MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

 Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Đà Lạt

֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Đại Kỷ Nguyên

֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports

֎ Vietnamese Commandos ֎ Video/TV ֎ Lottery

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Diễn Đàn

֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017

֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018

֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018

֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018

 

 

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government v Congressional Record

v C-SPAN v Videos Library vNational Pri Project

v Judicial Watch vAssociated Press vReuter News

v Real Clear Politics vMediaMattersvLawNews

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation

v New World Order vIlluminatti News    

v New Max v CNSv Daily Storm v Foreign Policy

v Observe v American Progress  v Fair vCity

v Guardian v Political Insider v Law

v Ramussen Report  v Wikileaks  v Federalist

v The Online Books Page v Breibart  Interceipt

v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic

v National Public Radio v Foreign Trade

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Sai Gon Echo v Viễn Đông

v Người Việt v Việt Báo v

CIA VÀ MEDIA

 

CARL BERNSTEIN

 

 

 

 

Sau khi rời The Washington Post năm 1977, Carl Bernstein đă dành sáu tháng để quan sát mối quan hệ của CIA và báo chí trong những năm chiến tranh lạnh. Câu chuyện b́a dài 25.000 từ của ông, được xuất bản trong Rolling Stone vào ngày 20 tháng 10 năm 1977, được in lại dưới đây.

 

Phương tiện truyền thông châu Á mạnh mẽ nhất đă làm việc trong tay với Cơ quan T́nh báo Trung ương và Tại sao Uỷ ban Giáo hội bao phủ nó. 

Năm 1953, Joseph Alsop, sau đó là một trong những nhà báo hàng đầu của Mỹ, đă tới Philippines để dự cuộc bầu cử. Anh ta không đi v́ được yêu cầu làm như vậy bởi tổ hợp, bởi các tờ báo in cột của anh ta. Ông đă theo yêu cầu của CIA.

 

Alsop là một trong hơn 400 nhà báo Mỹ, trong ṿng 25 năm qua đă bí mật thực hiện các nhiệm vụ cho Cơ quan T́nh báo Trung ương, theo các tài liệu lưu giữ tại trụ sở CIA. Một số mối quan hệ của các nhà báo với CIA thuộc loại ngầm; một số rơ ràng.

Có sự hợp tác, chỗ ở và trùng lắp. Các nhà báo đă cung cấp đầy đủ các dịch vụ bí mật - từ thu thập thông tin đơn giản để phục vụ như những người hoạt động gián điệp ở các nước Cộng sản. Các phóng viên chia sẻ sổ tay của họ với CIA. Người biên tập chia sẻ nhân viên của họ. Một số nhà báo là những người đoạt giải Pulitzer Prize, các phóng viên nổi tiếng coi ḿnh là đại sứ không có danh mục đầu tư cho đất nước của họ.

Hầu hết những người ít được tôn trọng: các phóng viên nước ngoài nhận thấy mối liên hệ của họ với CIA đă giúp công việc của họ; những người tự do quan tâm đến những hoạt động gián điệp, công việc kinh doanh gián điệp cũng giống như việc làm trong các bài báo; Và, loại thấp nhất, nhân viên CIA toàn thời gian giả mạo là nhà báo ở nước ngoài. Trong nhiều trường hợp, các tài liệu của CIA cho thấy, nhiều nhà báo đă tham gia để thực hiện nhiệm vụ cho CIA với sự đồng ư từ các nhà quản lư của các tổ chức tin tức hàng đầu của Mỹ.

Lịch sử  việc CIA liên quan đến báo chí Mỹ tiếp tục bị che dấu bởi chính sách chính thức của việc làm  trở nên lúng túng và lừa đảo v́ những lư do chính sau đây:

 

■ Việc sử dụng các nhà báo là một trong những phương tiện thu thập thông tin hiệu quả nhất của CIA. Mặc dù Cơ quan đă cắt giảm mạnh mẽ việc sử dụng các phóng viên từ năm 1973 chủ yếu là do áp lực từ giới truyền thông), nhưng một số nhà báo vẫn chưa được công bố ở nước ngoài.

 

■ Các cuộc điều tra tiếp theo về vấn đề này, các quan chức CIA cho biết, chắc chắn sẽ tiết lộ một loạt các mối quan hệ xấu hổ trong những năm 1950 và 1960 với một số tổ chức và cá nhân mạnh nhất trong ngành báo chí Mỹ.

 Kết quả h́nh ảnh cho James Copley

Williarn Paley         Arthur Hays Sulzberger              Barry Bingham Sr.                 Henry Luce

 

Trong số các nhà quản lư đă hợp tác với Cơ quan CIA là Williarn Paley of the Columbia Broadcasting System, Henry Luce of Time Inc., Arthur Hays Sulzberger of the New York Times, Barry Bingham Sr. of the LouisviIle Courier‑Journal, and James Copley of the Copley News Service. Other organizations which cooperated with the CIA include the American Broadcasting Company, the National Broadcasting Company, the Associated Press, United Press International, Reuters, Hearst Newspapers, Scripps‑Howard, Newsweek magazine, the Mutual Broadcasting System, the Miami Herald and the old Saturday Evening Post and New York Herald‑Tribune

 

Những giá trị quan trọng nhất của các hiệp hội này theo các quan chức của CIA, là với New York Times, CBS và Time Inc.

 

Việc CIA sử dụng các phương tiện truyền thông Mỹ đă được mở rộng hơn rất nhiều so với các quan chức của Cơ quan đă công nhận công khai hoặc trong các phiên họp kín với các thành viên của Quốc hội. Các phác thảo chung về những ǵ đă xảy ra là không thể chối căi; Những chi tiết cụ thể khó có thể đi qua. Các nguồn tin của CIA cho thấy một nhà báo đặc biệt đă buôn bán khắp Đông Âu cho Cơ quan; Nhà báo nói không, ông chỉ ăn trưa với giám đốc đài. Các nguồn tin của CIA nói thẳng thắn rằng một phóng viên ABC nổi tiếng đă làm việc cho Cơ quan thông qua năm 1973; Họ từ chối xác định anh ta. Một quan chức cấp cao của CIA với một trí nhớ phi thường nói rằng tờ New York Times cung cấp tài liệu cho khoảng 10 nhân viên CIA từ năm 1950 đến năm 1966; Anh ta không biết họ là ai, hoặc người quản lư của tờ báo đă sắp xếp.

 

Các mối quan hệ đặc biệt của Cơ quan với cái gọi là "chuyên ngành" trong xuất bản và phát sóng cho phép CIA gửi một số các toán quân có giá trị nhất của nó ra nước ngoài mà không bị phơi nhiễm trong hơn hai thập kỷ. Trong hầu hết trường hợp, các hồ sơ của Cơ quan cho thấy, các quan chức ở cấp cao nhất của CIA thường là giám đốc hoặc phó giám đốc) đă xử lư cá nhân với một cá nhân được chỉ định duy nhất trong quản lư hàng đầu của tổ chức tin tức hợp tác. Sự trợ giúp được trang bị thường có hai h́nh thức: cung cấp các công việc và giấy chứng nhận "vỏ bọc báo chí" trong diễn văn của Cơ quan) cho các nhân viên CIA sẽ được niêm yết tại các thủ đô nước ngoài; Và cho Cơ quan biết các dịch vụ bí mật của các phóng viên đă có về nhân viên, bao gồm một số phóng viên nổi tiếng nhất trong kinh doanh.

 

Trong lĩnh vực, các nhà báo đă được sử dụng để giúp tuyển dụng và xử lư người nước ngoài làm đại lư; Thu thập và đánh giá thông tin, và giả mạo thông tin với các quan chức của các chính phủ nước ngoài. Rất nhiều người kư thỏa thuận giữ bí mật, cam kết sẽ không bao giờ tiết lộ bất cứ điều ǵ về việc họ giao dịch với Cơ quan; Một số hợp đồng lao động kư kết, một số đă được chỉ định cán bộ vụ án và đối xử với. Sự tôn kính bất thường. Những người khác có mối liên hệ ít cấu trúc hơn với Cơ quan, mặc dù họ đă thực hiện các nhiệm vụ tương tự: họ đă được nhân viên CIA thông báo trước khi đi ra nước ngoài, sau đó được phỏng vấn và sử dụng làm trung gian với các nhân viên nước ngoài. Một cách thích hợp, CIA sử dụng thuật ngữ "báo cáo" để mô tả nhiều điều mà nhà báo hợp tác đă làm cho Cơ quan. Một quan chức cấp cao của CIA cho biết: "Chúng tôi sẽ hỏi họ, 'Bạn sẽ làm ǵ cho chúng tôi?' "" Chúng tôi hiểu bạn sẽ ở Nam Tư. Họ đă lát đường phố? Bạn thấy máy bay ở đâu? Có dấu hiệu có mặt của quân đội không? Bạn đă nh́n thấy bao nhiêu Soviet? Nếu bạn t́nh cờ gặp một người Xô viết, hăy lấy tên ḿnh và đánh vần đúng .... Bạn có thể thiết lập cuộc họp được không? Hoặc chuyển tiếp một thông điệp? "Nhiều quan chức của CIA cho rằng các nhà báo hữu ích này là các nhân viên điều tra. Các nhà báo có khuynh hướng coi ḿnh là những người bạn đáng tin cậy của Cơ quan đă từng làm những việc ưu tiên - thường là không phải trả tiền - v́ lợi ích quốc gia.

 

Joseph Alsop, người giống như người anh ruột của ông, biên tập viên Stewart Alsop, đă thực hiện các nhiệm vụ bí mật cho Cơ quan này. "Tôi tự hào khi họ hỏi tôi và tự hào đă làm được điều đó. "Ư tưởng rằng một nhà báo không có nghĩa vụ đối với đất nước của ông là quả bóng hoàn hảo."

Theo quan điểm của Cơ quan, không có vấn đề ǵ trong mối quan hệ như vậy, và bất kỳ câu hỏi đạo đức nào cũng là vấn đề của nghề báo chí chứ không phải của cộng đồng thông tin. Như Stuart Loory, cựu phóng viên của Los Angeles Times , đă viết trên tờ Columbia Journalism Review: " Nếu ngay cả một người Mỹ ở nước ngoài mang theo một tờ báo là một người cung cấp thông tin trả tiền cho CIA, th́ tất cả những người Mỹ với những chứng chỉ đó là đáng nghi ngờ .... Nếu Cuộc khủng hoảng ḷng tin đối mặt với kinh doanh tin tức - cùng với chính phủ - là phải vượt qua, các nhà báo phải sẵn sàng tập trung vào chính họ như những ǵ họ quan tâm mà không ngừng huấn luyện cho người khác! " Nhưng như Loory cũng lưu ư: "Khi nó được báo cáo ... rằng các nhà báo tự họ đă được trong biên chế của CIA, câu chuyện gây ra một khuấy động ngắn,

 

Trong cuộc điều tra năm 1976 của CIA do Ủy ban T́nh báo Thượng viện, dưới sự chủ tŕ của thượng nghị sĩ Frank Church, kích thước của sự tham gia của Cơ quan với báo chí đă trở nên rơ ràng đối với một số thành viên của ban hội thẩm, cũng như với hai hoặc ba điều tra viên. Tuy nhiên, các quan chức hàng đầu của CIA, bao gồm cựu giám đốc William Colby và George Bush, đă thuyết phục ủy ban này hạn chế việc điều tra vấn đề này và cố t́nh làm sai lệch phạm vi hoạt động của báo cáo cuối cùng. Báo cáo nhiều phần trăm chứa chín trang trong đó việc sử dụng các nhà báo được thảo luận một cách cố ư mơ hồ và đôi khi gây hiểu nhầm. Nó không đề cập đến số lượng thực tế của các nhà báo đă thực hiện nhiệm vụ bí mật cho CIA.

 

CÁC GIẢI PHÁP CỦA CƠ QUAN VỚI BÍ QUYẾT BÁO CHÍ vào giai đoạn sớm nhất của Chiến tranh Lạnh. Allen Dulles, người đă trở thành giám đốc của CIA năm 1953, t́m cách thiết lập một khả năng tuyển dụng và che giấu bên trong các tổ chức báo chí uy tín nhất của Mỹ. Dulles tin rằng, các cơ quan CIA ở nước ngoài sẽ được hưởng một mức độ tiếp cận và tự do đi lại mà không thể tiếp cận dưới bất kỳ h́nh thức che đậy nào khác.

 

Các nhà xuất bản Mỹ, giống như rất nhiều nhà lănh đạo doanh nghiệp và tổ chức khác vào thời điểm đó, đă sẵn sàng cam kết các nguồn lực của các công ty của họ vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản toàn cầu. Theo đó, đường truyền thống tách quân đoàn báo chí và chính phủ Mỹ thường không thể phân biệt được: Là một cơ quan thông tin đă sử dụng để cung cấp bảo hiểm cho các điệp viên CIA ở nước ngoài mà không có sự hiểu biết và sự chấp thuận của chủ sở hữu chính, nhà xuất bản hoặc biên tập viên cấp cao. Như vậy, trái với quan niệm CIA đă xâm nhập vào cộng đồng báo chí một cách khôn ngoan, có rất nhiều bằng chứng cho thấy các nhà xuất bản và quản lư tin tức hàng đầu của Mỹ cho phép họ và các tổ chức của họ trở thành những người hầu hạ các cơ quan t́nh báo. "Chúng ta đừng chọn một số phóng viên nghèo, v́ Chúa, "William Colby đă thốt lên một lúc với các điều tra viên của ủy ban hội thánh. "Hăy đi đến ban quản lư. Họ nói: "Trong tổng số 25 tổ chức tin tức kể cả những tổ chức được liệt kê ở đầu bài báo này) đă cung cấp tài liệu cho Cơ quan.

 

Thêm vào đó, Dulles đă khởi xướng một thủ tục "phóng vấn" theo đó các phóng viên Mỹ quay trở lại từ nước ngoài thường làm trống cuốn sổ ghi chép của họ và đưa ra những ấn tượng với nhân viên Cơ quan. Sự sắp đặt như vậy, tiếp tục bởi những người kế nhiệm của Dulles, cho đến ngày nay, được thực hiện với hàng chục tổ chức tin tức. Vào những năm 1950, không phải là chuyện thường gặp khi các phóng viên quay trở lại tàu trên tàu bởi nhân viên CIA. Hugh Morrow, cựu phóng viên của tờ Saturday Evening Post , hiện là thư kư báo chí cho cựu phó tổng thống Nelson Rockefeller , nói: "Có thể có những người này từ thẻ ID của CIA nhấp nháy và trông như họ thuộc câu lạc bộ Yale . "Đó là một thói quen mà bạn cảm thấy hơi nhạt nhẽo nếu bạn không được hỏi."

 

Các quan chức CIA gần như luôn luôn từ chối tiết lộ tên của các nhà báo đă hợp tác với Cơ quan. Họ nói rằng sẽ không công bằng khi phán xét những cá nhân này trong một ngữ cảnh khác với bối cảnh đă tạo ra mối quan hệ ở nơi đầu tiên. Một viên chức cấp cao của CIA cho biết: "Có một thời gian khi đó không phải là một tội ác để phục vụ chính phủ của bạn". "Điều này tất cả phải được xem xét trong bối cảnh đạo đức của thời đại, chứ không phải là chống lại các tiêu chuẩn ngày hôm trước và các tiêu chuẩn đạo đức giả".

 

Nhiều nhà báo tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ hai đă gần gũi với những người trong Văn pḥng Dịch vụ Chiến lược, người tiền nhiệm thời chiến của CIA; Quan trọng hơn, tất cả đều ở cùng một mặt. Khi chiến tranh kết thúc và nhiều quan chức của OSS đă vào CIA, th́ chỉ có những mối quan hệ này mới có thể tiếp tục. Trong khi đó, thế hệ hậu chiến đầu tiên của các nhà báo bước vào nghề; Họ chia sẻ cùng một giá trị chính trị và nghề nghiệp như là người cố vấn của họ. Một quan chức cơ quan cho biết: "Bạn đă có một nhóm người làm việc cùng nhau trong Thế chiến II và chưa bao giờ vượt qua nó. "Họ thực sự có động lực và rất nhạy cảm với âm mưu và đang ở bên trong. Vào những năm năm mươi và sáu mươi, có một sự đồng thuận quốc gia về một mối đe dọa quốc gia. Chiến tranh ở Việt Nam đă xé toạc mọi thứ để phá vỡ sự đồng thuận và ném nó trong không khí. "Một quan chức cơ quan khác quan sát thấy:" Nhiều nhà báo đă không nghĩ đến việc liên kết với Cơ quan này. Nhưng đă có một điểm khi các vấn đề đạo đức mà hầu hết mọi người đă ngập ch́m cuối cùng đă nổi lên. Ngày nay, rất nhiều những người này đă kịch liệt phủ nhận rằng họ có mối quan hệ với Cơ quan. "

 

Ngay từ đầu, việc sử dụng các nhà báo là một trong những cam kết nhạy cảm nhất của CIA, với kiến ​​thức đầy đủ hạn chế đối với Giám đốc Trung tâm T́nh báo và một số đại biểu được lựa chọn của ông. Dulles và những người kế nhiệm ông lo ngại về những ǵ sẽ xảy ra nếu vỏ bút của phóng viên bị thổi tung, hoặc nếu các chi tiết của vụ việc của Cơ quan với báo chí đă trở nên công khai. Kết quả là các cuộc tiếp xúc với người đứng đầu các tổ chức thông tin thường do Dulles khởi xướng và các Giám đốc Trung tâm Thông minh; Của các phó giám đốc và các bộ phận phụ trách các hoạt động bí mật: Frank Wisner, Cord Meyer Jr., Richard Bissell, Desmond FitzGerald, Tracy Barnes, Thomas Karamessines và Richard Helms là cựu phóng viên của UPI); Và đôi khi,

 

James Angleton, người gần đây đă bị đưa ra làm người đứng đầu Cơ quan phản gián, đă điều hành một nhóm các nhà báo hoạt động độc lập, những người thực hiện các nhiệm vụ nhạy cảm và thường xuyên nguy hiểm; Ít được biết về nhóm này v́ lư do đơn giản rằng Angleton cố ư giữ cho chỉ có những vaguest của các tập tin.

 

CIA thậm chí đă tiến hành một chương tŕnh đào tạo chính thức vào những năm 1950 để dạy các đại lư của ḿnh trở thành nhà báo. Một sĩ quan cao cấp của CIA đă giải thích, các sĩ quan t́nh báo đă "được dạy để gây tiếng ồn như các phóng viên, và sau đó được đặt trong các tổ chức tin tức lớn với sự giúp đỡ từ ban quản lư. "Đây là những kẻ đă đi qua các cấp bậc và được nói với 'Bạn sẽ là một nhà báo'," quan chức CIA cho biết. Tương đối ít trong số 400-một số mối quan hệ được mô tả trong các tệp Cơ quan theo mẫu đó, tuy nhiên; Những người có liên quan nhất đă từng là những nhà báo chân chính khi bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ cho Cơ quan.

 

Các mối quan hệ của Cơ quan với các nhà báo, như được mô tả trong các tệp CIA, bao gồm các loại chung sau:

 

■ Nhân viên chính thức, được công nhận của các tổ chức tin tức - thường là các phóng viên. Một số đă được trả; Một số làm việc cho Cơ quan trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Nhóm này bao gồm nhiều nhà báo nổi tiếng đă thực hiện nhiệm vụ cho CIA. Các hồ sơ cho thấy tiền lương trả cho các phóng viên bằng các tờ báo và mạng lưới quảng cáo đôi khi được bổ sung bởi các khoản thanh toán danh nghĩa từ CIA, dưới h́nh thức người giữ, chi phí đi lại hoặc chi phí cho các dịch vụ cụ thể được thực hiện. Hầu như tất cả các thanh toán được thực hiện bằng tiền mặt. Danh mục được công nhận cũng bao gồm các nhiếp ảnh gia, nhân viên hành chính của các pḥng tin tức nước ngoài và các thành viên của đội kỹ thuật phát sóng)

 

Theo các quan chức của CIA, hai trong số những mối quan hệ cá nhân có giá trị nhất của Cơ quan vào những năm 1960, là với phóng viên người Mỹ Latin - Jerry O'Leary của tờ Washington Star và Hal Hendrix của tờ Miami News , người đoạt giải Pulitzer, người đă trở thành quan chức cao cấp Của Tập đoàn Điện thoại quốc tế và Tổng công ty Telegraph. Hendrix cực kỳ hữu ích cho Cơ quan trong việc cung cấp thông tin về các cá nhân trong cộng đồng Cuba lưu vong. O'Leary được coi là một tài sản có giá trị ở Haiti và Cộng ḥa Dominican. Hồ sơ của cơ quan có chứa báo cáo dài ḍng về hoạt động của cả hai người thay mặt cho CIA.

 

O'Leary cho rằng các giao dịch của ông bị giới hạn trong việc trao đổi thông thường giữa các phóng viên nước ngoài và các nguồn tin của họ. Các quan chức của CIA tranh luận về sự tranh căi: "Không có ǵ Jerry báo cáo cho chúng tôi," một người nói. "Jerry đă đánh giá và phát hiện ra các đại lư tiềm năng nhưng ông ấy tốt hơn là một phóng viên của chúng tôi." Theo lời của O'Leary, viên chức này nói thêm: "Tôi không biết thế giới này đang lo lắng cho đến khi nào anh ấy mặc Lớp phủ toàn vẹn mà Thượng viện đưa cho các nhà báo. "

 

O'Leary nêu bật sự khác biệt của ư kiến ​​đối với ngữ nghĩa. "Tôi có thể gọi cho họ và nói điều ǵ đó như, 'Papa Doc đă vỗ tay, bạn có biết điều đó không?' Và họ sẽ đưa nó vào hồ sơ. Tôi không nghĩ rằng báo cáo cho họ .... chúng tôi rất thân thiện với họ và nói chung tôi cảm thấy thân thiện với họ. Nhưng tôi nghĩ họ hữu ích hơn tôi nhiều. "O'Leary đă ngoại lệ đặc biệt khi được mô tả trong cùng ngữ cảnh với Hendrix. "Hal đă thực sự làm việc cho họ," O'Leary nói. "Tôi vẫn ở với Ngôi sao . Anh ấy đă kết thúc tại ITT "Hendrix không thể tiếp cận để b́nh luận. Theo các quan chức Cơ quan, cả Hendrix lẫn O'Leary đều không được CIA chi trả.

 

■ Người chăm sóc 2 và người tự do. Hầu hết các đại lư đều được Cơ quan chi trả theo các điều khoản hợp đồng tiêu chuẩn. Thông tin báo chí của họ thường được cung cấp bởi các tổ chức tin tức hợp tác. Một số câu chuyện tin tức đă được đệ tŕnh; Những người khác chỉ báo cáo cho CIA. Trong một số trường hợp, các tổ chức thông tin đă không được CIA thông báo rằng những người làm việc của họ cũng làm việc cho Cơ quan.

 

Trong suốt 25 năm qua, Cơ quan đă bí mật quản lư nhiều dịch vụ báo chí, tạp chí và báo chí nước ngoài - cả tiếng Anh và tiếng nước ngoài - cung cấp sự bảo vệ tuyệt vời cho các điệp viên CIA. Một ấn bản như vậy là tờ Rome hàng ngày của Mỹ, 40% trong số đó thuộc sở hữu của CIA cho đến những năm 1970. The Daily American đă ra đi trong năm nay,

 

■ Biên tập viên, nhà xuất bản và giám đốc điều hành mạng lưới phát sóng. Mối quan hệ của CIA với hầu hết các nhà điều hành tin tức khác nhau về cơ bản từ những người có phóng viên và người làm việc, những người chịu nhiều sự chỉ đạo từ Cơ quan. Một vài giám đốc điều hành-Arthur Hays Sulzberger của tờ New York Times trong số đó-kư các thỏa thuận bí mật. Nhưng sự hiểu biết chính thức như vậy là rất hiếm: mối quan hệ giữa các quan chức cơ quan và giám đốc điều hành truyền thông thường là xă hội - "trục đường P và Q ở Georgetown", một nguồn tin cho hay. "Bạn không nói với Wilharn Paley để kư một mảnh giấy nói rằng ông ấy sẽ không nháy mắt."

 

■ Các nhà phân tích và b́nh luận. Có lẽ có hàng chục nhà phân tích nổi tiếng và phát thanh viên có quan hệ với CIA vượt xa những người b́nh thường duy tŕ giữa các phóng viên và các nguồn tin của họ. Họ được giới thiệu tại Cơ quan là "tài sản đă biết" và có thể được tính để thực hiện nhiều nhiệm vụ bí mật; Họ được coi là dễ tiếp thu quan điểm của Cơ quan về các chủ đề khác nhau. Ba trong số các báo chuyên mục đọc rộng răi nhất người duy tŕ mối quan hệ như vậy với Cơ quan là CL Sulzberger của tờ New York Times, Joseph Alsop, và cuối Stewart Alsop, mà cột xuất hiện trong New York Herald-Tribune, các Saturday Evening Post và Newsweek. Các tệp tin CIA chứa các báo cáo về các nhiệm vụ cụ thể mà cả ba tiến hành. Sulzberger vẫn được Cơ quan xem là một tài sản tích cực. Theo một quan chức cấp cao của CIA, "Young Cy Sulzberger đă sử dụng một số .... Ông đă kư một thỏa thuận bí mật v́ chúng tôi đă cho ông thông tin phân loại .... Có chia sẻ, cho và đi. Chúng tôi muốn nói, 'Thứ tư như thế này; Nếu chúng tôi nói với bạn điều này nó sẽ giúp bạn có được truy cập vào như vậy-và-như vậy? Bởi v́ ông truy cập vào châu Âu, ông đă có một mè mở. Chúng tôi yêu cầu ông chỉ báo cáo: "Điều ǵ đă làm như vậy-và-như vậy nói, ông trông như thế nào, là ông khỏe mạnh?" Ông ta rất háo hức, ông ta rất thích hợp tác "Một lần, theo một số quan chức của CIA, Sulzberger đă được một cơ quan của Cơ quan đưa ra một báo cáo tóm tắt, trong đó có ḍng chữ của bài báo trên tờ Times. " Cứ ra đi và nói, 'Tôi đang nghĩ đến việc làm một tác phẩm, ông có thể cho tôi một số kinh nghiệm không?', Một viên chức CIA nói. "Chúng tôi đưa nó cho Cy như một phần nền và Cy đưa nó cho các máy in và đặt tên vào đó." Sulzberger phủ nhận mọi sự việc xảy ra. "Rất nhiều baloney," anh nói.

 

Sulzberger tuyên bố rằng ông không bao giờ được chính thức "giao nhiệm vụ" của Cơ quan và ông "sẽ không bao giờ bị bắt gặp gần như kinh doanh spook. Quan hệ của tôi hoàn toàn không thân mật - tôi có một người bạn tốt, "anh nói. "Tôi chắc chắn họ coi tôi là một tài sản. Họ có thể đặt câu hỏi cho tôi. Họ t́m ra bạn sẽ đến Slobovia và họ nói, 'Chúng tôi có thể nói chuyện với bạn khi bạn trở lại?' ... Hoặc họ sẽ muốn biết nếu người đứng đầu chính phủ Ruritanian đang bị bệnh vẩy nến. Nhưng tôi chưa bao giờ nhận một công việc từ một trong những kẻ .... Tôi đă biết Wisner tốt, và Helms và thậm chí cả McCone [cựu giám đốc CIA John McCone] Tôi đă sử dụng để chơi golf với. Nhưng họ đă phải rất tinh tế để sử dụng tôi.

 

Sulzberger nói rằng ông được yêu cầu kư thỏa thuận giữ bí mật vào những năm 1950 . "Một anh chàng đến và nói, 'Bạn là một người báo tin có trách nhiệm và chúng tôi cần bạn kư tên nếu chúng tôi sẽ cho bạn thấy bất cứ điều ǵ được phân loại.' Tôi nói tôi không muốn bị vướng vào và nói với họ: 'Hăy đi đến chú tôi [Arthur Hays Sulzberger, sau đó là nhà xuất bản của tờ New York Times ] và nếu ông ấy kư tên, tôi sẽ'. Thỏa thuận, Sulzberger nói, và ông nghĩ rằng ông đă làm quá, mặc dù ông không chắc chắn. "Tôi không biết, hai mươi năm là một thời gian dài." Ông mô tả toàn bộ câu hỏi là "một bong bóng trong bồn tắm."

 

Mối quan hệ của Stewart Alsop với Cơ quan đă được rộng răi hơn của Sulzberger. Một quan chức phục vụ ở mức cao nhất trong CIA nói thẳng thắn: "Stew Alsop là một nhân viên của CIA." Một quan chức cấp cao khác cũng từ chối xác định mối quan hệ của Alsop với Cơ quan ngoại trừ việc nói rằng đó là một h́nh thức chính thức. Các nguồn tin khác nói rằng Alsop đặc biệt hữu ích cho Cơ quan thảo luận với các quan chức của các chính phủ nước ngoài - đặt câu hỏi mà CIA đang t́m kiếm câu trả lời, đưa ra những thông tin sai lạc có lợi cho chính sách của Mỹ, đánh giá cơ hội tuyển dụng CIA của những người nước ngoài.

 

Joseph Alsop nói rằng "vô nghĩa tuyệt đối", ông cho biết anh trai của ông là nhân viên CIA. "Tôi gần Cơ quan hơn Stew, mặc dù Stew rất gần. Tôi dám nói ông ấy đă làm một số nhiệm vụ - ông ấy đă làm điều đúng đắn như người Mỹ ... Các nhà sáng lập (của CIA) là những người bạn thân thiết của chúng tôi. Dick Bissell [cựu phó giám đốc CIA] là bạn lâu đời nhất của tôi, từ thời thơ ấu. Đó là một điều xă hội, bạn thân mến của tôi. Tôi chưa bao giờ nhận được một đồng đô la, tôi chưa bao giờ kư một thỏa thuận bí mật. Tôi không cần phải làm ǵ cả ... Tôi đă làm mọi thứ cho họ khi tôi nghĩ họ là điều đúng đắn để làm. Tôi gọi nó làm nhiệm vụ của tôi là một công dân.

 

Alsop sẵn sàng thảo luận trong hồ sơ chỉ có hai nhiệm vụ mà ông đảm nhận: chuyến thăm Lào năm 1952 theo lệnh của Frank Wisner, người cảm thấy các phóng viên Mỹ khác đang sử dụng các nguồn chống Mỹ để nổi dậy ở đó; Và chuyến thăm Phi Luật Tân vào năm 1953 khi CIA nghĩ rằng sự hiện diện của ông có thể ảnh hưởng đến kết quả của một cuộc bầu cử. "Des FitzGerald thúc giục tôi đi," Alsop nhớ lại. "Sẽ ít có khả năng cuộc bầu cử có thể bị đánh cắp [bởi những người phản đối của Ramon Magsaysay] nếu mắt của thế giới đang ở trên họ. Tôi ở lại với đại sứ và viết về những ǵ đă xảy ra. "

 

Alsop khẳng định rằng anh ta chưa bao giờ bị thao túng bởi Cơ quan. Ông nói: "Bạn không thể vướng vào chuyện này để họ có cơ hội đầu tư vào bạn. "Nhưng những ǵ tôi viết là đúng. Quan điểm của tôi là t́m hiểu sự thật. Nếu một ai đó trong Cơ quan đă sai, tôi đă ngừng nói chuyện với họ - họ đă đưa cho tôi hàng giả. "Một lần, Alsop nói, Richard Helms đă ủy quyền cho người đứng đầu chi nhánh phân tích của Cơ quan cung cấp cho Alsop thông tin về sự hiện diện của quân đội Liên Xô dọc theo Biên giới Trung Quốc. Alsop cho biết: "Phía phân tích của Cơ quan đă sai lầm chết chóc về chiến tranh ở Việt Nam - họ nghĩ rằng nó không thể thắng được. "Và họ đă sai lầm về sự tích tụ Liên Xô. Tôi đă ngừng nói chuyện với họ. "Hôm nay, ông nói," Người trong công việc của chúng tôi sẽ bị xúc phạm về những đề nghị được đưa ra đối với tôi. Họ không nên. CIA đă không tự mở ra cho mọi người mà nó không tin tưởng.

 

MURKY CHI TIẾT VỀ MỐI QUAN HỆ CIA VỚI CÁC CÁ NHÂN và các tổ chức tin tức bắt đầu nảy ra vào năm 1973 khi lần đầu tiên nó được tiết lộ rằng CIA đă từng sử dụng các nhà báo. Những báo cáo này, kết hợp với thông tin mới, là những nghiên cứu về t́nh huống sử dụng các nhà báo của Cơ quan v́ mục đích t́nh báo. Chúng bao gồm:

 

■ The New York Times. Theo quan chức của CIA, mối quan hệ giữa Cơ quan với Times là giá trị nhất trong số các tờ báo. Từ năm 1950 đến năm 1966, khoảng 10 nhân viên của CIA được cung cấp, thời gian theo các thoả thuận đă được nhà xuất bản của tờ báo Arthur Hays Sulzberger phê duyệt. Việc sắp xếp trang b́a là một phần của một quy tắc chung về thời gian của Sulzberger-để hỗ trợ CIA bất cứ khi nào có thể.

 

Sulzberger đặc biệt thân thiết với Allen Dulles. Một quan chức cấp cao của CIA, người có mặt tại một số cuộc thảo luận, nói: "Ở cấp độ tiếp xúc đó là cuộc nói chuyện hùng hồn với những kẻ mạnh dạn. "Có một sự đồng ư về nguyên tắc, quả thực, chúng tôi sẽ giúp đỡ lẫn nhau. Câu hỏi về trang b́a đă xuất hiện nhiều lần. Người ta đă đồng ư rằng sự sắp đặt thực sự sẽ được xử lư bởi các cấp dưới .... CIA hùng mạnh không muốn biết những chi tiết cụ thể; Họ muốn có sự denibility hợp lư.

 

Một quan chức cấp cao của CIA, người đă xem xét một phần hồ sơ của Cơ quan đối với các nhà báo trong hai tiếng đồng hồ ngày 15 tháng 11 năm 1977, cho biết ông đă t́m thấy tài liệu về 5 trường hợp mà Times đă cung cấp cho nhân viên của CIA trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1962. Trong mỗi trường hợp ông nói, Sự sắp đặt đă được xử lư bởi các giám đốc điều hành của Times ; Các tài liệu đều chứa ngôn ngữ Cơ quan chuẩn "cho thấy điều này đă được kiểm tra ở các cấp cao hơn của tờ New York Times ", quan chức này nói. Các tài liệu không đề cập đến tên của Sulzberger, tuy nhiên - chỉ có những người dưới quyền mà viên chức từ chối xác định.

 

Các nhân viên của CIA, những người đă nhận được chứng chỉ Times được đặt ra như những người kư tên cho tờ báo ở nước ngoài và làm việc với tư cách là thành viên của các nhân viên văn pḥng trong các văn pḥng nước ngoài của Times. Hầu hết là người Mỹ; hai hoặc ba là người ngoại quốc.

 

Các quan chức của CIA trích dẫn hai lư do tại sao mối quan hệ làm việc của Cơ quan với tờ Times ngày càng gần và rộng hơn so với bất kỳ giấy tờ khác: sự kiện Times duy tŕ hoạt động báo chí nước ngoài lớn nhất trong báo chí hàng ngày của Mỹ; Và mối quan hệ cá nhân chặt chẽ giữa những người điều hành cả hai tổ chức.

 

Sulzberger đă thông báo cho một số phóng viên và biên tập viên về chính sách chung của ông về hợp tác với Cơ quan. Một quan chức CIA cho biết: "Chúng tôi đă liên lạc với họ - họ sẽ nói chuyện với chúng tôi và một số hợp tác". Sự hợp tác thường liên quan đến việc chuyển thông tin và "t́m kiếm" các nhân viên tiềm năng trong số những người nước ngoài.

 

Theo các quan chức của CIA, Arthur Hays Sulzberger đă kư thỏa thuận giữ bí mật với CIA trong những năm 1950, một sự kiện đă được khẳng định bởi cháu trai của ông, CL Sulzberger. Tuy nhiên, có những diễn giải khác nhau về mục đích của thỏa thuận: CL Sulzberger nói rằng nó đại diện cho không có ǵ hơn là một cam kết không tiết lộ thông tin mật được cung cấp cho nhà xuất bản. Sự tranh căi này được hỗ trợ bởi một số quan chức của Cơ quan. Những người khác trong Cơ quan duy tŕ rằng thỏa thuận này đại diện cho một cam kết không bao giờ tiết lộ bất kỳ vụ giao dịch nào của Times với CIA, đặc biệt là những vụ liên quan đến bao gồm. Và có những người lưu ư rằng, bởi v́ tất cả các sắp xếp trang b́a được phân loại, một thỏa thuận bí mật sẽ tự động áp dụng cho họ.

 

Những nỗ lực để t́m ra những cá nhân trong tổ chức Times đă thực hiện những sắp xếp thực tế để cung cấp chứng chỉ cho nhân viên CIA đă không thành công. Trong một bức thư gửi phóng viên Stuart Loory năm 1974, Turner Cadedge, quản lư biên tập của tờ Times từ năm 1951 đến năm 1964, đă viết rằng các phương pháp tiếp cận của CIA đă bị tờ báo bác bỏ. "Tôi không biết ǵ về bất kỳ sự liên quan nào với CIA ... của bất kỳ phóng viên nước ngoài nào của chúng tôi trên tờ New York Times . Tôi đă nghe CIA nhiều lần nói chuyện với người đàn ông của chúng tôi, t́m cách sử dụng các đặc quyền, địa chỉ liên lạc, miễn trừ của họ, và chúng tôi sẽ nói rằng, trí thông minh cao cấp trong việc kinh doanh gián điệp để gián điệp và thông tin. Nếu bất kỳ ai trong số họ đă phải chịu đựng những món nợ xấu hoặc tiền mặt, tôi không biết. Nhiều lần, CIA và các cơ quan ồn ào khác đă t́m cách sắp xếp "hợp tác" ngay cả với quản lư của Times , đặc biệt là trong thời gian hoặc ngay sau Thế chiến II, nhưng chúng tôi luôn luôn chống lại. Động cơ của chúng tôi là bảo vệ sự tín nhiệm của chúng tôi."

 

Theo Wayne Phillips, cựu phóng viên Times , CIA đă gọi tên của Arthur Hays Sulzberger khi nó cố gắng tuyển mộ anh ta dưới dạng điệp viên bí mật vào năm 1952 trong khi anh đang theo học tại Học viện Nga của Đại học Columbia. Phillips cho biết một quan chức của Cơ quan nói với ông rằng CIA đă "sắp xếp làm việc" với nhà xuất bản, trong đó các phóng viên khác ở nước ngoài đă được đưa vào biên chế của Cơ quan. Phillips, người vẫn ở Times cho đến năm 1961, sau đó lấy được các tài liệu của CIA theo Đạo luật Tự do Thông tin, cho thấy rằng Cơ quan này nhằm mục đích phát triển ông như một "tài sản bí mật" để sử dụng ở nước ngoài.

 

Vào ngày 31 tháng 1 năm 1976, tờ Times đă đưa ra một câu chuyện ngắn mô tả nỗ lực tuyển dụng của ClAs Phillips. Nó trích dẫn Arthur Ochs Sulzberger, nhà xuất bản hiện tại, như sau: "Tôi chưa bao giờ nghe nói về Thời điểm được tiếp cận, hoặc là trong khả năng của tôi như là nhà xuất bản hoặc là con của ông Sulzberger cuối." Câu chuyện Times, được viết bởi John M. Crewdson, cũng báo cáo rằng Arthur Hays Sulzberger đă nói với một phóng viên cũ không biết tên rằng có thể ông tiếp cận bởi CIA sau khi đến một vị trí mới ở nước ngoài. Sulzberger nói với ông rằng ông không phải "có nghĩa vụ phải đồng ư", câu chuyện nói và chính nhà xuất bản sẽ "hạnh phúc hơn" nếu ông từ chối hợp tác. "Nhưng ông ấy đă để lại cho tôi điều đó," tờ Times trích dẫn phóng viên cũ của ông nói.

 

CL Sulzberger, trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại, cho hay ông không biết ǵ về nhân viên CIA sử dụng tờ Times hay các phóng viên để làm việc cho Cơ quan. Ông là trưởng bộ phận dịch vụ nước ngoài từ năm 1944 đến năm 1954 và tỏ ra nghi ngờ rằng chú của ông sẽ chấp thuận những sắp xếp như vậy. Theo Sulzberger, Sulzberger đă hứa hẹn với anh em của John Allen, ông John Foster , sau đó là thư kư của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, rằng không nhân viên Times nào được phép chấp nhận lời mời đến thăm Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa mà không có sự đồng ư của John Foster Dulles. Một lời mời như vậy đă được mở rộng cho cháu trai của nhà xuất bản vào những năm 1950; Arthur Sulzberger đă cấm anh ta chấp nhận nó.

 

■ Hệ thống Phát thanh Columbia. CBS chắc chắn là tài sản phát sóng có giá trị nhất của CIA. Chủ tịch CBS William Paley và Allen Dulles đă có một mối quan hệ làm việc và xă hội dễ dàng. Trong những năm qua, mạng lưới cung cấp bao gồm cho nhân viên CIA, bao gồm ít nhất một phóng viên nước ngoài nổi tiếng và một số chuỗi; Nó cung cấp outtakes của newsfilm đến CIA3; Thiết lập một kênh truyền thông chính thức giữa trưởng văn pḥng Washington và Cơ quan; Cho Cơ quan tiếp cận thư viện thư viện CBS; Và cho phép các phóng viên của CBS báo cáo với các pḥng tin tức Washington và New York để được CIA theo dơi thường xuyên. Mỗi năm một lần trong những năm 1950 và đầu những năm 1960, các phóng viên của CBS tham gia vào hệ thống phân loại của CIA để tổ chức các bữa ăn tối và các cuộc họp mặt riêng.

 

Các chi tiết của các thoả thuận CBS-CIA được thực hiện bởi các cấp dưới của cả Dulles và Paley. Một quan chức của CIA cho biết: "Người đứng đầu công ty không muốn biết những điểm tốt, cũng không phải là giám đốc." Cả hai trợ lư được chỉ định đều làm việc đó. Theo các quan chức của CIA, Tiến sĩ Frank Stanton, 25 năm làm chủ tịch của mạng lưới, đă nhận thức được những sự sắp đặt chung mà Paley làm với Dulles - bao gồm cả những thứ để trang trải. Stackon, trong một cuộc phỏng vấn vào năm ngoái, nói rằng ông không thể nhớ được bất cứ sự sắp xếp nào về trang b́a). Tuy nhiên, liên lạc được chỉ định của Paley cho Cơ quan này là Sig Mickelson, chủ tịch của CBS News từ năm 1954 đến năm 1961. Một lần, Mickelson đă nói, ông phàn nàn với Stanton Về việc phải sử dụng một điện thoại trả tiền để gọi cho CIA, và Stanton đề nghị ông ta cài đặt một đường dây tư nhân, bỏ qua tổng đài CBS, cho mục đích này. Theo Mickelson, ông đă làm như vậy. Mickelson hiện là chủ tịch Radio Free Europe và Radio Liberty, cả hai đều liên quan đến CIA trong nhiều năm.

 

Năm 1976, Chủ tịch CBS News, ông Richard Salant ra lệnh điều tra nội bộ vụ giao dịch của mạng lưới với CIA. Một số phát hiện của nó được Robert Scheer tiết lộ lần đầu tiên trong tờ Los Angeles Times ). Tuy nhiên, báo cáo của Salant không đề cập đến một số công việc của ông ta với Cơ quan, tiếp tục vào những năm 1970.

 

Nhiều chi tiết về mối quan hệ CBS-CIA đă được t́m thấy trong hồ sơ của Mickelson bởi hai điều tra viên của Salant. Trong số các tài liệu mà họ t́m thấy là một bản ghi nhớ cho Mickelson từ Tom Koop, giám đốc văn pḥng CBS News ở Washington từ năm 1948 đến năm 1961, mô tả cuộc điện thoại của ông Koop từ Đại tá Stanley Grogan của CIA: "Grogan gọi điện để nói rằng Reeves [JB Love Reeves, một quan chức khác của CIA] sẽ đến New York để phụ trách văn pḥng liên lạc của CIA ở đó và sẽ gọi điện cho bạn và một vài người bạn của bạn. Grogan nói các hoạt động b́nh thường sẽ tiếp tục thông qua văn pḥng Washington Tin tức CBS. " Báo cáo của Salant cũng cho biết: "Việc điều tra thêm các hồ sơ của Mickelson cho thấy một số chi tiết về mối quan hệ giữa CIA và CBS News .... Hai nhà quản lư chính của mối quan hệ này là Mickelson và Koop .... Hoạt động chính là giao bộ phim CBS tới CIA. Ngoài ra c̣n có bằng chứng cho thấy, từ năm 1964 đến năm 1971, phim tài liệu, bao gồm một số cảnh sát , Được cung cấp bởi Thư viện CBS Newsfilm cho CIA thông qua và theo sự chỉ dẫn của ông Koop4 .... Ghi chú trong các tệp của ông Mickelson cho thấy rằng CIA đă sử dụng phim CBS để đào tạo ... Tất cả các hoạt động Mickelson ở trên đă được xử lư trên cơ sở bí mật mà không đề cập đến từ ngữ Cơ quan T́nh báo Trung ương. Các bộ phim đă được gửi đến cho các cá nhân tại các số hộp bưu điện và được trả bởi cá nhân, cũng không phải của chính phủ, séc. ..." Mickelson cũng thường xuyên gửi CIA một bản tin CBS nội bộ, theo bản báo cáo.

 

Cuộc điều tra của Salant đă khiến ông kết luận rằng Frank Kearns, phóng viên truyền h́nh CBS từ năm 1958 đến năm 1971, "là một nhân viên CIA nhận tiền lương qua liên lạc CIA với ai đó tại CBS." Kearns và Austin Goodrich, một nhân viên của CBS, là những nhân viên CIA bí mật, thuê dưới sự sắp xếp của Paley.

 

Năm ngoái, phát ngôn viên của Paley đă phủ nhận thông tin của cựu phóng viên CBS Daniel Schorr rằng Mickelson và ông đă thảo luận về t́nh trạng CIA của Goodrich trong một cuộc họp với hai đại diện của Cơ quan vào năm 1954. Người phát ngôn này tuyên bố Paley không biết rằng Goodrich đă làm việc cho CIA. "Khi tôi chuyển đến công việc tôi được Paley nói rằng có một mối quan hệ đang diễn ra với CIA," Mickelson cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây." Tôi giới thiệu đây là một mối quan hệ b́nh thường vào thời điểm đó, vào thời đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh và tôi cho rằng các phương tiện thông tin liên lạc Các phương tiện truyền thông đang hợp tác - mặc dù vấn đề của Goodrich đă làm ảnh hưởng.

 

Tại trụ sở của CBS News ở New York, hợp tác của Paley với CIA được nhiều nhà điều hành và phóng viên tin tức chấp nhận mặc dù đă từ chối. Paley, 76 tuổi, đă không được phỏng vấn bởi các điều tra viên của Salant. Một điều hành của CBS cho biết: "Nó sẽ không làm được ǵ tốt. "Đây là chủ đề duy nhất mà trí nhớ của anh ấy đă thất bại."

 

Salant đă thảo luận về mối quan hệ của ḿnh với CIA, và ông đă tiếp tục nhiều bài tập của người tiền nhiệm trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên năm ngoái. Các cuộc tiếp xúc, ông nói, bắt đầu vào tháng hai năm 1961, "khi tôi nhận được một cuộc điện thoại từ một người đàn ông CIA, người đă nói rằng ông đă có một mối quan hệ làm việc với Sig Mickelson.Người đàn ông nói, 'ông chủ của bạn biết tất cả về nó.'" Theo Salant , Đại diện của CIA yêu cầu CBS tiếp tục cung cấp cho Cơ quan các mẫu thiết bị mới chưa được chỉnh sửa và cung cấp cho phóng viên của nó khả năng cho các quan chức của Cơ quan báo cáo. Saant Salant nói: "Tôi không nói chuyện với các phóng viên, và để họ xem các băng phát sóng, nhưng không có vụ nổ nào, điều này diễn ra trong nhiều năm - vào đầu những năm 1970".

 

Vào năm 1964 và năm 1965, Salant phục vụ cho một nhóm đặc nhiệm CIA bí mật thăm ḍ các phương pháp quảng bá chương tŕnh tuyên truyền của Mỹ cho Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa. Các thành viên khác của nhóm nghiên cứu gồm bốn người là Zbigniew Brzezinski, sau đó là giáo sư tại Đại học Columbia; William Griffith, sau đó là giáo sư khoa học chính trị tại Viện Công nghệ Massachusetts, và John Haves, sau đó là phó chủ tịch của Công ty Washington Post về phát thanh-truyền h́nh5. Các quan chức chính phủ chính liên quan đến dự án là Cord Meyer của CIA; McGeorge Bundy, sau đó là trợ lư đặc biệt cho tổng thống về an ninh quốc gia; Leonard Marks, sau đó là giám đốc của USIA; Và Bill Moyers, sau đó trợ lư đặc biệt cho Tổng thống Lyndon Johnson và bây giờ là phóng viên của CBS.

 

Sự tham gia của Salant trong dự án bắt đầu với một cú điện thoại từ Leonard Marks, "người nói với tôi rằng Nhà Trắng muốn thành lập một ủy ban gồm bốn người để nghiên cứu các chương tŕnh phát sóng ở nước ngoài của Hoa Kỳ nằm sau bức màn sắt." Khi Salant đến Washington để gặp người đầu tiên, ông được thông báo rằng dự án đă được CIA tài trợ. "Mục đích của nó," ông nói, "là để xác định làm thế nào tốt nhất để thiết lập sóng ngắn phát sóng vào Red Trung Quốc."

Cùng với một nhân viên CIA tên là Paul Henzie, Ủy ban bốn lần sau đó đă đi khắp thế giới để kiểm tra các cơ sở điều hành của Radio Free Europe và Radio Liberty cả hai hoạt động của CIA vào thời đó), Đài Tiếng nói Hoa Kỳ và Đài phát thanh Lực lượng Vũ trang Quân đội. Sau hơn một năm nghiên cứu, họ đă gửi một báo cáo cho Moyers đề xuất rằng chính phủ thành lập một dịch vụ phát sóng, Được điều hành bởi Tiếng nói Hoa Kỳ, được chiếu tại Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa. Salant đă phục vụ hai chuyến đi làm người đứng đầu CBS News, từ năm 1961-64 và 1966-nay. Vào thời điểm dự án Trung Quốc, ông là giám đốc điều hành của tập đoàn CBS.)

 

■ Tạp chí Time và Newsweek . Theo các nguồn tin của CIA và Thượng viện, hồ sơ của Cơ quan có chứa các thỏa thuận bằng văn bản với các phóng viên nước ngoài và những người kư tên cho cả tạp chí tin tức hàng tuần. Các nguồn tin này cũng từ chối không cho biết liệu CIA đă chấm dứt tất cả các hiệp hội với các cá nhân làm việc cho hai ấn bản này. Allen Dulles thường xuyên cầu cứu với người bạn thân của ḿnh, Henry Luce, người sáng lập tạp chí Time and Life , người sẵn sàng cho phép một số nhân viên của ḿnh làm việc cho Cơ quan và đồng ư cung cấp công việc và giấy chứng nhận cho các nhân viên CIA khác, những người thiếu kinh nghiệm báo chí.

 

Trong nhiều năm, sứ giả của Luce cho CIA là CD Jackson, một Time Inc., phó chủ tịch, nhà xuất bản của tạp chí Life từ năm 1960 cho đến khi ông qua đời vào năm 1964. Trong thời gian điều hành của Thời gian , Jackson đồng ư làm một nghiên cứu do CIA tài trợ đề xuất Tổ chức lại các cơ quan t́nh báo Mỹ vào đầu những năm 1950. Jackson, người có dịch vụ Time-Life bị gián đoạn bởi chuyến lưu diễn một năm của Nhà Trắng với tư cách là trợ lư của Tổng thống Dwight Eisenhower, đă thông qua các thoả thuận cụ thể để cung cấp cho nhân viên CIA b́a Time-Life. Một số những sắp xếp này được thực hiện với sự hiểu biết của vợ Luce, Clare Boothe. Theo các quan chức của CIA kể cả những người xử lư Luce), các thoả thuận khác về thời gian bao gồm thời gian , được thực hiện với sự hiểu biết của Hedley Donovan, Bây giờ tổng biên tập của Time Inc Donovan, người đă tiếp quản biên tập của tất cả các ấn phẩm Inc Inc năm 1959, đă phủ nhận trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại rằng ông biết về bất kỳ sắp xếp như vậy. "Tôi đă không bao giờ tiếp cận và tôi rất ngạc nhiên nếu Luce chấp thuận những sắp xếp như vậy," Donovan nói. "Luce đă rất quan tâm đến sự khác biệt giữa báo chí và chính phủ."

 

Trong những năm 1950 và đầu những năm 1960 , phóng viên nước ngoài của tạp chí Time đă tham dự các bữa tiệc tối của CIA giống như những ǵ CIA tổ chức cho CBS. Và theo các quan chức của CIA, Luce, theo một quan chức của CIA, đă đưa ra một thông lệ thường lệ để giới thiệu Dulles hoặc các quan chức cao cấp của Cơ quan khi ông trở về từ những chuyến đi thường xuyên ở nước ngoài. Luce và những người điều hành tạp chí của ông trong những năm 1950 và 1960 đă khuyến khích các phóng viên nước ngoài của họ cung cấp trợ giúp cho CIA, đặc biệt là thông tin có thể hữu ích cho Cơ quan v́ mục đích t́nh báo hoặc tuyển dụng người nước ngoài.

 

Tại Newsweek, các nguồn tin của Cơ quan này cho biết, CIA đă tham gia vào các dịch vụ của "một số phóng viên nước ngoài và những người theo dơi chặt chẽ" theo sự sắp xếp của các biên tập viên cấp cao tại tạp chí. Nổi bật của Newsweek ở Rôma vào giữa những năm 50 đă làm ít bí mật của thực tế ông làm việc cho CIA. Malcolm Muir, biên tập viên của Newsweek từ khi thành lập vào năm 1937 cho đến khi bán cho công ty Washington Post năm 1961, cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây rằng những giao dịch của ông với CIA được giới hạn trong các buổi họp riêng ông đă cho Allen Dulles sau chuyến đi ra nước ngoài và sắp xếp ông phỏng vấn phóng viên Newsweek của Cơ quan. Ông nói rằng ông chưa bao giờ cung cấp bao gồm cho các Cơ quan CIA,

 

Muir nói: "Tôi có thể nghĩ rằng có thể có những người làm gián điệp, nhưng tôi không biết họ là ai." Tôi nghĩ rằng trong những ngày đó, CIA giữ liên lạc rất chặt chẽ với tất cả các phóng viên có trách nhiệm. Bất cứ khi nào tôi nghe thấy một điều mà tôi nghĩ có thể quan tâm đến Allen Dulles, tôi sẽ gọi anh ta lên .... Tại một điểm ông đă bổ nhiệm một trong số Những người đàn ông CIA của ông liên lạc thường xuyên với các phóng viên của chúng tôi, một người mà tôi biết nhưng tôi không thể nhớ tên tôi. Tôi có một số người bạn trong tổ chức của Alien Dulles ". Muir nói rằng Harry Kern, biên tập viên nước ngoài của Newsweek từ năm 1945 cho đến năm 1956, và Ernest K. Lindley, trưởng văn pḥng của Washington trong cùng thời kỳ "thường xuyên kiểm tra với những người khác trong CIA."

 

"Theo như tôi biết." Kern nói "Không ai ở Newsweek làm việc cho CIA ... Mối quan hệ không chính thức ở đó Tại sao có ai đó kư tên vào bất cứ thứ ǵ Chúng tôi biết chúng tôi đă nói với họ là CIA và Bộ Ngoại giao .... Khi tôi tới Washington, Tôi sẽ nói chuyện với Foster hoặc Allen Dulles về những ǵ đang diễn ra ... Chúng tôi nghĩ rằng đó là đáng khen ngợi vào thời điểm đó Chúng tôi đều ở cùng một mặt." Các quan chức CIA nói rằng các giao dịch của Kern với Cơ quan đă được mở rộng. Năm 1956, ông rời khỏi Newsweek để điều hành Báo cáo nước ngoài, một tờ báo có trụ sở tại Washington mà các thuê bao Kern từ chối xác định.

 

Ernest Lindley, người vẫn ở Newsweek cho đến năm 1961, cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây rằng ông thường xuyên hỏi ư kiến ​​của Dulles và các quan chức cao cấp của CIA trước khi ra nước ngoài và thông báo cho họ khi ông trở lại. "Allen rất hữu ích cho tôi và tôi đă cố gắng đáp lại khi tôi có thể", anh nói. Một lần hay hai lần anh ấy yêu cầu tôi giới thiệu một nhóm lớn những người thông minh, khi tôi trở lại từ hội nghị châu Á-châu Phi vào năm 1955, họ muốn biết về nhiều người. "

 

Với tư cách là giám đốc văn pḥng Washington, Lindley cho biết ông đă học được từ Malcolm Muir rằng người biên tập của tạp chí ở phía đông nam Châu Âu là nhân viên của CIA được giao nhiệm vụ theo các thoả thuận đă làm việc với ban giám đốc. Lindley nói: "Tôi nhớ nó đă xảy ra - cho dù đó là một ư tưởng tốt để giữ cho người này từ Cơ quan, cuối cùng đă được quyết định để chấm dứt sự liên kết."

 

Khi Newsweek theo các nguồn tin của CIA, công ty Washington Post, nhà xuất bản Philip L. Graham đă mua lại bởi công ty Washington Post, nhà xuất bản Philip L. Graham đă được các quan chức Cơ quan thông báo rằng CIA đôi khi sử dụng tạp chí này cho mục đích che đậy. Một cựu phó giám đốc của Cơ quan này cho biết "Người ta biết đến Phil Graham là ai đó mà bạn có thể nhận được sự trợ giúp. "Frank Wisner đă giải quyết nó." Wisner, phó giám đốc của CIA từ năm 1950 cho đến một thời gian ngắn trước khi ông tự tử vào năm 1965, là người điều khiển các hoạt động "đen" hàng đầu của Cơ quan, bao gồm nhiều nhà báo tham gia. Wisner thích khoe khoang của "Wurlitzer hùng mạnh", một công cụ tuyên truyền tuyệt vời mà ông đă xây dựng và chơi với sự giúp đỡ của báo chí.) Phil Graham có lẽ là bạn thân nhất của Wisner. Nhưng Graharn, đă tự sát vào năm 1963,

 

Theo Robert T. Wood, sau đó là một nhân viên CIA tại nhà ga Hồng Kông , những năm 1965-66, một nhân viên của Newsweek tại Viễn Đông thực chất là nhân viên hợp đồng của CIA với mức lương hàng năm là 10.000 USD từ Cơ quan. Một số phóng viên và nhà báo của Newsweek vẫn tiếp tục duy tŕ quan hệ bí mật với Cơ quan vào những năm 1970, theo các nguồn tin của CIA.

 

Thông tin về các vụ đại lư với tờ Washington Post rất là sơ sài. Theo các quan chức của CIA, một số người đăng bài đă là nhân viên của CIA, nhưng các quan chức này cho biết họ không biết liệu có ai trong ban quản lư Washington Post biết về sự sắp xếp này hay không.

 

Tất cả các tổng biên tập và biên tập viên quản lư của Washington Post kể từ năm 1950 cho biết họ không biết về mối quan hệ đại lư chính thức với người tổ chức hay thành viên của nhân viên Washington Post. "Nếu có bất cứ điều ǵ đă được thực hiện, nó đă được thực hiện bởi Phil mà không có kiến ​​thức của chúng tôi," một trong những nói. Các quan chức cơ quan, trong khi đó, không tuyên bố rằng các nhân viên của Bưu điện đă có quan hệ mật thiết với Cơ quan trong khi làm việc cho bài báo.

 

Katharine Graham, vợ góa phụ của Philip Graham và nhà xuất bản hiện tại của Post , nói rằng cô chưa bao giờ được thông báo về bất kỳ mối quan hệ nào của CIA với nhân viên Post hoặc Newsweek . Vào tháng 11 năm 1973, bà Graham gọi William Colby và hỏi nếu có bất kỳ người đăng bài hoặc nhân viên nào liên quan đến CIA. Colby đảm bảo với cô rằng không có nhân viên nào được Cơ quan làm việc nhưng từ chối thảo luận câu hỏi về những người bị bắt.

 

■ Tờ báo Tạp chí Louisville. Từ tháng 12 năm 1964 cho đến tháng 3 năm 1965, một nhân viên bí mật của CIA Robert H. Campbell đă làm việc trên Tạp chí Courier. Theo các nguồn tin cấp cao của CIA, Campbell đă được tuyển dụng bởi bài báo dưới sự sắp xếp của Cơ quan với Norman E. Isaacs, sau đó là biên tập viên của Courier-Journal . Barry Bingham Sr., sau đó là nhà xuất bản của bài báo, cũng đă có kiến ​​thức về cách sắp xếp, các nguồn tin cho biết. Cả Isaacs lẫn Bingham đều phủ nhận việc biết Campbell là một điệp viên t́nh báo khi anh ta được tuyển dụng.

 

Không có nỗ lực để kiểm tra các chứng chỉ của ông, và hồ sơ việc làm của ông có hai dấu hiệu sau: "Isaacs có các hồ sơ thư từ và điều tra người đàn ông này"; Và "Thuê cho công việc tạm thời-không có kiểm tra tham khảo nào đă hoàn tất hoặc cần thiết".

 

Mức độ khả năng báo chí của Campbell dường như vẫn ổn định trong suốt thời gian của ông tại ṭa báo, "Những thứ mà Campbell quay trở lại gần như không thể đọc được", một cựu biên tập viên của thành phố trợ lư cho biết. Một trong những dự án phóng sự lớn của Campbell là một nét đặc biệt về người Da đỏ. Nó chưa bao giờ được công bố. Trong nhiệm kỳ của ḿnh tại tờ báo, Campbell thường xuyên đi bar một vài bước từ văn pḥng, trong dịp này, anh ta thông báo đă tin tưởng với những người uống rượu rằng anh ta là một nhân viên CIA.

 

Theo các nguồn tin của CIA, chuyến lưu diễn của Campbell tại Courier-Journal đă được sắp xếp để cung cấp cho ông một kỷ lục về kinh nghiệm báo chí để làm tăng tính hợp lư của việc báo cáo trong tương lai và dạy ông về kinh doanh báo chí. Cuộc điều tra của Courier-Journal cũng đưa ra thực tế là trước khi đến Louisville, ông đă làm việc một thời gian ngắn cho Hornell, New York, Evening Tribune do Freedom News đưa ra, các nguồn tin của CIA cho hay Cơ quan này đă sắp xếp với quản lư của tờ báo để sử dụng Campbell.7

 

Theo Tạp chí Courier , Campbell được thuê dưới sự sắp xếp của Isaacs và được Bingham phê chuẩn, theo nguồn tin CIA và Senate. Một nhân viên của Cơ quan đă tham gia vào giao dịch nói: "Chúng tôi đă thanh toán cho Courier-Journal để họ có thể trả lương của ḿnh. Trả lời bằng văn bản cho những khẳng định này, Isaacs, người rời Louisville để trở thành chủ tịch và là nhà xuất bản của Wilmington Delaware), News & Journal , cho biết: "Tất cả những ǵ tôi có thể làm là lặp lại sự thật đơn giản - không bao giờ, dưới bất kỳ trường hợp nào, , Tôi có bao giờ cố ư thuê một nhân viên chính phủ hay không. Tôi cũng đă cố gắng nạo vét bộ nhớ của tôi, nhưng việc tuyển dụng của Campbell có ư nghĩa rất nhỏ đối với tôi rằng không có ǵ nổi lên .... Không có điều này là để nói rằng tôi đă không thể 'có'. "Barry Bingham Sr., Nói hồi năm ngoái trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại rằng ông không nhớ rơ về việc tuyển dụng của Campbell và phủ nhận rằng ông biết về bất kỳ thỏa thuận nào giữa quản lư của tờ báo và CIA. Tuy nhiên, các quan chức của CIA cho biết, Courier-Journal , thông qua liên lạc với Bingham, đă cung cấp hỗ trợ không xác định khác cho Cơ quan trong những năm 1950 và 1960. Chi tiết, trang đầu của Courier-Journal về việc tuyển dụng của Campbell do Barry Bingham Jr. khởi xướng, người đă kế nhiệm cha của ông ta như là biên tập viên và nhà xuất bản của bài báo năm 1971. Đây là bài báo duy nhất tự điều tra bởi một tờ báo rằng Đă xuất hiện trên chủ đề này.8 Các quan chức của CIA cho biết, tạp chí Courier , thông qua liên lạc với Bingham, cung cấp hỗ trợ không xác định khác cho Cơ quan trong những năm 1950 và 1960. Chi tiết, trang đầu của Courier-Journal về việc tuyển dụng của Campbell do Barry Bingham Jr. khởi xướng, người đă kế nhiệm cha của ông ta như là biên tập viên và nhà xuất bản của bài báo năm 1971. Đây là bài báo duy nhất tự điều tra bởi một tờ báo rằng Đă xuất hiện trên chủ đề này.8 Các quan chức của CIA cho biết, tạp chí Courier , thông qua các mối liên hệ với Bingham, cung cấp hỗ trợ không xác định khác cho Cơ quan trong những năm 1950 và 1960. Chi tiết, trang đầu của Courier-Journal về việc tuyển dụng của Campbell do Barry Bingham Jr. khởi xướng, người đă kế nhiệm cha của ông ta như là biên tập viên và nhà xuất bản của bài báo năm 1971. Đây là bài báo duy nhất tự điều tra bởi một tờ báo rằng Đă xuất hiện trên chủ đề này.8

 

■ Công ty phát thanh truyền h́nh Mỹ và Công ty phát thanh truyền h́nh quốc gia. Theo các quan chức CIA, ABC vẫn tiếp tục cung cấp bảo hiểm cho một số nhân viên CIA thông qua những năm 1960. Một là Sam Jaffe, nhân viên CIA cho biết đă thực hiện nhiệm vụ bí mật cho Cơ quan. Jaffe đă thừa nhận chỉ cung cấp thông tin cho CIA. Các nguồn tin của CIA cho biết thêm, một phóng viên mạng nổi tiếng đă thực hiện các nhiệm vụ bí mật của Cơ quan. Vào thời điểm của ṿng bi của Thượng viện, các quan chức Cơ quan Phục vụ ở các cấp cao nhất đă từ chối không nói liệu CIA vẫn duy tŕ các mối quan hệ tích cực với các thành viên của tổ chức ABC-News. Các nguồn tin cho biết tất cả các thoả thuận thu xếp đă được thực hiện với sự hiểu biết của các nhà quản lư ABC.

 

Những nguồn tin này cho rằng biết rất ít về mối quan hệ của Cơ quan với NBC, ngoại trừ một số phóng viên nước ngoài của mạng lưới thực hiện một số nhiệm vụ cho Cơ quan trong những năm 1950 và 1960. Richard Wald, chủ tịch của NBC News từ năm 1973, nói: "Đó là điều mà mọi người đă làm", Richard Wald, chủ tịch của NBC News kể từ năm 1973, nói: "Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu những người ở đây - kể cả những phóng viên thời đó - có quan hệ với Cơ quan".

 

■ Báo chí Copley, và công ty con, Dịch vụ Tin tức của Copley. Theo các phóng viên Joe Trento và Dave Roman trong tạp chí Penthouse , mối quan hệ này được công bố công khai trước công chúng bởi các quan chức của CIA là một trong những cơ quan của Cơ quan có năng suất cao nhất trong việc nhận được "bên ngoài" bảo hiểm cho nhân viên của ḿnh. Copley sở hữu chín tờ báo ở California và Illinois - trong đó có Liên đoàn San Diego và Evening Tribune. Tài khoản Trento-Roman, được tài trợ bởi Quỹ Báo chí Điều tra, khẳng định ít nhất 22 nhân viên của Copley News Service đă làm việc cho CIA. "Sự tham gia của Cơ quan với tổ chức Copley là quá rộng đến nỗi hầu như không thể phân loại,

 

Theo Trento và Roman, Copley đă tự nguyện làm dịch vụ tin tức cho tổng thống Eisenhower trước đây để hành động như "đôi mắt và tai" chống lại "mối đe dọa của Cộng sản ở Mỹ Latinh và Trung Mỹ" đối với "các dịch vụ t́nh báo của chúng tôi". James Copley cũng là người chỉ đạo Đứng đằng sau Hiệp hội Báo chí Liên Mỹ, một tổ chức do CIA tài trợ với thành viên nặng nề trong số các biên tập viên báo chí Mỹ Latinh cánh hữu.

 

■ Các tổ chức tin tức lớn khác. Theo các quan chức Cơ quan, các hồ sơ của CIA cho biết thêm các thỏa thuận bao gồm các tổ chức thu thập tin tức sau: New York Herald Tribune , Báo Thứ Bảy, Evening Post , Báo Scripps-Howard, Báo Hearst Seymour K. Freidin, London hiện tại của Hearst Giám đốc văn pḥng và cựu biên tập viên và phóng viên của  Herald-Tribune , đă được Cơ quan xác định là tác nhân của CIA), Associated Press, 9 United Press International, Hệ thống phát sóng Mutual, Reuters và Miami Herald . Theo các quan chức của CIA, việc sắp xếp thỏa thuận với Herald là không b́nh thường bởi v́ họ đă được thực hiện trên mặt đất bởi trạm CIA ở Miami, chứ không phải từ trụ sở CIA.

 

"Và đó chỉ là một phần nhỏ trong danh sách", theo lời của một viên chức phục vụ trong hệ thống phân cấp CIA. Giống như nhiều nguồn tin, quan chức này nói rằng cách duy nhất để chấm dứt sự không chắc chắn về viện trợ cho Cơ quan cung cấp cho các nhà báo là tiết lộ nội dung các hồ sơ của CIA - một khóa học chống lại hầu hết tất cả 35 quan chức CIA và cựu quan chức phỏng vấn Các khóa học của một năm.

 

 

Kết quả h́nh ảnh cho CIA AND MEDIA

 

 

COLBY CẮT ĐỨT CÂU CHUYỆN

VIỆC SỬ DỤNG NHÀ BÁO HIỂN NHIÊN VẪN TIẾP TỤC Cho đến năm 1973, khi phản hồi về việc công khai rằng Cục đă bí mật dùng các phóng viên Mỹ, William Colby đă bắt đầu điều chỉnh chương tŕnh. Trong những tuyên bố công khai của ḿnh, Colby đă cho thấy rằng việc sử dụng các nhà báo là tối thiểu và có tầm quan trọng hạn chế đối với Cơ quan.

 

Sau đó, ông bắt đầu một loạt các động thái nhằm thuyết phục báo chí, Quốc hội và công chúng biết rằng CIA đă thoát khỏi ngành kinh doanh tin tức. Nhưng theo các quan chức Cơ quan, Colby đă thực sự ném một mạng lưới bảo vệ xung quanh t́nh báo có giá trị của ông trong cộng đồng báo chí. Ông ra lệnh cho các đại biểu của ông duy tŕ quan hệ giữa Cơ quan với các nhà báo tốt nhất trong khi cắt đứt mối quan hệ chính thức với nhiều người coi là không hoạt động, tương đối kém hiệu quả hoặc chỉ có một chút quan trọng. Khi xem xét hồ sơ của Cơ quan để thực hiện theo chỉ thị của Colby, các quan chức thấy rằng nhiều nhà báo đă không thực hiện các chức năng hữu ích cho CIA trong nhiều năm. Những mối quan hệ như vậy, có thể khoảng một trăm, đă bị chấm dứt giữa năm 1973 và năm 1976.

 

Trong khi đó, các nhân viên CIA quan trọng đă được đưa vào đội ngũ nhân viên của một số tờ báo lớn và các đài phát thanh đă được thông báo từ chức và trở thành những người tự do, do đó cho phép Colby đảm bảo với các biên tập viên có liên quan rằng các thành viên trong đội ngũ nhân viên của họ không phải là nhân viên CIA. Colby cũng lo ngại rằng một số nhà hoạt động xă hội có giá trị có thể t́m thấy vỏ bọc của họ nếu việc kiểm tra mối quan hệ của Cơ quan với các nhà báo tiếp tục. Một số trong số những người này đă được chỉ định làm việc trên cái gọi là các ấn phẩm độc quyền - tạp chí nước ngoài và các cửa hàng quảng bá bí mật được CIA tài trợ và có nhân viên. Các nhà báo khác đă kư hợp đồng chính thức với CIA - làm cho họ trở thành nhân viên của Cơ quan - đă được thả ra từ hợp đồng của họ và yêu cầu tiếp tục làm việc dưới sự sắp xếp không chính thức.

 

 

 

 

Vào tháng 11 năm 1973, sau nhiều lần thay đổi như vậy, Colby nói với các phóng viên và biên tập viên của tờ New York Times và Washington Star rằng Cơ quan đă có "ba chục" các phóng viên Mỹ "về biên chế của CIA", trong đó có năm người làm việc cho " Các tổ chức tin tức lưu thông tổng quát ". Tuy nhiên, ngay cả khi Uỷ ban T́nh báo Thượng viện đang tổ chức các cuộc điều trần vào năm 1976, theo các nguồn tin CIA cấp cao, CIA vẫn tiếp tục duy tŕ mối quan hệ với bảy mươi lăm đến chín mươi nhà báo thuộc mọi giám đốc điều hành, phóng viên, Các nhân viên văn pḥng, nhân viên văn pḥng và các thành viên của đội ngũ kỹ thuật phát sóng. Hơn một nửa trong số này đă được chuyển ra khỏi hợp đồng CIA và biên chế nhưng họ vẫn bị ràng buộc bởi các thỏa thuận bí mật khác với Cơ quan.

 

Colby, người đă xây dựng danh tiếng là một trong những nhà chiến thuật có tay nghề cao nhất trong lịch sử của CIA, đă tự điều hành các nhà báo trong các hoạt động bí mật trước khi trở thành giám đốc vào năm 1973. Nhưng thậm chí ông cũng đă nói rằng những cộng sự gần gũi nhất của ông đă bị xáo trộn về mức độ rộng lớn, Theo quan điểm của ông, một cách bừa băi, Cơ quan tiếp tục sử dụng nhà báo vào thời điểm ông tiếp quản. "Quá nổi bật", giám đốc thường xuyên nói về một số cá nhân và tổ chức tin tức sau đó làm việc với CIA. Những người khác trong Cơ quan đề cập đến tài sản báo chí nổi tiếng nhất của họ là "tên thương hiệu")

 

"Sự quan tâm của Colby là ông ta có thể mất toàn bộ nguồn tài nguyên, trừ khi chúng tôi đă cẩn thận hơn về người mà chúng tôi đă sử dụng và làm thế nào chúng tôi có được chúng", một trong những vị phó giám đốc của một cựu giám đốc giải thích. Động lực của các hành động tiếp theo của Colby là di chuyển các cơ quan của Cơ quan ra khỏi cái gọi là "chuyên ngành" và tập trung chúng vào các chuỗi báo chí nhỏ, các nhóm phát thanh truyền h́nh và các ấn phẩm chuyên ngành như các tạp chí thương mại và các bản tin.

 

Sau khi Colby rời khỏi cơ quan vào ngày 28 tháng 1 năm 1976, và sau đó là George Bush, CIA tuyên bố một chính sách mới: "Có hiệu lực ngay lập tức, CIA sẽ không tham gia vào bất kỳ mối quan hệ có trả tiền hoặc hợp đồng với bất kỳ tin tức toàn thời gian hoặc bán thời gian Phóng viên được công nhận bởi bất kỳ đài truyền h́nh hoặc đài phát thanh nào của Mỹ ", vào thời điểm thông báo, Cơ quan thừa nhận rằng chính sách này sẽ chấm dứt ít hơn một nửa số mối quan hệ với 50 nhà báo Mỹ nói trên Vẫn liên kết với Cơ quan. Văn bản thông báo ghi nhận rằng CIA sẽ tiếp tục "hoan nghênh" sự hợp tác tự nguyện và không được trả lương của các nhà báo. Như vậy, nhiều mối quan hệ đă được phép duy tŕ nguyên vẹn.

 

Sự không sẵn ḷng của Cơ quan để chấm dứt việc sử dụng các nhà báo và các mối quan hệ tiếp tục của nó với một số giám đốc điều hành tin tức phần lớn là sản phẩm của hai sự kiện cơ bản của tṛ chơi trí tuệ: b́a báo là lư tưởng v́ tính chất ṭ ṃ của một phóng viên; Và nhiều nguồn bảo trợ thể chế khác đă bị CIA từ chối trong các năm gần đây bởi các doanh nghiệp, cơ sở và các cơ sở giáo dục đă từng hợp tác với Cơ quan.

 

Một quan chức cấp cao của CIA giải thích: "Thật khó để điều hành một cơ quan bí mật ở đất nước này. "Chúng ta có một sự mâu thuẫn kỳ lạ về t́nh báo. Để phục vụ ở nước ngoài chúng ta cần che. Nhưng chúng tôi đă chiến đấu với một hành động bảo vệ hậu vệ để thử và cung cấp bao gồm. Quân đoàn Ḥa b́nh là ngoại lệ, do đó USIA, các quỹ và các tổ chức tự nguyện đă bị hạn chế từ năm 67, và có một lệnh cấm áp dụng cho Fulbrights [Các học giả Fulbright]. Nếu bạn lấy cộng đồng người Mỹ và sắp đặt ai có thể làm việc cho CIA và những người không thể có một tiềm năng rất hẹp. Ngay cả Sở Ngoại vụ cũng không muốn chúng tôi. Vậy bạn đi đến đâu? Kinh doanh là tốt đẹp, nhưng báo chí là một điều tự nhiên. Một nhà báo có giá trị hai mươi đại lư. Anh ấy có quyền truy cập, khả năng đặt câu hỏi mà không gây kích động sự nghi ngờ. "

 

VAI TR̉ CỦA  CHURCH COMMITTEE  

 

MẶC DÙ CÁC BẰNG CHỨNG HIỂN NHIÊN VỀ VIỆC CIA sử dụng các nhà báo, the Senate Intelligence Committee  và các nhân viên đă quyết định không đặt câu hỏi về bất kỳ phóng viên, biên tập viên, nhà xuất bản hay giám đốc phát sóng nào có quan hệ với Cơ quan được nêu chi tiết trong các hồ sơ của CIA.

 

Theo các nguồn tin của Thượng viện và Cơ quan, việc sử dụng các nhà báo là một trong hai lĩnh vực điều tra mà CIA đă làm để cắt giảm. Một là việc tiếp tục và sử dụng rộng răi các cơ quan nghiên cứu cho việc tuyển dụng và thu thập thông tin của Cơ quan.

 

Trong cả hai trường hợp, các nguồn tin cho biết, cựu giám đốc Colby và Bush và cố vấn đặc biệt của CIA, Mitchell Rogovin, đă thuyết phục được các thành viên chủ chốt của ủy ban rằng cuộc điều tra đầy đủ hoặc thậm chí giới hạn công bố công khai kích thước của các hoạt động sẽ gây thiệt hại không thể khắc phục Bộ sưu tập dụng cụ, cũng như danh tiếng của hàng trăm cá nhân. Colby được cho là đă thuyết phục thuyết phục rằng việc tiết lộ sẽ mang lại một cuộc săn đuổi phù thủy, trong đó nạn nhân sẽ là phóng viên, nhà xuất bản và biên tập viên.

 

Walter Elder, phó giám đốc CIA cũ của McCone và là người liên lạc chính của Cơ quan với Ủy ban Giáo hội, lập luận rằng ủy ban thiếu thẩm quyền v́ không có sự lạm dụng của các nhà báo bởi CIA; Các mối quan hệ đă được tự nguyện. Anh Cả được trích dẫn như một ví dụ trong trường hợp của Tạp chí Courier-Louisville . "Nhà thờ và những người khác trong ủy ban này nằm trên chiếc đèn chùm về Tạp chí Courier ," một quan chức cơ quan cho biết, "cho đến khi chúng tôi chỉ ra rằng chúng tôi đă tới biên tập để sắp xếp b́a, và biên tập viên đă nói," Tốt. '"

 

Một số thành viên của  the Church Committee và các nhân viên của Nhà thờ sợ rằng các quan chức của Cơ quan đă giành được quyền kiểm soát cuộc điều tra và họ đă bị lôi kéo. "Cơ quan rất khôn ngoan về vấn đề này và ủy ban đă chơi ngay trong tay", một nguồn tin trong Quốc hội đă làm quen với tất cả các khía cạnh của cuộc điều tra. "Giáo hội và một số thành viên khác quan tâm nhiều hơn đến việc làm cho tiêu đề hơn là làm những điều tra nghiêm túc và khó khăn. Cơ quan giả vờ đă bỏ ra rất nhiều khi nó được hỏi về vụ ám sát vụ nổ và vũ khí bí mật và các hoạt động của James Bond. Sau đó, khi nó đến những thứ mà họ không muốn cho đi, quan trọng hơn nhiều với Cơ quan, Colby đặc biệt được gọi là trong chits của ḿnh. Và ủy ban đă mua nó. "

 

Cuộc điều tra của Ủy ban Thượng viện về việc sử dụng các nhà báo được giám sát bởi William B. Bader, cựu nhân viên t́nh báo CIA đă quay trở lại Cơ quan trong năm nay với tư cách là phó giám đốc CIA Stansfield Turner và giờ đây là một quan chức t́nh báo cao cấp tại Bộ Quốc pḥng . Bader được trợ giúp bởi David Aaron, hiện đang giữ chức vụ phó của Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Carter.

 

Theo các đồng nghiệp về các nhân viên của cuộc điều tra của Thượng viện, cả Bader và Aaron đều bị xáo trộn bởi thông tin chứa trong các hồ sơ của CIA về các nhà báo; Họ kêu gọi tiến hành cuộc điều tra thêm do ủy ban giám sát CIA thường trực của Thượng viện tiến hành. Tuy nhiên, ủy ban đó đă dành một năm đầu tiên viết một điều lệ mới cho CIA, và các thành viên nói rằng có ít sự quan tâm đến việc đào sâu hơn nữa việc sử dụng báo chí của CIA.

 

Bader của điều tra đă được thực hiện trong điều kiện bất thường khó khăn. Yêu cầu đầu tiên của ông về thông tin cụ thể về việc sử dụng các nhà báo đă bị CIA từ chối v́ không có lạm dụng thẩm quyền và các hoạt động t́nh báo hiện tại có thể bị tổn hại. Thượng nghị sĩ Walter Huddleston, Howard Baker, Gary Hart, Walter Mondale và Charles Mathias - người đă bày tỏ sự quan tâm đến chủ đề báo chí và sự thất vọng của Bader - CIA trong phản ứng của CIA. Trong một loạt cuộc điện thoại và cuộc gặp với giám đốc CIA George Bush và các quan chức khác của Cơ quan, thượng nghị sĩ nhấn mạnh rằng nhân viên của ủy ban sẽ được cung cấp thông tin về phạm vi hoạt động của CIA. Cuối cùng, Tổng thống Bush đă đồng ư đặt hàng t́m kiếm các hồ sơ và thu thập các hồ sơ này, đề cập đến các hoạt động mà các nhà báo đă được sử dụng. Nhưng các tập tin thô không thể cung cấp cho Bader hoặc ủy ban, ông Bush nhấn mạnh. Thay vào đó, giám đốc đă quyết định, các đại biểu của ông sẽ ngưng tụ tài liệu vào một đoạn tóm lược mô tả trong các điều khoản chung nhất các hoạt động của mỗi nhà báo cá nhân. Quan trọng nhất, ông Bush đă tuyên bố, tên của các nhà báo và của các tổ chức báo chí mà họ được liên kết sẽ bị bỏ qua trong các tóm tắt. Tuy nhiên, có thể có một số dấu hiệu cho thấy khu vực nhà báo đă phục vụ và một mô tả chung về loại tổ chức tin tức mà ông làm việc. Các đại biểu của ông sẽ ngưng tụ tài liệu vào một đoạn tóm lược mô tả theo các thuật ngữ chung nhất các hoạt động của mỗi nhà báo cá nhân. Quan trọng nhất, ông Bush đă tuyên bố, tên của các nhà báo và của các tổ chức báo chí mà họ được liên kết sẽ bị bỏ qua trong các tóm tắt. Tuy nhiên, có thể có một số dấu hiệu cho thấy khu vực nhà báo đă phục vụ và một mô tả chung về loại tổ chức tin tức mà ông làm việc. Các đại biểu của ông sẽ ngưng tụ tài liệu vào một đoạn tóm lược mô tả theo các thuật ngữ chung nhất các hoạt động của mỗi nhà báo cá nhân. Quan trọng nhất, ông Bush đă tuyên bố, tên của các nhà báo và của các tổ chức báo chí mà họ được liên kết sẽ bị bỏ qua trong các tóm tắt. Tuy nhiên, có thể có một số dấu hiệu cho thấy khu vực nhà báo đă phục vụ và một mô tả chung về loại tổ chức tin tức mà ông làm việc.

 

Theo các quan chức CIA, người giám sát công việc, tổng hợp các bản tóm tắt là rất khó. Không có "hồ sơ nhà báo" riêng lẻ và thông tin phải được thu thập từ các nguồn khác nhau phản ánh nhân cách có tính phân chia cao của CIA. Các nhân viên vụ việc đă xử lư các nhà báo đă cung cấp một số tên. Các tập tin được kéo trên các hoạt động bí mật khác nhau, trong đó có vẻ hợp lư khi các nhà báo đă được sử dụng. Đáng kể là tất cả các tác phẩm của phóng viên cho Cơ quan thuộc loại hoạt động bí mật chứ không phải t́nh báo nước ngoài). Các bản ghi cũ của đài đă bị tiêu hủy. Một quan chức cho hay: "Chúng tôi thực sự phải tranh nhau.

 

Sau vài tuần, Bader bắt đầu nhận được bản tóm tắt, số lượng này đă vượt quá 400 khi Cơ quan cho biết họ đă hoàn thành việc t́m kiếm các tệp tin của ḿnh.

 

Cơ quan đóng một tṛ chơi số hấp dẫn với ủy ban. Những người chuẩn bị tài liệu nói rằng nó là thể chất không thể sản xuất tất cả các hồ sơ của Cơ quan về việc sử dụng các nhà báo. Một quan chức cơ quan cho biết: "Chúng tôi đă cho họ một bức tranh đại diện, đại diện. "Chúng tôi không bao giờ giả vờ rằng nó là một mô tả tổng thể về phạm vi hoạt động hơn 25 năm, hoặc về số lượng các nhà báo đă làm việc cho chúng tôi". Một số ít các tóm tắt mô tả các hoạt động của các nhà báo nước ngoài - bao gồm cả những người làm việc như Stringers cho các ấn phẩm của Mỹ. Các quan chức có kiến ​​thức nhất về chủ đề này nói rằng một con số 400 nhà báo Mỹ nằm ở phía bên dưới của con số thực tế duy tŕ các mối quan hệ bí mật và thực hiện các nhiệm vụ bí mật.

 

Bader và những người khác mà ông miêu tả nội dung tóm tắt ngay lập tức đạt được một số kết luận chung: số lượng các mối quan hệ mật thiết với các nhà báo đă cao hơn rất nhiều so với CIA đă từng gợi ư; Và việc Cơ quan sử dụng các phóng viên và giám đốc điều hành tin tức là một tài sản trí tuệ của cường độ đầu tiên. Phóng viên đă tham gia vào hầu hết các loại h́nh hoạt động. Trong số 400 cá nhân có hoạt động được tóm tắt, khoảng từ 200 đến 250 là "nhà báo làm việc" theo nghĩa thông thường của các phóng viên, biên tập viên, phóng viên, nhiếp ảnh gia; Phần c̣n lại được tuyển dụng ít nhất trên danh nghĩa) bởi các nhà xuất bản sách, ấn phẩm thương mại và bản tin.

 

Tuy nhiên, các tóm lược chỉ là: nén, mơ hồ, sơ sài, không đầy đủ. Chúng có thể được giải thích mơ hồ. Và họ không có ư kiến ​​cho rằng CIA đă lạm dụng quyền lực của ḿnh bằng cách vận dụng nội dung biên tập của các tờ báo Mỹ hoặc các báo cáo phát sóng.

 

Bader cảm thấy không thoải mái với những ǵ ông t́m thấy đă khiến ông t́m kiếm lời khuyên từ một số tay có kinh nghiệm trong các lĩnh vực quan hệ ngoại giao và t́nh báo. Họ đề nghị ông báo chí để biết thêm thông tin và cho các thành viên của ủy ban mà ông tin tưởng nhất một ư tưởng chung về những ǵ tóm tắt tiết lộ. Bader một lần nữa lại đến Thượng nghị sĩ Huddleston, Baker, Hart, Mondale và Mathias. Trong khi đó, ông nói với CIA rằng ông muốn nh́n thấy nhiều hơn - các tập tin đầy đủ trên có lẽ một trăm hoặc hơn của các cá nhân mà các hoạt động đă được tóm tắt. Yêu cầu đă bị bác bỏ hoàn toàn. Cơ quan sẽ không cung cấp thêm thông tin về chủ đề này. Giai đoạn.

 

Sự không khoan dung của CIA đă dẫn đến một cuộc họp mặt ăn tối đặc biệt tại trụ sở Cơ quan vào cuối tháng 3 năm 1976. Những người có mặt bao gồm các Thượng nghị sĩ Frank Church, người đă được Bader thông báo ngắn gọn, và John Tower, phó chủ tịch ủy ban; Bader; William Miller, giám đốc của nhân viên ủy ban; Giám đốc CIA của CIA; Tư vấn cơ quan Rogovin; Và Seymour Bolten, một quan chức cấp cao của CIA, người đă từng là một nhà ga ở Đức và là sĩ quan cảnh sát của Willy Brandt trong nhiều năm. Bolten đă bị Bush băi nhiệm để giải quyết các yêu cầu của ủy ban về thông tin về các nhà báo và các nhà nghiên cứu. Tại bữa ăn tối, Cơ quan đă tổ chức từ chối cung cấp bất kỳ tệp đầy đủ. Nó cũng không cung cấp cho ủy ban tên của bất kỳ nhà báo cá nhân nào được mô tả trong 400 bản tóm tắt hoặc của các tổ chức tin tức mà họ được liên kết. Cuộc thảo luận, Theo người tham gia, đă tăng nóng. Các đại diện của ủy ban cho biết họ không thể tôn trọng nhiệm vụ của họ - để xác định xem CIA đă lạm dụng quyền lực của ḿnh mà không cần thông tin thêm. CIA duy tŕ nó không thể bảo vệ các hoạt động t́nh báo hợp pháp của ḿnh hoặc nhân viên của nó nếu tiếp tục tiết lộ cho ủy ban. Nhiều người trong số các nhà báo là nhân viên hợp đồng của Cơ quan, ông Bush cho biết tại một thời điểm, và CIA không phải là ít bắt buộc đối với họ hơn bất kỳ đại lư khác.

 

Cuối cùng, một thỏa thuận rất bất thường đă được khắc phục: Bader và Miller sẽ được phép xem xét các phiên bản "đă được khử trùng" của các tệp đầy đủ của 25 nhà báo được chọn từ các tóm tắt; Nhưng tên của các nhà báo và các tổ chức tin tức sử dụng chúng sẽ bị bỏ qua, giống như những đặc điểm của các nhân viên CIA khác được đề cập trong hồ sơ. Church và Tower sẽ được phép kiểm tra các phiên bản chưa được thuần hoá của năm trong số 25 tệp tin để chứng thực rằng CIA đă không giấu bất cứ điều ǵ ngoại trừ tên. Toàn bộ thỏa thuận phụ thuộc vào một thỏa thuận mà cả Bader, Miner, Tower và Church sẽ không tiết lộ nội dung của các hồ sơ cho các thành viên khác trong ủy ban hoặc nhân viên.

 

Bader đă bắt đầu xem xét 400 bản tóm tắt một lần nữa. Mục tiêu của ông là chọn 25 điều đó, dựa trên cơ sở thông tin sơ sài mà họ có, dường như đại diện cho một mặt cắt ngang. Ngày của hoạt động CIA, mô tả chung của các tổ chức tin tức, các loại nhà báo và hoạt động bí mật tất cả các tính trong tính toán của ḿnh.

 

Theo các nguồn tin của Thượng viện và các quan chức của CIA, trong số 25 tập tin của Tổng thống, có một kết luận không thể tránh khỏi: CIA trong những năm 50, 60 và thậm chí đầu thập kỷ 50 đă tập trung mối quan hệ với các nhà báo Trong các lĩnh vực nổi bật nhất của các cơ quan báo chí Mỹ, bao gồm bốn hoặc năm trong số các tờ báo lớn nhất trong nước, các mạng lưới phát sóng và hai tạp chí tin tức lớn. Mặc dù sự thiếu sót về tên và liên kết từ 25 tệp chi tiết có độ dày từ ba đến mười một inch), thông tin thường đủ để xác định được người báo chí, cơ quan của anh ta hoặc cả hai - đặc biệt là v́ rất nhiều người trong số họ nổi bật ở lĩnh vực nghề nghiệp.

 

Bader báo cáo với các thượng nghị sĩ rằng: "Có khá nhiều mối quan hệ khác nhau. " Ví dụ, bạn không cần phải thao túng tạp chí Time, bởi v́ có những người của Cơ quan ở cấp quản lư."

 

Theo các quan chức Cơ quan, một tổ chức tin tức lớn giới hạn các giao dịch của họ với CIA, là các quan chức của Cơ quan, có lẽ là mối quan hệ biên tập lớn nhất đối với các mục tiêu và chính sách tầm xa của Cơ quan: Báo chí Hoa Kỳ và Báo cáo Thế giới. David Lawrence, biên tập viên và biên tập viên sáng lập của US News, là bạn thân của Allen Dulles. Tuy nhiên, ông đă nhiều lần từ chối yêu cầu của giám đốc CIA để sử dụng tạp chí cho mục đích che phủ, nguồn tin cho biết. Theo một quan chức cao cấp của CIA, Lawrence đă ban hành lệnh cho các tiểu ban của ông, trong đó ông đe doạ sẽ bắn bất kỳ nhân viên của News News nào được t́m thấy đă có quan hệ chính thức với Cơ quan này. Các cựu giám đốc điều hành của tạp chí đă xác nhận rằng các lệnh này đă được ban hành.

 

Trong khi đó, Bader đă cố gắng lấy thêm thông tin từ CIA, đặc biệt về mối quan hệ hiện tại của Cơ quan với các nhà báo. Anh gặp một bức tường đá. Bader nói với các cộng sự rằng: "Bush đă không làm ǵ cho đến ngày nay. CIA cũng từ chối các nhân viên yêu cầu thêm thông tin về việc sử dụng các nhà nghiên cứu. Bush bắt đầu thúc giục các thành viên của ủy ban cắt giảm các yêu cầu của họ ở cả hai khu vực và che giấu những phát hiện của nó trong báo cáo cuối cùng. Một nguồn tin của Thượng viện cho biết: "Ông ta không nói những người này trên báo chí và các khu học xá," cầu xin rằng họ là những khu vực duy nhất của đời sống công cộng với bất kỳ sự tín nhiệm nào c̣n lại ". Colby, Elder và Rogovin cũng khẩn cầu các thành viên cá nhân của ủy ban để giữ bí mật những ǵ nhân viên đă t́m thấy. Một nguồn tin khác cho biết: "Có rất nhiều đại diện cho rằng nếu công cụ này đưa ra một số tên tuổi lớn nhất trong ngành báo chí th́ sẽ bị bôi nhọ. Cơ quan này lo sợ rằng việc tiếp xúc với mối quan hệ của CIA với các nhà báo và các nhà nghiên cứu sẽ làm giảm hai trong số ít các tuyến tuyển dụng đại lư vẫn c̣n mở. Một chuyên gia của CIA đă giải thích rằng "Nguy cơ phơi nhiễm không phải là ở phía bên kia. "Đây không phải là thứ mà phía bên kia không biết. Sự quan tâm của Cơ quan là một khu vực khác của bảo hiểm sẽ bị từ chối. " "Một chuyên gia CIA giải thích trong các hoạt động bí mật. "Đây không phải là thứ mà phía bên kia không biết. Sự quan tâm của Cơ quan là một khu vực khác của bảo hiểm sẽ bị từ chối. " "Một chuyên gia CIA giải thích trong các hoạt động bí mật. "Đây không phải là thứ mà phía bên kia không biết. Sự quan tâm của Cơ quan là một khu vực khác của bảo hiểm sẽ bị từ chối. "

 

Một thượng nghị sĩ là đối tượng của cuộc vận động của Cơ quan sau này nói: "Từ quan điểm của CIA, đây là chương tŕnh bí mật cao nhất, nhạy cảm nhất của tất cả .... Đó là một phần lớn hơn của hệ thống hoạt động hơn là đă được chỉ ra. "Ông nói thêm," Tôi đă có một sự ép buộc tuyệt vời để nhấn điểm nhưng đă muộn ... Nếu chúng tôi yêu cầu, họ sẽ đi theo con đường hợp pháp để chống lại nó. "

 

Thật vậy, thời gian đă hết cho ủy ban. Theo quan điểm của nhiều nhân viên, nó đă lăng phí nguồn lực của ḿnh trong việc t́m kiếm các âm mưu ám sát của CIA và các chữ cái bút độc. Nó đă tiến hành điều tra các nhà báo gần như là một suy nghĩ sau. Kích thước của chương tŕnh và sự nhạy cảm của CIA đối với việc cung cấp thông tin về nó đă làm cho nhân viên và ủy ban ngạc nhiên. Ủy ban giám sát của CIA sẽ thành công trong bảng điều khiển của Giáo hội sẽ có khuynh hướng và thời gian để t́m hiểu về chủ đề một cách có phương pháp; Nếu, dường như, CIA từ chối hợp tác thêm nữa, nhiệm vụ của ủy ban kế nhiệm sẽ đặt nó ở một vị thế thuận lợi hơn để gây ra một cuộc chiến kéo dài .... Hay như vậy, lư do được đưa ra khi Giáo hội và vài thượng nghị sĩ thậm chí c̣n chưa quen với những phát hiện của Bader đă đưa ra quyết định không theo đuổi vấn đề này nữa. Không có nhà báo nào được phỏng vấn về việc họ giao dịch với Cơ quan - hoặc bởi các nhân viên hoặc bởi các thượng nghị sĩ, trong bí mật hoặc trong phiên họp mở. Bóng ma, lần đầu tiên được nêu ra bởi các quan chức CIA, về một cuộc săn đuổi phù thủy trong báo chí đă ám ảnh một số nhân viên và ủy ban. Một thượng nghị sĩ cho biết: "Chúng tôi không muốn đưa những người đến ủy ban và sau đó mọi người nói rằng họ đă phản bội các lư tưởng của nghề nghiệp của họ.

 

Bader, theo các cộng sự, đă hài ḷng với quyết định và tin rằng ủy ban kế nhiệm sẽ tiếp nhận cuộc điều tra mà ông đă để lại. Ông đă chống lại việc công khai tên của các nhà báo cá nhân. Ông đă quan tâm đến việc ông đă bước vào một "khu vực xám xịt", trong đó không có đạo đức hoàn hảo. Nếu CIA "thao túng" báo chí theo nghĩa cổ điển của thuật ngữ? Có lẽ không, ông kết luận; Các tổ chức tin tức lớn và các nhà quản lư của họ đă sẵn sàng để các cơ quan của họ làm việc với các cơ quan t́nh báo. Các phóng viên nước ngoài đă coi công việc của CIA là một dịch vụ quốc gia và cách để có được những câu chuyện hay hơn và leo lên đỉnh cao nghề nghiệp của họ. Nếu CIA lạm dụng quyền lực của nó? Nó đă bị xử lư với báo chí gần chính xác như nó đă được xử lư với các tổ chức khác mà từ đó nó t́m kiếm bao gồm: các dịch vụ ngoại giao, học viện, các tập đoàn. Không có điều ǵ trong điều lệ của CIA tuyên bố bất kỳ tổ chức nào trong số các tổ chức này bị hạn chế về dịch vụ t́nh báo của Mỹ. Và, trong trường hợp báo chí, Cơ quan đă thực hiện chăm sóc nhiều hơn trong giao dịch của ḿnh với nhiều tổ chức khác; Nó đă đi đến một chặng đường dài để hạn chế vai tṛ của nó trong việc thu thập thông tin và thu thập thông tin.10

 

Bader cũng được cho là lo lắng rằng kiến ​​thức của ông đă được dựa rất nhiềutrên thông tin được cung cấp bởi CIA; Ông đă không nhận được phía bên kia của câu chuyện từ những nhà báo có liên quan đến Cơ quan. Anh ấy chỉ có thể nh́n thấy "chương tŕnh đèn lồng", anh ấy nói với các cộng sự. Tuy nhiên, Bader đă khá chắc chắn rằng ông đă nh́n thấy khá nhiều đầy đủ của những ǵ đă được trong các tập tin. Nếu CIA muốn lừa dối anh ta, nó sẽ không bao giờ cho đi quá nhiều, anh ta lư luận. Một nguồn thông tin từ ủy ban cho biết: "Thật thông minh khi Cơ quan hợp tác trong việc tŕnh bày tài liệu cho Bader. "Bằng cách đó, nếu một ngày tốt đẹp một tập tin nổ ra, Cơ quan sẽ được bảo hiểm. Họ có thể nói họ đă thông báo với Quốc hội. "

 

Sự phụ thuộc vào các tệp CIA đặt ra một vấn đề khác. Quan niệm của CIA về mối quan hệ với nhà báo có thể khác với báo giới: một quan chức của CIA có thể nghĩ ông đă kiểm soát được một nhà báo; Nhà báo có thể nghĩ rằng ông chỉ đơn giản là đă có một vài đồ uống với một spook. Có thể các nhân viên của CIA đă viết các bản ghi nhớ về các hồ sơ về các giao dịch của họ với các nhà báo, rằng CIA cũng giống như giấy tờ "che đậy-ass-biuro" thông thường như bất kỳ cơ quan nào khác của chính phủ.

 

Một quan chức của CIA đă cố gắng thuyết phục các thành viên của ủy ban Thượng viện rằng việc Cơ quan sử dụng các nhà báo đă không được coi trọng là các tập tin này thật sự đầy "phồng phồng" bởi các viên chức điều tra. "Bạn không thể thiết lập được cái ǵ là ngớ ngẩn và những ǵ không", ông tuyên bố. Nhiều phóng viên, ông nói thêm, "đă được tuyển dụng cho các công việc có giới hạn [cụ thể] và sẽ rất kinh hoàng khi thấy rằng họ đă được liệt kê [trong hồ sơ Cơ quan] như các nhân viên CIA." Cùng một quan chức này ước tính rằng các tập tin chứa mô tả khoảng một nửa số phóng viên Và phóng viên, những người sẽ được coi là "nổi tiếng" - đó là, tên của họ sẽ được hầu hết người Mỹ công nhận. "Các hồ sơ cho thấy CIA đă đi cùng báo chí và thường xuyên báo chí tới CIA," ông quan sát. "...

 

Dù việc giải thích, kết quả của cuộc điều tra của Ủy ban Thượng viện về việc sử dụng các nhà báo đă được cố ư chôn vùi từ thành viên đầy đủ của ủy ban, từ Thượng viện và công chúng. Một nguồn tin cho biết: "Có một sự khác biệt về cách đối xử với chủ đề này. "Một số thượng nghị sĩ nghĩ rằng đây là những hành động lạm dụng cần được đánh giá và có những người nói," Chúng tôi không biết điều này có tồi hay không ".

 

Các phát hiện của Bader về chủ đề này không bao giờ được thảo luận với toàn bộ ủy ban, ngay cả trong phiên điều hành. Điều đó có thể đă dẫn đến sự ṛ rỉ - đặc biệt là do sự bùng nổ của sự thật. Kể từ khi cuộc điều tra của Uỷ ban Giáo hội bắt đầu, những ṛ rỉ đă là nỗi sợ hóc tập thể lớn nhất của ban giám đốc, một mối đe dọa thực sự đối với sứ mạng của nó. Ở dấu hiệu nhỏ nhất của sự ṛ rỉ, CIA có thể cắt đứt ḍng thông tin nhạy cảm như nó đă làm, nhiều lần ở các khu vực khác), tuyên bố rằng ủy ban không thể tin tưởng với những điều bí mật. Một thành viên của ban giám đốc nói: "Nó giống như chúng ta đang bị xét xử chứ không phải là CIA. Để mô tả trong báo cáo cuối cùng của ủy ban, các khía cạnh thực sự của việc sử dụng các nhà báo của Cơ quan có thể gây ra phản ứng mănh liệt trên báo chí và trên sàn Thượng viện. Và nó sẽ gây ra áp lực nặng nề lên CIA để chấm dứt việc sử dụng các nhà báo hoàn toàn. Một thượng nghị sĩ cho biết: "Chúng tôi chưa sẵn sàng để thực hiện bước đó. Một quyết định tương tự đă được thực hiện để che giấu kết quả của cuộc điều tra của nhân viên về việc sử dụng các học giả. Bader, người giám sát cả hai lĩnh vực điều tra, đồng t́nh trong các quyết định và soạn thảo những phần của báo cáo cuối cùng của ủy ban. các trang từ 191 đến 201 có tựa đề "Mối quan hệ bí mật với Hoa Kỳ Truyền thông". "Nó hầu như không phản ánh những ǵ chúng ta t́m thấy", Thượng nghị sĩ Gary Hart nói. "Đă có một cuộc đàm phán kéo dài và phức tạp [với CIA] về những ǵ sẽ được nói."

Việc che giấu sự thật là tương đối đơn giản. Không có đề cập đến 400 bản tóm tắt hay những ǵ họ tŕnh bày. Thay vào đó, báo cáo ghi nhận một cách thô bạo rằng khoảng 50 cuộc tiếp xúc gần đây với các nhà báo đă được nhân viên của ủy ban nghiên cứu - do đó chuyển tải ấn tượng rằng các quan hệ của Cơ quan với báo chí đă được giới hạn trong những trường hợp đó. Các báo cáo của Cơ quan, có lưu ư, có ít bằng chứng cho thấy nội dung biên tập của các bản tin của Mỹ đă bị ảnh hưởng bởi các giao dịch của CIA với các nhà báo. Những tuyên bố sai lạc của Colby về việc sử dụng các nhà báo đă được lặp đi lặp lại mà không có mâu thuẫn hoặc kỹ lưỡng nghiêm trọng. Vai tṛ hợp tác của các nhà quản lư tin tức được đưa ra ngắn gọn. Thực tế là Cơ quan đă tập trung các mối quan hệ của ḿnh trong các lĩnh vực nổi bật nhất của báo chí đă không được đề cập.

 

CARL BERNSTEIN CARL BERNSTEIN, cựu phóng viên của tờ Washington Post, hiện đang làm việc cho một cuốn sách về cuộc săn đuổi phù thủy của Chiến tranh Lạnh.

 

Chú thích :

 

1 John McCone, giám đốc Cơ quan từ năm 1961 đến năm 1965, cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây rằng ông biết về "thảo luận nhiều và trao đổi sự giúp đỡ", nhưng không có ǵ về bất kỳ thỏa thuận nào cho việc bao gồm CIA có thể đă làm với các tổ chức truyền thông. "Tôi không nhất thiết phải biết về nó," ông nói. "Helms sẽ xử lư bất cứ điều ǵ như thế. Nó sẽ là điều bất thường khi anh ấy đến với tôi và nói," Chúng tôi sẽ sử dụng các nhà báo để che đậy. " Ông đă có một công việc để làm. Không có chính sách trong thời kỳ của tôi mà có thể nói, 'Đừng đi gần nước đó,' cũng không có ai nói, 'Đi đến nó!' "Trong ṿng ủy ban của Hội đồng Giáo hội, McCone đă làm chứng rằng Những người dưới quyền của ông ta đă thất bại trong việc nói với ông về các hoạt động giám sát trong nước hoặc họ đang làm việc để lên kế hoạch ám sát Fidel Castro. Richard Helms là phó giám đốc của Cơ quan vào lúc đó; Ông trở thành đạo diễn năm 1966.

 

2 Người phản đối là một phóng viên làm việc cho một hoặc nhiều tổ chức tin tức trên cơ sở bảo vệ hoặc trên cơ sở làm việc.

 

3 Từ quan điểm của CIA, việc truy cập vào các cửa hàng tạp chí và các thư viện ảnh là vấn đề vô cùng quan trọng. Lưu trữ ảnh của Cơ quan có lẽ là lớn nhất trên trái đất; Các nguồn đồ hoạ của nó bao gồm vệ tinh, quang trinh, máy bay, máy thu nhỏ ... và báo chí Mỹ. Trong những năm 1950 và 1960, Cơ quan đă nhận được đặc quyền mượn carte-blanche trong thư viện ảnh của hàng chục tờ báo, tạp chí và truyền h́nh Mỹ, các cửa hàng. V́ những lư do rơ ràng, CIA cũng dành ưu tiên cao cho việc tuyển dụng phóng viên báo chí, đặc biệt là các thành viên của các nhóm làm việc trên mạng.

 

[4] Vào ngày 3 tháng 4 năm 1961, Koop rời Văn pḥng Washington để trở thành Trưởng bộ phận Quan hệ Chính phủ của CBS, Inc. - một chức vụ ông giữ cho đến khi nghỉ hưu vào ngày 31 tháng 3 năm 1972. Koop, người làm việc như là một Phó pḥng kiểm duyệt Trong Thế chiến II, tiếp tục giải quyết CIA ở vị trí mới của ông, theo nguồn tin của CBS.

 

Hayes, người rời khỏi  Washington Post vào năm 1965 để trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tại Thụy Sĩ, hiện là chủ tịch hội đồng quản trị của Radio Free Europe và Radio Liberty - cả hai đều đă cắt đứt quan hệ với CIA năm 1971. Hayes cho biết ông đă tham gia Trong dự án Trung Quốc với Frederick S. Beebe, sau đó là Chủ tịch hội đồng quản trị của Công ty Bưu chính Washington. Katharine Graham, nhà xuất bản của Post, không biết về bản chất của nhiệm vụ, ông nói. Những người tham gia trong dự án đă kư thỏa thuận bí mật.

 

6 Philip Geyelin, biên tập viên của trang biên tập Post , làm việc cho Cơ quan trước khi gia nhập vào bài viết .

 

7 Louis Buisch, chủ tịch công ty xuất bản của Hornell, New York, Evening Tribune, nói với tạp chí Courier-Journal vào năm 1976 rằng ông nhớ ít về việc thuê Robert Campbell. Ông Buisch, người đă nghỉ hưu v́ quản lư hoạt động của tờ báo, nói: "Ông ấy đă không ở đó rất lâu, và ông ấy không có nhiều ấn tượng.

 

Có lẽ bài báo chu đáo nhất về chủ đề báo chí và CIA đă được viết bởi Stuart H. Loory và xuất hiện trong số ra tháng 9 năm tháng 10 năm 1974 của tạp chí Columbia Journalism Review.

 

Wes Gallagher, Tổng giám đốc của Associated Press từ năm 1962 đến năm 1976, có ngoại lệ mạnh mẽ với quan niệm rằng Associated Press có thể đă hỗ trợ Cơ quan. "Chúng tôi luôn luôn ở lại CIA, tôi sẽ bắn bất cứ ai làm việc cho họ. Chúng tôi thậm chí không để cho người dân của chúng tôi debrief." Vào thời điểm những tiết lộ đầu tiên mà các phóng viên làm việc cho CIA, Gallagher tới Colby. "Chúng tôi đă cố gắng t́m ra tên, tất cả những ǵ ông ấy nói là không có nhân viên làm việc toàn thời gian của Associated Press được Cơ quan làm việc, và chúng tôi nói chuyện với ông Bush. Gallagher cho biết, nếu có bất cứ nhân viên của Cơ quan nào được đặt trong các pḥng Associated Press, nó đă được thực hiện mà không có sự tư vấn về việc quản lư dịch vụ dây.

 

Nhiều nhà báo và một số quan chức CIA phản đối tuyên bố của Cơ quan về việc nó đă rất thận trọng trong việc tôn trọng tính toàn vẹn của các ấn phẩm và các ấn phẩm của Mỹ.

 

Kim Âu phỏng dịch

June 26/2017

 

 

http://www.carlbernstein.com/magazine_cia_and_media.php

http://mainstreammediaexposed.com/operation-mockingbird-cia-exposed-cia-controls-the-mainstream-media-fakenews/

 

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge ֎ Mười điều răn ֎ Ten Commandements

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎ Foreign Trade

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days ֎ USA Census

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: