương bắt đầu đặt chức Giám thành sứ (cai quản việc pḥng giữ kinh thành).

 

Tây Sơn đánh B́nh Khang. Nguyễn Ánh biết chủ ư Tây Sơn là đánh Diên Khánh, dặn Vơ Tánh pḥng thủ, sai Nguyễn Văn Tánh từ B́nh Thuận đem quân tiếp viện Diên Khánh, rồi sai Nguyễn Huỳnh Đức điều bộ binh cùng Nguyễn Văn Thành làm phó, tiến ra Phan Rang.

 

Trần Quang Diệu trực chỉ đánh Diên Khánh. Lê Trung đánh Du Lai chặn đường tiếp viện của quân Nguyễn từ B́nh Thuận.

 

Tháng 1-2/1795 (tháng 12 Giáp Dần), Trần Quang Diệu cắt đứt đường lấy nước vào thành Diên Khánh. Vơ Tánh đánh được. Trần Quang Diệu sai quân lăn sát trèo lên thành, bị súng bắn chết rất nhiều, sai đắp luỹ cao vây bốn mặt thành. Vơ Tánh cố giữ. Diệu đánh rất gấp.

 

Trong thành thiếu muối, tướng sĩ ăn uống rất khổ. Nguyễn Ánh gửi thư dặn Tánh kiên quyết giữ, đợi ḿnh chuẩn bị xong ghe thuyền sẽ tiến quân tiếp viện.

 

Sai TônThất Hội đóng quân ở Bà Rịa để điều khiển các đạo quân chống giữ.

 

Lê Trung đánh Phan Rí. Nguyễn Huỳnh Đức lui về Phố Hài (huyện Tuy Lư, B́nh Thuận)

 

Nguyễn Ánh ra lệnh cho Nguyễn Huỳnh Đức về giữ Ma Li (huyện Yên Phước, B́nh Thuận), C̣n Nguyễn Văn Thành và thuộc bộ phải ở lại Phố Hài để chống địch.

 

Tháng 2-3/1795 (tháng 1 Ất Măo) Nguyễn Ánh sai Đặng Trần Thường, tán lư binh vụ đến Bà Rịa họp cùng Chưởng tiền quân Tôn Thất Hội để trù hoạch chiến lược.

 

Vương sai Tôn Thất Hội đem ngh́n quân chở súng đạn đến Phố Hài và Phan Thiết, họp cùng các đạo tiên phong, ngăn quân địch.

 

Lê Trung đánh Phố Hài. Nguyễn Văn Thành chạy về Bà Rịa.

 

Nguyễn Ánh hay tin, lập tức sai giám thành sứ Tô Văn Đoài bắt Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành về Gia Định, lột hết quân đội, giao cho Tôn Thất Hội thống lănh giữ Ma Li. Rồi gửi mật dụ cho Vơ Tánh: “Đợi thuỷ sư tiến đến Cù Huân (gần huyện Vĩnh Xương, Khánh Hoà) th́ sẽ đánh úp, một trận có thể thành công”.

 

Tháng 3-4/1795 (tháng 2 ÂL.) sai Vệ uư ban trực tuyển phong hậu quân Thần sách là Ôlivi (Olivier de Puymanel) sang Hồng Mao (Ấn độ) mua binh khí.

 

Để Đông cung trấn giữ Gia Định, có Tả quân Phạm Văn Nhân, Giám thành sứ Tô Văn Đoài, Lễ bộ Nguyễn Đô, Tham mưu Nguyễn Thái Nguyên, Hộ bộ Phan Thiên Phúc, H́nh bộ Nguyễn Văn Nghị, trợ giúp.

 

Nguyễn Ánh thân chinh đem thuỷ binh cứu Diên Khánh.

 

Nguyễn Văn Trương thống lănh thuỷ binh Tiền, Hậu, Trung quân. Tôn Thất Hội thống lănh bộ binh tiến đánh Phan Thiết. Trương Phúc Luật điều khiển thủy binh các vệ tiến đánh kho Phan Rang, cướp gạo.

 

Thuỷ binh Tây Sơn từ Vũng Diên đến, Tống Viết Phước phá được, chém đầu đô đốc Nguyễn Văn Sĩ, được thăng chức Chưởng Cơ.

 

Tháng 4-5/1795 (tháng 3 ÂL.) Vương tha tội và phục chúc cho Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành: sai Đức đi theo Tôn Thất Hội, Thành ngự giá.

 

Nguyễn Vương ra cửa biển Cần Giờ, Tôn Thất Chương, Trương Phúc Luật đi tiên phong, tới Cam Ranh, quân Tây Sơn bỏ chạy.

 

Vương đến cửa Cù Huân. Trần Quang Diệu, Lê Văn Lợi, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Thận, Trần Viết Kết vẫn vây thành Diên Khánh.

 

Sai Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt lên bờ, đóng đồn, bắn đại bác để trong thành biết.

 

C̣n đại quân thẳng tiến đến Chử Châu (Phú Yên), xem xét t́nh h́nh, chia quân chặn đường về của Tây Sơn, rồi Vương kéo về qua vụng Ḥn Khói.

 

Sai Nguyễn Văn Đắc đánh bảo Lập Trường, chém được đô đốc Gia và binh bộ Tiến, chiếm được B́nh Khang. Đắc được phong Chưởng Cơ. Nguyễn Ánh về đóng ở Cù Huân.

 

Trần Quang Diệu đặt nhiều đồn trại ở Khố Sơn chống lại.

 

Lê Trung bắt đầu thiếu lương thực, muốn lui giữ Phan Rang, báo tin cho Trần Quang Diệu, Nguyễn Ánh bắt được, liền sai Nguyễn Văn Đắc và Nguyễn Công Thái ngầm qua sông Phan Rang đặt đồn ngăn chặn, Nguyễn Văn Đắc tiến đánh kho lương Mai Nương, Tây sơn đem quân và voi đến, quân Nguyễn phải lui về Ba Ng̣i.

 

Tôn Thất Hội đóng quân ở sông Luỹ (B́nh Thuận) đánh nhau với Lê Trung, thắng thế. Lê Trung lui quân về sông Cạn (B́nh Thuận).

 

Nguyễn Ánh tập trung quân đội giải vây Diên Khánh.

 

Tháng 6-7/1795 (tháng 5 ÂL.), Vơ Tánh đang đêm mở cửa thành đánh ra, đốt trại của Lê Văn Lợi đặt bảo để giữ từ núi Sĩ Lâm đến cầu Hoa Bông.

 

Phú Xuân có loạn, Trần Quang Diệu rút quân về

 

Nguyên do: Quang Toản c̣n nhỏ, quyền hành trong tay thái sư Bùi Đắc Tuyên, Tuyên sai Ngô Văn Sở ra trấn Bắc Thành, thay Vơ Văn Dũng. Vơ Văn Dũng từ Bắc Thành về, gặp Trần Văn Kỷ (quân sư của Quang Trung ngày trước, bị Tuyên đầy ra trạm Mỹ Xuyên), kể tội Tuyên chuyên quyền. Dũng về Phú Xuân, mưu cùng Nguyễn Văn Hưng và Nguyễn Văn Huấn, giết Bùi Đắc Tuyên, triệu con là Đắc Thuận ở Quy Nhơn và Ngô Văn Sở ở Bắc về, giết cả. Trần Văn Kỷ trở lại làm phụ chính.

 

Tháng 8-9/1795 (tháng 7 ÂL.) Trần Quang Diệu vẫn giữ Khố Sơn, đồn luỹ vững không thể phá được. Nhờ lính tuần Tây Sơn là Nguyễn Danh Nho đầu hàng, dẫn đường tắt cho quân Nguyễn, đang đêm ḅ lên đánh úp, phóng lửa đốt vào, phá liền 12 đồn đất của Tây Sơn.

 

Nguyễn Ánh tiến đánh Chử Châu (Phú Yên). Trần Quang Diệu rút về Quy Nhơn.

 

Nguyễn Ánh vào thành Diên Khánh.

 

Trần Quang Diệu (vợ ông là Bùi Thị Xuân, cháu họ Bùi Đắc Tuyên) đem quân về Phú Xuân, “hỏi tội” vua tại sao giết hại đ́nh thần. Quang Toản phải dàn xếp, phong Trần Quang Diệu làm Thiếu Phó, Nguyễn Văn Huấn làm Thiếu Bảo, Vơ Văn Dũng làm Tư Đồ, Nguyễn Văn Danh làm Tư Mă: đó là tứ trụ triều đ́nh.

 

Tháng 9-10/1795 (tháng 8 ÂL.) Nguyễn Ánh sửa lại thành Diên Khánh, làm thêm kho tàng. Để Tôn Thất Hội ở lại trấn giữ.

 

Tháng 10-11/1795 (tháng 9 ÂL.) Nguyễn Ánh về Gia Định.

 

Tháng 11-12/1795 (tháng 10 ÂL.) sai phó tướng tả quân Phạm Văn Nhân làm phụ đạo Đông Cung. Việc này có thể là hệ quả của việc: Trần Đại Luật dâng sớ xin chém đầu Bá Đa Lộc v́ “cậy công bảo hộ đông cung, có ư kiêu ngạo”.

 

Phong cho Vơ Tánh làm Khâm sai chưởng hậu quân dinh B́nh Tây đại Tướng quân.

 

Ở Pháp, thành lập Chấp Chánh Hội Nghị (Directoire) do 5 hội viên cầm quyền (26/10/1795- 9/11/1799).

 

Thụy Khuê

 

Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-4/

 

Chương 3

 

Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777-1802

 

Phần 2 (tiếp theo)

 

Trận Thị Nại, 1801, Vơ Di Nguy tử trận

 

Tháng 1-2/1801 (tháng 12/Canh Thân) Nguyễn Ánh vẫn chưa giải vây được B́nh Định mà cửa biển Thị Nại thuỷ quân Vơ Văn Dũng vẫn đóng giữ chặt.

 

Tháng 2-3/1801 (tháng 1/Tân Dậu), Vương sai Nguyễn Văn Thành tiết chế các đạo bộ binh.

 

Trần Quang Diệu vẫn vây chặt thành B́nh Định mấy ṿng.

 

Ban đêm Vơ Tánh mở cửa thành ra đánh đốt trại địch, quân Tây Sơn bỏ chạy, nhưng sáng sớm lại trở lại vây đông hơn.

 

Đặng Đức Siêu đă dâng chiến thuật đánh hoả công, nay dụng cụ cho chiến thuật đă làm xong.

 

Vương mật định hôm 28/2/1801 (16/1/Tân Dậu), cất quân đánh úp. Để Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông. Vương thân chinh đem thuỷ quân tiến phát.

 

Nửa đêm hôm ấy, qua Tiêu Cơ, Nguyễn Văn Trương tiên phong, bắt được lính tuần của Tây Sơn, biết khẩu hiệu, Trương cho thuyền nhỏ lẻn vào Tiêu Ki, chèo qua thuyền lớn của địch, đến miếu Tam Toà, chém được đô đốc Trà, đốt rất nhiều thuyền địch. (Liệt truyện, II, t. 147)

 

Vơ Di Nguy, Lê Văn Duyệt đem đại binh vừa đến, đánh nhau kịch liệt với quân Vơ Văn Dũng từ giờ Dần (6 giờ sáng) đến giờ Ngọ (12 giờ trưa).

 

Vơ Di Nguy bị bắn chết.

 

Lê Văn Duyệt mặc kệ, cứ xông lên, cuối cùng, đến giờ Thân (4 giờ chiều) lọt vào được vào cửa biển, dùng đuốc hoả chiến, hợp chiều gió, phóng hoả đốt thuyền đại hiệu. Vơ Văn Dũng thua chạy, thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết.

 

Trận Thị Nại 1801 là vơ công lớn nhất của Nguyễn Ánh.

 

Làm xoay đổi hẳn cục diện chiến tranh.

 

Trong trận này có ba người Pháp tham dự là cai đội Nguyễn Văn Chấn (Vannier) quản tầu thuyền hiệu Phượng Phi; Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau) quản thuyền Long Phi, và Lê Văn Đăng (de Forcanz), quản tầu Bằng Phi, đi theo Trung quân do Tống Phước Lương điều khiển. (Thực Lục, t. 407). Họ sẽ c̣n tiếp tục các chiến dịch Quảng Nam và Phú Xuân. Công trạng họ như thế nào? Chúng ta sẽ t́m hiểu sau.

 

Sau khi thua trận Thị Nại, Vơ Văn Dũng thu thập tàn quân hợp lại với Trần Quang Diệu, sai Tư khấu Định giữ Thạch Tân [biên giới B́nh Định-Quảng Ngăi], đô đốc Nguyễn Văn Ngữ giữ Đạm Thuỷ [Nước Ngọt, B́nh Định], đô đốc Vơ Văn Sự giữ Tân Quan [Quảng Ngăi].

 

Thắng trận Thị Nại, nhưng Nguyễn Vương vẫn không giải vây được Quy Nhơn.

 

Ngày 20/3/1801 (ngày Quư Sửu 6/2/Tân Dậu) hoàng tử Cảnh mất v́ bệnh đậu mùa tại Gia Định, ở tuổi 22. Vương sai Nguyễn Văn Nhân và Nguyễn Tử Châu giữ Gia Định.

 

Ở mặt trận Phú Yên, Phạm Văn Điềm chiếm bảo Hội An. Nguyễn Đức Thiện, Trần Văn Trạc, Phạm Tiến Tuấn lui giữ Xuân Đài. Vương sai Nguyễn Đức Xuyên và Tống Viết Phước ra đánh, Tây Sơn rút quân về.

 

Nguyễn Văn Trương chiếm Quảng Ngăi, Quảng Nam, 1801

 

Tháng 3-4/1801 (tháng 2 ÂL.) Vương sai Nguyễn Văn Trương đem thuỷ binh ra đánh Quảng Ngăi, Quảng Nam cùng với các vệ quân Thần Sách của Phan Văn Đức, vệ Phấn Dực Trung quân Tống Phước Lương, vệ Thuận Vơ Vương Văn Học và các chúa tầu hiệu Phượng Phi, Long Phi, Bằng Phi là bọn Nguyễn Văn Chấn (Vannier), Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau) và Lê Văn Lăng (De Forcanz) đều thuộc quyền (Thực Lục, t. 432).

 

Tháng 4-5/1801 (tháng 3 ÂL.), Nguyễn Văn Trương tiến đến cửa biển Cổ Lũy [Quảng Ngăi] đánh phá kho Trà Khúc, đô đốc Tuấn bỏ chạy.

 

Phá được Trà Khúc, Nguyễn Văn Trương tiến vào cửa biển Đại Chiêm, chiếm Hội An và Phú Triêm. Hoàng Văn Tự đem binh bản bộ tiếp ứng, bắt được 24 thớt voi Tây Sơn. Đại đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Xuân và trấn thủ Văn Tiến Thể giữ ải La Qua, bị Nguyễn Văn Trương đánh úp, thua chạy, thu được 80 khẩu đại bác.

 

Nguyễn Văn Trương chiếm lại dinh Quảng Nam.

 

Nguyễn Vương sai Phạm Văn Nhân quản ba chiếc thuyền đại hiệu tiến vào Đà Nẵng, kiêm quản cả tướng sĩ các thuyền hiệu Long Phi, Phượng Phi, Bằng Phi để cùng sách ứng.

 

Cho tham quân tượng dinh Lê Nguyên, quê Quảng Nam theo Nguyễn Văn Trương điều khiển, dặn Trương chọn nơi hiểm yếu đặt ba bảo theo h́nh tam giác, sau bảo có Trường Giang (sông lớn nối cửa Đại Chiêm với Tam Kỳ) để thuỷ bộ tiếp ứng được nhau (Thực Lục, t. 434).

 

Trần Quang Diệu và Vơ Văn Dũng sai đặt đồn bảo liên tiếp ở Phú Hoà, cầu Đông Giang, cầu Tân Hội, chống lại.

 

Nguyễn Vương sai Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Khiêm tiến đánh, thắng, bắt được đô đốc Nguyễn Bá Phong, nhưng Vệ uư vệ ban trực tả là Vơ Văn Tài trúng đạn chết.

 

Nguyễn Vương vào đến cầu Tân Hội [Quảng Ngăi].

 

Tây Sơn nhiều lần đánh bảo Vân Sơn, Nguyễn Văn Thành sai Lê Chất chống đỡ.

 

Phạm Văn Điềm tấn công Phú Yên: Nguyễn Long giữ đồn La Thai, Lưu Tiến Ḥa giữ bảo Hội An, cả hai thua trận, Ḥa bị giết. Long chống không nỗi để mất quân lương, bị tội.

 

Hoàng tử thứ hai là Hy mất, nguyên giữ chức cai đội, đi theo quân, ở tuổi 20. Sai đưa về Gia Định chôn cất.

 

Trong hai tháng ở mặt trận, Nguyễn Vương chết hai con trai.

 

Quyết định bỏ Quy Nhơn đánh Phú Xuân

 

Nguyễn Vương xuất quân từ tháng 5-6/1800 (tháng 4 ÂL.), trong gần một năm, vẫn chưa giải vây được B́nh Định.

 

Vơ Tánh và Ngô Ṭng Châu bị vây từ tháng 1/1800, trong một năm rưỡi.

 

Thành B́nh Định gần hết lương, Trần Quang Diệu và Vơ Văn Dũng bao vây càng chặt.

 

Vương sai người mật báo cho Vơ Tánh nên phá ṿng vây ra hội với đại binh. Tánh trả lời: Liều chết giữ tới cùng. Tất cả quân chủ lực của Tây Sơn hiện ở đây, hoàng thượng nên lợi dụng đánh Phú Xuân (Liệt truyện II, t. 108). Đặng Đức Siêu và Trần Văn Trạc [tham thi bộ H́nh, Liệt truyện chép Chạc] cũng khuyên vua nên đánh Phú Xuân hiện đang bỏ trống. Đặng Đức Siêu biết rơ địa h́nh Phú Xuân, dâng chiến thuật: “Chia quân thuyền làm hai đạo: một đạo đánh cửa Tư Hiền, một đạo đánh cửa Noăn Hải (cửa Thuận An)” (Liệt truyện II, t. 188). Vương mới quyết.

 

Trận Phú Xuân, 1801

 

Ngày 5/6/1801 (ngày Canh Ngọ 24/4 Tân Dậu), Vương thân chinh đốc thuỷ quân ra cửa Thị Nại.

 

Ngày 7/6/1801 (ngày Nhâm Thân 26/4 Tân Dậu) thuyền vua tới Cù Lao Chàm. Gọi Nguyễn Văn Trương tới Đà Nẵng chờ lệnh.

 

Tống Viết Phước, Trần Văn Trạc giữ Quảng Nam.

 

Ngày 8/6/1801 (ngày Quư Dậu 27/4/Tân Dậu) Vương tới Đà Nẵng họp với các tướng.

 

Vương quyết định đánh Phú Xuân theo chiến lược của Đặng Đức Siêu: Thuỷ quân tiến làm hai đạo; một vào cửa Eo (cửa Thận An); một vào cửa Tư Dung (tức Tư Hiền).

 

Ngày 9/6/1801 (ngày Giáp Tuất 28/4/Tân Dậu) chia cắt nhiệm vụ: Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhân tiến ra cửa Eo. Hoàng Văn Tự và Bạch Văn Đoài đem binh voi theo đường bộ Cu Đê. Thuyền vua tiến đóng ở vụng Chu Măi.

 

Ngày 11/6/1801 (ngày Bính Tư 1/5/Tân Dậu), đại binh tiến vào cửa Tư Hiền.

 

Vua Cảnh Thịnh đă sai pḥ mă Nguyễn Văn Trị và đại đô đốc Trần Văn Tạ giữ núi Quy Sơn (Linh Thái), cho đóng cọc gỗ dưới lạch sông để ngăn quân Nguyễn.

 

Lê Văn Duyệt và Lê Chất đi tiên phong. Quân Tây Sơn ở trên cao bắn đại bác xuống, quân Nguyễn đánh suốt ngày không tiến được. Đến đêm, mới sai quân ngầm đội mấy chục thuyền chiến, vượt băi cát vào phá Hà Trung, phía sau lưng địch, chia quân theo đường lạch, nhổ cọc mà tiến.

 

Ngày 12/6/1801 (ngày Đinh Sửu 2/5/Tân Dậu) Vương thân đốc quân đến bến đ̣ Trừng Hà, Lê Văn Duyệt bắt được pḥ mă Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách. Quân Nguyễn tiến đến cửa Thuận An.

 

Vua Cảnh Thịnh đem đại quân ra cửa Thuận An chống với quân Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhân, nhưng chưa giao chiến, đă bỏ chạy.

 

Ngày 13/6/1801 (ngày Mậu Dần, 3/5/Tân Dậu) Nguyễn Vương vào Phú Xuân.

 

Cảnh Thịnh chạy ra Bắc. Vương sai Lê Chất đem bộ binh đuổi theo, Lê Chất (nguyên hàng tướng Tây Sơn) khua trống đi thong thả, để Quang Toản thoát, bị gọi về. Nhưng Nguyễn Ánh lờ đi, không bắt tội.

 

Được tin Phú Xuân bị tấn công, Trần Quang Diệu sai đại đô đốc Trương Phúc Phượng và các tướng đem đại binh đi đường núi về cứu Phú Xuân; nhưng bị người Man [người Thượng] đánh lừa, dẫn đi quanh co, hết lương thực, Trương Phúc Phượng đầu hàng ở Tả Trạch nguyên. Quân Tư khấu Định đến Cao Đôi gặp quân của Lê Văn Duyệt và Lê Chất, giao chiến, thua trận, Định chết ở đất Man. Các đạo quân khác bị bắt cả.

 

Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương đem thuỷ binh tiến đánh Linh Giang (sông Gianh), chặn đường lui của Tây Sơn. Phạm Văn Nhân giữ cửa Thuận An, Phan Văn Triệu và Tống Phước Châu giữ Tả Trạch nguyên và Tam ải.

 

Ra lệnh ai bắt được Tây Sơn th́ trọng thưởng, che giấu th́ xử tử.

 

Lê Văn Duyệt, Lê Chất chiếm lại Quảng Ngăi

 

Tống Viết Phước tử trận

 

Tháng 6/1801, mặc dù Tây Sơn đă mất cả Quảng Nam lẫn Phú Xuân, Trần Quang Diệu và Vơ Văn Dũng vẫn vây siết B́nh Định.

 

Không những thế, Trần Quang Diệu c̣n muốn chiếm lại Quảng Nam, bèn sai đô ngu Nguyễn Văn Giáp, đại đô đốc Lê Danh Phong, đô đốc Nguyễn Văn Khôn, tham đốc Hồ Văn Tú, đem hơn 7000 quân và 40 thớt voi, ra đóng ở Lương Châu và Phố Hoa, tiến đến Điện Bàn, chiếm lại Quảng Nam.

 

Tống Viết Phước xin cứu viện. Nguyễn Vương hạ lệnh phải giữ thành, không ra đánh đợi viện binh. Rồi sai Lê Văn Duyệt thống lính bộ binh cùng Lê Chất quay về Quảng Nam và sai Tống Viết Phước đem thuỷ binh về cứu B́nh Định. Lê Chất và Lê Văn Duyệt tới Quảng Nam, Nguyễn Văn Giáp bỏ chạy.

 

Sau khi chiếm lại được Quảng Nam, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất và Tống Viết Phước, đem quân đánh xuống Quảng Ngăi.

 

Đại binh của Tống Viết Phước, Lê Văn Duyệt, Lê Chất đến Quảng Ngăi, bắt được Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự, ở bảo Trà Khúc, giải về Kinh.

 

Trần Quang Diệu nghe tin Trà Khúc mất, thân hành cùng với Lê Danh Phong, Từ Văn Chiêu, đem quân, voi ra Tân Quan [Quảng Ngăi] đặt đồn trại dọc núi chống giữ.

 

Lê Văn Duyệt tiến đóng đồn ở Thanh Hảo [Quảng Ngăi] đắp lũy dài pḥng bị.

 

Tống Viết Phước đem thuỷ binh vào cửa Sa Huỳnh [Quảng Ngăi] thắng các trận My Sơn và Cung Quăng, tiến tới Bức Cốc [tức Hang Dơi ở Bến Đá B́nh Định] th́ bị phục binh Tây Sơn giết chết.

 

Đại đô đốc Lê Danh Phong, thuộc tướng của Trần Quang Diệu, giữ Tân Quan đầu hàng. Quân Nguyễn chiếm xong Quảng Ngăi.

 

Trong dịp thăng thưởng tướng sĩ tháng 7/1801, có ba người Pháp Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau), Nguyễn Văn Chấn (Vannier), Lê Văn Lăng (de Forcanz) vẫn quản các thuyền hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, được thăng từ cai đội lên cai cơ (TL, t. 451).

 

Thăng Nguyễn Văn Trương làm Khâm sai Chưởng Trung quân B́nh Tây đại tướng quân quận công. (TL, t. 452).

 

Đồng thời, Nguyễn Vương bắt đầu chuẩn bị đánh ra Bắc. Sai giám thành cai đội Nguyễn Văn Yên đến Động Hải ngắm đo luỹ Trấn Ninh (tức trường luỹ Động Hải), xem khắp t́nh thế từ núi Đầu Mâu đến cửa Nhật Lệ, vẽ bàn đồ (lũy dài 5.120 trượng) (TL, t. 453).

 

Sai khâm sai thuộc nội cai đội Ba La Di (Barisy) đi Hạ Châu (Singapore) t́m mua súng đạn. (TL, I, t. 456)

 

Sai đắp đường quan từ Phú Xuân đến Động Hải (Trấn Ninh).

 

Ngày 30/8/1801 (22/7 Tân Dậu) Vương đi Quảng B́nh, xem h́nh thế lũy Trấn Ninh, chia đồn đặt súng chống giữ.

 

Tháng 8-9/1801 (tháng 7 ÂL.) Quân Nguyễn giữ từ Thạch Tân [Quảng Ngăi] đến sông Gianh có khoảng 4 vạn người, ở Quy Nhơn có hơn 3 vạn (TL, t. 453).

 

Trần Quang Diệu chiếm lại Quy Nhơn

 

Vơ Tánh, Ngô Ṭng Châu tử tiết

 

Trong khi đại quân của Lê Văn Duyệt, Lê Chất và c̣n bị kẹt ở Quảng Ngăi, chưa tiến được, th́ Vơ Tánh và Ngô Ṭng Châu, hết lương thực, không thể cầm cự.

 

Thành B́nh Định bị Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng bao vây từ tháng 1/1800 đến tháng 6/1801, là một năm rưỡi. Đă phải giết cả ngựa, voi để ăn. Thế cùng, Vơ Tánh đưa thư, mật tính với Nguyễn Văn Thành liều chết đánh ra, nhưng phút chót thấy mưu bị lộ, không làm nữa. Bàn với Ngô Ṭng Châu, nộp thành rồi chết.

 

Ngô Ṭng Châu uống thuốc độc tự tử ngày 5/7/1801 (25/5/Tân Dậu). Vơ Tánh chôn cất cho Ngô Ṭng Châu. Sai lấy củi khô chất dưới lầu bát giác, viết thư cho Trần Quang Diệu, khuyên tướng sĩ không có tội, không nên giết hại, rồi phóng lửa tự đốt, hôm đó là ngày 7/7/1801 (27/5/Tân Dậu).

 

“Tính chết v́ nghiă, Diệu dẫn quân vào thành, trông thấy thương chảy nước mắt ra, lấy lễ thu chôn, tướng sĩ ở trong thành, giặc không giết hại ai cả. Rồi các tướng sĩ ấy lần lượt ra về.” (Liệt truyện II, t. 110).

 

Trần Quang Diệu và Vơ Văn Dũng ngay sau khi vào thành B́nh Định, sai đắp một luỹ ngang ở Vân Thê để chặn đường quân Nguyễn vận lương cho Thị Nại. Lại sai Phạm Văn Điềm ra đánh Phú Yên.

 

Tháng 9-10/1801 (tháng 8 ÂL.) Trần Quang Diệu Vơ Văn Dũng đánh Hoa An, Hoa Lộc, chiếm đường tiến đánh Phú Yên. Quân Nguyễn Văn Thành bị thiệt hại nặng.

 

Tháng 10-11/1801 (tháng 9 ÂL.), Trần Quang Diệu và Từ Văn Chiêu đem 18.000 quân tinh nhuệ lên đóng ở địa phận Thanh Hảo [Quảng Ngăi] trực diện với quân Lê Văn Duyệt và Lê Chất.

 

Ở mặt trận Phú Yên, Nguyễn Văn Thành đánh nhau với Vơ Văn Dũng. Dũng sai Nguyễn Văn Trí đem 700 quân tiếp viện, Trí bỏ Tây Sơn, theo Nguyễn Văn Thành.

 

Từ Quảng Ngăi, Trần Quang Diệu nghe tin Vơ Văn Dũng bại trận ở Phú Yên, bèn đem quân trở về bảo Lĩnh Vạn, để Từ Văn Chiêu ở lại chống với Lê Văn Duyệt ở Thanh Hảo.

 

Vơ Văn Dũng chiếm được bảo Khôi Diêu (Ḷ Vôi), đắp luỹ đất từ Tháp Cải đến Sản Sơn. Nguyễn Văn Thành đánh úp, thắng được.

 

Tháng 12/1801 (tháng 11 ÂL.), ở mặt trận Quảng Ngăi, đại đô đốc Tây Sơn Lê Đ́nh Chính ra hàng ở Thanh Hảo. Lê Văn Duyệt sai đóng gông giải về kinh, được tha. Chính dâng bản đồ 13 đạo thừa tuyên ở Bắc Hà.

 

Ở Phú Xuân, Nguyễn Vương tiến hành việc chuẩn bị đánh ra Bắc. Sai Tống Phước Lương đem binh thuyền ra sông Gianh hợp với Đặng Trần Thường.

 

Lại sai hữu tham tri bộ Công Nguyễn Khắc Thiệu đem hai cơ Kiên Châu và Thiện Châu cùng hơn 390 người ty Công bộ về Gia Định đóng 200 thuyền ô, thuyền sai [thuyền đi nhiệm vụ] và thuyền chiến.

 

Sai Tăng Quang Lưu đi Hà Tiên nấu luyện diêm tiêu để sung quân dụng.

 

Sai chúa tầu Phượng Phi là Nguyễn Văn Chấn (Vannier) và chúa tầu Bằng Phi là Lê Văn Lăng (de Forcanz) chở 15.000 phương gạo từ Quảng Nam đến quân thứ Thị Nại (Thục Lục I, t. 474).

 

Trận Trấn Ninh, 1802

 

Ở mặt Bắc, tháng 12/1801 (tháng 11 ÂL.) Nguyễn Văn Trương đóng ở Động Hải [tức Trấn Ninh, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng B́nh] được thám tử báo tin đại binh Tây Sơn từ Thăng Long sắp vào, bèn dâng sớ xin thêm quân.

 

Vua Cảnh Thịnh cùng em là Quang Thuỳ cử đại binh thủy bộ 30.000 người vào đánh. Quang Thuỳ v́ con vợ thứ, nên là em, nhưng nhiều tuổi hơn Quang Toản, tính can trường, được Quang Trung cho làm trấn thủ Nghệ An từ 1789. Bùi Thị Xuân, phu nhân tướng Trần Quang Diệu cũng đem 5000 quân bản bộ đến giúp.

 

Tư lệ Đinh Công Tuyết làm tiên phong, đụng độ với quân Đặng Trần Thường ở Hoành Sơn. 200 binh Nguyễn đầu hàng, Đặng Trần Thường rút về bảo Thanh Hà [huyện Bố Trạch, Quảng B́nh].

 

Đinh Công Tuyết tiến đóng đồn Bụt Sơn, Thiếu tế Nguyên đóng đồn ở Pháp Kê, Tổng quản Siêu đóng đồn ở Ba Đồn. Đặng Trần Thường lại lui quân về Ngoă Dinh (Dinh Ngói) [huyện Bố Trạch, Quảng B́nh].

 

Nguyễn Vương quyết định thân chinh, để quốc thúc (chú vua) Tôn Thất Thăng giữ Phú Xuân, cùng Nguyễn Văn Khiêm quản quân ngự lâm và các đội Thần sách. Nguyễn Công Hà và Nguyễn Hữu Chính giữ cửa Thận An.

 

Nguyễn Vương đến đóng ở Động Hải (Trấn Ninh).

 

Tháng 1/1802 (tháng 12/ Tân Dậu), Vương triệu Phạm Văn Nhân (đang giữ cửa Thận An) đến hành tại (chỗ vua đóng quân).

 

Tây Sơn đánh Ngơa Dinh, Đặng Trần Thường lui về Động Hải. T́nh h́nh quân Nguyễn khá khẩn cấp.

 

Vừa lúc đó, binh thuyền Tống Phước Lương đến cửa Nhật Lệ.

 

Tây Sơn tiến đến luỹ Trấn Ninh.

 

Lúc đó mặt trận B́nh Định cũng đăng găng, Nguyễn Văn Thành dâng mật sớ nói Trần Quang Diệu liều chết giữ thành không thể đánh được, mà lương quân ở Thị Nại đă gần hết. Vua bèn sai Nguyễn Hữu Chính chở 25.000 phương gạo ở kinh ra giúp.

 

Tháng 2/1802 (tháng 1/Nhâm Tuất) Nguyễn Vương đang đóng ở Động Hải [Trấn Ninh].

 

Vua Cảnh Thịnh sai Nguyễn Quang Thùy và tổng quản Siêu đem bộ binh đánh Trấn Ninh. C̣n Tư lệ Đinh Công Tuyết, đô đốc Nguyễn Văn Đằng, đô đốc Lực, kết hợp với hơn trăm thuyền của Tề Ngôi (giặc biển theo Tây Sơn) bày thủy trận ở cửa Nhật Lệ.

 

Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương điều bát thuỷ binh ra biển tham chiến. C̣n Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường chống giữ mặt bộ.

 

Quân Tây Sơn tấn công Trấn Ninh. Bám sát như kiến ḅ lên. Quân Nguyễn từ trên núi thả đá xuống, Tây Sơn chết rất nhiều. Quang Toản muốn rút quân. Bùi Thị Xuân nắm cương ngựa giữ lại. Bà cưỡi voi xuất trận, cảm tử thúc quân đánh từ sáng đến trưa, không lui (Liệt truyện, II, t. 570, Thực Lục, t. 479).

 

Thủy quân của Nguyễn Văn Trương nhờ gió bắc thuận, cướp được 20 chiến thuyền địch ở cửa Nhật Lệ.

 

Thấy thủy binh thua, bộ binh rối loạn, Quang Toản chạy về Đông Cao (huyện Bố Trạch, Quảng B́nh), Nguyễn Văn Kiên đầu hàng.

 

Biết thuyền lương Tây Sơn c̣n đậu 50 chiếc ở sông Gianh, Tống Phước Lương và Nguyễn Văn Vân [con Nguyễn Văn Trương] đón đánh, bắt được hết cả thuyền lương và 700 quân. Quân Tây Sơn tan vỡ. Thượng thư Nguyễn Thế Trực, đô đốc Trần Văn Mô, tham đốc Bùi Văn Ngoạn, thiếu tể Nguyên đều bị bắt.

 

Đại thắng, Nguyễn Vương bàn rút quân về Phú Xuân. Các tướng đều muốn thừa thắng tiến ra Bắc, Nguyễn Vương nói: “Trong bọn giặc chỉ có Trần Quang Diệu là ghê nhất”. Diệu chưa trừ xong không nên khinh tiến” (Thực Lục, I, t. 480). Ngày 15/2/1802 (ngày Ất Dậu 13/1/Nhâm Tuất) Nguyễn Vương về tới Phú Xuân.

 

Mặt nam, quân Nguyễn, vẫn không hạ được thành B́nh Định.

 

Tháng 4/1802 (tháng 3 ÂL.), t́nh thế Tây Sơn ở trong thành càng ngày càng khẩn cấp. Nghe tin đại binh thua trận Trấn Ninh, Trần Quang Diệu và Vơ Văn Dũng cùng các tướng sĩ Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Điềm, Lê Văn Hưng hơn 80 người và 3000 quân thiện chiến đem 86 thớt voi đực ban đêm bỏ Quy Nhơn, theo đường Lào, về Nghệ An (TL, t. 499).

 

Nguyễn Vương đổi phủ Gia Định làm trấn Gia Định.

 

Tháng 5/1802 (tháng 4 ÂL.), Vương sửa đắp hoàng thành (Huế) (TL, t. 487).

 

Vua Gia Long ra Bắc

 

Theo lời khuyên của Đặng Đức Siêu (tham tri bộ Lễ) và Trần Văn Trạc (tham tri bộ H́nh), Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia Long trước khi tiến đánh Thăng Long.

 

Ngày 31/5/1802 (ngày Canh Ngọ 1/5 Nhâm Tuất) lập đàn ở đồng An Ninh tế trời đất cáo về việc đặt niên hiệu.

 

Ngày 1/6/1802 (ngày Tân Mùi 2/5 Nhâm Tuất) kính cáo liệt tổ. Đặt hiệu là Gia Long. Ban ấn cho Quốc thúc quận công Tôn Thất Thăng. Thăng chức cho các tướng sĩ: Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Nhân, Phạm Văn Nhân tước quận công.

 

Cho Đô thống chế Tả dinh quân Thần Sách là Lê Văn Duyệt làm khâm sai Chưởng Tả quân b́nh Tây tướng quân, đổi Tả đồn quân Ngự Lâm làm Hậu quân.

 

Cho Lê Chất làm Khâm sai Chưởng Hậu quân b́nh Tây tướng quân, vv…

 

Truyền hịch 6 điểm cho dân Bắc Hà. Định 8 điều quân chính.

 

Cử Trịnh Hoài Đức đi sứ Thanh, đặc gia chức Thượng thư: Trịnh Hoài Đức làm thượng thư bộ Hộ.

 

Ngày 20/6/1802 (ngày Canh dần 21/5/Nhâm Tuất, vua rời Kinh sư, cho hoàng tử thứ tư (Minh Mạng), 11 tuổi, đi theo, chinh phục Bắc Hà.

 

Ngày 22/6/1802 (ngày Nhâm Th́n 23/5/Nhâm Tuất, đến An Lạc (Quảng Trị).

 

Ngày 25/6/1802 (ngày Ất Mùi 26/5/Nhâm Tuất) đến Động Hải (Trấn Ninh, Quảng B́nh).

 

Ngày 26/6/1802 (ngày Bính Thân 27/5/Nhâm Tuất) đến Thanh Hà.

 

Sai Đặng Trần Thường theo đường thượng đạo đánh úp Hoành Sơn (Đèo Ngang).

 

Nguyễn Văn Trương điều khiển thủy binh. Lê Văn Duyệt điều khiển bộ binh, đi đường trung đạo. Nguyễn Văn Xuyên đem voi qua sông Gianh. Tham tri bộ Hộ Nguyễn Hữu Đồng chở lương.

 

Thuỷ binh của Nguyễn Văn Trương đến cửa Ṛn (Quảng B́nh) đô đốc Nguyễn Văn Ngũ và Nguyễn Văn Lục thua chạy, tiến lấy được dinh Hà Trung.

 

Lê Văn Duyệt chiếm đồn Đại Nại (sở lỵ huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh)

 

Ngày 30/6/1802 (ngày Canh Tư 1/6 Nhâm Tuất) vua ngừng ở Hà Trung [theo Đại Nam Nhất thống chí, th́ Hà Trung ở Thanh Hoá, mà tháng 6/1802, vua Gia Long chưa thể đến Thanh Hoá, vậy Hà Trung này có lẽ là dinh Hà Trung, ở Hà Tĩnh hay Nghệ An chăng?]

 

Thuỷ binh tiến vào cửa biển Hội Thống, đổng lư Nguyễn Văn Thận thua trận.

 

Bộ binh tiến đến trấn Nghệ An, bắt được Nguyễn Lân con Nguyễn Nhạc (TL, t. 499), chiếm được đồn Tiên Lư (phủ Diễn Châu, Nghệ An).

 

Ngày 3/7/1802 (ngày Quư Măo 4/6/Nhâm Tuất) vua đến thành Nghệ An. Thiếu uư Đặng Văn Đằng, đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng.

 

Quân tiền đạo tiến đến Thanh Hoa (Thanh Hoá), bắt được con Nguyễn Huệ là đốc trấn Quang Bàn, đổng lư Nguyễn Văn Thận (TL, I, t. 499). Tư mă Nguyễn Văn Tứ đem quân trốn đi.

 

Đăng Trần Thường đến hành tại, dâng tù bắt được: Con Nguyễn Huệ là Thất, tham đốc Phạm Văn Điềm, đô đốc Nguyễn Văn Ngũ. Sai giết cả. (TL, I, t. 499).

 

Sai Hoàng Văn Toản, Trịnh Ngọc Trí và Tôn Thất Liêm rước Từ cung [ở Gia Định] về kinh (TL, t. 499).

 

Phó đô Thống chế Tả dinh Vơ Văn Doăn và Chánh thống Tiền đồn Lê Đức Định bắt được Thiếu Phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An (TL, I, t. 499).

 

Ngày 13/7/1802 (ngày Quư Sửu 14/6/Nhâm Tuất) vua đến Thanh Hoá.

 

Bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá (huyện Nông Cống, Thanh Hoá) bắt được Tư đồ Vơ Văn Dũng. Sai đóng xiềng giam lại.

 

Lê Văn Duyệt chiếm Tam Điệp, tới Thanh Hoa Ngoại (tức Ninh B́nh), đô đốc Tài đầu hàng.

 

Ngày 16/7/1802 (ngày Bính Th́n 17/6/ Nhâm Tuất) vua tới Ninh B́nh.

 

Thủy binh của Nguyễn Văn Trương thu phục Sơn Nam Hạ, Trương ở lại trấn giữ.

 

Ngày 17/7/1802 (ngày Đinh Tỵ 18/6/Nhâm Tuất) vua đến Sơn Nam Thượng (Hà Nội), đô đốc Lê Văn Hoà, hiệp trấn Tín đầu hàng.

 

Ngày 20/7/1802 (ngày Canh Thân 21/6/ Nhâm Tuất) vua Gia Long vào thành Thăng Long.

 

Vua Cảnh Thịnh đă bỏ chạy trước cùng với các em là Quang Thuỳ, Quang Duy, Quang Thiệu, tư mă Nguyễn Văn Dụng, tư mă Nguyễn Văn Tứ, đô đốc Tú qua sông Nhị Hà đến Xương Giang (thuộc Bắc Ninh), đêm trú ở chùa Thọ Xương. Dân thôn mưu cướp. Quân đi theo tan vỡ. Quang Thùy thắt cổ tự tử, độ đốc Tú và vợ tự tử. Tất cả bị đóng cũi đưa về Thăng Long (TL, I, t. 504).

 

Ngày 24/10/1802 (ngày Bính Thân 28/9 Nhâm Tuất) vua rời Thăng Long, để Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn Bắc Thành.

 

Ngày 27/10/1802 (ngày Kỷ Hợi 1/10 Nhâm Tuất) đến Thanh Hoá yết lăng miếu ở núi Thiên Tôn.

 

Ngày 10/11/1802 (ngày Quư Sửu 15/10 Nhâm Tuất), vua Gia Long về đến Phú Xuân.

 

Đặng Đức Siêu làm bài ca Hồi loan cửu khúc.

 

Trần Quang Diệu bị bắt

 

Tháng 7/1802, phó đô thống chế Tả dinh Vơ Văn Doăn và chánh thống Tiền đồn Lê Đức Định bắt được Thiếu Phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An.

 

Thực Lục chép: “Diệu từ Quy Nhơn đem đồ đảng chạy trốn, chui rừng lội suối, gặp các sách Man có ai ngăn giữ th́ ra sức đánh gỡ mà qua, trong khoảng vài tháng lương thực cạn hết, quân lính hao tan. Đến sách Quy Hợp, chợt gặp quan quân, tướng sĩ giặc đều mỏi, không thể đánh được. Diệu bèn bị bắt. Bắt được đồ đảng là bọn Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Mân và 76 thớt voi đực. Tin thắng trận báo lên. Vua sai Lê Văn Duyệt đóng xiềng giam lại, dặn không được tự tiện giết. Sau Văn Chiêu ốm, sai giết” (TL, I, t. 499).

 

“Ngày Quư Sửu [14/6/Nhâm Tuất, tức ngày 13/7/1802] xa giá đến Thanh Hoa [Thanh Hoá]… Bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá (thuộc huyện Nông Cống) bắt được tư đồ giặc là Vơ Văn Dũng và 3 người đồ đảng, giải đến hành tại. Sai đóng xiềng giam lại”. (TL, I, t. 500).

 

Liệt Truyện chép hơi khác:

 

“Bộ quân của Lê Văn Duyệt, Lê Chất đến sông Thanh Long cướp kho Kỳ Lân. Trấn thủ Nghệ An ngụy là Nguyễn Văn Thận, hiệp trấn Nguyễn Triêm, thuỷ quân thống lĩnh Đại, thiếu uư Đăng bỏ thành chạy đến đồn Tiên Lư (tức thành phủ Diễn Châu), Triêm tự thắt cổ chết, Thận chạy đến Thanh Hoá. Quang Diệu từ Quy Hợp xuống Hương Sơn (Nghệ An), nghe thấy Nghệ An đă phá, bèn qua Thanh Chương sang sông Thanh Long, những người đi theo dần dần tản đi cả. Diệu và vợ là Thị Xuân đều bị quan quân bắt sống; Văn Dũng cũng bị thổ dân Nông Cống (Thanh Hoá) bắt giải. Đại binh đến Thanh Hoá, ngụy đốc trấn là Quang Bàn và Thận cùng Đằng đều xin hàng.” (Liệt truyện II, t. 570-571).

 

Liệt truyện chép: “Diệu và vợ”, trong khi Thực Lục không nói ǵ đến Bùi Thị Xuân.

 

Thực Lục thường vắn tắt kể các dữ kiện, chép những ǵ thực chính xác. C̣n Liệt Truyện kể chuyện, đôi khi có suy đoán thêm.

 

V́ vậy, việc bắt được Bùi Thị Xuân c̣n là một tồn nghi. Chưa chắc Bùi Thị Xuân đă bị bắt, bởi trong Thực Lục cũng như Liệt Truyện không thấy nói đến việc Trần Quang Diệu gặp Bùi Thị Xuân ở đâu và chỗ nào.

 

Số phận vua, quan, tướng lănh Tây Sơn bị bắt

 

Sau đây là danh sách những người bị bắt từ tháng 6/1801 đến tháng 7/1802:

 

Lê Văn Duyệt bắt được pḥ mă Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách ở mặt trận Phú Xuân (TL, I, t. 441).

 

Các em của Quang Toản là: Quang Cương, Quang Tự, Quang Điện và hơn 30 người đàn bà con gái bị đem nộp lấy thưởng, ở Quảng B́nh (TL, I t. 442).

 

Nội hầu Lê Văn Lợi, Thiếu úy Văn Tiến Thể, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư bộ Lại Hồ Công Diệu… ra hàng. Vương để Nguyễn Thiếp trở về Nghệ An (TL, I, t. 444).

 

Đóng cũi Nguyễn Quang Cương, Tham lĩnh Ngoạn, Tham lĩnh Tuân giải về B́nh Định. C̣n Nguyễn Quang Tự, Nguyễn Quang Điện, pḥ mă Nguyễn Văn Trị bị giải về Gia Định, rồi sai giết đi. (TL, I, t. 446).

 

Tháng 6/1801, bắt được Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự, ở bảo Trà Khúc [Quảng Ngăi] đem giải về Kinh. (TL, I, t. 449).

 

Tháng 11-12/1801 (tháng 10 ÂL.) phụ chính Trần Văn Kỷ đă ra hàng, t́m cách liên lạc với vua Cảnh Thịnh, bị giết. (TL, I, t. 470)

 

Tháng 12/1801 (tháng 11 ÂL.) “Phá huỷ mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị lăng tŕ cắt nát thây” (TL. I. t. 473)

 

Ra bố cáo: “Bắt được con cái tướng tá của Nguyễn Văn Huệ nhiều không kể xiết (…) Nay đă phá huỷ mồ của vợ chồng giặc Huệ, bêu đầu phơi xác. Đồ đảng của chúng bắt được cũng đều giết hết” (TL. I, t. 473).

 

Tháng 4/1802 (tháng 3 ÂL.) Nguyễn Văn Vân bắt được ba người con của Nguyễn Nhạc là Thanh, Hán và Dũng, đem nộp, sai giết cả. (Thực Lục, I, t. 485).

 

Tháng 6/1802, bắt được Nguyễn Lân con Nguyễn Nhạc, ở Nghệ An. (TL, t. 499)

 

Ngày 3/7/1802, thiếu uư Đặng Văn Đằng, đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng ở Nghệ An. (TL, I, t. 499).

 

Bắt được con Nguyễn Huệ là đốc trấn Quang Bàn và đổng lư Nguyễn Văn Thận ở Thanh Hoá (TL, I, t. 499). Tư mă Nguyễn Văn Tứ đem quân trốn đi.

 

Đặng Trần Thường dâng tù bắt được: con Nguyễn Huệ là Thất, tham đốc Phạm Văn Điềm, đô đốc Nguyễn Văn Ngũ. Sai đem giết. (TL, I, t. 499)

 

Tháng 7/1802, Phó đô thống Tả dinh Vơ Văn Doăn và Chánh thống Tiền đồn Lê Đức Định bắt được Thiếu phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An (TL, I, t. 499).

 

Ngày 13/7/1802, bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá (huyện Nông Cống, Thanh Hoá) bắt được tư đồ Vơ Văn Dũng. Sai đóng xiềng giam lại (TL, I, t. 500).

 

Ngày 20/7/1802 (ngày Canh Thân 21/6/ Nhâm Tuất) vua Gia Long đến thành Thăng Long. Ra lệnh: “Những kẻ có nhận quan chức của giặc ra thú th́ được miễn tội, gần th́ hạn 3 ngày, xa th́ hạn 5 ngày. Nếu quá hạn mà không ra thú, bị người ta bắt được th́ làm tội. Những tàn quân của giặc mang theo binh khí trốn về, th́ lập tức phải đến cửa quân trao nộp, nếu cất giấu th́ xử theo quân pháp”. (TL, I, t. 503)

 

Vua Cảnh Thịnh bỏ chạy cùng với các em là Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu và tư mă Nguyễn Văn Dụng, tư mă Nguyễn Văn Tứ, đô đốc Tú, đến Xương Giang (thuộc Bắc Ninh). Quân đi theo tan vỡ. Quang Thùy thắt cổ tự tử. Đô đốc Tú và vợ tự tử. Tất cả bị đóng cũi đưa về Thăng Long. (TL, I, t. 501, Liệt truyện, II, 571)

 

“Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), bắt được con Nhạc là Văn Đức, Văn Lương, cháu là Văn Đâu (con Văn Đức) đều đem chém ngang lưng. Bấy giờ ḍng giống Tây Sơn không c̣n sót một người nào nữa” (Liệt truyện II, t. 571).

 

Hành h́nh

 

Tháng 11-12/1802 (tháng 11/Nhâm Tuất) làm lễ tuyên cáo vơ công.

 

Ngày 30/11/1802 (ngày Quư Dậu, 6/11 Nhâm Tuất) tế thiên điạ.

 

Ngày 1/12/1802 (ngày Giáp tuất, 7/11 ÂL.) tế hiến phù (dâng những người bắt được) ở Thái Miếu. Thực Lục viết:

 

“Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri H́nh bộ, áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng tŕ cho 5 voi xé xác. (Dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực h́nh), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giă nát rồi vứt đi, c̣n xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài vị] của vợ chồng Huệ th́ đều giam ở Nhà đồ Ngoại (sau đổi là Vũ Khổ) năm Minh Mạng thứ 2, đổi giam vào ngục thất cấm cố măi măi. C̣n đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cái trong ngoài” (TL, I, t. 513).

 

Trong bài chiếu gửi toàn dân, có nói rơ tên chức của các quan tướng bị giết: “Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Vơ Văn Dũng, Tư mă Nguyễn Văn Tứ, Đổng lư Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đă bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng.” (TL, t. 533).

 

Bè lũ đầu sỏ ở đây có thể hiểu là một phần hay toàn bộ những người bị bắt đă kể trên. Tướng bị bắt nhưng xét “vô danh” như Đô đốc Đinh Công Tuyết, cũng “không nỡ giết”.

 

Trên nguyên tắc, người đầu hàng không bị tội, trừ khi, trước đă hàng, sau theo lại Tây Sơn, như thái bảo Phạm Văn Tham, phụ chính Trần Văn Kỷ, tham đốc Phạm Văn Điềm, đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, đều bị giết. Cũng không thấy tên bà Bùi Thị Xuân. Vậy có thể bà đă trốn thoát.

 

Thụy Khuê

 

Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-5/

 Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long

Chương 4

 

Tác phẩm của John Barrow (1764-1848)

 

bia-Barow1Vào Google đánh chữ Olivier de Puymanel, Wikipédia Pháp, thấy ghi: “Olivier de Puymanel “là một nhà kiến thiết và là người tổ chức quân đội Việt Nam dưới triều đại nhà Nguyễn”. Wikipédia Việt, ghi: “Olivier de Puymanel là người giám sát thi công toà thành bát quái, theo thiết kế của kỹ sư người Pháp, Théodore Lebrun”, ông “đă huấn luyện cho hơn 50.000 quân Nguyễn, c̣n Jean-Marie Dayot th́ lo về thuỷ quân”.

 

Những điều đă được truyền tụng khắp nơi trên thế giới, đă trở thành “sự thực”, cho đến ngày nay là: “Puymanel là cha đẻ các thành tŕ xây theo kiểu Vauban tại Việt Nam trong thế kỷ XIX”, “Bá Đa Lộc đă bỏ tiền riêng ra mua tầu và khí giới, mướn người, đem các “kỹ sư”, “sĩ quan” Pháp về xây dựng quân đội Nguyễn Ánh, ông c̣n là “thầy dạy” Nguyễn Ánh về mọi mặt, chiến lược, cai trị, vv…”

 

Tất cả những “thông tin” loại này thoát thai từ sự xác định của các sử gia thuộc địa, cách đây hơn 100 năm, rằng: Bá Đa Lộc và những “sĩ quan” Pháp đă giúp Gia Long “dựng lại cơ đồ”. Đă đến lúc chúng ta cần phải khảo sát lại những “công trạng” này. Đâu là sự thực? Đâu là huyền thoại?

 

Học giả Trương Vĩnh Kư là người đầu tiên viết những ḍng xuyên tạc lịch sử nước ḿnh, theo đúng quan niệm thực dân trong cuốn Cours d’Histoire Annamite, Saigon, Imprimerie du Gouvernement, 1875.

 

Những học giả Pháp như Maybon, Cadière, có lối viết của họ, chúng ta sẽ nghiên cứu sau, đều đồng thanh trách Đại Nam Thực Lục không nhắc nhở đủ đến công trạng của những người Pháp này.

 

Vậy chúng ta cần phải điều tra xem Thực Lục và Liệt Truyện thiếu sót ở chỗ nào.

 

Công việc đầu tiên là t́m xem những tác giả Tây phương đương thời viết ǵ về giai đoạn này.

 

John Barrow và cuốn A Voyage to Cochinchina (Chuyến đi Nam Hà)

 

Một trong những tác phẩm sớm nhất của người ngoại quốc viết về giai đoạn Gia Long dựng nghiệp, là cuốn sách của John Barrow (1764-1848), in tại Luân Đôn, năm 1806, tựa đề -theo lối của thời ấy, tên sách rất dài- như sau:

 

A Voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the valuable productions and the political importance of this flourishing Kingdom; and also of such European settlements as were visited on the voyage; with sketchs of the Manners, Character and Condition of their several inhabitants, to which in annexed an Account of a Journey made in the year1801 and 1802 to the Residence of the Chief of the Booshuana nation… (London, 1806).

 

Sách này được Malte-Brun dịch và chú giải sang tiếng Pháp, tựa đề: Voyage à la Cochinchine par les Iles de Madère, de Ténériffe et du Cap Verd, Le Brésil et l’Ile de Java, contenant des renseignements nouveaux et authentiques sur l’Etat naturel et civil de ces divers pays… (Paris, 1807).

 

Dịch: Hành tŕnh sang nước Nam qua các đảo Madère, Ténériffe, Mũi Verd, Brésil, đảo Java, với những thông tin mới và xác thực về t́nh trạng thiên nhiên và dân sự ở những xứ khác nhau này…

 

John Barrow (19/6/1764 – 23/11/1848) là nhà thám hiểm, nhà quản trị và ngoại giao Anh. Khoảng 1792-1794, ông giữ chức thị vệ của George Macartney, sứ thần Anh đầu tiên ở Trung Quốc. Hạm đội chở phái đoàn sứ thần Anh đến Trung Hoa, ngừng lại ở Đà Nẵng từ 14/5 đến 16/6/1793, dưới triều vua Cảnh Thịnh. Tác phẩm viết trong khoảng 1797-1798, tức là 4 năm sau khi Barrow rời Đà Nẵng.

 

Cuốn sách được nhiều người trích dẫn khi viết về Việt Nam.

 

Bản dịch Pháp văn gồm 2 tập: Tập I (do Imprimerie de Jeunehomme in ở Paris, 1806) và Tập II (Arthus- Bertrand, 1807), đều viết về các xứ kể tên ở trên, dưới dạng hồi kư lịch sử, địa lư, kinh tế và chính trị.

 

Sách in kèm với một tập h́nh gồm 18 bức khắc họa ghi lại chuyến đi, do Tardieu thực hiện, trong đó có một bức vẽ Hội An với những kiểu tầu, thuyền mà tác giả mô tả trong sách.

 

Chúng tôi giới thiệu phần Barrow viết về Việt Nam, trong chương IX, X và XI (t. 182- 361), tập II, qua bản dịch Pháp văn của Malte-Brun, trích dịch sang tiếng Việt, sẽ dẫn là Barrow II.

 

Để soạn ba chương này, Barrow cho biết, ông đă dựa vào những nguồn tin sau đây:

 

“Hầu hết những chi tiết mà tôi vừa đưa ra hoặc sẽ nói đến, thoát thai từ bản thảo hồi kư của Ô. Barisy, một sĩ quan Pháp giỏi giang, đă quản một chiếc tầu phục vụ vua Gia Long. Chắc chắn phần thứ nhất [tức là phần nói về Quang Trung] hoàn toàn ăn khớp với những ǵ tôi tiếp nhận được ở Đà Nẵng từ một người thư kư của chính phủ Trung Hoa sống tại đây, được người thông ngôn của chúng tôi dịch lại. Những kư sự của các vị thừa sai đă sống ở xứ này, cũng phù hợp [với những điều này]: v́ vậy, tôi hoàn toàn tin tưởng. Ngoài ra, những sự kiện chính c̣n được hai người Anh sống ở Sài G̣n năm 1799-1800, xác nhận.” (Barrow II, t. 221).

 

(Il est bon de dire au lecteur, que j’ai tiré la plus grande partie des détails que je viens de donner, et de ceux qui vont suivre, d’un mémoire manuscrit de M. Barisy, officier français d’un grand mérite, qui commandoit une frégate au service de Caung-shung. Il est certain que la première partie s’accorde parfaitement avec ce que nous avons appris dans la baie de Turon, d’un secrétaire du gouvernement de la Chine, résident en ce lieu, et dont les récits nous étaient transmis par notre interprète. Les différentes relations des missionnaires qui ont résidé dans ce pays, s’y accordent également: ainsi, je n’hésite pas à donner au reste la plus entière confiance. D’ailleurs, les faits principaux m’ont encore été confirmés par le témoignage de deux Anglais, qui ont été à Sai-gong dans les années 1799 à 1800). (Barrow II, t. 221).

 

Tóm lại, Barrow đă dựa vào:

 

- Bản thảo hồi kư của Barisy, một trong những người lính Pháp giúp Nguyễn Ánh.

 

- Lời người thư kư làm việc cho chính phủ Trung Hoa, ở Đà Nẵng (1793) kể lại, qua thông ngôn.

 

- Hai người Anh ở Sài G̣n năm 1799 và 1800.

 

- Và tư liệu trong các tập Les Nouvelles des Missions Orientales (Tin tức các hội thừa sai Đông phương), in năm 1785, 1787, 1789, 1794 và 1797.

 

Câu “người thư kư làm việc cho chính phủ Trung Hoa” này, Taboulet, khi trích dẫn Barrow, lại viết thành: “Một người thư kư Tầu của chính phủ Việt Nam (Un secrétaire chinois du gouvernement vietnamien) (Taboulet, La Geste Française en Indochine, Tome I, note 1, trang 270).

 

Taboulet chỉ chép lại cái sai của Maybon: Thay v́ “người thư kư của chính phủ Tầu” lại đổi thành “người thư kư Tầu của chính phủ Việt Nam.” (Maybon, Introduction, La relation de la Bissachère, trang 37, note 1).

 

Nhưng tệ hại hơn cả là cái sai của Tạ Chí Đại Trường.

 

Tạ Chí Đại Trường chép theo Taboulet, nhưng lại viết như thế này: “John Barrow dựa trên các tài liệu của L. Barisy, của một viên thư kư Tầu của chính quyền Gia Định (Trịnh Hoài Đức?) và các giáo sĩ mà vẽ rơ một Nguyễn Ánh lúc đứng tuổi…” (TCĐT, Lịch sử nội chiến Việt Nam, trang 96, chúng tôi in đậm).

 

Không hiểu tại sao Tạ Chí Đại Trường lại thêm câu “chính quyền Gia Định” vào, để móc nối với Trịnh Hoài Đức?

 

Barrow có đến Gia Định hồi nào đâu mà gặp Trịnh Hoài Đức? Để rồi sau đó, Tạ Chí Đại Trường dẫn đến nhận xét: “sử quan” nhà Nguyễn “không tiếc dịp đề cao hoàng đế của họ”.

 

Chúng tôi xin nhắc lại: những điều viết về Gia Long trong cuốn sách này là do Barrow viết ra, không phải do “sử quan nhà Nguyễn” hay Trịnh Hoài Đức viết.

 

Để vẽ chân dung Gia Long, Barrow dựa vào hồi kư Barisy, và 2 người Anh ở Sài G̣n năm 1799 và 1800, họ là những chứng nhân ngoại quốc gần nhất của thời kỳ này. Riêng Barisy, nếu những điều ông kể trong mấy bức thư [được Cadière sưu tập] là đúng, th́ ông đă được gần Nguyễn Vương trong nhiều năm. Barisy là người giúp vua mua bán máy móc, vũ khí, nguyên liệu ở nước ngoài, ông hay đi đi về về Gia Định và ở bên Hoàng tử Cảnh, khi hoàng tử mất v́ bệnh đậu mùa, trong lúc vua đang đánh trận.

 

C̣n về thuật đóng tầu và tầu chiến của Việt Nam, Barrow quan sát tầu thuyền ở vịnh Đà Nẵng và Hội An, năm 1793 (một năm sau khi Quang Trung mất). 

Những điều Barrow viết về thuật đóng tầu ở Việt Nam nói riêng, ở Trung Hoa và phương Đông nói chung, đă gián tiếp phản bác tất cả những luận điệu cho rằng “các sĩ quan” Pháp đặc biệt Puymamel và Bá Đa Lộc đă “dạy” Gia Long đóng tầu, đúc súng…

Có lẽ v́ lư do đó, nên khi trích dẫn Barrow, Taboulet đă bỏ hẳn hai đoạn quan trọng nhất, là đoạn kỹ thuật làm tầu chiến ở Việt Nam và đoạn Gia Long trực tiếp trông coi và điều khiển tất cả những công xưởng đóng tầu và đúc súng ở Gia Định.

Maybon cũng loại trừ tác phẩm của Barrow bằng cách chỉ trích những đoạn viết sai về lịch sử, chủ yếu về vụ Conway không chịu thi hành hiệp ước cầu viện Versailles 28/11/1787; nhưng ông Maybon lại giữ lại một sai lầm khác của Barrow để dùng, đó là việc Bá Đa Lộc “cứu sống” Nguyễn Ánh năm 1777, cần thiết cho sự xác định “vị trí hàng đầu” của Bá Đa Lộc bên cạnh Nguyễn Ánh.

 

Sơ lược nội dung tác phẩm A Voyage to Cochinchina (Chuyến đi Nam Hà)

 

Phần viết về Việt Nam gồm ba chương: IX, X và XI, in trong tập II.

 

Chương IX: Gồm hai phần:

 

1- Xác định vị trí nước Nam và hoàn cảnh hạm đội Anh ghé Đà Nẵng (t. 182-191).

 

2- Lược khảo lịch sử nước Nam, t́nh h́nh tranh chấp lúc bấy giờ (t. 192-219). Hành tŕnh Bá Đa Lộc (t. 200- 219) và Chân dung vua Gia Long (t. 220- 240).

 

Có thể nói, Barrow đặc biệt chú ư đến hai người anh hùng của giai đoạn này, về vua Quang Trung, ông đứng trong quan điểm chung lúc bấy giờ (kể cả Hoàng Lê nhất thông chí của Ngô Th́ Chí), đều gọi là ngụy, nhưng cũng không kém sự khâm phục, kính nể thiên tài chính trị và quân sự.

 

Về chân dung vua Gia Long, đây là một trong những bài viết rơ và có nhiều chi tiết nhất về vị vua này. Barrow đặc biệt kính trọng vua Gia Long, coi Gia Long như một thiên tài, đă khôi phục lại nhà Nguyễn sau nhiều năm bị Nguyễn Huệ đánh đuổi, không c̣n mảnh giáp, phải sống lưu đầy, khốn khổ; lúc đầu chỉ có “một chiếc thuyền” mà hơn 10 năm sau đă có cả một “hạm đội 1200 chiến thuyền”, không những giành lại miền Nam của tổ tiên các chúa Nguyễn mà c̣n đánh ra Bắc thống nhất đất nước. Phần chân dung vua Gia Long, chúng tôi sẽ trích dịch riêng, in trong chương năm, sắp tới).

 

Chương X: Lược khảo đại cương về phong tục, tính t́nh và hoàn cảnh sống của dân Đà Nẵng. Triều đ́nh Cảnh Thịnh tiếp đăi hạm đội Anh (241- 306).

 

Chương XI: Những lợi ích trong việc buôn bán với nước Nam (t. 307- 345).

 

*

 

Trong chương IX, phần lược khảo lịch sử nước Nam, Barrow viết về những việc:

 

Anh em Tây Sơn khởi binh, 1774. Việc nội chiến (t. 192-193). Vua Lê sang Tầu cầu cứu. Quang Trung thắng quân Thanh. Việc sắc phong và triều cống (t. 194-199). Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh. Chiến tranh Nguyễn Ánh-Tây Sơn (t. 200-206). Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, hiệp ước Versailles 1787 (t. 207-211). Bá Đa Lộc gặp khó khăn ở Pondichéry với Conway. Bá Đa Lộc về Sài G̣n (t. 213-216).

 

Như phần lớn các tác gia ngoại quốc không phải là chuyên gia lịch sử, khi viết về lịch sử Việt Nam, qua lời kể lại của người Tầu, Barrow mắc những sai lầm không tránh được v́ thiếu kiến thức về lịch sử, văn hoá nước ta. Đoạn viết về Quang Trung, có sự lầm lộn giữa hai nhân vật: Tôn Sĩ Nghị và Phúc Khang An (người Barrow gặp ở Bắc Kinh).

 

Tuy vậy, có một thông tin đáng chú ư: Nguyễn Lữ là thầy tu (Barrow II, t. 192).

 

Barrow viết: “Người lái buôn [Nguyễn Nhạc] xa xỉ trong tiệc tùng, lễ hội, đốt pháo bông. Ông tướng [Nguyễn Huệ] thu phục quân đội và ông thầy tu [Nguyễn Lữ] có tiếng nói của bọn giáo phái” (t. 192).

 

Sự kiện này, nếu đúng, giải thích tại sao Nguyễn Lữ thường trốn việc đánh nhau và không có con.

 

Chương X: (t. 241-306) Đoạn Barrow viết về tập tục, tính t́nh, và t́nh trạng thiên nhiên ở Đà Nẵng, Barrow đang kể chuyện các quan chức ở Đà Nẵng mời phái đoàn Anh dự hội ngày 4/6, xem tuồng, hát, các tṛ chơi như chọi gà, đánh cờ và ăn tiệc. Có sự chuyển động của quân lính Tây Sơn (hệ quả của vụ Manuel Duomé tuyên truyền tầu Anh đến chiếm Đà Nẵng, sẽ nói đên sau) phía Anh cũng chuẩn bị giáp chiến, nhưng cuối cùng không có chuyện ǵ; phái đoàn được mời xem hát tuồng, ăn uống vui vẻ (t. 241-256).

 

Tiếp đó, ông nói về tính t́nh người Việt: nhanh nhẹn, vui vẻ, nói nhiều… Barrow giữ một giọng khách quan khi nói về người Việt và các tôn giáo, phong tục, tập quán của dân Việt. Những ǵ ông cho là dở th́ phê b́nh, như chuyện người Việt mê tín hoặc hay ăn cắp vặt, nhưng cũng nói thêm là tôi ở không lâu, nên có thể phán đoán sai lầm.

 

Ông viết về ngôn ngữ, tôn giáo, nhà cửa, y phục, đạo đức, vị trí người phụ nữ: khá tự do và làm mọi việc như đàn ông (t. 257- 276). Nhà cửa, sản phẩm, hải sản ở Đà Nẵng, lâm sản, đồ ăn, hoa quả, sản xuất, việc thừa kế gia tài (t. 277- 287). Kỹ thuật đóng tầu và tầu chiến của Việt Nam (t. 287-293). Bản đối chiếu một số từ tiếng Anh, Hán, Việt (t. 295-297). So sánh giữa người Tầu và người Việt. Người Việt theo đạo Phật, thờ thần, thờ Phật trên cây; mê tín, lập bàn thờ ở những chỗ có tai nạn (t. 299-304). Về h́nh luật, so sánh với Tầu, cùng chung luật, nhưng trong thời gian ông ở Đà Nẵng không thấy áp dụng các h́nh phạt, c̣n ở Tầu, đi đâu cũng thấy tội nhân bị đánh đập dă man, rên siết dưới gông cùm (t. 305-306).

 

Chương XI: Kê khai những lợi ích trong việc buôn bán với nước Nam (t. 307- 345), phần này cũng sẽ được trích dẫn dài rộng ở dưới.

 

Tóm lại, tác phẩm của John Barrow, phần có giá trị nhất, là những điều ông viết do mắt thấy tai nghe hoặc do những nhân chứng nhân trực tiếp sống ở thời đại này. Chúng tôi trích dịch sau đây, những đoạn có ích đối với chúng ta, trong việc nghiên cứu bối cảnh xă hội và lịch sử, ngoài những ǵ đă thấy trong chính sử Việt.

 

Lư do hạm đội Anh ghé Đà Nẵng năm 1793

 

Phần đáng chú ư đầu tiên là đoạn tác giả nói hoàn cảnh nào đă khiến hạm đội Anh ghé Đà Nẵng năm 1793, (trong chương IX), ông viết:

 

“Bởi v́ lúc bấy giờ phải nhờ thuận gió [mới đi được], và t́nh trạng sức khỏe của những người bệnh bắt chúng tôi phải ghé lại đất liền.

 

Chúng tôi đành đỗ lại ở một vịnh, đối diện với quần đảo Côn Lôn. Nhưng khi nh́n thấy các tầu lớn của chúng tôi, người dân ở đây sợ quá, họ bỏ chạy lên núi, để lại chút lương thực của họ trước cửa lều, rồi viết mấy chữ Hán, bảo chúng tôi cứ việc lấy hết những ǵ họ có, nhưng tha cho những mái nhà khốn khổ của họ.

 

Thấy t́nh trạng của đảo này, chúng tôi vội vă nhổ neo, trực chỉ một phần khác của Á Châu, phần này đáng lẽ phải được biết đến nhiều hơn, và chúng tôi dám tiên đoán rằng chỉ trong vài năm nữa, nó sẽ được một số nước Âu Châu biết đến” (Barrow II, t. 183).

 

Tiếp đó ông phản bác quan niệm của Pinkerton, cho rằng vùng này (Lào, Mên, Việt) chẳng có ǵ đáng chú ư cả; ngược lại vị trí chiến lược và sự ph́ nhiêu, giầu mạnh về thổ sản khiến vùng này là một trong những vùng đất thiết yếu cần được quan tâm hơn. Tuy nhiên trên bản đồ cũng như trong những mô tả địa lư, người ta [Anh] đă bỏ qua vùng đất này. Những nhận xét của Barrow, vào lúc ấy, khá thức thời; nhưng cũng nên biết rằng sự thức thời của ông để phục vụ đế quốc Anh và sự chinh phục đất đai thuộc địa của người Anh. Trên đường đi, họ luôn luôn vấp phải trở lực từ các nước Âu châu khác, hoặc ganh tỵ, chèn ép, hoặc phá hoại.

 

Khi đă thấy rơ điều đó, chúng ta có thể hiểu tại sao vua Gia Long, rồi vua Minh Mạng, Thiệu trị, Tự Đức, đều rất thận trọng không cho người Âu lập quan hệ ngoại giao và mở thương điếm, bởi v́ đằng sau lá bài thương điếm, là sự do thám, dẫn đường cho quân đội viễn chinh.

 

Bờ biển nước Nam, sự tiếp xúc đầu tiên

 

Barrow viết:

 

“Những địa danh được ghi trên các bản đồ của chúng ta [Anh] hoàn toàn không biết đến phần đất này [chỉ Tonquin, Cochinchine, Tsiompa, Cambodia, tức là Bắc Hà, Nam Hà, Chàm, Chân Lạp], trừ chữ Tung-quin [Bắc Hà]. Ba miền kia được thay bằng tên An-Nam, và cả nước được chia thành ba vùng:

 

Vùng thứ nhất, từ mỏm cực nam giáp vịnh Xiêm La, tức là từ vĩ độ 9 đến vĩ độ 12, được gọi là Don-nai [Đồng Nai].

 

Vùng thứ nh́, từ vĩ độ 12 đến vĩ độ 16, được gọi là Chang [Trung?]

 

Và vùng thứ ba, từ vĩ độ 16 đến vĩ độ 17, gọi là Huế.

 

Sau đó là địa phận Tung-quin [Bắc Hà].

 

Bờ biển của ba miền này cống hiến những vịnh và những hải cảng an toàn và thuận tiện. Con sông lớn Đồng Nai (trên bản đồ đề Cambodie) được mô tả là các hạm đội lớn nhất đều có thể vào sâu trong đất liền đến 40 hải dặm, nơi có thành phố Sai-gong [Sài G̣n] với một bến tầu rộng lớn và thuận tiện, và một xưởng đóng tầu chiến lớn.

 

Một người Anh trên đường từ Trung Hoa đến Ấn Độ đă đi trên sông này trên một chiến hạm Bồ Đào Nha, nói với tôi rằng đó là dáng vẻ hùng mạnh nhất. Con sông này chia làm nhiều nhánh rộng; nhưng nhánh mà anh ta đă đi qua, khúc rộng thường không quá 2 dặm, và nhiều khúc chỉ khoảng 1 dặm. (…).

 

Ở miền Chang [Trung?], khoảng vĩ độ 13 phút 50 giây, về phiá bắc, có vịnh và hải cảng Chin-Cheu [Thị Nại?]. Hải cảng rất rộng và hoàn toàn khuất gió; nhưng những chiến hạm lớn phải đậu ngoài khơi, v́ có một ghềnh đá xuyên ngang cửa lạch nối liền hải cảng với vịnh ngoài, đầu hải cảng là thành phố Quin-nong [Quy Nhơn].

 

Thành phố chính trong địa phận Huế mang cùng tên; ở trên bờ một ḍng sông mà các chiến hạm có thể vào được, có một hải cảng lớn; nhưng lại có một ghềnh cát xuyên ngang cửa biển. Vịnh Han-san [Cửa Hàn] phiá nam con sông này, trên bản đồ thường được ghi là vịnh Turon [Tourane, Đà Nẵng].

 

Toàn thể phương Đông, khó có một vịnh nào sánh được về tính an ninh và thuận tiện. Càng không có vịnh nào tốt hơn.

 

Chính vịnh này chúng tôi trực chỉ khi rời Côn Lôn.

 

Chúng tôi đến Đà Nẵng ngày 24/5 [1793]. Không có bản đồ để tra cứu, thấy giữa chúng tôi và bờ biển là hàng hà sa số ghe chài lưới, chúng tôi bèn thả một cái xà-lúp (chaloupe) để đi t́m một người lái thạo bờ biển (pilote-côtier) nhưng những người đánh cá đă nh́n thấy [tầu chúng tôi] vội vàng giong buồm chạy lùi.

 

Cuối cùng chúng tôi cũng bắt được một chiếc ghe không có buồm, lôi ra một ông già khốn khổ. Tôi chưa từng nh́n thấy ai khổ như thế bao giờ, mặt ông đầy rănh nhăn; đôi mắt lơ láo, hơm sâu trong sọ, da mặt mầu gỗ sồi già, một vài lọn tóc xám ḷi ra khỏi miếng khăn dơ quấn đầu; y phục vỏn vẹn một chiếc áo cộc vá hai chục mảnh khác màu nhau, với chiếc quần rách rưới, xẻ tung ra từng miếng như cái váy.

 

Mẫu người dân vừa thấy, không cho cho chúng tôi một cảm giác tốt đẹp. Khi ông già khốn khổ này đặt chân lên tầu, ông ta có vẻ cực kỳ dao động, dáo dác nh́n bốn xung quanh trên boong tầu; rồi nh́n những khẩu đại bác lớn, ngạc nhiên khi thấy nhiều người như thế. Nhưng điều làm cho ông già chú ư nhất, đó là những cột buồm cao. Ông ta vật vă khóc lóc. Chúng tôi phải hết sức dỗ dành cho ông ta yên tâm, ra dấu cho ông ta hiểu chúng tôi muốn ǵ và tại sao lại bắt ông ta lên tầu. Lúc đó, ông già mới chỉ tay cho biết lối vào vịnh, thật khó cho những ai không biết đường. V́ trời dông băo, phải đến tối hôm sau chúng tôi mới vào được vịnh.

 

Lư do chính thức thúc giục chúng tôi vào cửa sông Đà Nẵng, sau khi đă gặp bất trắc ở Côn Lôn, là t́nh trạng tồi tệ mà bệnh sốt rét và kiết lỵ đă cướp đi nhiều người bệnh. Trong thời gian ở Batavia [Jacarta], hầu hết chúng tôi đều bị mắc bệnh. Bạn càng hiểu mối lo âu và buồn bă của chúng tôi, khi được người thuyền trưởng tầu Bồ Đào Nha, đỗ ở trong vịnh cho biết, ở Nam Hà đang có giặc giă nổi dậy, cả nước đói, rằng ở đây chẳng có ǵ để cung cấp lương thực mà chúng tôi cần kíp cả. Ông ta khuyên chúng tôi nên đi thẳng tới Macao, hơn là mất th́ giờ chờ đợi ở đây vô ích, có thể người ta sẽ hứa hăo, nhưng ông ta biết chắc họ chẳng có thể cung cấp ǵ nổi.

 

Nh́n t́nh trạng khốn khổ của ông già đánh cá, t́nh trạng chung bề ngoài của nơi này, và sau cùng tất cả những ǵ chúng tôi nh́n thấy xác nhận lời tường thuật đáng buồn của ông Manuel Duomé.

 

Rất ít người bản xứ đến gần hạm đội chúng tôi. Họ có vẻ lo ngại và ngờ vực. Sau cùng, khi chúng tôi lên bờ, họ có ư tránh. Không một ai đến tầu trao tặng chút thực phẩm nào cả, và chúng tôi cũng phải khó khăn lắm mới mua được ở trên bờ vài con gà, một chút hoa quả và vài củ khoai sắn.

 

Tuy nhiên, ngay ngày thứ nh́, có chợ, đầy đủ hơn, và vài ngày sau, biết chúng tôi trả đúng giá, bằng tiền tốt, họ đem đến rất nhiều đồ ăn, hoa quả, rau cỏ, đủ loại.

 

Những vị chức sắc ở đây bắt đầu hiện diện, có chút ân cần đối với những thỉnh cầu của chúng tôi và tỏ ra lịch sự, lễ độ. Sau cùng, họ lên thăm chúng tôi trên tầu và mời tất cả sĩ quan tối hôm ấy lên bờ, dự tiệc.

 

Từ hôm đó, mối liên hệ của chúng tôi với dân tộc này, trở nên thẳng thắn và bền vững; có sự tin cẩn lẫn nhau; sau này chúng tôi mới khám phá ra một điều ít vẻ vang cho ông bạn Manuel Duomé: đó là, ông bạn, nhà buôn Bồ Đào Nha này, v́ cạnh tranh thương mại, đă chính ông, gây sự nghi ngờ cho người Việt, bằng cách mật báo cho họ rằng: hạm đội Anh đến đây thế nào cũng có ư gây chiến; và dường như anh ta đă hết sức tuyên truyền ư tưởng này, hy vọng rằng người Việt sẽ đóng cửa chợ không bán ǵ cho chúng tôi, bắt buộc chúng tôi phải nhổ neo, để một ḿnh anh ta buôn bán ở miền bờ biển này” (Barrow II, t. 185-191).

 

Sự tuyên truyền của người Bồ để đuổi tầu Anh

 

Về việc thuyền trưởng Bồ, Duomé, vu khống tầu Anh đến để chiếm Đà Nẵng, Barrow c̣n viết thêm:

 

“Chúng ta đang ở muà xuân năm sau, 1793, khi hạm đội Anh, trên đường đi Trung Hoa, ngừng lại vịnh Đà Nẵng. Lúc đó, cả miền Đồng Nai đă về tay vua chính thống. Kẻ soán đoạt Nguyễn Nhạc vẫn ở miền Trung; và vương quốc Huế, bao gồm những đất phụ thuộc vịnh Đà Nẵng, được con trai của Quang Trung cai trị, như tôi [Barrow] đă nói ở trên, ngự ở Huế. Trong hoàn cảnh này, ta không ngạc nhiên, khi hạm đội của chúng tôi đến, người bạn Bồ Đào Nha, Manuel Duomé, đă khéo lợi dụng hoàn cảnh, để gieo mối lo ngại và ngờ vực, khiến chúng tôi không thể [ở lại để] làm hại việc buôn bán độc quyền và bèo bở, của y với dân bản xứ. H́nh như, đầu tiên hết, họ tưởng chúng tôi phục vụ vua chính thức, từ Sài G̣n ra với ư định chiếm Đà Nẵng. Trong sự tin tưởng như vậy, họ đă hội tụ gần thành phố một binh đội đáng kể, với nhiều voi trận. T́nh h́nh gay go này kéo dài trong nhiều ngày, sau mới thôi.” (Barrow II, t. 219- 220).

 

Sự kiện này chứng tỏ, có sự tranh chấp quyền lợi gay gắt giữa những người Âu thời bấy giờ, để chiếm độc quyền buôn bán trước, rồi chiếm thuộc địa sau. Họ không từ một thủ đoạn nào để “đuổi” nhau ra khỏi những vùng mà họ cho là “mầu mỡ”.

 

Hành tŕnh Bá Đa Lộc

 

Về Bá Đa Lộc Barrow viết trong chương IX:

 

“Trong thời gian Tây Sơn nổi dậy ở Nam Hà, ba anh em giết vua [Định Vương Nguyễn Phước Thuần] và tất cả những người bị bắt, gia quyến và tuỳ tùng; ở trong triều có một giáo sĩ người Pháp, tên Adran [tức Bá Đa Lộc, chức Giám Mục Adran], trong nhiều văn bản in trong tập “Lettres édifiantes et curieuses”, tự nhận là khâm sứ của Giáo Hoàng ở Nam Hà.

 

Vị giáo sĩ này rất thân với hoàng gia và cũng nhận được nhiều ân huệ, ông đă lập ở đây một họ đạo và nhà vua, thay v́ đán áp, lại che chở. Nhà vua rất tin tưởng ở người này, dù khác đạo, đă giao cho việc dạy dỗ người con trai duy nhất của ông, người sẽ nối nghiệp. [Chỗ này Barrow nhầm Nguyễn Ánh với Định Vương]. Adran, ngay từ những ngày lửa đạn đầu tiên của cuộc khởi loạn, đă thấy, ông và bạn hữu, muốn sống c̣n, phải trốn tránh.

 

Nhà vua đă bị địch bắt, nhưng hoàng hậu, hoàng tử, các con và một người chị hay em, được Adran cứu thoát. Nhờ đêm tối, họ rời xa kinh thành [Gia Định] và trốn vào rừng. Ở đấy, trong nhiều tháng, vị vua trẻ của nước Nam cũng như một ông Charles mới [chỉ Charles I (1625-1649) vua Anh và Ái Nhĩ Lan], trốn cùng với gia đ́nh, không dưới lùm cây sồi rậm rạp mà dưới lùm đa hay bồ đề v́ [thiêng] ở đây không ai dám xâm phạm. Một nhà tu công giáo tên Paul [Paul Nghị, tức Hồ Văn Nghị] liều ḿnh đem đồ ăn mỗi ngày, cho đến khi [quân đội đi lùng] không c̣n t́m kiếm nữa và sau cùng được lệnh rút về.

 

Sau khi quân thù rút lui, những người đi trốn trở về Sài G̣n, dân chúng kéo nhau đến dưới cờ của vị vua chính thức, được họ tôn lên làm vua dưới tên của cha ông, vị vua cuối cùng, Caun-shung.

 

Cùng thời điểm này có chiến hạm Pháp do một người tên là Manuel điều khiển, đậu ở Sài G̣n cùng với 7 tầu buôn Bồ Đào Nha và rất nhiều thuyền buồm và tầu Trung Hoa. Theo lời khuyên và sự giúp đỡ của Adran, hạm đội Bồ nhập trận [đánh Tây Sơn] với khí giới được trang bị bí mật, tấn công chớp nhoáng hạm đội địch đậu ở Qui Nhơn. Gió mùa thận tiện. Đoàn chiến hạm xông vào vịnh nơi hạm đội địch đang bỏ neo bất động. Được cấp báo, quân địch lên tầu, đổ xô ra đánh, chiến hạm Pháp thua, người Pháp không tiếc lời ca tụng ḷng dũng cảm [của Manuel]. Bọn chỉ huy tầu Bồ bỏ chạy tuốt sang tận Macao. Ông hoàng trẻ tuổi tỏ ra cam đảm và điềm tĩnh nhưng v́ ít quân đành phải rút lui” (Barrow II, t. 200-202).

 

Đây là đoạn văn “tiêu biểu” có thể là đoạn văn đầu tiên, viết về giai đoạn này.

 

Nó có nhiều sai lầm “tiêu biểu”, và những sai lầm như vậy, sẽ c̣n được lập lại nhiều lần trên các văn bản của những người viết sau.

 

Sau đây là những sai lầm chính:

 

1- V́ không hiểu rơ liên hệ gia đ́nh phức tạp trong triều Nguyễn lúc bấy giờ, cho nên người viết thường lẫn lộn cha, con, cháu, với nhau, và viết sai đi.

 

2- Nguyễn Ánh không phải là con Định Vương, mà là cháu gọi ĐịnhVương bằng chú ruột.

 

3- Nguyễn Ánh trao con là hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc dạy, chứ không phải Định Vương trao con cho Bá Đa Lộc.

 

4- Tuy nhiên sau đó, Barrow cũng không đi sâu nữa trong sự sai lầm này, ông vẫn coi Hoàng tử Cảnh là học tṛ của Bá Đa Lộc, không phải như Sainte-Croix, từ đầu đến cuối đều nhầm Nguyễn Ánh với Hoàng tử Cảnh, và coi Nguyễn Ánh là học tṛ của Bá Đa Lộc. Rồi sau đó, một số tác giả Pháp – Việt, sẽ biến sự sai lầm này thành “sự thật ” để thổi phồng công nghiệp của Bá Đa Lộc bên cạnh Nguyễn Ánh, sẽ nói đến sau.

 

5- Việc giết Định Vương Nguyễn Phước Thuần là do Nguyễn Huệ trách nhiệm, bởi lần đánh Gia Định năm 1777, không có Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ.

 

6- Lúc ấy, Nguyễn Ánh trốn một ḿnh, chưa có vợ, cũng chưa có con. Bà mẹ đang ở Quảng Trị, đến tháng 4/1799, mới rước về Gia Định.

 

7- Việc Adran (Bá Đa Lộc) đưa Nguyễn Ánh và gia đ́nh chạy trốn là không có thực.

 

8- Hồ Văn Nghị, liều ḿnh đem thức ăn cho Nguyễn Ánh, có thể rất thực, chúng tôi sẽ nói đến sau.

 

9- Sau khi trốn, về lại Sài G̣n, Nguyễn Ánh được dân chúng tôn làm vua, cũng sai. Nguyễn Ánh xưng vương năm 1780, tức là ba năm sau.

 

10- Manuel hay Mạn Hoè, chết ở mặt trận Ngă Bảy (Biên Hoà) năm 1782, chứ không phải ở Quy Nhơn. Việc 7 tầu Bồ Đào Nha tham chiến chưa biết hư thực thế nào.

 

Ở đầu, Barrow có nhắc đến tập Lettres édifiantes et curieuses, vậy xem chừng ông lấy tư liệu này từ nhà ḍng. Và những sai lầm cũng phát xuất từ đấy. Tuy nhiên Maybon lại dùng thoại Bá Đa Lộc “cứu” Nguyễn Ánh của Barrow, (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, Plon, 1920, t. 192-193, note số 2) có lẽ bởi v́ nó phù hợp với thoại Bá Đa Lộc “cứu mạng” Nguyễn Ánh, được phía Pháp chủ trương.

 

Nhưng, những đoạn Barrow viết về thời kỳ trôi nổi của Nguyễn Ánh, việc gửi hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, khá gần với những điều ghi trong chính sử.

 

Barrow có chép lại bản hiệp ước cầu viện Versaillles 28/11/1787] (t. 208-210), nhưng bản này hơi khác với bản “chính thức”. Rất có thể Barrow đă có một văn bản khác.

 

Theo Barrow, qua nhiệm vụ này, Bá Đa Lộc được “thăng thưởng” như sau:

 

“Ngoài những điều ước [ghi trong bản hiệp ước], c̣n có vài điều nữa, ít quan trọng hơn, nhưng tất cả, như chúng ta thấy, đều rất có lợi cho nước Pháp. Adran được giáo hội thăng chức Giám Mục Nam Hà và được nhậm chức Đặc sứ toàn quyền (Ambassadeur extraordinaire et plénipotentiaire) [của Louis XVI] ở triều đ́nh này [triều đ́nh Gia Long]” (Barrow II, t. 211).

 

Về vấn đề xung đột giữa Conway và Bá Đa Lộc ở Pondichéry, khiến Conway từ chối không chịu xuất quân giúp Nguyễn Ánh, Barrow đưa ra một giai thoại “lèm bèm” có lẽ được truyền tụng trong giới ngoại giao Anh ở Pondichéry: v́ Bá Đa Lộc khinh bỉ một người đẹp, bà de Vienne, là vợ một sĩ quan tuỳ viên của tướng Conway và cũng là nhân t́nh của tướng Conway, nên mới có sự khủng hoảng trong mối liên lạc giữa hai người.

 

Sự thực có lẽ đơn giản hơn: De Conway, gửi tầu về Nam Hà thám thính, biết t́nh trạng sức mạnh vô địch của Quang Trung lúc bấy giờ, và khám phá ra những “báo cáo láo” của Bá Đa Lộc về sự tồi tệ yếu kém của quân Tây Sơn, nên ông đă viết thư thẳng cho Louis XVI; v́ thế Louis XVI quyết định không giúp nữa.

 

Về việc Bá Đa Lộc trở về Sài G̣n tay không, Barrow cho biết: Bá Đa Lộc về Sài G̣n trên một tầu buôn nhỏ, đem theo khí giới và đạn dược, nhưng thuyền trưởng Richerie [Richery] (bị buộc tội) đă bán phần lớn trọng tải của tầu này ở Malaca, lấy tiền bỏ túi (Barrow II, t. 213-216).

 

Sau cùng, Barrow đă dành cho Bá Đa Lộc, những lời lẽ đặc biệt tôn kính:

 

“Phải công b́nh với linh hồn Adran, người đă mất năm 1800, [ông mất ngày 9/10/1799] mà công nhận rằng, tính t́nh của vị đế vương, sự trở về nước của ông, chiến thắng của ông, những tiến triển ở nước ông, trong khoảng thời b́nh và tất cả những tiến bộ nhanh chóng trong mọi địa hạt khoa học và nghệ thuật, những cơ sở, nhũng công xưởng, hoàn toàn nhờ vào sự hiểu biết, vào tài năng và vào sự gắn bó trung thành của giáo sĩ này. Nhà vua cũng yêu quư ông đến độ khâm phục. Vua thường gọi ông là danh sư (maître illustre) [thực ra là thượng sư], ở bên Tầu tiếng này chỉ dành riêng để chỉ Khổng Tử” (Barrow II, t. 234-235).

 

Sau đó Barrow kể một chuyện, có lẽ vẫn rút từ tài liệu nhà ḍng: Khi Bá Đa Lộc mất, được chôn cất theo thánh lễ công giáo, nhưng sau vua sai cải mộ và chôn lại theo nghi lễ Việt Nam, làm cho các cha cố hết sức phẫn nộ. Ông viết: “Nhiệm vụ của Bá Đa Lộc lúc sinh thời cũng không dễ dàng, v́ vừa là cố vấn của vua lại là thày dạy con vua, dĩ nhiên ông bị các quan ganh tị” (Barrow II, t. 235). Tuy nhiên vẫn theo Barrow, nhà vua lúc nào cũng giữ trọn t́nh bạn và ḷng tin đối với ông cho đến khi ông mất (Barrow II, t. 236).

 

Những nhận định của Barrow về Bá Đa Lộc, tuy rút từ tư liệu nhà ḍng, nhưng được viết với sự thận trọng cần thiết, khác hẳn lối viết sau này của những người Pháp như Faure. Rồi chúng ta sẽ khám phá ra mối liên hệ giữa Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc không phải hoàn toàn tốt đẹp như những ǵ vẫn được nhà ḍng truyền tụng. Nhiều lần Bá Đa Lộc đă muốn bỏ đi, trong những trường hợp khẩn cấp, vv… Tất cả những vấn đề này, sẽ được bàn lại sau.

 

Về công trạng của những người lính Pháp giúp Nguyễn Ánh, Barrow có nhắc đến trận Thị Nại 1792, ông viết:

 

“Mùa xuân 1792, ông [Nguyễn Ánh] xuống thuyền đi đánh Qui Nhơn, để trên đầu hạm đội, 2 sĩ quan Pháp, quản hai tầu chiến Tây phương. Người ta đồn rằng, một trong hai người này, ông Dayot, đă làm cho hạm đội địch thiệt hại lớn, đốt cháy, đánh đắm, hoặc xâm chiếm tất cả những thuyền gặp trên đường. Hăng say chiến thắng, tiến sâu quá, thuyền ông bị nạn. Người ta cũng đồn rằng, nhà vua, tuy chứng kiến tai nạn có thể làm cho ông thua trận, vẫn tỏ chút măn nguyện, nói: “Ông ấy đă làm nhiệm vụ của ḿnh, tôi không mong ông ấy làm cả nhiệm vụ của tôi”. Nguyễn Nhạc không ngờ trận tấn công này, ngày hôm ấy, ông cùng triều đ́nh đi săn cách [Quy Nhơn] ba mươi dặm (trang 117-118).

 

Đó là đoạn văn duy nhất Barrow viết về công trạng của những người lính Pháp giúp vua Gia Long, và viết với sự thận trọng “người ta đồn rằng”.

 

Triều đ́nh Cảnh Thịnh tiếp hạm đội đại sứ Anh

 

Phần quan trọng nhất trong chương X, là đoạn Barrow mô tả việc triều đ́nh Cảnh Thịnh tiếp phái đoàn Anh. Barrow viết:

 

“Như tôi đă nói trong ở trên, khi những lời vu khống man trá của Manuel Duomé loan truyền báo động về sự ghé bến của hạm đội chúng tôi, được giải toả, chợ búa càng ngày càng có nhiều thực phẩm hơn và các quan chức đối đăi với chúng tôi bớt gay gắt hơn. Đă có sự tin cậy lẫn nhau, có những thông giao nối kết không ngừng giữa những người dân cảng với tất cả thành phần của hạm đội: các sĩ quan và quan chức ngoại giao đoàn, v́ công việc, hay v́ hiếu kỳ, muốn lên bộ vài ngày, đều được chính thức mời ăn tối; về phiá Việt, mỗi ngày có một vài người lên thăm hạm đội của chúng tôi, họ cũng được mời ăn bữa thường, mặc dầu món ăn của chúng tôi chắc không hợp vị họ lắm (…)

 

V́ trong thành phố không có nơi nào lớn để tiếp đăi một phái đoàn đông người như chúng tôi, nên quan trấn thủ cho dựng một pḥng lớn, bằng tre, luôn luôn tiện dụng trong những lúc cần kíp, xong trong vài giờ: mái và bốn phía được phủ bằng chiếu đan siết và dày. Trong pḥng bầy một dăy bàn nhỏ đặt ghế ngồi hai phiá, khoảng 20, 24 người ngồi thoải mái.

 

Người Trung Hoa có thói quen bầy đầy kín bàn ăn những điă, hay những bowls (bát, tộ?). Nhưng người Việt, c̣n lễ độ quá dân láng giềng, nên họ không chỉ bầy đầy bàn thức ăn, mà c̣n bầy bowls tô trên hai ba chồng. Tôi nghĩ, có thể đếm không dưới 200 bowls, chưa kể những chén cơm mà họ đưa tay cho thực khách, thay thế bánh ḿ. Cơm ở xứ này cũng như Tầu và hầu như tất cả phương Đông, là nền của thức ăn. Họ không dùng khăn ăn, không dùng dao và niă, cũng không có đồ uống, không có cốc; nhưng họ để trước mặt mỗi ngựi một thià bằng đất nung, hai cái ǵ giống như ống hay que [đũa] bằng tre, hay gỗ hồng, hay gỗ đàn hương (santal), nhiều khi bọc bạc, gióng như [đũa] Tầu, mà người Anh gọi là chop-sticks.

 

Những bowls (tô, bát) đựng đồ ninh nấu (ragouts), thịt ḅ, thịt lợn, thịt gà, cá, cắt miếng nhỏ, hầm, nấu với rau, làm súp và nước cốt, nêm khác nhau, và dể các thứ gia vị khác nhau. Không có thịt quay, cũng không có món ǵ khô; không có rượu vang, cũng không có ruợu mạnh ǵ cả; cũng chẳng có nước uống trong cả bữa; nhưng sau khi ăn, được mời seau-chou Tầu [trà Tầu?] trong chén sứ.

 

V́ cả hai bên đều không biết tiếng của nhau nên không nói chuyện được, chúng tôi không kéo dài bữa ăn. Quan trấn thủ hay tướng trấn thủ không cho chúng tôi danh dự được ăn cùng.

 

Nhưng b́nh thường trong những dịp như thế này, ông ngồi ở đầu pḥng ăn, dựa trên sập vuông, có trải chiếu, hút thuốc, ăn trầu, trong khi hai ba tên hầu phe phẩy kéo cái quạt lông công cho mát. B́nh thường ăn xong chúng tôi sang pḥng xem hát, cũng là một nhà rạp bằng tre. Ở đó, cũng giống như bên Tầu, có sẵn những diễn viên sẵn sàng đóng tuồng suốt ngày, lúc nào cũng diễn hăng say, dù không có người xem cũng như lúc đầy khán giả, bởi v́ được thuê diễn cả ngày, cho nên họ hoàn toàn thản nhiên trước sự đông hay vắng khách, miễn là được trả lương mỗi khi diễn xong.

 

Tất cả phân khu Nam Hà, nơi có vịnh Đà Nẵng, ở dưới quyền cai trị của vua trẻ Quang-tung [Quang Toản], con trai của ông tướng ngụy [chỉ Bắc B́nh Vương] người đă chiến thắng Tổng đốc Quảng Đông (…)

 

Cung vua ở Huế, cách Đà Nẵng 40 dặm. Ngay khi biết chắc sự thông thuận của chúng tôi đối với ông, nói khác đi, sự trung lập của chúng tôi [đối với miền Nam], ông gửi một quan đại thần đền mời ông Đại Sứ vào triều. Sứ thần trả lời từ chối, v́ nhiều lư do, mà lư do chính là v́ thời gian không cho phép dự buổi lễ này (…) Chúng tôi thích lợi dụng cơ hội có ít ngày để đi thăm các làng xóm xung quanh (…).

 

Lá thư của ông vua trẻ [lúc đó Quang Toản mới 11 tuổi, thái sư Bùi Đắc Tuyên làm phụ chính] biểu dương đầy t́nh cảm cao đẹp của nhà vua đối với dân tộc Anh; và để chứng minh, ông gửi quan quân mang một món quà nhỏ cho những người trong hạm đội (chữ vua dùng như vậy). Món quà gồm 10 con trâu, 50 lợn, khoảng 300 gà vịt, với hoa quả, rau và hành củ. Những thức bồi bổ này được chở đến bằng thuyền buồm, đằng trước có một chiếc thuyền chèo dài, sơn và trang hoàng bằng cờ và biểu ngữ, có các quan, theo nghi lễ.

 

Sứ thần viết thư trả lời và tặng lại vua 1 khẩu súng trường đẹp, bắn hai phát liền, kèm phụ tùng và một cặp súng lục bằng gang có lưỡi lê, một thanh gươm cán đồng, nhiều tấm vải và nỉ lớn mầu đỏ thắm. Sứ giả của vua, lúc đầu mặc áo dài lụa, thêu h́nh hổ và rồng, giống như bên Tầu, nhưng khi lên tầu Lion, ông đổi y phục và mặc hai ba chiếc áo lồng bằng tơ trắng mỏng.

 

Một sự ṭ ṃ, do lỗi chúng tôi, đă phá rối trong chốc lát, sự thông cảm giữa hai bên. V́ muốn vẽ một bản đồ đúng của vùng vịnh tuyệt diệu này cùng với hải cảng, một buổi sáng, mấy người trong bọn tôi lấy thuyền, đi sâu vào bờ đông, đo một căn cứ và lấy các góc độ cần thiết để xác định vị trí những điểm chính. Chúng tôi chọn giờ sáng sớm và làm thực nhanh, tưởng thoát khỏi con mắt của người dân ở đây; nào ngờ một ông quan đến ngay, bảo cho biết là quan trấn thủ rất bất b́nh v́ lối hành sự này và yêu cầu ngừng ngay mọi việc đo đạc.

 

Một sự vụng về nữa, càng làm tăng mối nghi ngờ, khiến họ cho rằng chúng tôi có những mục tiêu muốn giấu: Một viên sĩ quan tầu Lion, ban đêm, đi ḍ ḍng sông [Hàn] dẫn ra Hội An, anh ta quá sốt sắng nhưng lại bất cẩn, bị bắt với cả ê-kíp và chiếc xà lúp, bị giam trong một đồn nhỏ. Không thấy tin tức ǵ, chúng tôi tưởng xà-lúp đă bị ch́m, không ai thoát nạn. Sau cùng, quan quân lên tầu Lion, báo cho chúng tôi biết, và cay đắng than phiền chúng tôi hành sự không thẳng thắn. Sứ thần nói ông không biết việc này và xin thả ngay viên sĩ quan, gửi về tàu, để anh ta sẽ phải trả lời trước cấp trên.”

 

Rút cục rồi mọi việc cũng được bỏ qua. Barrow viết tiếp:

 

“Nhà vua, trong lá thư thứ nh́, có ư muốn mở cửa buôn bán hợp pháp với chúng tôi. Ông gửi kèm với thư này, quà cáp gồm ngà voi và 10 giỏ hạt tiêu, biếu Sứ thần và tặng thủy thủ đoàn 3000 giỏ gạo, nặng khoảng 100 tạ.

 

Ông Đại sứ chưa biết thành phố Đà Nẵng; nên những vị chức sắc ở đây, tỏ chút ḷng thành, muốn tổ chức một buổi lễ tiếp đón. Ông Đại sứ chọn ngày 4/6, sẽ lên bờ dự lễ sinh nhật đức vua cùng với người Việt. Nhưng tối hôm trước, chúng tôi đă thấy một chuyển động bất thường trong thành phố, một số binh sĩ lớn lao hành quân trong và ngoài thành, và sau cùng là đàn voi trận. Không thể biết đó là ngẫu nhiên, hay do những nghi ngờ trước, hay để biểu dương sự rạng rỡ cho buổi lễ; nhưng về phía ḿnh, chúng tôi luôn luôn đề pḥng, gửi ngay hai đơn vị quân đội đến con sông đối diện với thành phố để bảo đảm sự triệt thoái nếu cần. Tuy nhiên ngày hôm đó mọi việc diễn ra trong không khí hết sức hoà hợp…” (trích dịch Barrow, t. 241- 251).

 

Đoạn văn này cho thấy nhiều vấn đề:

 

Trước tiên là sự hiếu khách hay là sự vồn vă thái quá của chính quyền Phú Xuân, muốn “kết thân” với người Anh, cho nên không nghe những lời vu khống của người Bồ Đào Nha. Mặc dù tiếp khách tử tế, vồn vă, nhưng vẫn chưa biết ḷng dạ của họ như thế nào.

 

Về phía Anh: từ chối không đến Huế, theo Barrow, lấy lư do là không có th́ giờ, và ông có viết thêm: v́ biết sang Tầu sẽ có lễ to hơn, đẹp hơn ở Huế. Cũng đúng. Nhưng có lẽ c̣n những lư do khác tác giả không nói ra:

 

- Không muốn có liên lạc chính thức với Tây Sơn v́ sợ Nguyễn Ánh nghi kỵ, không giao thiệp, nhất là lúc đó Quang Trung đă mất, Nguyễn Ánh ở thế thượng phong.

 

- Ở lại Đà Nẵng để đo đạc, ḍ thám vùng đất này mà họ cho là có giá trị chiến lược. Sau này, các sứ bộ Anh đến Huế đều xin Cù Lao Chàm làm đất mở thương điếm, chứng tỏ những ǵ Barrow viết ở đây, chắc ông đă báo cáo với chính phủ Anh trước rồi.

 

Sau cùng, sự “tin cậy” lẫn nhau giữa đôi bên Anh-Việt chỉ là bề ngoài. Có thể nói đó chính là bản chất mối lên hệ của người Âu đối với các dân tộc mà họ nḥm ngó.

 

Thuật đóng thuyền, tầu của người Việt

 

Một điểm đáng ngạc nhiên nữa là chỉ trong một tháng, mà Barrow đă có những khám phá sâu sắc về kỹ nghệ đóng tàu, thuyền của ta, ông viết:

 

“Một ngành đặc biệt mà hiện nay người nước Nam có thể tự hào rất hoàn hảo là đóng tầu; và phải nói ngay, họ được như vậy một phần là nhờ có nhiều gỗ quư và gỗ lớn. Những du thuyền của họ đẹp tuyệt vời: dài từ 50 đến 80 pieds [1 pied Anh=0m3048]. Đôi khi tầu chỉ đóng bằng 5 mảnh ván, mỗi mảnh dài suốt chiều dọc tầu, ghép lại với nhau bằng mộng và chốt gỗ, rồi siết chặt bằng sợi tre, không cần nẹp mà cũng chẳng cần dây. Đầu và đuôi tầu rất cao được trang trí bằng những h́nh hài trạm trổ rồng, rắn kỳ dị, sơn mầu và dát vàng. Một số lớn cột buồm treo đầy cờ hiệu hay băng-rôn. Những bó lông đuôi ḅ nhuộm đỏ, đèn, ô, dù, và nhiều loại trang trí khác, buộc trên đầu cọc cắm hai bên mạn tầu, cho biết cấp bậc các vị quan trên tầu; và v́ họ đứng đằng trước, nên nếu người chèo quay lưng lại họ là bất nhă (tục lệ của những dân tộc này cũng như người Tầu khác hẳn phần đông những nước khác trên thế giới), cho nên, người chèo phải quay mặt về phiá đầu tầu, và đẩy chèo đằng trước họ, thay v́ kéo chèo sau lưng, như Tây phương. Kẻ hầu người hạ và hành lư để phía sau tầu. 

Tầu buôn gần bờ biển, tầu đánh cá, đánh hải sâm và t́m tổ yến ở quần đảo Hoàng Sa, có nhiều loại kiến trúc khác nhau. Phần lớn giống như những thuyền tam bản của Tầu, sàn trải chiếu cho cả gia đ́nh ngồi. Một số khác, cả thân tầu lẫn thuyền cụ, giống tầu Mă Lai.

 

C̣n tầu buôn của họ giống như ghe buồm của người Tầu, cả h́nh dáng lẫn kiến trúc, nếu nh́n theo lối đóng tầu [Tây phuơng] hiện nay, th́ chẳng thể coi là hoàn hảo; cách đóng tầu của họ không hề thay đổi từ nhiều ngh́n năm nay, song lối kiến trúc thượng cổ đó, đáng được kính trọng. Vả lại tầu buôn không cần phải chạy thật nhanh khi lẩn trốn hoặc rượt bắt, là phẩm chất chính của tầu chiến. Chủ tầu cần an ninh hơn thần tốc. Ngoài ra, nhà buôn vừa là chủ vừa là người lái tầu, vấn đề trọng tải đối với họ là quan trọng hơn cả. Để chở được nhiều hàng hóa của các thân chủ khác nhau, tầu buôn được chia ngăn dành cho mỗi thân chủ. Vách ngăn ấy là những tấm ván dầy 2 tấc được sắp đặt và trám kín các lỗ hở, khiến nước không thể thấm qua. Dù có chống việc chia hầm tầu thành ngăn đến thế nào (bởi nó gây khó khăn cho việc chất hàng) cũng không ai chối căi được, là lối kiến trúc này đem lại những lợi điểm quan trọng cho hải hạm: Nhờ những bức vách giao nhau dưới hầm, tầu vững chắc thêm, có thể chạm vào đá mà không suy suyển ǵ. Hoặc nếu hầm tầu bị thủng ở một ngăn nào đó, th́ hàng hoá ở những ngăn khác không bị thấm nước lây; và v́ tất cả đều được liên kết bền chặt với nhau nên thân tầu chịu được những sốc không quá mạnh. Thuỷ thủ nào cũng biết khi một hải hạm bị trúng [sốc hay đạn] nếu nó gẫy th́ dấu hiệu đầu tiên là sàn tầu rời ra từng mảnh. Nhưng khi sàn tầu được nối kết chặt chẽ bằng những vách ván giao nhau th́ nó khó bung ra. Cho nên, ở Anh bây giờ người ta cũng đang nghiên cứu lối làm tầu thượng cổ này của người Tầu. Người ta c̣n đề nghị cho chúng tôi những phương tiện du lịch b́nh yên, trên những thuyền chèo lớn, có bánh xe nước (roues de puits) đặt cạnh sống tầu (quille) hoặc thay thế sống tầu, và c̣n có những “phát minh” khác, dù người ta cho nó những tên ǵ đi nữa, th́ tất cả, đều đă được người Tầu sử dụng thông thường từ hơn hai ngàn năm nay.

 

Mặc dù vị vua trị v́ xứ này [Nguyễn Vương] hiện nay, trong chừng mức nào đó, đă chao đảo lối làm tầu chiến cũ, tuy nhiên ông cũng không bỏ hẳn những lề thói b́nh dân -ở những xứ Á Châu này, ư dân là ư trời- đă trở thành thiêng liêng, khó đạp đổ. Ông vẫn kính trọng những lề thói ấy, nên ông chỉ thay đổi những ǵ ở trong bụng tầu (carène) và tất cả phần ch́m dưới nước, c̣n phần nổi ông vẫn giữ nguyên lối kiến trúc của nước Nam, như cột buồm, buồm và thuyền cụ [dây, cáp, trục, buồm, ṛng rọc ...] Thực ra, th́ những dây cáp dầy [của Tây phương] làm sao có thể thay thế được những sợi tre mềm, dai, bền và nhẹ trong cấu trúc chính phần nổi của tầu; v́ thế, ta không thể nào không thán phục sự phán đoán hoàn mỹ của nhà vua, vừa thận trọng vừa năng động, đă chọn giải pháp trung dung, đạt được lợi ích thực thụ mà không cần một sự thay đổi trông thấy.

 

Vài năm trước đây, Nhật Hoàng đă cho một bài học đáng nhớ về sự kiên tŕ theo cổ lệ. Khi người Hoà Lan đến Batavia, đem biếu Nhật Hoàng một số quà trong đó có một chiếc tầu chiến. Sứ thần thấy hoàng đế xem xét kỹ tầu này, liều tâu sẽ đem thợ Hoà Lan sang chỉ cho người Nhật nguyên tắc đóng tầu. Nhật Hoàng sai người đến hỏi Sứ thần rằng người Hoà Lan biết đóng tầu như thế này từ bao lâu rồi. Sứ thần cho biết độ 300 năm. Nhật Hoàng bảo: “Ngươi về nói với ông ấy [sứ thần] rằng hàng ngàn năm nay thần dân của ta biết đóng những chiến thuyền mà ông ấy thấy đậu trong các hải cảng của ta, và ta thấy chẳng ai than phiền ǵ về công dụng của chúng cả. Vậy ta không việc ǵ phải tự lăng nhục ḿnh và dân tộc ḿnh, bằng cách bỏ những ǵ đă được trải nghiệm qua bao nhiêu thế kỷ, để lấy một cái mới cải cách hôm qua. Những hạm đội Hoà Lan có thể tốt ở Hoà Lan, nhưng không tốt ở nước Nhật. Ngươi nhớ nói thêm rằng ông ấy có thể đem cái quà này về” (Barrow II, t. 287-293)."

 

Những ḍng trên đây khiến những ai cho rằng cái ǵ Tây phương cũng “làm chủ” cả, sẽ phải thận trọng hơn. Dù có nói đến “các sĩ quan” Tây phương, nói đến công trạng của “quân sư” Bá Đa Lộc, Barrow luôn luôn giới hạn “công trạng” này trong một chừng mức nào đó. Ông tôn trọng các giá trị phương Đông và không hề xác nhận: trước khi người Âu đến, nước Nam không có tầu chiến, không có thành lũy (Vauban), không có đại bác, không có tổ chức quân đội… như một số người Pháp lầm tưởng. Sau cùng, cũng nên nói thêm: việc chia ngăn trong hầm tầu chở hàng của người Tầu và người Việt hiện nay vẫn c̣n thấy áp dụng ở những các- gô trên thế giới.

 

Nhật Hoàng cho những kẻ đao to búa lớn về sự sức mạnh Tây phương một bài học để đời.

 

Cũng nên nói thêm một chuyện nữa, năm 1942, ở Hà Nội, Van Imbert cho in cuốn Le séjour en Indochine de l’ambassade de Lord Macartney (1793) [Những ngày lưu lại Đông Dương của đức ông Đại sứ Anh Macartney], nội dung có những điều chẳng biết Imbert lấy ở đâu, v́ không thấy có trong tác phẩm của Barrow, ví dụ như vài việc sau đây:

 

“Người Anh đi lạc trong thành Quảng Nam không thấy có một khẩu đại bác nào“.

 

Hoặc:

 

“Khi Macartney tới, viên trấn thủ Quảng Nam nài nỉ người Anh bán khí giới và đạn dược, lộ cho họ thấy rằng Tây Sơn cần được giúp với bất cứ giá nào!” (Tạ Chí Đại Trường trích dẫn trong Lịch sử nội chiến Việt Nam, trang 218 và 220).

 

Lối viết của Van Imbert dường như cũng nằm trong đường lối hạ bệ người Việt nói chung: phiá Tây Sơn, là không có súng ống ǵ cả, phải “van lậy” người Anh giúp, c̣n phiá Nguyễn Ánh v́ được người Pháp giúp nên “có khí giới tối tân”.

 

Thực ra, chúng ta có kỹ nghệ đúc từ trước, trong khoảng hai mươi năm từ 1660 đến 1682, một người Ấn Độ lai Bồ Đào Nha hay Y Pha Nho, tên Joao Da Crus (Jean de la Croix) đă mở ḷ đúc súng đại bác cho chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687) dựng nên khu Thợ Đúc ở Huế (Cadière, Le quartier des Arènes, Jean de la Croix et les premiers Jésuites, (BAVH, 1924, IV, t. 307- 332). Nghề đúc súng, như vậy đă có ở ta, ít nhất, từ thế kỷ XVII. Hà Nội cũng có phố Ḷ Đúc.

 

Khi Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân, ông chiếm được cả khu Thợ Đúc ở Huế. Súng đại bác của Tây Sơn, khi công kích các thành Diên Khánh và Quy Nhơn lợi hại chẳng kém ǵ súng của Nguyễn Ánh. Điều đó càng chứng tỏ không phải người Pháp “dậy” chúng ta đúc súng.

 

Những lợi ích buôn bán với nước Nam

 

Trong chương XI, tựa đề Những lợi ích buôn bán với nước Nam (Barrow II, t. 307-309), Barrow tỏ ra một nhà chính trị và chiến lược tầm cỡ. Có lẽ ông là người ngoại quốc đầu tiên đă nh́n ra thâm ư của Bá Đa Lộc, khi kư kết thoả ước cầu viện ở Versailles tháng 11/1787.

 

Về thỏa ước này chúng tôi vẫn tin rằng Bá Đa Lộc đă tự biên tự soạn không hề hỏi ư Nguyễn Ánh; bản “quốc thư” ông đưa ra để chứng tỏ “triều đ́nh” đă bàn xong thoả ước và trao cho ông thẩm quyền kư chỉ là bản quốc thư giả, v́ không t́m thấy bản gốc ở đâu. Vậy ta cần phải nghiên cứu tất cả những chi tiết này bởi v́ không một ông vua nào lại trao một lúc bốn vị trí chiến lược quan trọng vào bậc nhất của nước ḿnh là Đà Nẵng, Hải Vân, Cù Lao Chàm và Côn Lôn, cho Pháp để đổi lấy một số lính và vài tầu chiến.

 

Nhưng khi đọc những ḍng sau đây của Barrow, chúng ta mới thấy ông chỉ ở Đà Nẵng có một tháng mà đă thông suốt điạ lư chính trị của nước ta. Ông viết:

 

“Giám mục Bá Đa Lộc, khi thương lượng bản ḥa ước giữa vua Louis XVI và vua nước Nam, đă cho thấy rơ mối ràng buộc nào đó của ông đối với vị vua này, nhưng ông ta cũng không quên quyền lợi của vua Pháp. Những điều kiện trong bản hiệp ước tỏ cho biết khi đ̣i nhượng bán đảo Turon [Đà Nẵng] cho nước Pháp, ông đă rất chú ư đến những điểm [chiến lược] trên bờ bể nước Nam. Ông ta biết rất rơ nếu nước Pháp có được mảnh đất này, th́ nó sẽ làm chủ một cơ sở vững chắc ở nước Việt. Thực vậy, mỏm bán đảo Turon (hay Hansan) [Cửa Hàn] đối với nước Nam cũng như Gibraltar đối với nước Y Pha Nho, mà c̣n hơn thế, bởi ngoài vị trí kiên cố không thể đánh chiếm được, nó c̣n quan trọng hơn nữa v́ có một hải cảng và một bến tầu quanh năm khuất gió, hoàn toàn thích hợp với một hạm đội lớn. Đó cũng là nơi các hạm đội có thể dừng lại bất cứ lúc nào để chấn chỉnh, sửa chữa trong vịnh, nhất là hai bên bờ có nhiều thung lũng ph́ nhiêu, nhiều suối trong mát. Ngay cạnh đó có một đảo nhỏ nối với đất liền bằng một giải đất khi thủy triều xuống mới nổi lên [Ḥn Sơn Trà?], chiến hạm lớn thế nào cũng có thể phơi ḿnh trên ấy để sửa chữa thân tầu. Trực diện với bán đảo là một vùng đất cao đủ để xây một thành phố nhỏ với một xưởng đóng tầu và đủ loại cửa hàng, có thể trở thành địa điểm pḥng thủ nếu xây thêm các thành lũy kiên cố.

 

Một đảo nhỏ tên Callao [Cù Lao Chàm], cách vịnh Đà Nẵng 30 dặm về phía nam cũng thuộc vào vùng đất sẽ nhượng [cho Pháp]. Đảo này chế ngự hoàn toàn cửa chính [Cửa Đại] của con sông [Thu Bồn] chảy qua Fai-Fou [Hội An], thành phố mà ngày trước người ngoại quốc đến buôn bán. Đảo này hoàn toàn không thể vào được, trừ phía đối diện với cửa sông [Cửa Đại] nơi đó có một thung lũng nhỏ có nhiều nước, ngay bên bờ biển, và ở đó tất cả các hạm đội lớn nhỏ đều có thể vào đậu một cách an toàn."

 

Rất dễ nhận ra quan điểm của Pháp đối với bộ phận này của bờ biển Việt. Những điều khoản trong bản hiệp ước cho thấy rơ chủ đích kiến tạo và trang bị một hạm đội khá quan trọng để đe dọa những đất đai sở hữu của chúng ta ở Ấn Độ; và chắc chắn là ư định này sẽ c̣n được lập lại. Nước Pháp-Đế quốc [La France-Empire, chỉ thời Napoléon] biết thi hành những điều mà nước Pháp-Vương quốc [La France-Royaume, chỉ thời Louis XVI] chỉ mới dạm ra. Việc Pháp bị đuổi khỏi bờ biển Ấn Độ càng làm cho bờ biển nước Nam trở nên hấp dẫn hơn nhiều; nhất là nếu ta nh́n thấy vị trí này cũng sẽ nguy hiểm và không thuận tiện cho nền thương mại béo bở (profitable) của chúng ta tại Trung Hoa, cũng như những sở hữu của chúng ta ở Ấn Độ” (Barrow II, t. 309).

 

Không những Barrow nh́n thấy vị trí chiến lược hiển nhiên của Đà Nẵng và Cù Lao Chàm, Ông c̣n lo ngại nếu Pháp chiếm được những nơi quan trọng này th́ sẽ trở thành kẻ thù đáng ngại cho đế quốc Anh của ông. V́ thế, tiếp theo đó, Barrow dùng tài hùng biện để thuyết phục chính phủ Anh, phải bằng mọi giá, thông thương với Việt Nam, v́ mối lợi khổng lồ, không thể để cho Pháp cuỗm mất, về các mặt giao thông, chính trị và chiến lược. Ông khuyên chính phủ Anh nên xin Cù Lao Chàm làm nơi để lập thương điếm. Ông cũng đă nghiên cứu cặn kẽ những thổ sản và tài nguyên, của Việt Nam để có thể lên một chương tŕnh đổi chác buôn bán (Barrow II, t. 310-321).

 

Barrow viết tiếp:

 

“Xét cho cùng, chúng ta đă tiến sâu, có lẽ quá sâu vào con đường [thuộc điạ] này để có thể lùi mà không nguy hiểm; bây giờ chúng ta phải hết sức thận trọng để tiến tới đích, để bảo toàn và giữ vững nền thương mại này, chính nó đă giúp ta phương tiện để đọ sức với một kẻ thù vừa ghê gớm vừa hùng mạnh [chỉ Pháp]. Con sư tử Anh cần phải toả rộng nanh vuốt hơn nữa để bảo đảm cho dân tộc Anh những cuộc chinh phục [mới] nối tiếp với những cuộc chinh phục cũ, bằng vũ dũng, kỹ nghệ, và sự táo bạo của ḿnh.

 

Nhưng ngoài vấn đề an ninh mà sự sở hữu bán đảo phồn vinh Đà Nẵng mang lại cho hàng bao hạm đội mà chúng ta đang sử dụng để buôn bán với nước Tầu, c̣n có sự tai hại nếu để nó rơi vào tay một kẻ thù chủ động và kiên quyết [chỉ Pháp]. Ta chẳng nên trông mong vào những nhỏ nhoi mà nền thương mại ở Ấn Độ đem lại; [ta cần] một hải cảng ở vùng này của thế giới, nơi các hạm đội của chúng ta luôn luôn có được nước ngọt, có thể nghỉ ngơi, sửa chữa. Chỉ nh́n dưới góc độ này không thôi: khi các chiến hạm ta đến nước Tầu c̣n chưa rơ hướng đi, khi những phương tiện giữ ǵn sức khoẻ cho thuỷ thủ đoàn c̣n kém hơn hiện tại, mà chúng ta có được một cửa bể như thế này, để nghỉ ngơi, chờ tầu đi chậm hoặc bị băo chận lại, là những trường hợp dễ xẩy ra, th́ tốt biết mấy. Sẽ c̣n nhiều khảo sát nữa để chứng minh việc cần phải buôn bán với nước Nam. Ở đây tôi chỉ đưa ra vài nhận xét cho thấy công ty Ấn Độ [Anh] có lợi khi lập một thương điếm trong vùng bán đảo vịnh Đà Nẵng” (Barrow II, t. 312-313).

 

Sau đó, Barrow phân tích sự thất bại của phái đoàn Hastings năm 1778, v́ không chuẩn bị kỹ. Kể cả chủ ư sau cùng cách đây 2 năm [tức là năm 1804], cũng hỏng, v́ trong triều chỉ c̣n thông ngôn là thừa sai Pháp, làm sao biết được họ dịch cho vua những ǵ mà họ muốn, chúng ta thừa biết họ đối với Anh như thế nào! Và cuối cùng, Barrow vẫn nhất quyết rằng vua Gia Long có cảm t́nh với nước Anh, muốn giao dịch với nước Anh mà bị Pháp cản trở (Barrow II, t. 325-327).

 

Đối với chúng ta, những ḍng trên đây chứng tỏ ư định thực dân của Pháp và của Anh, đă có từ thời chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn Ánh, qua hành động kín đáo và khôn khéo của Bá Đa Lộc và qua những điều Barrow viết trong tác phẩm này. Vua Gia Long không chấp nhận việc để cho Anh đặt quan hệ ngoại giao và nhượng cho Anh Cù Lao Chàm để mở thương điếm sau này, là sáng suốt và nh́n rộng. Vua Minh Mạng nhất quyết ngăn ngừa Anh và Pháp đặt chân đến Việt Nam dù chỉ là “mở thương điếm” (với những điều kiện nhượng đất) và không nhận Chaigeau làm “lănh sự” như người Pháp mơ ước, là đúng. Những sự kiện này giúp ta hiểu hơn chính sách của các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức: không cho người Âu lập thương điếm, bởi đó chỉ là mặt tiền của hành động xâm chiếm sẽ đến sau. Sự sáng suốt của các vua, cũng là một trong những lư do khiến nước ta không bị xâm lược từ đời Gia Long.

 

Thụy Khuê

 

Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-6/

 

 

Chương 5

 

Ai cứu Nguyễn Ánh khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ, tháng 9-10/1777

 

Điểm chính ghi “công trạng” của Bá Đa Lộc đối với vua Gia Long, không phải là việc ông đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, bởi v́ những ai thông thạo t́nh h́nh đều biết rằng vị giám mục đă thất bại trong nhiệm vụ của ḿnh, nhưng điểm mà ông “thành công” và được các sử gia Pháp ghi nhận, đó là công ông cứu vua Gia Long thoát chết khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ, trong tháng 9 và tháng 10 năm 1777, để đi đến kết luận: nếu Giám mục Bá Đa Lộc không cứu sống Nguyễn Ánh, th́ không có triều Nguyễn.

 

“Sự thực lịch sử” này, sẽ biến thành “công ơn của nước Pháp” đối với triều Nguyễn, được lập đi lập lại ở nhiều nơi, đặc biệt trong các văn thư chính thức của chính phủ Pháp hoặc của các thủy sư đô đốc gửi triều đ́nh các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, để đ̣i trả các giáo sĩ bị bắt, hoặc xin thông thương.

 

Đă đến lúc chúng ta cần điều tra lại sự kiện này, xem hư thực thế nào.

 

Nguyễn Quốc Trị cũng đă bắt đầu công việc trong tác phẩm Nguyễn Văn Tường, ở đây, chúng tôi đưa ra một cách khảo sát khác.

 

Ngoài những thông tin chính thức, chúng tôi để ư đến một cuốn sử ngoài luồng, đó là cuốn Sử kư Đại NamViệt, có một số thông tin khác lạ, không thấy trong chính sử, tên đầy đủ của cuốn sách này như sau:

 

“Annales Annamites [Sử biên niên An Nam]. Sử Kư Đại Nam Việt. Quốc triều. Nhứt là doăn tích từ Hiếu Vũ Vương cho đến khi vua Gia Long (Nguyễn Ánh) đặng trị lấy cả và nước An Nam”.

 

Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa, in lại sách này ở Sài G̣n năm 1974 và ở Montréal năm 1986, ghi:

 

“Chúng tôi chỉ có một bản do nhà ḍng Tân Định (Imprimerie de la Mission de Tân Định) in năm 1909 và ghi rơ là in lần thứ năm. Như vậy tất bản in lần thứ nhất phải ra đời nhiều năm trước năm này.

 

Bản in này có ghi các ḍng chữ Annales annamites và Quốc triều, có lẽ là do người đương thời ghi chép “ (Nguyễn Khắc Ngữ, Lời nói đầu).

 

Nguyễn Quốc Trị có đọc sách này, nhưng ông không tin những điều viết trong sách.

 

Người viết (hoặc nhiều người viết) cuốn Sử Kư Đại Nam Việt, chắc chắn thuộc nhà ḍng, thân thuộc hoặc là con cháu linh mục Paul Nghị, người mà chúng ta sẽ biết là ai. Người viết là người Việt, nên đă cung cấp một số thông tin khác về việc Nguyễn Ánh chạy thoát năm 1777, không giống thông tin của Pháp, và cho ta biết những chi tiết về Nguyễn Ánh hồi trẻ, hoặc những việc xẩy ra không được lịch sử chính thống ghi lại. Người viết, với chữ quốc ngữ c̣n phôi thai thời ấy, lại không chuyên về nghiên cứu, có lẽ ít học, nên cứ kể chuyện theo trí nhớ, có những chỗ không ăn khớp lắm với thời gian lịch sử, tuy nhiên, những dữ kiện tŕnh bày, nhiều điều có thể dùng được để so sánh với các tài liệu khác.

 

Trước hết, xin nhắc lại sự kiện lịch sử xẩy ra trong hai tháng 9-10/1777, khoảng thời gian gia đ́nh và quần thần của chúa Nguyễn bị Nguyễn Huệ lùng bắt và tận diệt:

 

Ngày 19/9/1777, Tân Chính Vương (Hoàng Tôn Dương) và 18 quan theo hầu bị giết.

 

Ngày 18/10/1777 Định Vương Nguyễn Phước Thuần bị giết cùng với Tôn Thất Đồng, anh ruột Nguyễn Ánh và các tướng: Trương Phúc Thận, Lưu Thủ Lương, Nguyễn Danh Khoáng.

 

Một ḿnh Nguyễn Phước Ánh, 15 tuổi, chạy thoát.

 

Trốn tránh ở đâu? Ai nuôi ăn? Ai cho ở?

 

Thực Lục và Liệt Truyện không viết rơ việc này, tại sao?

 

Đại Nam Thực Lục

 

Về việc này, Thực Lục ghi như sau:

 

“Tháng 8 [ÂL, tháng 9/1777] giặc Nguyễn Văn Huệ thêm quân đánh Hương Đôi. Chưởng cơ Thiêm Lộc chạy đi Ba Việt, Tân Chính Vương thấy quân ít lương hết, bàn kế chạy về B́nh Thuận cùng Chu Văn Tiếp họp quân, rốt cục không xong. Các tướng đều tản mát. Chưởng cơ Tống Phước Hoà than rằng: “Chúa lo th́ tôi phải chết, nghiă không thể tránh được”, rồi tự tử.

 

Ngày Tân Hợi [18/8/Đinh Dậu - 19/9/1777] Tân Chính Vương bị hại chết (…)18 người quan theo hầu đều bị giặc hại cả.

 

Chúa [Định Vương] đi Long Xuyên.

 

Tháng 9 [ÂL, tháng 10/1777], giặc Nguyễn Văn Huệ sai Chưởng cơ giặc là Thành (không rơ họ) phạm Long Xuyên.

 

Ngày Canh Th́n [18/9/Đinh Dậu- 18/10/1777] chúa băng. Tôn Thất Đồng (con thứ hai của Hưng tổ) cũng chết theo… “ (ĐNTL, I, t.190-191).

 

Vài trang sau, viết về vua Gia Long, Thực Lục ghi thêm:

 

“Mùa xuân năm Đinh Dậu [1777], giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ vào đánh cướp Sài G̣n (thuộc tỉnh Gia Định) Duệ Tông đi Đăng Giang (thuộc tỉnh Định Tường). Vua [Nguyễn Ánh] đem binh Đông Sơn đến ứng viện, đón Duệ Tông đến Cần Thơ (tức đạo Trấn Giang thuộc tỉnh An Giang), rồi đến Long Xuyên (thuộc tỉnh Hà Tiên).

 

“Tháng 9 [ÂL, tức tháng 10/1777] mùa thu, quân giặc theo ngặt, ngày Canh Th́n, Duệ Tông bị nạn băng. Một ḿnh vua được thoát, lên thuyền đậu ở sông Khoa (thuộc Long Xuyên), định nhân ban đêm vượt biển để lánh giặc. Bỗng có con cá sấu cản ngang mũi thuyền ba lần, bèn thôi. Sớm mai ḍ biết đêm ấy có thuyền giặc ở phiá trước. Vua bèn dời sang đóng ở đảo Thổ Châu. Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ lui quân về Quy Nhơn (…).

 

Tháng 10, mùa đông [tháng 11/1777] vua cử binh ở Long Xuyên, tiến đến Sa Đéc (thuộc tỉnh An Giang)” (TL, I, t. 205) (Chúng tôi in đậm)

 

Những ghi chép quá sơ sài cho một giai đoạn lịch sử quan trọng như thế. Phải chăng v́ những người đi theo đều bị giết chết nên không c̣n ai biết rơ để thuật lại? Phải chăng v́ đă có thoại chính thống “cá sấu cản thuyền”, nên không ai dám hỏi Nguyễn Ánh, sự việc lúc ấy ra sao, để sử quan ghi lại?

 

Các huyền thoại về việc Nguyễn Ánh chạy thoát nhiều lần, được các sử gia triều Nguyễn viết vào bài Biểu, ghi ở đầu bộ Thực Lục phần về Gia Long, với những câu: “Sông Khoa có ngạc ngư [cá sấu] cản mũi“. “Trâu thần hộ giá ở Đăng Giang” (Ánh qua sông Chanh ở Định Tường nhiều cá sấu, có con trâu đằm ḿnh bên bờ, bèn đứng lên ḿnh, trâu đưa qua sông). “Rắn thiêng nọ cơng thuyền nơi Phú Quốc” (Ánh đi thuyền ra Hà Tiên đêm tối không thấy ǵ, bỗng có đàn rắn cơng thuyền sang Hà Tiên)… Đó là những chuyện viết trong… Biểu, với ư tung hô. Và những huyền thoại này, sẽ được viết thành tiểu thuyết, vẽ lại trên các bát sứ cổ các giai thoại về việc Gia Long tẩu quốc, đó là chính sách tuyên truyền cho một quần chúng mê tín. Thực Lục là bộ sử, không thể viết kỳ cục như vậy, cho nên các tác giả bỏ bớt những điều huyễn hoặc đi, ví dụ nói “con cá sấu cản ngang mũi thuyền ba lần”. Nhưng chúng ta không thể bằng ḷng với những lập luận như thế.

 

Câu hỏi đầu tiên ở đây là: Tại sao phải bịa chuyện ra như vậy? Có lẽ đây là lư do:

 

Người Việt hay tin “điềm”, lúc ấy Nguyễn Ánh hăy c̣n nhỏ, khó tự ḿnh nhân danh cả ḍng họ của chúa Nguyễn, để đứng lên phất cờ dựng lại cơ đồ; nên phải dựa vào “điềm đế vương”, đại loại như Lê Lợi được “rùa thần dâng kiếm báu”. Ở đây, điềm “cá sấu cản thuyền” rất xứng với ngôi “thiên tử”, có lẽ là do các cận thần truyền ra từ đầu.

 

Khi Nguyễn Huệ tiêu diệt gia đ́nh và quần thần của chúa Nguyễn năm 1777, chỉ c̣n một vài cận thần sống sót, trong đó có quan Thái bảo Tống Phước Khuông (năm sau ông sẽ gả con gái cho Nguyễn Ánh)… có thể chính vị đại thần uyên bác đă chủ mưu việc này. Đây là một hành động chính trị cao siêu, Nguyễn Ánh lúc đó mới 15 tuổi, chắc cũng không nghĩ đến “mưu lược” này, chỉ tuân theo. Việc Nguyễn Ánh ra đảo Thổ Châu, có lẽ cũng ở trong chiến lược này mà thôi. Thực ra có lẽ Nguyễn Ánh trốn ở chỗ khác.

 

Một khi đă đưa ra “thoại chính thức” rồi, th́ không ai dám “nghi ngờ” ǵ nữa. Các sử thần sau này cứ thế mà chép, không phải “điều tra” xem hư thực ra sao.

 

Nhưng tác giả Sử Kư Đại Nam Việt có vẻ biết rơ hơn (sẽ nói đến sau).

 

Trước hết, chúng ta xem phiá Pháp xem các nhà nghiên cứu viết ǵ.

 

Thoại của Maybon

 

Sau đây là sự phân tích của sử gia Maybon, sẽ được học giả Cadière chép lại.

 

Trước hết ông đặt vấn đề phải xác định lúc nào Nguyễn Ánh đă gặp Bá Đa Lộc lần đầu:

 

“Vấn đề đặt ra là làm sao biết được lúc nào th́ vị giám mục và con người thừa kế bất hạnh các chúa Nam Hà gặp nhau lần đầu.

 

Những sách An Nam đều câm nín về sự gặp gỡ giữa hai nhân vật này và những tác giả Tây phương không thống nhất với nhau về ngày tháng. Tuy nhiên ta cũng có thể xác định sự kiện với độ chính xác nào đó. Nên nhớ rằng Huệ Vương [Định Vương] và các hoàng tử [anh em Nguyễn Ánh] đă được quan trấn thủ Hà Tiên [Mạc Thiên Tứ] tiếp đón nồng hậu khi họ bị Nguyễn Văn Lữ đuổi đánh; mặt khác, Pigneau [Bá Đa Lộc] được Mạc Thiên Tứ khẩn khoản gọi từ Cam-bốt về năm trước, lúc này đang ở cạnh quan trấn thủ và có thể vị giám mục đă gặp các ông hoàng trong thời điểm này”. (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, t.192[1])

 

Độc giả có thể hỏi: việc Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc gặp nhau lần đầu th́ có ăn nhập ǵ đến việc Bá Đa Lộc “cứu” Nguyễn Ánh? Có chứ. Bởi v́, có gặp, có được giới thiệu, th́ mới biết là đó là ông hoàng, là con của vị chúa đáng lẽ được nối ngôi Vơ Vương. Nếu không, th́ Ánh lúc đó chỉ là cậu nhỏ 15 tuổi, chưa có danh phận ǵ, làm sao mà Đức Giám Mục Bá Đa Lộc lại biết, mà cứu? Tuy nhiên lập luận trên đây cũng chỉ là những giả định, Maybon chưa chứng minh được là có các cuộc “gặp gỡ” đó.

 

Nhưng phải công nhận sự sắp đặt của ông rất logique. Sau đó ông viết đến đoạn cốt lơi:

 

“Nếu giám mục không gặp thiếu niên Nguyễn Ánh lúc ấy, th́ có lẽ là sau khi Sài G̣n bị chiếm lần thứ nh́; bởi v́, dường như dứt khoát theo những chứng nhân Tây phương th́ “vào khoảng tháng 9-10/1777, Nguyễn Ánh trốn tránh một thời gian trong khu rừng ngay cạnh chủng viện và giám mục Adran đă sai Paul Nghị đem đồ ăn tiếp tế đều đều và ngài giúp [Ánh] trốn sang đảo Poulo Panjang [Thổ Châu] ngay khi quân Tây Sơn rút lui”. (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, t. 193[2]).

 

Ở cuối trang có chú thích số 2, in chữ nhỏ, như sau: “Đó là kết luận trong lời b́nh của M. Maitre (sđd, t. 344-347), của chứng nhân xuất phát từ những giáo sĩ; của ông Barrow và của ông La Bissachère, mà chúng tôi không ngần ngại chấp nhận là của chúng tôi nữa; tuy nhiên, rất ít khả năng những chứng của Barrow và La Bissachère là từ hai nguồn thông thạo khác nhau, bởi người viết cuốn kư sự [chỉ Montyon] kư tên Bissachère, ấn hành ở Luân Đôn, rất có thể đă sao chép tác phẩm của Barrow. Về vấn đề này xin xem cuốn “Kư sự Bissachère” do chúng tôi [Maybon] in“[3].

 

Đến đây mới thấy sự khôn khéo và thủ đoạn của sử gia học giả Maybon.

 

Nếu chỉ đọc đoạn đầu mà không đọc chú thích, th́ câu “vào khoảng tháng 9-10/1777, Nguyễn Ánh trốn tránh một thời gian trong khu rừng ngay cạnh chủng viện và giám mục Adran đă sai Paul Nghị đem đồ ăn tiếp tế đều đều và ngài giúp [Ánh] trốn sang đảo Poulo Panjang ngay khi quân Tây Sơn rút lui”, đối với chúng ta là một xác định có cơ sở, nhờ câu văn đi trước “bởi v́, dường như dứt khoát theo những chứng nhân Tây phương“.

 

Nhưng nếu muốn biết thêm nguồn gốc của những chứng nhân Tây phương này th́ ta sẽ phải đọc phần chú thích và thấy đó là:

 

1- Lời b́nh của M. Maitre [không biết ông này là ai, nói ǵ, v́ ta không có sách của ông Maitre].

 

2- Chứng nhân xuất phát từ những giáo sĩ [không nói chứng nhân nào, giáo sĩ nào].

 

3- Của ông Barrow và của ông Bissachère [chỉ là một, v́ người viết cuốn cách kư tên Bissachère (tức là Montyon) chỉ chép lại thoại của Barrow].

 

Tóm lại, câu “vào khoảng tháng 9-10/1777, Nguyễn Ánh trốn tránh một thời gian trong khu rừng ngay cạnh chủng viện và giám mục Adran đă sai Paul Nghị đem đồ ăn tiếp tế đều đều và ngài giúp [Ánh] trốn sang đảo Poulo Panjang ngay khi quân Tây Sơn rút lui”, mà ta vừa đọc, chỉ rút ra từ một ông Barrow, v́ các ông khác chẳng có ǵ.

 

Vậy ta coi, xem Barrow viết như thế nào, th́ đây là nguyên văn lời Barrow:

 

“Nhà vua đă bị địch bắt, nhưng hoàng hậu, hoàng tử [chỉ Nguyễn Ánh], các con và một người chị hay em, được Adran cứu thoát. Nhờ đêm tối, họ rời xa kinh thành [Gia Định] và trốn vào rừng. Ở đấy, trong nhiều tháng, vị vua trẻ của nước Nam (…) trốn cùng với gia đ́nh, không dưới lùm cây sồi rậm rạp mà dưới lùm đa hay bồ đề v́ ở đây không ai dám xâm phạm. Một nhà tu công giáo tên Paul [Paul Nghị] liều ḿnh đem đồ ăn mỗi ngày, cho đến khi [quân đội đi lùng] không c̣n t́m kiếm nữa và sau cùng được lệnh rút về”. (Barrow II, t. 201)

 

Chỗ sai lầm của Barrow trong câu này là:

 

1- Ông tưởng Định Vương là cha của Nguyễn Ánh, nên gọi Nguyễn Ánh là Hoàng tử, thực ra Định Vương là chú của Nguyễn Ánh.

 

2- Ông nói Nguyễn Ánh [hoàng tử] trốn với mẹ [hoàng hậu] và các con… là sai, v́ lúc ấy Nguyễn Ánh chưa có vợ con ǵ cả, và cũng không phải do Adran cứu thoát (sẽ chứng minh sau). Chỉ có câu “Một nhà tu công giáo tên Paul [Paul Nghị] liều ḿnh đem đồ ăn mỗi ngày” của Barrow là đúng.

 

Nhưng câu văn của Barrow, đă được sử gia Maybon “biên tập” lại:

 

Trước hết, ông chỉ lấy một ư của Barrow: “được Adran cứu thoát” và cắt hết các ư khác, rồi thêm vào những “thông tin” khác:

 

1- Chỗ trốn của Nguyễn Ánh ngay cạnh chủng viện (không có trong lời Barrow) để thiết lập một thứ logique cho việc Bá Đa Lộc cứu sống Nguyễn Ánh.

 

2- Sau đó ông viết: giám mục Adran đă sai Paul Nghị đem đồ ăn tiếp tế đều đều. (Chỗ này, Barrow không nhắc đến Adran, chỉ viết: Một nhà tu công giáo tên Paul liều ḿnh đem đồ ăn mỗi ngày)

 

3- Và ông thêm vào câu: ngài giúp [Ánh] trốn sang đảo Poulo Panjang (Cũng không có trong Barrow).

 

Để hoàn tất, ông đưa ra lời b́nh luận của M. Maitre, như một xác định có uy tín, và sau cùng ông nhũn nhặn viết: chúng tôi không ngần ngại chấp nhận [lập luận này] là của chúng tôi.

 

Maybon đă biến một câu sai lầm của một tác giả mà ông khinh miệt là Barrow, v́ ông cho rằng Barrow viết bậy bạ (sẽ nói đến sau); thành một thông tin khả tín bằng cách cắt xén và thêm thắt những điều không có trong văn bản của tác giả.

 

Đó là lối viết tinh xảo của một học giả khi muốn chế tạo những thông tin không có thực.

 

Người đi sau, khi thấy sử gia học giả Maybon đă viết như thế, th́ không ngần ngại ǵ mà không chép lại như một “sự thực hiển nhiên”. Rất may là chúng ta t́m được những chứng nhân khác, viết về việc này.

 

Giáo sĩ Faulet

 

Julien Faulet, sinh ngày 21/11/1741 ở Guilliers (thuộc vùng Morbihan, Bretagne, Pháp) đi truyền giáo từ ngày 29/11/1773, được chuyển đến Cao Mên tháng 6/1775, làm trợ tá cho giám mục Bá Đa Lộc. Trong suốt thời gian truyền giáo ở miền này, ông và giáo dân sống trong t́nh trạng cực kỳ khốn khổ v́ chiến tranh và cướp bóc, cái chết luôn luôn gần kề, cuối cùng ông bị bệnh tâm thần, phải quay trở về Âu Châu năm 1781, và mất trên đường về, năm 1783.

 

Giáo sĩ Descouvrières, bề trên của ông, năm 1784, đă t́m kiếm về cái chết của ông, chỉ biết có thể ông đă chết ở Batavia, cùng nhiều người Pháp khác, trên chuyến tầu về Île de France (tức Île Maurice bây giờ), v́ một người Pháp cùng đến Batavia một lúc với tầu này, đă ở lại đây một năm nhưng không gặp ông Faulet bao giờ. (Launay, III, t.13 và t.153).

 

Faulet viết nhiều thư mô tả t́nh h́nh chiến sự, giáo xứ và giáo dân ở Cao Mên và Hà Tiên. Trong đó có hai tài liệu quan trọng:

 

1- Bản Kư sự dài, thuật việc giám mục Bá Đa Lộc phải tẩu thoát khỏi tu viện Cay-Quao [do giám mục xây dựng ở phiá Nam Hà Tiên, dưới sự bảo trợ của quan trấn thủ Mạc Thiên Tứ]; vị giám mục phải bỏ tất cả con chiên và giáo sĩ ở lại để thoát thân. Giám mục Bá Đa Lộc chạy ngày thứ ba [29/7/1777] mà tới thứ sáu ngày 1/8/1777, linh mục Faulet mới dám báo tin cho những trách nhiệm địa phương biết (Relation abrégée de ce qui est arrivé au collège de Cay-Quao depuis l’évasion de Mgr Pigneaux, par M. Faulet- Kư sự về những ǵ xẩy ra cho tu viện Cay-Quao sau khi Giám Mục Bá Đa Lộc tẩu thoát) (AME, quyển 800, t. 1559), Launay III, t.131-136).

 

Sau đó, qua những ǵ ghi trong Sử Kư Đại Nam Việt, mà ta sẽ đọc ở dưới, th́ lại biết thêm rằng: giám mục chạy sang Cao Mên. Tóm lại: Bá Đa Lộc chạy khỏi Hà Tiên ngày 29/7/1777 và chạy sang Cao Mên.

 

Như vậy, giám mục không thể nào “cứu” Nguyễn Ánh trong tháng 9- 10/1777 được.

 

2- Trong một bức thư khác, Faulet cho biết ai cứu thoát Nguyễn Ánh tháng 9-10/1777.

 

Đó là lá thư Faulet viết ở Cao Mên ngày 25/4/1780 gửi M. Descouvrières, kể về t́nh trạng cực kỳ khốn khổ của họ đạo ở Hà Tiên, giữa cướp bóc và giặc giă, đoạn chót có câu:

 

“Chính cha Paul [Paul Nghị] đă nuôi ăn và giấu ông vua trẻ trong chiếc thuyền nhỏ của ông và báo cho Đức thánh cha [Bá Đa Lộc] biết”.

 

“C’est le P. Paul qui a nourri et caché le jeune roi dans son petit bateau, qui a fait connaitre Monseigneur et la sainteté de notre religion” (Launay III, t.70).

 

Lá thư này là một tư liệu quư, bởi v́ linh mục Faulet lúc đó ở Hà Tiên, có lẽ ông đang ở trong nhà Giám Mục Bá Đa Lộc tại đây, nên biết rơ chuyện: cha Paul Nghị giấu vua trong thuyền của ḿnh.

 

Sự sai lầm của Tạ Chí Đại Trường

 

Tạ Chí Đại Trường, có đọc câu này của Faulet, nhưng ông lại hiểu và viết lại như sau:

 

“Lúc bấy giờ Nguyễn Ánh ở đâu mà lại thoát khỏi cái vạ diệt tộc này? Sử quan nhà Nguyễn không lưu ư nhiều đến việc chạy trốn không lấy ǵ làm vẻ vang cho chúa của họ nên không xét đến nơi chốn lưu lạc của ông. Họ thay thế cái nhục lẩn tránh Tây Sơn bằng câu chuyện cá sấu đưa qua sông, một bằng chứng mang số đế vương của ông hoàng này… Thế mà chỉ trong một tháng sau ta thấy ông có mặt ở Long Xuyên với Đỗ Thanh Nhân. Điều đó chứng tỏ ông vẫn theo Duệ Tông từ lúc rời Ba Giồng. Nhờ đó mà được Pigneau đem dấu trốn và sai Hồ Văn Nghị đem thức ăn nuôi sống (Chú thích: Thư của ông Faulet cho ông Descouvrières…” (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến Việt Nam, t. 91).

 

Việc một cậu bé 15 tuổi, một ḿnh chạy thoát kẻ muốn giết cả họ ḿnh, th́ có ǵ là xấu hổ, là cái nhục? Thực Lục, Liệt truyện, ghi cả những chuyện có thể gọi là “nhục” hơn: “Vua đi một ngày đêm chưa ăn, [Nguyễn Đức] Xuyên chạy vào nhà dân xin cơm” (Liệt truyện, 2, t.157), “Gặp lúc hết lương ăn, quân đói xanh mặt, có thuyền buôn ở Hạ Châu đi qua, [Nguyễn Văn] Thành đem quân đi cướp bị lũ lái buôn chống lại rất dữ, Thành bị vài vết thương cố nhẩy lên cướp được thuyền gạo đem về” (Liệt truyện, 2, t.370).

 

Nhưng cái lạ là tại sao Tạ Chí Đại Trường lại có thể “móc nối” các sự kiện như trên. Tại sao “Một tháng sau, Nguyễn Ánh có mặt ở Long Xuyên” lại chứng tỏ là Ánh “theo Duệ Tông từ lúc rời Ba Giồng”? Và v́ “Ánh đi theo Duệ Tông” nên nhờ đó mà được Pigneau đem giấu trốn? Pigneau gặp Duệ Tông hồi nào? Hiện giờ chỉ có những giả định mà chưa có xác định.

 

Nhưng cái lạ nhất vẫn là câu văn trong thư của Faulet: “C’est le P. Paul qui a nourri et caché le jeune roi dans son petit bateau, qui a fait connaître Monseigneur et la sainteté de notre religion” (Chính cha Paul đă nuôi ăn và giấu ông vua trẻ trong chiếc thuyền nhỏ của ông và đă báo cho Đức thánh cha [Bá Đa Lộc] biết), lại được Tạ Chí Đại Trường hiểu thành: “được Pigneau [Bá Đa Lộc] đem dấu trốn và sai Hồ Văn Nghị đem thức ăn nuôi sống”.

 

Faulet viết rơ ràng như vậy, v́ lư do ǵ mà Tạ Chí Đại Trường lại xoay hẳn nghiă câu này cho đúng với lập luận của Maybon và những người Pháp thực dân?

 

Chúng tôi nhấn mạnh điểm này, v́ câu văn ngắn ngủi của Faulet hết sức quan trọng, đây là lần đầu tiên và duy nhất, về phiá Pháp, có một người nói khác quan điểm thực dân: người ấy là giáo sĩ Faulet, ông đă xác định: Paul Nghị mới là người cứu sống Nguyễn Ánh, không phải Bá Đa Lộc.

 

Ư kiến của Faulet c̣n trùng hợp với một ư kiến khác, của tác giả Sử Kư Đại Nam Việt.

 

Sự ghi chép của Sử kư Đại Nam Việt

 

Về việc Nguyễn Ánh chạy trốn, Sử kư Đại Nam Việt đưa ra ba điều, có liên quan mật thiết với nhau:

 

1- Về người mẹ của Nguyễn Ánh, Sử Kư Đại Nam Việt viết như sau:

 

“Con thứ hai của ông Vũ Vương [Vơ Vương Nguyễn Phước Khoát], tên là Chưởng Vũ [Nguyễn Phước Luân], chẳng khác tính cha là bao nhiêu [tức là cũng ăn chơi như cha]. Trong các vợ ông ấy có một đứa con hát sinh đặng nhiều con trai; trong những con trai ấy, th́ con thứ hai tên là Đức Hoàng Nguyễn Ánh, có danh tiếng, v́ đến sau được nối ḍng cùng tôn lên làm vua, gọi là Gia Long” (SKĐNV, t.3).

 

Chi tiết bà mẹ Nguyễn Ánh là “con hát” rất đáng chú ư, bởi lúc Nguyễn Ánh bị nạn, cũng theo SKĐNV, sẽ được một người “con hát” cứu thoát.

 

2- Điểm thứ nh́, trái với Thực Lục, nói rằng, Nguyễn Ánh chạy với Định Vương, Sử Kư Đại Nam Việt, lại nói rằng Nguyễn Ánh chạy với Tân Chính Vương.

 

Dưới tiểu đề “Quân Tây Sơn giết ông Hoàng Tôn”, Sử Kư Đại Nam Việt viết như sau:

 

“Đến sau, quân lính Hoàng Tôn [tức Hoàng Tôn Dương hay Tân Chính Vương] đă phải thua một trận cả thể lắm, quân giặc bắt đặng ông Huệ Vương [tức Định Vương Nguyễn Phước Thuần] mà giết ông ấy đi với các anh em. Ông Hoàng Tôn với ông Nguyễn Ánh th́ trốn được vào đồn kia với một ít quân. Song bởi quân ấy thấy ông Hoàng Tôn cô thế, th́ chẳng có ḷng với ông ấy là bao nhiêu, nên giao với quân Tây Sơn, mà chịu hàng cùng nộp ông Hoàng Tôn với ông Nguyễn Ánh cho nó. Song ông Nguyễn Ánh trốn khỏi. Vậy quân giặc bắt ông Hoàng Tôn mà giết đi một cách kín đáo, chẳng dám giết trước mặt người ta, kẻo c̣n nhiều kẻ phục ông ấy mà thêm loạn lạc chăng” (SKĐNV, t.12).

 

Nếu thoại này đúng, th́ Nguyễn Ánh đă chạy thoát từ tháng 9, bởi v́ Tân Chính Vương bị giết ngày 19/9/1777.

 

3- Về việc Nguyễn Ánh chạy trốn, Sử Kư Đại Nam Việt viết trong đoạn “Nguyễn Ánh trốn giặc” như sau:

 

“Ấy vậy mà tông tộc nhà Nguyễn đă gần tuyệt, c̣n lại một ông Nguyễn Ánh cùng ba anh em mà thôi. Chẳng khỏi bao lâu th́ ba ông nầy lại phải sự khốn khó mà chết hết. Vậy c̣n một ông Nguyễn Ánh mới lên mười bốn hay mười lăm tuổi mà thôi.

 

Ông ấy tuy khỏi chết, song đă phải túng cực lắm v́ chẳng c̣n của ǵ, chẳng c̣n ai giúp cùng chẳng biết tin ai nữa. May c̣n một đứa nhà tṛ có ḷng trung tín, ban đêm đă kiếm đặng một chiếc thuyền nhỏ, th́ hai thầy tớ liền đem nhau t́m nơi mà ẩn trong rừng lau lách. T́nh cờ lại gặp thuyền ông Phaolồ [Paul Nghị], là thầy cả bổn quốc, cũng đang chạy giặc. Bấy giờ ông Nguyễn Ánh, tuy chưa quen biết thầy Phaolồ, song đă biết là thầy cả bổn quốc, cũng biết là thầy đạo, th́ xưng danh ḿnh ra, xin thầy Phaolồ cứu. Thầy Phaolồ liền chịu và đem qua giấu trong thuyền ḿnh và chèo thẳng qua Hà Tiên, mà giấu trong nhà Đức Thầy Vêro [Bá Đa Lộc]. Khi ấy đức thầy Vêrô đă sang bên Cao Mên, cho nên thầy cả Phaolồ vội vàng gởi tin cho người biết sự ấy cho kíp.

 

Ông Phaolồ có ư giấu ông Nguyễn Ánh trong nhà Đức Thầy Verô cho kỹ, nên chẳng cho ai biết. Song cũng khó lắm, v́ quân Tây Sơn đă biết tỏ ông ấy đă trốn sang Hà Tiên, nên đă truyền t́m bắt người mà nộp. Vậy qua một tháng th́ chẳng c̣n lẽ nào mà giấu trong nhà nữa, nên ông Phaolồ phải đưa ông Nguyễn Ánh lên rừng nơi vắng vẻ. Đoạn hoặc ông Phao Lồ, hoặc thầy giảng kia, tên là ông Toán, thỉnh thoảng lén chở đồ ăn đến cho mà thôi. Vậy ông Phao lồ chịu khó mà liệu cách khôn ngoan thể ấy đặng hai ba tháng, th́ có công với ông Nguyễn Ánh cả thể lắm. V́ chưng nếu chẳng có thầy cả ấy, th́ ông Nguyễn Ánh phải bắt chẳng khỏi.

 

Khi ấy quan phủ kia tên là Nhất Trịnh, nghe tin ông Nguyễn Ánh hăy c̣n, th́ lấy một ít quân mạnh bạo đi t́m mà giết. Quân Tây Sơn canh giữ đồn kia áp xứ Đồng Nai và Cao Mên, những ra sức t́m cho đặng ông Nguyễn Ánh. Dần dần th́ nó biết đặng ông ấy c̣n ẩn ḿnh trong thuyền ông Phaolồ trong Rạch Giá.

 

Cũng một khi ấy Đức Thầy Vêrô ở Cao Mên mà về, t́m được ông Nguyễn Ánh; người lại đem một Langsa, tên là Gioang [Jean] có nghề vơ cùng bạo dạn gan đảm và có tài đánh giặc lắm. (SKĐNV, t.12-13).

 

Nếu ta tin tác giả Sử Kư Đại Nam Việt, th́ có ba người giúp Nguyễn Ánh thoát nạn:

 

- Một đứa nhà tṛ có ḷng trung tín, tức là một tiểu đồng con nhà hát, liên hệ với mẹ Nguyễn Ánh, trung tín theo hầu, chính cậu nhỏ nhà tṛ này đă t́m thuyền cứu chủ, giấu vào lau lách.

 

- Hồ Văn Nghị, hay Paul Nghị, thầy giảng, là người thân tín của Bá Đa Lộc, đă cứu Nguyễn Ánh đem về nhà Bá Đa Lộc ở Hà Tiên và báo tin cho Bá Đa Lộc biết, lúc ấy giám mục Bá Đa Lộc đang ở Cao Mên.

 

- Thầy giảng Toán, cũng liều ḿnh đem đồ ăn đến cho Nguyễn Ánh.

 

Sau đó, khi Bá Đa Lộc từ Cao Mên trở về Gia Định, mới gặp Nguyễn Ánh, vào thời điểm nào, đó là một vấn đề khác, chúng tôi sẽ xác định sau.

 

Tất cả câu chuyện này, ăn khớp với nhau: Nguyễn Ánh, sau khi Tân Chính Vương bị bắt rồi bị hại, lẩn trốn với sự trợ giúp của ba ân nhân trên đây. Và họ đă giấu ông trong khoảng hai tháng, đến tháng 11/1777, Nguyễn Ánh xuất hiện ở Long Xuyên, trong trận đánh ở Long Hồ, sẽ nói đến sau.

 

Thư của giáo sĩ Le Labousse

 

Một chứng sau cùng, là lá thư của M. Le Labousse gửi cho M. Létondal, quản thủ (procureur) chủng viện Macao, ngày 15/6/1789:

 

“Đă đến lúc phải tŕnh ông tin về sự thăng thưởng của cha Paul [Paul Nghị]. Chẳng cần làm quan, mà ông ấy được hưởng tất cả các đặc quyền; có lẽ c̣n hơn các quan nữa; tôi biết chắc rằng ông ấy có một tấm thẻ bài của vua, hay một dụ, ra lệnh cho các quan phải tuân lệnh và cống hiến tất cả những ǵ mà ông ấy cần. Điều này làm cho con người ưu tú này trẻ ra một chút: các quan đến lạy chào, chúng tôi cũng được thơm lây”. (Launay, III, t. 227).

 

Điều này chứng tỏ vua Gia Long đă kín đáo thưởng công cho ân nhân cứu mạng.

 

Hơn thế nữa, qua thư từ giao dịch giữa các giáo sĩ, ta có thể biết Nguyễn Vương trao cho Hồ Văn Nghị những trọng trách tế nhị, bôn ba khắp trong vùng biển đông, đi về giữa Ma Cao, Ấn Độ, Phi Luật Tân… với những sứ mệnh, có thể là bí mật.

 

Khi giao Hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc đưa sang Pháp, Vương đă sai ông đi tháp tùng hoàng tử cùng với Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm; nhưng khi đến Pondichéry, có lẽ Bá Đa Lộc không muốn có người Việt cùng sang Pháp, hoặc v́ lư do ǵ khác, nên đă gửi tất cả phái đoàn trở về Vọng Các.

 

Cái chết của linh mục Hồ Văn Nghị

 

Tin linh mục Hồ Văn Nghị qua đời được thông báo như sau:

 

“M. Paul Nghị mất ở Sài G̣n ngày 19/2/1801.

 

Thư của M. Le Labousse gửi cho các Giám đốc Hội truyền giáo ngoại quốc

 

B́nh Khang ngày 20/4/1801

 

Năm nay, chúng tôi thông báo cùng quư vị cái chết của M. Paul, linh mục người nước Nam.

 

Ông mất sau nửa buổi bị đau bụng, ngày 19 tháng 2 năm nay.

 

Xin nói gọn rằng hội truyền giáo Nam Hà mất đi một trong những tác nhân hàng đầu. Đó là một người có thế lực qua sự nghiệp và lời nói. Được đào luyện theo đường lối của đức Giám mục Adran, người đă giảng dạy và ban cho ông danh hiệu tư tế và ông đă chứng tỏ, cho tới tuổi 67, xứng đáng là đệ tử của người thầy như thế. Ông đă tháp tùng vị chủ giáo trong mọi chuyến đi và chia sẻ với người những nhọc nhằn và bất hạnh. Họ chỉ tạm xa nhau ở Pondichéry, khi ông Paul phải ở lại để trông nom những người hầu cận hoàng tử trong khi chờ đợi hoàng tử trở về. Nhà vua, trong thời điểm tai biến, đă may mắn có ông cung cấp những nhu cầu tối thiểu, v́ vậy rất quư mến ông. Chính ông là người mà Đức ông nhờ cậy mỗi lần phải gửi đến triều đ́nh việc ǵ và từ khi Đức ông về trời, ông là người chính yếu giải quyết vấn đề và trợ giúp hàng đầu của chúng tôi. Sau khi Thượng đế đă cất đi cánh tay này, chúng tôi chỉ c̣n một ḿnh ông Liot.”

 

Linh mục Le Labousse, mất ngày 25/4/1801 ở Nha Trang, bốn ngày sau khi viết bức thư này. (Launay, III, t. 480-481).

 

Một điểm cần nhấn mạnh nữa:

 

Trong bức thư trên đây, linh mục Le Labousse cũng chỉ nói: Nhà vua, trong thời điểm tai biến, đă may mắn có ông cung cấp những nhu cầu tối thiểu (Le roi, dans le temps de ses désastres, fut heureux de l’avoir pour lui procurer les choses de dernière nécessité), tức là linh mục Le Labousse cũng chỉ nói đến công lao của Paul Nghị nuôi Nguyễn Ánh, chứ không nói ǵ về sự tham dự của Bá Đa Lộc.

 

Tóm lại, hai giáo sĩ gần gụi giám mục Bá Đa Lộc nhất, trong thời kỳ này là Faulet và Le Labousse, cũng xác nhận việc Hồ Văn Nghị nuôi vua, mà không nói đến “ơn cứu tử” của Bá Đa Lộc. Nhất là Faulet viết rơ cả chi tiết, cứu, rồi mới báo cho đức thánh cha biết, đúng như những điều tác giả Sử Kư Đại Nam Việt thuật lại.

 

Barrow có thể là người đầu tiên, về phiá Tây phương, viết về chuyện này, ông cũng xác định việc Paul Nghị nuôi vua, nhưng ông thêm vào đoạn Bá Đa Lộc đưa gia đ́nh vua chạy trốn là hoàn toàn sai sự thực, v́ lúc đó vua chưa có vợ con.

 

Montyon, người viết cuốn sách kư tên Bissachère (chúng tôi sẽ giới thiệu sau) chép lại thoại của Barrow.

 

Những sai lầm phát xuất từ Barrow, sẽ được hầu như tất cả những người viết sử về Bá Đa Lộc chép lại, để “ghi ơn cứu tử” vua Gia Long, như một thành tích đích thực của vị giám mục. Rồi “sự kiện” này lại được học giả sử gia Maybon xác định một cách chính thức, bằng cách “biên tập” lại lời Barrow, như chúng tôi đă chứng minh ở trên, để biến nó trở thành “sự thực”.

 

Qua những chứng từ mà chúng tôi tŕnh bầy trên đây, xin minh định lại một lần nữa:

 

- Chú tiểu đồng, con nhà tṛ, đă t́m thuyền cứu chủ Nguyễn Ánh.

 

- Linh mục Hồ Văn Nghị tiếp cứu Nguyễn Ánh khỏi sự lùng bắt của Nguyện Huệ, trong hai tháng 9-10/1777, với sự trợ giúp của thày giảng Toán.

 

_______________________________

 

[1] La question s’est posée de savoir à quel moment s’étaient nouées les premières relations entre l’évêque et l’héritier malheureux des Seigneurs de Cochinchine.

 

Les ouvrages annamites sont muets sur la rencontre des deux personnages et les auteurs européens ne s’accordent pas sur la date de ce fait. Cependant on peut, semble-t-il, la fixer avec une certaine exactitude. On se souvient que Huệ Vương et les princes trouvèrent auprès du gouverneur de Hà-tiên un accueil empressé lorsqu’ils furent chassés de Saigon par Nguyễn Văn-Lữ; or, Pigneau, appelé avec insistance du Cambodge par Mạc Thiên-tứ l’année précédente, se trouvait auprès du gouverneur à cette époque et il n’est pas impossible qu’il ait vu les princes.

 

[2] S’il ne connut pas le jeune Nguyễn Ánh à ce moment, ce fut sans doute après la seconde prise de Saigon; car il paraît acquis, selon les témoignages européens, “qu’en septembre-octobre 1777, Nguyễn Ánh se cacha pendant quelque temps dans une forêt voisine du lieu où était installé le collège, que l’évêque d’Adran lui fit parvenir régulièrement des subsistances par l’intermédiaire de Paul Nghị et qu’il favorisa sa fuite à Poulo Panjang dès que les Tây-sơn se furent retirés”

 

[3] Telle est la conclusion de la critique que fait M. Maitre (ibid. p.344-347) de témoignages émanant des missionnaires, de Barrow et de La Bissachère; nous n’hésitons pas à la faire nôtre, bien qu’il soit infiniment probable que les témoignages de Barrow et de La Bissachère ne constituent pas deux autorités distinctes, le rédacteur du mémoire paru à Londres sous le nom de La Bissachère, s’étant très vraisembablement inspiré de l’ouvrage de Barrow. Voir, à ce sujet, notre publication de La Relation de La Bissachère.

 

Thụy Khuê

 

Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-7/

 

Chương 6

 

Chân dung vua Gia Long

 

Để có một bức chân dung đáng tin cậy về vị vua vị vua sáng lập lại nhà Nguyễn, chúng ta cần nhiều ống kính khác nhau, từ những nguồn khác nhau, những điểm đồng quy của các nguồn tư liệu này, sẽ cho ta bức chân dung đích thực của vua Gia Long.

 

Liệt Truyện phác họa một chân dung đậm nét về “ngụy” Quang Trung, kẻ thù không đội trời chung của Gia Long: “Tiếng nói như tiếng chuông lớn, mắt sáng nhoang nhoáng như chớp, giảo hoạt khôn ngoan, hay đánh nhau, người đều sợ cả (…) Ra trận tất thân đi trước tướng sĩ, hiệu lệnh nghiêm ngặt, rơ ràng, bộ khúc đều có ḷng mến phục cả.” (LT, 2, t. 534-535).

 

Về Gia Long, Thực Lục đưa ra đoạn văn mô tả sự trung thành tuyệt đối của Nguyễn Ánh đối với Định Vương: luôn luôn kề cận, kiên tŕ bảo vệ vị chúa cuối cùng (TL, I, t. 204); nhưng chúng tôi tin rằng, những điều này cũng vẫn nằm trong chính sách tuyên truyền, có thể do chính vị đại thần trong tứ trụ triều đ́nh là Thái bảo Tống Phúc Khuông đưa ra, cho thấy Nguyễn Ánh pḥ Định Vương tới phút chót, đến Long Xuyên (TL, I, t. 205), để chứng tỏ Nguyễn Ánh vừa có đạo đức trung quân, vừa có chân mạng đế vương (cá sấu cản thuyền) xứng đáng trở thành người lănh đạo chính thức của nhà Nguyễn.

 

C̣n về chân dung đích thực của vua Gia Long, Thực Lục chỉ viết gọn một câu: “Vua chăm làm mọi việc, suốt ngày không lúc nào rỗi. Sai Thị thư viện sung chức khởi cư chú (chức quan ghi chép những lời nói việc làm của vua), phàm vua làm công việc ǵ đều chép hết” (TL, I, t. 257). Câu này sẽ được những nhân chứng khác nhau chứng nhận là đúng.

 

Nguyễn Ánh, Gioang và trận Long Hồ, theo Sử Kư Đại Nam Việt

 

Chứng nhân đầu tiên mà chúng tôi t́m được, nói về tuổi trẻ của Nguyễn Ánh, là tác giả Sử Kư Đại Nam Việt, cũng là người đă cho ta biết việc đứa tiểu đồng và linh mục Hồ Văn Nghị cứu Nguyễn Ánh thoát chết khỏi bàn tay Nguyễn Huệ (xem chương 5).

 

Ở đây, Sử Kư Đại Nam Việt kể một câu chuyện, nêu rơ tính t́nh thiếu niên Nguyễn Ánh, trong chiến thắng đầu tiên đối với Tây Sơn, đó là trận Long Hồ.

 

Xin nhắc lại: trong hai tháng 9-10/1777, Nguyễn Huệ truy lùng Tân Chính Vương và Định Vương, với ư muốn tiêu diệt nhà Nguyễn. Theo Thực Lục, lúc đó Nguyễn Ánh đang pḥ Định Vương. C̣n Sử Kư Đại Nam Việt cho rằng Nguyễn Ánh theo Tân Chính Vương.

 

Thuyết thứ nhất, như trên đă nói, có lẽ được tung ra với mục đích tuyên truyền. V́ vậy các sử gia triều Nguyễn, khi viết về giai đoạn này khá lúng túng, sự việc tŕnh bày không rơ ràng (TL, I, t. 204-205).

 

Thuyết thứ nh́ của Sử Kư Đại Nam Việt, có vẻ phù hợp với thực tế hơn: Lúc đó Tân Chính Vương là người có khả năng chiến đấu, Nguyễn Ánh c̣n rất trẻ, nhưng đă có tài đảm lược, đi theo Tân Chính Vương để chống “giặc”, th́ có lư hơn là pḥ Định Vương, v́ ông này chẳng thạo việc quân binh.

 

V́ đi theo Tân Chính Vương, nên Nguyễn Ánh đă trốn thoát trước ngày 19/9/1777, khi Tân Chính Vương bị hại. C̣n Định Vương th́ bị bắt và bị hại một tháng sau, tức là ngày 18/10/1777.

 

Vẫn theo chính sử th́ chỉ một tháng sau nữa, tức là tháng 11/1777, Nguyễn Ánh đă xuất hiện ở Long Xuyên, và cũng trong tháng này, quân Nguyễn đánh được Long Hồ.

 

Về trận Long Hồ, Thực Lục chỉ ghi vắn tắt một ḍng: “Tháng 11 [ÂL, tháng 12/1777] đánh úp Điều khiển giặc là Hoà ở dinh Long Hồ, (tức tỉnh Vĩnh Long ngày nay) cả phá được.” (TL, I, t. 205). Không nói ai đánh úp.

 

Sử Kư Đại Nam Việt viết rơ và khác. Sau khi kể chuyện Hồ Văn Nghị giấu và nuôi Nguyễn Ánh trong hai tháng, tác giả viết tiếp:

 

“Cũng một khi ấy Đức Thầy Vêrô [Bá Đa Lộc] ở Cao Mên mà về, t́m được ông Nguyễn Ánh; người lại đem theo một ông Langsa, tên là Gioang [Jean], có nghề vơ cũng bạo dạn gan [can] đảm và có tài đánh giặc lắm” (SKĐNV, t. 13).

 

Theo Sử Kư Đại Nam Việt, th́ Bá Đa Lộc t́m gặp Nguyễn Ánh, khi ở Cao Mên về, và có đem theo Jean về giúp Nguyễn Ánh, vậy chỉ có thể vào khoảng tháng 11/1777. Trong khi Liệt Truyện ghi như sau: “Năm Canh tư (1780), Thế tổ Cao hoàng đế lên ngôi vương ở Gia Định, Đa Lộc đến yết kiến xin cố sức giúp việc, vua nhận lời “ (LT, 2, t.505).

 

Sử Kư Đại Nam Việt viết tiếp:

 

“Khi ông Nguyễn Ánh đă tu binh đặng ít nhiều, th́ ông Gioang đă giúp người nhiều việc.

 

Vậy trước hết, khi thấy quan Nhất Trịnh [Điều khiển Hoà?] đă lấy đặng đồn kia, th́ ông Gioang cứ phép tây mà làm nhiều trái phá, đoạn xuống thuyền lớn. Bấy giờ Nhất Trịnh chưa ngờ điều ǵ, th́ vào Long Hồ, là nơi quân Tây Sơn đóng nhiều tầu lắm. Vậy ông Nguyễn Ánh làm tướng cai quân, và ban đêm, th́nh ĺnh, th́ xông vào đánh quân Tây Sơn. Khi ấy ông Gioang chỉ đốt và bắn trái phá, nên quân Tây Sơn bất th́nh ĺnh nghe tiếng trái phá, và thấy nhiều người chết, th́ sợ hăi lắm, v́ chưa từng biết sự làm vậy, cùng chưa thấy trái phá bao giờ; nên bỏ tầu mà nhẩy xuống sông. Những kẻ phải chết chém hay là bị trái phá th́ chẳng bao nhiêu; song kẻ chết đuối v́ sợ mà vội nhẩy xuống sông đè lộn nhau, th́ không biết là ngần nào. Trong trận nầy, ông Nguyễn Ánh đă làm tướng rất khôn ngoan và gan đảm lắm, v́ cũng đánh như lính; dầu xung quanh người chết gần hết, song ông ấy chẳng phải nao. Khi đă tàn trận, mà thấy ông ấy những máu dầm dề cả ḿnh, mà chẳng bị vết tích ǵ, th́ ai ai đều kể là phép lạ. Những tầu quân Tây Sơn ở trong Long Hồ th́ ông Nguyễn Ánh lấy được hết. ” (t. 12-14).

 

Như vậy, theo Sử Kư Đại Nam Việt, th́ chiến thắng đầu tiên của Nguyễn Ánh nhờ vào Jean, ngựi Pháp, kẻ biết làm trái phá. Trái phá ở đây có thể chỉ là thứ mà sau này người ta gọi là cocktail Molotov, chứ chưa chắc đă là lựu đạn. Bởi lựu đạn th́ phải mua, không thể làm lấy được.

 

Công của Jean không được ghi trong chính sử, trái với Manuel (Mạn Hoè) và cũng không được các nhà nghiên cứu Pháp t́m kiếm hoặc nhắc tới.

 

Duy có một người, H. Cosserat, đại lư thương mại, trong bài Notes bioghaphiques sur les français au service de Gia Long, BAVH, 1917, III (165- 206), đă viết những ḍng sau đây:

 

“Joang (Jean) (?-?) Có lẽ ở Nam Hà vào khoảng 1782. Trong tất cả những tư liệu mà tôi khảo duyệt, tôi chỉ t́m thấy một chỗ nói đến ông trong tác phẩm “L’Annam et le Cambodge” của giáo sĩ C.E, Houillevaux.

 

Trong chú thích số (1), tác giả kể rằng có hai kẻ phiêu lưu người Pháp có vẻ đă đắc lực giúp Nguyễn Ánh (Gia Long) trong những bước đầu tiến quân: một người được các nhà biên niên sử hay nhà báo (chroniqueurs) gọi là Joang (Jean), người kia là Mannoe (Manuel), thủy thủ ở miền Bretagne, đầu tiên làm việc cho giám mục Adran… Joang dường như đă dùng lựu đạn để đánh Tây Sơn, và có lẽ nhờ khí giới này mà chúa Nguyễn (Gia Long) lần đầu tiên đă chiếm lại được miền nam đất Nam Hà. Trước hết, ngụy quân chẳng biết cái thứ quỷ quái này là ǵ, vội vă trốn biệt. Việc này có thể đă xẩy ra năm 1782 (?). Cuốn Gia Định Thông chí của G. Aubaret, im lặng không nói ǵ đến tên Joang này. Cũng giống như Manuel, hy vọng rằng văn khố An Nam ngày nào đó sẽ mang lại chút ánh sáng về vấn đề này” (Cosserat, BAVH, 1917, III, t.169).

 

Cosserat là nhà nghiên cứu thực ḷng, ông đă soạn loạt bài tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long, tuy sơ lược nhưng ngay thẳng, chỉ ghi lại những điều khả tín. Ông cũng là người duy nhất nhắc đến tên Joang. Cosserat không đọc được Thực Lục và Liệt truyện, nên không biết là hai sách này có nói đến Mạn Hoè. C̣n cuốn Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức th́ khi Aubaret dịch sang tiếng Pháp đă “quên” không đề tên tác giả, và khi người Pháp trích dẫn sách này, kể cả Maybon, cũng đề là của Aubaret!

 

Chúng ta không thể biết tại sao chính sử chỉ nhắc đến Mạn Hoè mà không nhắc đến Gioang. Có thể Gioang ở vào thời kỳ huyền thoại “cá sấu” cho nên không ai dám hỏi kỹ Nguyễn Ánh, hay chính Nguyễn Ánh cũng không muốn kể ǵ về giai đoạn này. Mặc nhiên Gioang đă có mặt qua hai văn bản khác nhau, một Pháp, một Việt, cả hai đều nói đến “lựu đạn”, “trái phá”, th́ chúng ta phải tin là thực. Nhất là phải công nhận sự đóng góp của Gioang trong chiến công đầu của Nguyễn Ánh. Nhờ chiến công này, Nguyễn Ánh mới có nhiều thuyền tầu cướp được của Tây Sơn mà tiếp tục hành tŕnh với Đỗ Thanh Nhơn và quân Đông Sơn.

 

Tác giả Sử Kư Đại Nam Việt, ở đây, c̣n cho ta những nét sơ khởi về Nguyễn Ánh: “Gioang chỉ đốt và bắn trái phá” c̣n “Nguyễn Ánh làm tướng cai quân, và ban đêm, th́nh ĺnh, th́ xông vào đánh quân Tây Sơn”, “cũng đánh như lính”, “những máu dầm dề cả ḿnh”…

 

Một thiếu niên 15 tuổi như thế, quả là can đảm và xứng đáng làm đại nguyên soái ở tuổi 16. Nhưng Sử Kư Đại Nam Việt không dừng lại ở h́nh ảnh người thiếu niên 15 tuổi, mà c̣n mô tả h́nh ảnh một vị vua trưởng thành, khá riêng tư, không có trong chính sử.

 

Chân dung vua Gia Long, theo Sử Kư Đại Nam Việt

 

Dưới đề tựa “Vua tốt trí khôn và gan đảm” tác giả SKĐNV viết về Gia Long:

 

“Các quan thấy vua mau mắn dọn dẹp mọi sự, lại mau hiểu các việc thể ấy, th́ lấy làm lạ lắm. V́ chưng đều [điều] ǵ vua chưa thấy cùng chưa biết mặc ḷng, song như các quan nói một lần, th́ hiểu tức th́ cùng bắt chước đặng. Cho nên ai ai cũng khen vua là người tốt trí và khôn ngoan lắm. Vả lại, vua chẳng nghỉ yên bao giờ: khi th́ đốc suất các thợ, khi th́ đi biên các kho, hoặc coi tập binh hay là đắp lũy. Người cũng khéo bầy đặt nhiều đều khôn ngoan, lại thượng trí sáng dạ cùng chăm học hành; nên dầu người phải khốn khó từ thủa bé, những chạy đàng nọ nẻo kia, chẳng mấy khi được ngồi một nơi cho yên, chẳng kịp học hành là bao nhiêu, song cũng hay chữ nho lắm.

 

Khi nào thấy sự ǵ lạ, liền chăm học cho hiểu. Vốn vua chẳng biết chữ bên Tây, nên phải cậy các quan cắt nghiă mọi đều. Nhứt là các tờ đă vẽ h́nh tượng các khí giái [giới] và những cách đắp lũy xây thành, đóng tầu hay là các đều khác thể ấy, th́ vua chỉ xem những sự ấy lắm. Vả lại nhiều sách và địa đồ đă mua bên Tây, th́ người chăm học mà hiểu hầu hết.

 

Vua cũng là người gan đảm lắm, khéo bầy mưu kế mà bắt quân giặc. Người chẳng những là sai các quan đi đánh giặc, mà lại người đi cầm quân mà đánh nữa. Cho nên ai ai cũng nói rằng: “Ví bằng các quan có gan đảm và hay mưu kế như vua, th́ âu là “quân giặc chẳng đặng trận nào”.

 

Một ít đều trách nhà vua: Song cũng có kẻ chê vua rằng: chẳng được vững ḷng, v́ khi nào đặng thạnh sự th́ vui mừng quá; bằng khi phải khốn khó ít nhiều, hay là khi bị trận, th́ ra như ngă ḷng và sợ hăi quá. Vậy khi nào đă được trận th́ vui mừng quá lẽ, chẳng biết thừa dịp thắng trận mà theo bắt quân giặc và ép nó chịu phép cho xong. Có kẻ lại trách rằng: chẳng hay cầm giữ quân ḿnh cho đủ, nên bắt người ta nặng việc quan quá” (SKĐNV, t. 57-58).

 

Đoạn văn trên toát ra giọng kể chân chất của một người thành thực không xu nịnh; chỉ cần ít ḍng vắn tắt mà cho ta những thông tin đầy đủ và đáng tin cậy về vua Gia Long:

 

Như: chẳng kịp học hành là bao nhiêu, song cũng hay chữ nho lắm. Nhất là đoạn này:

 

“Vốn vua chẳng biết chữ bên Tây, nên phải cậy các quan cắt nghiă mọi đều. Nhứt là các tờ đă vẽ h́nh tượng các khí giái [giới] và những cách đắp lũy xây thành, đóng tầu hay là các đều khác thể ấy, th́ vua chỉ xem những sự ấy lắm. Vả lại nhiều sách và địa đồ đă mua bên Tây, th́ người chăm học mà hiểu hầu hết” là một chứng từ xác định việc vua tự học để đắp lũy xây thành và đóng tầu như thế nào. Ở đây, không có dấu vết của việc Bá Đa Lộc dịch sách tiếng Tây cho vua (v́ nếu có, th́ con người chân chất này, rất tôn sùng Bá Đa Lộc, đă kể lại rồi) mà chỉ nói là vua không biết tiếng Pháp nên cậy các quan cắt nghiă mọi đều. Trong số “các quan” ở đây, chắc chắn là có Trần Văn Học, chuyên gia xây dựng và linh mục Hồ Văn Nghị, đều là những người biết tiếng Pháp.

 

Những điều ghi trong Sử Kư Đại Nam Việt trên đây lại đồng quy với một nguồn thông tin khác, một chân dung khác, do linh mục Le Labousse viết về Gia Long dưới đây.

 

Chân dung vua Gia Long, theo linh mục Le Labousse

 

Pierre-Marie Le Labousse, sinh ngày 22/1/1759 ở Pluneret (Morbihan, Pháp), đi truyền giáo ngày 20/9/1787, có thể đă mất ở Chợ Mới, tỉnh Khánh Hoà, ngày 25/4/1801 (Launay III, t. 214). Ông là một trong những người phụ tá, thân cận nhất của giám mục Bá Đa Lộc, chính ông đă đưa thi thể vị giám mục từ Quy Nhơn về Gia Định và chính ông đă ghi lại lá chúc thư của vị giám mục. Ngoài sự tôn sùng đức giám mục bề trên của ông, như tất cả những người dưới quyền khi viết về “đức thánh cha”, ông cũng là người gần cận vua Gia Long và đưa ra nhiều thông tin đáng tin cậy, trong giai đoạn ông phục vụ hội truyền giáo ở Việt Nam.

 

Trong những thư từ ông viết được lưu trữ lại, có lá thư ngày 14/4/1800, không thấy đề tên người nhận, nội dung ghi lại chân dung vua Gia Long, như sau:

 

…” Ông hoàng này có lẽ là người sắc sảo nhất và sôi động nhất trong triều, nhưng… lời can gián của Đức Giám Mục Bá Đa Lộc cũng làm giảm bớt bầu máu nóng này. Ông không c̣n là ông vua chỉ cai trị bằng roi, kiếm và nói chuyện chết chóc nữa. Bây giờ là một vị đế vương, biết ḿnh là cha của thần dân, chứ không phải là nhà độc tài…

 

Ông cứng rắn nhưng không tàn ác; ông nghiêm trị nhưng theo đúng nguyên tắc pháp luật.

 

Ông có đủ tất cả các đức tính của lương tâm lẫn trí tuệ. Ông có ḷng tri ân, hào hiệp, tinh tế về điểm danh dự; anh hùng trong nghịch cảnh, chịu đựng thất bại với ḷng can đảm xứng đáng với vị hiền nhân [chỉ Bá Đa Lộc] đă rèn luyện ông.

 

Thời trẻ, ông có say mê rượu chè, nhưng từ khi ông thấy ḿnh phải cầm đầu sự nghiệp, ông đă hoàn toàn sửa ḿnh không nhấp một hớp rượu… Cũng như ông đă ra những huấn lệnh rất nghiêm khắc cấm say rượu và ông quyết đoán như vậy…

 

… Những đức trí tuệ không làm giảm đức của ḷng thương yêu. Linh lợi, sâu sắc, thẳng thắn, nh́n thoáng qua là nắm bắt được trọng tâm của những sự thể phức tạp nhất. Có trí nhớ hơn người khiến ông ghi nhớ tất cả, cũng như dễ dàng thiên bẩm bắt chước được tất cả.

 

Những công binh xưởng, và những bến tầu chiến của ông làm cho người ngoại quốc thán phục và con mắt cả châu Âu sẽ khen ngợi nếu châu Âu đến đây chứng kiến.

 

Một bên, người ta thấy súng ống, đại bác đủ kiểu, pièces de campagnie (?), giá súng đại bác (affuts), đạn đại bác, vv… mà phần lớn chỉ thua kiểu mẫu đẹp nhất.

 

Một bên là thuyền tầu không đếm xuể, những chiến hạm lớn lao, đủ loại h́nh thái, kiên cố đến độ làm cho ta kính nể.

 

Tất cả đều là sản phẩm của ông hoàng này, vừa hoạt động vừa khéo léo, luôn có các sĩ quan Pháp giúp, bởi v́ kỹ thuật và nghề nghiệp ở đây c̣n kém tinh xảo rất xa Âu châu…

 

… Ông có kiến thức về tất cả và có năng khiếu làm tất cả…

 

Ông cực kỳ siêng năng. Ban đêm ông ngủ ít, đọc nhiều. Ông có tính hiếu kỳ và thích học hỏi. Trong cung của ông có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Ông thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những giải thích bằng chữ Pháp v́ ông không đọc được. Mỗi ngày, ông có một bước tiến mới. Ông là vị vua lớn nhất tới nay chưa bao giờ có ở nước Nam. Đức Giám Mục Bá Đa Lộc và ông hoàng này là hai người xuất chúng, mà sử sách của triều đ́nh sẽ lưu danh thiên cổ…” (Arch. Miss. Étrang. vol.746, p. 869. Recueil de l’Evêché de Saigon, t. 131-135, in lại trong Taboulet I, t. 268)

 

Bức chân dung Gia long của Le Labousse có những điểm đồng quy với Sử Kư Đại Nam Việt về tính t́nh vua Gia Long: sự sáng dạ, dễ bắt chước, ham học mà chúng tôi đă in đậm ở trên. Ngoài ra, về những tài liệu học hỏi, vị linh mục này cũng ghi gần giống như SKĐNV: “Trong cung của ông có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Ông thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những giải thích bằng chữ Pháp v́ ông không đọc được”. Như vậy, Le Labousse và tác giả SKĐNV, đều không nói ǵ đến việc Bá Đa Lộc dịch sách chiến lược và xây dựng thành đài cho Nguyễn Ánh bởi nếu có th́ nhà vua đă không phải giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước và chắc chắn Le Labousse là người đầu tiên phải biết và ông đă viết ra rồi.

 

Về sự mô tả các công binh xưởng của Nguyễn Vương, Le Labousse cho một cái nh́n tổng quát và sơ sài, nếu muốn biết rơ hơn, chúng ta có thể đọc Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức. Nói chung không khí phồn vinh và hiện đại của thành Gia Định lúc bấy giờ với nhiều thuyền bè ngoại quốc ra vào đều được những người ngoại quốc ghi lại, sau đây là cái nh́n của Shihơken Seishi, người Nhật.

 

Nguyễn Vương và thành Gia Định, dưới mắt Shihơken Seishi

 

Trong sự t́m kiếm các bài viết về Gia Long thời ấy, chúng tôi may mắn thấy một tác giả nữa, cũng đáng tin cậy, đó là Shihơken Seishi, người Nhật. Ông đă đến Gia Định trong khoảng 1794-1795, tức là sau khi Barrow đến Đà Nẵng vài năm. Tầu của ông bị băo, đắm, thuỷ thủ phiêu bạt đến Gia Định, được vua Gia Long, lúc đó c̣n là Nguyễn Vương giúp, cho phương tiện trở về Nhật. Cuốn tiểu thuyết của ông nói về chuyến đi này nhưng có một đoạn tả phong cảnh xung quanh Sài G̣n, tả thành Gia Định, và buổi ra mắt Nguyễn Vương ở kinh thành.

 

Tác phẩm Nampyơki [Đắm tầu ở Nam Hải] của Shihơken Seishi, do bà Muramatsu Gaspardone dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu và chú giải, in trong Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême-Orient (BEFEO), 1933, t. 35-120.

 

Shihơken Seishi đi tầu Hinoshita, bị đắm trong tháng 9/1794, phiêu bạt đến tháng giêng năm 1796 mới trở về Nhật. Cuốn sách xuất hiện lần đầu ngày 16/2-16/3/1798 tại Kyoto, do nhà Zeniya Chơbẽ in. Sau bị cấm, v́ thời điểm đó, Nhật vẫn c̣n bế quan tỏa cảng, cấm dân Nhật ra ngoại quốc, mà cuốn sách tả chuyện viễn du.

 

Chúng tôi dịch hai trích đoạn liên quan đến thành Gia Định và Nguyễn Vương. Theo lời tác giả, ta có thể đoán sự việc xẩy ra vào khoảng sau tháng 9-10/1794, lúc hoàng tử Cảnh không c̣n trấn Diên Khánh mà đă về Gia Định và Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định để Vơ Tánh trấn thủ Diên Khánh. Đến tháng 11-12/1794, Trần Quang Diệu lại tấn công Diên Khánh, và tháng 3-5/1975 Nguyễn Vương hành quân cứu Diên Khánh. Vậy thời điểm kể trong tiểu thuyết này là từ khoảng tháng 10/1794 đến tháng 3/ 1795.

 

Phong cảnh xung quanh Sài G̣n

 

“Có núi cao đến tận chân mây, nhiều cây và một con sông nước trong. Biển bao bọc ba phiá. Những tầu buôn Hoà Lan, Quảng Đông, Macao, và những nơi khác, đỗ đầy trong cảng sông. Đó là nơi buôn bán sầm uất. Nhờ những làng chài lưới ven biển, thợ săn trên núi nên chợ búa đầy cá và muông thú, đầy dẫy cá đồng; trong số cá biển, loại akaei nhiều nhất. Quanh năm đủ thứ rau rợ, lại c̣n hoa quả lớn nhỏ, thêm vào thức ăn. Có thứ tre, khoảng cách giữa hai đốt dài lạ lùng. Có cả vàng, bạc. Đồng th́ đến từ Quảng Đông. Một năm ba mùa gặt luá, đậu và đậu ván cũng thế. Người nghèo không biết đói là ǵ. Con người tử tế và nhân từ. Vua trị v́ với ḷng tốt và dân chúng không khổ. Nhưng nước này ở cuối Nam Hải, nơi có nhiều đảo quốc, lúc nào cũng phải đề pḥng xâm lược. Không ngừng vận dụng khí giới. Tháng thứ tư năm Cảnh Hưng thứ 54 [thực ra là năm Cảnh Hưng thứ 34, 1773, Tây Sơn nổi lên], xứ Tây Sơn nổi lên chống kinh đô [Gia Định], vua đă gửi quân chinh phạt, nhưng chưa biết thắng bại thế nào. Người ta náo động sửa soạn chiến thuyền, phần đông đă khởi hành rồi…” (BEFEO, 1933, t. 57-58).

 

Kinh thành Gia Định và vua Gia Long, khoảng 1794- 1795

 

“… Chẳng bao lâu đă đến cửa chính của hoàng cung, chúng tôi xuống kiệu đi bộ, tới ṿng thành thứ nh́, có hai lớp toà thành kiên cố cho đám cận thần ở. Trên mỗi cửa, có một loại bảng hiệu h́nh bán nguyệt (cái đó gọi là dahaimot. Người ta dùng để chỉ định ngôi thứ của mỗi nhà). Từ cửa chính, chúng tôi đă đi và ghẹo khoảng gần 3 chơ [330m] trong khi đất cao lên độ 1 chơ [109m10]. Ở cửa vào ṿng thành thứ nh́, có một đài thám thính cao 40 ken [72m80] Một viên quan vơ thường lên quan sát về phiá biển, đó là bộ phận pḥng vệ. Các quan thay phiên nhau trực mỗi người nửa ngày. Phía tay phải có ba cái nhà vuông. Đó là pḥng bào chế y dược, trong có nhiều người đang cắt, giă thuốc nam. Cái cối th́ cũng y như cối của ta [Nhật]. Xa hơn chút nữa có cửa hàng bán thuốc và sân rộng để phơi thuốc. Tất cả các loại dược pḥng đều được cắt miếng to tṛn hoặc chữ nhật.

 

Đi khỏi nơi này, chúng tôi thấy cung điện chính hiện ra ở đằng xa. Nền lát đá đẽo và trần rất cao. Có hai hàng ghế, nằm dọc theo chiều dài gần một chơ [109 m10]. Trần và tường sơn đỏ, có chỗ nạm vàng hoặc bạc. Kỳ quan nầy đập vào mắt chúng tôi. Các ghế ngồi đều tay bành và tạc tượng với những h́nh khắc mầu, cũng khảm vàng, bạc. Người ta bảo đây là ghế của các quan trấn thủ ở các miền. Ở miền Nam, từ quan lớn đến dân đen, tất cả mọi người đều ngồi ghế nói chuyện, hoặc ăn cơm. Theo đúng nghi lễ, người ta đứng, hoặc đi đi lại lại từ người này đến người khác, chào th́ nghiêng ḿnh ba lần, không cúi rạp thơng tay [như người Nhật]. Hành lang này dài độ 50 ken [91m]. Đất lại cao lên nữa. Ba ken [5m46] trước cửa cung, có 14 ông quan.

 

Một lúc sau, thấy vua hiện ra trên ghế bành đỏ toàn bộ khảm vàng bạc và giát ngọc ở giữa chính điện. Hai hoàng tử ngồi hai bên [một người là Đông cung Cảnh, người kia chắc là Hy]. Vua trạc 40 tuổi (…), mặc áo gấm đen thêu rua với quần gấm đen và mang đai lưng. Một người hầu cận cầm kiếm của vua đứng sau lưng. Hoàng Thượng đội khăn lụa quấn năm ṿng, đầu chỉ để hở búi tóc cài lược vàng. Hai hoàng tử cũng mặc áo đen và cài lược vàng. Các quan ngồi gần vua, đều mặc áo lụa xanh, vàng, đỏ hay trắng, mang lược đồi mồi, sừng trâu hay tê giác. Y phục long trọng, không ai mặc đồ đen, trừ vua và hoàng tử. Thái tử độ trạc hai mươi tuổi, rất đẹp và sang trọng không ai sánh nổi. Trong tất cả các nước mà tôi ghé qua trên đường trở về [Nhật], chúng tôi chưa thấy ai đẹp như ông. Sau cùng, người thông ngôn -xứ này người ta học thuyết Khổng Tử, nhưng lại không hiểu tiếng Tàu; thông ngôn là người Nam Kinh, đă làm việc lâu năm tại… (bỏ trống), rồi từ đó sang An Nam- đến tâu vua, cúi chào ba lần, và nói với vua về chiếc tầu Hinoshita của chúng tôi bị đắm. Nhà vua bảo sẽ giúp. Chúng tôi khẩn cầu ngài cho về xứ. Hoàng thượng trả lời qua người thông ngôn, bảo được, nhưng phải đợi vài ngày, và ngay hôm nay, ngài sẽ cho thầy thuốc đến thăm những người bị bệnh. Chúng tôi cảm ơn ngài và được các quan vơ tháp tùng trở ra, chúng tôi lên kiệu trở về chỗ ở vào giờ ngọ [12 giờ trưa] (BEFEO, 1933, t. 60-62).

 

Những điều Shihơken Seishi viết về thành Gia Định năm 1794-1795 rất đáng quư, bởi có thể ông là người ngoại quốc đầu tiên đă mô tả kinh thành này, sau khi xây xong vài năm. Những điều ông viết rất hữu ích cho sự khảo cứu thành Gia Định, mà trong hầu hết các văn bản của Pháp đều cho rằng Puymanel và Lebrun là “tác giả”, rồi một số người Việt phụ hoạ. Chúng tôi sẽ trở về vấn đề này.

 

Chân dung sau cùng về Gia Long đề cập đến ở đây là của Barrow.

 

Chân dung vua Gia Long, theo Barrow

 

Barrow tuy chưa gặp, nhưng tả Nguyễn Vương rất kỹ, ông đă dựa vào Barisy, và hai người Anh đă sống ở Sài G̣n để viết. Có lẽ chưa có chân dung nào rơ ràng như thế. Barrow viết:

 

“Từ năm 1790, năm Gia Long về lại Nam kỳ, tới 1800, chỉ có hai năm không đánh nhau là 1797 và 1798, cũng chính là hai năm quan trọng nhất dưới triều đại của ông, cho tới nay đầy băo tố. Dưới sự trợ lực của giám mục Adran, mà ông tham vấn như một người thông bác, ông đă làm hết sức để đất nước tiến triển: lập xưởng làm thuốc súng ở Fen-tan [Hội An?] (thuộc đất Chàm trên bản đồ), mở mang đường xá, trồng cây, trồng mía, trồng trầu cau đă bị chiến tranh tàn phá, khuyến khích việc nuôi tằm, dệt lụa, lập xưởng điều chế nhựa thông, hắc ín; chế tạo hàng ngh́n súng hoả mai, khai mỏ sắt và xây ḷ nung. Lập quân đội chính quy và lập trường vơ bị, với các huấn luyện viên người Âu luyện tập cho các sĩ quan cách bắn và phóng pháo. Adran c̣n dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng trong quân đội.

 

Trong hai năm này, nhà vua đă cho đóng ít nhất 300 chiến thuyền có đại bác hoặc ghe chèo, 5 thuyền 3 cột buồm, một chiến hạm theo lối Tây phương. Ông sáng chế ra một chiến thuật mới cho thủy binh và dạy sĩ quan hải quân biết dùng dấu hiệu. Một trong những người Anh mà tôi đă nói ở trên, cho biết đă nh́n thấy ở Sài G̣n, năm 1800, một hạm đội 1200 thuyền buồm do chính ông điều khiển, nhổ neo và tiến trên sông với một trật tự thật đẹp, chia làm ba đoàn, thẳng hàng tiếp chiến, mở, đóng hàng ngũ và thi hành tất cả những thao tác theo đúng hiệu lệnh.

 

Trong khoảng thời b́nh này ông c̣n sửa đổi cả luật pháp nữa, và chắc là có bàn tay giám mục giúp sức. Ông bỏ những h́nh phạt tàn ác vẫn được áp dụng cho tới đó… ông lập trường công, bắt trẻ con từ 4 tuổi trở lên phải đi học. Ông xác định hệ thống lăi xuất hợp pháp cho ngành thương mại, xây cầu trên sông, làm cầu phao, đặt phao nổi trên biển báo hiệu những nơi nguy hiểm có đá ngầm, thanh tra các hải cảng và những vịnh chính, gửi nhiều phái viên về các rừng núi miền Tây nơi có người Mèo và người Lào sinh sống trong t́nh trạng bán khai để dẫn họ về với đời sống văn minh hơn, những người miền núi này mà người Tầu vẫn gọi một cách hạ thấp là “người có đuôi”, mặc dầu, có thể, tiền nhân của họ ngày trước đă xây dựng nên nền văn minh của đế quốc hiện thời.

 

Vị vua này, hết sức chuyên tâm về mỹ thuật và công nghệ, ông sánh ngang hàng với Đại đế Pierre của nước Nga, nhưng không tàn bạo kích động như thế, bởi cái gương đặc thù của ông, bởi nghị lực của dân tộc ông, và giống như Alfred bất tử của chúng ta [Alfred đại đế của Anh (871-899)] ông không ngần ngại làm bất cứ việc ǵ để hồi sinh đất nước.

 

Để có một ư niệm về hoạt động và thiên tài của ông, chỉ cần xem những t́nh huống mà ông đă trải qua: mới đầu chỉ có một chiến hạm, mà trong ṿng không đến 10 năm, đă có một hạm đội 1200 chiến thuyền, trong đó có 3 tầu kiến trúc Tây phương, khoảng 20 thuyền buồm lớn theo kiểu Trung quốc hoàn toàn trang bị vơ khí, chỗ c̣n lại là tầu chuyên chở, trang bị đại bác.

 

Gia Long được miêu tả như một người lính hoàn hảo, trong nghiă mạnh mẽ nhất. Người ta kể ông thích là tướng quân hơn đế vương. Người ta tả ông can đảm, không thô bạo, lắm mưu. Những nhận thức của ông thường đúng; khó khăn không chán nản, cản trở không lùi bước; thận trọng trong mỗi quyết định, mau lẹ và rắn rỏi khi thực hành điều đă định, luôn luôn ở vị trí chủ chốt trong trận, đi tiên phong trước ba quân. Tính t́nh vui vẻ dễ chịu, nhă nhặn, lắng nghe quan quân dưới quyền, tránh ban ân huệ riêng tư; có trí nhớ đặc biệt, ông nhớ hầu hết tên của lính trong quân: ông thích thú nói chuyện với họ, nhắc họ hành động và chiến công của họ, hỏi thăm vợ con họ, hỏi đă cho con nhỏ đi học đều chưa, hỏi chúng muốn làm ǵ khi lớn, ông biết hết những chi tiết nhỏ nhất về gia đ́nh họ.

 

Đối với người ngoại quốc, ông rất tử tế và ân cần. Ông quư mến những sĩ quan Pháp giúp ông: đối xử với họ lịch sự, thân t́nh và rất tốt. Không bao giờ ông đi săn hay dự cuộc vui nào mà không mời một người trong bọn họ tham dự. Ông tuyên bố công khai ḷng kính trọng của ông đối với các tôn chỉ của đạo thiên chúa, ông dung đạo chúa như các đạo khác trong nước: ông cực kỳ tôn kính đạo nghiă gia đ́nh như Khổng Tử dạy trong kinh sách; đứng trước mẹ, bà hăy c̣n sống, ông tôn kính như đứa bé đứng trước mặt thầy. Ông thông thuộc những tác giả lớn của Trung Hoa. Nhờ giám mục Adran dịch một số mục từ trong Bách Khoa toàn thư sang chữ Hán, ông biết được khoa học và nghệ thuật Tây phương, đặc biệt ông chú trọng đến thuật hàng hải và thuật đóng tầu. Người ta đồn, điều này không được phép nói ra, rằng để kết nối lư thuyết kiến trúc tầu với thực hành, ông đă mua một chiến hạm Bồ, rồi tháo ra từng mảnh, từng tấm ván một, bắt chước đúng kích thước đó mà làm lại, cho đến khi ông thay thế tất cả các bộ phận bằng những mảnh mới làm, để hoàn thành một chiếc tầu mới.

 

Nghị lực trí thức của ông ngang bằng với khí phách và hoạt động thể xác. Chính ông chủ động sự bùng lên mọi mặt của đất nước, chính ông quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc, không có ǵ thực hiện không có ǵ chấp hành mà không hỏi ư kiến và nhận lệnh của ông. Không ai chế tạo một bộ phận nào mà không hỏi ông; không ai lắp một khẩu đại bác nào mà không có lệnh của ông. Không những ông trông coi từng chi tiết nhỏ, mà c̣n phải làm trước mặt ông.

 

Để điều khiển tất cả công việc của ḿnh một cách vững vàng, ông đặt ra một thời biểu sống cố định và kỷ luật. Sáng dậy 6 giờ, tắm nước lạnh; 7 giờ, các quan vào chầu, mở tất cả công văn đến từ hôm qua, ông truyền lệnh cho các thư kư ghi chép, sau đó ông ra xưởng tầu thủy, duyệt lại tất cả những ǵ đă làm xong lúc ông vắng mặt, rồi ông tự chèo thuyền đi khắp bến cảng, kiểm soát các chiến hạm, đặc biệt chú ư đến súng đại bác; ông đi thăm ḷ đúc súng, đúc đủ loại đại bác ngay tại công binh xưởng.

 

Đến 12 hay một giờ trưa, ông ăn cơm ở xưởng đóng tầu. Cơm với cá muối. Hai giờ ông về cung ngủ tới 5 giờ; sau đó ông tiếp các quan vơ thuỷ bộ, các quan toà, hay quan cai trị, ông đồng ư, hoặc băi bỏ hoặc sửa chữa những kiến nghị của mọi người. Thường th́ công việc triều chính kéo dài đến nửa đêm, ông mới trở về pḥng làm việc, ghi nốt và chú thích thêm cho những việc ngày hôm nay; rồi ông ăn một bữa cơm nhẹ, gặp gia đ́nh độ một giờ, đến 2, 3 giờ sáng ông mới đi ngủ. Ông chỉ ngủ 6 giờ một ngày.

 

Ông không uống rượu, ăn ít thịt, cá, cơm, rau, hoa quả, chút bánh trái và uống trà, đó là tất cả đồ ăn của ông. Như một vị ḍng dơi vua Minh bên Tầu, mà ông công nhận, ông ăn cơm một ḿnh, không cho phép vợ con ngồi cùng mâm. Vẫn nguyên tắc kiêu kỳ này, ông không tiếp những người Anh đến chào năm 1799, lấy cớ lúc này t́nh h́nh lộn xộn không cho phép sửa soạn tiếp đón theo đúng nghi lễ. Ta sẽ lầm nếu phê b́nh sự từ chối này như [thái độ của] một ông vua nước Tầu; nhưng với ông, chẳng v́ hiềm tị mà ông không làm thoả măn ḷng hiếu kỳ của người ngoại quốc. Trái lại, họ có thể tự do đến thăm xưởng đóng tầu, thăm những tháp canh, những thành đồn. Ông tiếp họ dễ dàng trong tư thế tướng quân. Nhưng với tư thế đế vương, ông không tiếp.

 

Người ta bảo ông dáng tầm thước, nét mặt đều đặn dễ coi. Da hung hung nâu đỏ v́ giăi dầu nắng gió và hiện nay (1806) ông độ khoảng 50 tuổi.

 

Ông chỉ biết đến người Anh qua tên gọi; nhưng nghe nói rằng, trong mọi trường hợp, ông luôn luôn tỏ dấu rất kính trọng dân tộc này; và nhất là nếu đó lại là những điều do người Pháp mách lại [ư nói do Barisy], th́ càng đáng tin. Điều chắc chắn rằng ông luôn luôn tỏ những ư định tốt đối với nước Anh. Ông đă tuyên bố qua một đạo dụ, rằng tất cả những hạm đội của chúng ta [Anh] đều được miễn thuế vào các hải cảng lớn, nhỏ.

 

Một lần, sự rộng lượng của vua đă rơ thực ngời sáng: Người thuyền trưởng và viên đệ nhất sĩ quan một tầu buôn Anh, cả hai đều bị chết, khi tầu đi từ Quảng Đông tới Sài G̣n. Để đề pḥng cướp bóc, gian lận, có thể gây thiệt hại cho chủ tầu, v́ hai người chỉ huy đều chết cả; vua bèn gửi thuyền trưởng Barisy với một đội quân cấm vệ, đi hộ vệ chiếc tầu Anh yên lành trở lại Quảng Đông hay Macao, để trả cho chủ hay viên đại lư đang c̣n ở đó (…).

 

Người ta nói vợ ông là một bà hoàng đạo đức gương mẫu, có một tâm hồn cương quyết đă nâng đỡ và an ủi ông trong những thất bại chua cay nhất. Họ có 7 người con. Hai con trai đầu giao cho Adran dạy dỗ. Đông cung, ông hoàng trẻ, mà giám mục đưa sang Paris, chết sau thầy ít lâu. Tính t́nh hiền lành, sốt sắng và bặt thiệp, thiên tư đạo đức; những đức tính hợp với một đời sống yên lành của một tư nhân, hơn là với địa vị cao cả đă dành cho từ lúc sinh ra. Người em, thừa hưởng sự kế vị, là một quân nhân ưu tú. Ba năm đi lính, năm năm làm hạ sĩ (caporal) rồi lên trung sĩ (thầy đội, sergent), và đă phụng sự đắc lực trong những năm chiến tranh. Năm 1787, được lên cấp cai đội (lieutenant-colonel); và năm sau, được thăng trấn thủ một vùng ven biển. Năm 1800, được thăng tướng (géneral) cai quản một dinh quân 35.000 người. Chính trong năm này, ông đạt chiến thắng quan trọng nhất đối với quân Bắc Hà, họ để lại trận 9.000 người chết và bắt được tất cả voi và đại bác.

 

Đây là sức mạnh quân sự của vua Nam Hà, năm 1800, theo đại uư Barisy:

 

Bộ binh

 

24 đội kỵ binh (cưỡi trâu)… 6.000 người

 

16 đội voi (200 con)… 8.000

 

30 đội pháo binh… 15.000

 

25 chi đoàn 1.200 người trang bị vũ khí Âu châu… 30.000

 

Bộ binh trang bị kiếm và súng cổ trong nước… 42.000

 

Vệ binh tập luyện theo lối Âu châu…….12.000

 

Tổng cộng bộ binh….. 113.000 người

 

Thuỷ binh

 

Lính thợ trong xưởng đóng tầu….. 8.000

 

Lính thuỷ, mộ hay nối dơi (cha, anh), trên những chiến hạm đậu ở cảng… 8.000

 

Lính biệt phái sang những tầu chiến kiểu Tây phương…1.200

 

Lính biệt phái thuyền buồm (jonque)… 1.600

 

Lính biệt phái 100 thuyền chiến chèo (galère)… 8.000

 

Tổng cộng thủy binh….26.800

 

Tổng cộng toàn bộ: 139.800 quân

 

(Barrow II, t. 224-238).

 

Sau đây là một số nhận xét về chân dung vua Gia Long do Barrow khắc họa:

 

1- Về bản kê khai sức mạnh quân sự của Gia Long do Barisy cung cấp, chúng tôi sẽ trở lại trong chương sau, viết về tác phẩm của Montyon, v́ Montyon ghi chép cặn kẽ về quân đội Gia Long hơn Barrow nhiều. Về đội kỵ binh cưỡi trâu, bản của Montyon ghi thêm: “Trâu thay ngựa trong chiến trận xưa, nay đă bỏ”. Taboulet ghi lời giải thích của tướng Lemonnier: Đội kỵ binh cưỡi trâu có lẽ là một thứ kỵ binh có nhiệm vụ an ninh gần. Không thấy nói đến các hành động sốc của đội quân này. Cũng không có chiến tích ǵ, nên đă bị băi bỏ ngay (Taboulet, I, t. 257, note 1).

 

2- Về bà Chính hậu, tức Thừa thiên Cao hoàng hậu, là con gái thái bảo Tống Phước Khuông, mẹ họ Lê, lấy Nguyễn Ánh năm 1778, hơn Ánh 2 tuổi. Liệt truyện ghi: “Sinh được 2 con trai, con cả là Chiêu, chết sớm, con thứ là Cảnh”, “mỗi khi vua đi đánh giặc, Hậu thường đi theo” “tự dệt vải mỏng, dầy cho quân lính”, “phần nhiều khuyên chăm chính sự” “giúp vua trong lúc gian nan” (…) Trước kia trong lúc xiêu giạt, phụng dưỡng Hoàng Thái hậu, nếm trải mọi mùi gian nan hiểm trở, thường thân hành dệt cửi, chính tay may lấy áo trận, để cấp cho quân sĩ. Một hôm thuyền đi gặp giặc, vua đốc quân cố sức đánh, hậu cũng cầm dùi đánh trống, quân lính tranh nhau phấn khởi thành ra đánh được.” Bà mất ngày 22/2/1814 (3/2/Ất Mùi) (LT, 2, t. 25-27-32) .

 

Những điều Barrow ghi về bà đúng cả, chỉ có 7 người con là nhầm với con của các bà phi khác, có lẽ do bà trông nom. Minh Mạng cũng là bà nuôi. Hoàng tử Hy, con thứ nh́ của Nguyễn Vương, không biết tên mẹ. Hoàng tử Tuấn, mất sớm, mẹ là Chiêu Dương. Đến Minh Mạng, thứ tư, là con Thuận Thiên Cao hoàng hậu, con gái Thọ Quốc Công Trần Hưng Đạt…

 

3- Về hai hoàng tử Cảnh và Hy, Barrow ghi tính t́nh khá đúng, trừ ông không biết việc hoàng tử Hy mất sau anh 2 tháng.

 

4- Việc Barrow tưởng vua Gia Long miễn thuế cho các tầu Anh, chắc không đúng, Thực Lục ghi 2 lần người Anh đến, tháng 4/1798: “Người Hồng Mao đến hiến phương vật” (TL, I, t. 366), không nói thêm ǵ. Và tháng 5/1801: “Nước Hồng Mao sai người đem thư đến dâng phương vật mà xin miễn thuế cảng cho thuyền buôn. Vua hạ lênh cho lưu trấn Gia Định viết thư trả lời, đánh thuế theo như thể lệ thuyền buôn Quảng Đông“ (TL, I, t. 438)].

 

5- Việc Adran dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng trong quân đội, không biết Barrow lấy ở đâu, v́ không thấy nơi nào nói đến. Sau đó, Maybon dùng thông tin này của ông, và những người khác chép theo.

 

C̣n câu “giám mục Adran dịch một số mục từ trong Bách Khoa toàn thư sang chữ Hán” có thể đă rút ra trong chúc thư của Bá Đa Lộc do Le Labousse viết: “Đức Cha tặng vua một hộp đựng thuốc bằng vàng nạm kim cương, điểm một viên kim cương trạm công phu, kính thiên văn và kính viễn vọng của người, bốn quyển Bách Khoa Toàn Thư…” (Launay, III, t. 384), đây là nơi duy nhất nói đến Bách Khoa Toàn Thư, chính Le Labousse cũng không nói ǵ đến việc dịch sách, mà Sử Kư Đại Nam Việt cũng không. Nhưng câu này của Barrow cũng sẽ được Faure, Maybon và những người tôn vinh Bá Đa Lộc chép lại và phóng đại lên sau này.

 

Xin nói thêm: hộp thuốc lá bằng vàng nạm kim cương, theo Faure, là vua Louis XVI thưởng cho vị giám mục, sau khi kư hiệp ước 28/11/1787 với Montmorin. Nguyễn Vương không nhận các món quà của Bá Đa Lộc. Chúng tôi sẽ trở lại việc này.

 

6- Việc một người Anh nh́n thấy năm 1800, Nguyễn Vương có hạm đội 1200 chiến thuyền, trong đó có 3 tầu kiến trúc Tây phương, chắc không sai, chúng ta chỉ cần lướt qua con số thuyền và tầu chiến các kiểu, ghi trong Thực Lục mà Nguyễn Ánh cho đóng từ tháng 4/1778 đến năm 1800, th́ đủ biết, dù những thuyền, tầu này bị đắm, bị đốt, bị hư hại, số c̣n lại vẫn rất cao.

 

Qua những nhân chứng trên đây, chúng ta đă có một h́nh ảnh khá đậm nét về vua Gia Long, qua sự đúc kết những lời của các tác giả hợp lại:

 

15 tuổi, Nguyễn Ánh đă làm tướng, xông vào đánh nhau cùng với lính. Khôn ngoan và can đảm. Thông minh, nh́n qua mọi sự là biết ngay, chăm việc: “khi th́ đốc suất các thợ, khi th́ đi biên các kho, hoặc coi tập binh hay đắp lũy”. Tự học, biết chữ nho, không biết tiếng Pháp. Xem các họa đồ về việc đắp lũy, xây thành, qua những sách mua ở bên Tây, rồi bắt chước làm theo. Nhược điểm: được trận th́ mừng thái quá, mà thua th́ dễ nản. (SKĐNV)

 

Linh lợi, sâu sắc, thẳng thắn, nh́n thoáng qua là nắm bắt được trọng tâm của những sự thể phức tạp nhất. Có trí nhớ hơn người, ghi nhớ tất cả, dễ dàng thiên bẩm bắt chước được tất cả. Những công binh xưởng, và những bến tầu chiến của Nguyễn Vương làm cho người ngoại quốc thán phục. Thuyền tầu đếm không xuể. Những chiến hạm lớn lao, đủ loại h́nh thái, kiên cố. Tất cả đều là sản phẩm của ông hoàng này (…) Ông cực kỳ siêng năng. Ban đêm ngủ ít, đọc nhiều. Có tính hiếu kỳ và thích học hỏi. Trong cung có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Ông thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những giải thích bằng chữ Pháp v́ ông không đọc được. (Le Labousse)

 

Gia Định có những tầu buôn Hoà Lan, Quảng Đông, Macao, và những nơi khác, đỗ đầy trong cảng sông. Đó là nơi buôn bán sầm uất. (Shihơken Seishi)

 

Chính Nguyễn Vương quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc, không có ǵ thực hiện không có ǵ chấp hành mà không hỏi ư kiến và nhận lệnh của ông. Không ai chế tạo một bộ phận nào mà không hỏi ông; không ai lắp một khẩu đại bác nào mà không có lệnh của ông. (Barrow)

 

Kết luận

 

Barrow là người không gặp Gia Long, nhưng bức chân dung Gia Long do ông khắc hoạ rất đầy đủ và có nhiều điểm giống với những điều do Le Labousse và Sử Kư Đại Nam Việt viết. Barrow cho biết ông dựa vào bản thảo Hồi kư Barisy. Mà Barisy, qua vài lá thư để lại, là người tính t́nh hơi ba hoa nhưng thực ḷng, chính ông đă làm bản thống kê lực lượng quân đội Nguyễn Ánh trên đây và những điều về cuộc sống hàng ngày của nhà vua chỉ có thể do Barisy cung cấp, bởi v́ Barisy là người có dịp gần gụi vua và đông cung.

 

Tuy nhiên có một điểm đáng chú ư sau đây:

 

Barisy, là người cùng thời và là bạn đồng hành của Puymanel, Dayot, Vannier, Chaigneau… nhưng ông không hề nói đến việc Puymanel “xây” các thành Gia Định và Diên Khánh, hay việc Dayot làm “tổng tư lệnh hải quân” mặc dù Barisy có mặt trong những thời điểm đó.

 

Các học giả Pháp không nhắc đến Hồi kư Barisy. Cadière cho công bố hai bức thư dài của Barisy viết về trận Thị Nại và trận Phú Xuân, v́ trong đó nói đến những người Pháp tham dự.

 

Taboulet cho biết Hồi kư Barisy đă thất lạc (Taboulet, I, t. 256).

 

Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Hồi kư Barisy thật sự thất lạc hay chính giới nghiên cứu Pháp thấy nó không phù hợp với những điều mà họ muốn, nên đă không dùng hoặc coi như thất lạc.

 

Khi trích dẫn Barrow để đăng trong sách của ông, Taboulet đă bỏ đoạn Barrow viết về kỹ nghệ đóng tầu thuyền ở Việt Nam và khi ông trích đoạn viết về chân dung Gia Long, ông khôn ngoan cắt làm hai bài, để loại trừ những ḍng Barrow xác định chính Nguyễn Vương quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy trong tất cả mọi công việc…

 

Phần Maybon, để đả kích Barrow, trong cuốn Histoire moderne du pays d’Annam và trong bài Introduction in trong La Relation de La Bissachère (chúng tôi sẽ giới thiệu sau), Maybon đưa ra một vài chi tiết mà ông cho là sai của Barrow về sự xung đột giữa Bá Đa Lộc và de Conway tại Pondichéry; và việc văn bản hiệp ước cầu viện 28/11/1787, do Barrow in trong sách, khác với văn bản “chính thức”, để ông kết luận rằng cuốn sách của Barrow đưa toàn những thông tin sai lầm vô căn cứ mà lại được nhiều người chép lại.

 

Ngoài việc Barrow vẽ một chân dung Gia Long và sự xây dựng Nam Hà, không phù hợp với những điều mà họ mong muốn, có lẽ c̣n một lư do nữa khiến Maybon loại bỏ Barrow, bởi trong sự tranh giành thuộc địa mà nước Anh là kẻ thù không đội trời chung của nước Pháp, Barrow đă vạch rơ những ư đồ của Bá Đa Lộc và của nước Pháp thực dân.

 

Thụy Khuê

 

Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-8/

 

Chương 7

 

Montyon và cuốn Thuyết tŕnh thống kê về Bắc Hà

 

Montyon1

 

 

 

Trong chương 6, chúng tôi đă tŕnh bày Chân dung vua Gia Long qua bốn ng̣i bút khác nhau của tác giả Sử Kư Đại Nam Việt, của linh mục Le Labousse phụ tá giám mục Bá Đa Lộc, của Shihơken Seishi, thủy thủ Nhật bị đắm tàu, đến Gia Định cuối năm 1794 và của John Barrow, nhà ngoại giao Anh. Các tác giả này đă khắc họa nên những nét chính của vua Gia Long, mà cho tới bây giờ chúng ta chưa được biết.

 

Chương này, xin giới thiệu cuốn sách Exposé statistique du Tunkin… của Montyon, học giả Pháp, xuất hiện gần như cùng thời với sách của Barrow và cũng bị Maybon hết sức chê bai, khi ông cho in cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de M. de la Bissachère (Kư sự về Bắc Hà và Nam Hà của ông de La Bissachère) (sẽ dẫn là Kư sự Bissachère), là thủy tổ sự xuyên tạc lịch sử, mà sau này người ta thường dựa vào để viết lịch sử cận đại Pháp-Việt. Nhưng trước khi Maybon cho in thành sách, th́ Kư sự Bissachère đă xuất hiện dưới hai h́nh thức, từ hơn 100 năm trước:

 

- Năm 1810, Sainte-Croix đă in Kư sự Bissachère nhưng không đề tên tác giả, trong cuốn sách của ḿnh tựa đề Voyage commercial et politique aux Indes orientales… (Hành tŕnh thương mại và chính trị ở Đông Ấn…).

 

- Năm 1811 ở Luân Đôn và 1812 ở Paris, nam tước de Montyon viết cuốn Exposé statistique du Tunkin… sur la Relation de M. de la Bissachère, missionnaire dans le Tunkin (Thuyết tŕnh thống kê về Bắc Hà… về Kư sự của ông de La Bissachère, thừa sai ở Bắc Hà), nhưng nội dung lại có rất ít điều do Bissachère viết ra.

 

Tóm lại, cái gọi là Kư sự Bissachère, đă xuất hiện 2 lần: lần đầu trong sách của Sainte-Croix, (1810) và lần thứ nh́ trong cuốn Kư sự Bissacchère do Maybon biên soạn (sẽ giới thiệu sau).

 

Tác phẩm của Montyon, tuy trên b́a có tên Bissachère, nhưng lại là một bộ sách hoàn toàn khác biệt với Kư sự Bissachère, xuất hiện sau tác phẩm của Barrow vài năm. Đây là một cuốn biên khảo, đào sâu vào xă hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, tinh thần vượt trên những toan tính tôn giáo của phái thừa sai và mưu toan chính trị của phe thực dân, tác giả chú ư đến những vấn đề liên quan đến Gia Long như tổ chức quân đội, xă hội dân sự dưới thời chiến tranh Nguyễn Ánh-Tây Sơn… Đó là cuốn sách của một trí thức Pháp, đứng trên sự xuyên tạc lịch sử.

 

Nam tước Jean-Baptiste de Montyon (1733-1820) là một nhà hảo tâm và kinh tế gia Pháp; khi chết, ông để gia tài cho Institut de France (Pháp quốc học viện) quản lư, lập ba giải thưởng hàng năm về đạo đức, văn chương và khoa học, mang tên Montyon. Năm 1789, cách mạng bùng nổ, Montyon phải sang Anh tỵ nạn chính trị, ông trở về Pháp năm 1814, dưới thời Vương chính trùng hưng (Restauration).

 

Năm 1811 và 1812, Montyon cho in ở Luân Đôn một bộ sách tựa đề đầy đủ như sau: Exposé statistique du Tunkin, de la Cochinchine, du Camboge, du Tsiampa, du Laos, du Lac-Tho, par M. M-N sur la Relation de M. de la Bissachère, missionnaire dans le Tunkin (Thuyết tŕnh thống kê về Bắc Hà, Nam Hà, Cao Mên, Chiêm Thành, Lào, Lạc Thổ, của ông M-N [M-N là chữ Montyon viết tắt] về Kư sự của ông de La Bissachère, thừa sai ở Bắc Hà. (Imprimeries de Vogel et Schulze, Luân Đôn, 1811). Năm 1812, ông tái bản sách này ở Paris, thay chữ Exposé statistique (Thuyết tŕnh thống kê) bằng chữ Etat actuel (T́nh trạng hiện thời) và bỏ chữ “của M-N” (Nxb Galignani, Paris, 1812). Tác phẩm in ở Luân Đôn năm 1811, gồm 2 tập: tập I, 364 trang và tập II, 162 trang, sẽ dẫn là Montyon I và II.

 

Đọc bộ sách dày 532 trang này[1] ta không hiểu tại sao Montyon lại lấy tên sách là Thuyết tŕnh… về Kư sự của ông de La Bissachère, thừa sai ở Bắc Hà và trong bài Introduction (Tựa) lại đề cao đương sự một cách quá đáng: “Ông Bissachère đă ở Bắc Hà 18 năm, đă đi khắp nơi, biết nghe và nói tiếng Việt… đă quen biết những người cầm quyền quan trọng, thường bàn luận với các quan, chính ông cũng được làm quan… nhiều lần được vua tiếp” bởi v́ trong sách có rất ít việc rút ra từ ư của Bissachère (và những chỗ ấy phần nhiều là sai). Văn phong và tư tưởng cao hơn Bissachère rất nhiều. Montyon cho biết: “C̣n về những dữ kiện mà ông [Bissachère] đă đưa ra những khái niệm, chúng tôi, tự do t́m thêm qua những hồi kư, thư từ, của những người đă sống ở những nước ấy, đă dự kiến vào những biến cố xẩy ra, có đủ tư cách và xứng đáng tin cậy” (Introduction, Montyon I, t. 7-8).

 

Chúng tôi nhận thấy, trong sách này, có:

 

1- Những điều chép của Bissachère: Trong phần h́nh luật dưới thời Gia Long, Montyon viết: “Những h́nh phạt cho những tội thông thường được xác định bằng điều luật mọi người đều biết, nhưng những tội nặng, nhất là tội về quốc pḥng, th́ h́nh phạt được áp dụng một cách bí mật, chỉ quan toà xử tội biết, đôi khi vua hay viện cơ mật c̣n làm nặng thêm. V́ thế mà hoàng đế đă cho voi xé xác phản loạn Tây Sơn, và cắt từng miếng thịt quân phản loạn cho lính ăn thịt” (Montyon I, t. 230) “Những người đàn bà bị tử h́nh c̣n ghê hơn. Họ bị voi tung lên trời, và khi rớt xuống sừng voi đâm thủng và bị chân voi dầy xéo” (t. 231). Cả hai đoạn này đều sai v́ phỏng theo đoạn Bissachère viết về việc Gia Long xử tội voi xé xác anh em Tây Sơn và hai mẹ con tướng Bùi Thị Xuân rồi cho lính “ăn thịt” bà Bùi Thị Xuân! Chúng tôi sẽ nói rơ hơn trong phần viết về Bissachère.

 

Montyon cho những chi tiết về việc Quang Trung ra Bắc đánh quân Thanh: “trên đường đi, bắt tất cả những ai có thể cầm khí giới phải ṭng quân, không theo th́ giết, đốt nhà…” (Montyon, Tập II, t. 27). Đoạn này cũng chép của La Bissachère; chúng tôi sẽ trở lại sau.

 

2- Những điều phản bác Bissachère: Phần viết về tôn giáo chứng tỏ Montyon biết khá rơ về tôn giáo ở phương Đông; ông chống lại quan niệm của Bissachère, và chỉ trích người Âu -nhất là các thừa sai, cho rằng dân Việt theo đạo thờ cúng ma quỷ (Idolâtrie)- v́ họ không hiểu niềm tin của người Việt, chỉ biết lấy đạo thiên chúa làm chuẩn mực cho các dân tộc khác. Ở Bắc Hà, sự “ngu dốt” của người Âu đă khiến họ coi tất cả những việc thờ cúng là hủ lậu, phải bác bỏ. Đạo giáo ở phương Đông, nhất là nước Nam bắt nguồn từ Trung Hoa và Trung Hoa bắt nguồn từ Ấn Độ… Người Bắc Hà có truyền thống đa thần, thờ nhiều vị thần linh siêu h́nh, và họ tin rằng từ rừng núi đến đồng bằng, mỗi nơi đều có một vị thần ngự trị, có ảnh hưởng đến đời sống con người (Montyon I, t. 266- 267).

 

3- Những điều chép của Barrow: Sách của Montyon có vài điểm giống sách của Barrow chứng tỏ hoặc Montyon đă đọc sách của Barrow, hoặc họ dùng chung tài liệu.

 

Về việc Nguyễn Ánh chạy trốn năm 1777, Montyon viết: “Người thiếu niên Nguy-en-Chung [Nguyễn Chủng, Chủng là tên Nguyễn Ánh hồi nhỏ, chỉ những người không biết rơ như Montyon hoặc những ai muốn hạ thấp Nguyễn Ánh, mới dùng tên này] được mẹ dẫn dắt, trốn vào rừng, trong nhiều tháng dưới một lùm cây rậm rạp…” (Montyon II, t. 22), đoạn này chép Barrow, mà chúng tôi đă trích dịch và nói những điều sai, trong phần viết về Barrow.

 

Về Tây Sơn, Montyon viết: “Người em thứ nh́, Nguyễn Lữ là một thiền sư, không thiết việc công, không có khả năng điều khiển, nhưng được giới tăng lữ ủng hộ, và giới này ảnh hưởng đến quần chúng, tạo ra một bề ngoài công lư, một giá trị cao cả cho đảng [Tây Sơn]” (Montyon I, t.19). Chỗ này Montyon dùng chung tài liệu với Barrow nhưng viết rơ hơn.

 

Sách của Barrow và Montyon, đều nên dịch sang tiếng Việt, bởi đó là những điều mà người ngoại quốc đầu thế kỷ XIX nh́n và viết về nước ta, với những thông tin, phê phán đời sống dân tộc, từ tập tục đến cách ăn ở, tôn giáo, lối xây nhà, đóng thuyền, kiến trúc cung điện Huế… một loại “toàn thư” nhỏ, theo quan điểm ngoại quốc, khá khách quan, không có chủ ư bênh vực chính sách thuộc địa. Dĩ nhiên có những cái sai không thể tránh được, nhưng chúng ta có thể đính chính dễ dàng.

 

Điều đáng chú ư trong bộ sách của Montyon, ngoài những ǵ có tính cách nghiên cứu dân tộc học, địa lư chính trị xă hội, tổ chức hành chính… nói chung mà chúng ta có thể kiểm chứng lại qua bộ sách đồ sộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ [thường gọi là Hội Điển, của Nội Các triều Nguyễn]; tác phẩm c̣n đáng chú ư ở những điểm mà quốc sử không viết, hoặc viết thiếu, hoặc viết với cái nh́n khác, cần đọ với tài liệu của người nước ngoài. Tóm lại, Montyon đưa ra nhiều nhận định mới về Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, không thấy trong các sách khác.

 

Về kiến trúc

 

Montyon nhận xét:

 

“Ở đây không thiếu ǵ chất liệu để xây dựng, nhiều đá đẹp, cứng và bóng như cẩm thạch, có đất tốt để nung gạch, nhiều gỗ quư, đẹp. Dân tộc này khéo léo, tinh xảo lạ lùng; tuy vậy kiến trúc lại khiếm khuyết; v́ không biết nguyên tắc; ngoài ra, thiên nhiên và luật hành chính cản trở việc xây dựng những toà nhà cân đối, đẹp đẽ, hoành tráng. Ở nhiều nơi, sự ẩm ướt bắt buộc phải để giữa tầng trệt và mặt đất một khoảng trống. Dân chúng không có quyền xây nhà bằng đá và nhiều từng; những cơ sở lớn như chùa chiền và đền đài cũng làm bằng gỗ, để khi băo, dễ chống đỡ, đỡ bị tàn phá. Rất nhiều dinh thự lớn chỉ có tường chính làm bằng đá hay gạch, chỗ c̣n lại là gỗ cả. Nhà cửa không cân đối, tuy cũng có chút đối xứng, trông như một khối nhiều nhà rộng, không ra h́nh dạng ǵ, tuy nhiên, cái vô trật tự đó cũng có vẻ uy nghiêm riêng, nó phản ánh địa vị quan trọng của người chủ nhà” (Montyon I, t. 148-149).

 

Nhận xét khá tinh tế, Montyon phê b́nh khắt khe kiến trúc Việt, v́ ông nh́n kiến trúc và trang trí theo quan niệm Âu châu, coi những ǵ Á Châu làm là “không có nguyên tắc”. Điểm đáng chú ư ở đây: tuy chê, nhưng ông không viết như những ng̣i bút thuộc địa, thường cho rằng kiến trúc thành tŕ của người Việt, toàn là Vauban do Puymanel xây dựng, trước khi người Pháp đến Việt Nam không có ǵ cả!

 

Về cung điện Phú Xuân, ông viết:

 

“Những thành phố có nhiều nhà đẹp nhất là Bac-Kin, thủ đô Bắc Hà và Phú Xuân, thủ đô Nam Hà, nơi hoàng đế ngự trị cùng gia đ́nh và quân cấm vệ, đây là một thành đài chiến đấu (forteresse). Quần thần và dân chúng ở ngoại thành. Từ khi kinh đô Bắc bỏ trống, một phần v́ bị chiến tranh tàn phá nhưng vẫn để lại những di tích huy hoàng, th́ Hoàng cung (le palais de l’Empereur) là dinh thự đẹp nhất nước, có nhiều dinh cơ, vườn rộng mênh mông, có thành luỹ bao quanh, chu vi hai, ba dặm [4 đến 8 cây số], có bốn cửa, theo đúng bốn phương chính. Vào trong cung điện phải xuyên qua nhiều sân, có sân dành riêng cho trại cấm vệ, sân dành cho chuồng ngựa và voi; cung vua h́nh vuông, h́nh thức đặc biệt của bậc đế vương; bước lên mấy bậc cẩm thạch mới tới tiền đ́nh. Cung điện có hai tầng, nhiều sảnh đường lớn với rất nhiều cột, cơ man là vàng, trang hoàng kỳ quái và nặng nề, trạm trổ không đẹp, những h́nh ảnh u ám, vàng dát không đạt hiệu quả. Sự trang hoàng duy nhất đáng khen ngợi là những cột gỗ lim, rất cứng, đặc, chắc, nâu sậm, thứ gỗ nổi tiếng đẹp, nhất là khi nó ngả sang mầu gụ, có vân giống như cẩm thạch, chà bằng lá chuối th́ gân nổi lên, nhẵn, bóng, đẹp như véc-ni hảo hạng ngang ánh thủy tinh; những cột này phản chiếu ánh sáng, khiến ta liên tưởng đến những lâu đài pha lê, kim cương, trong truyện thần thoại; nhưng chúng vĩ đại mà không cân đối; những cột ở cửa cung điện có khi cao tới 40 pieds [12,96 m], chu vi chân cột là 5 pieds [1,62m] lên trên thon dần, không có bệ, không có đầu. Cột đặt thẳng trên một ḥn đá vuông, chôn sâu dưới đất, trồi lên độ một hai tấc.

 

Nhất cung điện nhà vua, nh́ đền chùa ngoài Bắc, lớn rộng và tráng lệ hơn trong Nam. Vài du khách đầu óc nhỏ nhen, hiểu lầm, gọi chỗ chứa đồ tế nhuyễn là đền” (Montyon I, t.149-151).

 

Có lẽ đây là sự mô tả sớm nhất của người ngoại quốc về cung điện Huế khi Gia Long mới xây xong phần cốt lơi năm 1805, đó là Cung thành (sau Minh Mạng gọi là Tử cấm thành) và điện Thái Hoà. Khi ấy, Kinh thành c̣n đắp đất, đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) mới bắt đầu xây gạch (Đại Nam Nhất Thống Chí, tập I, nxb Thuận Hoá, 1992, t.18).

 

Montyon không thoát khỏi đầu óc cố hữu của người Tây phương, vẫn đem những mẫu mực về cái đẹp của người Âu để đọ và chê cách bài trí cung điện của Gia Long.

 

Vơ Liêm, trong bài La Capitale de Thuận Hoá (Huế) (Kinh đô của Thuận Hoá (Huế), BAVH, 1916, III, (t. 277-288), đă chứng minh sự xây dựng Kinh thành Huế do chính vua Gia Long thực hiện. H. Cosserat trong bài La citadelle de Huế, Cartographie, sau khi trích dẫn Vơ Liêm, lại khẳng định một lần nữa: “Hai trích đoạn mà tôi vừa dẫn ở trên, như ta thấy, tuyệt đối chính xác, không cho phép bằng bất cứ cách nào, có thể nghĩ rằng người Âu đă xa gần nhúng vào việc xây thành đài Huế” (BAVH, 1933, tập I và II, t. 3-4).

 

Theo Hội Điển và Đại Nam Nhất Thống Chí, công tŕnh xây cất cung điện Huế trải dài suốt đời Gia Long sang đời Minh Mạng.

 

Phần Montyon mô tả chính là Hoàng thành và điện Thái Hoà, xây năm 1805, Đại Nam Nhất Thống Chí ghi: “Chu vi 4 dặm linh, cao 1 trượng 5 thước, dày 2 thước 6 tấc, xây gạch, nam và bắc đều dài 151 trượng 5 thước, đông và tây đều dài 155 trượng 5 thước, mở bốn cửa: phiá trước là Ngọ Môn, phiá tả là cửa Hiển Nhân, phía hữu là cửa Chương Đức, phiá sau là cửa Hoà B́nh. Phiá trong Ngọ Môn là điện Thái Hoà, là chính điện đại triều…” (ĐNNTC, tập I, t. 20).

 

Những thông tin này xác định kinh đô Huế là sản phẩm hoàn toàn Việt Nam, không hề có bàn tay Pháp, cũng không theo kiểu Vauban, như Cadière lập lờ xác nhận, sẽ nói đến sau.

 

Về chúa Trịnh và vua Gia Long

 

Montyon chỉ trích chúa Trịnh ở Bắc tàn ác độc tài và tỏ ư kính phục đức độ của chúa Nguyễn trong Nam, ông viết:

 

“Trong thời gian ấy, Đàng Trong do các chúa cai trị, hầu hết đều có tài, đức, một số là những vĩ nhân, tự luyện, tự học, đạt được sự kiên quyết lớn lao, trở thành địch thủ của thế lực mà họ c̣n phụ thuộc vào [chỉ chúa Trịnh].(…) Người nổi tiếng nhất là Hien- Nquien-Vuong [Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần], nhờ ông mà Đàng Trong chiếm thêm một phần đất Chiêm Thành, thêm những tỉnh ven biển của Chân Lạp, và kiện toàn nền văn minh Đàng Trong” (Montyon II, t. 14-15). Montyon kê khai tên các chúa trong Nam khá đầy đủ, chỉ thiếu Quốc Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725). Sự nhận xét về các chúa cũng đúng, đặc biệt ông biết chúa Hiền Nguyễn Phước Tần là bậc anh hùng, trong khi ở các tài liệu của nhà ḍng thời ấy, chúa Hiền bị các thừa sai gọi là “bạo chuá”.

 

Về vua Gia Long, Montyon viết:

 

“Vua Nam Hà, bị đánh đuổi, lẩn trốn, rồi trở lại đất ḿnh. Lại bị đuổi đánh, lại trở về. Bao lần thắng, bại, cuối cùng khôi phục được ngai vàng, nhờ quyền thừa kế, nhờ sức chinh phục, ông thu hồi cả miền Bắc, quan trọng hơn; và như thế trong vùng bán đảo Ấn Độ, ngoài cơi sông Hằng, một cường quốc chưa bao giờ lớn như thế xuất hiện. Qua bao thăng trầm trôi nổi, ta đă thấy một bên là những ư đồ thâm sâu phối hợp như thế, những bất trung bất nghiă quỷ quyệt như thế, những mưu lược cả gan, kỳ lạ như thế, những cảnh tượng bi đát và tàn nhẫn như thế; một bên là sự can đảm chống lại những bất hạnh như thế, một thiên tài trác tuyệt như thế, và cuối cùng đưa đến một kết quả [bất ngờ] không liên lạc với những ǵ đă xẩy ra trước đó như thế [chỉ sự thống nhất đất nước]; từ những biến cố này, nổi bật lên một dấu ấn phi thường, không giống bất cứ lịch sử của một xứ nào, của một thế kỷ nào, cổ xưa hay hiện đại” (Montyon II, t. 3-4).

 

Chân dung Gia Long, do Montyon phác thảo, cũng khá gần gụi gụi với những mô tả của Le Labousse, Barrow, mà chúng tôi đă tŕnh bày trong chương trước. Và ông cũng xác định Gia Long khôi phục được ngai vàng, nhờ quyền thừa kế, nhờ sức chinh phục, chứ không phải nhờ sự giúp đỡ của những người lính Pháp, như sau này người ta t́m cách thêu dệt nên.

 

Anh em Tây Sơn bất hoà

 

Về việc anh em Tây Sơn đánh nhau, Montyon viết: “Quá mạnh để chấp nhận ông anh là bề trên, Huệ sai người đến tŕnh bày với anh là ḿnh muốn đứng riêng một cơi. Người anh nổi giận, sai chặt đầu các sứ giả của Huệ, và lên cơn tàn bạo quá đáng. Quang Trung trả thù, cầm quân đến đánh anh. Nhưng kết quả của sự phân liệt này là họ hội đàm với nhau về t́nh h́nh nổi dậy ở miền Nam, và bắt buộc họ phải bỏ qua thù hận” (Montyon II, t. 28).

 

Sự “Nhạc chặt đầu các sứ giả của Huệ”, không thấy ghi ở đâu. Có thể Montyon đă đọc thông tin của một vị thừa sai sống trong triều đ́nh Thái Đức. Nếu đúng, đây là một nguyên nhân gần, cần t́m hiểu thêm, nó giải thích lư do tại sao Nguyễn Huệ đem binh vây Qui Nhơn, mà các nhà nghiên cứu thường chỉ đưa ra giả thuyết v́ “Huệ không chia cho anh của cải cướp được ở Bắc Hà”.

 

Về việc lính Pháp giúp Nguyễn Vương

 

Montyon có lẽ là người Pháp hiếm hoi viết một câu như sau: “Vài sĩ quan Pháp theo giúp Nguyễn Chủng, tập cho quân sĩ kỷ cương và vài nhà buôn Pháp bán tàu cho ông.

 

Dân chúng mỏi mệt v́ chiến tranh, và cũng v́ kiệt sức hai bên tạm dừng trong một thời gian: nhưng Nguyễn Chủng lợi dụng cơ hội này để xây dựng đồn luỹ theo lối Tây phương, làm tàu chiến theo mẫu những tàu Pháp mà ông mua được” (Montyon II, t. 34).

 

Điều Montyon xác nhận “vài sĩ quan Pháp theo giúp Nguyễn Vương” sẽ được chứng minh dần dần qua các tư liệu. Những ng̣i bút thuộc địa thổi phồng con số lên thành vài trăm.

 

Về kỹ nghệ đóng thuyền và thuyền chiến bọc đồng của Việt Nam

 

Về kỹ nghệ đóng thuyền ở Việt Nam, Montyon, trong phần trích dẫn dưới đây, so với những ǵ Barrow viết về việc này (đă trích dẫn trong chương 4) cho thấy hai người có những điểm đồng quy, nhưng Montyon có thêm những thông tin khác:

 

“Về việc đóng thuyền, nước này [nước Nam] có một kỹ thuật đặc biệt: những tấm ván làm thuyền được buộc chặt với nhau bằng dây mây, thay đinh, lối ráp này khiến thuyền uyển chuyển hơn, đặc biệt chống lại sóng biển.

 

Những thuyền lớn, ngoài tay lái thường, c̣n một tay lái pḥng hờ có h́nh thể đặc biệt. Tay lái thường, ngắn, được gắn gần như thẳng góc; tay lái khác thường dài hơn, được gắn gần như nằm ngang: khi gió to, người ta dùng tay lái khác thường, khiến tàu đi nhanh hơn. Khi biển động, dùng cả hai tay lái.

 

Tàu đi gần biển nhỏ hơn tàu của người Hoa, có h́nh dạng cổ xưa, thuỷ bàn (vành đỡ nước) c̣n khiếm khuyết nên tàu đi chậm.

 

Ít lâu nay, người Bắc Hà làm tàu đi bể theo lối Tàu, nghiă là phân chia hàng hoá ra từng ngăn riêng dành cho mỗi chủ, bằng ván gắn vào tàu và trét các kẽ hở cho kín để nước không thấm được; v́ vậy, khi tàu nhận một cú sốc mạnh, không bị rối loạn ngay tức khắc, và khi tàu bị thủng một lỗ hổng nước chảy vào, cũng dễ biết lỗ ấy ở đâu.

 

Tàu chiến chia làm 2 loại: thuyền buồm nhiều tay chèo (galère) hoặc chiến hạm (vaisseau). Thuyền chiến buồm, dài từ 50 đến 80 pieds [16,20m đến 25,92m] làm bằng ván dài như chiều dài thuyền. Mỗi bên có một hàng người chèo, trang bị từ 15 đến 20 đại bác, từ 6 đến 12 đơn vị đạn.

 

Chiến hạm, lớn hơn, thân tàu vững hơn và kiến trúc tốt hơn tàu Trung Hoa. Từ vài năm nay, c̣n có biến chuyển thuận lợi: chấp nhận phương pháp Âu châu để làm tàu, nhưng phần cột buồm và cánh buồm chưa hoàn hảo, nhiều cột buồm c̣n làm bằng một thân cây độc nhất, không vững như khi được giữ bằng các ngăn trong tầ\àu, lại không có đài (hune) trên cột buồm nên lái khó; trục buồm buộc vào cột buồm, chỉ ở hai đầu chứ không ở giữa, cánh buồm được bố trí khá nghệ thuật, để cắt gió, nhưng v́ làm bằng lá hay những chất khác không bền như gai, nên không vững chống gió; khi bị thấm mưa, phải tưới nước bể lên, và dù bị thấm nước ǵ, nếu không khô ngay trong ṿng 24 tiếng đồng hồ th́ sẽ bị mục.

 

Việc bọc đồng và những kỹ thuật tân tiến khác cũng đă được biết đến, nhờ sự kiểm tra các tàu Tây phương, nhưng chưa thấy thực hiện.” (Montyon I, t. 128-130).

 

Montyon và Barrow, dường như dùng hai tài liệu khác nhau, nhưng gặp nhau ở điểm: kỹ thuật đóng tàu của Việt Nam khác với kỹ thuật Tây phương.

 

Montyon đặc biệt chú ư đến tay lái khác thường của tàu chiến Việt Nam:

 

Những thuyền lớn, ngoài tay lái thường, c̣n một tay lái pḥng hờ có h́nh thể đặc biệt. Tay lái thường, ngắn, được gắn gần như thẳng góc; tay lái khác thường dài hơn, được gắn gần như nằm ngang: khi gió to, người ta dùng tay lái khác thường, khiến tàu đi nhanh hơn. Khi biển động, dùng cả hai tay lái.

 

Sự “khác thường” này, chúng tôi lại thấy Trịnh Hoài Đức có viết. Trong đoạn nói về việc chặt cây, lấy gỗ, làm lạt, đóng tàu thuyền; ông ghi sự sáng tạo của Đỗ Thanh Nhơn, đặc biệt trong việc đóng tàu chiến, có câu:

 

“Tháng 7 năm Canh Tư (1780)… Thanh Nhơn mới sáng chế đóng thuyền chiến, làm bánh lái dài để đi đường biển yên ổn, nhưng vẫn để bánh lái tṛn khi trước để dùng khi đi đường sông, gọi là thuyền hai bánh lái, phiá trên gác sàn chiến đấu, hai bên treo phên tre để che cho thuỷ binh ở dưới chuyên lo chèo chống, trên th́ bố trí bộ binh để xung kích, nhờ vậy mà kỷ xảo của thuỷ sư càng tinh nhuệ, đến nay [khoảng 1820] cũng vẫn theo” (Trịnh Hoài Đức, Vật sản chí, Gia Định Thành Thông Chí).

 

Theo Montyon, khi ông viết những ḍng này (vào khoảng sau 1800) th́ Nguyễn Vương đă biết các kỹ thuật mới như tàu bọc đồng, nhưng chưa áp dụng. Nhưng có lẽ ông lầm, Nguyễn Vương có tàu bọc đồng từ rất sớm, bằng cách nào th́ ta sẽ phải điều tra thêm. Chỉ biết:

 

“Ngày 9/4/1785 (ngày 1/3Ất Tỵ), Nguyễn Ánh sang Xiêm với 30 quần thần, 200 quân và 5 chiến thuyền: Phượng Phi, Bằng Phi, Hùng Tŕ, Chính Nghi, Thuyền Ô” (TL, I, t. 223).

 

Điều này chứng tỏ Nguyễn Ánh đă mua hoặc đă đóng được thuyền bọc đồng (v́ Phượng Phi và Bằng Phi là tàu bọc đồng) từ năm 1785. Tàu Phượng Phi năm 1790 giao cho Trần Văn Học và Nguyễn Văn Chấn (Vannier) cai quản (Liệt truyện II, t. 282). Tháng 3/1801, Long phi, Phượng phi và Bằng phi giao cho Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau), Nguyễn Văn Chấn (Vannier), và Lê Văn Lăng (de Forcanz) điều khiển (TL, I, t. 432).

 

Liệt truyện về Vơ Di Nguy, ghi: “Năm Mậu Thân [1788], mùa thu, lấy lại được thành Gia Định, vua gọi Di Nguy về, sai coi thuyền Nội thủy, Trung thủy, bổ làm Khâm sai thuộc nội cai cơ, đốc làm thuyền Đại Chiến, thuyền Hải Đạo.”

 

Và: “Năm Ất Măo [1795] quân giặc vào Đà Diễn, Di Nguy đem thuyền quân tiến sát đến đảo Sầm, hợp với Trương Phúc Luật đánh giữ, giặc phải lui. Di Nguy cùng ngay với Phạm Văn Nhân đem Tả quân đi thuyền lớn bọc đồng chạy đến thành Diên Khánh.” (LT, tập 2, t. 121).

 

Như vậy, ngay từ năm 1785, Nguyễn Ánh đă có thuyền chiến bọc đồng, năm 1788, sai Vơ Di Nguy đốc làm thuyền Đại Chiến, thuyền Hải Đạo.

 

Vậy, Montyon cũng như Le Labousse đều chép lầm khi tưởng rằng đến năm 1800, Nguyễn Ánh mới đóng được tàu bọc đồng, như trong thư ngày 24/4/1800 của Le Labousse, được nhiều người trích dẫn.

 

Thêm một chứng nữa, là trong Hịch của Quang Trung tháng 8/1792 (sẽ đăng kỳ tới) cũng nói đến tàu bọc đồng, vậy có thể xác định chắc chắn là Nguyễn Vương đă có tàu chiến bọc đồng từ trước 1792, có thể vào năm 1788, khi sai Vơ Di Nguy đóng thuyền Đại chiến và thuyền Hải đạo.

 

Theo bản thống kê của Hội điển về các tàu thuyền ở Huế, không ghi rơ năm, nhưng ta hiểu đó là đầu đời Gia Long, v́ thời Minh Mạng đă bắt đầu có tàu chạy bằng hơi nước hay máy:

 

“Ở Kinh sư có 265 chiếc. (Các hạng thuyền bọc đồng 29 chiếc, thuyền vận chuyển đường biển 10 chiếc, thuyền vận chuyển đường sông 3 chiếc, thuyền vượt biển lớn 25 chiếc, thuyền vượt biển vừa 15 chiếc, thuyền vượt biển nhỏ 10 chiếc, thuyền tàu Ô 9 chiếc, thuyền sơn đỏ 6 chiếc, thuyền sơn đen 14 chiếc, thuyền đầu nhỏ 2 chiếc, thuyền con 19 chiếc, thuyền xuồng 11 chiếc, thuyền xuồng kiểu mới 6 chiếc. Các hạng thuyền con 34 chiếc, thuyền lồng 2 chiếc, thuyền nhẹ 11 chiếc). (Hội Điển, Bản nxb Thuận Hoá, 1993, Tập 13, quyển 205, t. 16-17).

 

Sau chiến tranh, mà Huế c̣n 29 tàu bọc đồng, vậy trong thời chiến, Nguyễn Vương có bao nhiêu tàu bọc đồng? Chắc chắn không chỉ có ba tàu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, do Chaigneau, Vannier và de Forcanz điều khiển, được các sử gia thuộc địa hết sức đề cao, coi như chỉ có “người Tây” mới điều khiển được “tàu Tây bọc đồng”.

 

Gia Long trực tiếp điều khiển việc đóng tàu

 

Như trong chương 6, Chân dung vua Gia Long, tất cả các tác giả đều nói Nguyễn Ánh trực tiếp điều khiển mọi việc, ở đây, Montyon lại xác định thêm một lần nữa:

 

“Ông [Gia Long] là người giỏi nhất về chiến thuật, là kỹ sư giỏi nhất, là người kiến trúc tàu giỏi nhất, ở xứ ông”. Và ông chú thích: “Để thu thập kiến thức đóng tàu, ông không làm như César Pierre đệ nhất, là cầm búa, cũng không trở thành thợ mộc, mà ông mua một chiến hạm kiến trúc Tây phương, rồi tháo ra từng mảnh và lắp lại, để biết rơ đối tượng: về tính chất kiên cố, về chủ lực của nó và về sự chắp nối tất cả những thành phần khác nhau.” (Montyon II, t. 52).

 

Việc Gia Long mua tàu chiến của Tây phương làm mẫu, Barrow có ghi lại và Le Labousse cũng viết trong thư ngày 28/4/1800. Theo Hội điển, phương pháp làm tàu thời Minh Mạng đă tiến dần đến “kỹ nghệ hoá”: chế mẫu sẵn từng mảnh của mỗi loại thuyền, tàu, thợ cứ theo thế mà ráp, lắp.

 

Trở lại việc lấy một tàu Tây phương làm mẫu, việc này đă có từ thời chúa Săi Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), chúa đă lấy những tàu Tây phương bị băo dạt vào bờ làm mẫu, để hiện đại hoá tàu thuyền của ḿnh. V́ thế, chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687), khi c̣n là Thế tử Dũng Lễ Hầu đă thắng hạm đội của Hoà Lan ở Cửa Eo (cửa Thuận An) năm 1644.

 

Người đọc hôm nay sẽ hỏi: làm sao có thể đóng tàu bằng cách tháo ra ghép lại như Nguyễn Ánh làm? Nhưng ở cuối thế kỷ XVIII, sự tiến bộ về khoa học của Tây phương chưa thực xa, tàu Tây và tàu Ta, chưa khác nhau nhiều. Trong phim The Bounty của Roger Donaldson (I984) với Mel Gibson và A. Hopkins, đạo diễn đă thiết kế rất rơ chiếc tàu chiến buồm của quân đội hoàng gia Anh năm 1787, và mô tả cuộc sống, tŕnh độ lính thủy và các sĩ quan. Chúng ta có thể xem phim này để hiểu điều kiện sống tên tàu, tại sao lính thuỷ đào ngũ, khi tới châu Úc, châu Á, những vùng đất hứa; và lại có người bỏ tàu đi đánh thuê cho Nguyễn Ánh hoặc đi buôn, t́m của, t́m vàng… Chuyện những thủy thủ nổi loạn trên tàu The Bounty, cho chúng ta những bức h́nh nổi của các chuyến tàu Tây phương sang Á Châu thời ấy.

 

Barrow và Montyon đều cho biết Gia Long không làm tàu giống hệt Tây phương, mà chỉ lấy những cái hay của tàu Tây và giữ lại cái hay của tàu Việt.

 

Tổ chức quân đội của Nguyễn Ánh

 

Hầu hết các sử gia thuộc địa đều cho rằng những người Pháp đóng vai tṛ hàng đầu trong tổ chức quân đội của Nguyễn Ánh, chính họ đă xây dựng nên quân đội này và giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại ngai vàng. Chúng ta cần t́m hiểu rơ tổ chức quân đội đó là ǵ? Được cấu trúc như thế nào? Những người Pháp đă giữ những chức vụ ǵ trong đó và họ đă lập những chiến công nào? Montyon là người biết khá rơ về t́nh trạng quân đội của Nguyễn Ánh, nhờ những điều ông viết, mà ta có được h́nh ảnh rơ nét của tổ chức binh bị này; trước hết, về đời sống quân ngũ, y phục, khí giới, sau đến cách chia đơn vị và bộ chỉ huy.

 

Về điều kiện sống và quân phục dưới thời Gia Long, Montyon viết:

 

“Khẩu phần lính mỗi ngày là một đọi [tô] rưỡi gạo, tức là vào khoảng 5 hay 6 cốc café của chúng ta [Pháp] do vua ban. C̣n lương bổng và quần áo th́ địa phương lo (…) Thấp nhất là 2 quan tiền một tháng, cao nhất là 6 quan tiền [tác giả chú thích: chiếu theo giá đồ ăn rất rẻ thời đó, th́ nghi có sự sai lầm trong thông tin] nên có bất công trong sự khác biệt này.

 

Lính được phát y phục một năm hai lần, gồm có một áo nịt mặc sát người, bằng vải hay lụa, thô; trên áo nịt là một áo chiến bằng toan hay nỉ dầy mua của Tàu có lẽ buôn từ Âu châu sang. Áo chiến tay rộng, cổ đứng, dài tới ngang lưng, quần dài quá đầu gối; ống chân và bàn chân để trần. Đầu đội mũ tṛn có chóp, trang trí bằng một chùm lông gà. Mũ bằng rơm hay sợi tre bện lại, đánh vec-ni, không thấm nước, đầu quấn một mảnh vải hay lụa dài 15 đến 20 pieds [4, 86m đến 6, 48m] để tránh bị kiếm chém, có mũ đội lên trên.

 

Tất cả quần áo này, trừ áo nịt, là đồng phục, mầu đỏ quốc gia, có vài dấu hiệu để phân chia binh chủng khác nhau. Người lính đeo trên cổ hai túi nhỏ, một đựng trầu cau và túi kia để thuốc lá. Ngoài ra, c̣n khoác trên vai một túi dết đựng quần áo cũ, tiền bạc và khi đi hành quân ở những nơi không có trạm lương thực, họ đem theo gạo ăn cho sáu bẩy ngày”.

 

Về trang bị vũ khí và cách dàn trận, chiến đấu, Montyon viết:

 

“Hoàng đế cung cấp vũ khí: mỗi người một súng trường và dao nhọn cắm đầu súng, một thanh kiếm, một thương dài, một búa, một gậy chập hai: tức là hai gậy bằng nhau, gỗ rất cứng, đầu bó vào nhau bằng một chùm tóc nhồi vào trong. Đó là thứ vũ khí kinh hồn nhất: khi biết sử dụng, bằng một cử động chớp nhoáng, nó chém đứt kiếm, thương, và chặn đạn.

 

Khí giới và cách vận dụng đă tiến triển nhiều. Người ta c̣n mua của Anh và Pháp súng máy và súng lưỡi lê. Hiện nay, hầu như tất cả quân đội Bắc Hà đều được trang bị như thế, c̣n súng hoả mai rất hiếm.

 

Hoàng đế cung cấp cho quân đội đại bác Âu châu, tốt hơn đại bác bản xứ. Trong những công binh xưởng, khí giới được quản lư kỹ, số lượng rất lớn, cất giữ chỗ kín để tránh bọn bất lương nḥm ngó.

 

Dụng cụ âm nhạc trong quân đội là trống, cũng giống như trống Âu châu, c̣n thêm trống chuông, ống tiêu, các loại kèn khác nhau, chũm choẹ (cymbale), hai miếng gỗ gơ vào nhau. Quân nhạc khá hay, nhưng hơi ồn, cho phép quân đi đúng điệu.

 

Thuốc súng chế tạo đă tốt hơn trước, nhưng vẫn chưa bằng thuốc súng của người Âu; cháy chậm hơn, và nổ nhỏ hơn”.

 

Như vậy, cả hai miền Nam Bắc đều mua khí giới của nước ngoài, để bổ sung cho phần vũ khí chế tạo trong nước. Montyon cho rằng cách luyện tập chiến đấu cũng đă ít nhiều được hiện đại hoá theo lối Tây phương, ông viết:

 

“Các quan chỉ huy, điều khiển trận địa bằng những lá cờ nhỏ, vị trí và hướng cờ chỉ lệnh. Nhưng khi đánh nhau, các quan không đi trước: cai đội đi sau đội quân, trưởng hiệu đi sau hiệu quân.”

 

“Nói tóm lại, trại quân, dàn trận, chiến đấu, tất cả đều được điều khiển theo lối Tây phương, tuy nhiên cách vận dụng khí giới chưa được khéo léo, mau lẹ; mất nhiều th́ giờ để lên đạn, bắn chưa trúng lắm, đại bác chưa biết nhắm trúng.

 

Trong những trận đánh cuối cùng, người ta đă dùng pháo bay (artillerie volante), hiệu quả vô cùng, người trong nước [chỉ quân hai bên] sợ lắm; họ bảo đó là sấm dây và là khí giới tàn phá không thể chống lại được“.

 

“Hệ thống đồn lũy theo kiểu châu Âu đă được sử dụng để xây thành đài, không thể xâm nhập được khi bị những người trong nước bao vây” [chỉ quân hai bên, ở đây nói đến sự kiên cố của thành Diên Khánh, bị hai bên đánh đi chiếm lại nhiều lần, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề Diên Khánh sau] (Montyon I, t. 254-258).

 

Thuỷ binh

 

Theo thư Victor Olivier (de Puymanel) gửi Stanislas Lefèbvre ngày 16/4/1798, th́ hải quân của Nguyễn Ánh lúc đó [1798] gồm 447 chiến thuyền và 42.000 người (Salles, Jean Baptiste Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 54).

 

Thuỷ binh là sức mạnh của quân đội Nguyễn Ánh, chuyển động rất nhanh khi thuận gió mùa. Theo Montyon, thủy binh được trang bị vũ khí như sau:

 

“Thủy binh được tổ chức như bộ binh. Thủy thủ là những người lính, khí giới chỉ khác [bộ binh] là thương của họ dài hơn. Lực lượng thủy quân quan trọng hơn [lục quân], khi các vùng -hiện nay đă quy vào một mối- c̣n dưới sự lănh đạo của nhiều lănh tụ. V́ các “nước” này đều nằm trong vịnh, nên một bờ biển có thể tấn công dễ dàng bờ biển khác, đường biển ngắn hơn đường bộ nhiều.

 

Vua Nam Hà khi c̣n dẹp loạn, chỉ mới chiếm lại vài tỉnh, mà đă có 200 thuyền chiến buồm (galères) và 25 chiến hạm (frégates) trang bị 10 đại bác, ngoài hai cỗ ở đầu và cuối tàu.

 

[Sau chiến tranh] số thuyền tàu đă giảm đi, nhưng được vẽ lại kiểu, trước hết là phần dưới, rồi đến phần trên, và sau cùng là cột buồm. Có thuyền chiến (barque de guerre) chở 50 người và những tàu nhỏ (chaloupe) trang bị 25 đại bác và đằng trước có một khẩu đại bác dài, nhỏ kiểu xưa (coulevrine). Những tàu thay thế thuyền chiến buồm, lớn hơn và tốt hơn, trang bị từ 12 đến 20 đại bác, từ 6 đến 12 đơn vị đạn. Ngoài ra hạm đội c̣n được tăng cường bằng những tàu chiến mua của người Âu.

 

Từ khi hoà b́nh, hoàng đế đă quy tụ được tất cả các sức mạnh thủy binh chống đối dưới trướng, ông coi nhẹ thủy binh hơn trước, bởi không thật cần thiết nữa; hai phần ba lính thủy được cải chế và sát nhập vào bộ binh; ông không mua tàu ngoại quốc nữa và cũng ít đóng thêm tàu. C̣n ba chiến hạm được giữ lại trong số những tàu đă mua, cũng không dùng đến, để mắc cạn trong bùn, 200 chiến thuyền khác chỉ dùng chở gỗ, lương thực, hàng hoá, là thứ thuế đóng bằng sản vật, dành để cung cấp tư liệu cho những đồ chế biến của nhà nước.

 

Mặc dầu chưa biết rơ lối đóng tàu biển theo kiểu Tây phương, và cũng chưa biết thuật vận dụng, thêm những người chỉ huy không biết thuật sơ đẳng của thủy binh; và khi thủy binh không có kiến thức, không biết dùng địa bàn (boussole), th́ không thể làm ǵ được cho sự vận chuyển, cho những cuộc hải chiến.

 

Tuy nhiên điểm làm cho thủy binh này rất dữ dội, đó là những hoả pháo to bằng cánh tay, chứa đựng hoả chất dùng để đốt phá thuyền, tàu địch; nước ở dưới tàu, thay v́ dập tắt lửa, lại làm cho lửa bùng lên, chỉ có thể dập tắt bằng đất; người ta cũng dùng hoả pháo này trên bộ, nhưng nó bớt nguy hiểm hơn v́ dễ dập tắt.” (Montyon I, t. 258-261).

 

Những thông tin trên đều rất đáng chú ư, duy có nhận xét: “những người chỉ huy không biết thuật sơ đẳng của thủy binh, không biết dùng địa bàn, không biết vận chuyển”… cần phải xét lại, bởi nếu quả thực t́nh trạng chỉ huy như thế th́ ai là người cai quản hạm đội Kinh đô gồm 265 chiếc tàu thuyền, với 29 tàu bọc đồng, 25 thuyền vượt biển lớn, v v… ghi trong Hội điển? Và lấy ǵ giải thích các chiến thắng của Nguyễn Vương trên quân đội Tây Sơn, phần lớn dựa vào thủy chiến?

 

Ngoài ra, “hoả pháo” mà Montyon nói tới ở đây, không biết có phải là “Hổ lửa” mà Tôn Sĩ Nghị nói tới trong điều thứ năm của bản Tám điều quân luật, răn tướng sĩ, như sau:

 

“Quân Nam không có “sở trường” ǵ khác. Họ chỉ dùng các “ống phun” làm thứ lợi khí. Thứ lợi khí ấy gọi là “Hổ lửa”. Trong khi hai bên giáp nhau họ dùng vật ấy đốt cháy quần áo người ta, để cho người ta phải lui. Nhưng cái thuật ấy cũng chỉ như thế mà thôi, so với súng ống của ta c̣n kém xa lắm. Hiện đă chứa sẵn vài trăm “lá chắn” bằng da trâu sống, nếu gặp “ống phun” của người Nam phun lửa, quân ta một tay chắn đỡ lửa, một tay cầm gươm chém bừa, họ sẽ phải lướt ngă” (Hoàng Lê nhất thống chí, t. 283).

 

“Hổ lửa” có lẽ không dễ dập tắt như vậy, cho nên Tôn Sĩ Nghị đă không đại thắng. Những người ngoại quốc khi đến nước Nam có ư kinh mạn thường hay gặp chuyện bất ngờ.

 

T́nh trạng dân chúng trong chiến tranh

 

Theo Montyon, trong chiến tranh Nguyễn Ánh-Tây Sơn, người dân không bắt buộc phải theo phe nào, họ có quyền đứng trung lập, ông viết:

 

“Chiến tranh ở xứ này đă gây những tàn phá lớn lao, tàn ác khôn lường, tuy nhiên có những trường hợp các tướng đă thiết lập một quân lệnh nghiêm minh chưa từng thấy ở Âu châu; trong cùng chiến tranh này, người ta thấy một binh đội tiến đánh quân Tàu xâm nhập miền Bắc lănh thổ trên đường đi dùng bạo lực, cướp bóc, vô cùng tàn ác, bắt tất cả những ai có thể cầm khí giới phải đi theo, nếu không th́ giết; không chịu tiếp tế cho quân đội hay lẩn trốn th́ bị đốt nhà; người già, đàn bà, trẻ con không c̣n ǵ để ăn.[Đoạn này viết theo Bissachère chỉ thái độ của quân Quang Trung khi đi đánh quân Thanh, nên rất sai lầm; Thực Lục và Liệt Truyện, ghi rơ và đúng hơn]. Nhưng trước đó ít lâu, một đoàn quân khác [quân Tây Sơn] đến vây thành của vua Nam Hà [Gia Định] nhận được kỷ luật sắt: lính không được lấy ǵ của dân mà không trả đúng giá, không được vào nhà dân mà không được họ cho phép. Binh lính hai bên đánh nhau, dân đứng nh́n, tiếp tế cho quân đội và được trả đúng giá những ǵ họ cung cấp, chỉ bắt buộc phải công nhận người chiến thắng làm minh chủ.

 

Đây cũng là một nhận xét về cuộc chiến khá đặc biệt, cho ta hiểu rơ hơn tâm lư người dân, tại sao dân miền Nam có thể sống c̣n qua bốn lần Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Đinh đánh đuổi Nguyễn Ánh, rồi lại trở về Trung. Và Nguyễn Ánh, sau bốn lần thua chạy, vẫn đương nhiên trở lại Gia Định và được quần chúng chấp nhận.

 

Tổ chức quân đội thời Lê

 

Phần cốt lơi của vấn đề là Nguyễn Ánh tổ chức quân đội theo cách nào, người Pháp có nhúng tay vào không, hay Nguyễn Ánh vẫn giữ truyền thống quân đội Việt, đời Lê?

 

Theo Phan Huy Chú, về cơ bản, quân đội Việt Nam từ thời Lê trung hưng chia ra như sau:

 

“Binh chế đời Lê, từ Trung hưng trở về sau, đặt làm: Dinh, Cơ, Đội, Thuyền; Bộ binh là Dinh, Cơ, Đội; Thuỷ binh là Thuyền. Dinh lớn th́ 800 người, thứ đến 160 người. Cơ lớn th́ 500 người, thứ đến 200 người. Đội lớn th́ 275 người, thứ đến 15 người. Thuyền lớn th́ 86 người, thứ đến 20 người. Có 12 Dinh; 58 Cơ, 238 Đội và 62 Thuyền, đại lược là như thế” (Lịch triều hiến chương, Binh chế chí, tập III, t. 22).

 

Nhưng Phan Huy Chú cũng lưu ư đến số quân đời Lê, mà ông cho là thống kê không phù hợp: “Các quân trong, ngoài, đại đa số bất quá 56.500. Đến đời Cảnh Hưng [1740-1786] lại đặt thêm 24 cơ vệ binh. Tổng số binh chỉ được hơn 65.700 người thôi, tôi [Phan Huy Chú] từng lấy làm lạ, binh của nhà Lê, ở buổi đầu có việc gọi ra đến 20 vạn người, khi mới trung hưng chỉ lấy binh ở hai xứ cũng đến hơn 12 vạn, mà sau đời Bảo Thái lại tuyển thêm, đời Vĩnh Hựu lại mộ thêm, đời Cảnh Hưng lại đặt thêm vệ binh, thế mà số quân lại không đầy 7 vạn là cớ làm sao?” (Lịch triều hiến chương, t. 22-23). Phan Huy Chú cho rằng, đầu đời Lê, luật tắc nghiêm minh, ghi chép cẩn thận, không ai trốn lính được. Đến các đời sau, không nghiêm cẩn, ẩn lậu nhiều, ghi chép không cẩn thận, nên số quân sai và kém đi. Montyon, không biết lấy tài liệu nào, chép quân số Bắc Hà là 140.000 người, tức là gấp đôi con số ghi nhận chính thức.

 

Tổ chức quân đội thời Nguyễn Ánh

 

Thời Nguyễn Ánh, Montyon ghi chép khá rơ ràng, trước hết về t́nh trạng chung:

 

“Năm 1806, t́nh trạng quân đội thời b́nh là 150.000 người. (…) Thời chiến quân đội gia tăng tuỳ theo t́nh h́nh chiến trận. Trong thời kỳ nội chiến, tất cả những ai có thể cầm được vũ khí đều phải ṭng quân; và năm 1800, năm mà hoàng đế c̣n là vua Nam Hà, chưa chinh phục xong cả nước, mà quân đội của ông cũng đă lên tới 139.400 người (…) người ta chắc chắn rằng trong thời b́nh, quân đội Bắc Hà có 140.000 người” (Montyon I, t. 250).

 

“Lực lượng quân đội được chia làm 6 Dinh (Armées): Dinh I, pḥng vệ vua, ít quân nhất. Bốn dinh kế tiếp được 4 đại thần cột trụ triều đ́nh thống lănh. Dinh thứ sáu, đông nhất, được một vị đại thần đặc biệt do hoàng đế chỉ định, điều khiển.

 

Mỗi Dinh lại được chia thành 5 Chi (Corps), Chi thứ nhất đóng bên quan Đại thần và cũng là tướng chỉ huy. Bốn chi kia, mỗi chi do một tướng nhị phẩm điều khiển. Chi lại chia làm Hiệu (Vệ hay Cơ) (Régiment) do một chánh, phó Trưởng hiệu (Colonel ou Sous-colonel) đứng đầu. Mỗi Hiệu (Vệ, Cơ) gồm 12 Đội (Compagnie). Mỗi đội có 50 hay 60 người, do một Cai đội (Capitaine hay Sous-capitaine) điều khiển. Lính được chia thành nhóm 10 người, do đội trưởng (Premier soldat) chỉ huy. Có 7 phẩm ngạch quan vơ, Cai đội (Capitaine) là ngạch cuối cùng. (Montyon I, t. 252).

 

Montyon dịch khá sát những chức vụ trong quân đội Việt, so với Thực Lục tháng 6/1790 (tháng 5 ÂL) ghi: “Năm dinh Trung quân, Tả quân, Hữu quân, Hậu quân và Tiên phong, mỗi dinh đều là 5 Chi, mỗi chi 5 Hiệu, mỗi Hiệu 3 Đội, mỗi Đội 4 Thập” (TL, I, t. 259). “Chi đặt chánh phó Trưởng chi, Hiệu đặt chánh phó Trưởng hiệu, Đội đặt Cai đội, thập đặt Đội trưởng”. (TL, I, t. 260).

 

Theo Thực Lục, ở thời điểm 1790, những ông tướng cầm đầu các Dinh là: Lê Văn Quân làm Chưởng dinh Tiền Quân. Tôn Thất Hội làm Chưởng dinh Hậu quân. Nguyễn Huỳnh Đức làm Chưởng dinh Hữu quân. Vơ Tánh làm Chưởng dinh Tiên phong. Nguyễn Văn Thành chỉ là Hiệu úy tiền chi Trung quân, có thể chính Nguyễn Ánh trực tiếp chỉ huy Trung Quân. Tháng 7/1793, Lê Văn Duyệt vẫn c̣n làm Cai đội. Đến tháng 12/1793, mới được thăng Vệ Uư.

 

Tóm lại, khoảng 1790, bộ binh của Nguyễn Ánh chia đơn vị như sau: Thập: 10 người; Đội: 40 người; Hiệu (Vệ, Cơ):120; Chi: 600; Dinh: 3000. Thời ấy c̣n ít quân, sau có thay đổi.

 

Montyon cho rằng, năm 1800, có khoảng 139. 800 người (theo thống kê của Barisy). Riêng bộ binh được phân chia như sau: Đội: 50-60 người; Hiệu (Vệ, Cơ): 600; Chi: 3000 người. Dinh: 15.000 người.

 

Montyon cho in bản thống kê toàn bộ lực lượng quân đội Nguyễn Ánh năm 1800, bản này gần giống bản Barrow mà chúng tôi đă in trong chương 4; cho thấy Nguyễn Ánh có 12.000 Vệ binh. Dưới nhà vua là 5 ông tướng coi 5 dinh, mỗi dinh 6.000 người. Tổng số quân đội của Nguyễn Ánh, năm 1800 là 139.800 người. Trong phần phụ lục ở dưới, chúng tôi in lại cả hai bản này.

 

Phúc tŕnh của Chaigneau

 

Một tài liệu khá quan trọng nữa là bản phúc tŕnh của Chaigneau đệ lên chính phủ Pháp năm 1820 nói về t́nh h́nh nội trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao của nước Việt thời đầu Minh Mạng và sự lợi hại nếu chiếm Việt Nam. Trong bài phúc tŕnh mật này, Chaigneau cho biết:

 

“Sức mạnh quân đội tại ngũ trong thời b́nh của vua là 80.000 người; nhưng đến thời chiến, con số này có thể dễ dàng lên đến 200.000 người”.

 

Về t́nh trạng binh bị, Chaigneau viết:

 

“Bộ binh: Trong thời b́nh, Hoàng đế vẫn luôn luôn pḥng bị. Đội Vệ binh của vua gồm 30.000 người, độc lập với 40 Chi (Régiments) [quân chính quy] chia làm 5 Dinh (Colonnes): Tiên phong (Avant-garde), Hữu quân (Droite) Tả quân (Gauche), Hậu quân (Arrière-Garde) và Trung quân (Centre) (…) Ngoài 5 dinh bộ binh, Hoàng Đế c̣n một binh đội khác gồm 5 binh đoàn (légions), mỗi binh đoàn có 5 Chi được tổ chức và phân phối như những Dinh, cũng do những vị đại thần điều khiển. C̣n phải kể thêm lực lượng các Chi ở mỗi tỉnh, mà con số thay đổi tùy vùng. Ở Sài G̣n có khoảng 16 Chi”.

 

Như vậy, Chaigneau, khi làm thống kê quân đội đầu triều Minh Mạng, cũng vẫn ghi tổ chức giống như thời trước, chỉ có số quân trong mỗi đơn vị, có ít nhiều thay đổi:

 

“Mỗi Dinh có 8 Chi. Mỗi Chi có 10 Đội. Mỗi Đội có 60 người (riêng Đội Vệ binh có 120 người). Tóm lại: một Chi có 600 người. Một Dinh có 4800 người. Một vị đại thần chỉ huy một Dinh. Một chánh, một phó trưởng Chi (Colonel, Lieutenant-colonel) cho mỗi Chi, và một chánh, một phó Đội trưởng (Capitaine, Lieutenant) cho mỗi Đội, tạo thành bộ chỉ huy”

 

So với Thực Lục th́ thấy: Chaigneau dịch Đội là Compagnie (40-60 người), Chi (600 người) là Régiment, và Dinh (3000-5000 người) dịch là Colonne (4800 người). Như vậy, khoảng 1820, khi Chaigneau làm bản phúc tŕnh này, th́ hoặc ông đă bỏ quên đơn vị Hiệu, Vệ (120 người) hoặc tổ chức quân đội nhà Nguyễn đă đơn giản hoá đi, tức là bỏ đơn vị Hiệu giữa Đội và Chi, để quay về với tổ chức thời Lê, tức là chỉ c̣n ba đơn vị cơ bản: Đội (40-60 người), Cơ (hay Chi, 600 người) và Dinh (trên 3000 người).

 

Điểm đặc biệt là Chaigneau cho biết cả số voi trận:

 

“Toàn bộ voi trong quân đội là 800 con, kể cả 120 con trong đội Vệ binh. Tượng binh dưới quyền điều khiển của một vị đại thần” (André Salles, Notice sur la Cochinchine fournie par M. Chaigneau (Tiểu dẫn về nước Nam của ông Chaigneau), BAVH, 1923, II, t. 265-266).

 

Thống kê của Chaigneau càng tỏ đậm nét tổ chức quân đội của Nguyễn Ánh, từ cách phân chia đội ngũ đến nội dung quân đội: kỵ binh trâu, tượng, không có ǵ là Tây phương cả.[2]

 

Chức vụ và nhiệm vụ của những người Pháp trong quân đội Nguyễn Ánh

 

Cadière t́m cách dịch các chức vụ trong quân đội của Gia Long sang tiếng Pháp, phần nói về chức vụ của Chaigneau, ông viết như sau:

 

“Chaingeau, trước 1802, là Cai cơ “Commandant de régiment”. Năm 1802, Gia Long cho thăng Chưởng cơ “Général de régiment”. Quân đội Việt chia thành “compagnies” (đội), do một Đội trưởng “Premier de la Compagnie” và một Cai đội “Commandant de compagnie” điều khiển, chức sau cao hơn chức trước. Chúng ta sẽ thấy có Phó cai đội “Commandant de compagnie en second”. Nhiều Đội làm thành một Cơ “Régiment”. Mỗi Régiment do một Cai Cơ “Commandant de régiment” và một Chưởng cơ, mà tôi dịch là “Général de régiment” điều khiển. Chưởng Cơ lớn hơn Cai cơ. Tôi không biết nếu Chưởng cơ coi một hay nhiều Cơ. Nhưng có lẽ một Cơ th́ đúng hơn, bởi v́, như ta đă thấy, trong văn bằng của Chaigneau, sau khi được thăng Chưởng cơ, cũng chỉ coi có hai Đội quân, tức là Đội một và Đội hai Kiên-Thuỷ.

 

Trong Liệt truyện, có một bài mà ta sẽ thấy sau, nói rằng Đa-đột (đối với tài liệu này là Chaigneau), Ba-ni-ê, Lê-Văn-Lăng (de Forcant) và Ô-li-vi, khi mới từ Âu châu đến, đều được nhận chức Cai-đội. Điều đó đúng với Vannier, Dayot, Barisy, Isle-Sellé, và Lebrun. Không có ai, trong buổi đầu, nhận chức phó Cai đội. Vậy chúng ta đành phải công nhận, mặc dù vẫn có chút hồ nghi, rằng Chaigneau, khi đến Nam Hà, cũng nhận được chức Cai đội, trừ phi ông được hưởng ân huệ đặc biệt, lên thẳng chức “Cai cơ”.

 

Năm Cảnh Hưng thứ 51, 1790, ít lâu sau khi đến Nam Hà, những người bạn của Chaigneau, nhận được chức Cai đội hay phó Cai đội. Chaigneau đến vài năm sau, 1794, lúc ấy mới nhận chức Cai đội hay Cai cơ“. (Cadière, Les francais au service de Gia Long, Leurs nom, titres et…, BAVH, 1920, I, t.150)

 

Thực ra, Vannier, Chaigneau và de Forcant (có chỗ viết Forcanz), đến tháng 2-3/1800 (tháng 2 ÂL) khi được cai quản các tàu hiệu: Phượng Phi, Long Phi và Bằng Phi, vẫn c̣n là Cai đội (TL, I, t. 407). Nói khác đi, Vannier ở chức Cai đội 11 năm (1790-1801), Chaigneau 7 năm (1794-1801), de Forcant không biết đến Gia Định lúc nào; và trong suốt thời gian này, họ chỉ được cai quản khoảng 40- 50 người lính, kể cả khi được lái các tàu hiệu Phượng Phi, Long Phi và Bằng Phi, họ vẫn phải ở dưới quyền một viên Cai cơ người Việt. Như vậy đủ biết việc lên chức không dễ dàng.

 

Đến tháng 7/1801 (tháng 6 ÂL), ba người này mới được lên chức Cai cơ [có thể cai quản từ 120 đến 300 người, v́ các tàu Phượng Phi, Long Phi và Bằng Phi có thể chở tới 300 lính]. Thực Lục viết: “Cho Khâm sai thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Thắng [Chaigneau], Nguyễn Văn Chấn [Vannier] và Lê Văn Lăng [de Forcant] làm Khâm sai thuộc nội Cai cơ, vẫn quản các thuyền hiệu Long phi, Phượng phi và Bằng phi” (TL, I, t. 451).

 

Cuối cùng, đến tháng 6/1802, sau chiến thắng toàn diện, cả ba được thăng lên Chưởng cơ [có thể cai quản 600 quân], theo sự lên chức chung của toàn thể quân đội. Văn bằng của Vannier ghi ngày 6/12/1802; Chaigneau ghi ngày 6/12/1802, (André Salles, Notice sur la Cochinchine fournie par M. Chaigneau, BAVH, 1923, II, t.270).

 

Nhưng Chaigneau cũng chỉ được coi có hai Đội quân, tức là Đội một và Đội hai Kiên-Thuỷ, nghiă là vào khoảng hơn 100 quân.

 

De Forcant mất năm 1811, sau đó chỉ c̣n Chaigneau và Vannier ở lại trong triều, với chức tước và được hậu đăi: vua cho giữ lại 50 lính thuỷ làm quân hầu cận, nhưng họ không có quân và cũng không cho thuyền hiệu để cai quản. Đó là những người làm việc lâu nhất cho Gia Long.

 

Riêng trường hợp Olivier de Puymanel, từ tháng 7-8/1792 (tháng 6 ÂL) đă được thăng từ Cai đội lên Vệ Uư ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách (TL, I, t.286), đến tháng 6/1795 Puymanel bỏ đi Macao rồi lại trở về làm một số nhiệm vụ khác cho vua, và mất năm 1799, ở Malacca.

 

Kết luận về tổ chức và sự cải tổ quân đội của Nguyễn Ánh

 

Nh́n lại tổ chức này, ta thấy có những điểm đáng chú ư sau đây:

 

1/ Những điều Montyon, Chaigneau, và cả Cadière viết, chứng tỏ quân đội Nguyễn Ánh không có ǵ là “Tây phương” cả, từ cách trang bị vũ khí đến nội dung các binh đoàn.

 

2/ Quân đội Nguyễn Ánh được tổ chức giống như đời Lê: Đội, Cơ, Dinh, chỉ thay đổi tên, số người và chức tước các quan vơ. Đơn vị quân đội vẫn bắt đầu từ Đội (40-50) người, đến Hiệu, (Vệ, Cơ) (từ 3 đến 10 đội), sau tới Chi (5 đến 10 Cơ) và sau cùng là Dinh (5 Chi trở lên). Hai đơn vị ở giữa: Cơ và Chi, có thể bỏ đi một, tùy theo thời điểm.

 

3/ Không có ǵ chứng tỏ những “sĩ quan” Pháp đă cải tổ quân đội Nguyễn Ánh theo lối Tây phương. Chính học giả Cadière, một trong những người biện hộ cho điều này, cũng rất bối rối khi ông phải dịch những chức vụ trong quân đội Gia Long sang tiếng Pháp. Nếu quân đội này được tổ chức theo kiểu Pháp, th́ ông đă không gặp khó khăn đó.

 

4/ Có thể nói Nguyễn Ánh cải tổ quân đội, theo đ̣i hỏi của cuộc chiến: V́ Tây Sơn có lực lượng pháo binh và công binh hùng hậu, có khả năng xây thành luỹ chớp nhoáng, Nguyễn Ánh nhiều lần tăng trưởng đội ngũ quân Thần Sách (công binh và pháo binh); v́ Tây Sơn có lực lượng Tượng binh hùng hậu, Nguyễn Ánh cũng phải có đội voi trận để đương đầu, Nguyễn Đức Xuyên là người chỉ huy kiêm cả Thần Sách lẫn Tượng binh, hai đội quân đặc biệt theo sự cải tổ quân đội của Nguyễn Ánh.

 

5/ Những người lính Pháp đến đánh giúp Nguyễn Ánh, đă tự ḿnh khai man hoặc do chính Bá Đa Lộc khai man họ là “sĩ quan” (thực ra họ chỉ là binh nh́, binh nhất, chúng tôi sẽ chứng minh sau), nên đă được Nguyễn Vương cho chức Cai đội (tháng 6/1790), là cấp thấp nhất trong phẩm trật quan vơ.

 

6/ Phần lớn những người này không được lên trật nhanh; ví dụ Vannier, đến Gia Định sớm nhất và có nhiều kinh nghiệm thuỷ quân nhất, trong 11 năm, ông vẫn ở nguyên trật Cai đội, và Chaigneau, là thủy thủ đi biển từ tuổi 12, vậy mà trong 7 năm không được lên trật. Điều đó chứng tỏ họ không có công trạng ǵ nhiều.

 

7/ Ai có công, đều được ghi rơ, Liệt truyện ghi tên những người:

 

- Mạn Hoè (Manuel) với ḷng quả cảm, chết trận, được đưa vào đền Hiển Trung.

 

- Puymanel mua bán vũ khí cho Nguyễn Vương và chuyên hướng pháo binh. Năm 1792, được thăng chức Vệ uư quân Thần Sách. Năm 1797, theo Nguyễn Văn Khiêm đi đánh Đà Nẵng, lập kế hoả công đốt thuyền địch (Liệt truyện, tập 2, t. 228).

 

Thần sách là pháo binh và công binh, chứ không phải là “một thứ quân chủ lực” hay là “quân ở Kinh” như Tạ Trí Đại Trường lầm tưởng khi ông đề cao Puymanel là người “đă tập luyện cho đám cận vệ 12 ngàn người theo chiến thuật Tây Phương” (Lịch sử nội chiến Việt Nam, t. 231), hoặc cho rằng Puymanel là người “xây thành Vauban Gia Định, cùng Lebrun, theo lời yêu cầu của Nguyễn Ánh” (LSNCVN, t. 205, 233), hay ông viết: “Thành Diên Khánh là của Olivier vẽ ra, nó là em sinh sau của thành Gia Định” (LSNCVN, t. 267), đó là những xác định không có cơ sở, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần viết về Olivier de Puymanel.

 

- Ba người c̣n lại là Vannier, Chaigneau và de Forcant, điều khiển ba tàu đồng Phượng Phi, Long Phi và Bằng Phi, hộ tống Nguyễn Vương trong các chiến dịch 1801-1802. Năm 1802, sau chiến thắng, cả ba được thăng chức Chưởng cơ.

 

Đó là bốn chức quan vơ lớn nhất của người Pháp, được Liệt truyện ghi nhận (tập 2, t. 507).

 

7/ Sau cùng, xin tóm tắt lại t́nh trạng của những người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh:

 

Tháng 6/1780, một số người như: Vannier, Dayot, Barisy, Isle-Sellé, Puymanel, Lebrun… được nhận chức Cai đội. Tháng 7-8/1792 (tháng 6 ÂL) Puymanel được thăng Vệ Uư.

 

Tháng 7/1801 Vannier, Chaigneau, de Forcant, được thăng Cai Cơ.

 

Tháng 12/1802, Vannier, Chaigneau, de Forcant, được thăng Chưởng Cơ.

 

Đó là tất cả những người Pháp có chức vụ cao nhất và ở lại lâu nhất trong quân đội Gia Long.

 

Những người khác đều đă bỏ đi, qua hai đợt: đợt đầu, 1792, khi hay tin Nguyễn Huệ quyết định san bằng Gia Định, nhưng chưa thực hiện, th́ Nguyễn Huệ mất. Đợt thứ nh́ năm 1795.

 

Vai tṛ của người Pháp trong quân đội Nguyễn Ánh khá rơ ràng. Thực Lục và Liệt Truyện đều ghi công đầy đủ, không hạ thấp hoặc lờ đi giá trị của họ. Các học giả và sử gia Pháp như Cadière, Maybon cũng không t́m được ǵ mới hơn, ngoài sự tôn vinh vô bằng cớ và đưa vào danh sách này, Dayot, một người phản bội Gia Long, chúng tôi sẽ nói đến trong phần viết về Dayot.

 

Tại sao Maybon triệt hạ cuốn sách của Montyon?

 

Bộ sách của Montyon, giúp ta làm sáng tỏ một số vần đề liên quan đến “công trạng” của người Pháp đối với Nguyễn Ánh. Tại sao sử gia Maybon lại có ác cảm với cuốn sách này?

 

Khi viết bài giới thiệu tác phẩm của Montyon, in trong cuốn La Relation de La Bissachère (t. 33-67), Maybon đă không tiếc lời chỉ trích tác giả: “tích tụ những lẫn lộn và sai lầm quá đáng”, “phạm những cái sai rành rành về dữ kiện”, “bất lương, đánh lừa độc giả”. Ông liệt kê nhiều “tội” lắm, đáng kể nhất là “tội”, dám đề tên La Bissachère ở b́a sách.

 

Về việc này, chúng tôi tạm đưa giả thuyết: Đó là thời kỳ quư tộc Pháp phải trốn cách mạng 1789, và hàng trăm ngh́n người bị đe dọa máy chém. Nam tước Montyon trốn sang Anh, nên không thể đề tên ḿnh ở một cuốn sách dù in ở Anh hay ở Pháp; ông bèn mượn tên Bissachère, là một vị linh mục đă sống nhiều năm ở Bắc Hà và được nhiều người biết đến.

 

Tiếp đó, Maybon đưa ra đ̣n thứ nh́: ông trích một đoạn rất dài trong bài tựa của Montyon, trong có những câu ca ngợi Gia Long, để mỉa rằng: tác giả chuyên nghề ca tụng.

 

Đ̣n thứ ba, về nội dung cuốn sách, Maybon phê: “Người ta thấy Montyon đă mở rộng cửa cho đủ loại tin tức, đủ loại nguồn, và ta sẽ kinh ngạc thấy trong hai tập sách này một sự pha trộn đầy đủ liều lượng giữa những điều đúng, những báo cáo hoàn toàn bịa đặt và những thông tin không có nguồn nào khác ngoài trí tưởng tượng phong phú” (Maybon, Relation Bissachère, t.43). Với một lời giới thiệu như thế, ai c̣n t́m đọc cuốn sách này?

 

Mặc nhiên, không thấy Maybon vạch ra được một đoạn nào là “hoàn toàn biạ đặt” hoặc do “trí tưởng tượng phong phú”.

 

Đ̣n chót, để chứng minh Montyon chép của Barrow, Maybon in lại trên hai cột, một bên là phần viết của Montyon, một bên là phần viết của Barrow, với lời rào đón:

 

“… để cung cấp một vài thí dụ về cách viết của ông [Montyon], tốt hơn là in bảng tŕnh bày những sự vay mượn của ông” (Maybon, Relation Bissachère, t. 54).

 

Như chúng tôi đă tŕnh bày, có những điểm giống nhau giữa hai cuốn sách, nhưng khó quyết đoán là Montyon chép của Barrow, chỉ có thể kết luận: hai người này dùng chung tài liệu.

 

Bộ sách của Montyon dày 532 trang, bàn đến rất nhiều vấn đề không có trong sách của Barrow [179 trang] và Bissachère [72 trang]. Bảo rằng Montyon chép của hai tác giả này là khiên cưỡng.

 

Maybon đă khai trừ cuốn sách của Barrow. Bây giờ ông lại xổ toẹt bộ sách của Montyon.

 

Chúng ta có thể hiểu một số lư do khiến Maybon hành động như vậy:

 

1- Về việc khôi phục ngai vàng, Montyon viết: “[Gia Long] khôi phục được ngai vàng, nhờ quyền thừa kế, nhờ sức chinh phục” (Montyon II, t. 3), chứ không phải nhờ Bá Đa Lộc và các “sĩ quan” Pháp.

 

2- Về việc người Pháp giúp Gia Long, Montyon viết: “Vài sĩ quan Pháp theo giúp Nguyễn Chủng, tập cho quân sĩ kỷ cương và vài nhà buôn Pháp bán tàu cho ông” (Montyon II, t. 34). Sự xác định “vài” sĩ quan Pháp, đi ngược với điều mà nhiều người trong số đó có Maybon, thổi lên thành vài trăm.

 

3- Về việc đóng tàu, Montyon viết: Ông [Gia Long] là người giỏi nhất về chiến thuật, là kỹ sư giỏi nhất, người kiến trúc tàu giỏi nhất, ở xứ ông” (Montyon II, t. 52). Điều này đi ngược với sự đề cao: Puymanel và Dayot, chỉ huy việc đóng thuyền tàu ở Việt Nam.

 

4- Về kiến trúc thuyền, Montyon viết: “Về việc đóng thuyền, nước này [nước Nam] có một kỹ thuật đặc biệt: những tấm ván làm thuyền được buộc chặt với nhau bằng dây mây, thay đinh, lối ráp này khiến thuyền uyển chuyển hơn, đặc biệt chống lại sóng biển”. (Montyon I, t. 128). “Chiến hạm, lớn hơn, thân tàu vững hơn và kiến trúc tốt hơn tàu Trung Hoa” (Montyon I, t.129). Nhận xét này trái với lập luận: Trước khi người Âu đến, người Việt không biết đóng thuyền, tàu.

 

Như vậy, ta có thể kết luận rằng: hai cuốn sách khá quan trọng, một của người Anh Barow và một của người Pháp Montyon viết về thời đại Tây Sơn-Nguyễn Ánh, xuất bản rất sớm, từ đầu thế kỷ XIX, đă không xuyên tạc sự thực lịch sử. Sự xuyên tạc đến từ Bissachère và những người đi sau.

 

______________________________________

 

 

[1] Tóm tắt nội dung tác phẩm của Montyon: Quyển I (364 trang)

 

Phần thứ nhất: Mở đầu: Con người đă biết rơ mặt địa cầu, vậy ta phải sử dụng lợi ích đó: khám phá đất Bắc Hà (Montyon I, t.1).

 

Chương I (t. 11): Xác định địa danh đất Bắc. Chỉ trích người Âu bóp méo tên nước, tên thành phố Á Châu, v́ không hiểu nghiă: “Gọi tên Tunkin là không đúng: tên của xứ đó là “Nước Nam”… bao gồm hai miền Tunkin (Bắc Hà) và Cochinchine (Nam Hà). Và để phân biệt, người ta gọi Nam Hà là Đàng Trong và Bắc Hà là Đàng Ngoài. Sự sai lầm đến từ việc [người Âu] lấy tên Đông Kinh (Tunkin) là kinh đô để gọi cả miền.” (Đoạn này viết theo Bissachère).

 

Ch. II (t.16): Địa lư Bắc Hà (núi non, sông ng̣i, bờ biển, đảo). Ch.III (t. 26): Khí hậu (êm dịu, các mùa, gió băo). Ch.IV (t. 37): Địa chất (tính chất đất đai, hang động, mỏ vàng, mỏ bạc, nước độc). Ch.V (t. 48): Chủng tộc (diện mạo, tính t́nh, thể chất, phong tục, bệnh tật). Ch.VI (t. 56): Dân cư (thống kê dân số, phân phối, nạn đói và chiến tranh). Ch.VII (t. 64): Súc vật (gia súc, thú rừng, ḅ sát, cá, chim). Ch.VIII (t. 84): Đất đai và trồng trọt (nông sản, hoa quả, thảo mộc, gia vị, vị thuốc, lâm sản…). Ch.IX (t. 117): Chài lưới và đường thủy (nghề đánh cá, nghề làm tàu biển). Ch.X (t.130): Công nghệ (các lư do và trở ngại khiến công nghệ và nghệ thuật thấp kém). Ch.XI (t.139): Nghệ thuật (Âm nhạc, ngâm thơ, hội họa (chê người Việt không biết vẽ) điêu khắc, trạm trổ, nhẩy múa (chê), kiến trúc: tả cung điện Phú Xuân (t.148). Ch.XII (t. 154): Thương mại (nội thương: trở ngại phát triển, đo lường, tiền tệ; ngoại thương: miền Bắc bị giới hạn, miền Nam mở rộng hơn, thể chế, sản vật trao đổi). Ch.XIII (t.173): Thực phẩm (dồi dào, nhiều loại tôm cá, gia súc, cách thức ăn uống. Khen người Bắc ăn ngon hơn người Nam và người Nam ăn ngon hơn 4 dân tộc xung quanh). Ch. XIV (t. 187): Y phục. Ch.XV (t.192): Nhà cửa.

 

Phần thứ nh́: Trật tự xă hội (t.197)

 

Ch.I (t. 199): Tổ chức chính trị ở Bắc (thần phục Tàu trên nguyên tắc, thực tế độc lập, tự chủ). Ch.II (t. 215): Luật vua, lệ làng (cưới hỏi, quyền huynh thế phụ, kiện tụng, luật pháp). Ch.III (t. 235): Tài chính (thuế khoá). Ch.IV (t. 247): Lực lượng quân sự (cách đánh nhau ngày xưa, t́nh trạng hiện thời, tổ chức, lương bổng, y phục, khí giới, thao luyện, kỷ luật, hải quân). Ch.V (t. 262): Tôn giáo (sức mạnh, ảnh hưởng, giáo lư, giáo huấn, thờ phụng, tế tự, thờ cúng tổ tiên, đạo Phật, đạo Khổng, lịch sử người Âu đến Việt Nam, đạo Chúa và cấm đạo). Ch.VI (t. 290): Tính t́nh người Bắc (trọng quyền sở hữu, ghét đổ máu, từ thiện, thân ái, yêu kính mẹ cha, trọng người già, ăn mặc kín đáo, ít măi dâm, vui vẻ, thích thanh lịch, có óc công dân, can đảm, trọng danh dự, lười biếng, háu ăn, khoe khoang, ḷng căm thù dân tộc). Tính t́nh của dân Chàm, Lào và Lạc Thổ [Lạc Thổ được tác giả xác định: nam giáp Lào, bắc và đông giáp Bắc Hà, tây giáp Tàu, chắc là vùng Lai Châu, Sơn La]. Ch.VII (t. 313): Tập tục (trang điểm, để tóc dài, nhuộm răng đen, ăn trầu, đám ma, tuồng chèo, các tṛ chơi: chọi gà, cờ tướng). Ch.VIII (t. 331): Ngôn ngữ (so sánh với tiếng Tàu, tổ chức ngôn ngữ Việt, tính chất, cách phát âm, chữ viết và cải cách chữ viết). Ch.IX (t. 350): Khoa học (sự chậm tiến của khoa học, có nhiều khoa: thiên văn, thuốc ta, in ấn, trường dạy). Ch.X (t. 358): Văn chương (Người Bắc tự kiêu về văn chương của họ, sự giầu có của tiếng Bắc không giúp ích cho văn chương. Văn phong tiết độ. Nói giỏi. Sử không đúng và viết không hay. Tính chất của thơ, kịch, sự thoái trào của văn chương, khả năng khôi phục.)

 

Quyển II (168 trang)

 

Phần thứ ba : Chương I (Montyon II, t.1- 54): Những biến cố chính ở Bắc Hà, Nam Hà và các nước khác. Tác giả chia lịch sử Việt Nam làm 4 thời kỳ: Thời kỳ 1 (t. 4): Từ lập quốc đến nhà Lê. Thời kỳ 2 (t. 10): Vua Lê-chúa Trịnh. Thời kỳ 3 (t.13): Nam Bắc phân tranh. Thời kỳ 4 (t. 15): Chiến tranh Nguyễn-Tây Sơn. Ch.II (t. 55): Tóm lược các dữ kiện và các nguyên nhân. Ch.III (t. 97-131): Dự kiến tương lai.

 

Phụ lục: Một số tài liệu (t.133)

 

Dụ phong Hoàng tử Cảnh làm Đông cung (1793) (t.135)

 

Dụ phong chức quan khâm sai (t.137)

 

Hịch của vua Quang Trung gửi dân hai miền Quảng Ngăi và Quy Nhơn (t.140)

 

Bản kê khai lực lượng quân sự của Nguyễn Vương trong cuộc chiến khôi phục ngai vàng (t.141-142)

 

Lá thư của Bá Đa Lộc (t.143-144)

 

Lá thư của thừa sai Grillet đề ngày 4/8/1793 (t.145)

 

Bài tựa tiếng La tinh cho cuốn từ điển Việt-Bồ-La (t.147-148)

 

10 điều răn của Chúa, song ngữ Việt-Pháp (t.149-151)

 

Trích di chúc Khang Hy (1723) (t.152-156)

 

[2] Trong phần phụ lục, Montyon cho in bản thống kê toàn bộ lực lượng quân đội Nguyễn Vương năm 1800, tạm gọi bản Montyon để phân biệt với bản Barrow. Hai bản có lẽ cùng nguồn Barisy; có thể Montyon chép lại bản Barisy viết tay; c̣n Barrow thu gọn và sắp xếp lại cho dễ hiểu. Bản Montyon cho thấy Nguyễn Vương có 12.000 Vệ binh. Dưới Nguyễn Vương là 5 ông tướng coi 5 dinh, mỗi dinh 6.000 người.

 

Lực lượng quân sự của vua Nam Hà trong cuộc chiến khôi phục lănh thổ

 

Can-hung:

 

Fenk-junk….. 4 bataillons 3.200

 

Iroé-junk…… 4 4.000

 

Iroé-haim….. 4 4.000

 

Coupeurs de têtes 12 compagnies 800

 

Ong-jong-don-ton… 5 régiments … 10 compagnies 6.000

 

Ong-jong-don-sna…. 5….. 10 6.000

 

Ong-jong-don-ham… 5….. 10 6.000

 

Ong-jong-don-thien… 5 10 6.000

 

Ong-ban-jouk-thien… 5….. 10 6.000

 

Bufles espèce de cavalerie anciennement d’usage, mais aujourd’hui décréditée (Trâu thay ngựa trong chiến trận xưa, nay đă bỏ)… 24 escadrons… 6.000

 

Le Prince Royal ….. Corps de Saakoun 20 escadrons… 12.000

 

Ong han-Quoan….. Corps don-han…. 14 …. 11.200

 

Ong-han-Quoan…. Corps Don-han-Quoan 14…. 7.000

 

Ong-jien-Quoan…. Corps Jien-Quoan… 14……. 7.000

 

Tổng cộng …. 85.200

 

Ong-jien-Shpaon… Corps de Jien-Shpaon.. 6 bâtiments … 4.800

 

Can-King…. Artillerie (pháo binh)… 30 15.000

 

Thiy-Chooa et Ong-yam…Eléphants (voi) 200… 16… 8.000

 

Ong-jong-joany… Galères, 100…. 12… 8.000

 

Ong-haa…. Thao (thuyền)… 4…. 1.600

 

Ong-jam…. Arsenal (xưởng đóng tàu).. 12…. 8.000

 

Ong-Koan-baux… Charpentiers calfats (thợ trét) 12… 8.000

 

Vaisseaux européens (Tàu Tây phương)… 2….. 1.200

 

Tổng cộng tất cả….. 139.800

 

(Montyon II, t. 141-142)

 

Chúng tôi để nguyên tiếng Pháp, không dịch v́ không biết rơ những chữ phiên âm từ tiếng Việt ra như Ong-jam, chỉ đoán là Ông Giám (quân); Ong-jien-Quoan là Ông Tiền quân; Ong-han-Quoan là Ông Hậu Quân, v.v. Chắc là nguyên bản của Barisy, v́ Barisy có lối viết như thế. Barrow sửa chữa và sắp đặt lại cho có hệ thống, dễ hiểu hơn:

 

Đây là lực lượng quân đội Nam Hà năm 1800, theo đại uư Barisy

 

Bộ binh

 

24 đội kỵ binh (cưỡi trâu)… 6.000 người

 

16 đại đội voi (200 con)… 8.000 người

 

30 đại đội pháo binh… 15.000 người

 

25 chi đoàn 1.200 người trang bị vũ khí Âu châu… 30.000 người

 

Bộ binh trang bị kiếm và súng cổ trong nước… 42.000 người

 

Vệ binh tập luyện theo lối Âu châu….. 12.000 người

 

Tổng cộng bộ binh…. 113.000 người

 

Thuỷ binh

 

Lính thợ trong xưởng đóng tàu….. 8.000 người

 

Lính thuỷ, mộ hay nối dơi (cha, anh), trên những chiến hạm đậu ở cảng… 8.000 người

 

Lính biệt phái sang những tàu chiến kiểu Tây phương… 1.200 người

 

Lính biệt phái thuyền buồm (jonque)… 1.600 người

 

Lính biệt phái 100 thuyền chiến chèo (galère)… 8.000 người

 

Tổng cộng thủy binh…. 26.800 người

 

Tổng cộng tất cả: 139.800 người

 

(Barrow II, t. 237-238)

 

Nhận xét: Cả hai bản kê khai này, có thể thiếu sót, sai lầm, bởi nếu so với số thuyền tàu và thuyền chiến bọc đồng ghi trong Hội điển và Thực Lục, th́ không thể gọi là đầy đủ.)

 

Thụy Khuê

 

Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-9/

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Gịng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn 

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: