֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎
◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙
◘ White House ◘ National Archives ◘ .
◘ Federal Register ◘ Associated Press
◘ Reuter News ◘ Real Clear Politics
◘ MediaMatters ◘ C-SPAN ◘ .
◘ Videos Library ◘ Judicial Watch ◘
◘ New World Order ◘ Illuminatti News
◘ New Max ◘ CNS ◘ Daily Storm ◘
◘ Observe ◘ American Progress ◘
◘ The Guardian ◘ Political Insider ◘
◘ Ramussen Report ◘ Wikileaks ◘
◘ National Review - Public Broacast ◘
◘ Federation of Anerican Scientist ◘
◘ Propublica ◘ Inter Investigate ◘
◘ ACLU Ten ◘ CNBC ◘ Fox News ◘
◘ CNN ◘ FoxAtlanta ◘
◘ Học Viện Ngoại Giao ◘
◘ Việt Báo ◘ Việt List ◘ Xây Dựng ◘
◘ Phi Dũng ◘ Việt Thức ◘ Hoa Vô Ưu
◘ Việt Tribune ◘ Saigon Times USA ◘ ◘ Người Việt Seatle ◘ Cali Today ◘
◘ Dân Việt ◘ Việt Luận ◘ Thơ Trẻ ◘
◘ Tin Mới ◘Tiền Phong ◘ Xă Luận
◘ Dân Trí ◘ Tuổi Trẻ ◘ Express ◘
◘ Lao Động ◘Thanh Niên ◘Tiền Phong ◘ Tấm Gương ◘ Sài G̣n ◘ Sách Hiếm ◘ Thế Giới ◘ Đỉnh Sóng ◘ Chúng Ta
◘ Eurasia ◘ ĐCSVN ◘ Bắc Bộ Phủ
◘
Văn Học ◘
Điện Ảnh
◘
Cám Ơn Anh
◘
TPBVNCH
◘1GĐ/1TPB
◘
Bia Miệng
MINH THỊ
Dân tộc Việt Nam không cần thắp đuốc đi t́m tự do, dân chủ, nhân quyền ở Washington, Moscow, Paris, London, Péking, Tokyo. Đó là con đường của bọn nô lệ vọng ngoại, làm nhục dân tộc, phản bội tổ quốc, đă đưa đến kết thúc đau thương vào ngày 30 – 4- 1975 và để lại một xă hội thảm hại, đói nghèo lạc hậu ở Việt Nam gần nửa thế kỷ nay..Đă đến lúc quốc dân Việt Nam phải dũng cảm, kiên quyết đứng lên dành lại quyền quyết định vận mạng của đất nước. Kim Âu
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
THÁNG HAI NĂM MỚI 2017
֎֎֎֎֎֎֎֎֎֎֎֎֎֎֎
◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙
Lịch sử chữ Quốc Ngữ
Trần Gia Phụng
(Trung tâm Nguyễn Trường Tộ)
Quốc ngữ là chữ viết chung của dân chúng cả nước. Từ thời Ngô
Quyền lập quốc (939), các triều đại cầm quyền đă mượn chữ Nho (chữ Hán) để sử
dụng trong hành chánh, học thuật. Dầu vậy, người Việt vẫn nói tiếng Việt, không
công nhận chữ Nho là quốc ngữ, và t́m cách sáng tạo ra quốc ngữ cho riêng ḿnh.
Đầu tiên, người Việt dựa trên chữ Nho để chế ra chữ Nôm. Chữ
Nôm được ghi nhận chính thức xuất hiện vào thế kỷ 13, khi Nguyễn Thuyên, lúc đó
đang là h́nh bộ thượng thư dưới triều Trần Nhân Tông (trị v́ 1279-1293), làm bài
văn "Tế cá sấu" bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm được xem là quốc ngữ bên
cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn An (? - 1370) được ông gọi là Quốc
ngữ thi tập (Tập thơ quốc ngữ).(1) Tuy nhiên, chữ Nôm cấu tạo trên căn bản chữ
Nho, nên muốn học chữ Nôm th́ phải biết chữ Nho tức chữ Hán.(2) V́ vậy chữ Nôm
khó học, không phổ thông trong dân chúng, và ít được sử dụng.
Từ thế kỷ 17 trở đi, một thứ chữ mới xuất hiện. Nhờ giản dị,
dễ sử dụng, sau ba trăm năm thử nghiệm, thứ chữ nầy càng ngày càng trở nên phổ
thông và biến thành quốc ngữ, mà ngày nay người Việt đang sử dụng.
I.- V̀ SAO XUẤT HIỆN QUỐC NGỮ
Từ thế kỷ 16, các giáo sĩ Ky-Tô Tây phương bắt đầu đến truyền
giáo tại nước ta. Lúc đầu, các giáo sĩ thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, theo các
ḍng tu khác nhau, thuộc nhiều giáo phận khác nhau, trong đó đông nhất là các
giáo sĩ Ḍng Tên.(3)
Khi đến Đại Việt bằng tàu thuyền, các giáo sĩ đặt chân đầu
tiên lên miền duyên hải. Muốn giảng đạo, các ông không đến rồi đi liền, mà ở lại
sống chung dài hạn lẫn lộn với dân chúng. Muốn thế đầu tiên các giáo sĩ phải học
nói tiếng Việt để giao tiếp hằng ngày. Tập nói để hiểu được người Việt và làm
sao nói cho người Việt hiểu được ḿnh, các giáo sĩ mới có thể bắt đầu truyền
đạo.
Khi truyền đạo, các giáo sĩ không phải chỉ nói, mà c̣n dùng
kinh sách để giảng giải. Ngoài kinh sách bằng chữ la-tinh, các giáo sĩ có thể
sẵn có Thánh kinh bằng chữ Nho (chữ Hán) do các cơ sở ở Ma Cao cung cấp. [Ma Cao
(Trung Hoa) là nơi các ḍng tu Ky-Tô giáo La Mă đặt trụ sở để truyền đạo vào
Trung Hoa và qua Nhật Bản.] Tuy nhiên ít người trong dân chúng biết chữ Nho,
nhất là ở các vùng nông thôn vốn nghèo khổ, ít học.
V́ vậy, để truyền đạo cho người Việt, các giáo sĩ phải viết
kinh sách bằng tiếng Việt. Học nói th́ không cần chữ nghĩa, nhưng kinh sách th́
phải có chữ nghĩa. Không thể dùng chữ Nôm để viết tiếng Việt, các giáo sĩ kư âm
thẳng tiếng Việt bằng mẫu tự la-tinh, rồi mới dùng thứ chữ mới kư âm nầy để viết
sách giáo lư bằng tiếng Việt. Mẫu tự la-tinh chỉ gồm 24 chữ cái, có thể dùng để
lắp ghép thành các từ ngữ trong tiếng Việt, nên thứ chữ mới nầy giản dị, dễ học,
dễ viết, dễ sử dụng, dễ truyền bá.
Từ đó, các giáo sĩ và những người Việt tân ṭng hoặc học đạo
với các giáo sĩ, đă hợp tác và tạo nên một thứ chữ mới vào thời đó, mà học giả
Pétrus Kư, tức Trương Vĩnh Kư gọi là "quốc ngữ" trong một bài viết trên Gia Định
Báo ngày15-4-1867.(4)
II.- CÁC GIAI ĐOẠN H̀NH THÀNH QUỐC NGỮ
GIAI ĐOẠN 1: NHU CẦU TRUYỀN ĐẠO CỦA CÁC GIÁO SĨ
Các giáo sĩ Ky-Tô La Mă đến Đại Việt để truyền đạo. V́ nhu cầu
truyền đạo, các ông sáng chế chữ quốc ngữ chỉ để làm phương tiện phổ biến rộng
răi giáo lư đạo Ky-Tô, chứ không nhắm mục đích tạo nên một thứ chữ mới cho dân
Việt sử dụng.Người có công đầu trong việc sáng chế quốc ngữ là linh mục
Francesco de Pina (1585-1625), một giáo sĩ Ḍng Tên, người Bồ Đào Nha, đến Đàng
Trong năm 1617, từ trần v́ đắm thuyền ở vịnh Đà Nẵng năm 1625. Ông là người đầu
tiên nói thạo và giảng đạo bằng tiếng Việt. Hợp tác với nhiều người, và đặc biệt,
nhờ sự giúp đỡ của một thanh niên Việt có tên đạo là Phê-rô, De Pina đă khởi
thảo la-tinh hóa tiếng Việt, soạn thảo một bản văn phạm quốc ngữ, dịch và soạn
sách giáo lư đạo Ky-Tô bằng tiếng Việt, mở trường dạy tiếng Việt cho người ngoại
quốc.(5a)
Năm 1618, linh mục De Pina cùng với Phê-rô dịch qua tiếng Việt
lần đầu tiên Kinh lạy Cha và các kinh căn bản khác trong Ky-Tô giáo La Mă, (5b)
có thể xem là khởi đầu cho việc sơ thảo quốc ngữ. Theo lời linh mục De Pina, năm
1622, ông hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự la-tinh thích hợp với cách phát âm và
thanh điệu tiếng Việt.(5c) Rất tiếc giai đoạn nầy chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Bản Kinh lạy Cha được viết tay năm 1632 c̣n được nguyên bản như sau: (5d)
Trong số các học viên trường tiếng Việt của De Pina, có một
người về sau nổi tiếng là Alexandre de Rhodes (1593-1660). Giáo sĩ De Rhodes đến
Hội An năm 1624. Ngoài De Pina, De Rhodes c̣n học tiếng Việt với nhiều người địa
phương, trong đó có một thiếu niên 13 tuổi ở Hội An, sau De Rhodes nhận làm con
nuôi, và người nầy trở thành thầy giảng Raphael Rhodes. Năm 1645, A. de Rhodes
bị trục xuất ra khỏi Đàng Trong, về Ma Cao.
Alexandre de Rhodes qua La Mă năm 1950. Năm 1651, tại La Mă,
ông đứng tên tác giả, ấn hành hai bộ sách. Thứ nhất là Catechismus pro ijs, qui
volunt suscipere Baptismum, in octo dies divisua (Giáo lư dành cho những ai muốn
chịu Phép Rửa, chia ra tám ngày).(6) Thứ hai là Dictionarium Annamitcum
Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt - Bồ - La).(7)
V́ Alexandre de Rhodes gốc Pháp, nên người Pháp đă ca tụng ông
như là nhà sáng chế chữ quốc ngữ, để kể công "khai hóa" của thực dân Pháp. Thật
ra, người đầu tiên sáng chế chữ Quốc ngữ là linh mục Francesco de Pina, rồi đến
nhiều giáo sĩ khác, trước khi De Rhodes đến Đại Việt. Trong lời "Cùng độc giả"
vào đầu quyển từ điển năm 1651, A. de Rhodes cũng xác nhận:
"Tôi cũng sử dụng những công tŕnh của
nhiều cha khác cùng một Hội Ḍng, nhất là của cha Gaspar de Amaral và cha
Antonio Barbosa, cả hai ông đều đă biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước
bắt đầu bằng tiếng An nam, ông sau bằng tiếng Bồ Đào Nha, nhưng cả hai ông đều
đă chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi c̣n thêm tiếng La-tin theo lệnh
của các hồng y rất đáng tôn kính…"(8)
Nói cho cùng, sự h́nh thành quốc ngữ không phải do công sức cá
nhân của một giáo sĩ, mà là công sức tập thể của nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước
khác nhau, nhiều thế hệ khác nhau, đă đến truyền đạo Ky-Tô tại Đại Việt, cộng
với sự đóng góp lớn lao âm thầm của rất nhiều giáo sĩ và thường dân Việt.
Từ đây quốc ngữ được sử dụng càng ngày càng rộng răi trong các
giáo đường, các tu viện Ky-Tô giáo Đại Việt. Một số giáo sĩ Việt bắt đầu dùng
quốc ngữ để viết thư, kể cả thư cho những giáo sĩ nước ngoài. Hai quyển từ điển
khác được soạn thảo là Dictionnarium Annamitico Latinum [Từ điển Việt - La tinh]
của giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc, 1741-1799), cố vấn của Nguyễn Phúc
Ánh, soạn xong năm 1772, và Dictionnarium Annamitico Latinum (Nam Việt Dương
Hiệp tự vị) của Jean Louis Taberd (1794-1840).Bộ tự điển của giám mục Bá Đa Lộc c̣n ở dạng bản thảo, và giám
mục Taberd dựa trên bản thảo nầy, để soạn bộ sách của ông và xuất bản ở Ấn Độ
năm 1838 khi ông hành đạo tại nước nầy.(9)
Khi đô đốc Rigault de Genouilly đánh chiếm thành Gia Định vào
tháng 2-1859, ông thấy rằng các giáo sĩ Ky-Tô La Mă đă thành lập ở đây một
trường học lấy tên là "Collège d'Adran".(10) Tại trường nầy, học sinh được học
chữ la-tinh, quốc ngữ và một ít chữ Pháp.(11)
GIAI ĐOẠN 2: NHU CẦU CAI TRỊ CỦA NGƯỜI PHÁP
Khi chiếm Gia Định, v́ nhu cầu cai trị, phó đô đốc Léonard
Charner đưa ra nghị định ngày 21- 9-1861, dùng trường sở Collège d'Adran, thành
lập Trường thông ngôn với danh hiệu đầy đủ là "Collège Annamite-Français de
Monseigneur l'Évêque d'Adran".(12) Trường thông ngôn chẳng những dạy người Việt
học chữ Pháp để làm thông ngôn, mà c̣n dạy người Pháp học tiếng Việt bằng thứ
chữ mới.
Léonard Charner cho mở ngay nhà in và phát hành báo Le
Bulletin Officiel de l'Expédition de la Cochinchine (Công báo của đoàn Viễn
chinh Nam Kỳ) bằng chữ Pháp, xuất bản số đầu tiên ngày 29-9-1861. Khi Louis
Bonard đến thay Charner ngày 29-11-1961, Bonard cho phát hành báo Le Bulletin
Des Communes có phần chữ Nho để phổ biến rộng răi tin tức nơi người Việt và
người Hoa lúc đó khá đông ở Gia Định. Bonard dự tính ấn hành một tờ báo tiếng
Việt. Tuy nhiên chữ Việt theo mẫu tự la-tinh có nhiều dấu (huyền, sắc, nặng, hỏi,
ngă…), nên phải đặt chữ cái để sắp chữ in, đúc ở Pháp, mất hai năm mới xong
(1864). Nhờ vậy ngày 15-4-1865, tờ báo tiếng Việt bằng thứ chữ mới, phiên âm
theo mẫu tự la-tinh, lần đầu tiên đượïc phát hành tại Sài G̣n là Gia Định Báo.(13)
Trên Gia Định Báo số 4, ngày 15-4-1867, Pétrus Kư (1837-1898) đă viết một bài
khuyến khích việc học thứ chữ mới, trong đó có đoạn như sau:
"…Thầy Kư dạy học có làm sách mẹo [văn phạm] dạy tiếng Lang Sa
[Pháp], có làm ra chữ quốc ngữ [sic] để người ta dễ học. Những người kư lục [thư
kư] giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ v́ có hai mươi bốn chữ và
viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ [khó dễ] cũng viết đặng, không phải
như chữ Tàu học già đời mà c̣n có chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường [Tôn
Thọ Tường] đă học đặng chữ quốc ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu,
ra công học một đôi tháng th́ thuộc hết…"(14)
Danh từ "quốc ngữ" có thể xuất hiện trước đó trong giới Ky-Tô
giáo, nhưng nay mới được Pétrus Kư chính thức "khai sinh" trên Gia Định Báo ngày
15-4-1867. Quốc ngữ lên báo chí, dù lúc đầu chỉ để thông tin, cũng có nghĩa là
loại chữ nầy đă khá đầy đủ để diễn đạt chủ trương của nhà cầm quyền Pháp, và bắt
đầu trở nên phổ thông, dầu chưa được chính thức áp dụng trong hành chánh. [Về
sau, khi quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt, danh từ "quốc
ngữ" dần dần biến mất. Ngày nay người ta không gọi "quốc ngữ", mà chỉ gọi là "Việt
ngữ"].
Một chi tiết đáng chú ư là ngành in ấn theo cách lắp chữ kiểu
Tây phương,(15) giản dị, nhanh chóng, và tiện lợi hơn rất nhiều so với cách khắc
bản gỗ (mộc bản) chữ Nho theo kiểu xưa của Việt Nam. In mộc bản, phải khắc từng
chữ Nho chung trong toàn bài văn trên một bản gỗ. In xong, bản gỗ đó không dùng
để in sách khác mà phải khắc sách khác từ đầu.
Sự phát triển ngành in đẩy mạnh việc ấn hành sách báo, từ đó
làm cho quốc ngữ được truyền bá nhanh chóng v́ người ta có thể học vần quốc ngữ
bằng sách báo, đồng thời làm bùng nổ nền văn học quốc ngữ.
Trong khi đó, khoa thi hương (Nho học) năm 1861 (tân dậu) cho
toàn thể Nam Kỳ lục tỉnh tại Gia Định bị băi bỏ v́ t́nh h́nh biến động. Gia Định
mất năm 1862 nên khoa thi hương năm 1864 (giáp tư) ở Nam Kỳ được tổ chức tại Cần
Thơ (huyện Vĩnh Định, tỉnh An Giang).(16) Sau đó, Pháp chiếm toàn bộ Nam Kỳ năm
1867, nên các kỳ thi Nho học ở trong Nam hoàn toàn bị băi bỏ.
GIAI ĐOẠN 3: CHỮ VIẾT CHÍNH THỨC
Tại Nam Kỳ: Toàn bộ Nam Kỳ trở thành thuộc địa Pháp từ sau ḥa
ước Giáp Tuất (18-3-1874). Tại đây, quốc ngữ tiến thêm một bước khá dài nữa, khi
phó đề đốc Hải quân Pháp là Louis Lafont, thống đốc Nam Kỳ, ban hành nghị định
ngày 6-4-1878, theo đó kể từ 1-1-1882, ở Nam Kỳ, tất cả các giấy tờ như công
văn, nghị định, quyết định, bản án, lệnh… đều viết bằng mẫu tự la-tinh, tức chữ
Pháp hay Quốc ngữ, chứ không c̣n viết bằng chữ Nho; và cũng từ 1-1-1882, chỉ
những người biết quốc ngữ mới được tuyển dụng vào các cơ quan hành chánh cấp phủ,
huyện, tổng.(17)
Ngày ban hành và ngày thi hành nghị định nầy cách nhau gần 4
năm, nghĩa là khoảng thời gian cần thiết để tổ chức giáo dục, chuyển đổi từ việc
học chữ Nho qua việc học quốc ngữ. Ngày 17-3-1879, Pháp thành lập Sở Giáo dục
công cộng (Service de l'instruction publique) ở Sài G̣n và đưa ra chương tŕnh
giáo dục Pháp-Việt bậc tiểu học, gồm có 6 năm học; theo đó trong ba năm đầu, học
sinh phải học ba thứ chữ là chữ Nho, quốc ngữ và chữ Pháp; đến ba năm sau, học
sinh chỉ c̣n học quốc ngữ và chữ Pháp.(18)
Nói cách khác, tại Nam Kỳ, bên cạnh chữ Pháp, từ đây quốc ngữ
trở thành chữ viết chính thức được sử dụng trong các trường học, sở làm, và báo
chí. Một công tŕnh quốc ngữ quan trọng đầu tiên do một thường dân người Việt
biên soạn chứ không phải giáo sĩ nước ngoài, là bộ Đại Nam quấc âm tự vị của
Paulus Huỳnh Tịnh Của. Bộ sách nầy gồm hai quyển, phát hành liên tiếp hai năm
1895 và 1896 tại Sài G̣n.
Tại Trung và Bắc Kỳ: Pháp bảo hộ Trung và Bắc kỳ bằng ḥa ước
Giáp Thân (6-6-1884). Những trường trung học đầu tiên Pháp mở ở Trung và Bắc Kỳ
như trường Quốc Học Huế (khai giảng ngày 26-12-1896), trường Collège des
interprètes (Trường Thông ngôn, mở năm 1904)… đều dạy bằng tiếng Pháp và chương
tŕnh Pháp cho học sinh Việt. Triều đ́nh Việt Nam vẫn tiếp tục mở những khoa thi
Nho học (thi hương và thi hội) theo định kỳ 4 năm một lần như trước đây.
Riêng ở Bắc Kỳ, toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định ngày
6-6-1898 (niên hiệu Thành Thái thứ 10), tổ chức một kỳ thi phụ sau kỳ thi hương
truyền thống tại Nam Định. Môn thi gồm tiếng Pháp và quốc ngữ, không có chữ Nho.
Những người đậu cử nhân hay tú tài Nho học trong kỳ thi hương, nếu đậu luôn kỳ
thi phụ, sẽ được ưu tiên chọn ra làm quan.(19)
Chủ trương "hợp tác" và mở cuộc "chinh phục tinh thần" khi đến
làm toàn quyền Đông Dương từ 1902 đến 1908, Paul Beau cho giảng dạy quốc ngữ ở
các trường Trung và Bắc Kỳ. Học chế năm 1906 (do quyền toàn quyền Broni chuẩn y)
quy định các trường học Việt Nam gồm ba cấp ấu học, tiểu học và trung học. Quốc
ngữ được dạy ở cả ba cấp. Ai đậu kỳ thi cuối khóa cấp trung học, được gọi là thí
sinh và sẽ được dự kỳ thi hương.(20)
Trong khi đó, các nhà khoa bảng cựu học như Phan Châu Trinh,
Trần Quư Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, kết hợp với những trí thức cấp tiến lúc đó, mở
phong trào Duy tân, vận động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc, kêu gọi
băi bỏ Nho học, cổ xúy việc học quốc ngữ để nâng cao dân trí, v́ một lư do đơn
giản: quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ Nho. Các ông vận động mở
trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), B́nh Thuận
(trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục, 1907). Trong một bài
thơ khuyến khích việc học quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết:
"… Chữ quốc ngữ là hồn trong nước,
Phải đem ra tỉnh trước dân ta,
Sách các nước, sách Chi-na,
Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường…"(21)
Từ năm 1909, quốc ngữ được đưa vào chương tŕnh thi hương trên
toàn Trung và Bắc Kỳ. Trong 4 kỳ (trường) thi hương,(22) đến kỳ thứ 3 (trường
3), thí sinh bắt buộc phải làm 2 đề thi luận: một đề chữ Nho và một đề quốc ngữ.
Qua kỳ thi hương năm 1912, đề thi kỳ 3 (trường 3) gồm hai đề quốc ngữ, và kỳ 4
(trường tư) một đề quốc ngữ. Đến kỳ thi hương cuối cùng năm 1918 ở Trung Kỳ, từ
kỳ 2 (trường nh́) đến kỳ 4 (trường tư) đều có đề thi quốc ngữ.(23)
Toàn quyền Albert Sarraut (lần thứ hai từ 1917-1919) ra nghị
định 21-12-1917 về Quy chế chung về ngành giáo dục công cộng ở Đông Dương (Règlement
général de l'instruction publique en Indochine), thường được gọi là "Học chánh
tổng quy", áp dụng cho toàn cơi Đông Dương để thay thế cho học chế thời Paul
Beau.
Theo tổng quy mới, trong 5 năm bậc tiểu học, th́ 3 năm đầu,
học sinh học các môn bằng quốc ngữ và chữ Pháp, chữ Nho không bắt buộc; hai năm
cuối bắt buộc học các môn bằng chữ Pháp. Riêng 4 năm bậc trung học, mỗi tuần chỉ
có 3 giờ quốc văn trong tổng số 27 giờ học mỗi tuần. Đăïc biệt, phần cuối tổng
quy nầy định rằng các trường chữ Nho của tư nhân hay của triều đ́nh, kể cả quốc
tử giám, đều được xếp vào loại trường tư và phải tuân theo quy chế của chính
quyền Pháp.(24) Nói cách khác, tổng quy nầy dẹp bỏ luôn chương tŕnh Nho học.
Chính v́ vậy, sau khoa thi hưong năm 1915, ở Bắc Kỳ (vùng bảo hộ trực tiếp)
không tổ chức thi Nho học nữa, trong khi ở Trung Kỳ (vùng bảo hộ gián tiếp),
khoa thi hưong cuối cùng năm 1918 và thi hội cuối cùng năm 1919.
Ba giờ quốc văn quá ít. Dư luận người Việt phản ứng. Bảy năm
sau, toàn quyền Martial Merlin (từ 1923-1925) công bố nghị định ngày 18-9-1924,
sửa đổi lại học chánh tổng quy của Sarraut. Theo học chế mới, trong ba năm đầu
của bậc tiểu học, dạy hoàn toàn bằng quốc ngữ thay v́ chữ Pháp hay chữ Nho,(25)
nhưng các lớp sau đó dạy bằng chữ Pháp. Việc phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ
em bằng quốc ngữ, giúp cho học sinh Việt căn bản quốc ngữ trong đời sống hàng
ngày. Như thế học quy Martial Merlin công nhận từ đây quốc ngữ là chữ viết chính
thức của người Việt Nam.
Quốc ngữ càng ngày càng phổ thông, giúp dân chúng những hiểu
biết sơ đẳng cần thiết trong đời sống, nhất là về phương diện chính trị. Từ năm
1925 trở đi, nhiều đảng phái chống Pháp được thành lập, viết truyền đơn, lời kêu
gọi, sáng tác thơ văn yêu nước… đều bằng quốc ngữ.
KẾT LUẬN
Sự h́nh thành quốc ngữ tiến triển qua ba giai đoạn: 1) Do nhu
cầu truyền đạo, các giáo sĩ Tây phương dùng mẫu tự la-tinh phiên âm thiếng Việt
và sử dụng thứ chữ mới trong khuôn viên giáo đường. 2) Do nhu cầu cai trị nước
ta, Pháp ứng dụng thứ chữ mới nầy trong quần chúng. 3) Do nhu cầu phổ cập giáo
dục căn bản cho trẻ em Việt Nam, Pháp đưa quốc ngữ vào chương tŕnh tiểu học từ
năm 1924. Quốc ngữ được chính thức công nhận là chữ viết của người Việt.
Cần chú ư là trước khi được trọng dụng, quốc ngữ cũng đă gặp
một số phản đối về phía người Việt cũng như về phía người Pháp. Ở Nam Kỳ, một số
người Việt cho rằng quốc ngữ phiên âm quá nhiều chữ Nho mà nếu không học trước
những chữ Nho nầy th́ không hiểu ǵ cả. Một số người Pháp muốn truyền bá văn hóa
Pháp, th́ cho rằng quốc ngữ được chế ra từ chữ Bồ Đào Nha, không thể dùng để đọc
chữ Pháp và có thể gây cản trở việc học chữ Pháp. Ngày 10-12-1885, báo Le
Saigonnais [Người Sài G̣n] đăng một kiến nghị của thân hào bản xứ xin Hội đồng
Thuộc địa can thiệp để triệt bỏ quốc ngữ v́ thứ chữ nầy vô lư, giả tạo.(26a)
Tại triều đ́nh Huế, thượng thư bộ Học là Cao Xuân Dục hết sức
bài bác quốc ngữ, mà theo ông là thứ chữ do Tây [Pháp] đem lại.(26b) Một số nhà
Nho cho rằng cách viết quốc ngữ theo mẫu tự la-tinh cắt đứt tiếng Việt với nguồn
gốc Hán tự, thiếu ư nhị, không có ư nghĩa tượng h́nh.(27c) Ngày nay, có người
c̣n cho rằng sự thay đổi chữ viết từ chữ Nho qua quốc ngữ, khiến người Việt lạc
mất cội nguồn văn hóa dân tộc cổ truyền.
Thật ra, trong tiến tŕnh h́nh thành quốc ngữ, không thể đ̣i
hỏi quốc ngữ phải toàn thiện ngay từ đầu, mà cần có thời gian để điều chỉnh và
hoàn thiện dần dần. Ngay những thứ chữ như chữ Pháp hay chữ Anh, ngày nay hàng
năm cũng có cả hàng ngàn chữ mới được bổ túc vào kho tàng ngôn ngữ của các nước
nầy.
Trong khi đó, quốc ngữ giúp phổ biến rộng răi văn hóa và nâng
cao tŕnh độ hiểu biết về mọi mặt cho toàn thể dân chúng, giúp người Việt dễ
thích ứng và nhanh chóng bắt kịp tiến bộ khoa học trên thế giới. Nhờ thế, ngày
nay người Việt tiếp thu và hội nhập dễ dàng vào hệ thống điện toán thời đại mới.
Trước đây Nho giáo là một triết thuyết chính trị hậu thuẫn cho
chế độ quân chủ. Các chế độ quân chủ Việt Nam ứng dụng văn hóa Nho giáo để ổn
định xă hội và củng cố chế độ, khiến tinh thần sĩ phu lệ thuộc chẳng những Nho
giáo mà cả văn hóa Trung Hoa. Việc băi bỏ Nho học và thay đổi chữ viết từ chữ
Nho (Hán tự) qua quốc ngữ, chấm dứt vĩnh viễn giai đoạn lệ thuộc Nho học và văn
hóa Trung Hoa, đồng thời mở ra một chân trời mới có tính cách toàn cầu trước mắt
người Việt.
Nhiều nhà Nho dưới chế độ quân chủ, đắm ḿnh lâu đời trong văn
hóa Trung Hoa, lầm tưởng rằng văn hóa Trung Hoa là văn hóa dân tộc, và những anh
hùng liệt nữ Trung Hoa là khuôn vàng thước ngọc cho xă hội Việt. Các tác giả chữ
Nho thời trước thường dùng điển tích về những vua quan, anh hùng, thần thánh,
phong tục, tập quán Trung Hoa để làm mẫu mực cho người Việt.
Khi sử dụng quốc ngữ, bước ra khỏi văn hóa Trung Hoa, nhiều
người mới t́m trở lại bản sắc văn hóa dân tộc. Từ đây, càng ngày nền văn hóa dân
tộc càng được đề cao. Trong nền văn học quốc ngữ, Hai Bà Trưng, Triệu Nữ Vương,
Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Trần B́nh Trọng, Lê Lợi, Quang Trung… mới là những anh
hùng đích thực, những tấm gương sáng của người Việt.
Cuối cùng, các thời điểm lịch sử cho thấy: Sau năm 1919, chấm
dứt Nho học. Nhà cầm quyền Pháp mở trường Pháp, nhưng rất hạn chế. Năm 1924, học
chế Martial Merlin quy định dạy quốc ngữ ở bậc tiểu học, nhưng bậc trung học vẫn
dạy Pháp văn. Năm 1942, Hoàng Xuân Hăn xuất bản sách Danh từ khoa học, mà theo
ông, sách hết ngay sau mấy tháng phát hành. Vua Bảo Đại công bố bản Tuyên ngôn
độc lập ngày 11-3-1945 bằng quốc ngữ.(27) Nhà vua ban hành dụ số 67 ngày
30-7-1945 quy định từ học khóa 1945-1946, bậc trung học Việt Nam dạy bằng quốc
ngữ. Bộ Giáo Dục - Mỹ Thuật do Hoàng Xuân Hăn làm bộ trưởng, đă đưa ra "Chương
tŕnh trung học" hoàn toàn bằng quốc ngữ, trong khi Pháp văn cũng như Anh văn
được xếp vào môn sinh ngữ, Hán văn là môn cổ ngữ.(28) Chương tŕnh nầy làm căn
bản cho các chương tŕnh trung học về sau.
Như thế ngay từ đầu, quốc ngữ cho thấy sức sống mạnh mẽ, phát
triển rất nhanh, và chóng trở nên phổ thông, đồng thời hứa hẹn nhiều tương lai
sáng sủa, như nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh đă tin tưởng: "Nước Nam ta mai sau này,
hay dở cũng ở chữ quốc ngữ."(29)
Trong khi đó, sự xuất hiện của quốc ngữ đưa đến sự h́nh thành
nền văn học quốc ngữ. Trên toàn cơi nước ta, nền văn học quốc ngữ phát triển sớm
nhất tại Nam Kỳ v́ một lư do đơn giản là tại Nam Kỳ, Nho học được băi bỏ sớm
nhất, quốc ngữ được sử dụng sớm nhất và ngành in ấn phát triển sớm nhất.(30) Nền
văn học quốc ngữ đa dạng, phong phú và phổ thông, phát triển nhanh chóng, càng
làm tăng giá trị của công tŕnh sáng tạo quốc ngữ.
TRẦN GIA PHỤNG
CHÚ THÍCH
1. Dương Quảng Hàm, Việt-Nam văn-học sử-yếu, in lần thứ bảy,
Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài G̣n, 1960, tr. 106.
2. "Chữ Nôm là thứ chữ hoặc dùng nguyên h́nh chữ Nho, hoặc lấy
hai ba chữ Nho ghép lại để viết tiếng [Việt] Nam " (Dương Quảng Hàm, sđd. tr.
100.) Hoặc "chữ Nôm được cấu tạo trên cơ sở chữ Hán Việt, tức chữ Hán đọc theo
âm hán-việt". (Đào Duy Anh, Chữ Nôm, Nguồn gốc, Cấu tạo, Diễn tiến, Hà Nội: Nxb.
Khoa học Xă hội, 1973, tr. 51.) Do đó, muốn học chữ Nôm th́ phải biết chữ Hán
tức chữ Nho, và như thế học chữ Nôm cũng khó không kém ǵ học chữ Nho, nếu không
muốn nói là khó hơn. Có thể v́ chữ Nôm khó học, khó viết, nên có hai hệ quả: Thứ
nhất chữ Nôm chỉ phát triển trong giới sĩ phu, trí thức, văn thi sĩ ngày xưa mà
thôi. Những người nầy vốn đă giỏi chữ Nho, nên học được chữ Nôm, chứ chữ Nôm ít
phổ biến rộng răi trong dân chúng. Có thể nói, trong lịch sử văn học, chưa có
một nhân vật nào giỏi chữ Nôm mà không biết chữ Nho. Thứ hai, v́ ít được sử dụng
và nhất là không được chính thức sử dụng, nên lối viết chữ Nôm không ổn định.
Mỗi địa phương dựa theo chữ Nho mà ghép lại thành chữ Nôm địa phương, nên chữ
Nôm không thống nhất trên toàn quốc.
3. Ḍng Tên (Society of Jesus): Do tu sĩ Ignatius Loyola
(1491-1556), người Tây Ban Nha, lập năm 1539, nhắm bảo vệ tính chính thống của
giáo quyền La Mă và hỗ trợ công việc truyền giáo ra các nước trên thế giới. Hiệp
hội nầy được Paul III (giáo hoàng 1534-1549) thừa nhận. V́ tập tục kỵ húy của
người Việt, tín đồ ngày xưa kỵ húy tên Chúa Jesus, nên chỉ gọi hiệp hội nầy là "ḍng
Tên" tức "ḍng đạo mang tên Chúa Jesus". Năm 1541, Ignatius được bầu làm trưởng
ḍng Tên đầu tiên. Sau khi từ trần, Ignatius được giáo hoàng Gregory XV (giáo
nhiệm 1621-1623) phong thánh năm 1622. Lúc nầy, ở Đông Á, Ḍng Tên đặt trụ sở
chính tại Ma Cao (Trung Hoa). Từ đó, các tu sĩ Ḍng Tên truyền qua Nhật Bản và
lui tới Việt Nam. [Về việc người Tây phương và các giáo sĩ đạo Ky-Tô La Mă đến
nước ta, xin xem chương "Người Âu Châu đến Đại Việt", Việt sử đại cương tập 2,
cùng tác giả, tt. 117-160.]
4. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản yếu tân biên, quyển
3, Văn học hiện đại (1862-1945), California: Nxb Đại Nam tái bản không đề năm,
tr. 67.
5. Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ
đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam [song ngữ Việt Pháp], tập 1, Paris: Định
Hướng Tùng Thư, 2004, tt. 81-89 (5a), 223-225 (5b), 85 (5c), tr. 375 (5d). Các
bản văn Kinh lạy Cha đều trích từ sách nầy.
6. Trong Việt-Nam văn-học sử yếu của Dương Quảng Hàm, sđd.
chương thứ 18, thiên thứ 5, năm thứ nhất ban Trung học, tr. 181, có trích đăng
một phần của sách nầy.dưới tựa đề Phép giảng tám ngày. Ngoài ra, sách Giáo lư
dành cho những ai muốn chịu Phép Rửa, chia ra tám ngày đượïc in lại: Phép giảng
tám ngày - Catechismus in octo dies divisus - Catéchisme divisé en huit jours,
lời tựa của Nguyễn Khắc Xuyên, André Marillier ghi lại theo chính tả ngày nay,
Henri Chappoulie dịch qua tiếng Pháp, TpHCM: Tủ sách Đại Kết, 1993. (Theo Roland
Jacques, sđd. tr. 199, phần chú thích.)
7. Sách nầy được in lại: Dictionarium Annamitcum Lusitanum et
Latinum, Thanh Lăng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính dịch, Từ điển Annam -
Lusitan - La Tinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La), Hà Nội: Nxb Khoa học Xă
hội, 1991.
8. Alexandre de Rhodes, Dictionarium Annamitcum Lusitanum et
Latinum, bản in năm 1991, tr. 3.
9. (t́m chữ Taberd).
10. Adran là tước hiệu tông ṭa của giám mục Pigneau de
Béhaine (Bá Đa Lộc). Về giám mục nầy, xin xem Việt sử đại cương tập 2, các
chương "Người Âu Châu đấn Đại Việt" và "Đất nước thống nhất".
11. John DeFrancis, Colonialism and Language Policy in
Vietnam, New York: Moulton Publishers, 1977, tr. 75. DeFrancis theo tin của báo
Courrier de Saigon ngày 10-2-1864 và DeFrancis cho biết chi tiết nầy ông lấy từ
bài "Le français, le quoc-ngu, et l'enseignement public en Indochine" của E.
Roucoules, trong Bulletin de la Société des études Indochinoises, số 1 năm 1890.
12. John DeFrancis, sđd. tr. 76. Theo Alfred Schreiner, Abrégé
de l'histoire d'Annam, Deuxième édition, Sai G̣n: 1906, tt. 200-201, th́ Charner
mở cùng một lúc hai trường: trường thông ngôn dạy tiếng Việt cho quan chức Pháp
và trường Pháp mang tên Adran (Bá Đa Lộc) cho trẻ em Việt. Có thể v́ việc
Charner dùng trụ sở Collège d'Adran mở trường thông ngôn nên có sự lầm lẫn nầy
chăng?
13. Thư ngày 9-5-1865 của quyền thống đốc Nam Kỳ là Pierre-Gustave
Roze (thống đốc De la Grandière về Pháp từ 30-3-1865 đến 26-11-1865), gởi cho bộ
trưởng bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp. (Đặng Văn Nhâm, Lịch sử báo chí Việt Nam,
California, Nxb. Việt Nam Văn Hiến, 1999, tr. 39.) Ông Đặng Văn Nhâm trích dịch
như sau: "Số đầu tiên của tờ Gia Định Báo được in bằng chữ An Nam, theo mẫu tự
La-tinh, phát hành vào ngày 15 tháng 4 vừa qua…"
14. Phạm Thế Ngũ, sđd. tr. 67.
15. Cách in chữ Nho ngày trước là khắc từng chữ Nho trong
nguyên bài vào bản gỗ (mộc bản), dùng để in, rồi không dùng cho bài khác được.
Cách in mới của giai đoạn nầy là người thợ dùng 24 chữ cái trong mẫu tự la-tinh;
lắp ráp chữ cái với nhau thành chữ; ghép các chữ thành bản in. In xong, rả bản
in cũ, dùng lắp lại chữ in khác.
16. Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, bản dịch. của
Nguyễn Thị Nga và Nguyễn Thị Lâm, Nxb. TpHCM, 1993, tr. 371. Alfred Schreiner,
sđd. tr. 340.
17. Alfred Schreiner, sđd. tr. 340.
18. Dương Kinh Quốc, Việt Nam: Những sự kiện lịch sử
(1858-1918), Hà Nội: Nxb Giáo Dục, 1999, tr. 109.
19. Emmanuel Poisson, Mandarins et subalternes au nord du Viêt
Nam, une bureaucratie à l'épreuve (1820-1918), Paris: Maisonneuve & Larose,
2004, tt. 193-194. Cũng theo tài liệu nầy, các môn thi trong kỳ thi phụ như sau:
1) Viết tập chữ Pháp (hệ số 3). 2) Chính tả chữ Pháp (HS 5). 3) Dịch chữ Pháp
qua quốc ngữ (HS 5) 4) Đàm thoại tiếng Pháp (HS 5) 5)Đọc và dịch miệng tại chỗ
một bài tiếng Pháp (HS 5) 6) Chính tả quốc ngữ (HS 3) 7) Dịch một bài chữ Nho
qua quốc ngữ (HS 4). Điểm cho trên 20. Thí sinh phải đủ tối thiểu 360 điểm trên
600 điểm th́ mới được ưu tiên chọn ra làm quan. Những người đậu cử nhân phải hơn
những người đậu tú tài 50 điểm. [Hệ số (coefficient): Các môn thi được xem quan
trọng nhiều hay ít khác nhau, nên có hệ số lớn nhỏ khác nhau. Ví dụ môn viết tập
chữ Pháp hệ số 3; môn chính tả Pháp hệ số 5. Mỗi môn thi được cho điểm tối đa là
20. Điểm mỗi môn nhân lên với hệ số môn đó, rồi cộng tất cả thành điểm cuối cùng.
Ví dụ tổng cộng hệ số 7 môn thi trong kỳ thi phụ trên đây là 30. Điểm tối đa mỗi
môn thi là 20 điểm, vậy 20 X 30 = 600 điểm (điểm tối đa). Luật thi quy định thí
sinh phải được 360 / 600 mới được ưu tiên chọn ra làm quan.] Xin xem thêm phần
tài liệu phía dưới.
20. Louis Cury, La société annamite, les lettrés - les
mandarins - le peuple (Thèse pour le doctorat), Paris: Jouve et Cie, Éditeurs,
1910, tt. 24-33. (Nghị định do quyền toàn quyền Broni kư ngày 14-9-1906).
21. Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển V - Tập trung, Việt
Nam Cách mạng cận sử (1885-1914), Sài G̣n: 1963, tr. 393.
22. Thông thường, khóa thi hương có 4 giai đoạn, thường gọi là
4 kỳ hay 4 trường. Đậu kỳ 1 (trường nhất) mới được thi kỳ 2 (trường hai hay
trường nh́). Đậu kỳ 2 mới được th́ kỳ 3 (trường ba). Đậu trường 3 mới được thi
kỳ 4 (trường tư). Đậu kỳ 4 (trường tư) được gọi là cử nhân. Đậy kỳ 3 (trường ba)
hỏng kỳ 4 gọi là tú tài.
23. Cao Xuân Dục, sđd. tt. 611, 629, 645, 659.
24. Dương Kinh Quốc, sđd. tt. 375-378.
25. Học viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn
minh Đông phương Paris, Khoa Đông Nam Á, Trung tâm Tài liệu và Nghiên cứu về
Đông Nam Á, Ban Việt học, phần Chronologie Vietnamienne, Éléments pour "La
mémoire de Phạm Quỳnh 1892-1945″
[Biên niên Việt Nam, góp phần tưởng nhớ Phạm Quỳnh 1892-1945]. Xem thêm: Nguyễn
Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Văn Hóa - Thông Tin, 1993,
tr. 304.
26. Phạm Thế Ngũ, sđd. tr. 67 (26a), tr. 116 (26b), tr. 63
(26c).
27. Điểm đặc biệt là chiếu xưng đế của vua Gia Long (trị v́
1802-1820) ngày 12 tháng 5 năm bính dần (28-6-1806) bằng chữ Nho. Tuyên cáo độc
lập của vua Bảo Đại bằng quốc ngữ.
28. Sách Danh từ khoa học và Chương tŕnh trung học năm 1945
do bộ Giáo Dục-Mỹ Thuật đưa ra, thường được gọi là chương tŕnh Hoàng Xuân Hăn,
được đăng lại trong sách La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hăn, tập I: Con người và trước
tác, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tt. 519-850.
29. Nguyễn Văn Vĩnh viết câu nầy trong bài tựa bản dịch bộ Tam
quốc chí diễn nghĩa do Phan Kế Bính dịch, xuất bản ở Hà Nội năm 1909. (Dương
Quảng Hàm, sđd. tr. 398.)
30. Tại Nam Kỳ, tiểu thuyết đầu tiên xuất hiện năm 1887 là Truyện thầy Lazaro Phiền của P. J. B. Nguyễn Trọng Quản do nhà xuất bản J. Linage ấn hành năm 1887 tại Sài G̣n, trong khi ở Hà Nội, truyên Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách được ấn hành năm 1925.
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Society of Professional Journalists: Code of Ethics download
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.