MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Bài Viết Của Kim Âu ֎ Đại Kỷ Nguyên
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018
֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018
֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookings
vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran
vOpen Culture vSyndicate vCapital Research
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền
vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn
vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng
vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân
vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong
vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCSvLuật Khoa
vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm
DANH NHÂN NGUYỄN TRĂI:
SỰ HỘI TỤ NHỮNG TINH HOA CỦA VĂN HÓA THĂNG LONG THỜI LƯ - TRẦN
PGS.TS. NGUYỄN CÔNG LƯ
Khoa Văn học và Ngôn ngữ,trường ĐH KHXH & NV, Tp. HCM
1. Nguyễn Trăi tên hiệu Ức Trai, sinh năm Canh Thân (1380) tại dinh thự của ông ngoại ở Thăng Long và mất ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (19-9-1442) bởi vụ án Lệ Chi Viên oan nghiệt, thảm khốc; nguyên quán ở làng Chi Ngại (làng Ngái), huyện Phượng Nhỡn (nay là huyện Chí Linh), Hải Dương; trước đó vài đời, một chi họ Nguyễn ở Chi Ngại đă dời về định cư tại làng Ngọc Ổi, huyện Thượng Phúc, Hà Đông (sau đổi thành làng Nhị Khê, xă Quốc Tuấn, huyện Thường Tín, Hà Tây); nay thuộc Hà Nội). Làng Nhị Khê là một làng quê nằm bên tả ngạn sông Tô Lịch phía Hà Nội chảy về, trù phú, thuần nông và có nhiều nghề thủ công đặc sắc.
Nguyễn Trăi xuất thân trong một ḍng tộc, nhiều đời là vơ quan cao cấp dưới nhiều triều đại.
Thân phụ là Nguyễn Ứng Long (1355-1428?)(1), sau đổi là Nguyễn Phi Khanh, vào năm 1400 lúc ra làm quan dưới triều Hồ Quư Ly lại không theo nghiệp vơ. Ông là con rể của Trần Nguyên Đán, từng đỗ Hoàng giáp (Đệ nhị giáp, có tài liệu ghi ông đỗ Đệ tam giáp, tức Thái học sinh) trong kỳ thi Đ́nh năm Giáp Dần (1374), niên hiệu Long Khánh thứ 2 triều Trần Duệ Tông (1373-1377), nhưng triều đ́nh không trọng dụng bổ chức quan, với lư do "con nhà thường dân mà lấy con gái hoàng tộc" như sử sách có ghi lại(2). Măi đến khi họ Hồ soán ngôi nhà Trần, th́ Nguyễn Ứng Long mới được Hồ Quư Ly ban chỉ dụ mời ra làm quan với chức Hàn lâm Học sĩ, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám(3). Mẹ là Trần Thị Thái (1349-1386), con thứ ba của Trần Nguyên Đán.
Năm 1400, Nguyễn Trăi đi thi Đ́nh, đỗ Thái học sinh khoa thi đầu tiên dưới triều nhà Hồ, năm sau được cử giữ chức Ngự sử đài Chánh chưởng(4). Năm 1407, giặc Minh xâm lược, cha con Hồ Quư Ly bị giặc bắt, nhiều quan lại nhà Hồ bị giết hoặc bị bắt đưa về giam ở Trung Quốc. Riêng Nguyễn Trăi trốn thoát. Theo Đại Việt sử kư toàn thư và theo Lịch triều hiến chương loại chí, mục Nhân vật chí th́ "Tổng binh Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng. Phụ biết ông không chịu ra làm, muốn giết đi, nhưng Thượng thư Hoàng Phúc thấy mặt mũi khác thường, tha cho và giam lỏng ở thành Đông Quan"(5). Sau đó ông trốn thoát và bắt đầu mười năm t́m đường cứu nước. Lúc này có hai cuộc khởi nghĩa chống Minh của nhà Hậu Trần do Trùng Quang đế và Giản Định đế lănh đạo, nhưng Nguyễn Trăi không theo, măi đến năm 1918, ông mới vào Lam Sơn pḥ giúp Lê Lợi. Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa, do lực yếu thế cô, có lúc đội quân khởi nghĩa bị giặc Minh đánh tan tác, mỗi người một nơi. Năm 1421, ông trở lại Lam Sơn lần 2, yết kiến B́nh Định vương tại Lỗi Giang, dâng B́nh Ngô sách, được Lê Lợi tin dùng, đối đăi vào hàng quân sư, cùng bàn bạc việc quân cơ. Nhờ tài thao lược, chiến lược "Tâm công" cùng tài ngoại giao, tài viết thư thảo hịch mà Nguyễn Trăi đă dùng ng̣i bút của ḿnh để dụ hàng quân giặc. Kháng chiến thành công, khi triều đ́nh định công ban thưởng, dù công lao vào bậc nhất, nhưng ông chỉ được ban quốc tính (họ Lê), phong tước Quan phục hầu, chức Thượng thư Bộ Lại, kiêm Nhập nội Hành khiển và trông coi Môn hạ sảnh, tức những chức quan đối nội, lo việc triều đ́nh, ở bậc hai, bậc ba trong hàng ngũ quan chức đời Lê. Nhưng sau đó không lâu bị Lê Thái Tổ nghi oan trong việc Đèo Cát Hăn nổi loạn đ̣i phiên trấn cát cứ, ông bị tù, c̣n những vị khai quốc công thần như Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hăn th́ bị bức tử. Khi được tha th́ ông bị mất gần hết chức tước, quốc tính. Gần cuối đời, có thể nói, Nguyễn Trăi gặp nhiều bi kịch, v́ thế mà ông xin về Côn Sơn làm bạn với với trăng thanh gió mát, vui thú với tùng với mai, thi thoảng mới về Thăng Long khi triều đ́nh có việc cần. Đến năm 1440, lúc này Lê Thái Tông đă trưởng thành, đă dẹp yên bè đảng Lê Sát, nhà vua triệu ông ra làm quan trở lại, dù lần này chức không cao, không to, nhưng Nguyễn Trăi vẫn hăm hở ra, chỉ v́ dân v́ nước và viết bài Tạ ân biểu nổi tiếng. Cũng v́ trở lại lần này mà sau đó ông cùng gia tộc bị cái án oan nghiệt Lệ Chi Viên thảm khốc vào tháng 9 năm 1442 !
Có thể nói trong cuộc đời, Nguyễn Trăi đă hai lần đứng trước sự lựa chọn. Lần đầu, lúc nhà Trần đang bước dần vào t́nh trạng khủng hoảng, trở thành thế lực bảo thủ, và Hồ Quư Ly là đại diện cho cái mới với những cải tổ tiến bộ. Cha con Nguyễn Trăi chấp nhận Hồ Quư Ly, dẫu biết rằng chính họ Hồ là kẻ cướp ngôi vua Trần, lại là người trước đó đă từng là kẻ thù của ḍng tộc họ nội ḿnh, mà khi tổng kết cuộc chiến, trong B́nh Ngô đại cáo, ông đă viết "Nhân họ Hồ chính sự phiền hà; Để trong nước ḷng dân oán hận", và trong thơ chữ Hán, có lần ông đă nêu suy nghiệm của ḿnh về sự tồn vong của lịch sử, triều đại mất là do không được ḷng dân, tuy vậy, ông vẫn có lời thơ trân trọng khi viết về Hồ Quư Ly, gọi họ Hồ là anh hùng: "Họa phúc hữu môi phi nhất nhật, Anh hùng di hận kỷ thiên niên" (Họa phúc đều có đầu mối, đâu phải một ngày, Anh hùng để lại mối hận đến mấy ngàn năm). Lần sau là việc t́m đường cứu nước, t́m chân chúa mà thờ. Ông đă không theo hai cuộc kháng chiến của nhà Hậu Trần (1407-1413) mà phải nghĩ suy cân nhắc, để sau đó mới đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vào năm 1418 do Lê Lợi chủ xướng, và trở thành vị khai quốc công thần số một của triều Lê sơ. Đây là sự lựa chọn đúng đắn, mang tinh thần rộng mở, mà chúng tôi sẽ có dịp trở lại ở phần sau.
Đồng thời, cuộc đời của Nguyễn Trăi có hai điểm lớn đáng chú ư: Một là, Nguyễn Trăi là một thiên tài, một anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài lỗi lạc và vĩ đại vào bậc nhất trong lịch sử trung đại Việt Nam. Hai là, ông cũng là người đă phải gánh chịu nhiều nỗi oan khiên, oan khuất, thảm khốc nhất do xă hội phong kiến gây ra đến mức hiếm có trong lịch sử dân tộc.
2. T́m hiểu cội nguồn của sự h́nh thành thiên tài Nguyễn Trăi có lẽ không ngoài những nhân tố sau:
- Ảnh hưởng từ ḍng họ với truyền thống cương trực, khảng khái, khí tiết cứng cỏi, đấu tranh chống lại cường quyền, bạo lực, chống cái xấu cái ác làm hại nước hại dân.
- Ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng, văn hoá và học thuật cùng nhân cách của ông ngoại, của cha, nhất là tư tưởng thân dân, chăm lo cho dân.
- Từng sống đời sống thanh bần, trong sạch giản dị ở Côn Sơn, ở Nhị Khê từ thuở thiếu thời, cũng như lúc cáo quan về Côn Sơn, sống gần gũi với nhân dân; đặc biệt là mười năm phiêu bạt t́m đường cứu nước nên ông thấu hiểu dân t́nh, đồng cảm những cảnh ngộ của nhân dân.
- Tiếp thu nhiều nguồn văn hóa tư tưởng: trong kinh sách Tam giáo, nhất là Nho giáo; từ truyền thống văn hóa tư tưởng nhân dân; từ tinh hoa văn hoá thời đại Lư - Trần; từ hiện thực thời đại lịch sử; từ thực tế trải nghiệm cuộc sống của bản thân rồi dung ḥa, nâng cao thành hệ tư tưởng của thời đại phục hưng dân tộc sau chiến thắng giặc Minh. Tư tưởng của Nguyễn Trăi cũng chính là tư tưởng tiêu biểu cho tư tưởng Đại Việt ở nửa đầu thế kỷ XV. V́ thế, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trăi, tuy khái niệm này là của Nho gia nhưng quan niệm của ông có khác chút ít so với Khổng Mạnh, và hoàn toàn khác xa với Tống Nho, tư tưởng đó mang tinh thần thân dân, v́ dân. Theo ông, yêu nước chính là yêu dân, thể hiện khát vọng xây dựng đất nước ḥa b́nh, phát triển, nhân dân được ấm no, hạnh phúc, muốn "yên dân", th́ phải "trừ bạo".
3. Thế th́ Nguyễn Trăi đă tiếp thu và thừa hưởng những ǵ từ tinh hoa văn hóa - tư tưởng của thời đại Lư - Trần ?
Thời đại Lư - Trần kéo dài suốt gần 5 thế kỷ, trải qua các triều đại: Ngô (939 - 965), Đinh (968 - 980), Tiền Lê (981-1009), Lư (1009 - 1225), Trần (1225 - 1400), Hồ (1400 - 1407), Hậu Trần (1407 - 1413), trong đó hai triều đại Lư và Trần là lâu dài nhất, tiêu biểu nhất, h́nh thành nền văn hóa Thăng Long ngời sáng. Đặc trưng của thời đại này mang ba nét cơ bản sau: Một là, thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thống nhất cộng đồng. Hai là, thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước. Ba là, thời đại khoan giản, an lạc, nhân thứ, rộng mở và dân chủ(6). Nhờ phát triển kinh tế và phục hưng văn hóa mà thời đại này, nhân dân ta đă có một đời sống vật chất tương đối no đủ, một đời sống tinh thần tương đối dễ chịu, trong không khí dân chủ và rộng mở. GS. Đặng Thai Mai đă đúc kết tinh thần của thời đại ấy với nét tiêu biểu là "tích cực", "vui vẻ", "dễ chịu", "gần gũi với nhau", "cởi mở và phong phú", "rộng răi và sâu sắc"(7); C̣n GS. Lê Trí Viễn th́ nói thời đại ấy "giàu chất dân chủ và chất rộng mở"(8). Tinh thần thời đại ấy đă tạo nên nền văn hóa Thăng Long có một không hai trong lịch sử dân tộc, mà chủ thể trung tâm của thời đại này là những con người tự tin, hào hùng, dũng lỉệt, phóng khoáng, trong sáng, nhân ái, độ lượng và khoan dung. Thời đại này đă sản sinh những con người, rất đẹp, rất đáng kính về nhân cách mà rất khó có thể gặp lại những mẫu h́nh con người như thế ở các giai đoạn lịch sử tiếp theo. Có được tinh thần thời đại và mẫu h́nh những nhân cách tuyệt vời như trên là nhờ ḷng yêu nước, yêu con người, nhờ bản lĩnh kiên cường cùng ư thức độc lập tự cường của dân tộc. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Một nhân tố quan trọng khác để làm nên chất Đại Việt của văn hóa Thăng Long c̣n là nhờ ảnh hưởng tư tưởng từ bi, thấm đẫm tính nhân văn của nhà Phật. Chính giáo lư nhân từ của Phật giáo đă cảm hóa và ảnh hưởng đến xă hội, phong hóa, chính trị của thời đại, nên học giả Hoàng Xuân Hăn đă gọi "đó là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta"(9). Để sau này, Nguyễn Trăi đă tiếp thu, thừa hưởng và cải biến nâng cao, trở thành đỉnh điểm của văn hóa Đại Việt hồi đầu thế kỷ XV.
4. Tư tưởng và văn chương Nguyễn Trăi là sự hội tụ những tinh hoa của văn hóa Thăng Long thời Lư - Trần rồi phát triển, nâng cao
4.1 Nguyễn Trăi không chỉ chịu ảnh hưởng từ truyền thống của ḍng họ, gia đ́nh; được tiếp thu một nền giáo dục có hệ thống và uyên bác cùng tư tưởng thân dân của ông ngoại và cha; từng sống một đời sống thanh bạch, giản dị, gần gũi nhân dân, thấu hiểu dân t́nh, mà ông c̣n thừa hưởng những truyền thống quư giá và cao đẹp của lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, c̣n nếu tính từ ngày đất nước giành lại độc lập sau hơn ngh́n năm Bắc thuộc, th́ Nguyễn Trăi là sự kết tinh những tinh hoa của thời đại, mà hai triều Lư và Trần là tiêu biểu. Hai triều đại này đă tạo nên một nền văn hóa Thăng Long rực rỡ, thể hiện một tính chất chung: CHẤT ĐẠI VIỆT(10). Ở đó, hai trục tư tưởng chính của thời đại, có truyền thống từ xa xưa của dân tộc là tư tưởng yêu nước và tư tưởng nhân đạo được biểu hiện rơ nét nhất. Hai tư tưởng này phát triển theo tiến tŕnh của lịch sử dựa trên hai cốt lơi vững chắc là tinh thần dân chủ và tinh thần rộng mở. Tư tưởng Nguyễn Trăi, văn chương Nguyễn Trăi, nhất là tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập đă thể hiện rất rơ tính chất Đại Việt với tinh thần dân chủ và rộng mở ấy của thời đại Lư - Trần. Ông đúng là sự kết tinh những ǵ đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất, tinh hoa nhất của thời đại đó, có sự kết hợp với thực tiễn đất nước hồi đầu thế kỷ XV.
Tinh thần dân chủ trong tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trăi, cụ thể là quan niệm về dân, tư tưởng thân dân được nhà tư tưởng, nhà văn hóa Nguyễn Trăi bàn bạc sâu và kỹ trong nhiều tác phẩm thuộc loại chính luận và trữ t́nh như Quân trung từ mệnh tập, B́nh Ngô đại cáo, Chí Linh sơn phú, Lam Sơn thực lục (11), Băng Hồ di sự lục, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập nhưng ở Ức Trai thi tập th́ được Nguyễn Trăi thể hiện rơ nhất, đầy đủ nhất và sâu kỹ nhất. Ông từng so sánh vua là thuyền, dân là nước như trong bài chiếu răn Thái tử. Đẩy thuyền, làm lật thuyền là dân, dân có sức mạnh như nước: "Tải chu, phúc chu giả, dân dă và Phúc chu, thủy tín, dân do thủy". Bài Quan hải, Nguyễn Trăi c̣n phát biểu quan niệm này nhưng có khác hơn. Bài thơ là sự suy nghiệm của ông về lịch sử, về sự sụp đổ của một triều đại để t́m ra nguyên nhân cơ bản của thảm họa mất nước là do triều đại đó không được ḷng dân. Nhờ suy nghiệm này mà người đọc hôm nay hiểu rơ hơn v́ sao cha con Nguyễn Trăi có quan hệ với hoàng tộc nhà Trần, lại ra làm quan cho nhà Hồ mà nhà Hồ là triều đại soán ngôi nhà Trần, làm cho ḷng dân oán thán, và chính Hồ Quư Ly là người từng truy sát ông cố và ông nội cùng hai người bác ruột của Nguyễn Trăi, trong sự kiện khi các vị này đứng về phe Thái úy Trang Định vương Trần Ngạc và Thẩm h́nh viện sự Lê Á Phu chống lại Hồ Quư Ly, lúc họ Hồ đang là Tể tướng, kiêm Phụ chính đại thần cuối triều nhà Trần, có ư chuyên quyền. Rồi nhà Hồ mất, nước mất theo, cha bị bắt, ông nghe lời cha trở về t́m cách rửa nhục cho nước, báo thù cho cha. Nguyễn Trăi dù là cháu chắt bên họ ngoại của nhà Trần, nhưng ông không tham gia hai cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh do tôn thất nhà Trần lănh đạo. Để rồi, sau mười năm phiêu bạt, cuối cùng ông t́m đến Lam Sơn tham gia khởi nghĩa, tôn pḥ minh chủ Lê Lợi, và trở thành vị khai quốc công thần số một của triều Lê sơ. Việc này không chỉ là sự thể hiện tính dân chủ mà c̣n bộc lộ tính rộng mở nữa trong tư tưởng của Ức Trai tiên sinh. Theo Nguyễn Trăi, dân có sức mạnh vô địch và vô tận. Dân mạnh th́ nước c̣n, nước phát triển; dân yếu th́ nước yếu, có khi nước mất; không có dân th́ không có nước.
Băng Hồ di sự lục tuy là bài kư rất cảm động viết về ông ngoại kính yêu, nhưng qua đó có thể thấy Nguyễn Trăi đă kế thừa truyền thống gia đ́nh cùng tiếp thu tư tưởng thân dân, tấm ḷng ưu ái v́ nước v́ dân của ông ngoại.
Trong Ức Trai thi tập, Nguyễn Trăi nói nhiều về quân thân, ưu ái, tiên ưu hậu lạc, thốn tâm đan, thương sinh tại niệm có đến 21 lần trên 105 bài thơ chữ Hán(12). Tuy đó là lư thuyết của Nho gia với cương thường, trung hiếu, quân thân nhưng ông đă gộp hai đối tượng vua (nước) và dân trong một t́nh cảm chung là niềm ưu ái và thể hiện bằng một thái độ trách nhiệm cao đối với dân: tiên ưu.
Trong Quốc âm thi tập, nhiều câu thơ được tác giả nhắc lại như một điệp khúc ở nhiều đề mục với các từ như trung hiếu, quân thân, ơn chúa cha; thi thoảng, nhà thơ viết việc nước, ưu ái, ích dân, ḷng dân; có khi trừu tượng hơn là tấc son, chí cũ v.v… Tất cả đều cùng một nội dung với những ǵ mà Nguyễn Trăi đă viết trong Ức Trai thi tập.
Nói chung, đó là tấm ḷng tha thiết sâu nặng của ông đối với quê hương, đất nước, nhân dân. Những bài thơ viết trong thời gian mười năm phiêu bạt t́m đường cứu nước như Loạn hậu cảm tác, Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, Quy Côn Sơn chu trung tác, Hải khẩu dạ bạc, Kư cữu Dịch (Dị) Trai Trần công, Thanh minh, Quan hải, Thính vũ, Thần Phù hải khẩu, Thu dạ khách cảm, Tặng hữu nhân v.v… là những bài thơ ăm ắp một nỗi niềm sâu nặng đối với nhân dân, đối với quê hương. Chẳng hạn, Loạn hậu cảm tác là sự đau thương của nhà thơ đối với nhân dân bị giặc ngoại xâm giày xéo; là niềm bi thiết cho thân phận ḿnh muốn cứu nước cứu dân nhưng bất lực. Hải khẩu dạ bạc nhắc đến việc chưa báo ơn nước, đành ôm gối lạnh thao thức suốt năm canh. Lưu ư là trong hệ thống khái niệm của phong kiến, quốc ân tức ơn nước cũng chính là quân ân tức ơn vua. Theo ông, mệnh đề trung quân ái quốc của Nho gia chính là ái dân. Trung với vua chính là yêu nước, mà yêu nước đồng nghĩa với yêu dân, v́ "quốc dĩ dân vi bản" (nước lấy dân làm gốc), hay "dân vi bang bản" (dân là gốc của nước). Như vậy, trung với vua thống nhất với yêu nước, thương dân. Vua - nước - dân là một. Đó cũng là niềm thương xót sinh linh vạn tính, thương sinh tại niệm, thương cảm bà con khốn khó nơi quê nhà, thương nhớ bè bạn, nhớ mồ mả cha ông không người sửa sang hương khói, nhớ quê, nhớ bà con ai mất ai c̣n trước ngọn giáo làn tên lưỡi gươm của quân xâm lược trong những tháng năm bị giặc chiếm đóng. Cho nên nỗi niềm yêu nước thương dân là tâm sự thường trực trong tâm hồn Nguyễn Trăi, là niềm thao thức khôn nguôi trong thơ văn của ông.
Những bài thơ viết lúc kháng chiến mới thành công như Hạ tiệp cũng thể hiện tinh thần dân chủ, luôn luôn chăm lo cho dân. Những bài thơ này dù ít nhiều mang tính thù phụng thù tạc, nhưng vẫn thể hiện niềm vui mừng của tác giả đối với đất nước được thái b́nh, nhân dân rồi đây sẽ được ấm no hạnh phúc, sống trong cảnh ḥa b́nh, đầy t́nh thân ái.
Những bài thơ viết khi không c̣n điều kiện để thi thố tài năng, thực hiện hoài băo như Ngẫu thành, Tức cảnh, Mạn hứng cũng mang nặng nỗi niềm dân nước. Bài Ngẫu thành tả cảnh sống nhàn nhă của một ông quan lạnh, nhà cửa im ỉm, không ngựa xe, không người qua lại. Nhà thơ phải đốt gỗ bách cho khói lan toả khắp nhà. Lạnh là do nhà vắng hay v́ tấm ḷng Ức Trai đă nguội lạnh với công danh ? Vậy mà mở đầu bài thơ lại là nỗi vui mừng ! Vui hay buồn ? Kỳ thực bên trong là nỗi đau xót khôn nguôi của một người luôn nghĩ đến dân đến nước mà không làm ǵ được cho dân cho nước. Hai bài Tức cảnh và Mạn hứng cũng vậy. Nhà thơ nói nhiều về "thương sinh tại niệm", "Quân thân tại niệm độc tiên ưu". Phải chăng, giữa chốn triều quan, chỉ mỗi Nguyễn Trăi là người cô độc? là ông quan hay là ẩn sĩ? "Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải" như trong thơ Nôm, ông đă từng viết?
Bên cạnh tinh thần dân chủ, trong thơ Nguyễn Trăi c̣n bộc lộ tinh thần rộng mở. Tinh thần này thể hiện ở vấn đề quan niệm về cái lẽ xuất - xử, hành - tàng của nhà thơ. Dường như chuyện xuất hay nhập của Nguyễn Trăi có điều ǵ đó c̣n vướng mắc trong suy nghĩ của ông, nó không dứt khoát như một số nhân sĩ khác trước ông như Chu Văn An hoặc sau ông như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là sự linh hoạt mềm dẻo trong sự chọn lựa t́m hướng đi sao cho đúng, miễn là hướng đi ấy có ích cho dân cho nước. Ông là con cháu của nhà Trần, lại ra làm quan cho nhà Hồ, nhà Hồ mất, ông không theo hai vua nhà hậu Trần kháng chiến mà lại phiêu bạt, cuối cùng lại ra giúp Lê Lợi, như trên có nói. Sự lựa chọn này hẳn có lư do riêng, nhưng cũng đủ thấy tinh thần rộng mở trong suy nghĩ của ông. Tinh thần rộng mở này có cái gốc vững chắc để ông làm chỗ dựa là về mặt chính trị, có thể ông nghĩ họ nào làm vua cũng được, ai là người lo cho nước cho dân, thật sự v́ nước v́ dân th́ ông khuông pḥ, tin theo.
Tinh thần rộng mở c̣n thể hiện ở chỗ v́ nhân dân hai nước, v́ t́nh hoà hiếu đôi bên, và cũng v́ nghĩ đến cái kế sâu rễ bền gốc lâu dài mà Nguyễn Trăi đă khuyên chủ tướng Lê Lợi không tấn công thành Đông Quan trong khi giặc đang núng thế, để tránh cái cảnh máu đổ đầu rơi mà trái lại khuyên giặc ra hàng; hơn thế c̣n tha tội chết, cấp phương tiện và lương thực cho chúng rút quân về nước một cách an toàn tuyệt đối. Thật đúng là mưu kế kỳ diệu, cũng là hiếm thấy xưa nay như Nguyễn Trăi đă tổng kết trong B́nh Ngô đại cáo. Đó là nhân nghĩa! Đây đúng là sự kết tinh văn hoá tư tưởng của dân tộc suốt gần năm trăm năm thời Lư - Trần, dựa trên cái cốt lơi dân tộc vững chắc, bên cạnh tiếp thu những yếu tố tư tưởng tích cực của Nho của Phật, mà những yếu tố này phù hợp với ḿnh, có lợi cho ḿnh rồi ông biết nâng cao lên chót vót sáng rỡ.
Nguyễn Trăi là nhà Nho nhưng trong thơ văn của ông không chỉ nói tiếng nói của Nho gia mà c̣n có cả tư tưởng của Phật và Lăo - Trang. H́nh ảnh nhà quan thanh vắng giống như cảnh nhà chùa, và người chủ nhà có tấm ḷng trong veo sự đời, chẳng khác nào cái tâm thanh tịnh của nhà sư (Tiêu nhiên hoạn huống tự tăng gia - Mạn hứng 5). Lên chơi chùa Tiên Du mà ḷng ngộ đạo Thiền, cái tâm đốn ngộ vô ngôn (Tiên Du tự). Bạn cũ đến Côn Sơn thăm, thức trắng đêm tâm sự, hôm sau tiễn bạn về núi th́ ông nghĩ rồi ta cũng theo đạo Thượng thừa Thiền thôi (Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn). Đến Bảo Phúc đề thơ, cho rằng chốn ấy thật đáng cho ta ẩn. Lời kêu gọi về đi, sao không về trong Côn Sơn ca, mang cả tinh thần dung hợp tam giáo. Ở đây, cái hành và tàng của Nho gia có khi bị động, cứng nhắc th́ đă có cái nhập mà xuất, xuất mà nhập uyển chuyển của Phật, của Đạo (Lăo - Trang) bồi bổ thêm, bổ sung thêm cho tư tưởng của ông. Cái u tịch của Phật cùng cái thanh khiết của Đạo đă ḥa trộn, làm cho tư tưởng ông có sự hài ḥa, thăng bằng, mềm dẻo. Nguyễn Trăi là người giữ vững sự thăng bằng ấy với một bản lĩnh siêu việt, phi thường: vững chắc mà thanh cao, yêu nước thương dân là trên hết. Đây cũng chính là mẫu người, là tinh thần của nhà vua - Thiền sư Trần Thái Tông trong Thiền tông chỉ nam ca (hiện chỉ c̣n bài Tựa), trong Khóa hư lục mà Nguyễn Trăi đă tiếp thu và kế thừa.
Tinh thần rộng mở, dân chủ của thời đại Lư - Trần, thời đại phục hưng mọi giá trị văn hóa tinh thần truyền thống sau hơn ngàn năm lệ thuộc phương Bắc, do nhiều nguyên nhân, Nguyễn Trăi đă tiếp thu, thấm nhuần được tinh thần đó của thời đại một cách sâu sắc, rồi phát huy rực sáng trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và trong cả thời b́nh lúc dựng xây đất nước hồi đầu thế kỷ XV. Nguyễn Trăi đă từng tâu với vua Lê Thái Tông: "Kể ra, thời loạn dùng vơ, thời b́nh dùng văn. Ngày nay, đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc th́ không thể đứng vững, không có văn th́ không thể lưu hành. Hoà b́nh là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu làm nhạc, không dám không hết ḷng hết sức, nhưng v́ học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật khó được hài ḥa. Xin bệ hạ rủ ḷng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho các nơi làng mạc, thôn cùng xóm vắng không c̣n một tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cái cỗi gốc của nhạc vậy"(13). Nói về âm nhạc mà Nguyễn Trăi đă nêu lên mối quan hệ giữa "gốc" và "văn", giữa "ḥa b́nh" và "thanh âm", tức mối liên hệ giữa nội dung và h́nh thức của nghệ thuật, mà mối liên hệ này gắn bó chặt chẽ với hiện thực đời sống nhân dân. V́ thế, lời tâu ấy càng thể hiện sâu đậm tấm ḷng ưu ái rừng rực "Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông" với dân với nước của Ức Trai tiên sinh !
Cũng cần lưu ư là, từ cuối thế kỷ XIV, trong nội bộ ḍng họ, gia tộc của Nguyễn Trăi đă có sự nhận thức khác nhau về lịch sử, về lẽ sống. Ông cố và ông nội theo Thái uư Trang Định vương Trần Ngạc chống lại Hồ Quư Ly, thất bại nên bị họ Hồ sát hại, vạ lây cả gia tộc. Cha con ông lại theo Trần Nguyên Đán, có thái độ ứng xử mềm dẻo hơn nên được bảo toàn cả gia đ́nh. Sau hai cha con lại làm quan cho nhà Hồ. Dù đi theo người nào chăng nữa th́ cuối cùng, tất cả cũng đều xuất phát từ ḷng yêu nước thương dân, v́ dân, lo cho dân, thân dân, nhưng cách thức thể hiện mỗi người một khác. Đó cũng là một biểu hiện của tinh thần rộng mở.
Trong bước ngoặt của lịch sử, Nguyễn Trăi đă tỉnh táo t́m ra lẽ phải, t́m ra hướng đi đúng, lẽ sống đúng. Nguyễn Trăi trở thành vĩ nhân, là người kết tinh kiệt xuất những giá trị tinh hoa văn hóa, tư tưởng, văn học của 5 thế kỷ rồi nâng cao lên một tầm mới. Dường như những giá trị tinh túy nhất của thời đại lịch sử đă hội tụ nơi ông, v́ ông hiểu rơ và nắm chắc quy luật vận động của lịch sử, kết hợp sự tự vận động bản thân ḿnh trong cuộc sống, biết đi t́m lẽ sống đúng, biết tự đổi mới theo hướng đi lên để xây dựng một cuộc sống cho dân cho nước tốt đẹp hơn, bằng một hành động: lo nước thương dân. Điều đó c̣n lư giải tại sao một người cháu mang ḍng dơi nhà Trần lại ra làm quan cho nhà Hồ, mà nhà Hồ là người đă giết hai ông cố và họ nội của ḿnh! Họ Hồ mất, đất nước mất, ông lại theo Lê chiến đấu để giải phóng quê hương, đem lại tự do thái b́nh cho nhân dân. Thời nhà Hồ, những chức quan được giao cho hai cha con ít nhiều cũng góp phần đào tạo những con người trí thức để sau đó chung sức dựng xây sự nghiệp đại phục hưng của dân tộc Đại Việt sau ngày chiến thắng giặc Minh xâm lược, mà sự nghiệp phục hưng này, thời Lư - Trần đă đặt nền tảng. Trong những đại trí thức của thời đại th́ Nguyễn Trăi là mẫu h́nh trí thức tiêu biểu nhất, sáng chói nhất, vĩ đại nhất, tinh hoa nhất của thời đại đó.
4.2 Về văn chương, trước hết, Nguyễn Trăi là con cháu nhà Trần, trên phương diện văn hóa tư tưởng và văn học, ông đă chịu ảnh hưởng có thể nói là sâu đậm nơi ông ngoại, nơi cha, lại kế thừa được những thành tựu rực rỡ của mấy trăm năm văn học Lư - Trần.
Ở văn chính luận, thời Lư - Trần, loại văn chính luận, nhất là thể văn bang giao thư tín nhằm đấu tranh ngoại giao với phương Bắc trong cuộc đấu trí gay go và căng thẳng, ta đă có thành tựu đáng kể, chẳng hạn những bức thư của các vua nhà Trần gởi cho nhà Nguyên Mông. V́ thế mà trong phong cách văn chính luận của ông mềm mại mà sắc nhọn, nhẹ nhàng mà đanh thép, lập luận chặt chẽ, lời lẽ hùng hồn, lịch sự nhún nhường mà có khí thế áp đảo đối phương, tư thế đứng ở tầm cao, trên kẻ thù. Nhưng không chỉ kế thừa mà văn chính luận của ông c̣n vượt lên trên, đánh dấu một bước tiến mới vững vàng và sáng tạo. Chẳng hạn, ở những bức thư trong Quân trung từ mệnh đó là sự nhất quán có tính hệ thống trong tư tưởng, trong kết cấu lô gíc, trong cách biện luận trực tiếp với đối phương, là sự vận dụng thành công và tuyệt vời binh pháp "biết người biết ta, trăm trận trăm thắng" nên tùy từng đối tượng nhận thư mà ông có cách nói riêng, viết riêng. Tất cả đều xuất phát từ tư tưởng nhân nghĩa. Ở B́nh Ngô đại cáo lại là một bước phát triển mới trong sáng tạo h́nh tượng và trong tŕnh độ tổng kết lịch sử, dù trước đó ta đă có Chiếu dời đô của Lư Thái Tổ, có Phạt Tống lộ bố văn của Lư Thường Kiệt và Dụ chư tỳ tướng hịch văn của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Cái mới ở đây là Nguyễn Trăi đă tổng kết sự vận động phát triển đi lên của lịch sử nước nhà. Bài văn không dài, nhưng những diễn biến lịch sử phức tạp trong 21 năm của đất nước bị ngoại bang thôn tính và cai trị, được ông đúc kết đầy đủ, tài t́nh, rất thuyết phục, mà người đời sau khen là Thiên cổ hùng văn (lời của Vũ Khâm Lân, nửa đầu thế kỷ XVIII, trong sách Đại Việt sử loại tiệp lục). Đặc biệt, sự tổng kết này c̣n cao hơn, ở chỗ đạt đến một ư nghĩa có tính khái quát lớn về quy luật lịch sử cả ngàn năm với những truyền thống cao quư của dân tộc: văn hiến, cương vực lănh thổ, phong tục, b́nh đẳng và độc lập, chống ngoại xâm oai hùng, nhân nghĩa, khát vọng hoà b́nh v.v…
Ở tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập hiện c̣n 107 bài(14), chủ yếu là thơ cách luật và đa phần là thất ngôn bát cú. Con số thống kê sau về thể loại:
+ Ca: viết theo thể trường đoản cú, chỉ có 01 bài là Côn Sơn ca.
+ Hành: chỉ có 01 bài là Đề Hoàng Ngự sử mai tuyết hiên
+ Ngũ ngôn bát cú: 05 bài , đó là Du sơn tự, Giang hành, Thính vũ, Tặng hữu nhân, Dục Thúy sơn.
+ Thất ngôn tứ tuyệt: 11 bài, đó là Đề Bá Nha cổ cầm đồ, Mộng sơn trung, Đề Vân Oa, Ngẫu thành, Trại đầu xuân độ, Mộ xuân tức sự, Thôn xá thu châm, Văn lập, Đề sơn điểu hô nhân đồ, Đề Đông Sơn tự, Phúc đáp Đại Đô đốc Đinh công.
+ Thất ngôn bát cú: những bài c̣n lại tất cả là 72 bài.
+ 17 bài tồn nghi, trong đó có 05 bài thất ngôn tứ tuyệt, 12 bài thất ngôn bát cú.
Như vậy về h́nh thức thể loại, ngoại trừ hai bài Côn Sơn ca và Đề Hoàng Ngự sử mai tuyết hiên theo cổ phong, để dễ thể hiện tư tưởng, t́nh cảm phóng khoáng, hào mại th́ c̣n lại, thơ chữ Hán của Nguyễn Trăi thường dùng thể thơ cách luật và đă tuân thủ những yêu cầu nghiêm ngặt, có tính quy phạm của thể loại.
Ở lĩnh vực thơ, thơ chữ Hán đời Trần, đặc biệt là thơ cách luật đă đạt đỉnh cao, là giai đoạn thơ hay nhất trong lịch sử thơ chữ Hán của nước ta như Lê Quư Đôn đă nhận xét. Ấy vậy mà ông đă tiếp thu thành tựu đa dạng của nền thơ ấy để nâng lên thành đỉnh cao của thơ ca thế kỷ XV. Qua thơ, người đọc hôm nay mới thấu hiểu tâm hồn ông: nhân ái, phong phú, tinh tế, phóng khoáng, sáng tạo, tài hoa, trong sáng, giản dị. Điều này chắc chắn ông đă kế thừa hồn thơ của ông ngoại của cha đậm tính hiện thực và sáng ngời tư tưởng thân dân. Và điều đó cũng để lư giải tại sao, ông sinh ra và lớn lên vào cuối thời văn Trần, nhưng phong thái và phong cách thơ ông có nét gần gũi với thơ ca thời thịnh Trần. Thơ ông hội tụ vẻ đẹp lấp lánh của thơ ca năm thế kỷ, nhưng có phần vượt lên trên. Nguyễn Trăi đúng là tinh hoa của nhiều thế kỷ dồn tụ lại. Tư tưởng của ông và thơ văn ông có nét hào hùng của Lư Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải; có chất minh triết thanh thoát và hồn nhiên của thơ Thiền; có niềm lo đời u hoài man mác của Chu Văn An; có cái ung dung khoáng đạt hào sảng của Trần Quang Khải; có nét trữ t́nh bay bướm, phóng khoáng cùng thiền vị sâu lắng của Huyền Quang; có tấm ḷng yêu cuộc sống, yêu nhân dân của Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, có t́nh cảm nồng hậu với cuộc đời, ấm áp với nhân dân của Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh; và có chút chán chường mà thanh thoát đáng ưa của thơ ca Bích Động thi xă (Trần Quang Triều, Nguyễn Sưởng, Nguyễn Ức), cùng có chút niềm bi tráng của Đặng Dung.
Dù là thơ chữ Hán nhưng ngôn ngữ trong thơ ông trong sáng, giản dị, tinh tế dễ hiểu, kín đáo mà trầm lắng, đậm chất suy tư, trăn trở, phù hợp với những ưu tư của ông về dân về nước. Ông ít dùng điển cố điển tích, nếu có th́ những điển ấy cũng không đến nỗi cầu kỳ, rắc rối khó hiểu. Người đọc có thể chưa thông hiểu hết điển nhưng vẫn có thể hiểu được ư chính của câu thơ, bài thơ.
Có thể thấy, thơ chữ Hán của Ức Trai không vụ hào nhoáng, không cầu kỳ gọt giũa câu chữ, không g̣ bó, không gieo vần hiểm hóc, ít dụng công thôi xao và kỹ xảo nhưng vẫn giữ được tính cao quư, trang nhă, ư tại ngôn ngoại của thơ cách luật mà văn học cổ điển đ̣i hỏi như là một tiêu chí, thể hiện đặc trưng của nó. Nói chung, bút pháp của ông thanh thoát, thể hiện cảm xúc tinh tế trước cảnh vật với liên tưởng có khi bất ngờ thú vị.
Quốc âm thi tập hiện c̣n 254 bài. Đây là tập thơ Nôm cổ nhất hiện c̣n và là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc ta. Rất tiếc là thơ Nôm của Nguyễn Thuyên, của Chu An, của Hồ Quư Ly… do binh lửa, thiên tai hiện không c̣n. Chỉ c̣n lại mấy tác phẩm Nôm lẻ của vài tác giả Lư - Trần: một bài Giáo tṛ tương truyền của Từ Đạo Hạnh?; một bài phú Cư trần lạc đạo và một bài ca Đắc thú lâm tuyền thành đạo của Trần Nhân Tông; một bài phú Vịnh Vân Yên tự của Huyền Quang; một bài Giáo tử phú tương truyền của Mạc Đĩnh Chi?; một bài thơ 4 câu đầy t́nh tứ tương truyền của Điểm Bích?; một bài thơ Cầu siêu Nguyễn Biểu tương truyền của vị sư chùa Yên Quốc xứ Nghệ?; và nếu danh y Nguyễn Bá Tĩnh tức Tuệ Tĩnh thiền sư là người sống vào thời văn Trần (nửa cuối thế kỷ XIV) th́ ta có thêm hai bài phú Nôm nữa, đó là Nam dược Quốc ngữ phú và Trực giải chỉ Nam dược tính phú. Thật quá ít ỏi, nên tập thơ Nôm của Ức Trai đáng quư biết bao ! Nếu so sánh với thơ Nôm thời Hồng Đức cuối thế kỷ XV th́ vẫn là tiếng Việt đấy nhưng nặng tính cung đ́nh và bác học, chứ không trong sáng, nhuần nhị, tinh tế và tự nhiên như thơ Nôm của Nguyễn Trăi đă có trước đó mấy chục năm. Ông dám đem tiếng Việt dân dă, mộc mạc, thông tục cùng những h́nh ảnh cảnh vật đời thường vào thơ ca như: bà ngựa, chú vằn, bè muống, lănh mồng tơi, bụi chuối, núc nát, c̣ que, ruột ốc, niềng niễng, đ̣ng đ̣ng, lúc nhúc, trái ḥe, ngặt… thật hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ bác học của thơ chữ Hán. Ông c̣n dám cách tân thơ luật Đường, rời bỏ niêm luật ngặt nghèo, câu thúc câu chữ của thơ cách luật, để thay vào đó là thơ 6 tiếng, hay 6 tiếng xen 7 tiếng và đặt chúng ở nhiều vị trí khác nhau trong bài, mà vẫn không đánh mất yêu cầu đối, niêm của thơ cách luật. Theo thống kê của Nguyễn Huệ Chi và Hoàng Trung Thông th́ ở Quốc âm thi tập trong 159 bài bát cú có 391 câu thơ 6 tiếng (ḍng 1 có 50 câu; ḍng 2 có 43 câu; ḍng 3 có 56 câu; ḍng 4 có 56 câu; ḍng 5 có 54 câu; ḍng 6 có 54 câu; ḍng 7 có 37 câu; ḍng 8 có 41 câu), và trong 25 bài tứ tuyệt có 35 câu 6 tiếng (ḍng 1 có 08 câu; ḍng 2 có 09 câu; ḍng 3 có 08 câu; ḍng 4 có 10 câu). Tổng cộng có 184 bài thơ thất ngôn xen lục ngôn với 426 câu lục ngôn(15). Trong khi đó theo Phạm Thị Phương Thái trong luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trăi, th́ có 186 bài thơ thất ngôn xen lục ngôn, trong đó có 437 câu lục ngôn ở các vị trí không cố định(16). Chúng tôi đă thử kiểm tra lại và nhận thấy con số thống kê trong công tŕnh của Phạm Thị Phương Thái là chính xác. Thống kê trên cho thấy ở thơ bát cú các cặp thực và luận buộc phải đối nhau th́ Nguyễn Trăi vẫn tuân thủ theo yêu cầu của thể loại, dù có khi mỗi câu chỉ 6 tiếng. Điều muốn lưu ư là trong thơ Nôm, Nguyễn Trăi đă mạnh dạn đưa nhịp 3 vốn là nhịp trong thơ song thất của ta vào thơ cách luật, mà dạng nhịp này duy nhất trước đó Trần Thánh Tông đă có một lần thể nghiệm thành công ở bài thơ chữ Hán Hạnh Thiên Trường hành cung mà Hồ Nguyên Trừng đă hết lời ngợi ca bài thơ này trong Nam Ông mộng lục(17), chẳng hạn như bài Ngôn chí số 21 (Dấu người đi/ la đá ṃn; Cửa song giăi/ xâm hơi nắng; Tiếng vượn kêu/ vang núi non) và Ngôn chí số 15 (Vừa sáu mươi/ dư tám chín thu) hay bài Tự thán số 76 (Rượu đối cầm/ đâm thơ một thủ, Ta cùng bóng/ mây nguyệt ba người). Ông c̣n thay thế chữ Hán bằng chữ Nôm tiếng Việt tương đương như Tam kính cúc bằng Ba đường cúc; hành chỉ bằng đi nghỉ; quyền môn bằng cửa quyền; phù vân bằng mây nổi; hồng quần bằng quần đỏ. Trong thơ Nôm, Nguyễn Trăi c̣n đưa ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào thơ với thành tựu mới, ví dụ như Bảo kính cảnh giới 48 (Ở bầu th́ dáng ắt nên tṛn; Đen gần mực, đỏ gần son).
Ở đây, Nguyễn Trăi đă kế thừa và vận dụng thơ luật của Trung Hoa để sáng tác bằng chữ Nôm thể hiện tiếng nói của dân tộc. Cái đáng quư và cũng là đóng góp to lớn của Nguyễn Trăi ở chỗ là ông đă dũng cảm vượt thoát thơ cách luật để sáng tạo ra một thể loại mới: dùng câu thơ lục ngôn xen với câu thơ thất ngôn để tạo ra thể thất ngôn xen lục ngôn, với những câu thơ lục ngôn ở nhiều vị trí khác nhau, như trên đă thống kê. Thi thoảng, ông c̣n dùng nhịp lẻ trong thơ Đường luật bát cú. Đây là nhịp đặc thù của thơ song thất lục bát Việt Nam trong cặp song thất, mà ở trước đă nói. Ông c̣n mạnh dạn đưa vào thơ cách luật (vốn là thể thơ mang tính bác học và cao quư) những từ ngữ đời thường, những h́nh ảnh dung dị của cuộc sống vào thơ Nôm, v́ thế ở góc độ thi pháp, có thể thấy Nguyễn Trăi là nhà thơ đầu tiên cắm cái mốc phá vỡ tính quy phạm, khuôn thước của thơ cách luật để thổi vào đó cái hồn dân tộc.
H́nh ảnh thiên nhiên trong bút pháp thơ Nôm của Nguyễn Trăi có nét khác với thơ chữ Hán. Đó là sự trong sáng, giản dị, tinh tế, dạt dào cảm xúc, tràn trề thi hứng, với những liên tưởng bay bổng bất ngờ, biểu hiện qua một ngôn ngữ mộc mạc dân dă, đậm tính dân tộc.
Ông xứng đáng được tôn vinh là người đặt nền cho văn học thời đại khai sáng, mở đầu cho nền thơ cổ điển Việt Nam.
5. Tóm lại, muốn hiểu tư tưởng - văn chương Nguyễn Trăi, muốn lư giải đến ngọn nguồn về thiên tài Nguyễn Trăi, danh nhân văn hóa Nguyễn Trăi th́ phải đặt Nguyễn Trăi trong tiến tŕnh phát triển của lịch sử, của văn học, để xem xét quá tŕnh tiếp thu kế thừa và sáng tạo của ông, nhất là phải nh́n từ phía thời đại Lư - Trần th́ mới thấy hết cái vĩ đại trong văn chương, học thuật và tư tưởng của ông, như trên có nêu. Ông đúng là sự kết tinh những tinh hoa văn hóa tư tưởng của thời đại Lư - Trần rồi vận động nâng cao lên rực rỡ hồi đầu thế kỷ XV, trong thực tiễn chiến đấu vệ quốc của dân tộc.
Với lịch sử dân tộc, Nguyễn Trăi là nhà tư tưởng vĩ đại, là danh nhân văn hóa, nhà quân sự lỗi lạc, nhà chính trị và ngoại giao tài ba mà trải qua nhiều biến động của lịch sử, bao thế hệ vẫn tôn vinh và thừa nhận.
Với lịch sử văn học, Nguyễn Trăi là nhà khai sáng, tấm ḷng và văn chương của ông rực sáng như Lê Thánh Tông ngợi ca "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (bài Minh lương, tập Quỳnh uyển cửu ca), là "núi Thái Sơn", là "sao Bắc đẩu", là người có tài "Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền"(18), là "sông Giang sông Hán trong các sông, sao Ngưu sao Đẩu trong các sao"(19), là nhà thơ đặt nền móng cho giai đoạn khai sáng của nền văn học cổ điển Việt Nam.
Đến đây, có thể mượn lời của nhà triết học Duy vật biện chứng F. Ăngghen để nói về thiên tài Nguyễn Trăi. Ăngghen đă từng nói về những con người khổng lồ được sản sinh từ hiện thực lịch sử thời Phục hưng ở châu Âu như sau: "Khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt t́nh và tính cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng"(20). Thế kỷ XIV, XV ở Việt Nam có khác châu Âu, nhưng những đ̣i hỏi cấp thiết của lịch sử có thể giống nhau, buộc phải sản sinh những con người khổng lồ mà Nguyễn Trăi là sản phẩm kết tinh những tinh hoa văn hóa tư tưởng của thời đại, tính từ thời Lư - Trần (thế kỷ X - XIV) sang thời Lê sơ (đầu thế kỷ XV), thể hiện ở tinh thần và ư thức dân tộc, tự hào dân tộc, khát vọng dựng xây một nền văn hóa dân tộc ngày càng rực rỡ, phổ cập trong nhân dân.
Vị trí của Ức Trai tiên sinh có một không hai trong lịch sử dân tộc và trong văn học sử của mười thế kỷ thời trung đại. Ông rất xứng đáng là danh nhân văn hóa của dân tộc Việt Nam như thế giới đă tôn vinh.
Chú thích:
(1) Về năm sinh và mất của Nguyễn Phi Khanh, bài viết ghi theo Thơ văn Lư - Trần, tập 3, Nxb. KHXH, H. 1978. Nhưng theo sự tra cứu của chúng tôi th́ những ghi chép trong gia phả họ Nguyễn ở Nhị Khê: Nhị Khê Nguyễn tộc thế phả và hai công tŕnh khảo cứu của GS. Bùi Văn Nguyên: Nguyễn Trăi danh nhân truyện kư, Nxb. KHXH, H. 1980 và Văn chương Nguyễn Trăi, Nxb. ĐH và THCH, H. 1984 th́ lúc Trần Nguyên Đán cho phép Nguyễn Ứng Long kết hôn với Trần Thị Thái là năm Đại Trị thứ 7 (1367) triều Trần Dụ Tông (1341-1369), lúc này Nguyễn Ứng Long 39 tuổi, Trần Thị Thái 18 tuổi. Từ đó suy ra, ông Nguyễn Ứng Long sinh năm 1329 và bà Trần Thị Thái sinh năm 1350.
(2) Ví dụ như Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, mục Văn tịch chí II, bản dịch của Viện Sử học, tập 4, Nxb. Sử học, H. 1961, tr.74.
(3) Hai chức quan to lănh đạo hai cơ quan: Viện Hàn lâm và Trường Đại học (Quốc tử giám) ở nước ta dưới triều Hồ, hàm Chánh tam phẩm.
(4) Ngự sử đài là cơ quan có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, đàn hặc công việc chuyên môn ở các Bộ, các cơ quan văn pḥng của triều đ́nh và các công việc ở địa phương, cùng nhiệm vụ can gián nhà vua, nay tương đương với Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao. Ngự sử đài chánh chưởng có thể như là Chánh văn pḥng của Ngự sử đài, giữ con dấu của cơ quan này, chức quan này xếp vào hàng thứ tư hoặc thứ năm trong Ngự sử đài, sau Đô Ngự sử, các Phó Đô Ngự sử và Thiêm Đô Ngự sử, hàm Ṭng tứ phẩm.
(5) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, mục Nhân vật chí, bản dịch của Viện Sử học, tập 1, Nxb. Sử học, H. 1960, tr.192.
(6) Xin xem: Nguyễn Công Lư: Mấy đặc trưng về thời đại Lư - Trần, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, H. số 3 - 2000; và chương 2, mục 2.2 của sách Văn học Phật giáo thời Lư - Trần: diện mạo và đặc điểm, Nxb. ĐHQG Tp. HCM, 2002, tr.61-70.
(7) Đặng Thai Mai: Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học, trong sách Thơ văn Lư - Trần, tập 1, Nxb. KHXH, H. 1977, tr.38.
(8) Lê Trí Viễn: "Chất Đại Việt trong Ức Trai thi tập", trong sách Sáu trăm năm Nguyễn Trăi, Nxb. Tác phẩm mới, H. 1980; in lại trong sách Nguyễn Trăi: về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb. Giáo dục, H. tái bản lần thứ 5, 2007, tr.505.
(9) Hoàng Xuân Hăn: Lư Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tôn giáo triều Lư, (2 tập), tập 1, Nxb. Sông Nhị, H. 1949, tr.429.
(10) Chữ dùng của GS. Lê Trí Viễn trong bài viết "Chất Đại Việt trong Ức Trai thi tập" ở sách Sáu trăm năm Nguyễn Trăi, Nxb. Tác phẩm mới, H. 1980.
(11) Trong nhiều tư liệu trước đây đều ghi Lam Sơn thực lục là tác phẩm của Nguyễn Trăi. Thật ra, công bằng mà nói th́ tác phẩm này được ghi chép bởi nhiều người, từ hồi c̣n khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược, do Lê Lợi chủ xướng, viết lời Tựa. Nên chăng ghi người chủ biên là Lê Lợi, người ghi chép là Nguyễn Nhữ Soạn, Ngô Sĩ Liên, người chấp bút hoàn chỉnh văn bản sau khi ḥa b́nh lập lại là Nguyễn Trăi. Vậy Nguyễn Trăi chỉ là một trong những tác giả của cuốn kư sự lịch sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn này.
(12) Theo thống kê của GS. Lê Trí Viễn trong bài Nguyễn Trăi, nh́n từ phía Lư - Trần, trong sách Kỷ niệm sáu trăm năm Nguyễn Trăi, Nxb. KHXH, H. 1982, tr.216.
(13) Theo Đại Việt sử kư toàn thư, bản kỷ thực lục, quyển XI, tờ 35a-35b; Bản dịch của Viện Sử học, tập 3, Nxb. KHXH, H., 1972, tr.113; và Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển XVII, tờ 3a.
(14) Trước đây, theo Trần Khắc Kiệm, nửa cuối thế kỷ XV, khi nhận chỉ dụ của Lê Thánh Tông năm 1467, ông chỉ sưu tầm được 105 bài. Số bài này đến giữa thế kỷ XVIII đă được Lê Quư Đôn tuyển vào bộ hợp tuyển Toàn Việt thi lục. Sang thế kỷ XIX, dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) nhận chỉ dụ của vua, Dương Bá Cung (có Ngô Thế Vinh, Nguyễn Năng Tĩnh cùng tham gia) từ năm 1822 trở đi, đă bỏ công sức trên 10 năm để hoàn thành bộ Ức Trai di tập, 7 quyển, được Phúc Khê đường khắc in năm 1868 dưới triều Tự Đức, trong đó chép thơ chữ Hán ở quyển 1, cũng 105 bài. Riêng Bùi Văn Nguyên suốt nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy về Nguyễn Trăi, GS. đă bỏ nhiều công sức sưu tầm để bổ sung thêm thơ văn Nguyễn Trăi, trong đó GS. đă t́m thêm 02 bài chữ Hán, đó là bài Phúc đáp Đại Đô đốc Đinh công và bài Ngự chế Tao ngộ thi, phụng họa, thành ra thơ chữ Hán của Ngưyễn Trăi hiện c̣n là 107 bài. Tất cả đă được công bố trong công tŕnh Ức Trai di tập - bổ sung, Nxb. KHXH, H. 1994.
(15) Theo thống kê của Hoàng Trung Thông - Nguyễn Huệ Chi, tại chương XI. Vị trí Nguyễn Trăi trong lịch sử văn học, trong sách Nguyễn Trăi khí phách và tinh hoa của dân tộc, Nxb. KHXH, H. 1980, tr.305.
(16) Theo thống kê của Phạm Thị Phương Thái trong luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trăi, bảo vệ tại Viện Văn học Hà Nội tháng 7 - 2007.
(17) Trong Nam Ông mộng lục, ở câu chuyện thứ 18 nhan đề Điệp tự thi cách (Lối thơ điệp tự), Hồ Nguyên Trừng đă có lời b́nh về bài thơ Hạnh Thiên Trường hành cung của Trần Thánh Tông (mà cuối thế kỷ XVIII, Bùi Huy Bích trong sách Hoàng Việt thi tuyển đă ghi nhầm tác giả của bài thơ này là Trần Nhân Tông) như sau: "Kỳ mệnh ư thanh cao, điệp tự chấn hưởng, phi lăo vu thi giả, yên năng đạo thử ?" (Bài thơ có cấu tứ thanh cao, chữ dùng lặp lại (điệp tự) có sức âm vang, nếu chẳng phải là bậc lăo luyện trong làng thơ, sao có thể viết được như vậy ?). Trong bài thơ này, Trần Thánh Tông đă dùng nhịp 3/4 ở các câu: 1, 5, 6 và 8; trong khi đó thơ cách luật thường dùng nhịp chẵn: 4/3 hoặc 2/2/3.
(18) Chữ dùng của Nguyễn Mộng Tuân, bạn đồng khoa và đồng liêu với Nguyễn Trăi, khi viết về ông trong bài thơ Tặng Gián nghị Đại phu Nguyễn công.
(19) Chữ dùng của Tô Thế Huy đầu thế kỷ XVIII, khi viết về Nguyễn Trăi trong bài Tựa tác phẩm Quần hiền phú tập do Hoàng Tụy (Sằn) Phu biên soạn.
(20) F.Ăng-ghen: Biện chứng của tự nhiên, bản dịch, Nxb. ST, H. 1971, tr.13./.
(Tạp chí Hán Nôm, Số 1 (104) 2011, Tr.3-16)
I
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử