MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record vCBO
v US Gov vCongressional Record vPBS
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vReuter vAP vWorld Tribune
v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
v MediaMattersvSourceIntelvFRUSvIntelnews
v GlobalSecvGlobalIntelvEnergyvArchive
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation vVeteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian vPolitical Insider vLaw vMedia
v RamussenvWikileaksvFederalistvHistory
v The Online Books vBreibart vInterceipt
v AmericanFreePress vPoliticoMagvAtlantic
v National Public Radio vForeignTrade vSlate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng
v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn
v Việt Thức v Việt List v Việt Mỹ v Xây Dựng
v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v ChúngTa v Eurasia
v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ
v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương
v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong
v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới
v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm
v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
Chinh phụ ngâm khúc
I
天 地 風 塵
Thiên địa phong trần
紅 顏 多 屯
Hồng nhan đa truân
悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân
鼓 鼙 聲 動 長 城 月
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
烽 火 影 照 甘 泉 雲
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
九 重 按 劍 起 當 席
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
半 夜 飛 檄 傳 將 軍
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
清 平 三 百 年 天 下
Thanh b́nh tam bách niên thiên hạ
從 此 戎 衣 屬 武 臣
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
使 星 天 門 催 曉 發
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
行 人 重 法 輕 離 別
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
弓 箭 兮 在 腰
Cung tiễn hề tại yêu
妻 孥 兮 別 袂
Thê noa hề biệt khuyết
獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨
Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán
有 怨 兮 分 攜
Hữu oán hề phân huề
有 愁 兮 契 闊
Hữu sầu hề khế khoát
*
Đại ư: Đoạn trên là lời chinh phụ kể ngọn nguồn: Cơn gió bụi của trời đất khiến kẻ má hồng chịu nỗi lao đao. Rồi tác giả mượn lời nàng mà tả cảnh giặc giă ở biên cương, sự truyền hịch, việc xuất chinh, và cảnh biệt ly giữa vợ chồng.
II
良 人 二 十 吳 門 豪
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
投 筆 硯 兮 事 弓 刀
Đầu bút nghiên hề sự cung đao
直 把 連 城 獻 明 聖
Trực bả liên thành hiến minh thánh
願 將 尺 劍 斬 天 驕
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu
丈 夫 千 里 志 馬 革
Trượng phu thiên lư chí mă cách
泰 山 一 擲 輕 鴻 毛
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
便 辭 閨 閫 從 征 戰
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến
西 風 鳴 鞭 出 渭 橋
Tây phong minh tiên xuất Vị kiều
渭 橋 頭 清 水 溝
Vị kiều đầu thanh thuỷ câu
清 水 邊 青 草 途
Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ
送 君 處 兮 心 悠 悠
Tống quân xứ hề tâm du du
君 登 途 兮 妾 恨 不 如 駒
Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu
君 臨 流 兮 妾 恨 不 如 舟
Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu
清 清 有 流 水
Thanh thanh hữu lưu thuỷ
不 洗 妾 心 愁
Bất tẩy thiếp tâm sầu
青 青 有 芳 草
Thanh thanh hữu phương thảo
不 忘 妾 心 憂
Bất vong thiếp tâm ưu
語 復 語 兮 執 君 手
Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ
步 一 步 兮 牽 君 襦
Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu
妾 心 隨 君 似 明 月
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
君 心 萬 里 千 山 箭
Quân tâm vạn lư Thiên Sơn tiễn
擲 離 杯 兮 舞 龍 泉
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
橫 征 槊 兮 指 虎 穴
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
云 隨 介 子 獵 樓 蘭
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
笑 向 蠻 溪 談 馬 援
Tiếu hướng Man Khê đàm Mă Viện
君 穿 壯 服 紅 如 霞
Quân xuyên trang phục hồng như hà
君 騎 驍 馬 白 如 雪
Quân kỵ kiêu mă bạch như tuyết
驍 馬 兮 鸞 鈴
Kiêu mă hề loan linh
征 鼓 兮 人 行
Chinh cổ hề nhân hành
須 臾 中 兮 對 面
Tu du trung hề đối diện
頃 刻 裡 兮 分 程
Khoảnh khắc lư hề phân tŕnh
*
Đại ư: Chinh phụ tả thân thế của chồng, rồi tả nỗi ḷng ḿnh từ khi vợ chồng chia ly v́ chinh chiến.
III
分 程 兮 河 梁
Phân tŕnh hề hà lương
徘 徊 兮 路 旁
Bồi hồi hề lộ bàng
路 旁 一 望 兮 旆 央 央
Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương
前 車 兮 北 細 柳
Tiền xa hề Bắc Tế Liễu
後 騎 兮 西 長 楊
Hậu kỵ hề Tây Trường Dương
騎 車 相 擁 君 臨 塞
Kỵ xa tương ủng quân lâm tái
楊 柳 那 知 妾 斷 腸
Dương liễu na tri thiếp đoạn trường
去 去 落 梅 聲 漸 遠
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
行 行 征 旆 色 何 忙
Hành hành chinh bái sắc hà mang
望 雲 去 兮 郎 別 妾
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
望 山 歸 兮 妾 思 郎
Vọng sơn quy hề thiếp tư lang
郎 去 程 兮 濛 雨 外
Lang khứ tŕnh hề mông vũ ngoại
妾 歸 處 兮 昨 夜 房
Thiếp quy xứ hề tạc dạ pḥng
歸 去 兩 回 顧
Quy khứ lưỡng hồi cố
雲 青 兮 山 蒼
Vân thanh hề sơn thương
郎 顧 妾 兮 咸 陽
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
妾 顧 郎 兮 瀟 湘
Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
瀟 湘 煙 阻 咸 陽 樹
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
咸 陽 樹 隔 瀟 湘 江
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
相 顧 不 相 見
Tương cố bất tương kiến
青 青 陌 上 桑
Thanh thanh mạch thượng tang
陌 上 桑 陌 上 桑
Mạch thượng tang mạch thượng tang
妾 意 君 心 誰 短 長
Thiếp ư quân tâm thuỳ đoản trường
*
Đại ư: Phút chia ly, chinh phụ ngổn ngang tâm sự và ngập tràn nhung nhớ.
IV
自 從 別 後 風 沙 隴
Tự tùng biệt hậu phong sa lũng
明 月 知 君 何 處 宿
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
古 來 征 戰 場
Cổ lai chinh chiến trường
萬 里 無 人 屋
Vạn lư vô nhân ốc
風 熬 熬 兮 打 得 人 顏 憔
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
水 深 深 兮 怯 得 馬 蹄 縮
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mă đề súc
戍 夫 枕 鼓 臥 龍 沙
Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa
戰 士 抱 鞍 眠 虎 陸
Chiến sĩ băo yên miên hổ lục
今 朝 漢 下 白 登 城
Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
明 日 胡 窺 青 海 曲
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
青 海 曲 青 山 高 復 低
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
青 山 前 青 溪 斷 復 續
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
青 山 上 雪 蒙 頭
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
青 溪 下 水 沒 腹
Thanh khê hạ thuỷ một phúc
可 憐 多 少 鐵 衣 人
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
思 歸 當 此 愁 顏 蹙
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
錦 帳 君 王 知 也 無
Cẩm trướng quân vương tri dă vô
艱 難 誰 為 畫 征 夫
Gian nan thuỳ vị họa chinh phu
料 想 良 人 經 歷 處
Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
蕭 關 角 瀚 海 隅
Tiêu Quan giác hăn hải ngung
霜 村 雨 店虎 落 蛇 區
Sương thôn vũ điếm, hổ lạc xà khu
風 餐 露 宿 雪 脛 冰 鬚
Phong xan lộ túc, tuyết hĩnh băng tu
登 高 望 雲 色
Đăng cao vọng vân sắc
安 復 不 生 愁
An phục bất sinh sầu
*
Đại ư: Chinh phụ kể lể sự vất vả gian nan của chồng tại biên cương và nỗi nhớ nhà của chàng.
V
自 從 別 後 東 南 徼
Tự tùng biệt hậu Đông Nam kiếu
東 南 知 君 戰 何 道
Đông Nam tri quân chiến hà đạo
古 來 征 戰 人
Cổ lai chinh chiến nhân
性 命 輕 如 草
Tính mệnh khinh như thảo
鋒 刃 下 溫 溫 挾 纊 主 恩 深
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
時 刻 中 歷 歷 橫 戈 壯 士 夭
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
祈 山 舊 塚 月 茫 茫
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
淝 水 新 墳 風 裊 裊
Ph́ thuỷ tân phần phong niểu niểu
風 裊 裊 空 吹 死 士 魂
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
月 茫 茫 曾 照 征 夫 貌
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
征 夫 貌 兮 誰 丹 青
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
死 士 魂 兮 誰 哀 弔
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
可 憐 爭 鬪 舊 江 山
Khả lân tranh đấu cựu giang sơn
行 人 過 此 情 多 少
Hành nhân quá thử t́nh đa thiểu
古 來 征 戰 幾 人 還
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
班 超 歸 時 鬢 已 斑
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
料 想 良 人 馳 騁 外
Liệu tưởng lương nhân tŕ sính ngoại
三 尺 劍 一 戎 鞍
Tam xích kiếm nhất nhung yên
秋 風 沙 草
Thu phong sa thảo
明 月 關 山
Minh nguyệt quan san
馬 頭 鳴 鏑
Mă đầu minh đích
城 上 緣 竿
Thành thượng duyên can
功 名 百 忙 裏
Công danh bách mang lư
勞 苦 未 應 閒
Lao khổ vị ưng nhàn
勞 與 閒 誰 與 言
Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn
君 在 天 涯 妾 倚 門
Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn
*
Đại ư: Chinh phụ tả hoàn cảnh gian nan khôn xiết của chồng đang chinh chiến nơi biên cương.
VI
倚 門 固 妾 今 生 分
Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận
天 涯 豈 君 平 生 魂
Thiên nhai khởi quân b́nh sinh hồn
自 信 相 隨 魚 水 伴
Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn
那 堪 相 隔 水 雲 村
Na kham tương cách thuỷ vân thôn
妾 身 不 想 為 征 婦
Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ
君 身 豈 學 為 王 孫
Quân thân khởi học vi vương tôn
何 事 江 南 與 江 北
Hà sự giang Nam dữ giang Bắc
令 人 愁 曉 更 愁 昏
Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn
一 個 是 風 流 少 年 客
Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
一 個 是 深 閨 少 年 婚
Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn
可 堪 兩 年 少
Khả kham lưỡng niên thiếu
千 里 各 寒 暄
Thiên lư các hàn huyên
憶 昔 與 君 相 別 時
Ức tích dữ quân tương biệt thời
柳 條 猶 未 囀 黃 鸝
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly
問 君 何 日 歸
Vấn quân hà nhật quy
君 約 杜 鵑 啼
Quân ước đỗ quyên đề
杜 鵑 已 逐 黃 鸝 老
Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lăo
青 柳 樓 前 語 鷾 鴯
Thanh Liễu lâu tiền ngữ ư nhi
憶 昔 與 君 相 別 中
Ức tích dữ quân tương biệt trung
雪 梅 猶 未 識 東 風
Tuyết mai do vị thức Đông phong
問 君 何 日 歸
Vấn quân hà nhật quy
君 指 桃 花 紅
Quân chỉ đào hoa hồng
桃 花 已 伴 東 風 去
Đào hoa dĩ bạn Đông phong khứ
老 梅 江 上 又 芙 蓉
Lăo mai giang thượng hựu phù dung
與 我 約 何 所
Dữ ngă ước hà sở
乃 約 隴 西 岑
Năi ước Lũng Tây sầm
日 中 兮 不 來
Nhật trung hề bất lai
墜 葉 兜 我 簪
Trụy diệp đâu ngă trâm
竚 立 空 涕 泣
Trữ lập không thế khấp
荒 邨 喧 午 禽
Hoang thôn huyên ngọ cầm
與 我 約 何 所
Dữ ngă ước hà sở
乃 約 漢 陽 橋
Năi ước Hán Dương kiều
日 晚 兮 不 來
Nhật văn hề bất lai
谷 風 吹 我 袍
Cốc phong xuy ngă bào
竚 立 空 涕 泣
Trữ lập không thế khấp
寒 江 起 暮 潮
Hàn giang khởi mộ trào
*
Đại ư: Chinh phụ kể lể nỗi ḷng đau xót khi nàng luôn tựa cửa ngóng trông chồng nơi chiến địa xa xôi. Và nàng mơ ước một ngày đoàn tụ sum vầy
VII
昔 年 寄 信 勸 君 回
Tích niên kư tín khuyến quân hồi
今 年 寄 信 勸 君 來
Kim niên kư tín khuyến quân lai
信 來 人 未 來
Tín lai nhân vị lai
楊 花 零 落 委 蒼 苔
Dương hoa linh lạc ủy thương đài
蒼 苔 蒼 苔 又 蒼 苔
Thương đài thương đài hựu thương đài
一 步 閒 庭 百 感 催
Nhất bộ nhàn đ́nh bách cảm thôi
昔 年 回 書 訂 妾 期
Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ
今 年 回 書 訂 妾 歸
Kim niên hồi thư đính thiếp quy
書 歸 人 未 歸
Thư quy nhân vị quy
紗 窗 寂 寞 轉 斜 暉
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
斜 暉 斜 暉 又 斜 暉
Tà huy tà huy hựu tà huy
十 約 佳 期 九 度 違
Thập ước giai kỳ cửu độ vi
試 將 去 日 從 頭 數
Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ
不 覺 荷 錢 已 三 鑄
Bất giác hà tiền dĩ tam chú
最 苦 是 連 年 紫 塞 人
Tối khổ thị liên niên tử tái nhân
最 苦 是 千 里 黃 花 戍
Tối khổ thị thiên lư hoàng hoa thú
黃 花 戍 誰 無 堂 上 親
Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
紫 塞 人 誰 無 閨 中 婦
Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ
有 親 安 可 暫 相 離
Hữu thân an khả tạm tương ly
有 婦 安 能 久 相 負
Hữu phụ an năng cửu tương phụ
君 有 老 親 鬢 如 霜
Quân hữu lăo thân mấn như sương
君 有 嬰 兒 年 且 孺
Quân hữu anh nhi niên thả nhụ
老 親 兮 倚 門
Lăo thân hề ỷ môn
嬰 兒 兮 待 哺
Anh nhi hề đăi bộ
供 親 餐 兮 妾 為 男
Cung thân xan hề thiếp vi nam
課 子 書 兮 妾 為 父
Khóa tử thư hề thiếp vi phụ
供 親 課 子 此 一 身
Cung thân khóa tử thử nhất thân
傷 妾 思 君 今 幾 度
Thương thiếp tư quân kim kỷ độ
思 君 昨 日 兮 已 過
Tư quân tạc nhật hề dĩ quá
思 君 今 年 兮 又 暮
Tư quân kim niên hề hựu mộ
君 淹 留 二 年 三 年 更 四 年
Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên
妾 情 懷 百 縷 千 縷 還 萬 縷
Thiếp t́nh hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ
安 得 在 君 邊
An đắc tại quân biên
訴 妾 衷 腸 苦
Tố thiếp trung trường khổ
妾 有 漢 宮 釵
Thiếp hữu Hán cung thoa
曾 是 嫁 時 將 送 來
Tằng thị giá thời tương tống lai
憑 誰 寄 君 子
Bằng thuỳ kư quân tử
表 妾 相 思 懷
Biểu thiếp tương tư hoài
妾 有 秦 樓 鏡
Thiếp hữu Tần lâu kính
曾 與 郎 初 相 對 影
Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh
憑 誰 寄 君 子
Bằng thùy kư quân tử
照 妾 今 孤 另
Chiếu thiếp kim cô lánh
妾 有 鉤 指 銀
Thiếp hữu câu chỉ ngân
手 中 時 相 親
Thủ trung thời tương thân
憑 誰 寄 君 子
Bằng thuỳ kư quân tử
微 物 寓 慇 懃
Vi vật ngụ ân cần
妾 有 搔 頭 玉
Thiếp hữu tao đầu ngọc
嬰 兒 年 所 弄
Anh nhi niên sở lộng
憑 誰 寄 君 子
Bằng thuỳ kư quân tử
他 鄉 幸 珍 重
Tha hương hạnh trân trọng
*
Đại ư: Nàng vẫn kể lể nỗi ḷng khi chia ly, thư gởi cho chồng mà chẳng có hồi âm. Vắng chồng, nàng đảm đương mọi việc trong nhà, phụng dưỡng mẹ và dạy con, đồng thời nàng mong gởi những vật thân quư đến chồng để bày tỏ t́nh nhớ thương.
VIII
昔 年 音 信 有 來 時
Tích niên âm tín hữu lai thời
今 年 音 稀 信 亦 稀
Kim niên âm hy tín diệc hy
見 雁 枉 然 思 塞 帛
Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch
聞 霜 漫 自 製 綿 衣
Văn sương mạn tự chế miên y
西 風 欲 寄 無 鴻 便
Tây phong dục kư vô hồng tiện
天 外 憐 伊 雪 雨 垂
Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
雪 寒 伊 兮 虎 帳
Tuyết hàn y hề hổ trướng
雨 冷 伊 兮 狼 幃
Vũ lănh y hề lang vi
寒 冷 般 般 苦
Hàn lănh ban ban khổ
天 外 可 憐 伊
Thiên ngoại khả lân y
錦 字 題 詩 封 更 展
Cẩm tự đề thi phong cánh triển
金 錢 問 卜 信 還 疑
Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi
幾 度 黃 昏 時
Kỷ độ hoàng hôn thời
重 軒 人 獨 立
Trùng hiên nhân độc lập
幾 回 明 月 夜
Kỷ hồi minh nguyệt dạ
單 枕 鬢 斜 攲
Đơn chẩm mấn tà khi
不 關 酖 與 酣
Bất quan trầm dữ hàm
惛 惛 人 似 醉
Hôn hôn nhân tự tuư
不 關 愚 與 惰
Bất quan ngu dữ nọa
懵 懵 意 如 癡
Mộng mộng ư như si
簪 斜 委 鬌 髼 無 奈
Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại
裙 褪 柔 腰 瘦 不 支
Quần thối nhu yêu sấu bất chi
晝 沈 沈 午 院 行 如 墜
Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ
夕 悄 悄 湘 簾 捲 又 垂
Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
簾 外 窺 日 出 枝 頭 無 鵲 報
Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo
簾 中 坐 夜 來 心 事 只 燈 知
Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri
燈 知 若 無 知
Đăng tri nhược vô tri
妾 悲 只 自 悲
Thiếp bi chỉ tự bi
悲 又 悲 兮 更 無 言
Bi hựu bi hề cánh vô ngôn
燈 花 人 影 總 堪 憐
Đăng hoa nhân ảnh tổng kham lân
咿 喔 雞 聲 通 五 夜
Y ốc kê thanh thông ngũ dạ
披 拂 槐 陰 度 八 磚
Phi phất ḥe âm độ bát chuyên
愁 似 海 刻 如 年
Sầu tự hải, khắc như niên
強 燃 香 花 魂 消 檀 炷 下
Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ
強 臨 鏡 玉 筋 墜 菱 花 前
Cưỡng lâm kính ngọc cân trụy lăng hoa tiền
強 援 琴 指 下 驚 停 鸞 鳳 柱
Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đ́nh loan phượng trụ
強 調 瑟 曲 中 悲 遏 鴛 鴦 絃
Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền
此 意 春 風 若 肯 傳
Thử ư xuân phong nhược khẳng truyền
千 金 借 力 寄 燕 然
Thiên kim tá lực kư Yên Nhiên
燕 然 未 能 傳
Yên Nhiên vị năng truyền
憶 君 迢 迢 兮 路 如 天
Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên
*
Đại ư: Chinh phụ than thở niềm cô đơn khi cách xa chồng và không có tin tức ǵ của chàng. Chàng dăi dầu sương tuyết lạnh giá nơi biên cương, c̣n nàng th́ khuê pḥng quạnh quẽ. Nàng muốn gởi thư và áo lạnh cho chồng nhưng không biết gởi đi đâu.
IX
天 遠 未 易 通
Thiên viễn vị dị thông
憶 君 悠 悠 兮 思 何 窮
Ức quân du du hề tứ hà cùng
懷 人 處 傷 心 胸
Hoài nhân xứ thương tâm hung
樹 葉 青 霜 裡
Thụ diệp thanh sương lư
蛩 聲 細 雨 中
Cùng thanh tế vũ trung
霜 斧 殘 兮 楊 柳
Sương phủ tàn hề dương liễu
雨 鋸 損 兮 梧 桐
Vũ cứ tổn hề ngô đồng
鳥 返 高 舂
Điểu phản cao thung
露 下 低 叢
Lộ há đê tùng
寒 垣 候 虫
Hàn viên hậu trùng
遠 寺 曉 鐘
Viễn tự hiểu chung
蟋 蟀 數 聲 雨
Tất suất sổ thanh vũ
芭 蕉 一 院 風
Ba tiêu nhất viện phong
風 裂 紙 窗 穿 帳 隙
Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích
月 移 花 影 上 簾 櫳
Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung
花 前 月 照 月 自 白
Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch
月 下 花 開 花 自 紅
Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng
月 花 花 月 兮 影 重 重
Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
花 前 月 下 兮 心 忡 忡
Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung
千 般 懶 萬 事 慵
Thiên ban lăn, vạn sự dung
慵 女 工 錦 軸 恥 拋 鴛 對 偶
Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu
慵 婦 巧 金 針 羞 刺 蝶 雌 雄
Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng
慵 粧 對 曉 空 施 粉
Dung trang đối hiểu không thi phấn
慵 語 終 朝 悶 倚 窗 倚 窗
Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song
倚 窗 復 倚 窗
Ỷ song ỷ song phục ỷ song
郎 君 去 兮 誰 為 容
Lang quân khứ hề thuỳ vi dung
誰 為 容 兮 空 盤 桓
Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn
郎 君 去 兮 隔 重 關
Lang quân khứ hề cách trùng quan
何 啻 天 帝 孫
Hà thí Thiên đế tôn
冷 落 泣 銀 渚
lănh lạc khấp Ngân Chử
何 啻 姮 娥 婦
Hà thí Hằng Nga phụ
凄 凉 坐 廣 寒
thê lương tọa Quảng Hàn
藉 愁 兮 為 枕
Tạ sầu hề vi chẩm
煮 悶 兮 為 餐
Chử muộn hề vi xan
欲 將 酒 制 愁
Dục tương tửu chế sầu
愁 重 酒 無 力
Sầu trọng tửu vô lực
欲 將 花 解 悶
Dục tương hoa giải muộn
悶 壓 花 無 顏
Muộn áp hoa vô nhan
愁 悶 總 為 愁 悶 誤
Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ
悶 愁 化 作 九 泉 灘
Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than
*
Đại ư: Vẫn là nỗi sầu muộn và nhớ nhung của chinh phụ.
X
試 瓊 笙 兮 不 成 響
Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng
抱 銀 箏 兮 不 忍 彈
Băo ngân tranh hề bất nhẫn đàn
思 遠 塞 兮 行 路 難
Tư viễn tái hề hành lộ nan
念 征 夫 兮 囊 索 單
Niệm chinh phu hề nang tác đơn
鵑 聲 啼 落 關 情 淚
Quyên thanh đề lạc quan t́nh lệ
樵 鼓 敲 殘 帶 憊 肝
Tiều cổ xao tàn đái bại can
不 勝 憔 悴 形 骸 軟
Bất thăng tiều tụy h́nh hài nhuyễn
始 覺 睽 離 滋 味 酸
Thủy giác khuê ly tư vị toan
滋 味 酸 兮 更 辛 酸
Tư vị toan hề toan cánh tân
酸 辛 端 的 為 良 人
Toan tân đoan đích vị lương nhân
為 良 人 兮 雙 妾 淚
Vị lương nhân hề song thiếp lệ
為 良 人 兮 隻 妾 身
Vị lương nhân hề chích thiếp thân
妾 身 不 到 君 征 帳
Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng
妾 淚 不 到 君 征 巾
Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân
惟 有 夢 魂 無 不 到
Duy hữu mộng hồn vô bất đáo
尋 君 夜 夜 到 江 津
Tầm quân dạ dạ đáo giang tân
尋 君 兮 陽 台 路
Tầm quân hề Dương Đài lộ
會 君 兮 湘 水 濱
Hội quân hề Tương thuỷ tân
記 得 幾 番 歡 會 處
Kư đắc kỷ phiên hoan hội xứ
無 非 一 枕 夢 中 春
Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân
此 身 反 恨 不 如 夢
Thử thân phản hận bất như mộng
隴 水 函 關 與 子 親
Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
夢 去 每 憎 驚 更 斷
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
夢 回 又 慮 幻 非 真
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
惟 有 寸 心 真 不 斷
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
未 嘗 頃 刻 少 離 君
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân
心 不 離 君 未 見 君
Tâm bất ly quân vị kiến quân
凭 高 幾 度 望 征 輪
Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
江 洲 滿 白 蘋
Giang châu măn bạch tần
燕 草 披 青 縷
Yên thảo phi thanh lũ
秦 桑 染 綠 雲
Tần tang nhiễm lục vân
南 來 井 邑 半 兵 塵
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
落 日 平 沙 鷺 一 群
Lạc nhật b́nh sa lộ nhất quần
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
官 路 短 長 亭
Quan lộ đoản trường đ́nh
雲 間 吳 樹 暗
Vân gian Ngô thọ ám
天 際 蜀 山 青
Thiên tế Thục sơn thanh
北 來 禾 黍 半 荒 城
Bắc lai hoà thử bán hoang thành
微 雨 江 樓 笛 一 聲
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh
*
Đại ư: Nàng vẫn cô đơn và nhung nhớ; trông ngoại cảnh càng thêm buồn; chỉ biết t́m chàng trong giấc mộng.
XI
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
崆 山 葉 做 堆
Không sơn diệp tố đôi
自 飛 青 野 雉
Tự phi thanh dă trĩ
自 舞 隔 江 梅
Tự vũ cách giang mai
東 去 煙 嵐 慘 不 開
Đông khứ yên lam thảm bất khai
西 風 飄 薄 鳥 聲 哀
Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
河 水 曲 如 鉤
Hà thủy khúc như câu
長 空 數 點 雁
Trường không sổ điểm nhạn
遠 浦 一 歸 舟
Viễn phố nhất quy châu
西 去 松 楸 接 斷 蕪
Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu
行 人 微 沒 隔 蒼 洲
Hành nhân vi một cách thương châu
望 盡 天 頭 又 地 頭
Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu
幾 日 登 樓 更 下 樓
Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu
凍 雲 阻 盡 相 思 眼
Đống vân trở tận tương tư nhăn
何 處 玉 關 征 戰 陬
Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu
恨 無 長 房 縮 地 術
Hận vô trường pḥng súc địa thuật
恨 無 仙 子 擲 巾 符
Hận vô tiên tử trịch cân phù
有 心 誠 化 石
Hữu tâm thành hóa thạch
無 淚 可 登 樓
Vô lệ khả đăng lâu
回 首 長 堤 楊 柳 色
Hồi thủ trường đề dương liễu sắc
悔 教 夫 婿 覓 封 侯
Hối giao phu tế mịch phong hầu
不 識 離 家 千 里 外
Bất thức ly gia thiên lư ngoại
君 心 有 似 妾 心 不
Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu
君 心 倘 與 妾 心 似
Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự
妾 亦 於 君 何 怨 尤
Thiếp diệc ư quân hà oán vưu
妾 心 如 花 常 向 陽
Thiếp tâm như hoa thường hướng dương
只 怕 君 心 如 流 光
Chỉ phạ quân tâm như lưu quang
流 光 一 去 不 復 照
Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu
花 為 流 光 黃 又 黃
Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng
花 黃 更 向 誰 邊 笑
Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu
流 光 不 肯 一 迴 照
Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu
黃 花 卻 為 流 光 老
Hoàng hoa khước vi lưu quang lăo
黃 花 老 兮 落 滿 墻
Hoàng hoa lăo hề lạc măn tường
花 落 如 今 經 幾 霜
Hoa lạc như kim kinh kỷ sương
*
Đại ư: Nhớ nhung lắm th́ sinh ngờ, nàng phân vân không biết chồng c̣n thương yêu nàng không, và có nhớ nàng như nàng hằng nhớ chàng không.
XII
庭 蘭 兮 已 摘
Đ́nh lan hề dĩ trích
江 藻 兮 又 芳
Giang tảo hề hựu phương
攝 衣 步 前 堂
Nhiếp y bộ tiền đường
仰 目 觀 天 章
Ngưỡng mục quan thiên chương
纖 雲 時 彷 彿
Tiêm vân thời phảng phất
北 斗 忽 低 昂
Bắc đẩu hốt đê ngang
河 水 翻 明 滅
Hà thuỷ phiên minh diệt
參 躔 乍 現 藏
Sâm triền sạ hiện tàng
月 照 兮 我 床
Nguyệt chiếu hề ngă sàng
風 吹 兮 我 牆
Phong xuy hề ngă tường
玉 顏 隨 年 削
Ngọc nhan tuỳ niên tước
丈 夫 猶 他 方
Trượng phu do tha phương
昔 為 形 與 影
Tích vi h́nh dữ ảnh
今 為 參 與 商
Kim vi Sâm dữ Thương
君 邊 雲 擁 青 絲 騎
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
妾 處 苔 生 嚮 屧 廊
Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang
廊 內 春 風 日 將 歇
Lang nội xuân phong nhật tương yết
可 憐 誤 盡 良 時 節
Khả lân ngộ tận lương thời tiết
良 時 節 姚 黃 魏 紫 嫁 東 風
Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Đông phong
良 時 節 織 女 牛 郎 會 明 月
Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt
昨 日 未 笄 西 家 娘
Tạc nhật vị kê Tây gia nương
今 年 已 歸 東 鄰 倩
Kim niên dĩ quy Đông lân thiến
可 怜 兔 守 一 空 房
Khả linh thố thủ nhất không pḥng
年 年 誤 盡 良 時 節
Niên niên ngộ tận lương thời tiết
良 時 節 兮 忽 如 梭
Lương thời tiết hề hốt như thoa
人 世 青 春 容 易 過
Nhân thế thanh xuân dung dị qua
況 復 是 春 悶 未 消 秋 恨 續
Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục
況 復 是 合 歡 更 少 別 愁 多
Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa
別 愁 秋 恨 兩 相 磨
Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma
蒲 柳 青 青 能 幾 何
Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà
空 嘆 惜 淚 咨 嗟
Không thán tích lệ tư ta
只 怕 白 到 文君 頭 空 嘆 惜
Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích
只 恐 花 到 潘 郎 鬢 浪咨 嗟
Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lăng tư ta
嘆 惜 何 以 為 顏 色 猶 紅 如 嫩 花
Thán tích hà dĩ vi Nhan sắc do hồng như nộn hoa
咨 嗟 何 以 為
Tư ta hà dĩ vi
光 陰 一 擲 無 回 戈
Quang âm nhất trịch vô hồi qua
咨 命 薄 惜 年 花
Tư mệnh bạc tích niên hoa
紛 紛 少 婦 幾 成 皤
Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà
香 閣 重 懷 陪 笑 臉
Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm
花 樓 尚 記 解 香 羅
Hoa lâu thượng kư giải hương la
恨 天 不 與 人 方 便
Hận thiên bất dữ nhân phương tiện
底 事 到 今 成 坎 坷
Để sự đáo kim thành khảm kha
坎 坷 坎 坷 知 奈 何
Khảm kha khảm kha tri nại hà
為 妾 嗟 兮 為 君 嗟
Vị thiếp ta hề vị quân ta
*
Đại ư: Nàng lo sợ nhan sắc chóng tàn trong lúc chưa tái ngộ chồng.
XIII
君 不 見 野 外 雙 鴛 鴦
Quân bất kiến dă ngoại song uyên ương
甘 心 不 忍 兩 分 張
Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương
又 不 見 樑 間 雙 燕 燕
Hựu bất kiến lương giang song yến yến
白 首 何 曾 忘 眷 戀
Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến
鶼 鶼 也 無 情
Kiêm kiêm dă vô t́nh
比 翼 相 隨 過 一 生
Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh
蛩 蛩 也 無 知
Cùng cùng dă vô tri
並 驅 到 老 不 相 違
Tịnh khu đáo lăo bất tương vi
路 柳 曾 傳 連 理 處
Lộ liễu tằng truyền liên lư xứ
池 蓮 亦 有 並 頭 時
Tŕ liên diệc hữu tịnh đầu thời
負 蟨 兮 駏 驉
Phụ quyết hề cự hư
抱 蘿 兮 菟 絲
Băo la hề thố ty
何 人 生 之 相 違
Hà nhân sinh chi tương vi
嗟 物 類 之 如 斯
Ta vật loại chi như tư
安 得 在 天 為 比 翼 鳥
An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu
在 地 為 連 理 枝
Tại địa vi liên lư chi
寧 甘 死 相 見
Ninh cam tử tương kiến
不 忍 生 相 離
Bất nhẫn sinh tương ly
雖 然 死 相 見
Tuy nhiên tử tương kiến
曷 若 生 相 隨
Hạt nhược sinh tương tuỳ
安 得 君 無 老 日
An đắc quân vô đáo lăo nhật
妾 常 少 年
Thiếp thường thiếu niên
願 為 影 兮 隨 君 邊
Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên
君 有 行 兮 影 不 遠
Quân hữu hành hề ảnh bất viễn
君 依 光 兮 妾 如 願
Quân y quang hề thiếp như nguyện
願 君 許 國 心 如 丹
*
Đại ư: Nàng so b́ với các loài có đôi có bạn trong trời đất, tự hỏi sao nàng phải lẻ loi. Nhưng rồi nàng hồi tâm v́ nghĩ chồng đang thi hành nghĩa vụ nam nhi trong thời ly loạn. Rồi nàng nguyện làm tṛn bổn phận và giữ vẹn ḷng chờ chàng trở về.
XIV
Nguyện quân hứa quốc tâm như đan
願 君 庇 民 身 如 鐵
Nguyện quân tỳ dân thân như thiết
饑 來 吞 下 月 氏 頭
Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu
渴 來 飲 下 單 于 血
Khát lai ẩm hạ Thiền Vu huyết
何 幸 期 門 鋒 刃 中
Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung
老 天 著 意 護 英 雄
Lăo thiên trước ư hộ anh hùng
護 英 雄 百 戰 功
Hộ anh hùng bách chiến công
長 驅 駟 馬 靜 關 東
Trường khu tứ mă tịnh Quan Đông
關 東 關 北 休 傳 箭
Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn
山 尾 山 頭 早 掛 弓
Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung
捷 色 旌 旗 辭 塞 月
Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt
凱 歌 將 士 背 邊 風
Khải ca tướng sĩ bối biên phong
勒 詩 兮 燕 然 石
Lặc thi hề Yên Nhiên thạch
獻 馘 兮 未 央 宮
Hiến quắc hề Vị Ương cung
未 央 宮 兮 向 天 朝
Vị Ương cung hề hướng thiên triều
挽 銀 河 兮 洗 刀 弓
Văn Ngân hà hề tẩy đao cung
詞 人 刪 下 平 淮 頌
Từ nhân san hạ B́nh Hoài Tụng
樂 府 歌 傳 入 漢 謠
Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao
凌 煙 閣 兮 秦 叔 寶
Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu
麒 麟 台 兮 霍 嫖 姚
Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu
天 長 地 久 茅 苴 券
Thiên trường địa cửu mao thư khoán
子 蔭 妻 封 爵 祿 標
Tử ấm thê phong tước lộc tiêu
有 愁 兮 此 日
Hữu sầu hề thử nhật
得 意 兮 來 時
Đắc ư hề lai thời
*
Đại ư: Nàng đem điều chính nghĩa thầm khuyên chồng, mong chàng hăy gắng sức giúp nước cứu dân, và cầu mong cho chàng chiến thắng khải hoàn.
XV
妾 非 蘇 家 癡 心 婦
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
君 亦 洛 陽 好 男 兒
Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi
歸 來 倘 佩 黃 金 印
Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
肯 學 當 年 不 下 機
Khẳng học đương niên bất há ky
願 為 君 兮 解 征 衣
Nguyện vi quân hề giải chinh y
願 為 君 兮 捧 霞 巵
Nguyện vi quân hề bổng hà chi
為 君 梳 櫛 雲 鬟 髻
Vi quân sơ trất vân hoàn kế
為 君 粧 點 玉 臙 脂
Vi quân trang điểm ngọc yên chi
取 君 看 兮 舊 淚 帕
Thủ quân khan hề cựu lệ phạ
訴 君 聽 兮 舊 情 詞
Tố quân thính hề cựu t́nh từ
舊 情 詞 兮 換 新 聯
Cựu t́nh từ hề hoán tân liên
語 新 話 舊 兮 酒 杯 前
Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền
淺 斟 兮 慢 慢
Thiển châm hề mạn mạn
底 唱 兮 連 連
Đê xướng hề liên liên
斟 不 斟 兮 蒲 城 釀
Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng
唱 不 唱 兮 紫 騮 篇
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
願 斟 九 醞 兮 唱 雙 聯
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
與 君 整 頓 兮 舊 姻 緣
Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên
交 頸 成 雙 到 老 天
Giao kỉnh thành song đáo lăo thiên
償 了 功 名 離 別 債
Thường liễu công danh ly biệt trái
相 憐 相 守 太 平 年
Tương liên tương thủ thái b́nh niên
太 平 年 願 君 止 戈 置
Thái b́nh niên nguyện quân chỉ qua trí
若 然 此 別 妾 何 淚
Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ
將 會 之 期 將 寄 言
Tương hội chi kỳ tương kư ngôn
嗟 乎 丈 夫 當 如 是
Ta hồ trượng phu đương như thị.
*
Đại ư: Chinh phụ mơ ước chồng chiến thắng khải hoàn, chiến công hiển hách, quyền cao lộc cả, gia đ́nh đoàn tụ, vui hưởng cảnh thái b́nh trọn đời.
Chinh phụ ngâm khúc
XV
XV
妾 非 蘇 家 癡 心 婦
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
君 亦 洛 陽 好 男 兒
Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi
歸 來 倘 佩 黃 金 印
Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
肯 學 當 年 不 下 機
Khẳng học đương niên bất há ky
願 為 君 兮 解 征 衣
Nguyện vi quân hề giải chinh y
願 為 君 兮 捧 霞 巵
Nguyện vi quân hề bổng hà chi
為 君 梳 櫛 雲 鬟 髻
Vi quân sơ trất vân hoàn kế
為 君 粧 點 玉 臙 脂
Vi quân trang điểm ngọc yên chi
取 君 看 兮 舊 淚 帕
Thủ quân khan hề cựu lệ phạ
訴 君 聽 兮 舊 情 詞
Tố quân thính hề cựu t́nh từ
舊 情 詞 兮 換 新 聯
Cựu t́nh từ hề hoán tân liên
語 新 話 舊 兮 酒 杯 前
Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền
淺 斟 兮 慢 慢
Thiển châm hề mạn mạn
底 唱 兮 連 連
Đê xướng hề liên liên
斟 不 斟 兮 蒲 城 釀
Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng
唱 不 唱 兮 紫 騮 篇
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
願 斟 九 醞 兮 唱 雙 聯
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
與 君 整 頓 兮 舊 姻 緣
Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên
交 頸 成 雙 到 老 天
Giao kỉnh thành song đáo lăo thiên
償 了 功 名 離 別 債
Thường liễu công danh ly biệt trái
相 憐 相 守 太 平 年
Tương liên tương thủ thái b́nh niên
太 平 年 願 君 止 戈 置
Thái b́nh niên nguyện quân chỉ qua trí
若 然 此 別 妾 何 淚
Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ
將 會 之 期 將 寄 言
Tương hội chi kỳ tương kư ngôn
嗟 乎 丈 夫 當 如 是
Ta hồ trượng phu đương như thị.
*
Đại ư: Chinh phụ mơ ước chồng chiến thắng khải hoàn, chiến công hiển hách, quyền cao lộc cả, gia đ́nh đoàn tụ, vui hưởng cảnh thái b́nh trọn đời.
Chinh Phụ Ngâm Khúc
(Bồ Câu Lăng Mạn sưu tầm và biên soạn)
Chinh Phụ Ngâm Khúc được Đặng Trần Côn tiên sinh sáng tác bằng chữ Nho nói lên tâm sự của một người vợ có chồng đang dong ruổi nơi biên thùy trong thời loạn lạc. Cái hoài bảo chờ chồng, cái cô đơn lạnh lẽo, cái ḷng nhớ thương và mong chờ ngày trở về trong chiến thắng vinh quang được tác giả đưa vào một áng thơ làm rung động ḷng người.
Chinh Phụ Ngâm Khúc, v́ nguyên tác là một bản bằng chữ Nho, viết theo thể thơ Trường Đoản Cú nên không được phổ thông trong dân gian. Nhưng áng thơ này lại rất phổ thông trong bản diễn dịch ra chữ Nôm của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (người cùng thời với tác giả).
Bà Đoàn Thị Điểm đă đem Chinh Phụ Ngâm Khúc vào ḷng dân gian bằng bảng dịch ra chữ Nôm bằng thể thơ song thất lục bát dài 412 câu mà hầu hết ai cũng đă có dịp đọc qua.
Tiểu sử Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm, dịch giả khúc Chinh Phụ Ngâm, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, sinh vào đầu thế kỷ thứ 18, đời Hậu Lê.
Hồng Hà nữ sĩ là người làng Hiếu Phạm huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, em gái ông Tiến sĩ Tuyết Am Đoàn Luân.
Kén chồng măi tới năm 30 tuổi, bà mới lấy lẽ ông Tiến sĩ Hạo Hiên Nguyễn Kiều đương tại chức Thượng Thư. Ông là người huyện Từ Liêm, nay là phủ Hoài Đức, Hà Đông. Ông bà gặp nhau trong văn chương nên kính đăi nhau thật là tương đắc và thường có những cuộc nhàn đàm ngâm vịnh cùng các bậc văn hữu đồng thời.
Tư chất rất thông minh, ngay khi mới sáu, bảy tuổi bà đă làu thông kinh sử. Đến năm 15 tuổi, tiếng tăm bà bất đầu lừng lẫy trên văn đàn nước nhà. Một áng Chinh Phụ Ngâm diễn nôm cũng đủ nói hết sự nghiệp văn chương của bà lỗi lạc đến bực nào.
Bất luận thơ phú, đối trướng, bà làm rất nhanh và tài t́nh. Khi mới sáu, bảy tuổi, ông Đoàn Luân lấy chữ ở Sử kư Hán Cao Tổ ra câu đối:
"Bạch xà đương đạo. Quí bạt kiếm nhi trảm chi" nghĩa là: Con rắn trắng đón đường, ông Quí rút gươm mà chém đấy.
Bà đối ngay:
"Hoàng long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết" nghĩa là: Con rồng vàng đội thuyền, ông Vũ trông trời mà than rằng."Đều là chữ nguyên văn trong Sử kư mà đối chọi nhau từng chữ."
Lại một hôm, ông Luân xuống ao rửa chân thấy em đương đứng soi gương bèn đọc:
"Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm" nghĩa là: Soi gương vẽ mày; một chấm hóa thành hai chấm. (Tiếng điểm lại là tên bà Điểm).
Bà đọc ngay đối lại:
"Lâm tŕ ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân" nghĩa là: Đến ao xem trăng, một vầng hiện ra hai vầng (Tiếng luân lại là tên ông Luân).
Có một lần, giữa đường bà gặp ông Nguyễn Công Hăng thi hào nổi tiếng thời bấy giờ. Ông này bèn ra thơ Độc Hành nghĩa là đi một ḿnh. Bà ứng khẩu đọc ngay:
"Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu.
"Trung tùy tả hữu cổ quăng thần."
Nghĩa là: Bàn luận chuyện xưa và nay có bạn ḷng. Theo hầu bên cạnh có bầy tôi.
Đến đời vua Lê Tuần Tôn, sứ Trung Hoa sang nước ta. Bà Đoàn Thị Điểm bèn dựng quán bán rượu bên đường. Các cột quán dán chi chít câu đối, trong quán bày la liệt sách vở. Sứ giả thấy lạ vào quán. Sau có ư trêu cô bán hàng bèn đọc câu:
"An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỳ nhân canh": Nước Nam bé một tấc đất chẳng biết có mấy người cày".
Bà đối liền:
"Bắc Quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất": Các vị đại phu nước Bắc ( Trung Hoa) đều do đấy mà ra cả".
Sứ giả thẹn và phục tài cô hàng nước lịch sử của Việt Nam lắm, cũng nhân đó Triều đ́nh và các văn hào thời bấy giờ được các sứ giả Trung Hoa kính nể.
Bà mất năm 1746 tại Nghệ An trên đường theo chồng đi nhậm chức, hưởng thọ có 45 tuổi.
Cuộc đời dù ngắn ngủi bà cũng để lại cho kho tàng văn học nước nhà những thi phẩm được truyền tụng:
Chinh Phụ Ngâm Khúc, Tục Truyền Kỳ, và nhiều văn thơ khác.
Tiểu sử Đặng Trần Côn
Đặng Trần Côn tiên sinh, tác giả khúc Chinh Phụ Ngâm ở vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ 18, dưới triều vua Dụ Tôn nhà Lê.
Tiên sinh người xă Nhân Mục ( làng Mọc ), huyện Thanh Tŕ thuộc tỉnh Hà Đông. Vốn có tư chất thông minh, lại là người hiếu học, thuở thiếu thời cần học, tiên sinh phải làm hầm đọc sách, bởi lệnh chúa Trịnh cấm đốt lửa ban đêm, v́ hồi ấy trong nội thành Thăng Long thường xảy ra hỏa hoạn.
Tiên sinh đậu Cử Nhân, làm Huấn Đạo. Đến năm 1740, đời Lê Hiển Tông, tiên sinh được thăng bổ Tri Huyện Thanh Oai ( Hà Đông ), và sau thăng dần tới chức Ngự Sử Đài.
Tính t́nh tiên sinh khoáng dật, hồn nhiên. Tiên sinh yên sống cuộc đời tao nhă, lấy sự uống rượu ngâm thơ, hay quảy túi gió trăng, thênh thang du ngoạn cảnh thiên nhiên làm thú vui cuộc đời.
Văn chương tiên sinh th́ thật là cao siêu lỗi lạc. Nhất là bài Chinh Phụ Ngâm chẳng những các thi hào trong nước mà đến cả các nước ngoài đều phải kính phục văn tài.
Thi phái đời Hậu Lê đă được tiên sinh d́u dắt trên đường chấn hưng, và kho tàng văn học nước nhà đă được tiên sinh bồi đắp bằng những áng văn quư giá.
Ngoài khúc "Chinh Phụ Ngâm", tiên sinh c̣n soạn: Tiêu Tương Bát Cảnh, Trương Hàn Tư Thuần Lư, Trương Lương Bố Y, Khấu Môn Thanh, Tiểu thuyết Bích Câu Kỳ Ngộ, và nhiều văn thơ khác, tất cả đều là những tác phẩm giá trị được các bậc thi văn hào truyền tụng.
Chinh Phụ Ngâm
412 câu thơ viết theo thể song thất lục bát, ta có thể chia ra làm 13 phần:
- Phần 1:
Nước nhà đang cơn biến loạn, làm trai phải tạm gác việc nhà để làm bổn phận với đất nước theo tiếng gọi của non sông. Làm gái đành tạm nhận lấy kiếp sống truân chuyên.
1- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên.
V́ ai gây dựng cho nên nỗi này!
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt.
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh..
Nước thanh b́nh ba trăm năm cũ,
Áo nhung trao quan vũ, từ đây;
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Đường dong ruổi lưng đeo cung tiễn.
Buổi tiễn đưa ḷng bận thê noa.
Bóng cờ tiếng trống xa xa,
16- Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa pḥng.
- Phần 2:
Giờ phút lên đường thân chinh ra biên ải. Người trai vốn gịng hào kiệt, với ư chí kiên cường, quyết đem thân mà trả nợ núi sông.
17- Chàng tuổi trẻ vốn gịng hào kiệt.
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng.
Thước gươm đă quyết chẳng dong giặc trời,
Chí làm trai dậm ngh́n da ngựa
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao,
Giă nhà, đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu
Ng̣i đầu cầu, nước trong như lọc,
Đường bên cầu, cỏ mọc c̣n non.
Đưa chàng ḷng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
Nước trong chảy, ḷng phiền chẳng rửa.
Cỏ xanh thơm, dạ nhớ khó quên.
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay.
Bước đi một bước giây giây lại dừng.
Ḷng thiếp tựa bóng trăng theo dơi,
Dạ chàng xa ngoài cơi Thiên san;
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu lan rằng theo Giới tử;
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
40- Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
- Phần 3:
Cảnh chia tay ngậm ngùi trong ḷng người chinh phụ. Có lẽ người đi ít buồn hơn kẻ ở.
41- Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay!
Hà lương chia rẽ đường này,
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đă gần ngoài doanh Liễu
Kỵ sau c̣n khuất nẻo Tràng dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng.
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa.
Thiếp nh́n rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng th́ đi cơi xa mưa gió,
Thiếp th́ về buồng cũ chiếu chăn.
Đoái trông theo đă cách ngăn,
Tuôn mầu mây biếc, trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương chàng c̣n ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hăi trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu.
64- Ḷng chàng ư thiếp ai sầu hơn ai?
- Phần 4:
Những tháng ngày gian khổ của chinh phu từ khi đi vào nơi gió cát.
65- Chàng từ khi vào nơi gió cát,
Đêm chăng này nghỉ mát phương nao?
Xưa nay chiến địa nhường bao!
Nội không muôn dặm xiết bao dăi dầu!
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Ḍng nước sâu, ngựa nản chân bon.
Ôm yên, gối trống đă chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải ḍm qua.
H́nh khe thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi, buổi chiều như giội,
Nước ḷng khe, nẻo suối c̣n sâu.
Năo người áo giáp bấy lâu,
Ḷng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hăn hải th́ miền Tiêu quan.
Đă trắc trở đ̣i ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong,
Lên cao trông thức mây lồng,
88- Ḷng nào mà chẳng động ḷng bi thương.
- Phần 5:
Ḷng hy sinh của người trai nơi chiến trường rất nhiều ngay cả việc đem thân đền nợ nước, da ngựa bọc thây.
89- Chàng từ sang đông nam khơi nẻo
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh ơn dày từ trước;
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo,
Bến Ph́ gió thổi đ́u hiu mấy g̣.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai: già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ.
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió băi trăng ngàn,
Tên treo đầu ngựa, giáo lan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn ră,
Những nhọc nhằn nào đă nghỉ ngơi,
Nỗi ḷng biết tỏ cùng ai?
112- Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
-Phần 6:
Người chinh phụ buồn cho cái kiếp sống cô đơn của ḿnh nhưng trong ḷng vẫn chan chứa nỗi hẹn ḥ của ngày về gặp gỡ.
113- Trong cửa này, đă đành phận thiếp,
Ngoài mây kia, há kiếp chàng vay?
Những mong cá nước vui vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn?
Cố sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm, thôi hôm những sầu.
Chàng phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng gian dối chữ duyên;
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách hàn huyên cho đành?
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu.
Hỏi ngày về, ước nẻo oanh ca
Nay quyên đă giục oanh già.
Ư nhi lại gáy trước nhà líu lo,
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông,
Nay đào đă quyến gió đông
Phù dung lại đă bên sông bơ xờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,
Sớm đă trông nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng lá rụng cành trâm,
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ.
Chiều lại t́m nào có tiêu hao:
Ngập ngừng gió thổi chéo bào
Băi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại người không thấy lại,
Hoa dương tàn đă trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp xung quanh,
Sân đi một bước trăm t́nh ngẩn ngơ!
Thư thường tới, người chưa thấy tới,
Bức rèm thưa lần dăi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang.
148- Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?
-Phần 7:
Dù chồng đă đi xa, ngoài biên ải, chinh phụ vẫn làm tṛn bổn phận của người ở lại.
149- Thử tính lại diễn khơi ngày ấy.
Tiền sen này đă nẩy là ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng hoa dặm dài.
T́nh gia thất nào ai chẳng có,
Ḱa lăo thân khuê phụ nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù tŕ.
Ḷng lăo thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đă hiếu nam,
Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân
Nay một thân nuôi già, dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, đông nào có dư!
Kể năm đă ba tư cách diễn
Mối sầu thêm nǵn vạn ngổn ngang,
Ước ǵ gần gũi tấc gang,
Giăi niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Theo cung Hán thuở ngày xuất giá
Gương lầu Tần, dấu đă soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Để chàng thấu hết tấm ḷng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gửi tới nơi?
176- Để chàng trân trọng dấu người tương thân.
-Phần 8:
Vắng tin chồng đă lâu, chinh phụ cảm thấy ḷng ḿnh dâng lên nỗi lo âu.
177- Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hăy vắng không.
Thấy nhàn luống tưởng thư phong.
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi, không đường hồng tiện.
Xót cơi ngoài tuyết quyến, mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cơi ngoài.
Đề chữ gấm phong thôi lại mở.
Gieo bói tiền tin dở c̣n ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Trâm cài, xiêm dắt thẹn thùng,
Lệch vừng tóc rối, lỏng ṿng lưng eo.
Dạo hiên vắng, thầm gieo từng bước.
Ngoài rèm thưa rủ, thác đ̣i phen.
Ngoài rèm, thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đă có đèn biết chăng?
Đèn có biết, nhường bằng chẳng biết,
Ḷng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương,
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Ḥe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc trời đằng đẵng bấy niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng,
Ḷng này gửi gió đông có tiện,
Ngh́n vàng xin gửi đến non Yên,
Non Yên dù chẳng tới miền.
212- Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
-Phần 9:
Tâm trạng người chinh phụ trong cảnh đợi chờ quá lâu. Cảnh vật chung quanh không c̣n là gần gũi với nàng, ngay cả việc trang điểm cho ḿnh.
123- Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha ḷng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ ṃn gốc liễu.
Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giăi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong ḷng xiết đâu,
Đâu xiết kể trăm sầu ngh́n năo.
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi,
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, ḍi dơi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ ḷng.
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm ḷng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng ngoài cơi trùng quan.
Khác ǵ ả Chức chị Hằng,
Bến Ngân sùi sụt cung trăng chốc ṃng.
Sầu ôm nặng, hăy chồng làm gối,
Mộng ôm đầy, hăy thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.
Gơ sênh ngọc mấy hồi không tiếng.
Ôm đàn tranh, mấy phím rời tay;
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa thêm mỏi, trắp đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
Trống tiều khua như đốt buồng gan.
Vơ vàng đổi khác dung nhan,
253- Khuê ly mới biết tân toan dường này.
-Phần 10:
Chinh phụ mơ thấy ḿnh đi bên chồng khắp mọi nơi. Đó vẫn là giấc mộng.
153- Nếm chua cay, tấm ḷng mới tỏ.
Chua cay này há có v́ ai?
V́ chàng, lệ thiếp nhỏ đôi,
V́ chàng, thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng.
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn,
Duy c̣n hồn mộng được gần,
Đêm đêm thường đến Giang tân t́m người
T́m chàng thuở Dương đài lối cũ.
Gặp chàng nơi Tương phố bến xưa:
Xum vầy mấy lúc t́nh cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng
Được gần chàng bến Lũng thành Quan.
Khi mơ, những tiếc khi tàn,
T́nh trong giấc mộng muôn vàn cũng không!
Vui có một tấm ḷng chẳng dứt.
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi!
Ḷng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe
Trông bến nam, băi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh.
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn c̣ đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường bắc, đôi cḥm quán khách,
Rườm rà cây xanh ngắt núi non;
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Non đông thấy lá hầu chất đống.
Trĩ xập x̣e mai cũng bẻ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
Lũng tây chẩy, nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu:
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bể chân trời mặt đất;
Lên, xuống lầu thấm thoắt đ̣i phen;
Lớp mây ngừng mắt ngại nh́n,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc quan.
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên,
Ḷng này hóa đá cũng nên,
296- E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
-Phần 11:
Chinh phụ có khi cũng mến tiếc tuổi xuân. Sợ tuổi trẻ sẽ qua nhanh mà chồng th́ chưa gặp. Không biết chàng có nhớ đến thiếp chăng?
297- Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
Ḷng chàng có cũng như ḷng thiếp chăng?
Ḷng chàng ví cũng bằng như thế,
Ḷng thiếp nàp dám nghĩ gần xa;
Hướng dương ḷng thiếp như hoa,
Ḷng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương;
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần?
Chồi lan nọ trước sân đă hái,
Ngọn tần kia bên băi đưa hương.
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ.
Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,
Độ Khuê triền buổi có buổi không.
Thức mây đ̣i lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành khô.
Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu,
Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi.
Một năm một nhạt màu son phấn,
Trượng phu c̣n thơ thẩn miền khơi:
Xưa sao h́nh ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương?
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in.
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương th́.
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau;
Nọ th́ ả Chức, chàng Ngâu.
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thương một kẻ pḥng không luống giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đ̣i nau;
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đ̣i thấm thoắt qua mầu xuân xanh
Xuân, thu để giận quanh ở dạ.
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Ḱa Văn Quân mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gă Phan lang
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chùng hoa nở,
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa!
Gái tơ mấy chốc hóa ra nạ ḍng
Gác nguyệt nọ mơ ṃng vẻ mặt,
Lầu hoa kia, phảng phất mùi hương.
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
352- Thiếp rầu, thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
-Phần 12:
Chinh phụ ước mơ ḿnh sống có đôi, chỉ như loài chim muông cũng thấy hạnh phúc lắm rồi, mong rằng ḿnh c̣n trẻ măi và luôn gần gũi chồng.
353- Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội?
Cũng dập d́u chẳng vội phân trương.
Chẳng xem chim yến trên rường,
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Ḱa loài sâu hai đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen, là thức cỏ cây,
Đôi hoa cũng sánh, đôi dây cũng liền.
Ấy loài vật t́nh duyên c̣n thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy, đây.
Thiếp xin về kiếp sau này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
Đành muôn kiếp chữ t́nh đă vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau,
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp th́ giữ măi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy.
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên;
Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền,
372- Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tṛn.
-Phần 13 ( kết ):
Biết chồng đă ra đi v́ dân v́ nước, th́ c̣n ǵ mong hơn là ngày chinh phu trở về trong khúc ca chiến thắng. C̣n ǵ hạnh phúc hơn khi vợ chồng sum họp và sống trong vinh dự, thái b́nh với làng, với nước.
373- Ḷng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,
Sức tư dân dường sắt trơ trơ.
Máu Thuyền Vu quắc Nhục Chi,
Ấy th́ bữa uống, ấy th́ buổi ăn.
Mũi đồng bác đôi lần hăm hở,
Đă ḷng trời ǵn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
Buông tên ải bắc, treo cung non đoài.
Bóng kỳ xí giă ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần kinh.
Đỉnh non kia, đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đ́nh dâng công,
Nước Ngân hán việt đồng rửa sạch,
Khúc Nhạc Từ giéo giắt lừng khen.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói tượng truyền đài Lân,
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ.
Chữ đồng hưu bia để ngh́n đông.
Ơn trên ấm tử, thê phong
Phân vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thiếp chẳng dại như người Tô phụ.
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương.
Khi về đeo quả ấn vàng,
Trên khung cửi, dám rẫy ruồng làm cao.
Xin v́ chàng xếp bào cởi giáp,
Xin v́ chàng dũ lớp phong sương.
V́ chàng tay chúc chén vàng,
V́ chàng điểm phấn đeo hương năo nùng.
Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu, chàng thấm từng câu.
Câu vui đổi lấy câu sầu.
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca lần ren rén từng thiên
Liên ngâm đối ẩm đ̣i phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bơ lúc xa sầu cách nhớ,
Giữ ǵn nhau vui thuở thanh b́nh.
Ngâm nga mong mỏi chữ t́nh,
412- Nhường này âu hẳn tài lành trượng phu.
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.