֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa
֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution
֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008
֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009
֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009
֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009
֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010
֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010
֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010
֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011
֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011
֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011
֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012
֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014
֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015
֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016
֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016
֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016
֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017
֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017
֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017
֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018
֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018
֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
Giấc mơ lănh tụ
Phần 11
Tương quan giữa Công giáo và CSVN
* Khởi đầu bằng ve văn, mua chuộc :
Khi t́nh h́nh CG miền Bắc đang gặp khó khăn th́ vào ngày 1/10/1945, Linh mục Lê Hữu Từ (LHT) được Vatican cử đến nhận chức Giám mục giáo phận Phát Diệm. Nhân ngày tấn phong 29/10/1945 của ông, HCM đă gởi một phái đoàn chính phủ đến tham dự kèm theo một thư chúc mừng như sau :
"Thưa Ngài,
"Mừng Ngài v́ cuộc tấn phong này đă chứng tỏ một cách vẻ vang đạo đức của Ngàị
"Mừng đồng bào CG, v́ từ nay các bạn đă được một vị lănh đạo rất xứng đáng.
"Đồng thời mừng cho nước ta v́ tôi chắc rằng Ngài sẽ lănh đạo đồng bào CG noi gương hy sinh của Đức Chúa mà hy sinh phấn đấu để giữ ǵn quyền Tự do và Độc lập của nước nhà.
"Kính chúc Ngài được luôn an mạnh " ("Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1973, tr. 44).
Mặc dầu có những lời ve văn và chúc tụng trên, GM LHT hiểu rằng cần phải chuẩn bị để ứng phó với t́nh h́nh mớị Ông cho lập Ủy Ban Quân Chính, Liên Đoàn Công Giáo VN và VN Công giáo Cứu quốc. Phạm Văn Đồng hay tin liền về Phát Diệm một tuần lễ để nghiên cứu, theo dơi và xoa dịu t́nh h́nh. Ông Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đă kư nghị định số 52/BNV ngày 6/4/1946 cho phép thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam. Tổ chức này lan rộng mau lẹ trên toàn quốc.
Ngày 25/1/1946, nhân lễ bế mạc tuần tĩnh tâm của giáo phận Phát Diệm, HCM xuất hiện đứng trước đồng bào CG và hô to :"Đức Chúa muôn năm !". Sau đó HCM tuyên bố mời GM LHT làm cố vấn cho chính phủ.
Ngày 24/12/1946, HCM gởi một thông điệp tới đồng bào nhân ngày lễ Giáng sinh bày tỏ sự mong ước nước nhà được tự do và độc lập như sau :
"Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đă ra đờị Cả đời người chỉ lo cứu độ dân, hy sinh cho tự do, b́nh đẳng.
"Trong lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng mong cướp nước ta lần nữạ Chúng làm trái với ḷng bác ái của Đức Giêsu..." ("Những lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, nxb Sự Thật, 1956, tập I, t. 111).
HCM c̣n đi xa hơn nữa trong tṛ ảo thuật ve văn nàỵ Cuối năm 1947, HCM ra lịnh tiêu thổ kháng chiến, nhưng đồng bào CG Phát Diệm và Bùi Chu không tuân hành. Ngày 20/12/1947, HCM về huyện Nho Quang, tỉnh Ninh B́nh và mời GM Lê Hữ Từ đến dùng cơm trưa với ông ta và các Bộ trưởng trong chính phủ. Trong dịp này, HCM đă xin chịu phép rửa tộị GM Lê Hhữu Từ kể lại :
"Cơm xong, họ mời tôi lại cái ghế phản (đi-văng) có đặt sẳn 2 cái gối để tôi cùng ông Hồ nói chuyện nằm nghỉ trưạ Nằm sát bên ông, ông Hồ nói chuyện rỉ rón thân mật hết sức. Bỗng nhiên ông nắm chặt tay tôi và bằng một giọng run run ông nói : "Xin cụ làm Béptêm (rửa tội) cho tôi để tôi cùng làm con Đức Chúa". Nghe thế tôi phải hết sức cầm ḿnh ở b́nh tĩnh cho khỏi phát cười và nói :"Thật là vô cùng quư giá và bất ngờ cho tôi, tôi rất lấy làm sung sướng, nhưng v́ là việc rất can hệ, cần phải biết đủ các lẽ đạo và nhiều điều kiện phải dự trước, nên để sau sẽ tính" ("Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1973, tr. 160-161).
* Thanh toán (1946-1954) :
Bên ngoài ve văn như thế, nhưng bên trong HCM đang chuẩn bị để thanh toán, v́ HCM biết rằng CG và CS không bao giờ dung hợp được. Sau biến cố đêm 27/6/1946 đă nói ở trên, VM bắt đầu cho công an bắt giữ hoặc bắt cóc những thành phần CG hoạt động tích cực cho các tổ chức CG tại mỗi địa phương.
Trên toàn quốc, có 3 vùng đông giáo dân tập trung được VM chú ư là Nghệ An (137 giáo xứ), Nam Định (117 giáo xứ) và Ninh B́nh (32 giáo xứ). Nghệ An thuộc giáo phận Vinh, nằm trong vùng kiểm soát của VM nên không thể vơ trang tự vệ được. Các giáo xứ đó chỉ có thể đối kháng thụ động, không cho VM chi phối vào các hoạt động của giáo phận và giáo xứ. Giáo phận Bùi Chu ở Nam Định và giáo phận Phát Diệm ở Ninh B́nh nằm trong vùng tranh chấp giữa 2 bên nên HCM t́m cách lôi kéo 2 giáo phận này theo VM. Cả 2 giáo phận này đă phải đối phó một cách khôn khéo để sống c̣n. Khi không thuyết phục được, HCM ra lịnh tấn công.
Từ tháng 10-12/1946, VM cho mở cuộc hành quân vào một số giáo xứ thuộc giáo phận Phát Diệm gọi là cuộc hành quân "vây bắt côn đồ". Cuộc hành quân này đă bắt đi khoảng 5,000 người cả giáo sĩ lẫn giáo dân. Những người bị bắt bị đưa về giam ở huyện Nho Quan, đồn điền Ria và sau đó chuyển về trại giam Đầm Đùng ở Thanh Hoá. HCM đă cho phục kích mưu sát "Đức cha cố vấn" (GM Lê Hữu Từ) 3 lần, nhưng ông đă thoát nạn.Trước t́nh trạng này, 2 giáo xứ trên không c̣n cách ǵ khác hơn là lập các tổ chức tự vệ được đặt dưới quyền điều khiển của một Tổng bộ chỉ huy tự vệ Bùi Chu - Phát Diệm.
Phát Diệm thành lập một khu an toàn để bảo vệ giáo dân và các cơ sở của giáo phận. Đa số dân tập trung ở huyện Kim Sơn đều phải trông nhờ vào sự bảo vệ và giúp đở của các tổ chức tự vệ Phát Diệm. Huyện này có 40 xă, 32 giáo xứ, gồm các tổng Hồi Thuần, Quy hậu, Hướng Đạo, Như Tân và Phát Diệm với dân số khoảng 150,000 ngườị Khu An Toàn Phát Diệm được thành lập nằm trong một vị thế địa dư rất thuận lợi cho việc pḥng thủ : 3 mặt được bọc bởi 3 con rạch ngăn cách các giáo xứ Phát Ngoại, Phú Vinh Trung và Lưu Phương. Toà Giám mục và Nhà Chung nằm ở giữạ Tính đến tháng 2/1947 đă có khoảng 60,000 người tản cư về vùng Phát Diệm. Riêng thị xă Phát Diệm đă phải chứa khoảng 30,000 ngườị Tại nơi đây các giáo dân đă đùm bọc lấy nhau.
Tổ chức Công Giáo Cứu Quốc trở thành một lực lượng chống cả VM lẫn thực dân Pháp. Họ đă cho người vượt biên để t́m mua vũ khí. 2 giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu cũng đă liên lạc được với Hoà Thượng Thích Tuệ Chiếu ở Thanh Hóa và Thượng Tọa Thích Tâm Châu ở Ninh B́nh để thành lập Mặt Trận Liên Tôn chống Cộng.
Pháp đă thuyết phục GM LHT để cho Pháp đem quân đến bảo vệ khu Phát Diệm, nhưng ông từ chốị Ngày 22/11/1947, Pháp cho máy bay đến bắn phá khu Phát Diệm, bắn đạn vào Nhà Chung để uy hiếp tinh thần đồng bào CG. Cùng một lúc, VM cho bộ đội vây các xă Văn hải, Phúc Nhạc và Mưỡu Giáp, bắt di 695 người, trong đó có 13 người bị hành quyết ở núi Cánh Diềụ Bị tấn công từ 2 phía, khu tự vệ Phát Diệm vẫn đứng vững.
gày 29/2/1948, Chủ tịch Mặt Trận Việt Minh Tỉnh Bộ Ninh B́nh cho triệu tập buổi họp liên tôn để trấn an dư luận về các vụ bắt bớ vừa quạ Ôg nói rằng VM không chủ trương diệt tôn giáo và "có một vài hiểu lầm tại nơi nọ nơi kia là do hạ cấp làm".
T́nh trạng căng thẳng kéo dài đến ngày 16/10/1949 th́ Pháp bất thần đem quân chiếm Phát Diệm.
Sau này Linh mục Hoàng Quỳnh có viết trên tạp chí Đời Sống ngày 22/12/1953 cho biết rằng trong thời gian chiến đấu chống CS có khoảng 5,000 thanh niên CG bị VM bắt giam ở các trại Đầm Đùng, Yên Lai và Kim Tân.
Bị Pháp phỏng tay trên ở Phát Diệm, VM gặp khó khăn khi mở các cuộc tấn công vào các giáo xứ. VM quay qua tấn công các vùng khác, đặc biệt là trận Phú Ninh ở Bùi Chu vào tháng 11/1949. Bộ đội và công an VM đă bắt hết các thanh niên trong giáo xứ, chiếm nhà thờ và nhà cha xứ. Ngày 19/11/1949, Pháp mở cuộc hành quân đi ngang qua vùng này, dân làng Phú Ninh mới được giải thoát. Từ việc đó ta thấy ngay là chính VM, với bản chất là CS tàn bạo, đội lốt "cac'h mạng", chứ không phải là "yêu dân tộc, đồng bào ruột thịt" đúng nghĩa đă làm cho dân chúng cảm thấy là họ sống an toàn hơn dưới "bàn tay của thực dân". Trong thời gian chống cả VM và Pháp, khu Phát Diệm cũng đă che chở nhiều nhân vật quan trọng giúp họ thoát khỏi sự sát hại của VM như Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu và Trần Văn Chương.
* Ngăn cản và đàn áp cuộc di cư :
Theo điều 14, đoạn b của Hiệp định Geneva ngày 20/7/1954 th́ :
"Trong thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà muốn sang ở vùng giao cho bên kia, th́ nhà chức trách của khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy".
Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21/7/1954, ở đoạn 8 có nói :
"Phải triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đ́nh chỉ chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở VN tự do lựa chọn vùng ḿnh muốn sống".
Lúc đầu th́ CS cho di cư khá dễ dàng. Sự ra đi của người CG Bắc Việt phát xuất từ nguyên nhân sâu xa là họ ư thức rằng không có tự do tôn giáo dưới chế độ CS, do đó họ quyết tâm ra đị Về sau, số người bỏ làng vào Nam ngày càng đông, CS thấy rằng nếu việc này tiếp tục diễn ra có thể làm suy yếu tiềm năng và kinh tế của miền Bắc nên đă dùng nhiều biện pháp dă man để ngăn chặn. Nạn nhân chính dĩ nhiên là đa số người CG Bắc Việt. Sau đây là vài trường hợp điển h́nh :
- Vụ Ba Làng : khoảng 8,000 giáo dân biểu t́nh truớc nhà thờ Ba Làng đ̣i được quyền di cư, đă bị bộ đội và công an CS xả súng bắn thẳng vào làm vô số người chết.
- Vụ Trà Lư : Khoảng 2,000 giáo dân ra một cồn cát ở bờ biển Trà Lư đợi tàu đén đón đị Khi nước thủy triều dâng lên, mọi người bắt đầu xôn xao th́ bộ đội ở trong bờ xả súng bắn ra khiến nhiều người bị chết, xác trôi dạt trên sóng. Tiếng kêu cứu vang một vùng. Tàu Le Capricieux và một vài tàu khác trông thấy đă đến cứu dược 1,445 ngườị Khoảng 600 người bị ch́m dưới bể.
- Vụ Cửa Ḷ : Cửa Ḷ là vùng duyên hải nằm cách Hải Pḥng khoảng 300 km, nhưng giáo dân không đi được v́ bộ đội và công an canh gác rất kỹ. Nhiều đám cháy được dựng nhiều nơi để đánh lừa bộ đội lo chữa cháy, nhơ đó 1,156 đă đi thoát.
-Những vụ đàn áp từng toán, từng gia đ́nh hay từng cá nhân, có khi nghiêm trọng nhưng không thể kể hết. Sau 30/4/1975, người ta được biết có nhiều nguời Bắc di cư năm 54 đứng ra tổ chức việc ra đi năm đó đă bị công an xử phạt từ 12-20 năm khổ sai.
Kết quả là đă có khoảng 860,206 người di cư vào Nam và được chia ra như sau : Công giáo với 677,389 người, trong đó có 1,041 người theo đạo Tin Lành. Phật giáo với 182,817 ngườị
Cùng với việc ngăn chặn sự ra đi này Phạm Văn Đồng tới gặp GM Trịnh Như Khuê yêu cầu ông viết một bức thơ kêu gọi giáo dân ngưng việc vào Nam, nhưng ông đă từ chối.
Giáo hội Công giáo miền Bắc từ 1954-1975
Sau chuyến di cư 1954, số giáo dân c̣n lại sau "bức màn tre" chỉ c̣n khoảng 750,000 người với 254 Linh mục và 7 Giám mục, chia làm 10 giáo phận. Ngoài ra Đức Khâm sứ Ṭa Thánh Jean Dooley đă quyết định ở lại với Giáo hội CG miền Bắc.
CS đă ban hành nhiều biện pháp rất tinh vi để khống chế giáo hội nàỵ Trước tiên họ cho ban hành một quy chế tôn giáo để giới hạn hoạt động của giáo hộị Để chuẩn bị dư luận cho việc công bố quy chế này, CS triệu Nguyễn Mạnh Hà, cựu Bộ trưởng trong chính phủ VM, một tín đồ CG, từ Pháp về, đồng thời mời 2 linh mục và 1 giáo hữu Ba-Lan qua Hà Nội để "giải độc" trong giới CG. Phái đoàn Ba-Lan này tuyên bố :"Bên Ba-Lan chúng tôi có 26 triệu dân th́ những 26 triệu dân là CG, chúng tôi đến giúp anh chị em VN để theo gương chúng tôi là kư kết một cái ǵ đó với chính phủ cho dễ thở, không th́ sẽ như Giáo hội Trung hoa".
* Sắc lệnh về tôn giáo :
Ngày 14/6/1955, HCM ban hành Sắc lệnh số 234/SL về "Tự do tôn giáo" . Tuy đă chuẩn bị dư luận trước, nhưng khi sắc lệnh này vừa được công bố trên nhật báo Nhân Dân ngày 15/8/55 th́ gặp ngay phản ứng mạnh mẽ của giáo hội CG miền Bắc v́ các quyền tự do sống đạo và truyền đạo trong khoảng 100 năm nay không c̣n nữạ Chỉ Linh mục Vũ Xuân Kỹ và một nhóm linh mục ly khai với giáo quyền mới ủng hộ sắc lệnh trên. Sắc lệnh quy định :
- Không được giảng đạo ngoài phạm vi nhà thờ. Cấm nói về tôn giáo trong các hội quán.
- Khi thuyết giảng trong các nhà thờ, giáo sĩ phải giảng về ḷng yêu nước, nghĩa vụ công dân, sự phục tùng chính phủ và các đạo luật ban hành, ngay cả các đạo luật bài tôn giáọ
- Cho phép tôn giáo mở trường tư thục, nhưng phải dạy theo chương tŕnh của chính phủ. Chỉ có thể dạy thêm giáo lư cho các học sinh muốn học.
- Các linh mục không được vào bịnh viện, trừ khi chính bịnh nhân xin đích danh.
- Tài sản của GH do nhà nước quản lư. Các giáo sĩ chỉ được cấp một ít đất đai để sinh sống.
Chương tŕnh giáo dục mà chính phủ bắt phải theo bao gồm cả môn học về chủ nghĩa Mác-Lênin và các bài cổ vơ chủ nghĩa vô thần và bài xích tôn giáọ
Cũng trong khoản đầu năm 1955, CS cho tổ chức đại hội các người CG "yêu tổ quốc và ḥa b́nh" tại Hà Nội và ép buộc 16 linh mục từ các địa phận về tham dư.. Đại hội c̣n gởi thư cho Đức Giáo hoàng xin thẳng tay trừng trị "bọn lợi dụng tôn giáo để phục vụ đế quốc". Các hội nghị tương tợ cũng đă được tổ chức tại Hà Đông, Sơn Tây và Nam Đi.nh.
Riêng tại Hà Nội, CS mời hàng giáo phẩm tới thảo luận về sắc lệnh tôn giáọ Trong hội nghị này cùng có sự tham dự của ông Ngô Từ Hạ và một số giáo dân "cấp tiến" khác. Tuy nhiên hàng giáo phẩm tới tham dự đă không lên tiếng ủng hộ sắc lệnh, cũng không chịu đi biểu t́nh và kéo chuông như CS dự trù.
Nhóm CG "cấp tiến" trên do CS thành lập dưới danh hiệu "CG yêu tổ quốc, yêu ḥa b́nh" với thâm ư dùng phong trào này để thôn tính CG; nhóm này do Ngô Từ Hạ và Linh mục Vũ Xuân Kỹ cầm đầụ Chính nhóm này đă tổ chức những cuộc tiếp đón phái đoàn CG quốc doanh Tiệp Khắc qua thăm GH miền Bắc do ông Rostielo Petra cầm đầụ Petra nói rằng khi người CG thực hiện các kế hoạch của nhà nước và Mặt Trận Tổ Quốc, chính là thực hiện "lư tưởng Công giáo". GM Trịnh Như Khuê không cho phép các linh mục trong phái đoàn này làm lễ cho giáo dân mà chỉ cho phép làm lễ riêng ở nhà thờ Cửa Bắc. Thái độ này làm CS tức giận. Vào dịp lễ Giáng sinh kế đó, CS bắt các nhà thờ đọc thông điệp của HCM nguyền rủa đế quốc.
* Thành lập tổ chức CG quốc doanh :
Giáo sĩ đầu tiên của CG đă tham chính trong chính quyền CS là Linh mục Nguyễn Bá Trực. Ông thuộc giáo phận Hà Nội và là một trong 3 linh mục VN đầu tiên được đưa qua La Mă và Pháp học lấy bằng Tiến sĩ.
Linh mục Trực tham gia kháng chiến từ 1945, được chọn làm đại biểu Quốc hộị Khi Pháp chiếm Bắc Việt, ông theo VM vào chiến khu và được cử làm Quốc vụ khanh của chính phủ HCM, có nhiệm vụ liên lạc giữa chính phủ và CG. Ông đă nhiều lần được HCM giao cho nhiệm vụ tiếp xúc với GM Lê Hữu Từ ở Phát Diệm để giải quyết những vấn đề liên hệ đến khu tự trị nàỵ Nhưng ông không đủ uy thế để thương lượng nên nhiều lần HCM phải đích thân dến.
Sau linh mục Trực c̣n có 2 linh mục nổi tiếng khác đă cộng tác với CS, đó là linh mục Vũ Xuân Kỹ và Nguyễn Thế Vịnh. LM Vịnh sinh năm 1909 ở xứ Văn Hải, Phát Diệm, chịu chức LM năm 1936. Đầu tiên ông được bổ nhiệm coi sóc giáo xứ Hướng Đạo, rồi đến Phương Thượng và Quảng Phúc thuộc giáo phận Phát Diệm. Năm 1947, khi VM rút vào chiến khu, ông đă đi theo tham gia kháng chiến chống Pháp.
Ông được HCM giao cho việc phụ trách công tác Công giáo vận ở trong cũng như ngoài nước.
Sau khi chiếm được miền Bắc, HCM cũng muốn biến GHCG miền Bắc thành một GHCG Tự Trị như ở Trung Cộng, nhưng sau nhiêu lần thăm ḍ, HCM thấy rằng miền Bắc vẫn c̣n có Khâm sứ Ṭa thánh, 7 Giám mục, 254 linh mục và 750,000 giáo dân.
Đa số giáo dân ở vào những khu tập trung, được tổ chức rất chặt chẽ, có tinh thần chống Cộng mạnh nên việc đối phó không dễ dàng như Phật giáọ Kinh nghiệm của khu tự trị Phát Diệm trong thời kỳ kháng chiến bắt buộc HCM quyết định chỉ lập một tổ chức song hành để quấy phá GHCG tại đâỵ
Vào đầu năm 1955, Mặt Trận Tổ Quốc, hậu thân của Mặt Trận Liên Việt, đă quyết định cho triệu tập một Đại hội Đại biểu Công giáo vào ngày 11/3/1955 tại Hà Nội để thành lập môt tổ chức liên kết người CG miền Bắc. Các đại biểu tham dự đại hội do Mặt Trận Tổ Quốc quyết định.
Các LM Nguyễn bá Trực, Nguyễn thế Vịnh, Vũ Xuân Kỹ, Hồ Thành Biên (miền Nam tập kết) và ông Ngô Tử Hạ đă vận động tích cực cho việc tổ chức Đại hộị Sau 2 ngày thảo luận, Đại hội đă quyết định thành lập "Ủy ban liên lạc Công giáo yêu tổ quốc và ḥa b́nh" và bầu LM quốc doanh Vũ Xuân Kỹ làm Chủ tịch, LM Hồ Thành Biên làm Phó chủ tịch. 3 LM quốc doanh khác làm Ủy viên trung ương của Ủy ban. Nhiệm vu chính của Ủy ban là hô hào giáo dân tham gia tích cực vào việc thực hiện các kế hoạch của chính phủ. Tuy được nhà nước yểm trợ nhưng ủy ban này không làm được tṛ trống ǵ cả v́ bị giáo dân tẩy chay.
Sau khi lập xong tổ chức CG quốc doanh nói trên, CS coi các GM miền Bắc như không có nữa, họ tiếp xúc thẳng với từng LM và kết hợp hoạt động qua Ủy ban Liên lạc CG. Năm 1960, LM Phạm Hân Quynh đă lên tiếng chỉ trích các hành động chia rẽ này của CS và ông đă bị công an cho đi cải tạo và quản thúcsuốt 30 năm.
* Xiết chặt ṿng kiểm soát :
Cũng trong năm 1955, CS cho triệu tập một Hội nghị CG Toàn quốc thứ hai tại Hà Nội, trong đó có 16 LM bị chỉ định phải đến tham dư.. Trong hội nghị này, Mặt Trân Tổ Quốc đă đưa thỉnh nguyện thư gởi Đức Giáo Hoàng yêu cầu"trừng trị bọn lợi dụng tôn giáo để phục vụ đế quốc". Thỉnh nguyện thư này mở màng cho việc đàn áp các giáo sĩ
và giáo dân có tư tưởng đối kháng với chính sách tôn giáo của CS và bị họ lên án là "tay sai đế quốc".
Trước tiên, CS hạn chế sự di chuyển của LM nên những giáo xứ không có LM thường không có nghi lễ tôn giáo cho giáo dân. Giáo dân nào muốn dự thánh lễ phải đi rất xa, có khi phải nghĩ lại đêm. Các giáo xứ ở Quảng Yên, Ḥn Gay và Cẩm Phả có khoảng 40,000 giáo dân nhưng không có LM nàọ Suốt năm này qua năm khác, giáo dân không được dự thánh lễ, kể cả các ngày lễ lớn như lễ Giáng sinh hay Phục sinh.
Tại những nơi có LM, CS cố t́nh sắp xếp các giờ lao động hay hội họp trùng với các giờ kinh hay giờ lễ để giáo dân không tham dự được.
Năm 1956, CS bắt đầu trục xuất dần các LM thừa sai ngoại quốc. Sau 1954, có khoảng 20 LM thừa sai đă t́nh nguyện ở lại với giáo dân miền Bắc. Số LM này lần lược bị gọi đến và ra lệnh phải rời VN. Đầu năm 1959, Đức Khâm sứ Jean Dooley đang đau nặng, cũng đă bị trục xuất qua ngă Nam Vang. Đến năm 1960, việc trục xuất các linh mục thừa sai coi như hoàn tất. Sự thiếu thốn LM trở nên trầm trọng.
Đến giai đoạn hai, CS bắt đầu thanh toán các trường tư CG. Bỗng dưng các học sinh không CG từ các vùng kế cận đến ghi tên học trường CG rất đông. Nhiều trường rất mừng khi thấy hiện tượng này, không ngờ đó là âm mưu của CS. Sau khi dồn được một số đông học sinh không CG vào các trường này, công an hướng dẫn cho những học sinh này đứng ra tố cáo LM hiệu trưởng và gây hỗn loạn. CS lấy lư do ổn định học đường, đă đứng ra quản lư trường CG. Vụ gay cấn nhất là vụ trường Dũng Lạc ở Hà Nội do LM Nguyễn Văn Vinh làm hiệu trưởng. Khi CS tuyên bố quản lư trường này, ông đă gởi một văn thư phản đối đi khắp nơị Sau vụ này, LM Vinh bị đưa di học tập cải tạo ở trại Quyết Tiến (c̣n gọi là trại Cổng Trời) thuộc Hoàng Liên Sơn, sát biên giới Trung Quốc và ông đă chết tại đây.
Xong vụ trường tư CG, CS từ từ chiếm đoạt các tài sản của giáo hội CG, kể cả nhà thờ. Một giáo dân già đă kể lại rằng khi muốn lấy nhà thờ của giáo xứ ông, CS đă cho làm cạnh nhà thờ một kho lúa lợp sơ sàị Một hôm trời mưa to gió lớn, mái kho lúa bị trốc, CS xin cha xứ cho họ tạm gởi lúa vào phần nữa dưới nhà thờ trong khi chờ đợi sửa kho luá lại. LM chánh xứ đă đánh chuông kêu giáo dân tới giúp đưa lúa vào nhà thờ. Nhưng khi đưa lúa vào nhà thờ xong, bọn cán bộ đă cho chận phân nữa nhà thờ làm luôn kho lúa và dẹp kho lúa của ho.. Bằng những thủ đoạn tinh vi tương tự, CS miền Bắc cướp dần các tài sản c̣n lại của giáo hội này.
Sau khi tước đoạt tài sản xong, CS tiến tới việc phân tán các giáo xứ dông đảo, bằng cách buộc họ đi xây dựng các nông trường tập thể. Thời gian ở nông trường kéo dài năm này qua năm khác khiến giáo dân phải xin làm nhà tại nông trường và đưa gia đ́nh tới ở luôn. Đặc biệt, CS chú ư tới thành phần ưu tú trong giáo xứ, họ t́m mọi cách để đưa các thành phần này ra khỏi giáo xứ, kể cả cho những "công ăn việc làm tốt" để gài bẫy và làm áp lực để nạn nhân phải di chuyển nơi khác.
* Quỳnh Lưu (Nghệ An) nổi dậy :
Trong thời gian Pháp chiếm đóng VN, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nằm trong vùng VM kiểm soát nên các giáo xứ thuộc các tỉnh này bị kềm kẹp gắt gaọ Sau hiệp định Geneva, giáo dân các giáo xứ trong vùng CS kiểm soát không thể di cư được. Bị xiết chặt quá lâu, lợi dụng CS tung ra "nghị quyết sửa sai" trong đợt "Cải cách ruộng đất", vào đầu năm 1956, giáo dân thuộc các xă Vạn Kim, Quang Trung, Minh Châu, Tân Nho, Diễn Tân, Diễn Đức, Diện Đông, Diện Nguyên, Yên Trung, Đức Vinh, Hồng Thăng và Đại Gia ở Nghệ An đă mở hội nghị tỏ bày bao nỗi uât ức và phẫn nộ của họ ṛng ră trong 10 năm trường. Đại hội đă đưa ra 4 yêu sách sau đây :
- Trả lại tất cả các linh mục đang bị bắt bớ giam cầm.
- Trả lại xác các linh mục đă bị hành quyết hoặc thủ tiêu.
- Trả lại các tài sản của giáo phận, giáo xứ bị xung công hay tịch thu.
- Đền bù xứng đáng danh dự của các giáo sĩ đă bị nhục mạ hay bị vu khống.
Kiến nghị này được thành lập 5 bản gởi cho Vatican, HCM, Ủy hội Kiểm soát Đ́nh Chiến và Chính quyền miền Nam.
Đến ngày 9/11/1956, khi hay tin Ủy hội Kiểm soát Đ́nh chiến sắp đi qua Cầu Giát, hàng ngàn giáo dân kéo ra nằm ở trên quốc lộ 1, đưa hàng bao bố đơn thỉnh nguyện xin được di cự Sau đó, họ tập trung tại làng Cẩm Trường mở hội nghi.. Bộ đội và công an kéo đến giải tán, 2 bên xô xát nhau, chết khá nhiều.
Sáng ngày 13/11/1956, giáo dân thành lập những toán nghĩa quân vơ trang tập họp tại Quỳnh Lưu, kéo đi biểu t́nh biểu dương lực lươ.ng. Khoảng 3,000 thanh niên ở Ba Làng, Do Xuyên và Nông Cống ở Thanh Hóa bí mật kéo vào yểm trơ.. Thanh niên các vùng khác cũng kéo tới cứu viện. Trước t́nh thế này, HCM ra lịnh cho Văn Tiến Dũng huy động các lực lượng quân sự ở Thanh Hoá, Phủ Quỳ và Đồng Hới vây đánh, và Quỳnh Lưu ngập ch́m trong máu lửạ Nghĩa quân không kháng cự nổi phải chạy vào rừng. Bộ đội tiến vào làng bắt cả đàn bà và trẻ con dẫn đi để tra khảo từng người xem ai chủ xướng vụ nổi loạn nàỵ Các linh mục Hậu và Đôn thuộc xứ Cẩm Trường và Song Ngọc bị đưa về giam tại Hà Nộị.Tính đến năm 1960, ở Bắc Việt chỉ có 300 linh mục, nhưng họ phải chăm sóc cho khoảng 750,000 giáo dân. Tính trung b́nh, mỗi linh mục phải trông coi 1200 giáo dân tại địa phận Vinh, 7000 tại địa phận Hải Pḥng, 6000 tại Bùi Chu và 10000 tại Thanh Hoá.
* Giáo hội "thầm lặng" :
Tuy CS đă áp dụng nhiều biện pháp tinh vi để vô hiệu hóa các sinh hoạt của GHCG và làm tiêu hao dần giới tu sĩ và hang giáo phẩm, nhưng không thể xóa bỏ các tổ chức của giáo hội này dược, CS chỉ lập được "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" cho hoạt động song song mà thôi.
Tuy nhiên do chính sách làm tiêu hao GHCG, trong ṿng 20 năm, CS đă làm sụt giảm số tu sĩ và giáo sĩ xuống thấp tới mức độ báo dộng : tổng số linh mục ở miền Bắc là 277 vị, gồm cả 30 LM được phong "chui", không bằng số LM của giáo phận Saigon gồm trên 300 vi.. Thí dụ : Tổng giáo phận Hà Nội có 300,000 giáo dân nhưng chỉ có 25 LM, Hải Pḥng có 150,000 giáo dân chỉ có 16 LM trong đó có 7 vị trên 60 tuổi, Bắc Ninh có 100,000 giáo dân với 46 giáo xứ chỉ có 5 linh mục và 12 nữ tụ, Phát Diệm có 112,000 giáo dân chỉ có 22 LM, Bùi Chu có 300,000 giáo dân chỉ có 27 LM và 21 LM "chui" chưa được CS công nhận.
Nhà cầm quyền CS hy vọng rằng trong ṿng 15 hay 20 năm nữa khi số giáo sĩ già nua đă qua đời, giáo dân lúc đó như rắn mất đầu, giáo hội này đương nhiên sẽ tan ră.
Thời kỳ căng thẳng nhất của GHCG miền Bắc là giai đoạn từ 1970-1975. Năm 1970, khi Quân đội VNCH mở cuộc hành quân qua Cambodia, nhà cầm quyên CS miền Bắc sợ Quân đội VNCH có thể bất thần tấn công miền Bắc nên đă một mặt ra lịnh cho công an đưa đi cải tạo gần hết các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lănh dạo, mặt khác họ đột nhiên khuyến khích và lại c̣n cung cấp phương tiện cho các giáo xứ tổ chức các nghi lễ tôn giáo linh đ́nh.
Tóm lại, thái độ của GHCG miền Bắc cũng như giáo dân tronggiai đoạn này, ngoài cuộc tranh đấu mănh liệt của đồng bào Quỳnh Lưu, là âm thầm chống đối bằng cách không hợp tác và âm thầm chịu đựng.
Thời kỳ chiếm được miền Nam
Sau khi chiếm được miền Nam vào ngày 30/4/1975, CS Hà Nội đem ngay chính sách tôn giáo đă từng thi hành tại miền Bắc từ 1954-1975 vào áp dụng cho miền Nam. Có thể chia thời kỳ này làm 2 giai doạn : 1975-1989 và 1989 cho tới nay.
* Giai đoạn 1975-1989 : 10 năm đầu (1975-1985) được CS gọi là giai đoạn "chuẩn bị tiến lên XHCN" và 4 năm sau (1985-1989), CS gọi là giai đoạn "tiến lên XHCN" hay giai đoạn "cải tạo".
a) Giai đoạn "chuẩn bị tiến lên XHCN". Trong giai đoạn này, CS chủ trương thanh toán ngay 3 thành phần sau đây : các phần tử đại điền chủ, tư sản mại bản và các tôn giáo; tịch thu tất cả tài sản của 3 thành phần này và trao cho "nhân dân làm chủ", "nhà nước quản lư" thực tế là biến thành cơ sở quốc doanh.
Đại cương kế hoạch đánh phá các tôn giáo được tóm lược như sau :
- Bắt bớ hoặc cô lập hóa các lănh tụ tôn giáo và các tu sĩ có uy tín, khả năng, có ảnh hưởng lớn với tín đồ.
- Đóng cửa hoặc tịch thu các trụ sở, các cơ sở văn hóa, xă hội, y tế, tài sản của các giáo hộị
- Lập các giáo hội quốc doanh hoặc các Ủy ban Yêu nước bên cạnh các tôn giáo và dành cho những giáo hội hay Ủy ban này nhiều đặc ân, đặc quyền, với mục đích kiểm soát, lũng đoạn các tôn giáo.
- Lập các mạng lưới công an chuyên theo dơi các hoạt động tôn giáo, gài người vào các tôn giáo để báo cáo các hoạt động của các giáo hội hoặc rỉ tai, gây phân hóa, nghi kỵ trong nội bô..
Phần 12
Đối với CG, CS t́m cách cô lập giáo hội này với bên ngoài và làm khó dễ những vị lănh đạo cao cấp và có uy tín.
Trước hết, CS ra lịnh cho "Ủy ban Đoàn kết CG Yêu nước" mới được thành lập dứng ra tổ chức "Phong trào quần chúng" biểu t́nh đ̣i trục xuất Đức Khâm Mạng Ṭa Thánh Henri Lemaitre và Đức ông Trân Ngọc Thụ (hiện là bí thư riêng của Đức Giáo Hoàng John Paul II), bí thư của ngàị Để làm việc này, CS đă giao quyền cho 2 linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần, mà họ đă móc nối được trong thời gian 2 ông này được Giáo hội CGVN cho đi du học ở Pháp, tổ chức và dùng "Phong trào quần chúng" trên để yêu cầu trục xuất 2 vị trên. "Phong trào quần chúng" gồm 7 tổ chức sau đây : Thanh niên Công giáo Đại học, Công giáo Xây dựng Ḥa b́nh, Thanh lao công, Liên đoàn Sinh viên Công giáo, Công giáo và Dân tộc, Nhóm Liên tu trẻ và Đoàn Sinh viên Dự tập Ḍng Chúa Cứu Thế. Đa số các tổ chức này mới được thành lập, mỗi tổ chức chỉ có vài người.
Trước hết, họ cho phổ biến một bức tâm thư tố cáo Đức TGM Henri Lemaitre trước đây đă yểm trợ cho chính sách "thực dân mới" của Hoa Kỳ và cho chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, tố cáo các Khâm sứ Ṭa thánh đă can thiệp quá nhiều vào vấn đề nội bộ củ VN và tuyên bố "Giải thoát các GM miền Nam VN khỏi áp lực xâm lấn của Khâm sứ Ṭa thánh là giúp giáo hội VN được trưởng thành". Ngày 2/5/75 họ biểu t́nh đ̣i Đức Khâm sứ phải ra đị Ngày 14/5/75, một đoàn biểu t́nh do Đoàn Phú Khánh đứng đầu, đă xâm nhập Ṭa Khâm sứ đường Hai Bà Trưng trèo lên nóc nhà hạ cờ Ṭa thánh xuống và căng biểu ngữ đ̣i Khâm sứ phải cút đị Họ đẩy Đức Khâm sứ, một linh mục phụ tá người Ba-lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi Ṭa Khâm sứ. Linh mục Huỳnh Công Minh chụp h́nh c̣n linh mục Thanh Lăng (lúc này chưa thức tĩnh) phát bản cáo trạng tố cáo 5 đời Khâm sứ Ṭa thánh can dự vào vấn đề nội bộ của VN.
Trong thời gian từ 5/5/75 - 4/6/75, các nhóm trên đă tiếp xúc với Đức Khâm sứ để đe dọa và nói nếu không rời VN, họ sẽ có những "biện pháp đáng tiếc".
Ngày 3/6/75, các nhóm này đến khuấy phá Ṭa Khâm sứ một lần nữa, họ khuấy phá cả vào lúc ban đêm. Nghe tin này, các thanh niên giáo xứ Bùi Phát kéo tơi định can thiệp, nhưng khi mới kéo tới cầu Trương Minh Giảng th́ bị bộ đội xả súgn bắn thẳng vào, một người chết và nhiều ngươi bị thương. Linh mục Vũ B́nh Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt sau đó.
Ngày 4/6/75, Bộ Ngoại giao Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam đă mời Đức Khâm sứ Henri Lemaitre tới yêu cầu ngài phải lánh khỏi VN trong một thời gian càng sớm càng tốt. Ngày hôm sau, Đức Khâm sứ đă phải rời VN.
* Trục xuất Đức TGM Nguyễn Văn Thuận :
Trước 30/4/75, theo đề nghị của Đức Khâm sứ Henri Lemaitre, ngày 25/4/75, Vatican đă bổ nhiệm GM Nguyễn Văn Thuận, đang là GM Nha Trang, làm Tổng GM hiệu ṭa Vadesitana, Phụ tá Tổng GM Saigon với năng quyền kế vị Tổng GM Saigon. Ngày 12/5/75, TGM Nguyễn Văn B́nh cho phổ biến thông báo sự bổ nhiệm nói trên. Được tin này, một số LM thân Cộng đă đến bao vây TGM Nguyễn Văn B́nh và Phó TGM Nguyễn Văn Thuận đang có mặt tại Chủng viện Thánh Giuse ở đường Cường Để để chất vấn và yêu cầu Phó TGM Thuận từ chức. Nhóm linh mục này gồm có Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đ́nh Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lăng, Nguyễn Quang Lăm và Hoàng Kim.
Trước đó, ngày 8/5/75, nhóm linh mục nói trên đă gởi TMG B́nh một văn thư yêu cầu hoăn công bố việc bổ nhiệm TGM Thuận. Kư tên trong văn thư này có các linh mục Huỳnh Công Minh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Thiện Toàn, Nguyễn Văn Ḥa, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Nghi..
Ngày 13/5/75, một toán "sinh viên CG" nằm trong tổ chức đ̣i trục xuất Đức Khâm sứ Henri Lemaitre đă xâm nhập Ṭa TGM Saigon, căng lên 3 biểu ngữ như sau :
"Nguyễn Văn Thuận, GM của ai ?"
"V́ quyền lợi của GHVN, yêu cầu Nguyễn Văn Thuận từ chức"
"Không có ḥa giải, Nguyễn Văn Thuận phải rút lui"
Ngoài ra, nhóm này cũng gởi lên Đức Khâm sai, người mà họ đang yêu cầu "cút đi", một thỉnh nguyện thư tố cáo GM Thuận là một GM chống Cộng, thuộc ḍng dơi chống Cộng cực đoan, đă tổ chức Phong trào Công lư và Ḥa B́nh để huấn luyện cán bộ chống Cộng và góp phần thành lập đảng Nhân xă, hậu thân của đảng Cần Laọ Họ lên án GM Thuận là thành phần chống Cộng thâm tín nhất, quy mô nhất và hữu hiệu nhất... Theo họ, trong tinh thần ḥa hợp hiện nay, khi "Mỹ-Thiệu và tay sai đă dẫm lên nhau chạy trốn, sự bổ nhiệm một GM chống Cộng tại Saigon là một điều nguy hiểm không những cho GH mà c̣n cho cả dân tộc VN". Họ đ̣i TGM Thuận phải từ chức để "tránh cho GH và dân tộc VN những phiêu lưu vô vọng và nguy hiểm".
Sau khi hội kiến với nhóm chống đối để thông cảm không thành công, ngày 7/6/75, TGM B́nh đă gởi thông cáo cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho biết :"Tôi đă hết sức ôn ḥa và thông cảm đồng thời giải thích trực tiếp hoặc gián tiếp cho những ai muốn đối thoại với tôi về những sự việc trên. Nhưng t́nh trạng ấy chưa khả quan hơn". Sau đó ông kêu gọi :"Tôi kêu gọi tất cả quư cha, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Ṭa thánh La Mă".
Ngày 8/6/75, TGM B́nh cũng gởi cho Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTGPMN yêu cầu 3 điểm sau :
- Triệt để thi hành Sắc lịnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ để gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với chính phủ.
- Chấm dứt chiến dịch tuyên tryền bôi nhọ, vu cáo các chức sắc của GHCG VN.
- Chận đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp trục xuất TGM Nguyễn Văn Thuận, v́ việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc lịnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường đưọc, về đối nội cũng như đối ngoại, cho quốc gia dân tộc.
Nhưng câu chuyện căi qua căi lại này rồi cũng phải kết thúc. Chiều ngày 15/8/75, tại Nhà Hát Thành Phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ), Ủy ban MTGPMN TPHCM tổ chức cuộc họp gồm 350 đại diện các ḍng tu nam nữ và giáo xứ để nghe họ tŕnh bày về trường hợp TGM Thuận. Ông Mai Chí Thọ tuyên bố chính quyền Cách mạng quyết định đưa TGM Thuận về lại Nha Trang, nơi đương sự cư trú trước 30/4/75 với lư do sự hiện diện của đương sự gây trở ngại cho sự đoàn kết dân tộc.
Ngày 15/8/75, CS bắt TGM Thuận nhưng không đưa về Nha Trang mà đưa ông ra Vĩnh Phú. Sau một thời gian bị giam giữ, nhờ sự can thiệp của các tổ chức quốc tế và Vatican, ông được đưa đi quản thúc tại giáo xứ Giang Xá cách Hà Nội khoảng 20 km cho đến ngày 21/11/1988 th́ được phóng thích, nhưng đặt trong t́nh trạng quản chế. Năm 1991, ông bị cưỡng bức xuất ngoại và hiện nay ở La Mă. CS cương quyết không cho ông về kế vị TGM B́nh hay làm TGM bất cứ nơi nào ở VN.
* Thanh toán những tu sĩ có uy tín hay có "nợ máu với nhân dân" :
Song song với việc trục xuất Đức Khâm sứ Ṭa thánh Henri Lemaitre và TGM Nguyễn Văn Thuận, CS thanh toán các linh mục có khả năng chống đối chính phủ.
1) Linh mục Hoàng Quỳnh : Khi c̣n ở Phát Diệm, ông đă từng giữ chức Tổng tuyên úy Thanh niên, Cố vấn chỉ đạo Chiến khu Công giáo Phát Diệm, Phó chủ tịch Ban chấp hành Mặt trận Công giáo Cứu quốc và Tổng chỉ huy Tự vệ, nên thường được gọi là cha Tổng. Vạ Nam, ông coi giáo xứ B́nh An ở Chợ Lớn. Năm 1964, khi có các rối loạn do Hội đồng Nhân dân Cứu quốc miên Trung gây ra, ông được bầu làm Chủ tịch Khối Công dân Công giáo để đối phó với t́nh h́nh. Tính t́nh ḥa nhă, không bao giờ khích bác ai, nhưng rất cương quyết. Ông đă giúp khối Công giáo đương đầu với nhiều hoàn cảnh khó khăn. Với một người có thành tích như vậy, CS không bao giờ để cho tự do khi họ chiếm được miền Nam. Năm 1976, sau vụ Vinh Sơn, công an đă bắt linh mục Hoàng Quỳnh giam vào khám Chí Ḥa với tội danh là thành phần phản động và có nợ máu với nhân dân. Ông bị bọn cán bộ quản lư trại giam đánh chết năm 1979 tại khám Chí Ḥa rồi đem xác đi chôn lén.
2) Linh mục Trần Hữu Thanh : Ông sáng lập Phong trào Chống tham nhũng dưới thời TT Nguyễn Văn Thiệu và phát động phong trào này khắp miền Nam. Ông là linh mục Ḍng Chúa Cứu Thế và là nhà hùng biện của GHCGVN. Ông có tài diễn thuyết rất hấp dẫn và sâu sắc. Chính ông là người đă viết bộ "Cẩm nang của người CG d+ới chế đô CS", đem huấn luyện cho các cán bộ CG 2 năm trước ngày CS chiếm miền Nam. Rút kinh nghiệm về các biện pháp mà CS áp dụng tại miền Bắc, ông hướng dẫn giáo dân phương cách để có thể tồn tại khi phải sống dưới chế độ CS. Công an bắt ông giam vào khám Chí Ḥa sau khi chiếm được miền Nam; sau đó đưa ông ra quản chế tại miền Bắc.
3) Linh mục Đinh B́n Định : Ông là một linh mục trẻ, có kiến thức rộng, trông coi giáo xứ Tân Sa Châu ở Q3, Saigon. Ông có tài tổ chức quần chúng thành hàng ngũ để đối phó với mọi biến cố. Ông cũng là Phó Chủ tịch Phong trào Chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh. Mặc dầu ông có kư tên vào thỉnh nguyện thư yêu cầu TGM Thuận từ chức, nhưng sau đó ông vẫn bị công an bắt đi cải tạo 10 năm. Ông nói rằng ông chỉ chống tham nhũng chứ chưa có hành động ǵ chống Cách mạng và không hiểu tại sao CS đă giam giữ ông lâu như thế. Thực ra CS giam ông chỉ v́ họ biết ông là người có tài tổ chức và có uy tín với giáo dân. CS đề pḥng khi có những sự bất măn v́ các chính sách mới của họ và ông có thể sẽ đứng lên tổ chức giáo dân chống chế độ; do đó họ bắt ông trước để trừ hậu họạ Sau khi t́nh h́nh đă ổn định, họ đă thả ông ra.
Gần như giáo phận nào cũng có các giáo sĩ bị giam giữ trong t́nh trạng tương tợ như trên. Tính chung, đă có hơn 200 linh mục bị đưa đi học tập cải tạo, trong đó có 139 linh mục tuyên úỵ Khoảng 15 linh mục đă chết trong các trại tù. Riêng linh mục Trần Học Hiệu bị xử tử tại Biên Ḥa.
* Năm tháng thăng trầm :
Như đă biết, ngay sau ngày 30/4/75, các linh mục tuyên úy bị ảnh hưởng đầu tiên trong chiến dịch tiêu diệt tôn giáo qua các trại tù mệnh danh là "học tập cải tạo". V́ thế, dù quản giáo cấm nghiêm nhặt các vụ đọc kinh, làm lễ, vẫn có những buổi lễ cầu nguyện âm thầm trong giờ ngủ, lúc lao động và ngay cả trong các nhà cầụ Vẫn có những buổi làm lễ giữa linh mục tuyên úy và người tù "con chiên" trong những khoảnh khắc của bóng tốị
Những kẻ hả hê về một cuộc chiến thắng bất ngờ càng nghênh ngang hơn nữạ Sau khi CS trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre vào 5/6/75, GM Sietz và các linh mục, tu sĩ ngoại quốc đều bị mời khéo "về thăm gia đ́nh" kể từ ngày 12/8/75. Trước t́nh thế này, giáo hội âm thầm chuẩn bị nhân sự cho tương lai với các cuộc phong chức gấp rút 6 giám mục trong số này có GM Nguyễn Văn Thuận như đă kể trên.
Từ 15-20/12/75, 21 GM miền Nam hội họp có sự tham dự của cán bộ CS và đưa ra bản thông cáo chung, có đoạn : "Đồng bào sẽ thấy ta sát cánh với họ trên đường xây dựng quê hương... Người tín hữu phải coi như có bổn phận và vinh dự được đem niềm tin của ḿnh vào việc làm chứng cho nước giàu, dân mạnh". Bản thông cáo này cho thấy rơ CS muốn chứng minh sự hậu thuẫn của CGVN. Nhưng chẳng bao lâu, ngày 13/2/76 vụ nhà thờ Vinh Sơn nổ ra làm chấn động giáo dân Saigon.
Vụ Mặt Trận Phục Quốc : vụ này thường được gọi là vụ Vinh Sơn v́ xảy ra tại khu nhà thờ Vinh Sơn ở Q3, Saigon. Một nhóm giáo sĩ và giáo dân đă thành lập một tổ chức chống Cộng có tên là Mặt Trận Phục Quốc, đặt trụ sở phía sau nhà thờ Vinh Sơn. Liên hệ đến vụ này có các linh mục Đỗ Văn Nghị, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Văn Chức và ông Nguyễn Việt Hưng. 2 linh mục Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Văn Chức bị án khổ sai chung thân, c̣n linh mục Đỗ Quang Nghị bị án tử h́nh; ông bị bắn tại Thủ Đức ngày 15/3/78. Khoảng 200 linh mục bị bắt sau đó. Nỗi lo sợ bao trùm khắp nơi, nhiều linh mục đă chuẩn bị sách nguyện và quần áo để ra đi bất cứ lúc nào bị "gơ cửa".
CS tiếp tục khủng bố tinh thần giáo dân bằng những buổi học tập chính trị dành cho các linh mục, tu sĩ ở tất cả các địa phận, đặc biệt là ở miền Nam. Các vị thừa sai và tu sĩ ngoại quốc c̣n lại đều bị trục xuất vào tháng 6/76. Nhằm mục đích vừa tạo "t́nh thân" vừa răn đe sự "lệch lạc chính sách", trong 2 tháng 8-9/76, Phạm Văn Đồng gặp Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê, Đức cha Trịnh Văn Căn, TGM Nguyễn Kim Điền và TGM Nguyễn Văn B́nh.
Vụ Việt Tiến : Vụ này xảy ra ở khu nhà thờ Fatima, B́nh Triệu vào năm 1977 nên thường được gọi là vụ Fatimạ Một số giáo sĩ và giáo dân tổ chức chống lại các sự vi phạm quyền tự do tôn giáo của CS. Linh mục nhạc sĩ Huyền Linh bị phạt chung thân khổ sai, c̣n linh mục Vơ Văn Bộ bị phạt 15 năm tù và được trả tự do vào năm 1992.
Ngày 20/9/77, VNCS được chấp nhận gia nhập LHQ. Gần 2 tháng sau, CS liền thách thức bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bằng Nghị quyết 297/CP, ngày 11/11/77, công khai chỉ định những giới hạn tự do tín ngưỡng, mở đầu cho những vụ đàn áp tôn giáọ Đây là một nghị quyết ấn định những biện pháp gắt gao nhằm kiềm chế và vô hiệu hóa các tôn giáọ Nghị quyết này chỉ cho phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự chính thức, hoạt động ngoài các cơ sở này bị coi là truyền giáo bất hợp pháp, những người hoạt động sẽ bị đưa đi cải tạo dài hạn. Các hội đoàn tôn giáo như Đạo binh Đức Mẹ, Thiếu nhi Thánh thể,...đều bị cấm hoạt đô.ng. Các tu viện không được nhận tuyển sinh mới v́ không cho vào "hộ khẩu" của tu viện. Mọi việc phong chức, thuyên chuyển các giáo sĩ đều đặt dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của CS.
Trong tháng 4/77, qua 2 bài phát biểu, TGM Nguyễn Kim Điền của địa phận Huế đă thẳng thắn tố cáo "Sau 2 năm, ngươi CG thấy tự do tôn giáo chỉ có trên văn bản (qua 5 sắc lệnh và thông tư về tôn giáo), c̣n các hoạt động bị hạn chế, các khẩu lệnh đi ngược lạị Người CG làm ǵ cũng bị nghi ngờ, chèn ép". Ông c̣n dùng ngay cả câu nói mị dân của HCM để lật mặt CS :"...Không diệt được th́ chỉ có cách là tôn trọng tự do tín ngưỡng để đồng bào cùng nhau xây dựng đất nước về mặt vật chất. C̣n tín ngưỡng th́ ai chọn tôn giáo nào tùy sở thích, đừng đụng tớị Như vậy mới thoải mái và đoàn kết được... Có người nói Hồ chủ tịch thường căn dặn cán bộ trí thức rằng "lao động trí óc mà không lao động chân tay, hoặc lao động chân tay mà không bồi dưỡng trí óc th́ là một con người bán thân bất toại". Câu nói đó rất chí lư sáng suốt. Th́ cũng vậy, con người chỉ thoải mái về vật chất mà không thoải mái về tín ngưỡng th́ cũng là con người bán thân bất toạị Nhưng không phải tự do họ muốn, mà là bị ép buộc bán thân bất toạị Như thế ích lợi ǵ cho tổ quốc".
Cho đến ngày 5/11/77, nhân dịp qua Vatican họp Thượng hội đồng, TGM Nguyễn văn B́nh mới có thể nói lên ưu tư của GHCGVN về tương lai mà con người phải sống với chủ thuyết CS. Ông có nói đến một số cơ sở của giáo hội bị trưng dụng, nhất là các trường đạo, như các viện đại học Đà Lạt và Minh Đức, Giáo hoàng chủng viện, Ḍng Chúa Cứu Thế ở Đà Lạt, Nha Trang; hệ thống các trường mẫu giáo, tiểu học và trung học trên toàn quốc; các bịnh viện, cơ quan từ thiện... Một số cơ sở tịch thu được giao cho Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước sử dụng để hoạt động song song với tổ chức của giáo hội trong khắp nước. Ủy ban này được đặt dưới quyền điều khiển của Mặt Trận Tổ Quốc, một cơ quan dân vận của Đảng CSVN. Trong t́nh trạng đen tối đó, Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê qua đời ngày 7/11/78; gần một năm sau Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn được tấn phong chức vụ nàỵ
Vụ Mặt Trận Liên Tôn : Vụ này do linh mục Ḍng Chúa Cứu thế Nguyễn Văn Vàng chủ động. Ông là một nhà hùng biện nổi danh của GHCGVN. Ông đă lập chiến khu Phụng Thiên ở vùng Phương Lâm và Gia Kiệm vào năm 1979. Nhờ tài thuyết phục của ông, rất nhiều người theọ Nhưng do phản gián của CS len lỏi vào, chiến khu của ông bị phá vỡ, ông bị kết án khổ sai chung thân và chết tại Hàm Tân, B́nh Tuy, năm 1989.
Tháng 9/79, Ban Tôn giáo của CSVN phổ biến một tài liệu mật cho các cán bộ đảng cao cấp ở địa hương có tiêu đề "Trách vụ của chúng ta đối với GHCG" dài 19 trang đánh máy và chia ra làm 8 mục. 2 mục đầu tiên xác định "bạn - thù" :
1. Bản tính và t́nh trạng CG tại VN bị coi là "bộ phận của Giáo Hội hoàn vũ, có đầu năo ở Vatican, gồm một nhóm bóc lột có tầm hoạt động lớn, luôn luôn gắn liền với đế quốc phản động".
2. Trách vụ của đảng CS đối với GH ở VN nhằm "cải cách và biến đổi GH dần dần trở thành một tổ chức tôn giáo trọng chính sách và luật pháp, được thúc đẩy bởi ḷng ái quốc, gần gũi nhà nước và XHCN. Sách lược là phân loại 4 nhóm để đối xử khác nhau : nhóm tiến bộ, nhóm chủ trương thích ứng, nhóm chưa dứt khoát lập trường và nhóm phản động".
5 mục c̣n lại là chính sách đối với từng bộ phận sinh hoạt của giáo hộị
Từ ngày 24/4 - 1/5/80, 33 GM toàn quốc họp lần đầu tiên và chính thức thành lập Hội đồng Giám mục VN (HDGMVN), đưa ra một bức thư chung khá dài nói về đường hướng mục vụ "đi trong ḷng dân tộc". Thư nhắn nhủ với từng trách nhiệm của giáo dân, tu sĩ, linh mục... Từng câu từng chữ đều được viết rất thận trọng, nhưng ư nhấn mạnh đến việc đoàn kết người trong đạo, kêu gọi giáo dân dạy giáo lư ngay trong gia đ́nh "nếu bên ngoài có thay đổi"... Từ tháng 5/80, CS cho phép nhiều GM sang Vatican để chứng tỏ "sự ưu đăi CG", nhưng chỉ 2 tháng sau, CS đem cha Nguyễn Văn Vàng và một số cha Ḍng Tên bị bắt đem ra ṭa về tội thành lập Mặt Trận Liên Tôn.
Vụ Đắc Lộ : Trung Tâm Đắc Lộ thuộc Ḍng Tên tọa lạc ở 161 đường Yên Đỗ (nay là Lư Chính Thắng), Q3, Saigon. Đây là một trung tâm khá lớn mà CS muốn chiếm từ lâu, nhưng chưa có cơ hộị Trung tâm này có phát hành một tờ báo nhỏ in Ronéo, có tên là Đạo Nhập Thế, do linh mục Lê Thanh Quế chủ biên. Tờ báo hướng dẫn cách sống đạo của người CG trong giai đoạn mới chớ không trực tiếp chống chính quyền.
Những người đi phổ biến tờ bà'o có ông Nguyễn Văn Hiển và nhiều sinh viên. Công an biết ông Nguyễn Văn Hiển là một thành phần có tinh thần chống Cộng nên cho 2 mật báo viên vốn là người quen biết của ông Hiển từ trước, trong đó có một người tên Mai, đến xin tham gia phổ biến tờ báo để theo dơị V́ 2 người này đều là CG, một người xuất thân từ trường Taberd, nên được ông Hiển tin cậỵ Một thời gian sau, 2 người này xúi ông Hiển nên lợi dụng việc phổ biến tờ báo, thuyết phục các giáo sĩ và giáo dân tổ chức vơ trang chống Cộng, dùng cơ sở Đắc Lộ làm bản doanh hoạt động, họ sẽ t́m mua vơ khí và cung cấp chọ Có lần họ đem vơ khí đến giao cho ông Hiển, nhưng ông không nhận. Trước mặt 2 tên này, ông Hiển chưa làm ǵ khác hơn là phê b́nh chế độ CS. Những lời phê b́nh này đều được 2 mật báo viên cung cấp đầy đủ cho công an. Sau khi dụ dỗ ông Hiển và những người liên hệ vơ trang chống đối không xong, 2 tên nội tuyến này đă đem một số tài liệu hô hào chống Cộng để nhờ ông Hiển phân phối cùng một lúc với tờ báo Đạo Nhập Thế.
Khi hay tin rằng các tài liệu chống Cộng đă được đem vào Trung Tâm Đắc Lộ để phát một lần với tờ báo, ngày 12/12/80, công an tràn vào lục soát khắp nơi, nhưng không bắt được tài liệu phản động nàọ Tuy vậy, công an vẫn bắt linh mục Nguyễn Công Đoan, Giám Tỉnh Ḍng Tên tại đây, LM lê Thanh Quế, chủ biên tờ báo, và các LM trong Trung Tâm như Khuất Duy Nguyên, Đỗ Quang Chính và Hoàng Sĩ Quư. Ông Hiển và những người liên hệ đều bị bắt.
Khi đối chất với 2 tên mật báo tại công an, ông Hiển đă bác bỏ tất cả những lời tố cáo của 2 tên này và công an cũng không đưa dược bằng chứng cụ thể nào để buộc tộị Các LM bị bắt đă khai rằng họ không biết ǵ đến hành động của ông Hiển và 2 tên mật báo viên kiạ Nhưng cuối cùng tất cả đều bị truy tố ra ṭa về 2 tội chính : âm mưu lật đổ chính quyền và tuyên truyền đầu độc dư luận chống phá chế đô.. Trong phiên ṭa ngày 29/6/82, các cuộc đối đáp qua lại khá gây cấn : ông Hiển yêu cầu Viện Kiểm Sát Nhân Dân xuất tŕnh bằng chứng ông đă âm mưu lật đổ chế độ, nhưng Viện Kiểm Sát đă trả lời :"Bằng chứng không quan trọng bằng cái đầu óc của anh". LM Lê Thanh Quế nói ông không biết ǵ về các việc ông Hiển và 2 nhân chứng đă làm và nếu bảo có âm mưu lật đổ chính quyền th́ xin ṭa đưa ra bằng chứng và hậu quả. Ṭa trả lời rằng, "Tội của bị cáo không phải là tội h́nh mà là tội chính trị nên không cần bằng chứng và hậu quả. Nếu phải chờ bằng chứng và hậu quả th́ chế độ đă bị lật đổ mất rồi".
LM Nguyễn Công Đoan đă bị truy tố về tội hỗ trợ cho LM Lê Thanh Quế phát hành báo chí bất hợp pháp. Ông tŕnh bày rằng tờ Đạo Nhập Thế đă có trước 30/4/75, chỉ hướng dẫn về giáo lư, không đề cập đến chính tri.. Nếu bảo rằng chống đối chế độ, xin hăy cho bằng chứng.
Kết quả ṭa của CS vẫn tuyên án ông Hiển khổ sai chung thân. LM Lê Thanh Quế 15 năm tù giam, LM Nguyễn Công Đoan 12 năm tù giam, LM Đỗ Quang Chính 5 năm tù giam và LM Khuất Duy Linh 4 năm tù treo và 5 năm thử thách. Toàn bộ cơ sở Đắc Lộ bị tịch thu và hiện nay được dùng làm cơ sở của ṭa soạn báo Tuổi Trẻ.
Ông Nguyễn Văn Hiển bị đưa ra giam ở trại trừng giới Xuân Phước ở Phú Yên. Đây là một trại khổ sai được dối xử tàn tệ nhất tại miền Nam VN. Đến năm 1991 v́ quá già yếu, ông được chuyển về trại Z30A ở Xuân Lộc và đă chết tại đây vào ngày 22/11/1992. Ông Hiển xuất thân từ Đại chủng viện Huế, đă dành cả cuộc đời tham gia tích cực vào các hoạt động tôn giáo, xă hội và chính trị, nhưng cuối cùng ông đă bị CS lừa và chết trong tù. Lúc c̣n bị giam ở Saigon, ông bị tra tấn dă man và bị biệt giam liên tục cho đến ngày xét xử.
Sau khi thanh toán tờ Đạo Nhập Thế, công an bắt luôn ông Vũ Huy Bá, hiệu là Xuân Huy, vào ngày 8/9/81 về tội xuất bản bất hợp pháp tờ Sống Đức Tin và kết án ông tập trung cải tạo 5 năm. Ông Xuân Huy đă dùng tờ Sống Đức Tin để phê b́nh sự hướng dẫn lệch lạc về giáo lư của tờ báo CG quốc doanh là tờ "Công giáo và Dân tộc" của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước. Nhóm này đă yêu cầu công an bắt ông. Sau khi ra tù, ông cùng gia đ́nh được đi định cư tại Mỹ năm 1993 và ông đă viết cuốn "Đức tin đại thắng" nói về các vụ đàn áp CG tại VN.
Tới đây, ta tạm dừng lại việc theo dơi những diễn tiến theo năm tháng để t́m hiểu về ư nghĩa của những "quy chế tôn giáo" và việc "đoàn ngũ hoá giáo sĩ cũng như thiết lập giáo dân quốc doanh" để biết mưu độc của CS ra saọ
Sửa đổi và xiết chặt quy chế tôn giáo
Như đă được tŕnh bày ở trên, sau khi chiếm được miền Bắc, ngày 14/6/55, HCM đă cho ban hành Sắc lệnh số 234/SL về Tôn giáọ Tuy gọi là Sắc lệnh về Tôn giáo nhưng nội dung Sắc lệnh nhắm vào CG, v́ lúc đó Phật giáo chưa tổ chức thành giáo hộị Các tăng sĩ PG đều bị tập trung vào Hội Phật giáo VN Thống nhất do Ḥa Thượng Thích Trí Độ làm Hội trưởng và đặt dưới quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc, nên không cần quy chế nào khác. GHCGVN không nằm trong hệ thống chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc nên bị chi phối bởi Sắc lệnh về Tôn giáọ Khi chưa quen với chế độ CS, các linh mục nhận thấy rằng Sắc lệnh này tước đoạt mất quyền tự do hành đạo và truyền đạo nên đă công khai chống đối.
Điều 3 của Sắc lệnh dự liệu :
"Các nhà truyền giáo ngoại quốc dưới sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa có thể dạy tôn giáo ḿnh như những người truyền giáo VN và phải tôn trọng luật pháp nước VNDCCH như những người ngoại quốc khác".
Điều 6 cho phép các tôn giáo mở các trường huấn luyện để đào tạo những người đảm nhiệm các giáo vu.. Điều 9 cho phép tôn giáo mở các trường tư thục và việc giảng huấn nhưng phải theo chương tŕnh nhà nước đưa rạ Các trường tư CG có thể dạy thêm giáo lư cho học sinh nào muốn. Điều 13 quy định rất hấp dẫn :
"Chính quyền dân sự không can tiệp vào nội bộ tôn giáọ Những liên hệ giữa GHCGVN với Ṭa Thánh La Mă là vấn đề nội bộ".
Đây chỉ là bánh vẽ đưa ra để lừa dối tín đồ của các tôn giáọ Mặc dù quy luật đuy định như vậy, trong thực tế CS đă dần dần khống chế GHCG miền Bắc về mọi phương diện. Đến năm 1957, HCM ban hành Sắc lệnh số 102/SL ngày 20/5/57 về việc lập hội và bắt các đoàn thể tôn giáo muốn hoạt động phải theo quy chế lập hội này.Năm 1975, khi mới chiếm được miền Nam th́ CS cũng đă đưa Sắc lệnh ngày 14/6/55 vào rêu rao ở miền Nam để chứng minh cho các tín đồ các tôn giáo thấy rằng dưới chế độ CS cũng có tự do tôn giáọ Nhưng sự rêu rao này đă gây những hậu quả tai hạị TGM Nguyễn Văn B́nh đă viện dẫn Sắc lệnh nói trên để chống lại việc CS phát động chiến dịch yêu cầu hủy bỏ quyết định bổ nhiệm GM Nguyễn Văn Thuận làm Phó TGM Saigon. V́ thế, chỉ một thời gian ngắn sau, CS đă xiết chặt các sinh hoạt tôn giáo lại bằng Nghị quyết 297 ngày 11/11/1977. Bằng một quyết định hành chánh đơn giản, CS đă thay đổi cả một văn kiện pháp quy của chính họ là Sắc lệnh ngày 14/6/1955. Nội dung Nghị quyết 297 gồm
những điểm sau đây :
- Những hoạt động tôn giáo ngoài các cuộc hành lễ thông thường đều phải xin phép. Muốn tổ chức các lớp giáo lư, các cuộc hành lễ đông người từ nhiều nơi đến tham dự, các cuộc hội họp về tôn giáo chung cho nhiều nơi...phải có giấy phép của chính quyền.
- Chỉ được giảng đạo trong phạm vi cơ quan của tôn giáo và khi giảng đạo phải động viên tín đồ làm nhiệm vụ công dân, chấp hành chính sách và luật pháp của nhà nước. Không được tuyên truyền chống chế độ XHCN, gây chia rẽ và tuyên truyền mê tín dị đoan.
- Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển những người chuyên hoạt động tôn giáo phải có sự đồng ư của chính quyền.
- Giáo hội TCG được phép quan hệ với Vatican về mặt tôn giáo, nhưng phải tôn trọng chủ quyền và luật pháp quốc giạ
- Ruộng đất của các tôn giáo được để lại sau khi cải tạo có thể giao cho hợp tác xă quản lư và hưởng mức lời từ 25-30% tổng số thu hoa.ch.
Đến năm 1991, CS lại ban hành Nghị định số 69-HDBT ngày 21/3/1991 điều chỉnh lại quy chế tôn giáọ Nội dung của Nghị định này không khác Nghị quyết 297 bao nhiêu, nhưng quy định tổng quát hơn nên phạm vi áp dụng rộng răi hơn, nhiều chi tiết áp dụng được quy định tỉ mỉ hơn. Đại lược nội dung Nghị định gồm các điểm chính sau đây :
- Chỉ dược phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự được công nhận và chương tŕnh sinh hoạt phải đăng kư trước hàng năm.
- Việc đào tạo các nhà tu hành phải được nhà nước cho phép, xem xét về nhân sự, kiểm tra việc dạy và việc học.
- Việc phong chức cho các giáo sĩ phải được sự chấp thuận của Hội Đồng Bộ Trưởng.
- Việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các nhà tu hành phải được sự chấp thuận của cấp chính quyền liên hê..
- Các ḍng tu hay các h́nh thức tu tập thể chỉ có thể hoạt động sau khi có giấy phép của Hội Đồng Bộ Trưởng.
- Các cá nhân hoặc các tổ chức tôn giáo muốn nhận viên trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép Hội Đồng Bộ Trưởng.
Nhà cầm quyền CS đă hành động bất chấp hệ cấp pháp lư: Dùng Nghị quyết là một quyết định hành chánh để sửa đổi một văn kiện pháp quy là một Sắc lệnh, rồi sau đó dùng một văn kiện lập quy ở cấp thấp là một Nghị định để thay thế một văn kiện cấp cao là một Sắc lê.nh. Điều nay cho thấy khả năng về pháp lư của CS rất thấp và CS nghĩ rằng họ có thể làm bất cứ cái ǵ mà họ thấy cần, nên bất chấp cả yếu tố pháp lư do chính họ đặt ra..
Sau khi Nghị định nói trên được ban hành, các tôn giáo bị khống chế hoàn toàn.
Thành lập cơ cấu CG quốc doanh để lũng đoạn CGVN
1) Lập đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh :
Nhận thấy tổ chức "Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hoà b́nh" không gây được ảnh hưởng ǵ đối với GHCG miền Bắc trong suốt 20 năm, CS Hà Nội muốn có một cơ cấu mạnh mẽ hơn.
Công việc đầu tiên của CS Hà Nội là củng cố một đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh ma.nh. Nhận thấy một số đông LM và giáo dân "cấp tiến" đứng ra đ̣i trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre, CS rất phấn khởị Tại mỗi tỉnh, CS kêu gọi thành lập một Ban Liên Lạc Công Giáo để giải quyết những vấn đề giữa CG và chính quyền và đưa một số giáo sĩ có uy tín vào, với mục đích về sau biến các tổ chức này thành một giáo hội tự trị (tách rời Vatican). Nhà cầm quyền CS không cần biết đến Hội Đồng Giám Mục và các GM giáo phận.
Một số giáo sĩ được mời lầm tưởng họ chỉ đóng vai tṛ liên lạc giữa chính quyền và CG. Về sau, đa số các giao sĩ này đă nhận ra âm mưu thành lập GH tự tri.. và họ đă rút luị Một số khác, sau một thời gian hợp tác, đă nhận ra bộ mặt thực của CS nên quay lại chống đối chế đô..
Tại miền Bắc, các LM sau đây đă tham gia "Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hoà b́nh" : Vũ Xuân Kỷ (đă qua đời), Nguyễn Thế Vịnh (đă qua đời), Hồ Thành Biên, Phạm Quang Phước và Vơ Thành Trinh. Tại miền Nam, số LM tham gia "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" lúc đầu khá đông như Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đ́nh Bích, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Bảo Tụng, Nguyễn Thiện Ư, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Viết Nam và Mai Hùng. Trong thời gian tranh đấu đ̣i trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre và băi chức GM Thuận, các LM sau đây cũng tham gia : Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thanh Lăng, Nguyễn Viết Thọ, Nguyễn Văn Trinh, Hoàng Kim, Đinh B́nh Định, Nguyễ Quang Lăm, Nguyễn Nghị và Nguyễn Thiện Toàn. Các LM này về sau không tham gia nhóm LM quốc doanh. 2 LM Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan c̣n quay lại chống CS nên bị quản chế một thời gian khá dàị LM Đinh B́nh Định th́ bị đi cải tạo 10 năm, c̣n LM Nguyễn Quang Lăm bị công an bám sát cho đến khi qua đời năm 1993. 2 LM Nguyễn Viết Thọ và Nguyễn Ngọc Lan đă xin từ bỏ chức LM và trở về lập gia đ́nh.
Phần 13
Về phía giáo dân, những thành phần sau đây đă tham gia tích cực vào các tổ chức Công giáo quốc doanh cả ngoài Bắc và trong Nam : Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Dông Ngân, Đỗ Văn(tức Đỗ Hữu Nghiêm), Nguyễn Đ́nh Đầu, Vũ Duy Giang, Phạm Ngọc, Trần Huỳnh, Nguyễn Thành Cung và Lư Chánh Trung. Trong số này có 2 thành phần hoạt dộng tích cực hơn cả là Nguyễn Đ́nh Đầu và Lư Chánh Trung.
o Nguyễn Đ́nh Đầu : Sinh năm 1920 tại Hà Nội, con của một nhân viên lao công quét trường. NĐ có 2 người em là Nguyễn Đ́nh Rễ và Nguyễn Thị Hồng. Lúc c̣n nhỏ, NĐ được học Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên, Kẻ Sơ, Hà Nam, thuộc giáo phận Hà Nộị NĐ mới học tới Đệ Lục (sixième) th́ xuất, rồi sau đó vào học trường Bách Nghệ Hà Nội, chưa có Tú tàị Thời đó, Phong trào Thanh niên Lao Động CG (JOC) đang phát triển mạnh ở VN, Nguyễn Mạnh Hà làm Hội trưởng Phong trào toàn quốc, c̣n NĐ làm Hội trưởng Phong trào ở Hà Nộị
Ngày 19/8/45, VM cướp chính quyền. Ngày 23/8/45, HCM công bố ngay thành phần chính phủ lâm thời tại Hà Nộị Trong chính phủ này, người ta thấy Nguyễn Mạnh Hà giữ chức Bộ trưởng Kinh tế. NĐ được Nguyễn Mạnh Hà giới thiệu làm Tổng Giám đốc Nha Lao động toàn quốc, dưới quyền của Bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiếụ
Ngày 2/3/46, HCM lập chính phủ liên hiệp với các đảng phái quôc gia, Nguyễn Mạnh Hà không có tên trong thành phần chính phủ nữạ Lê Văn Hiến qua làm Bộ trưởng Tài chánh, Nguyên Văn Tạo, 1 đảng viên cao cấp khác, giữ chức Bộ trưởng Lao đô.ng. NĐ tiếp tục làm Tổng Giám đốc Tổng nha Lao đô.ng. Bị loại ra khỏi thành phần chính phủ, Nguyễn Mạnh Hà bỏ qua Pháp. Khi Pháp chiếm lại Bắc Việt, VM rút vào chiến khu, NĐ ở lại Hà Nộị Năm 1951, nhân một chuyến đi tham quan ở Pháp, NĐ được Nguyễn Mạnh Hà bảo lănh cho ở lại Pháp học xă hội học ở một trường tư, không cần bằng Tú tàị NĐ không đậu bằng cấp ǵ.
Lúc ở Pháp, NĐ ở một căn pḥng trên lầu 5 của một ngôi nhà ở số 32 rue de Richelieu, Paris 1er. Nơi đây là chỗ hội họp của những người lưu vong muốn dành độc lập cho quê hương. Những thành phần đến họp gồm cả những ng+ời theo CS hay không theo CS như Hoàng Xuân Hăn, Nguyễn Quốc Định, Trương Công Cừu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Thoại, Trần Hữu Phương, Trần Thông, Bửu Lộc, v.v... Nhóm học Đại học Louvain ở Bỉ như LM Nguyễn Quang Lăm, Lư Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung...cũng đến họp nơi đâỵ Các nhóm trên hoạt động riêng rẻ nhưng có cho xuất bản tờ tạp chí Thống Nhất để nói lên quan điểm chính trị của nhóm, nên được gọi là Nhóm Thống Nhất. Riêng nhóm của Đảng CSĐ có kết nạp đảng viên, tổ chức chặt chẽ và sinh hoạt thường xuyên.
Ngày 25/6/54, do sự vận động của ông Ngô D́nh Luyện và nhóm Nguyễn Mạnh Hà, giáo sư Hoàng Xuân Hăn đă thuyết phục được Quốc trưởng Bảo Đại kư sắc lệnh số 38/QT ngày 25/6/54 ủy quyền cho ông Ngô Đ́nh Diệm lập chính phủ với toàn quyền về dân sự và quân sư.. Nhóm Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Đ́nh Đầu, Lư Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung (đă được con bảo lănh sang Canada năm 1995), LM Nguyễn Quang Lăm...đi.nh về tham gia chính phủ nhưng bị Ngô Đ́nh Nhu gạt ra v́ nghi nhóm này thân Pháp. Nguyễn Mạnh Hà quay trở lại Pháp, nhưng NĐ, vốn không lấy được bằng cấp ǵ, đă thúc giục Lư Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và LM Nguyễn Quang Lăm phải trở về và chờ cơ hộị Những người này đă trở về VN năm 1956, cho xuất bản tờ tuần báo Sống Đạo nên thường được gọi là "nhóm Sống Đạo" hay "nhóm Cấp Tiến". Tờ "Sống Đạo" có khuynh hướng chống chính phủ và thiên về đường lối XHCN. 2 LM Nguyễn Ngọc Lan và Trương Bá Cần từ Pháp về cũng gia nhập nhóm Sống Đạọ Lư Chánh Trung phụ trách biên tập, nhưng NĐ vẫn nắm hầu bao và quyết định đường lối của tờ báọ
NĐ về nước được một thời gian th́ ông Đào Văn Tập qua đờị NĐ cặp bồ với bà Đào Văn Tập. để chiếm du.ngm nhà in của bà này và sống bằng nghề ấn loát và xuất bản. Về sau NĐ cưới em của cựu Thủ tướng Bửu Lộc, một người giàu có, và về ở nhà vợ, góc đường Nguyễn Du và Nguyễn Trung Trực.
NĐ vẫn thường xuyên liên lạc với nhóm cán bộ trí vận của CS đang hoạt động ở Pháp hay đă về nằm vùng tại miền Nam và nấp sau tờ tuần báo Sống Đạo để hoạt đô.ng. Tờ Sống Đạo cũng như tờ "Công giáo và Dân tộc" sau này, đă cố gắng dùng Thánh Kinh để bênh vực cho Chủ nghĩa Cộng sản.
Nguyễn Đ́nh Đầu là một tên chuyên đâm bị thóc thọc bị gạo để gây mâu thuẫn trong hàng ngũ CG và tuyên truyền ngụy ḥạ Khi CG biểu t́nh lên án những vụ bạo loạn tại miền Trung do CS giựt dây, NĐ soạn sẳn một văn thư chống lại Khối Công Giáo và chạy đi thuyết phục một số LM và giáo dân kư vàọ Trong cuốn sách "30 tháng 4" do nxb TPHCM ấn hành năm 1985, kư giả Vơ Trần Nhă của VC cho biết NĐ là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay CS. NĐ có chân trong "nhóm Trí Việt", gồm một số đặc công CS nằm vùng, hoạt động dưới danh nghĩa "đ̣i thi hành hiệp dịnh Paris". Ngày 29/4/75, NĐ đi với Nguyễn Văn Diệp (cựu Bộ trưởng Kinh tế) và Đinh Bá Thi vào trại David ở trong phi trường Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn VC cư ngụ ở đó để báo cáo t́nh h́nh và nhận chỉ thị về việc vận động Dương Văn Minh đầu hàng. Đinh Bá Thi dùng mật hiệu để được phái đoàn VC trong Ủy ban Liên hợp Quân sự 4 bên mở cửa cho vàọ Sau này Đinh Bá Thi được cử làm Đại sứ VC tại LHQ đầu tiên, nhưng một thời gian sau đă bị thanh toán bằng một tai nạn xe cộ trong một chuyến về VN.
Sau khi VC chiếm được miền Nam, bên ngoài NĐ không giữ chức vụ ǵ quan trọng, nhưng bên trong NĐ đă đứng ra tổ chức và giựt dây các chiến dịch chống phá GHCG. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Henri Lemaitre, đ̣i băi chức TGM Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Ḍng Đồng Công...đều có bàn tay của NĐ thúc đẩy phía saụ Với âm mưu thâm độc, chính NĐ đă soạn thông cáo của Ṭa TGM Saigon lên án vụ Ḍng Đồng Công rồi cầm lên yêu cầu TGM Nguyễn Văn B́nh kư tên vào, nhưng TGM B́nh không chịu kư th́ NĐ đă lấy con dấu của Ṭa TGM đóng vào rồi gởi cho các báo VC yêu cầu công bố.
o Lư Chánh Trung : LCT sinh năm 1929 ở Trà Vinh, theo đạo CG vào khoảng 1949 và năm 1950 được cho qua Bỉ học Đại học Louvain, một đại học CG, ở cách xa thủ đô Bruxelles khoảng 30km. LCT học rất giỏi, nhưng khi mới lấy xong Cử nhân Tâm lư học và Cử nhân Chính trị học, đă vội theo Nguyễn Đ́nh Đầu về nước năm 1956 với ư định tham chánh, nhưng không được Ngô Đ́nh Nhu dùng nên rất bất măn với chế độ Ngô Đ́nh Diệm và quay lại tán dương đường lối của CS. Khi ở Bỉ và Pháp, LCT cũng nằm trong Nhóm Thống Nhất của Nguyễn Mạnh Hà và bị chi phối bởi Nguyễn Đ́nh Đầụ
Tuy chưa có bằng Tiến sĩ nhưng rất thông minh, vượt hẳn Nguyễn Văn Trung và các bạn đồng khóa thời đó, nên được coi là lư thuyết gia của nhóm và là linh hồn của tờ tuần báo Sống Đạọ LCT có tài viết lách rất điêu luyện, có thể bẻ ng̣i bút đi theo hướng nào cũng được. Đọc những bài của LCT ca tụng HCM sau ngày 30/4/75, nhiều người phải sửng sốt về tài phất cờ theo chiều gió của người viết. Khó t́m được tại miền Nam một người viết "bài ca con cá" điêu luyện như thế.
LCT có người em là Lư Chánh Đức, làm Giám đốc Nha học liệu tại Bộ Quốc gia Giáo dục VNCH, đă xin cho LCT làm Công cán Ủy viên của Bộ nàỵ Về sau, LCT được bổ làm Giám đốc Nha Trung học Công lập. LCT cũng được mời dạy triết học tại Viện Đại học Huế và Đà Lạt.
Tuy có tŕnh độ kiến thức cao và vững vàng, tính t́nh ḥa nhă, nhưng bước đường sự nghiệp của LCT rất lận đận, có khi không lo nổi miếng ăn. Nhiều người cho rằng nếu LCT đừng nghe Nguyễn Đ́nh Đầu, lấy xong bằng Tiến sĩ rồi trở về, có lẽ sẽ gặp được nhiều thuận lợi hơn. LM Cao Văn Luận là người đă nâng đỡ LCT rất nhiều, nhưng dưới 2 chế độ Cộng ḥa Miền Nam, LCT chưa t́m được chỗ đứng thoải mái, luôn bận tâm về sinh kế nên thường tỏ ra hận đờị Sự bất măn của LCT xuất hiện rất rơ trong cái lối viết lúc nào cũng có tính châm chọc và chua cay của ông. Vốn là 1 giáo sư Triết, tôn thờ Mounier và Karl Jasper, LCT đă nh́n vấn đề chính trị VN dưới lăng kính của một triết giạ Trong bài "Trên đường cùng đi" trên báo Đại Dân Tộc số 17 ngày 4/6/72, ông viết :
"Đối với tôi, vấn đề rất giản dị : dầu cho cuộc chiến hôm nay được giải thích cách nào, thực tế vẫn là có 2 phe cùng là người Việt đang chém giết nhau, mỗi phe được một hoặc hai siêu cường yểm trợ tận t́nh về mọi mặt.
"Tôi là người đứng "bên này" và từ lâu tôi đă nghĩ rằng lối thoát duy nhất cho cuộc chiến hiện nay là phải tạo dựng cho "bên này" một chính quyền tốt, độc lập với ngoại bang, có đủ nội lực và tự tín để gặp gỡ và làm ḥa thật sự với "bên kia"."
Nghĩ sao làm vậy, khi CS chiếm được Saigon là ông đi theo CS, viết bài tán dương HCM và đảng CSVN. Ông được chọn làm Đại biểu Quốc hội khóa VI năm 1976 và các khóa tiếp theọ Khi vụ Vinh Sơn xảy ra, ông có viết một bài phê b́nh đăng trên báo "Công giáo và Dân tộc" số 55 ngày 18/7/76, lên án những người tham gia như sau :
"Hạng người như thế xin đừng gọi là người mà tội cho con người, xin đừng gọi là người VN mà tội cho dân tộc VN. Cũng xin đừng gọi là CG mà tội cho GHCG".
Gặp lại LCT vào thập niên 1980, người ta có thể thấy nơi ông h́nh ảnh của một người đă thấm đ̣n và chán nản. 2 vợ chồng ông làm lụng vất vă vẫn không đủ ăn, mặc dù trên ngực có gắn cái nhăn hiệu "đại biểu Quốc hội". Có lẽ trong hoàn cảnh đó ông mới nhận ra rằng "những người không đáng là người, không đáng là người VN" chính là những người CS chứ không phải là những người tham dự vào vụ Vinh Sơn. Những người mà ông mơ ước "làm ḥa" đă cùng ông biến VN thành một quốc gia nghèo đói, không dân chủ, không tự do, không nhân quyền, và đă vùi lấp cuộc đời c̣n lại của một triết gia như ông.
Về phía giáo sĩ có 2 linh mục miền Nam được CS tín nhiệm, đó là LM Huỳnh Công Minh và LM Trương Bá Cần. 2 LM này đă được LM Nguyễn Đ́nh Thi, một cán bộ VC nằm vùng ở Pháp, móc nối khi c̣n du học ở Pháp.
o LM Huỳnh Công Minh : Huỳnh Công Minh là một đảng viên nồng cốt của Đảng CSVN trong công tác Công giáo vận. Trong kỳ bầu cử Quốc hội khóa VI năm 1976, ông được chọn làm đại biểụ Trong phiên họp ngày 7/7/77, sau khi Lê Duẩn đọc Báo Cáo Chính Trị, ông đă lên đọc một bài tham luận đúng sách vở của đảng :
"Báo cáo chính trị làm hho tôi thêm xác tín rằng mẫu con người mới, mẫu xă hội mới mà Quốc hội sẽ đề ra để toàn dân ra sức thực hiện trong giai đoạn lịch sử này chẳng những không có ǵ mâu thuẫn với tôn giáo, với tín ngưỡng chân chính, trái lại c̣n rất phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô Giêsụ
"Báo cáo chính trị làm cho tôi càng xác tín thêm nữa rằng con người mới, xă hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chú Kitô Giêsu măi mơ ước, con người mới đó, xă hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được nếu không có Đảng Lao Động VN, đội tiên phong của giai cấp công nhân lănh đạo và tổ chức.
"Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở yêu nước, yêu CNXH, suốt đời làm nhịp cầu nối kết quần chúng CG mà đại bộ phận là nhân dân lao động, với đại gia đ́nh VN, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng của đế quốc và tay saị" (Thông tấn xă VN, 7/7/77)
Cũng giống như TT Thích Minh Châu, LM Huỳnh Công Minh là một người được huấn luyện về nghiệp vụ đàng hoàng, lúc nào ông cũng tỏ ra hoà nhă và khiêm tốn, không bao giờ bênh vực công khai chế độ CS khi thuyết giảng hay khi nói chuyện với các giáo sĩ và giáo dân. Ông chỉ kêu gọi phải hợp tác với phường khóm. Ông không giữ chức vụ ǵ quan trọng trong tổ chức CG quốc doanh, nhưng trong thực tế ông nắm hết mọi quyền hành trong tổ chức nàỵ Mọi việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển các giáo sĩ và các hoạt động của GHCGVN đều được chuyển cho ông cứu xét và đề nghị nhà cầm quyền CS th́ mới chấp nhận. Ông luôn thi hành đúng mọi chỉ thị của đảng.
o LM Trương Bá Cần : là Tiến sĩ Sử học ở Pháp. Ông điều hành tờ tuần báo Công giáo và Dân tộc, dùng tờ báo này để bênh vực XHCN và vận động người CG thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên báo Công giáo và Dân tộc Xuân 1982, ông viết :
"Từ lâu, trước ngày giải phóng, tôi xác tín không có con đường thứ ba giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩ xă hộị Do đó, chấp nhận CNXH, đương nhiên tôi chấp nhận sự hợp tác với những người CS.
"Ngoài ra, kinh nghiệm trong 5 năm qua ngày càng thuyết phục tôi rằng sự lựa chọn CNXH là tốt nhất. Riêng tôi, hằng ngày tôi sống trong sự hợp tác giữa người CS và người CG. Tôi xác tín rằng chúng tôi có thể cùng nhau làm việc. Nhưng hợp tác có nghĩa ǵ ? Đối với tôi, điều kiện tuyệt đối là có sự kính trọng nhaụ Không chỉ là sự dung thứ cho người khác tồn tạị Nhưng tôi lập lại sự kính trọng, mà người ta chỉ kính trọng cái mà người ta thừa nhận là có giá tri.. Tôi thấy rằng những người CS kính trọng chúng tôị Về phía chúng tôi, chúng tôi đă học được rất nhiềụ Chúng tôi đă học biết những giá trị thật của CNXH. Đó là một lư tưởng cụ thể, phục vụ người khác".
Vào khoảng 1989, suy nghĩ của ông hơi thay đổi nhưng chưa ai chắc điều đó có phải thật hay giả. CS đă nhờ ông viết lại lịch sử GHCGVN để biện minh cho chế dô.. Có lần CS nhờ LM Phan Phát Huồn viết lại bộ Việt Nam Giáo Sử, nhưng khi LM Huồn hỏi tại sao không nhờ LM Trương Bá Cần th́ CS trả lời, "Linh mục viết người ta mới tin. Trương Bá Cần viết người ta không tin !".
Nh́n chung, ngoài 2 LM Minh và Cần ra, các LM quốc doanh khác không đóng vai tṛ ǵ quan tro.ng. Các LM Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đ́nh Bích,...chỉ là loại chạy cờ, có việc ǵ CS sai th́ làm.
Đa số các linh mục và trí thức CG thiên tả như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lư Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lăng...đều là những người tốt nghiệp về thần học và triết học ở Pháp hay Bỉ, nên thường nh́n các vấn đề chính trị và xă hội của đất nước dưới lăng kính của triết học. Họ dùng Tâm và Lư để phân tích và xác định con đường mà đất nước phải chọn. Họ không có thói quen quan sát các sự kiện đang diễn ra rồi dùng Trí để phán đoán và chọn con đường thich hợp nhất. Mỗi khi thấy con đường họ tưởng là đúng, đă có nhiều nguy hại trong thực tế, họ quay ngược trở lại và tấn công thẳng vào con đường mà họ từng cổ vơ. Bằng bài báo "Dấm chua mật đắng" trong cuốn "3 năm xáo trộn", nhóm Sống Đạo đă
khuyến cáo các tổ chức của người CG đứng lên chống lại sự lộng hành của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc miền Trung do CS giựt dâỵ Nhưng khi nhận ra được những tệ hại của chế độ CSVN, họ không hề đưa thêm má bên kia cho CS đánh mà trái lại đă mạt sát chế độ CS bằng những lời lẽ chua cay hơn những người thường. Sau đây là một mẫu chuyện
ngắn giữa công an và Nguyễn Ngọc Lan, được NNgL ghi lại trong cuốn "Nhật Kư 1990-1991" :
"Ông có di thăm linh mục Chân Tín không ?
- Làm sao tôi đi được ?
- Như ông viết qua báo chí đó : Duyên Hải bây giờ đang bị sốt rét như di.ch. Người ta đang bảo là Nhà nước khéo chọn chỗ để đày linh mục Chân Tín đó.
- Linh mục Chân Tín năm nay bao nhiêu tuổi ?
- 71.
- Thôi, tôi gặp ông Lan chỉ có vậỵ"
Trước đây, 2 linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan đă có lập trường khuynh tả hoàn toàn, nhưng sau khi sống với chế độ CS một thời gian, họ nhận ra CNXH không tốt đẹp như họ tưởng, họ đă quay lại chống chế độ một cách mạnh mẽ. Với những thành phần này, không thể coi họ là thành phần quốc doanh, nhưng những nhận định sai lệch của họ về chính trị, xă hội và tôn giáo một đôi khi rất tai hạị Đi vào chính trị, triết gia luôn bị đánh bại một cách thê thảm. Thân phận của họ cũng giống như thân phận của một triết gia đi qua sông mà người Tây phương thường đem ra chế giễu :
Triết gia hỏi ông lái đ̣ :
- Ông có biết làm toán hông ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông đă mất một phần tư cuộc đời rồi !
Một lúc sau, triết gia lại hỏi câu thứ hai :
- Ông co biết viết không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất nửa cuộc dời rồi !
Thuyền đến giữa sông, triết gia hỏi câu thứ ba :
- Ông có biết đọc không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất ba phần tư cuộc đời rồi !
Khi triết gia vừa dứt lời th́ sóng gió lớn nổi lên; ông
lái đ̣ liền quay lại hỏi triết gia :
- Ông có biết bơi không ?
- Tôi không biết.
Ông lái đ̣ lắc đầu :
- Thế th́ ông mất cả cuộc đời rồi !
Trong buổi nói chuyện trên đài phát thanh vào ngày 26/10/1939, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đă nói :"Người cấp tiến là người hai chân đă được trồng chặt vào khoảng không".
Khi các triết gia nói trên nhận được sự thật th́ đă quá muộn, phương cách để cứu văn không t́m thấy dễ dàng ở trước mắt. Nhưng dù sao họ cũng c̣n có thể quyết định quay trở lạị Những thành phần gia nhập Đảng CS như các linh mục Nguyễn Đ́nh Thi, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh th́ không c̣n đường trở lại nữa : hoặc tiếp tục đi trong sai lầm hoặc chết. Kỷ luật Đảng không bao giờ dung tha thành phần phản Đảng.
Mặt Trận Tổ Quốc luôn t́m cách đề cao vai tṛ của các linh mục quốc doanh, nhất là vai tṛ của linh mục Huỳnh Công Minh. Mọi việc phong chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển giáo sĩ cũng như các h́nh thức sinh hoạt tôn giáo đặc biệt đều phải có đề nghị của linh mục này mới được nhà cầm quyền chấp thuận. Hôm 10/7/89, Hồng Y R. Etchegaray ghé thăm Saigon, báo Saigon Giải Phóng loan tin ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Chủ tịch UBNDTP đă tiếp Đức Hồng Ỵ Cùng tham dự cuộc tiếp tân này có "TGM Nguyễn Văn B́nh và GM giáo phận Saigon Huỳnh Công Minh". Bản tin trên đă làm mọi giới CG bất b́nh.
Nhiều người đă gọi điện thoại phản đối báo SGGP và yêu cầu TGM B́nh đính chính. Báo SGGP ngày 13/7/89 đăng một cột nhỏ cải chính nói "Linh mục Huỳnh Công Minh là linh mục chánh sở nhà thờ chánh ṭa Saigon chứ không phải GM giáo phận Saigon như đă loan tin". Qua bản tin cố ư đăng sai đó, mọi người đều thấy rơ ư định của CS muốn đưa linh mục Huỳnh Công Minh làm GM giáo phận Saigon.
Tuy được sự hỗ trợ của Mặt Trận Tổ Quốc, các linh mục quốc doanh viết hay nói ǵ cũng không ai nghẹ Đi đâu họ cũng bị giáo dân xa lánh. Linh mục quốc doanh c̣n lo sợ các biện pháp kỷ luật của Ṭa Thánh Vatican. Năm 1992, trong văn thư số N4708/92/RS ngày 20/5/92 gởi cho GM Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN, Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Angelo Sodano đă yêu cầu Hội Đồng GMVN lưu ư các giáo sĩ về "Tuyên ngôn của Bộ Giáo Sĩ về những hiệp hội và những phong trào mà các giáo sĩ không được tham gia" công bố ngày 8/3/82 với mục đích nhắc nhở các linh mục không được tham gia vào các tổ chức CG quốc doanh. Tuyên ngôn này nói rơ :"Ai hành động trái với lịnh cấm hợp pháp của thẩm quyền GH có thể bị phạt một cách chính đáng, kể cả phạt vạ, chiếu theo các điều phải tuân giữ theo luật".
o Thành lập Giáo hội Công giáo Việt Nam Tự trị không được, quay lại thành lập "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" :
Năm 1980, Hà Nội quyết định bước qua giai đoạn mới gọi là "giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân". Trong giai đoạn này, CS cho áp dụng các biện pháp để quốc hữu hóa tất cả tài sản của các nhà tư bản lớn và địa chủ để đưa vào quốc doanh, ép buộc các nhà tư bản hạng trung hợp tác kinh doanh với chính phủ CS. Đây là một h́nh thức mượn vốn và tay nghề của tư nhân để xây dựng các cơ sở kinh doanh và sản xuất, rồi đưa vào hợp tác xă hay biến thành công ty quốc doanh trong giai đoạn kế tiếp. Song song với các biện pháp kinh tế, CS cũng tiến thêm một bước thứ hai trong việc đưa tôn giáo vào quốc doanh. Chữ "quốc doanh" được Hà Nội dịch ra tiếng Anh là "state-run", tức do nhà nước điều hành. Dân chúng đă dùng chữ này để chỉ các tổ chức do chính phủ điều khiển.
CS muốn tiến tới "quốc daonh hóa" CG trước cả PG. Đầu năm 1980, Ban Tôn giáo chính phủ và Mặt Trận Tổ Quốc đă đưa linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ tịch "Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Ḥa b́nh", từ Hà Nội vào Saigon tổ chức một hội nghị CG mở rộng vào ngày 5/1/80. Hội nghị này dă đi đến quyết định thành lập "Ủy ban Vận động Công giáo" nhằm tiến tới việc thành lập một Giáo hội Công giáo VN tự trị tách rời khỏi Vatican. Xong CG rồi, ngày 12/2/80, CS mới cho lập "Ủy ban Vận động Thống nhất Phật giáo". Nhưng về phía CG, CS đă gặp rất nhièu khó khăn v́ không kêu gọi được một GM nào tham gia vào Ủy ban, c̣n hầu hết giáo sĩ và giáo dân th́ tỏ ra e dè.
Tháng 11/81, CS đă h́nh thành được một Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhờ sự hợp tác chặt chẽ của các Ḥa Thượng Thích Minh Châu, Thích Quảng Liên và nhất là có sự đồng thuận của Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu, Xử lư Thường vụ Viện Tăng thống và HT Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hoá đạo GHPGVNTN hệ phái Ấn Quang. Nhưng về phiá CG, CS đă hoàn toàn thất bạị
Trong một bản phân tích t́nh h́nh các tôn giáo tại miền Nam năm 1981, Tổng cục An ninh của CS đă nhận định rằng 2 tôn giáo Cao Đài và Ḥa Hảo chỉ là 2 giáo phái chính trị nên phải giải tán. Về phía PG, bản nhận định nói rằng việc kiểm soát không có ǵ khó khăn, v́ PG không có tổ chức chặt chẽ và trong những năm "kháng chiến" Đảng đă gài được nhiều cán bộ nồng cốt vào bên trong để hoạt dô.ng. Những thành phần chống đối đă bị loại bỏ hoặc cô lâp. Vậy có thể tiến tới thống nhât ngay mà không gặp trở ngại nàọ Riêng về phía CG, bản nhận định cho biết GHCG là một GH được tổ chức rất chặt chẽ, gồm những người lănh đạo và cán bộ có kiến thức, giáo dân đều đă được huấn luyện thuần thành. Bản phân tích cho biết riêng giáo phận Saigon có khoảng 40 linh mục có bằng tiến sĩ hoặc tương đương và phân rơ lập trường, thái độ của từng nhóm cũng như cách đối phó. CG có Hội đồng Giám mục là một cơ quan lănh đạo tập thể, rất khó dùng ảnh hưởng của một vài cá nhân để chi phốị CG lại có hậu thuẫn của Vatican và các nước CG Tây phương nên nếu hành động không khôn khéo th́ có thể gây hậu quả bất lợị Bản phân tích đề nghị dùng nhiều biện pháp để khống chế và làm tiêu hao dần giáo hội này như đă áp dụng tại miền Bắc từ 1954-1975 : T́m cách cô lập các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lănh đạo, lưu lại một thời gian lâu dài khoảng 200 giáo sĩ đang bị giam giữ trong các trại cải tạo cho đến khi t́nh h́nh ổn định, hạn chế chặt chẽ việc phong chức, bổ nhiệm các chức sắc mới thay thế những chức sắc đă qua đời, cô lập và phân tán các ḍng tu, v.v...
Mặt Trận Tổ Quốc đă nhiều lần mở cuộc thăm ḍ để thành lập một Giáo Hội Công Giáo VN tự trị, nhưng đă bị cự tuyệt. Các giáo sĩ và giáo dân được mời họp để hỏi ư kiến đều trả lời rằng chỉ có Hội đồng Giám mục mới có quyền quyết định được điều đó. Ngay các linh mục quốc doanh cũng không ai dám công khai ủng hộ đề nghị của CS. Cuối cùng, CS đă quyết định tạm thời tiến tới việc thống nhất các tổ chức CG quốc doanh trong khi nghiên cứu lại làm sao để đ^'i phó với CG để thành lập một GHCGVN tự trị, tức là nằm dưới sự điều khiển của CS.
Ban Tôn giáo Chính phủ đă giao cho linh mục Nguyễn Thế Vịnh của miền bắc đứng ra thành lập một tổ chức CG quốc doanh thống nhất. và một dại hội đă được triệu tập tại Hà Nội từ 7-10/11/83. Biết linh mục Vịnh không đủ thẩm quyền và uy tín để triệu tạp một hội nghị như vậy nên Mặt Trận Tổ Quốc đă đứng ra hành đô.ng. Mặt Trận tại mỗi địa phương đă chỉ định các thành phần tham dự đại hộị Trong dại hội người ta thấy có 299 "đại biểu" thuộc 32 tỉnh trong nước, trong đó có 142 linh mục, 11 tu sĩ và 146 giáo dân. Để làm cho Đại hội đi đến thành công, Hà Nội phải đưa Huỳnh tấn Phát, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc, đứng ra lănh đạo đại hộị Đặng Thành Chơn, chuyên viên về khống chế tôn giáo của Ban Tôn giáo CS cũng có mặt để theo dơi từng diễn biến của đại hộị Trong đại hội, đại diện chính quyền CS cũng như một số đại biểu c̣ mồi đă nhấn mạnh khá nhiều về "vấn đề CGVN" với gợi ư nên tiến tới việc tuyên bố tách rời GHCGVN ra khỏi Vatican v́ GHVN đă trưởng thành. Chuyện này đợc bàn tán nhiều sau Đại hội nên tờ Công giáo và Dân tộc phải lên tiếng xác nhận "không có vấn đề tự trị".
Đại Hội đă quyết định thành lập "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" và đề cử linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm Chủ ti.ch. Đại hội cũng chấp thuận một bản Điều lệ và một bản Nghị quyết do Ban Tôn Giáo CS soạn sẵn. Điều 2 của bản Điều lệ ghi rơ :
"Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước VN là một tổ chức thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc VN, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật của nước CHXHCNVN và Cương lĩnh của Mặt Trận Tổ Quốc VN".
Điều 3 của bản Nghị quyết đă nói về vai tṛ của phong trào CG Yêu nước như sau :
"Đại hội cũng nhận định : vượt qua những gian lao thử thách, dưới sự lănh đạo của Đảng CSVN và Chủ tịch HCM vĩ đại, với sự quan tâm giúp đỡ của Mặt Trận Tổ Quốc VN, phong trào CG Yêu nước đang lớn ma.nh. Yêu nước là truyền thống vẻ vang của dân tộc VN, là đ̣i hỏi thiêng liêng của t́nh thương Kitô giáo, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân VN. Trong thời đại ngày nay, nội dung yêu nước phải gắn liền với Chủ nghĩa Xă hội và phải gắn liền nghĩa vụ yêu nước với nghĩa vụ đấu tranh cho ḥa b́nh và công lư trên thế giới".
Linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm Chủ tịch được 6 tháng th́ mất. GM Bùi Chu Tạo cho biết những tháng cuối cùng của cuộc đời, linh mục Vịnh thường tỏ ra hối hận về sự lầm lẫn của ông trong việc tham gia Đảng CSVN, và rồi việc tới phải tới, những ngày trước khi qua đời linh mục Vịnh đă xin chịu các phép bí tích. Một nhân vật khác là linh mục Hồ Thành Biên đă thay thế linh mục Vi.nh.
Tại Saigon, "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước Việt Nam" đă được cấp một biệt thự ở số 15 đường Tú Xương, Q3, để làm văn pḥng thường trực và sinh hoạt. Cũng giống như nhóm người đào tạo ra nó, Ủy ban chiếm pḥng hội của Trung tâm CGVN ở đường Trần Quốc Toản làm nơi hội họp. Ủy ban cũng định chiếm dụng nhà sinh hoạt của giáo xứ Tân Định để làm cơ sở ấn loát và phát hành báo chí, nhưng bị kháng cự lại nên không chiếm được. Ủy ban có một tờ tuần báo là tờ "Công giáo và Dân tộc" do linh mục Trương Bá Cần làm chủ nhiệm. Ủy ban dùng tờ báo này để kêu gọi giáo dân hợp tác với chính quyền. Trong 1 bài phhỏng vấn dành cho báo Eglises d'Asie, GM Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN, đă trả lời bằng tiếng Pháp về trường hợp của "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" và tờ "Công giáo và Dân tộc" như sau :
"Ủy ban thủ một tờ báo CG duy nhất tại miền Nam VN. Tuy nhiên tờ này hay tờ kia (ở Bắc) đều đă được coi như là những cơ quan của chính phủ. Những bài viết trong tờ báo luôn bênh vực chính sách của chính quyền và thường công kích GH. Họ không có ư kiến đứng đắn về GHVN...
"2 trong những người đại diện (của Ủy ban) đă gởi cho tôi một lá thư trong đó họ than phiền họ đă bị cả chính quyền lẫn hệ cấp thẩm quyền CG coi như một công cụ kiểm soát của chính quyền. Tôi đă trả lời họ rằng những sự nghi ngờ đó có căn cứ. Họ đă mất sự tin tưởng của người CG". (Nguyễn Ngọc Lan, "Nhật kư 1990-1991, Tin, Paris, 1993, tr. 236-237).
Tuy được sự trợ giúp của Mặt Trận Tổ Quốc, Ủy ban trên không hoạt động ǵ được, v́ giáo dân cũng như giáo sĩ chỉ biết Hội đồng Giám mục VN chớ không cần biết Ủy ban nàỵ
Với chỉ thị của Ṭa Thánh Vatican cấm các giáo sĩ không được tham gia vào các tổ chức tôn giáo quốc doanh, vai tṛ của Ủy ban cũng sắp cáo chung, v́ các giáo dân tham gia ủy ban không có ai có uy tín hay khả năng điều hành nó.
o Tiếp tục đánh phá Công giáo :
Năm 1985, khi quyết định tiến tới giai đoạn mà CS gọi là "Tiến lên Xă hội chủ nghĩa", CS quyết định đưa các ngành tư doanh c̣n lại vào hợp tác xă hay biến thành công ty quốc doanh. Tại Saigon, Q3, nơi c̣n nhiều cơ sở tư doanh nhỏ, đă được chọn làm thí diểm. Song song với biện pháp kinh tế, CS cũng quyết định đi thêm một bước nữa trong việc khống chế CG.
Khoảng 200 công an đă được huấn luyện tại Tiệp Khắc về tôn giáo vụ được đưa vào miền Nam, phân phối cho các thành phố Đà Nẵng, Biên Ḥa, Đồng Nai và Saigon là những nơi có nhiều giáo dân tập trung. Tại Saigon, huyện Thủ Đức đă được chọn làm thí điểm v́ nơi đây c̣n một số đông các cơ sở ḍng tu và các giáo xứ miền Bắc di cự Trong năm 1986, một số ḍng tu ở Thủ Đức như Đức Bà Truyền Giáo, Đồng Công...đă được lệnh phân chia ra nhiều "hộ" nhỏ, mỗi hộ không quá 10 ngườị CS sẽ cấp những căn nhà riêng biệt cho các "hộ" này tiếp tục đời sống tu tŕ. Các cơ sở của các ḍng c̣n lại sẽ được đặt dươi quyền quản lư của nhà nước. Vụ đánh phá Ḍng Đồng Công năm 1987 cũng nằm trong chiến dịch xé lẻ các ḍng tu để diệt dần.
Năm 1986, CS lại triệu tập một Đại hội Toàn quốc "Những người Công giáo Việt Nam Xây dựng và Bảo vệ Ḥa b́nh" lần thứ 2 tại Hà Nội để h́nh thàhn một GH Thiên Chúa Giáo VN tự trị, tách rời khỏi Ṭa thánh Vatican như năm 1983, nhưng vẫn thất bại, v́ các giáo sĩ và giáo dân tham dự đại hội vẫn trả lời như trước : Vấn đề tự trị hay không tùy thuộc vào quyết định của Hội đồng Giám mục, họ không có thẩm quyền.
Sự phản ứng của CS Hà Nội về việc Ṭa Thánh Vatican quyết định phong thánh cho 117 vị chân phước tử đạo tại VN ngày 19/6/1988 cũng rất quyết liệt. Linh mục Trương Bá Cần đă viết nhiều bài phân tích cho rằng việc phong thánh là sai lầm. Nguyễn Đ́nh Đầu hô hào tẩy chay phong thánh. Hội đồng Giám mục VN bị đả kích nặng nề v́ đă kư đơn xin phong thánh. Nhiều cuộc họp hay hội thảo để phản đối quyết định phong thánh đă được triệu tập, nhưng đa số giáo dân và giáo sĩ đều cho rằng việc phong thánh là chính đáng. Cuối cùng Hà Nội đành bó taỵ
Nhưng không may cho Đảng CSVN là cuộc đổi tiền vào tháng 9/1985 đă đem lại những hậu quả ngày càng nghiêm trọng, kinh tế suy sụp hoàn toàn, bắt buộc Đảng CS phải đổi mới để sống c̣n. Sự khống chế CG cũng được nới rộng ra để khỏi bị lên án khi kêu gọi đầu tư và vay mượn tín dụng ngoại quốc. Nhà cầm quyền Hà Nội vẫn tin rằng CG là nguồn ngoại tệ đáng kể v́ có sự giúp đỡ của Vatican và các tổ chức CG quốc tế. Tuy nhiên sự nới rộng này chỉ có ảnh hưởng đến một số sinh hoạt giới hạn như cho phong thêm một số linh mục, đồng ư cho bổ nhiệm một số giáo phẩm vào các chức vụ đă bị khiếm khuyết từ lâu, cho in một số sách Thánh Kinh... Đặc biệt, người CG không c̣n bị xếp vào công dân hạng 6 như trước nữạ Một vài lănh vực đại học và cơ quan công quyền đă thu nhận giáo dân. Tuy nhiên, nhà cầm quyền CS vẫn tiếp tục gây nhiều khó khăn cho việc bổ sung từ hàng GM trở lên. Ngày 25/8/1993, nhà cầm quyền CS đă bác bỏ quyết định của Vatican cử GM Huỳnh Văn Nghi làm Giám Quản Giáo Phận (Diocesan Administrator) Ṭa GM Saigon và cũng không cho TGM Nguyễn Văn Thuận trở về nhận chức TGM Saigon khi TGM Nguyễn Văn B́nh từ nhiệm v́ lư do già yếụ Trước đây, khi TGM Nguyễn Kim Điền, TGM Giáo phận Huế qua đời ngày 8/6/88, Hà Nội cũng không cho Vatican cử người thay thế. Đó là những âm mưu của CS làm tê liệt guồng máy lănh đạo của GHCGVN. Nhưng GH này vẫn tiếp tục hoạt động b́nh thường là nhờ có Hội đồng GM, do đó âm mưu của CS không ảnh hưởng nhiềụ Ngày 15/4/1991, Hội đồng GMVN đă gởi đến Tổng Bí Thư Đảng CSVN một Bản Góp Ư đề cập đến 2 vấn đề quan trọng sau :
- Vấn đề xây dựng đất nước : Phải lấy phương châm "phục vụ con người toàn diện" làm mục tiêu hàng đầu, phải có dân chủ thật sự và đặt tổ quốc lên trên hết. Tránh đồng hóa tổ quốc với Xă hội Chủ nghĩa, v́ XHCN cũng chỉ v́ tổ quốc và nhân dân.
- Vấn đề tôn giáo : Hiến pháp có công nhận quyền tự do tín ngưỡng, nhưng việc thi hành quyết định này gặp nhiều khó khăn phiền hà. Phải coi quyền tự do tôn giáo là một thứ quyền lợi chứ không phải là một đặc ân. Các quy chế về tôn giáo, trước khi ban hành phải đem lấy ư kiến của toàn dân, nhất là tín đồ các tôn giáo chứ không nên áp đặt. Tạo điều kiện cho tôn giáo thực hành lư tưởng nhân ái, chia xẻ hoàn cảnh của những người gnhèo túng, nhất là ở những nơi xa xôi hẻo lánh, đừng lo sợ tôn giáo đề cao cá nhân hay tập thể.
Bản góp ư này đă được các giới trong và ngoá nước đánh giá như là một tiếng nói thẳng thắn và xây dựng thiết thực, và đă làm cho CS lúng túng.
*
Bây giờ ta quay lại câu chuyện giữa CGVN và CSVN từ 1981. Dù đang ve văn Vatican để mở rộng bang giao và vay mượn tín dụng của Tây phương, nhưng sở dĩ CS không bao giờ từ bỏ chính sách khống chế GHCGVN là v́ họ tin rằng đây là một tổ chức có thể gây nguy hiểm cho chế độ của ho..
Nhắc lại sau khi thanh toán tờ Đạo Nhập Thế, công an bắt luôn ông Vũ Huy Bá, hiệu là Xuân Huy, vào ngày 8/9/81 về tội xuất bản bất hợp pháp tờ Sống Đức Tin và kết án ông tập trung cải tạo 5 năm. Ông Xuân Huy đă dùng tờ Sống Đức Tin để phê b́nh sự hướng dẫn lệch lạc về giáo lư của tờ báo CG quốc doanh là tờ "Công giáo và Dân tộc" của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước. Nhóm này đă yêu cầu công an bắt ông. Sau khi ra tù, ông cùng gia đ́nh được đi định cư tại Mỹ năm 1993 và ông đă viết cuốn "Đức tin đại thắng" nói về các vụ đàn áp CG tại VN.
Cũng vào năm 1981, CS bắt đầu cho in nhiều sách, truyện bôi nhọ, chống báng CG, như cuốn "Tây dương Gia Tô bí lục", hoặc các cuốn tiểu thuyết như "Ruồi trâu", "Đất mặn", "Cánh cửa bên ngoài",... Hà Nội ra lịnh đóng cửa Trung tâm Đắc Lộ của các cha Ḍng Tên; ngược lại, họ cho mở cửa Đại chủng viện Saigon ngày 15/3/81, để giữ "mặt nổi" tự do tín ngưỡng. Nhưng Đại hội La Vang này 15/8/81, do TGM Nguyễn Kim Điền và GM Thể chủ tọa với 40 linh mục và 10,000 giáo dân tham dự đă là sự thách thức chế đô.. Sau đó, TGM Điền bị kêu đi "làm việc" 4 ngày và gặp nhiều rắc rối khác. Ông bị cấm không được sang Vatican tham dự cuộc họp của Bộ Truyền giáo.
Phản ứng lại hành động ngăn trở mục vụ, hội nghị của Hội đồng Giám mục VN ngày 7/8/82 đă bàn về vấn đề mở cửa các chủng viện. Nhưng sau khi gặp Hoàng Quốc Việt và ban lănh đạo Mặt Trận Tổ Quốc VN (MTTQVN) họ mới biết là CS chỉ cho phép mở các đại chủng viện ở các thành phố lớn như Hà Nội, Vinh, Huế, Quy Nhơn, Saigon và Cần Thơ mà thôi.
Năm 1983, nhằm mục đích xóa dần vai tṛ của GH chính thống, CS cho thành lập "Ủy ban Đoàn kết CG Yêu nước" (UBCGDKYN) gồm có một số tu sĩ quốc doanh như Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Vương Đ́nh Bích, Phan Khắc Từ...dưới sự chỉ đạo chặc chẽ của Ban Tôn Giáo nhà nước và MTTQVN. Nhưng Ủy ban này gặp sự chống đối mạnh mẽ của đa số GM, linh mục, giáo dân cả nước. CS muốn đưa linh mục Huỳnh Công Minh lên chức đại diện giáo phận Saigon để thao túng, mua chuộc các tu sĩ vào trong Ủy ban, rồi sẽ giải tán cái b́nh phong này, biến những người của Ủy ban trở thành cấp lănh dạo của GHCG và sẽ t́m cách tách rời sự lănh đạo của Vatican trong vị thế "tự trị". Nhiều GM công khai phản đối vài tṛ của Ủy ban này liền bị CS kêu đi "làm việc" và Ṭa GM bị công an canh chừng cẩn mật.
Dù vẫn cho một số GM có chức quyền xuất ngoại sinh hoạt mục vụ, hoặc chấp thuận Ṭa thánh cho phong chức GM một vài người, nhưng CS vẫn tiếp tục chiến dịch khủng bố tinh thần. Ngày 9/8/83, toà án CS tại Saigon đă đem ra xử vụ án Ḍng Tên và kết án 12 linh mục và tu sĩ về tội "âm mưu lật đổ chính phủ" v́ đă phổ biến tờ báo "chui" Nhập Thế.
UBDKCGYN mở đại hội tại Hà Nội, từ 8-11/11/83, gồm có 142 linh mục và 11 tu sĩ tham dự, nhưng bị TGM Huế Nguyễn Kim Điền và một số GM phản đốị Các vị này sau đó lại phải đi "làm việc". GM Nguyễn Như Thể từ chức TGM phó giáo phận Huế để phản đốị TGM Điền đă vạch rơ bản chất của Ủy ban này qua những thư gởi cho các linh mục Vịnh và Trinh của nhóm quốc doanh, nêu ra 3 điểm chính :
- Chính sách Mác-Lê dùng Ủy ban để phá hoại GHCG với sự xác minh rằng "Nhà nước XHCN đoàn kết các tôn giáo trên cơ sở ích lợi chung, trong một mặt trận thống nhất cùng toàn dân đấu tranh cho độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xă hội; đồng thời xây dựng GH độc lập, thoát ra khỏi sự lệ thuộc GH nước ngoài" ("Chủ nghĩa khoa học xă hội", 1978, tr. 188).
- Trên thực tế Ủy ban đă có ư định tách rời khỏi GH toàn cầu, trực tiếp viết thư mời các linh mục mà không qua GM; nhà nước CS làm áp lực trên các GM...
- Trên thực tế, nhà nước CSVN xem Ủy ban này là GH chính thức.
Để ngăn chặn làn sóng chống đối của GHCG, ngày 23/2/84, CS ra lịnh bắt giam 27 nữ tu ḍng Chúa Quan Pḥng, cùng với linh mục Mao và Cổ Tấn Hưng. Ngay sau đó, TGM Điền và GM Phạm Ngọc Chi đă bị kêu lên "làm việc" suốt 2 tháng 3 và 4/1984. HDGMVN đă triệu tập phiên họp từ 16-23/5/84 bàn về 2 vấn đề sôi nổi nhất là vụ TGM Điền và UBDKCGYN. Hội đồng không có quyền nên không thể can thiệp mạnh mẽ cho TGM Điền, nhưng cho biết sẽ có phản ứng mạnh với UBDKCGYN nếu Ủy ban này can thiêp vào nội bộ của GHCGVN. Không được đi tham dự phiên họp này gồm có các vị Nguyễn Kim Điền, Lê Hữu Cung, Phạm Văn Dụ, Phạm Ngọc Chi và Nguyễn Như Thể.
Với chiến thuật "vừa xoa vừa đánh", CS lại cho phép GH in sách nguyện cho linh mục và sách lễ giáo dân và đồng ư dể mỗi miền chỉ được mở 2 chủng viện.
* Giai đoạn "Tiến lên XHCN" :
Như ta đă biết, năm 1985, Hà Nội tuyên bố giai đoạn thực hiện chế độ "Dân chủ nhân dân" tại miền Nam VN coi như đă hoàn tất và bắt đầu đi tới giai đoạn "Tiến lên XHCN". Muốn vậy, phải thực hiện một chương tŕnh được gọi là "Cải tạo XHCN". Trong chương tŕnh này, tôn giáo cũng được coi là đối tượng hàng đầu phải được "cải tạo". Tháng 9/85, Hà Nội ra lịnh kiểm kê tất cả các cơ sở sản xuất và kinh doanh của tư nhân c̣n lại để đưa vào hợp tác xă, đồng thời ra lịnh đổi tiền để vô hiệu hóa các nguồn vốn của tư nhân c̣n lạị Về phương diện kinh tế, UBNDTP Saigon đă quyết định chọn Q3 làm thí điểm, v́ nơi đây có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ loại nhỏ của tư nhân.
Về phương diện tôn giáo, th́ CS đă đem 200 công an học về công tác "tôn giáo vụ" ở Tiệp Khắc ra phân phối khắp nơi để phụ trách công tác xóa bỏ và vô hiệu hóa dần các cơ sở tôn giáọ Các chùa chiền, ḍng tu và cơ sở tôn giáo bị kiểm tra thường xuyên. Nhiều tu viện và cơ sở tôn giáo đă được lịnh chuẩn bị để được phân tán mỏng ra từng hộ 5-10 người, không cho tập trung nữạ Nhiều tu sĩ đă được Mặt Trận Tổ Quốc khuyến cáo trở về với gia đ́nh hay lập gia đ́nh.
Cũng vào năm 1985 nhằm vào dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm VN, ngày 14/1/85, Đức Giáo Hoàng đă gởi chúc thư chúc Tết các GMVN và nhắc nhở qua Roma để tham dự lễ "viếng mộ Thánh Phêrô", nhưng thư bị CS tịch thụ Ngày 6/3/85, lá thư này được công bố trên đài phát thanh Vatican. HDGMVN dự định họp từ ngày 4/5/85, nhưng CS bắt dời lại ngày 20/5/85. Sau đó nhiều GM không được đi sang Roma, chỉ có Hồng Y Trịnh Văn Căn, TGM Nguyễn Văn B́nh và GM Huỳnh Đông Các được phép đi từ ngày 7-24/11/85.
CS t́m cách cô lập và làm khó dễ GM Phạm Ngọc Chi, TGM Nguyễn Kim Điền, nhất là sau vụ CS gọi là "vụ gián diệp" Trương Thị Lư, Bề trên Tu hội Ḍng Mến Thánh Giá Huế, bị bắt vào tháng 7/85 chỉ v́ mang văn thư của TGM Điền vào Saigon (cái chết đột ngột vào 8/6/88 của TGM Điền, một người mạnh mẽ lên tiếng chống đối chính sách đàn áp tôn giáo của CS hiện vẫn c̣n là một nghi vấn). CS cô lập TGM Điền lấy cớ là để tránh bị "mạo danh" nói những điều bất lợị Ông liền viết thư mục vụ ngày 19/10/85 nhắn nhủ mọi người trong tương lai "đừng tin" những ǵ cho rằng ông có nóị Để làm giảm bớt không khí căng thẳng này, UBNDTPHCM chính thức cấp giấy phép cho mở Đại chủng viện Saigon. Trước đó họ cho mở Đại chủng viện tại Hà Nộị
Ngày 24/11/85, Đức Giáo Hoàng gởi một sứ điệp đến hàng giáo phẩm VN khen ngợi đức tính cần cù và ḷng can đảm, và nhắn nhủ "những đau khổ giống như hạt lúa ḿ rơi xuống đất chết đi sẽ sinh nhiều bông hạt khác". Trong dịp dâng thánh lễ cho VN ngày 13/12/85, DGH gởi một thư chung cho các GMVN, kể tên từng vị và nhắn nhủ tận tâm loan truyền sứ điệp tin cậy mến, trong đó có đoạn ông viết :"Tôi khuyến khích các linh mục, cho dù có gặp trở ngại, hăy tiếp tục con đường dẫn đến một xă hội được t́nh thương biến cảị V́ sức mạnh của việc rao giảng tin mừng sẽ trở nên yếu ớt nếu những người rao giảng tin mừng chia rẽ nhau".
Sứ điệp này càng làm cho sinh hoạt CG căng thẳng hơn. Suốt năm 1986, TGM Điền bị cán bộ Đảng kêu đi "làm việc" nhiều lần và ông phải vào nhà thương điều tri.. Ông tuyên bố đang "ở trong t́nh trạng bách hại" và cương quyết giữ "5 không" : không nói, không viết, không kư; và nếu CS bắt giam th́ sẽ "không ăn, không uống".
Phần 14
Năm 1987 có 2 biến cố quan trọng : vụ án ḍng Đồng Công và việc phong 117 Thánh tử đạo Việt Nam.
Sáng ngày 15/5/87, có khoảng 40 công an huyện Thủ Đức bất ngờ đột nhập vào khu vực ḍng Đồng Công tọa lạc trên ngon đồi Thủ Đức với lư do cần kiểm tra hộ khẩu; đúng vào lúc ḍng này đang tổ chức một khóa học "Gia đ́nh Đồng Công" quy tụ 62 giáo dân nam nư từ khắp nơi đến tham dư.. Khóa học này vẫn được phép tổ chức hàng năm, nhưng công an lập biên bản tại chỗ, bắt từng người làm bản tự khai rồi yêu cầu họ giải tán. Nhưng đây chỉ là màn đầu đến dọ thám địa h́nh của công an để chuẩn bị đàn áp. Sáng hôm sau, 16/5/87, linh mục Trần Đ́nh Thủ, cha Bề Trên Cả,cũng là người sáng lập ḍng Đồng Công, và thầy Trần Trung Thần, đă bị gọi lên công an huyện Thủ Đức để "làm việc", bắt viết những bản tự khai về tất cả sinh hoạt của Ḍng. Đến trưa, hơn 40 công an vơ trang đầy đủ đă đưa linh mục Thủ trở về và vây kín khu nhà Ḍng. Công an CS đọc lệnh kiểm tra toàn bộ tu viện, đặc biệt là khám xét rất kỹ căn pḥng làm việc của linh mục Thủ, trước sự soi mói của 2 cán bộ Pḥng An ninh Nội tuyến (P16) là Trần Thanh Tá và Nguyễn Văn Đảng.
3 giờ chiều cùng ngày, công an đ̣i khám xét khu Kitô Vương, cũng thuộc nhà ḍng nhưng cách 400m, nơi dùng để canh tác hoa màụ Công an ngang nhiên bắt giữ 5 thầy và tịch thu hết đồ đạc. Phi lư hơn, công an dùng xe vận tải chở hết gạo và một số đồ đạc của nhà ḍng mà không hề lập biên bản tịch thụ Đến 6 giờ chiều, hàng ngàn giáo dân nghe tin này đă kéo đến ḍng Đồng Công bao quanh khu vực, với gậy gộc, dao búa, xăng, gạch đá..., ngay vào lúc chuyến xe vận tải thứ tư của công an đến thu cướp gạo, giáo dân đă bao vây chiếc xe này, đập bể kính, đánh nhau với công an tài xế, và chận một chiếc xe khác. Một số công an bị đánh đến ngất xỉu, nhiều tên khác bỏ chạỵ Giáo dân đă canh thức khu nhà ḍng suốt đêm, cận chiến với công an. Thừa dịp này, công an đốt cháy khu nhà Kitô Vương, đập phá nhiều căn nhà khác, làm cho không khí phẫn nộ càng dữ dội hơn. Sáng hôm sau, 17/5/87, giáo dân kéo dến ngày một đông; có cả sự tham gia của nhiều giáo dân đến từ Saigon, Hố Nai
Biên Ḥa... Biển người tràn vào bên trong tu viện làm cho công an phải chạy ra ngoàị Đến đêm, tiếng kinh cầu nguyện vang vọng với những bài thánh cạ Báo Saigon Giải Phóng ở Saigon nhanh chóng chụp mũ ḍng Đồng Công "hoạt động chống phá cách mạng", với nhiều tang chứng như Giáo Cương Gia Đ́nh Đồng Công bị xem là truyền đơn; các dụng cụ văn pḥng, máy in ronéo cũ kỹ, chiếc bàn cắt giấy nhỏ, ít giấy vụn, vài b́nh mực in kinh sách...được xem là những tang vật "chống nhà nước".
Sáng 18/5/87, một số tu sĩ khuyên giáo dân giải tán nhưng không được. Công an thành phố Saigon và huyện Thủ Đức phải nhờ các linh mục chánh, phó xứ đạo đến họp "giúp giải quyết". Công an c̣n đọc thư của GM phụ tá Saigon Nguyễn Văn Nẫm (v́ TGM B́ng đi Âu châu) kêu gọi giáo dân đừng tụ tập "để nhà nước dễ làm việc". Nhưng giáo dân vẫn tiếp tục thức đêm tại nhà ḍng và xảy ra bạo động đẫm máu khi phát hiện ra một số công an ch́m xâm nhập vào hàng ngũ. Một công an bị đâm chết, 2 tên khác bị trọng thương.
Đến ngày 19/5/87, bộ đội Quân đội Nhân dân hỗ trợ công an CS vây chặt đường phố và hôm sau mọi người trên đường phố đều bị khám xét. Tối hôm đó, công an, bộ đội xông vào tu viện bắt giữ 40 tu sĩ, kể cả các vị già yếu, bệnh tật đang ở Giáo sĩ Dưỡng đường của ḍng Đồng Công. Chiều ngày 21/5/87, toàn bộ ḍng Đồng Công bị CS chiếm giữ. Linh mục Trần Đ́nh Thủ bị bắt giam sau đó và bị xử tù chung thân ngày 18/10/87.
CS c̣n bày tỏ sự khó chịu khi Bộ Truyền giáo Ṭa thánh Vatican thiết lập Văn pḥng Phối kết Tông đồ Mục vụ Hải ngoại và chỉ định Đức ông Trần Văn Hoài làm giám đốc tiên khởị
Ngày 4/1/1988, phái đoàn GM Hoa Kỳ do Đức cha Mahoney dẫn đầu đến thăm VN t́m hiểu sinh hoạt CG. Đức cha Mahoney chủ trương kêu gọi chính phủ Mỹ hủy bỏ cấm vận và bang giao với CSVN. Để "đáp lễ" việc này, CSVN ra lịnh thả 35 linh mục tuyên úy quân độị
Trong không khí đau buồn sau vụ CS tiêu diệt ḍng Đồng Công, GHCGVN lại thêm đau buồn trước cái tang của Đức cha Phạm Ngọc Chi, Đức cha Lễ và nhất là TGM Nguyễn Kim Điền bị CS ám hại ngày 8/6/88 v́ tinh thần đấu tranh can đảm cho tự do tín ngưỡng của ông.
Một biến cố vui mừng đối với GHCG nhưng trở thành sự phẫn nộ đối với chế đô.. Ṭa thánh long trọng cử hành đại lễ Phong thánh 117 Vị Tử đạo VN vào ngày 19/6/88 (trùng ngày kỷ niệm Quân lực VNCH). CS đă ra lịnh các cơ quan truyền thông liên tiếp bôi nhọ quyết định phong thánh của Vatican. Hàng ngàn giáo dân VN ở hải ngoại đă đến Roma tham dự, với cờ quốc gia nền vàng 3 sọc đỏ được thực hiện với nhiều h́nh thức, v́ ban tổ chức không chấp thuận khách tham dự mang cờ VN.
Trước t́nh h́nh bất ổn trong nước qua những vụ đấu tranh của bà con nông dân, các tu sĩ Phật giáo, của văn nghệ sĩ ngày 24/11/88, CS phải giảm bớt sức căng với CS và ra lịnh phóng thích TGM Nguyễn Văn Thuận sau khi bắt giam ông 13 năm không xét xử. Đến 27/3/89, tương kế tựu kế, CS cho TGM Thuận xuất ngoại thăm cha mẹ và Đức Giáo Hoàng, rồi không cho ông về nữạ
Đầu tháng 1/89, đặc sứ của Đức Giáo Hoàng là Đức Hồng Y Etchegaray đă cùng với Đức ông Phương sang VN thăm một số địa phận. Bất chấp sự rỉ tai đe dọa của công an địa phương, 20000 giáo dân tại Hà Nội, 120000 tại Phát Diệm, 250000 tại Bùi Chu, tương tự ở Hải Pḥng, Saigon, Long Xuyên...đă vui mừng tiếp đón phái đoàn.
Ngày 6/12/89, Hội đồng Giám mục họp và bầu ban thường vụ mới : Đức cha Nguyễn Minh Nhật giữ chức vụ chủ tịch, Đức cha Lê Phong Thuận làm tổng thư kư.
Ngày 1/2/90, Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn qua đời tại Hà Nộị
Đức Giáo Hoàng cử Đức Cha Etchegaray, Đức ông Celli và Đức ông Nguyễn Văn Phương sang dự lễ an táng và thương thảo với CS về việc bổ nhiệm GM cho 5 giáo phận trống khuyết, truyền chức linh mục, tự do làm việc mục vu.... Kết quả không như ư muốn của phái đoàn.
Một sự kiện khác là CS ra lịnh bắt giữ linh mục Chân Tín và giáo sư Nguyễn Ngọc Lan (cựu linh mục) ngày 16/5/90. Linh mục Chân Tín bị bắt và bị lưu đày ở Minh Hải v́ tập hồ sơ có tên "Nói cho con người" gồm một số bài tham luận, văn kiện gởi cho các cơ quan CSVN, cũng như các vị bề trên của Ṭa thánh; đặc biệt là 4 bài giảng vào mùa chay năm 1990, trong đó ông kêu gọi lănh đạo CSVN nên "sám hối" tội lỗi của ho.. Giáo sư Lan bị quản thúc ở Saigon v́ tập nhật
kư 1989-1990 tố cáo chính sách vi phạm nhân quyền của chế đô.. Trước năm 1975, 2 vị này từng có những hoạt động thân Cộng ở miền Nam.
"Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" họp đại hội lần II ngày 16/10/90 để củng cố t́nh "đoàn kết" với không khí tẻ nhạt, chỉ có 300 người tham dự; trong số này chỉ có 13 linh mục (so với đại hội năm 1983 là 142 linh mục) và linh mục Vơ Thành Trinh được bầu làm chủ ti.ch.
Trong tháng 12/91, tập thể giáo dân An Thượng, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đă viết liên tiếp nhiều dơn khiếu nại gởi các cấp nhà nước CS ở tỉnh để phản đối hành động cướp đất nhà thờ thuộc giáo xứ An Thươ.ng. UBND phường
đă ngang nhiên bán khu đất này cho Ngân hàng Công thương để lấy tiền mặt. Bất chấp lời khẩn cầu của giáo dân, Ngân hàng Công thương đă đem vật liệu đến tiến hành xây dư.ng.
Đếng tháng 1/92, Đức Ông Celli và Đức Ông Thượng lại sang VN thương thảo lần thứ hai, về các vấn đề bổ nhiệm Giám Mục, chủng viện, phong chức, giáo sư ở miền Nam và từ nước ngoài về bổ sung cho các chủng viện, nh́n nhận những linh mục được chịu chức "chui", trợ giúp nhân đạo,... Vấn đề giải quyết cũng c̣n nhiều trắc trở. Lần này, CS từ chối không cho Đức Ông Trần Ngọc Thụ (Bí thư của DGH) đi trong phái đoàn và chỉ cho phái đoàn lưu lại VN có 5 ngàỵ
Nhằm ngăn chặn các linh mục quốc doanh đang t́m cách phá đạo, ngày 20/5/92, Bộ Ngoại Giao Ṭa Thánh gởi thơ nhắc nhở các linh mục, tu sĩ về thông tư năm 1982 là không được gia nhập các tổ chức chính tri.. Ban Tôn Giáo CS phản đối rằng, "quyết định như vậy là trái với Hiến pháp VN và quyền công dân về nhân quyền, và cũng trái với thỏa thuận chung là những vấn đề Vatican định thực hiện ở VN cần trao đổi thống nhất với chính phủ VN trước".
Tháng 12/92, dù đang bị giam giữ ở Minh Hải, linh mục Chân Tín phổ biến 2 lá thư ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo và khi phân tích nội dung lá thư trên của Bộ Ngoại Giao Ṭa Thánh, ông tố cáo bản chất công cụ của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu n+ớc (UBDKCGYN). Ông đă dùng những từ ngữ rất rơ nghĩa để chỉ "chế độ độc tài đảng trị chống con người và tôn giáo", "đảng phái vô nhân đạo", "một chế độ vô nhân đạo"...
Đâù tháng 2/93, Đức Ông Celli và Đức Ông Phương đến VN lần thứ ba (lẽ ra là vào tháng 11/92, nhưng CS hoăn lại chỉ v́ muốn đào xong một cái hồ nước làm tăng "vẻ đẹp" trong khu vực Ṭa Khâm Sứ cũ). Lần này phái đoàn thảo luận về sự trở về VN của Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, bổ nhiệm GM cho 4 địa phận Saigon, vấn đề tự do hội họp và hoạt động của Hội đồng GMVN, mở thêm Đại chủng viện, cho các linh mục đi tù "cải tạo" về được làm mục vụ, các ḍng tu được thu nhận ơn kêu gọi của giáo dân (đă được HDGMVN nêu lên trong bản kiến nghị ngày 18/10/92), vấn đề thiết lập quan hệ giữa VN và Vatican, vấn đề linh mục không được gia nhập UBDKCGYN. Cũng trong thời gian này, theo tờ Eglise d'Asie xuất bản tại Pháp số ra ngày 16/5/93, th́ công an đă mở thêm chiến dịch lùng soát 4 giáo phận, phân tán một cuộc họp b́nh thường của 27 giáo dân, bắt mỗi người phải nộp phạt 10,000 đồng nhưng không ghi số tiền này vào biên bản.
Với kết quả vẫn ở trong t́nh trạng cầm chừng, trong phiên họp của HDGMVN từ ngày 12-19/10/92 để bầu ban thường vụ, các GM đă gởi kiến nghị cho ông Vơ Văn Kiệt và Ban Tôn Giáo CS, yêu cầu tôn trọng tự do sinh hoạt của HDGMVN, được quyền đào tạo thêm chủng sinh, quyền điều động nhân sự và yêu cầu trả lại những tài sản của giáo hội đang bị cưỡng đoạt.
Trước sự im lặng của CS, Ban Thường vụ HDGMVN sau 3 ngày họp đă gởi kiến nghị lên Ban Tôn Giáo CS ngày 19/3/93 yêu cầu : Tăng số người đi du học, chiêu sinh và giáo sư Đại chủng viện. Xin mở các tu sở chuẩn bị ứng sinh, mở lại Đại chủng viện Huế, các chủng sinh măn khóa đương nhiên được chịu chức. Tổ chức hàng năm các khoá bồi dưỡng cho các tu sĩ nam nữ.
Trước t́nh h́nh sôi động dữ dội với cuộc đấu tranh cho tự do tín ngưỡng của đồng bào Phật giáo, nhất là biến cố hơn 40,000 Phật tử biểu t́nh ở Huế, CS vừa tiếp tục gia tăng việc đàn áp Phật giáo, vừa mưu kế gây mâu thuẫn giữa các tôn giáo bằng một hành động tạo vẻ ḥa hoăn với CG. Ngày 12/5/93, linh mục Chân Tín được tự dọ Ngày 18/5/93, linh mục Trần Đ́nh Thủ trong vụ án ḍng Đồng Công được cho về nhà nhưng bị quản thúc. Ngày 19/11/93, 4 tu sĩ ḍng Dồng Công được phóng thích. Tuy nhiên, với sự ám ảnh thường xuyên về "diễn tiến ḥa b́nh", theo tờ Eglise d'Asie, Bộ Nội Vụ CS đă hủy bỏ vào phút chót một buổi hội thảo của đại diện các nhà báo Thiên Chúa Giáo dự định tổ chức vào đầu tháng 6/93 tại Saigon, với lư do "thời điểm không thuận tiện". Buổi hội thảo có chủ đề "Sự đóng góp của các tôn giáo vào sự phát triển VN", theo lời mời của tạp chí Công giáo và Dân tộc (cơ quan ngôn luận của UBDKCGYN) và đă được ông Vơ Văn Kiệt chấp thuận.
Ngày 23/7/93, TT Vơ Văn Kiệt ra chỉ thị "nhà nước cho phép hành đạo, phù hợp với pháp luật của nhà nước, song nghiêm cấm các hoạt dộng lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống chính quyền, gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc". Song song, CS công khai chứng tỏ việc tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho GHCGVN như sửa chữa nhà thờ, in ấn sách đạo, cho đào tạo giáo sĩ nhưng bên trong, CS yêu cầu GHCGVN phải báo cáo trước chương tŕnh hoạt động tôn giáo và nắm vững quy định về hoạt động đối ngoại của tôn giáọ Thêm vào đó, CS kiện toàn các Ban tôn giáo của họ ở địa phương, tăng cường tuyên truyền chính sách tôn giáo qua các phương tiện truyền thông ở trong và ngoài nước.
Những bước "trá ḥa" của CS chỉ làm cho sinh hoạt đ̣i hỏi tự do tín ngưỡng của giáo dân càng mạnh mẽ hơn. Ngày 12/8/93, trong khi 40,000 tín hữu hành hương tại nhà thờ La Vang (tỉnh Quảng Trị) th́ hàng ngàn truyền đơn của Phong Trào Đ̣i Tự Do Cho Công Giáo đă phổ biến trong dịp nàỵ Nội dung bản truyền đơn hoàn toàn ủng hộ các đ̣i hỏi chính đáng được ghi trong bản kiến nghị của Hội đồng Giám mục Việt Nam (HDGMVN) gởi cho nhà nước CS ngày 19/3/93.
Để gia tăng áp suất các đ̣i hỏi tự do tín ngưỡng, ngày 20/10/93, HDGMVN lại gởi kiến nghị cho ông Vơ Văn Kiệt, yêu cầu :
- Về mục vụ : không phải xin phép đi làm mục vụ trong địa hạt của ḿnh, tự do phân bổ linh mục, có nhà in riêng, xuất bản một tập san, được mở trường để giáo dục thanh thiếu niên.
- Về nhân sự : các ḍng tu được nhận ứng sinh và GM được nhận ḍng tu đến làm việc, linh mục "cải tạo" sớm được thi hành chức vụ, không làm khó dễ những người xin học đạo, tự do lựa chọn ứng sinh, sớm giải quyết trường hợp Đức Cha Nguyễn Văn Thuận.
- Về cơ sở : sớm mở Đại chủng viện Huế, mở thêm Đại chủng viện Xuân Lộc (gồm 3 địa phận Đà Lạt, Xuân Lộc, Phan Thiết), Đại chủng viện Thái B́nh (gồm Bùi Chu, Thái B́nh, Hải Pḥng), trả lại Hoc. viện Đà Lạt để mở phân khoa Thần Học, tu sở chuẩn bị ứng sinh 3 năm cho mỗi địa phận, trả lại các cơ sở của GHCGVN, dễ dàng xây nhà thờ nhà nguyện ở vùng kinh tế mớị
Vấn đề trở về VN của Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, TGM phó địa phận Saigon, đă dược ngă ngũ. CS lập lại nội dung bản thông cáo của UBNDTPHCM (ngày 15/9/93), vu cáo Đức Cha Thuận là "từng tham gia vào việc chia rẽ, đàn áp tôn giáo, có nợ máu với nhân dân" để dứt khoát với Vatican về việc đưa Đức Cha cai quản địa phận Saigon, thay thế Đức Cha B́nh đang bịnh nặng, v́ lo sợ Đức Cha Thuận có thể lôi kéo giáo dân Saigon nổi dậy chống chế độ CS đă từng đồng ư với Vatican về việc bổ nhiệm GM Huỳnh Văn Nghi (địa phận Phan Thiết) kế vị Đức Cha B́nh, nhưng lại cho rằng Vatican đă "đơn phương bổ nhiệm GM Huỳnh Văn Nghi là Giám quản Tông ṭa Giáo phận HCM", nên không đồng ư. Lư do rất giản dị v́ CS thấy sức khoẻ của Đức Cha B́nh đă hồi phục phần nào nên muốn duy tŕ chức vụ lănh đạo giáo phận Saigon của ông để dễ bề thao túng. Tuy nhiên, Đức Cha Nghi vẫn thực hiện chức vụ mà Ṭa Thánh bổ nhiệm.
Ngày 23/10/93, Đức Cha Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Việt Nam, đă hủy bỏ buổi lễ phong chức cho 11 vị linh mục để phản đối hành động của CS không chấp nhận chức vụ mới của Đức Cha Nghi và không để ngài làm chủ tế ngày phong chức kể trên, dự trù vào ngày 24/10/93.
Đầu tháng 11/93, một Ủy ban Hợp tác Các Tôn giáo tại VN đă triệu tập một buổi họp bí mật, dưa ra một bản tuyên cáo như h́nh thức truyền đơn truyền đi rộng răi khắp nơi trong nước, nội dung ủng hộ các đề nghị của HDGMVN và yêu cầu phóng thích Ḥa Thượng Thích Huyền Quang và các vị cao tăng khác.
Phái đoàn Ṭa Thánh do Đức Ông Celli và Đức Ông Phương lại đến VN lần thứ tư, từ 3-13/3/1994. Kết quả lần thảo luận này đă được Đức Ông Celli cho biết trong cuộc phỏng vấn trên đài Vatican. Ông nói "...Tôi thấy rằng con đường phải đi vẫn c̣n dài trước khi có thể nói là tôn giáo VN được hưởng tự do hoàn toàn về tôn giáọ Về vấn đề này, tôi cũng muốn minh định rằng tự do tôn giáo không phải chỉ là tự do làm việc thờ phươ.ng. GHCGVN không bị chối bỏ quyền nàỵ Tự do tôn giáo bao gồm một thực tế rộng lớn hơn, ví dụ như tự do thành lập các hội đoàn công giáo, tự do các cơ sở giáo dục, từ thiện...". Ông c̣n cho biết v́ không c̣n cách nào khác hơn nên phải đồng ư việc "Vatican sẽ thương thảo với nhà nước CS trước khi có quyết định bổ nhiệm các GM tại VN".
Chỉ một tuần sau, ngày 20/3/94, Ban Tư tưởng Văn hóa của Đảng CSVN đă phổ biến "tài liệu lưu hành nội bộ" có nhan đề "Hoạt động của một số thế lực thù địch và chống đối". Sau khi liệt kê những hoạt động "cực kỳ phản động" của tổ chức Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, tài liệu này tố giác Ủy ban Công giáo Chống đói, V́ Phát triển (CCFD), có trụ sở tại Pháp, là đă "gởi tài liệu về dân chủ, nhân quyền Tây phương vào VN, đào tạo một số hạt nhân tổ chức nhân quyền quốc tế tại VN. CCFD chú ư tác
động vào một số trí thức trẻ, nhất là những người được đào tạo ở nước ngoài...", và ngấm ngầm vận động giáo dân xóa bỏ Ủy ban Đoàn kết Công giáo nhà nước. Được biết, tổ chức công giáo CCFD tài trợ rất nhiều sinh hoạt tại VN từ nhiều năm quạ
Trong Đại hội Mặt Trận Tổ Quốc vào tháng 8/94, Đỗ Mười lớn tiếng cảnh giác "những lạm dụng tôn giáo phá hoại t́nh đoàn kết dân tộc" sẽ bị trừng trị thích đáng. Một tháng sau, Hội đồng GM Hoa Kỳ, ngày 15/9/94, kêu gọi CS phải gia tăng tự do tôn giáo tại VN.
Ngày 24/11/94, Đức Giáo Hoàng quyết định bổ nhiệm Đức Cha Thuận là Phó Chủ tịch Hội đồng Ṭa thánh Công lư và Ḥa b́nh. Kế đó, ngày 26/11/94, Đức Cha Phạm Đ́nh Tụng được phong Hồng Y, sau khi ông được bổ nhiệm chức Tổng GM Hà Nội từ ngày 23/4/94.
Ngày 26/3/95, phái đoàn Ṭa Thánh do Đức Ông Celli và Đức Ông Phương đến VN lần thứ 5, tiếp tục bàn thảo với Ban Tôn Giáo CS về : việc bô nhiệm các GM cho các giáo phận c̣n bị bỏ trống, hoặc có GM cao tuổi; đặc biệt là ở Hưng Hóa, Saigon, Phú Cường, Bùi Chu, Quy Nhơn và Long Xuyên; vấn đề yêu cầu CS trả lại các tài sản của GHCG và các vấn đề tự do tôn giáọ Tuy nhiên, Ban Tôn Giáo của CS đă né tránh không muốn đề cập đến việc để Đức Cha Huỳnh Văn Nghi về Saigon giữ chức vụ Chánh Quản Tông Ṭa như Ṭa Thánh đă bổ nhiệm. Hơn thế, Ban Tôn Giáo c̣n đơn phương hủy bỏ việc phái đoàn Ṭa Thánh đi Saigon để gặp gỡ các
GMVN, với lư do là Saigon đang quá bận bịu chuẩn bị kỷ niệm 20 năm cưỡng chiếm miền Nam. V́ thế phái đoàn đă từ Đà Nẵng trở lại Hà Nộị Các GMVN dă gởi thư cho ông VVK yêu cầu để Đức Cha Huỳnh Văn Nghi về làm việc tại Saigon.
Ngày 6/5/95, CS tuyên bố bác bỏ sự bổ nhiệm 4 GMVN của Ṭa Thánh, v́ cho rằng đây là việc của HDGMVN, Ṭa Thánh không cần can thiệp vàọ Ngoài ra, CS c̣n ngang nhiên đ̣i Vatican phải giải tán Văn pḥng Phối kết Tông đồ Mục vụ, trụ sở ở Roma, do Đức Ông Hoài điều hành, và phải thay đổi đường lối của 2 chương tŕnh Việt ngữ của đài Vatican và đài Veritas (phát từ Phi Luật Tân) phát sóng về VN.
4 tháng sau, ngày 1/7/95, Đức Cha Nguyễn Văn B́nh từ trần, hưởng thọ 85 tuôị CS cố t́nh thổi phồng đám tang ông, khi cho phép mỗi quận ở Saigon cử 700 giáo dân đến tham dự (khoảng 12,000 tín đồ) đám tang ngày 5/7/95.
Cố gắng sinh tồn
GHCGVN hiện nay chia làm 3 Giáo tỉnh : Giáo tỉnh Hà Nội (có 10 giáo phận), Giáo tỉnh Huế (có 6 giáo phận) và Giáo tỉnh Saigon (có 9 giáo phận).
T́nh trạng sinh hoạt CG trên cả nước rất bi đát, đặc biệt là ở miền Bắc. Như ở địa phận tỉnh Thái B́nh chẳng hạn. DGM Nguyễn Văn Sang, Phó chủ tịch HDGMVN, trong cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Trần An Bài nhân dịp ông sang Roma ngày 5/10/92, cho biết giáo dân ở đây có khoảng 120,000 ngườị
Trước khi Đức Cha Sang về Thái B́nh 2 năm th́ giáo phận này không có GM, sau khi GM Đinh Đức Trụ và Đinh Văn B́nh qua đờị Hiện nay có 20 linh mục c̣n trẻ, 2 linh mục già 95 tuổi và 65 tuổi là các linh mục chính trong địa phận. Trong số các linh mục có 8 linh mục được truyền chức nhưng CS không chấp thuận. Về số nữ tu rất khiêm tốn, có khoảng 20 nữ tu già tuổi từ 65-90, tŕnh độ rất thấp và đời sống cực kỳ khổ sở. Nhiều người không biết chữ. Đức Cha Sang muốn gầy dựng một cộng đồng khoảng 100 nữ tu và cho các em vào học nhưng CS không đồng ư. C̣n ḍng tu chỉ có một số thầy đă có chức Sáu, chức Bốn và khoảng 100
chủng sinh đang sống trong các xứ làm mục vụ mà Đức Cha Sang vẫn phải lo lắng từ tinh thần đến vật chất. Thái B́nh nằm sát biển nên bị ảnh hưởng bởi băo táp nhiềụ Hơn 1000 nhà thờ lớn nhỏ (hầu hết đă được xây trên 200 năm)
nhưng trên 800 cái cần phải được sửa chữạ Theo Đức Cha Sang "t́nh h́nh giữa nhà nước với tôn giáo rất căng thẳng", nên ông phải t́m cách truyền giáo qua những việc làm bác áị Phần lớn nguồn viện trợ đến từ các tổ chức từ thiện ở ngoại quốc.
2 địa phận Bắc Ninh và Lạng Sơn cũng thê thảm không kém. Địa phận Lạng Sơn chỉ có một linh mục và một GM với số giáo dân là 4000 (năm 1990). Đức Cha Dụ ở Lạng Sơn bị quản thúc từ 30 năm quạ C̣n địa phận Bắc Ninh với 10,000 giáo dân, 46 xứ đạo chính, 360 họ đạo mà chỉ có 1 GM và 1 linh mục "rưỡi" (v́ chỉ có một linh mục được quyền làm mục vụ, c̣n linh mục kia bị quản chế). Có xứ đạo ở tỉnh Vĩnh Phú hơn 40 năm mà chưa có một thánh lễ nàọ Việc thiếu linh mục có nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân mà linh mục Nguyễn Trọng Tước kể lại vào tháng 11/94 : tại Ṭa Giám Mục ở Vĩnh Phú, một bà trọng tuổi vừa đi xe đ̣ từ xa đến, c̣n dính bụi bậm trên người, đă vội chạy đến thưa với GM : "Bẩm Đức Cha, ông Trùm họ chúng con mới bị bắt". Nhưng khuôn mặt Đức Cha b́nh thường, như thể ông đă quen lắm rồi những báo cáo, chịu đựng như thế.
Các giáo phận Huế, Qui Nhơn và Đà Nẵng chịu ảnh hưởng nặng nề về kinh tế sau 1975 nên số giáo dân giảm sút trầm tro.ng. Năm 1973, giáo phận Huế có 92,000 giáo dân th́ đến năm 1990 chi c̣n 43,642.
Không thiếu những bằng chứng về sự tiêu diệt đạo giáọ Ngày 24/11/94, linh mục Nguyễn Văn Lư tại Huế đă gởi Ban Tôn giáo Tuyên ngôn 10 điểm, tố giác hành vi chà đạp tự do tín ngưỡng của chế đô.. Ông cho biết Tiểu chủng viện Hoàn Thiện đă bị CS dùng bạo lực cưỡng chiếm từ tháng 12/75 để làm trường trung học, khiến cho gần 300 chủng sinh phải lang thang tu học tại giạ Hơn 100 chủng sinh bị đuổi khỏi Tiểu chủng viện này và Đại chủng viện Huế từ năm 1979. Hiện chỉ c̣n 15 chủng sinh sống lang tang ở Huế chờ ngày được vào Đại chủng viên khi được mở cửa lạị
Linh mục Lư c̣n tố cáo chế độ đă trắng trợn xen vào nội bộ của GHCGVN về các qyền tấn phong, bổ nhiệm, cũng như bức bách trách nhiệm Giám quản Huế của Đức Cha Lê Văn Nẫm. Ngay cả Ḍng Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Phú Xuân, Kim Long, bị CS "thuê" nhưng không không trả 1 xu nào từ 18 năm qua và cũng không trả tu viện này lạị Linh mục Lư từng bị CS bắt giam 15 năm tại Nam Hà, từ năm 1980, v́ hành động đấu tranh đ̣i tự do tín ngưỡng của ông.
Tính đến 1995, số giáo dân ở VN có khoảng từ 6-7 triệu trên dân số khoảng 74 triệu, chiếm tỷ lệ từ 8.1-9.46%. Điều quan ngại nhất là số linh mục đến năm 1993 chỉ có khoảng 1900 người mà phần đông là già yếụ Tính đổ đồng th́ một linh mục chăm sóc cho 1570 giáo dân trong Nam và 6565 dân tại miền Bắc. Cuối năm 1994 chỉ c̣n 1800 linh mục.
Đạo Tin Lành trước cơn băo
Đạo Tin Lành cũng không thoát khỏi t́nh trạng bị bức tử. Sau năm 1975, tất cả giảng đường ở miền Nam đều "được" xung công thành những cơ quan của nhà nước. Các Mục sư chân chính đều lần lượt bị trù dập v́ luôn luôn bị nghi ngờ là "nhân viên CIA của đế quốc Mỹ".
Ngay tháng 5/75, công an CSVN đă bắt giam Mục sư Đào Quang Long v́ bài giảng đầu tiên tại Hội Thánh Phúc Âm II, với một câu trong kinh thánh :"Khi người ta nói ḥa b́nh và yên ổn th́ th́nh ĺnh tai họa sẽ xảy đến". Công an phiên dịch rằng câu này muốn "tàn quân Mỹ-Ngụy" đánh .la.i CS. Ông bị xử tù 8 năm trong trại giam Phú Yên. Tháng 12/1977, Mục sư Bùi Văn Nhàn thuộc Hội Thánh Phú Long bị bắt giữ về tội "dụ dỗ người vô đạo", v́ ông đă treo biểu ngữ trước hội thánh ngày Giáng Sinh, có nội dung trích từ thánh kinh :"Sáng danh Chúa trên các từng trời cao, b́nh an dưới đất, ân trạch cho loài người". Mục sư Nhàn bị tù 7 năm. Vẫn t́m lư do để diệt trừ đức tin tôn giáo, cũng năm 1977, công an bắt giam Mục sư Trần Tuôn, Chủ nhiệm Hội thánh Phúc âm I, v́ tội tụ tập giáo dân tại nhà thờ để cầu nguyện xin Chúa chữa bịnh cho một cụ già trong xă. Mục sư Tuôn bị giam 8 năm ở trại tù Đức Linh, tỉnh Thuận Hảị Xóm đạo Tin Lành Phúc Âm ở Thuận Hải thường xuyên bị công an hạch hỏi từng nhà về số tiền đóng góp của người đồng hương sống ở hải ngoạị CS vu cáo là "tiền dùng nuôi tàn quân ngụy nên không khai báo với nhà nước". Có người v́ quá sợ hăi đă quyên sinh.
Các mục sư bị bắt đều không được đem ra xử, và sau đó toàn bộ tài sản của hội thánh đều bị chiếm đoạt. Từ năm 89-91, số Mục sư bị bắt gia tăng. Ngày 4/12/89, Mục sư Vơ Xuân bị bắt giam ở tỉnh Thuận Hải v́ tội gặp gỡ các tín đồ tại nhà của họ ở tỉnh B́nh Tuy, nơi mà cả 3 nhà thờ Tin Lành bị đóng cửa từ lâụ Ông là Tuyên úy Tin Lành từng bị bắt đi "cải tạo" từ tháng 6/75 đến tháng 4/87. Mục sư Trần Xuân Tú bị bắt năm 1985, giam ở Thuận Hải, v́ đă tổ chức các buổi học hỏi, bắt triệt hạ thánh giá trong nhà thờ, rồi chiếm luôn gian nhà nguyện nàỵ Tháng 12/89, Mục sư Vơ Minh Hùng bị bắt giam tại tỉnh Pleiku v́ tội đă tổ chức các buổi học hỏi kinh thánh tại nhà; sau đó ông bị giam tại trại A-20, tỉnh Phú Yên. Đây là lần thứ ba ông bị giam; lần đầu 1 tuần, lần thứ hai 3 tháng. Tháng 11/89, Mục sư Trần Thể Thiên Phước bị bắt giam lần thứ ba lúc trên đường đi thăm các tín đồ và bị kết tội "gây rối loạn". Ông bị đày ải ở trại Tống Lê Chân, tỉnh Sông Bé.
Ngày 22/2/91, Mục sư Đinh Tiện Từ bị bắt khi vừa ra khỏi nhà mộ tín đồ. Công an đă đến nhà ông lục soát kỹ lưỡng với lư do có một lá thơ "tố giác gây rối loạn". Ông bị giam ở T-20 Phan Đăng Lưu Saigon, rồi chuyển sang Chí Ḥạ Trường hợp Mục sư Từ khá đặc biệt. Ông là người đứng đầu phong trào đọc kinh tại gia mạnh nhất tại VN và từng ở trong Giáo hội Tin Lành đến năm 1988 được nhà nước công nhận. Sau đó, các mục sư quốc doanh có chức sắc đă trục xuất ông v́ cho rằng ông truyền "sai lạc giáo lư". Rồi ông trở lại Giáo hội Tin Lành làm việc lại và được cử giữ chức vụ quan tro.ng. Ông bị bắt lại v́ bị vu cáo là "lợi dụng việc xă hội cho mục tiêu chính trị". Trước áp lực về nhân quyền, CS đă phóng thích ông vào ngày 6/4/93.
Mục sư Trần Đ́nh Ái bị bắt ngày 27/2/91 và bị giam ở Chí Ḥa Saigon v́ tội hoạt động tôn giáo trái phép và chống lại chế đô.. Ông đứng đầu một phong trào học hỏi kinh thánh khác, giữ trách nhiệm nhiều giáo phận Tin Lành ở miền Nam, và có những liên lạc mật thiết với Giáo hội Pentacostal ở ngoại quốc. Đến ngày 6/4/93, ông được phóng thích. Ngày 31/10/91, Mục sư Trần Mai bị bắt v́ tội "hoạt động tôn giáo bất hợp pháp" và bị giam tại Phan Đăng Lưụ Ông được phóng thích cùng ngày với Mục sư Áị Trước ngày được thả, Mục sư Mai bị biệt giam v́ đă nghiên cứu giáo lư.
Tháng 8/89, Mục sư R'Mah Boi, người gốc thiểu số Jarai, huyện Gia Rai, tỉnh Kontum, đă bị bắt v́ tội đă vận động 200 đồng bào thiểu số giúp thu hoạch 2 ruộng lúa để giúp 2 tín đồ già yếu, đă bị công an bắt phạt v́ tổ chức học hỏi thánh kinh tại nhà. Mục sư Boi bị giam chung với 2 tín đồ này ở trại A-20, tỉnh Phú Yên. Tháng 6/90, Mục sư Ya Tiêm, thuộc sắc tộ Koho, bị bắt giam ở Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Ông là mục sư của 14 cộng đồng thiểu số trên miền Cao nguyên.
Chính v́ chứng "dị ứng CIA" nên nhà cầm quyền CS nh́n người truyền giáo đạo Tin Lành nào cũng là gián điệp. Ngày 14/4/93, Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, là Mục sư chính của thánh đường Saigon tại Wesminster, tiểu bang California, thuộc Giáo hội Cơ Đốc Cải Cách Mỹ Châu, đă bị trục xuất ngay khi ông và phái đoàn đến phi trường Nội Bài ở Hà Nội, nhưng không được biết lư do cho đến cả hôm naỵ Mục sư Bảo cho biết công tác đến VN của ông hoàn toàn v́ lư do nhân đạo, từng ra vào VN 13 lần với nhiều dụng cụ y khoa, thuốc men dể giúp cho các bịnh viện như Chợ Rẫy Saigon, ở tỉnh Đồng Tháp, ở Quảng Nam Đà Nẵng. Ông c̣n cho biết
chỉ một ḿnh ông bị trục xuất, c̣n những người khác trong phái đoàn th́ không, và có thể ông c̣n có cơ hội đến VN nữa.
Tương tự, Mục sư Nguyễn Quang Minh ở miền Nam california, thuộc Giáo hội Tin Lành Phúc Âm Liên Phái, đă đến VN ngày 19/5/95 và bị bắt giữ ngay khi xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Công an Cục Bảo Vệ Chính Trị 3 của Bộ Nội Vụ CS đă áp giải ông về số 235 đường Nguyễn Văn Cừ để chất vấn chuyến đi của ông. Hành lư của ông bị khám xét kỹ lưỡng và bị tịch thu 18 tài liệu, trong đó có 2 bài do ông viết : "Hướng đạo và Cộng sản" và "Thử bàn một chiến lược chống Cộng cho người Việt hải ngoại". Công an có hỏi lư do và ông trả lời rằng ở Mỹ có tự do ngôn luận và mọi người đều được quyền viết những ǵ ḿnh nghĩ. Sau đó, công an không cho ông đi Hà Nội như dự định, không trả lời vụ mở pḥng tuyên úy như ông đă xin 2 năm trước đó.
Tuy nhiên CS vẫn cho phép một số giáo phái Tin Lành hoạt động ở VN, với sự kiểm soát thường xuyên của Công an Bảo vệ Chính trị, như các tổ chức "The World Church", Giáo hội Quaker...tức là những tổ chức tôn giáo đến VN để làm công tác nhân đạo thuần túy và mang thật nhiều viện trợ vào ! Hiện nay, số tín đồ Tin Lành có khảng 500,000 người, với số Mục sư c̣n khoảng 200, so với 500 Mục sư trước năm 1975.
Kết luận
Ánh sáng đức tin không v́ những chính sách vừa kể trên mà lịm tắt. Trên báo Paris Match, số tháng 5/91, kư giả Pháp Michel Taurac đi thăm VN về đă viết rằng ông đă gặp một linh mục ở Saigon, bị tước đoạt mọi quyền công dân, không nơi cư trú, không việc làm. Ông đă ngủ ngoài đường, che bằng miếng nhựa và đi ăn xin. Ông nói :"Tôi vẫn rao giảng Tin Mừng. Nhờ Chúa giúp tôi, tin chắc rằng chúng tôi sẽ xây dựng lại Giáo hội và thu phục lại con chiên. Mỗi ngày tôi đều cầu nguyện, tôi quỳ gối hướng về Vương Cung Thánh Đường và tượng Đức Me...". Với nụ cười khiêm tốn, vị linh mục này luôn dấu tung tích của người tù với 14 năm trong trại giam, ban đêm bị cùm một chân, chân trái bị cưa cụt.
C̣n tại Hà Nội, kư giả Taurac cho biết đă gặp một vị Thầy chức Bốn đang hành nghề xích lô đă nói :"Những người cầm quyền đều muốn các linh muc. già đị Càng già lụ khụ càng tốt và họ muốn các linh mục chết dần đi, người nọ tiếp nối người kiạ Nhưng ai cũng kính phục sức sông kiên cường và mănh liệt của Giáo hội này cho dù là trên vỉa hè đường hố và trong các trại tù.
Tài liệu tổng hợp hoặc trích từ :
1) Phạm Văn Phổ, "Cuộc tranh đấu âm thầm và liên tục của Giáo hội VN để đ̣i quyền tự do tôn giáo", Khai Thác Thị Trường, số tháng 7/8/9/1994.
2) Hoàng Diệu Tâm, "Tôn giáo dưới chế độ Việt Cộng : 1975-1995", Kháng Chiến, số 152, tháng 12/1995.
3) Lữ Giang, "Những bí ẩn đằng sau các cuộc thánh chiến tại VN", 1994.
4) Nguyễn Thị Sông Hương, "Phê b́nh mùa biển động", nxb Đại Nam, 1992.
5) Chính Đạo, "Tôn giáo và chính trị : Phật giáo 1963-1967", nxb Văn Hoá 1994.
Phần 15
8.Sự phát triển của PG từ thời Pháp thuộc :
a.Thời Pasquier (1928) :
- Long Xuyên Phật Học cũng do HT Khánh Ḥa cùng một số cư sĩ thành lập năm 1934 ở chùa Long Phước, Trà Vinh, thu nhận cả tăng lẫn nị
- Hội Bắc Kỳ Phật Giáo thành lập tại Hà Nội năm 1934 do các HT Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo và một số cư sĩ danh tiếng như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Ngô Văn Tố, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Năng Quốc, Dương Bá Trạc, v.v... Cư sĩ Nguyễn Năng Tố được bầu làm Chủ Ti.ch.
- Phật Học Kiêm Tế Hội do HT Thích Thiện Chiếu thành lập năm 1936 ở chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Hội này tuyên bố cổ vơ cho bất cứ học thuyết nào có đủ phương pháp làm cho chúng sanh khổ được vui và kêu gọi hướng dẫn PG đi theo đường lối của Đảng CS Đông Dương.
- Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục do BS Lê Đ́nh Thám thành lập tại Huế năm 1940. Cụ Đinh Văn Chấp, Tiến sĩ Hán học, thân phụ HT Minh Châu, phụ trách giảng dạy về Nho học và Lăo học, c̣n Lê Đ́nh Thám hướng dẫn về Phật học cho thanh niên Phật tử. TT Trí Quang sau này cũng xuất thân từ chỗ nàỵ
- Gia Đ́nh Phật Hóa Phổ cũng do BS Lê Đ́nh Thám lập năm 1944 để giáo dục các thiếu nhi Phật tử. Tổ chức này có một ban hướng dẫn gồm các cư sĩ sau đây : Văn Đ́nh Hy, Đặng Tống, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Cao Chánh Hựu, Phan Xuân Sanh, v.v... Đây là những thành phần hoạt động tích cực khi phong trào PG miền Trung nổi lên. Vơ Đ́nh Cường là người chủ chốt trong vụ nàỵ Năm 1951, một hội nghị Gia Đ́nh Phật Giáo Phổ được tổ chức tại Huế đă quyết định đổi tên thành Gia Đ́nh Phật Tử.
- Hội Chỉnh Lư Tăng Già Bắc Việt do HT Thích Tố Liên thành lập năm 1949, đến tháng 9/1950 đổi thành Hội Tăng Già Bắc Việt.
- Hội Phật Tử Việt Nam do một số cư sĩ thành lập năm 1949 tại chùa Chân Tiên Hà Nộị
- Hội Phật Học Nam Việt do hai cư sĩ Mai Thọ Truyền và Lê Ngọc Diệp lập tại Saigon năm 1950.
- Phật Học Đường Bao Quốc do Thích Trí Thủ thành lập năm 1950 ở Huế. Phật Học Đường này thu nhận các học tăng khắp Trung, Nam, Bắc, cung cấp giảng sư cho các Tỉnh Hội Phật Giáo Miền Trung. HT Tịnh Khiết trụ tŕ ở chùa Tường Vân được tôn làm Hội Chủ.
- Giáo Hội Tăng Già Nam Việt do TT Thích Thiện Ḥa và TT Thích Thiện Hoa thành lập năm 1952 tại cùa Ấn Quang, Saigon.
- Hội Tịnh Độ Cư Sĩ Việt Nam do các cư sĩ Huỳnh Văn Đơn, Lữ Huỳnh Anh và Nguyễn Văn Vân thành lập tại Saigon năm 1953.
- Hội Lục Ḥa Phật Tử Việt Nam do các cư sĩ Lê Văn Điền, Phạm Văn Tân và Lê Văn Kiều thành lập tại Gia Định năm 1954.
- Chùa Ấn Quang được HT Thích Thiện Ḥa cho xây cất năm 1949. Đầu tiên đây chỉ là một cái am có tên là Trí Tuệ Am, ở đường Lorgeril (tức Sư Vạn Hạnh), Chợ Lớn, sau gọi là chùa Ứng Quang. Tại đây Phật Học Đường Ứng Quang được thành lập, sau đổi thành Phật Học Đường Nam Việt và chùa Ứng Quang thành chùa Ấn Quang.
Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo tại Thừa Thiên bị giảm bớt sau cuộc "Cách Mạng Tháng 8" năm 1945, v́ một số tăng sĩ quan trọng đă đi theo Mặt Trận Việt Minh. Măi đến năm 1951, khi Pháp đă chiếm lại phần lớn Đông Dương và VC đă rút lui vào các chiến khu, việc phát triển PG mới bắt đầu mạnh trở lạị
Nh́n Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo nở rộ dướ́ thời Pháp thuộc, chúng ta có thể tin rằng kế hoạch phục hưng Phật Giáo của Pasquier là có thật.
b. Sự phát triển Phật Giáo dưới thời Đệ I Cộng Ḥa :
Từ 1955-1963, sự phát triển của PG rất đáng kể, không thua ǵ thời Pháp thuộc. Ngoài các đoàn thể và cơ sở PG được thành lập dưới thời Pháp thuộc vẫn iếp tục hoạt động và phát triển, chính phủ Diệm đă cho phép thành lập rất nhiều tổ chức mới như :
- Hội Linh Sơn Phật Học được thành lập năm 1955 tại chùa Linh Sơn, Cô Giang, Saigon.
- Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam do TT Thích Độ Lượng và Thích Huyền Minh thành lập năm 1955 tại Phan Thanh Giản, Saigon.
- Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam thành lập năm 1955 tại Đề Thám Saigon.
- Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam thành lập tại Đà Nẵng năm 1955.
- Hội Việt Nam Phật Giáo thành lập năm 1957 tại đường Phan Đ́nh Phùng saigon.
- Giáo Hội Lục Ḥa Tăng Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Long Vân, Gia Đi.nh.
- Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Kỳ Viên, Phan Đ́nh Phùng Saigon.
- Hội Bồ Đề Đạo Tràng thành lập năm 1957 tại Âm Bồ Đề, Châu Đốc.
- Hội Phật Giáo tại Trung Phần thành lập năm 1957 tại chùa Từ Đàm, Huế.
- Hội Phật Tử Việt Nam thành lập năm 1958 tại chùa Đại Giác, Saigon.
- Giáo Hội Khất Sĩ Ni Giới Việt Nam thành lập năm 1958 tại Gia Đi.nh.
- Hội Phật Giáo Quan Âm Phổ Tế thành lập năm 1959 tại Phan Thanh Giản Saigon.
- Hội Việt Nam Phật Giáo Liên Hữu thành lập năm 1959 tại Saigon.
- Hội Từ Thiện PGVN thành lập năm 1959 tại chùa Huệ Lâm, Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Vĩnh B́nh thành lập năm 1960 tại chùa Ông Mẹt, Vĩnh B́nh.
- Hội Tứ Giáo Phật Học VN thành lập năm tại chùa Tam Bửu Biên Ḥa năm 1961.
- Hội Phật Học Nguyên Thủy Ba Xuyên thành lập năm 1962 tại Ba Xuyên.
- Giáo Hội Cư Sĩ Phật Đường Nam Tông thành lập năm 1962 tại Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn thành lập năm 1963 tại Saigon.
Những thành quả mà PG đă đạt được dưới thời Đệ I Cộng Ḥa đă dược Nguyễn Lang liệt kê trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (tập III), trang 304-307 như sau :
- Chỉnh đốn lại Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đem về đặt trụ sở tại chùa Ấn Quang.
- Nhiều tu viện, chùa và Phật Hoc. Đường đă được xây dựng như tu viện Nguyễn Thiều ở B́nh Định, tu viện Quảng Hương Già Lam, Chùa Xá Lợi, Phật Học Đường Phước Ḥa ở Trà Vinh, Nhi Học Viện Từ Nghiêm ở Saigon, v.v...
- Mở nhiều khoá huấn luyện tăng ni ở chùa Ấn Quang như khoá Tu Nghiệp Trụ Tŕ và Như Lai Sứ Giả năm 1957, lớp Phật Học Phổ Thông năm 1958. Giáo Hội Tăng Già VN cũng đă thành lập ban giảng sư lưu động năm 1959 để đi huấn luyện tăng ni trên khắp miền Nam VN.
- Các đại hội của Phật Giáo được mở liên tục như Đại Hội Tổng Giáo Hội VN kỳ 2 năm 1956, kỳ 3 năm 1957, Đại Hội Ni Bộ Miền Nam ở chùa Huê Lâm năm 1956, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Trung Việt kỳ 3 năm 1958, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc kỳ 3 năm 1959, Đại Hội Hoằng Pháp Toàn Quốc năm 1960, v.v...
- Các tạp chí Phật Giáo đua nhau ra đời như Phật Giáo Việt Nam, Liên Hoa, Văn Hoá, Từ Quang, v.v...
Trong cuốn "Phật Giáo tại Việt Nam", ông Mai Thọ Truyền cho biết lúc ông Diệm lên cầm quyền, số chùa tại miền nam là 2206 cáị Dướt thời ông Diệm số chùa lên đến 4776 cái, tức là tăng 2570 cái; trải ra cho 43 tỉnh miền Nam, th́ mỗi tỉnh tối thiểu có 59 ngôi chùa mới; chùa cũ và mới cộng lại sẽ cho thấy mỗi tỉnh có trung b́nh 111 ngôi chùạ Trong cuốn "Our Vietnam Nightmare", Marguerite Higgins ghi nhận rằng chính phủ Diệm đă đóng góp 9 triệu đồng để trùng tu và xây cất chùa chiền. Có tất cả 1295 ngôi chùa đă được trùng tụ Riêng chùa Xá Lợi, ông Diệm đă góp vào 2 triệu đồng và sau đó c̣n cho xử dụng 7 lần tiền đua ngựa để xây cất.
Sự kiện mà một tỉnh có tối thiểu 59 ngôi chùa mới và tối đa 111 ngôi chùa chen chúc nhau từ thôn xă này đến làng kia, đó là một biểu tượng của sự tự do tôn giáo phát triển cực mạnh và sung măn vô song. Việc bảo trợ và yểm trợ xây cất chùa chiền là dấu hiệu của một ḷng sùng mộ thành tín đối với tôn giáo của nhà cầm quyền biết tôn trọng tôn giáo của các tôn giáo bạn.
Có một điều ít ai để ư là chính TT Diệm là người đầu tiên và duy nhất đă đem lại cho Phật Giáo một màu sắc dặc biệt mà trước đây tôn giáo này không hề có. Ngay từ những năm đầu của chế độ, ông đă lo việc thôi thúc các cơ quan liên hệ phải t́m cách để yểm trợ và tiếp tay với công việc tổ chức Đại Lễ Phật Đản và Rước Ngọc Xá Lợi năm 1956 (17/5/1956) qua các đường phố thật hết sức trọng thể. Số người tham dự đại lễ tại Saigon có tới vài vạn ngườị Rồi mỗi năm cứ thế tiếp đến 1960, Lễ Phật Đản có tổ chức rước đuốc, xe hoa trên nhiều đường phố. Năm 1961 Đại Lễ Phật Đản được tổ chức ngay tại vận động trường Quân Độị Năm 1962, LPD được tổ chức tại chùa Xá Lợị Tiếp đến là ngày 8/5/1963 tại Saigon, Đại Lễ Phật Đản được tổ chức một cách hết sức trọng thể, đông người tham dự, tuy bầu không khí hơi căng thẳng.
c. Sự phát triển của Phật Giáo thời Đệ II Cộng Ḥa :
Sau 1/11/1963, sau khi hạ TT Diệm xong, "làm chủ" đất nước, nhóm PG cực đoan thừa thắng xông lên, làm áp lực buộc chính quyền mới phải tuân theo ư muốn của ho..
Mặc dầu quy chế chung cho tất cả các tôn giáo chưa được soạn thảo và ban hành, không coi thể thống quốc gia ra ǵ, GHPGVNTN mới thành lập đă làm áp lực bắt buộc chính quyền phải công nhận bằng một đạo luật Hiến Chương mà Giáo Hội này đă đệ tŕnh, gây nên những rối loạn pháp lư mà chỉ vài năm sau đó, Giáo Hội Ấn Quang đă là nạn nhân của những đ̣i hỏi phi lư đó. Sau đây là những tổ chức PG được thành lập dưới thời "độc tài quân phiệt" Đệ II Cộng Ḥa :
- Viện Cao Đẳng Phật Học được thành lập ngày 13/3/1964, có quyền cấp Cử nhân Phật học, Cao học Phật giáo và Tiến sĩ Phật học.
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) do 11 tông phái và hội Phật Giáo thành lập ngày 4/1/1964, được duyệt y bằng Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14/5/1964.
- Giáo Hội Thiền Tông Việt Nam được thành lập tháng 11/1964 tại Gia Đi.nh.
- Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do liên phái Phật Bửu Tự, Bửu Lâm Tự, B́nh Ḥa Tự, Long Quang Tự, Chơn Đức Tự và Giác Lâm Tự thành lập tháng 12/1964, tách khỏi GHPGVNTN.
- Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam do cư sĩ Nguyễn Trọng Tố thành lập tại Nha Trang năm 1965.
- Phật Hội Lục Phương Tông do 2 cư sĩ Vơ Văn Trọng và Nguyễn Văn Toàn thành lập tại Saigon năm 1965.
- Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ do TT Thích Tọa Giác Nhiên thành lập tại Gia Định năm 1966.
- Hội Phật Giáo Phụng Sự Xă Hội do TT Thích Tâm Châu thành lập tại Saigon năm 1967.
- Việt Hàn Phật Giáo Tương Trợ Hội do 2 TT Thích Tâm Châu và Suk Kyung San thành lập tại Saigon năm 1967.
- Giáo Hội Đạo Tràng Thiên Học do tu sĩ Trần Rinh thành lập năm 1968 tại Hóc Môn, Gia Đi.nh.
Phật Giáo bắt đầu xây dựng những cơ sở to lớn : khởi đầu là Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản Saigon, sau đó là chùa Vĩnh Nghiêm, Viện Đại Học Vạn Hạnh và các cơ sở khác khắp miền Nam VN.
Ngày 24/4/1964, khởi công xây dựng Việt Nam Quốc Tự trên cơ sở đất rộng 45,000 m2. Sở đất này tọa lạc tại một địa điểm khá quan trọng trong thành phố, được chính phủ cho thuê với giá tượng trưng. Tuy gọi là cho thuê nhưng trong thực tế là biếu luôn.
Trong cuốn Bạch Thư 31/12/1993, HT Tâm Châu cho biết, để xây cất Việt Nam Quốc Tự, Tướng Nguyễn Khánh đă cúng 10 triệu, Tướng Nguyễn Cao Kỳ cho vay 50 triệụ Số tiền này được giao cho các TT Thích Thiện Ḥa, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Thủ và Thích Từ Nhơn, nhưng các TT này giữ tiền luôn, không chịu xây cất chùạ Chi phí xây cất VNQT lúc đó được ước lượng khoảng từ 60-70 triệu đồng VN.
Nhưng v́ sự lộng hành của TT Trí Quang trên chính trường miền Nam từ 1964-1966, khối PGAQ bị tan vỡ ra làm hai, các tông phái miền Bắc và miền Nam tách rời khỏi GHPGAQ. Những hậu quả này không phải do chính quyền mà do TT Trí Quang và nhóm PG miền Trung gây rạ
9. Nghĩ sao về 5 điều đ̣i hỏi của Phật giáo ?
Như thế trong 5 điều đ̣i hỏi của PG :
ạ Yêu cầu Chính phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ PG.
b. Yêu cầu PG phải được hưởng một chế độ đặc biêt như các Hội truyền giáo Thiên chúa giáo đă được ghi trong Dụ Số 10.
c. Yêu cầu chính phủ chấm dứt t́nh trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ PG.
d. Yêu cầu cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạọ
ẹ Yêu cầu chính phủ bồi thường một cách xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng.
Th́ yêu cầu "cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạo" không đúng với thực tế. Sử gia PG Lư Khôi Việt lại đi viết :"Chính trị VN suốt 100 năm nay, đă dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con VN ưu tú (ư nói PG) và dành một chỗ ngồi ưu đăi nhất cho những đưá con phản bội xấu xa (ư nói Công giáo)".
Như thế các tăng sĩ chùa Từ Đàm có lẽ đă thưà biết rơ là các điều (1), (2), (4) và cả (5) là không đúng như họ đă tố cáo, nhưng họ vẫn cứ làm to chuyện để có lư do là lật đổ TT Diệm, một chế độ được họ mệnh danh là "chế độ Thiên Chúa Giáo". Và qua các câu chuyện vừa kể trên người ta thấy động lực đấu tranh chính trị chính là sự tỵ hiềm về tôn giáo mà ra chứ không phải là sự kỳ thị (tôn giáo) ở trong luật pháp hay trong thực tế. Đây là điều mà ta cần nhớ rơ để quay lại khúc phim lịch sử này ("Theo Đỗ Mậu" trong VNMLQHT th́ TT Trí Quang muốn lật độ TT Diệm v́ chế độ này nếu tồn tại chỉ mang chính nghĩa cho CS, c̣n ông chống độc tài quân phiệt v́ chế độ này làm tay sai cho ngoại bang). Mặt khác người ta không ngạc nhiên khi thấy Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đưa ra 5 yêu sách của PG th́ Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ đă chấp nhận một cách nhanh chóng, v́ những đ̣i hỏi đó phù hợp với t́nh trạng thực tế lúc đó của thời cuộc.
10. Câu chuyện giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ :
TT Thích Tâm Châu đă lập một Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ngày 15/5/1963. Ngày 25/5/1963, Ủy Ban này họp tại chùa Xá Lợi ở Saigon, ra tuyên ngôn tuyên bố tranh đấu cho 5 nguyện vọng của PG kể trên. Sau đó là những cuộc biểu t́nh và tuyệt thực xảy ra liên tiếp. Chính phủ đă xử dụng Cảnh sát Dă chiến để ngăn chặn các cuộc biểu t́nh và kiểm soát hoạt động đấu tranh của các chùa chiền.
Khi cuộc tranh đấu của PG ngày càng gia tăng, ngày 4/6/1963, một Ủy ban Liên Bộ được chính phủ thành lập để giải quyết các đ̣i hỏi của PG. Ủy Ban này gồm có Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương và Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đ́nh Thuần. Ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ họp với Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo lần đầu tiên. Phái đoàn PG gồm có các TT Thiện Minh, Tâm Châu, Thiện Hoa, Huyền Quang (Thư kư) và Đức Nghiệp (Phó thư kư). TT Thiện Minh làm Trưởng đoàn.
Trong khi thương thuyết với Ủy Ban Liên Bộ, Vơ Đ́nh Cường cho áp dụng chiến thuật "vừa đánh vừa đàm" để đạt thắng lợi tối đạ Các chiến dịch biểu t́nh, tuyệt thực và tự thiêu được phát động khắp nơị Vụ HT Thích Quảng Đức tự thiêu cũng nằm trong chiến thuật nàỵ Có thể nói trong giai đoạn gây xáo trộn này, PG đă thường dùng các phương thức sau đây : biểu t́nh bạo động quá khích, nổi lửa tự thiêụ
Sau khi tin HT Quảng Đức tự thiêu và ngày 11/6/1963 được loan đi khắp thế giới, ngày 12/6/1963 HT Thích Tịnh Khiết từ Huế vào saigon. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ liền mời HT Tịnh Khiết họp với Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ, nhưng Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo thấy rằng đưa HT Tịnh Khiết đi thương thuyết không có lợi v́ HT quá hiền lành và ngay thật, nên TT Tâm Châu nói rằng sau 5 ngày tuyệt thực, HT Tịnh Khiết đang mệt, không họp được. Ngày 13/6/63, Phật tử treo cờ khắp nơị Ngày 14/6/63, 2 Ủy Ban họp lần thứ hai tại Hội Trường Diên Hồng. V́ TT Diệm ra lệnh phải đi đến một thỏa hiệp nhanh chóng, nên 2 Ủy Ban đă họp ngày họp đêm trong suốt 3 ngày liên tục, đến ngày 16/6/63, cả 2 Ủy Ban đă kư kết một thông cá chung gồm những diểm sau đây :
- Quy định lại thể thức treo cờ quốc gia và cờ PG Quốc Tế : Cờ PG Quốc Tế khi treo chung được làm nhỏ hơn 1/3 quốc kỳ.
- Tách các hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ Số 10.
- Chính phủ cam kết không trả thù những người tham gia cuộc vận động thực hiện 5 nguyện vọng của PG.
- Bảo đảm quyền tự do truyền đạo của Phật tử.
- Trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ thảm sát ở Huế và bồi thường cho các gia đ́nh nạn nhân.
Thông cáo chung vừa được kư xong th́ Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo vội đưa về cho HT Tịnh Khiết viết vào một chữ KHÁN rồi kư tên vào chỗ dành cho Tổng Thống. Khi Thông Cáo Chung được chuyển qua Phủ Tổng Thống, mọi người nh́n thấy chữ kư của HT Tịnh Khiết ở chỗ dành cho Tổng Thống, đều lắc đầụ Tuy nhiên TT Diệm vẫn cầm viết và phê vào :"Những điều được ghi trong Thông Cáo Chung này đă được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ đầu".
Các sử gia PG cho đây là một thắng lợi của PG. Tất cả nguyện vọng của PG đều được chấp thuận.
Một buổi lễ tang dự trù cho HT Quảng Đức ngày Chủ Nhật 16/6/63 tại chùa Xá Lợi qui tụ hàng chục vạn người; rồi khoảng hàng trăm ngàn Phật tử tham dự bỗng trở thành đám biểu t́nh và bị cảnh sát dàn chàọ Xô xát kéo dài 45' trước chùa Xá Lợị Vụ tự thiêu của HT Quảng Đức chỉ là một chiến thuật của TT Trí Quang, nhưng quần chúng Phật tử quay ḷng căm thù vào ông Diệm; TT Trí Quang muốn dùng quần chúng gây bạo động và khi bạo động càng nhiều th́ ông Diệm càng bị mắc bẫỵ Ngay buổi tối hôm đó, Thiết Giáp phải đến tăng cường. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương v́ trúng đạn ở đầụ 3 tăng và 2 Phật tử bị thương. Hàng ngàn người bị bắt giữ. 3 ngày sau, 19/6, nhờ cảnh sát, công an nỗ lực kiểm soát nên lễ an táng của HT Quảng Đức diễn tiến không gây thêm đổ máụ
11. Tṛ ảo thuật của TT Trí Quang :
Sau khi thông cáo chung được ban hành ít ngày th́ nhóm PG cực đoan miền Trung cho phổ biến một "mật điện" nói là mới bắt được. "Mật điện" đó mang số 1342/VP/TT ngày 19/6/63 được nói là do ông Quách Ṭng Đức, Đổng Lư Văn Pḥng Phủ Tổng Thống đánh đị Mật điện được công bố có nội dung như sau :
"Để tạm thời làm êm dịu t́nh h́nh và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni và PG phản động, TT và ông Cố Vấn ra lịnh tạm thời nhún nhường ho.. Các nơi nhận hăy theo đúng chủ trương trên và đợi li.nh. Ngay từ bây giờ hăy chuẩn bị cho giai đoạn tấn công mớị Hăy theo dơi điều tra, thanh trừng những phần tử PG bất măn và tŕnh thượng cấp, kể cả các sĩ quan và công chức cao cấp".
Đọc lối hành văn và các từ ngữ xử dụng các công chức chính phủ nhận ra ngay đó là môt mật điện giả. Đây phải là mật điện do VC nằm vùng sáng chế rạ Phủ TT đă ra một thông cáo phủ nhận hoàn toàn bức mật điện nàỵ
Sau khi bức điện giả nói trên được tung ra, ông Ngô Đ́nh Nhu hiểu rằng nhóm PG cực đoan miền Trung đang cố tạo lư do mới để tiếp tục xách động đấu tranh nhằm lật đỗ chính phủ. Lư do mới đó là "chính phủ không thi hành nghiêm chỉnh thông cáo chung", do đó cuộc đấu tranh mới cũng gồm đủ cả biểu t́nh, tuyệt thực và tự thiêu như trước.
Rất bực ḿnh trước thủ đoạn này ông Nhu t́m cách lật lại thế cờ. Ngày 20/6/1963, ông yểm trợ cho HT Huệ Tâm lập Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn, rồi giúp HT Thích Nhật Minh lập Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy để ủng hộ chính quyền. Ông cho thương phế binh biểu t́nh trước chùa Xá Lợi vào ngày 23/7/1963 tố cáo những kẻ lợi dụng tôn giáo gây rối loạn chính tri.. Ông thuyết phục ông Đoàn Trung C̣n, Hội Trưởng Trung Ương Phật Giáo Tịnh Độ Tông, lên án những kẻ lợi dụng danh nghĩa PG phá rối trật tự công cô.ng. Các tỉnh trưởng miền Trung giúp ông bằng cách thuyết phục một vài tông phái PG khác như Phật Giáo Lục Ḥa Tăng Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần, gởi kiên nghị ủng hộ đường lối của TT Diệm và tố cáo Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang phá hoại an ninh trật tự trong nước. Đến giai doạn quyết liệt, ông ra lệnh lục soát các chùa và bắt những lănh tụ PG chống đốị Nhưng ông không đề pḥng nổi
mạng lưới mà cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ đang tung ra đàng sau biến cố đó.
12. Sự can thiệp của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ đă quyết định lật đổ TT Diệm kể từ năm 1960, khi TT Diệm từ chối lời yêu cầu của Phó TT Johnson cho Hoa Kỳ đem quân đổ bộ vào miền Nam và thiết lập các căn cứ quân sư..
ạ Âm mưu của Hà Nội : Trong bài diễn văn đọc khai mạc Đại hội đảng lần thứ 3 vào tháng 9/1960, HCM tyên bố công cuộc cải tạo XHCN tại miền Bắc coi như đă hoàn thành trên căn bản. Giai đoạn tới là giai đoạn "giải phóng miền Nam". Sau đó, Đại hộ 3 ra Nghị Quyết tuyên bố :
"Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đ́nh Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam".
Thi hành quyêt nghị này, Hà Nội cho lập tại miền nam một tổ chức bù nh́n được mệnh danh là MTGPMN do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ ti.ch. Trong lễ ra mắt ngày 20/12/1960, MTGPMN đưa ra bản tuyên ngôn rập y khuôn của Nghị Quyết trên, có đoạn như sau :"Đánh đổ chế độ thuộc địa trá h́nh của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài NĐ, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ".
Một chiến dịch được gọi là Đồng Khởi được phát xuất từ Bến Tre và lan rộng ra cả miền Nam VN. Trước t́nh thế này, TT Diệm yêu cầu T Kennedy viện trợ quân sự và kinh tế cho miền Nam N để chống lại sự xâm lăng của CS.
b. Đ̣i thiết lập các căn cứ quân sự :
Ngày 5/5/1960, trong một cuộc họp báo, TT Kennedy tuyên bố rằng t́nh h́nh NVN đang nguy ngập và nếu cần, ông "sẽ cứu xét đưa quân đội Hoa Kỳ đến VN để chống lại các cuộc tấn công của CS". TT đưa ra lời tuyên bố này khi chưa có lời yêu cầu của TT Diệm.
Ngày 9/5/60, một phái đoàn của PTT Johnson đến miền Nam trong 4 ngày để quan sát và hội đàm với TT Diệm. Trong cuộc hội đàm ngày 12/5/60, có sự hiện của Đại sứ Nolting, Johnson đề nghị để quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam, nhưng TT Diệm tỏ ra do dư.. Ông nêu ra điều 19 của Hiệp định Geneva 1954 để có lư do ḥa hoăn. Điều này quy định :"Kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực, cấm không được lập một căn cứ quân sự ngoại quốc nào trong vùng tập hợp nào của đôi bên; 2 bên cam doan rằng vùng thuộc về họ không tham gia một liên minh quân sự nào và không bị xử dụng để gây chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược".
Phó TT Johnson tỏ ra không bằng ḷng về sự từ chối nàỵ
Ngay sau đó, trong ngày 12/5/60, Đại sứ Nolting đă gởi cho Ngoại trưởng Dean Rusk một báo cáo mật như sau :"Tướng Mc Garr và tôi có mặt tại cuộc thảo luận giữa ông Diệm và PTT Johnson về việc đưa lực lượng Mỹ vào VN. Ông Diệm đă nói với PTT rằng ông ta không muốn quân chiến đấu Hoa Kỳ dến VN, trừ trường hợp miền Bắc công khai đưa quân xâm lược".
PTT Johnson vừa rời VN vào ngày 13/5/60 th́ 2 ngày sau TT Diệm đă gởi ngay cho TT Kennedy một văn thư sau :"Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu văn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất của quư quốc, một sự yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng". ("Hồ sơ mật Dinh Độc lập", Nguyễn Tiến Hưng).
Qua văn thư này, rơ ràng TT Diệm đă gián tiếp bác bỏ việc đưa quân đội Mỹ vào VN. Washing ton không hài ḷng về sự từ chối này nên chỉ viện trợ nhỏ giọt khiến Quân đội VNCH không đủ sức đẩy lui toàn bộ cuộc xâm lăng của CS. T́nh h́nh quân sự ngày càng xấu đị
Các nhà phân tích nói rằng Hoa Kỳ muốn cho t́nh h́nh quân sự trở nên xấu hơn để chính phủ Diệm phải yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân và cho thiết lập các căn cứ quân sự
c. Cái bẫy sập được đưa ra :
Biến cố PG là một cơ hội tốt để Hoa Kỳ thực hiện ư định lật đổ chính phủ Diệm. Ông Lê Văn Dư, Trưởng ty Công an Thừa Thiên cho biết có những sự liên hệ chặt chẽ của các nhân viên Ṭa Lănh sự Mỹ ở Huế với TT Trí Quang ở chùa Từ Đàm. Những lần đầu, các cuộc gặp gỡ đều có sự có mặt của ông Dự Các lần sau, các viên chức Lănh sự tự liên lạc lấỵ Ông có cho công an theo dơị Chính nhờ sự khuyến khích của các nhân viên t́nh báo Hoa Kỳ, TT Trí Quang mới càng ngày càng làm mạnh hơn.
Để có lư do hành động, TT Kennedy đă gởi 2 đặc sứ qua VN cùng lúc để điều tra vụ PG. 2 đặc sứ nay là Trung tướng Krulak và Tham vụ Ngaọi giao Mendenhall. 2 người làm bản phúc tŕnh khác biệt nhau khiến TT Kennedy lúng túng. Tháng 10/1963, Kennedy gởi Tướng Ẹ Landsdale, cố vấn chính phủ Diệm trước đây, để điều tra thêm. Landsdale làm báo cáo là nên thương lượng với chính phủ Diệm là tốt hơn cả. Nếu lật đổ TT Diệm t́nh h́nh sẽ trở nên khó khăn hơn. Báo cáo này làm Kennedy giận dữ. Ông cần một báo cáo nói phải thay TT Diệm để dễ giải thích với dư luận Mỹ hơn. Từ đó, TT kennedy không muốn nói chuyện với Tướng Lansdale nữạ
d. Âm mưu chống đảo chánh và đảo chánh :
Để thực hiện cuộc đảo chánh này, Washington nghĩ ngay đến Cabot Lodgẹ Ông sinh năm 1902 tại Nahant, Massachussetts và chết năm 1985, tốt nghiệp Harvard năm 1924, từng là nghị sĩ và ứng cử viên Phó TT năm 1960. Ông đang ở Honolulu th́ được lệnh sang Saigon vào ngày 22/8/1963 thay thế Đại sứ Nolting. Ngày 22/8/63, Lodge tŕnh ủy nhiệm thư lên ông Diệm.
Khi Lodge đến th́ TT Diệm đă biết là Hoa Kỳ quyết định tổ chức đảo chánh, nên ông Nhu đă vạch kế hoạch đối phó, trong đó có cả kế hoạch tổ chức cuộc đảo chánh giả gọi là Bravo I để lừa các tướng dịnh đảo chánh và bắt giữ. Kế hoạch này giao cho Tướng Đính, Tư lệnh Quân đoàn 3. Nhưng Đính theo phe đảo chánh nên kế hoạch bị hỏng.
Sau khi tŕh ủy nhiệm thư xong, Lodge liên lạc ngay với Trung tá Lucien Conein, Trưởng cơ quan CAS (CIA) của Mỹ tại VN thời đó. Conein sinh ở Pháp, đă từng nhảy dù xuống VN năm 1944 trong tổ chức t́nh báo của Mỹ nên quen biết nhiều với các tướng lănh VN. Tướng Trần Văn Đôn là bạn của Conein trong 18 năm quạ Đôn lúc đó là Quyền Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, thay thế Đại tướng Lê Văn Tỵ đang được chữa bịnh ung thư tại Mỹ. Conein đă móc nối với các tướng Đôn, Khiêm, Minh, Kim để thuê làm đảo chánh.
Trong cuốn "Our Endless War Inside VN", Đôn kể lại rằng hôm 2/10/63 khi lên đường đi Nha Trang ông thấy Conein theo ông ra tận máy baỵ 2 người hẹn gặp nhau ở Nha Trang và chiều hôm đó gặp nhau bàn về chuyện đảo chánh. Ngày 5/10/63, Conein gặp Tướng Dương Văn Minh để bàn về việc nàỵ Minh muốn có bảo đảm về sự ủng hộ của Mỹ trong việc đảo chánh. Lần thứ hai vào ngày 10/10/63, Conein gặp Minh để hỏi về chi tiết cuộc đảo chánh. Trong cuộc gặp này, Minh yêu cầu mọi liên lạc giữa Mỹ và VN liên hệ tới đảo chánh phải qua Minh.
Trong khi Conein và các tướng lănh VN hoạch định kế hoạch th́ Lodge giả làm áp lực đ̣i ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và bà vơ.. Ông cho biết nếu không làm thế th́ Mỹ sẽ ngưng viện trơ.. Lodge cũng chỉ thị khuyến khích PG gia tăng bạo đô.ng.
Này 10/9/63, bà Nhu dẫn một phái đoàn đi dự Hội Nghị Quốc Tế Nghị Sĩ tại Nam Tư và nhân tiện qua Âu Châu "giải độc".Ngày 25/10/63, Lodge gởi cho George Bundy, Phụ tá đặc biệt của TT Kennedy đặc trách về an ninh một bản báo cáo rằng CSA "vẫn thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của tôị Tôi đă đích thân chấp thuận mỗi cuộc họp giữa Đôn và Conein, người đă thi hành mệnh lệnh của tôi xuất sắc trong mọi trường hợp..."
ẹ Một tṛ chơi nguy hiểm ?
Trước t́nh thế này, ông Ngô Đ́nh Nhu đă t́m cách thương lượng với Bắc Việt để loại ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ông Nhu đă mời Manelli, Trưởng phái đoàn Ba Lan trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đ́nh chiến để nhờ liên lạc với Hà Nội qua Đại sứ Pháp là Roger Lalouette đưa đề nghị mở cuộc tiếp xúc giữ 2 bên. Bắc Việt chấp nhận ngaỵ Ông Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao nguyên rồi nửa đường rẻ xuống vùng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ đă xác nhận điều nàỵ Trong cuộc gặp gỡ, 2 bên đồng ư tái lập trước tiên về liên lạc bưu điện và sau đó về giao thương để tiến tới thống nhất đất nước trong ḥa
b́nh. Sau cuộc tiếp xúc đó, ông Nhu cố ư tiết lộ nội dung cuộc tiếp xúc cho báo chí biết để ngầm thông báo cho
Washington.
Song song với sự tiết lộ của ông Nhu, TT De Gaulle lên tiếng kêu gọi lại bỏ "ảnh hưởng ngoại quốc" ra khỏi VN, c̣n HCM lên tiếng nói rằng một cuộc ngưng bắn có thể được 2 bên thỏa thuận.
Thật ra, trong năm 1963, Lodge đă đưa ra một kế hoạch 3 giai đoạn để Hà Nội và Saigon có thể nói chuyện với nhaụ Manelli là người làm trung gian giữa Saigon - Ṭa Đại sứ Pháp - Hà Nộị Ông Nhu đă hội kiến với Maneli lần đầu vào ngày 25/8/63 tại Bộ Ngoại giao VNCH và kế đó là vào ngày 2/9/63 tại pḥng đọc sách của ông ("War of the Vanquished", Mieczyslaw Maneli). Chuyện này Mỹ biết rơ.. Nhưng hành động độc lập của ông Nhu kỳ này đă làm Washington tức giận hơn. TT kennedy bật đèn xanh cho Lodge tiến hành cuộc đảo chánh nhanh chóng hơn.
Theo "Việt Nam 30 năm máu lửa" của Cao Thế Dung, nxb Alpha 1991, tr. 597, th́ tới nay chưa có một văn kiện hay tài liệu khả tin nào về vụ ông Ngô Đ́nh Nhu toan tính thỏa hiệp với HCM ngoại trừ cuốn "War of the Vainquished" của Mieczlaw Maneli đă kể trên, và một số bài báo chỉ căn cứ trên một số nhân vật và thiếu chứng cớ.
f. Từ chủ động tới công cụ :
Qua các sự kiện của lịch sử trong giai đoạn này, ta thấy mục tiêu tranh đấu của nhóm PG cực đoan miền Trung đưa ra chỉ là mục tiêu giả. Những điều mà họ phản kháng không có căn bản vững chắc. Mục tiêu thật sự chính là lật đổ ông Diệm, c̣n vụ Pháp nạn 63 chỉ là một chiêu bàị Chính Hoa Kỳ đă khởi xướng và chỉ huy cuộc đảo chánh. Mỹ muốn thay thế ông Diệm từ 1960 v́ ông Diệm không đồng ư cho Mỹ đổ quân vào VN và thiết lập các căn cứ quân sư.. Vụ PG là cơ hội tốt để Hoa Kỳ khai thác để thực hiện chính sách xâm nhập Đông Nam Á. Người ta không ngạc nhiên khi thấy cả báo chí lẫn chính phủ Mỹ đă cố t́nh thổi phồng vụ PG như một cái cớ để biện minh cho chủ trương lật đổ ông Diệm. Cuộc đảo chánh tuy do các tướng VN thực hiện, nhưng Lodge đă ra lịnh cho Conein đứng ra tổ chức và chỉ huy từ đầụ Chính Lodge là người đưa lịnh cho Minh hạ sát TT Diệm và ông Nhụ Sau khi đảo chánh xong, các tướng lănh VN đều được lănh tiền thù laọ
Về phía VC, Khu Ủy Trị - Thiên - Huế nh́n nhận rằng trong cuộc đấu tranh chống ông Diệm này, v́ phong trào bị đẩy lên quá nhanh họ không đi theo kịp nên đă bị dẫn đi trật hướng. Sự đẩy nhanh này là do bàn tay của Mỹ mà VC không đoán trước được. Bản kiểm điểm đă viết như sau :
"Cuộc đấu tranh với quy mô lớn nhất nổ ra quyết liệt từ ngày 5/8/63 lôi cuốn hàng vạn quần chúng, có một số tầng lớp trên và binh sĩ ngụy tham gia, đă tiến hành mít-tinh làm cho địch phải dùng súng đạn, kể cả đạn dại bác để đàn áp. Phong trào đấu tranh nhanh chóng bùng lên, thu hút hàng chục vạn người từ thành thị đến nông thôn khắp cả tỉnh đấu tranh quyết liệt với địch trong 3 tháng liền. Nhưng do "lănh đạo của ta không đi kịp quần chúng, tổ chức không đi kịp phong trào" nên bọn cơ hội đầu hàng trong giới cầm đầu PG lái di lệch hướng.
Cuộc đấu tranh này tuy mang màu sắc tôn giáo, nhưng thực chất là cuộc đấu tranh cách mạng của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động ở thành thị, nông thôn chống lại chính sách chiến tranh tàn bạo của MỹĐiệm.
Phong trào đấu tranh quần chúng dưới danh nghĩa "phong trào PG" ở Huế đă mở đầu cho phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ ở các thành thị miền Nam và đă đẩy chế độ MỹĐiệm từ trạng thái không ổn định đi đến t́nh trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kể cả những nơi mà chúng coi là dinh lũy cuối cùng" ("Chiến trường Trị -Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng", Thuận Hoá, 1985, t. 80-81).
Về phía PG, TT Trí Quang và các lănh tụ PG khác thuộc chùa Từ Đàm ở Huế đă đi từ thế chủ động qua thế bị động, trở thành công cụ của Hoa Kỳ lẫn VC. Sau này khi Mỹ hết xử dụng lá bài PG, họ đă bật đèn xanh cho Tướng Kỳ dẹp bỏ. TT Trí Quang trong khi đó vẫn nghĩ rằng báo chí và chính phủ Mỹ tiếp tục ủng hộ PG như trước, nên đă đánh điện kêu cứụ
Sau khi chính phủ Diệm bị lật đổ, các lănh tụ PG chùa Từ Đàm tin rằng sự "nổi dậy của PG" đă làm cho chính phủ Diệm bị sụp đổ, nên say men chiến thắng, gây nhiều biến loạn tiếp theo gây đau thương cho chúng tăng và cho cả đất nước miền Nam tự dọ
Đ̣i nợ máu, diệt Công giáo, ngụy ḥa
và cướp chính quyền
3 năm sau khi chế độ NĐ sụp đổ, từ 1964-1966, được gọi là "3 năm xáo trộn", 3 năm kinh hoàng của miền Nam VN. Đây là thời kỳ có lúc gần như không c̣n chính quyền nữa, nhóm PG cực đoan miền Trung phát xuất từ chùa Từ Đàm Huế, hành động dưới danh nghĩa Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, rồi Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, đứng trên và đứng ngoài luật pháp, nắm quyền sinh sát trong tay, muốn bắt ai th́ bắt, muốn phá chỗ nào th́ phá, muốn đốt nơi nào th́ đốt, muốn giết ai th́ cứ ám sát, tự tung tự tác trong cơ quan công quyền, nơi trường học, trên đường phố... Tổ chức này đă bắt cả Tỉnh trưởng Quảng Nam và Quận trưởng Hoà Vang đem đi giam v́ không chịu theo phe của ho..
Nhóm này tin tưởng rằng, khi họ "lật đổ" được NĐ, một chế độ chống Cộng vững mạnh tại miền Nam, th́ họ có thể làm bất cứ cái ǵ họ muốn mà không một chính quyền nào dám cưỡng lạị Say men chiến thắng, họ đă đưa ra nhiều yêu sách buộc chính quyền phải thực hiện ngaỵ Trước hết đ̣i một "quy chế đặc biệt" cho PG, rồi đ̣i "diệt dư đảng Cần Lao TCG", đ̣i đưa các nhân vật PG lên nắm chính quyền, đ̣i cả những điều mà Bắc Việt và MTGPMN vẫn lải nhải trên đài phát thanh hàng ngày : Quân đội miền Nam và Hoa Kỳ phải đơn phương ngưng chiến, Mỹ rút, thành lập chánh phủ liên hiệp, trung lập và không liên kết, v.v... Khi những đ̣i hỏi phiêu lưu này không được thỏa măn, họ phát động những chiến dịch lôi PG vào vừa bằng chiến tranh chính trị, vừa bằng bạo động và quân sự để cướp chính quyền. Các vụ bạo động này càng dữ dội gấp 10 lần dưới thời ông Diệm, đưa tới những bi thảm cho cả PG đồ lẫn đất nước đến nổi các sử gia PG ít ai dám mô tả lại đầy đủ.
1. Một biến cố bất ngờ :
Sau khi tiếng reo ḥ ngày 1/11/63 chưa dứt th́ một biến cố khác xảy rạ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lịnh Phó Quân đoàn I cho biết rằng sau khi nghiên cứu kỹ, ngày 29/1/64, ông và Tướng Nguyễn Khánh, Tư lịnh Quân đoàn I và Bộ tham mưu Quân đoàn I vào Saigon hợp với Tướng Dương Văn Đức làm cuộc "chỉnh lư" lật đổ nhóm tướng lănh làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Cuộc "chỉnh lư" này thành công khá dễ dàng. Tướng Thi cho biết nhờ Mỹ ủng hộ nên Tướng Khánh mới dám hành động như vậỵ
Tướng Khánh tuyên bố trên đài phát thanh : "Từ 3 tháng nay, t́nh h́nh suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy theo thực dân và CS, nên một lần nữa Quân đội lại phải can thiệp".
Các nhà b́nh luận cho rằng Mỹ để Tướng Khánh hành động như vậy v́ các lư do :
- Các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 chỉ có khả năng đạp đổ chứ không có khả năng cầm quyền.
- Mỹ lo sợ nhóm PG cực đoan miền Trung là một nhóm có lập trường chính trị mù mờ, có nhiều tham vọng và bị CS lũng đoạn, có thể dựa vào các tướng lănh thân họ để gây rối loạn và đưa miền Nam vào một một hướng đi khác. Vậy cần phải loại bỏ các tướng lănh đó đi và giao quyền hành lại cho một nhóm khác có khả năng cầm quyền và có thái độ thân Mỹ hơn. Tài liệu của Pentagon cho biết sau khi cuộc "chỉnh lư" hoàn tất, Lodge đă gởi một báo cáo cho Washington nói rằng khuynh hướng theo chủ trương trung lập của 2 tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn chưa rơ rệt, nhưng khi họ đă củng cố được chính quyền, có lẽ họ sẽ tán thành giải pháp trung lập của Pháp. Lodge cho biết, Đại sứ Ư D'Orlandi đă lưu ư 2 tướng Đôn và Kim (vẫn c̣n giữ quốc tịch Pháp), từng là phụ tá của De Lattre de Tassigny và hoạt động đắc lực cho Sở Mật thám của Pháp trong quá khứ, cho nên dư luận về chủ trương trung lập hóa miền Nam có thể đúng. Ông viết tiếp :
"Sau hết, tại nước này hiện nay, it khi có chuyện một cuộc bầu cử là một phương cách hữu hiệu, thích hợp để hoàn tất một vấn đề quan tro.ng. Để làm những chuyện quan trọng ở đây, phương pháp truyền thống là xử dụng sức mạnh có kế hoạch, có suy nghĩ kỹ càng. Điều mà Tướng Khánh đă làm không làm cho người VN ngạc nhiên... Tuy nhiên, một số người VN đă nói với các nhân viên trong bộ tham mưu của tôi rằng ông Minh là người tốt, thay thế ông ta là
tội nghiệp.
"Vấn đề thiết thực phải đặt ra là Tướng Khánh có khả năng không ? Liệu ông ta có đáp ứng dược một số hành động góp phần vào nỗ lực chống Cộng hay không ? Cho đến nay, có bằng chứng cho thấy ông ta có khả năng, ông ta không chấp nhận một sự chậm trể nào...
"Nếu Tướng Khánh có khả năng th́ việc ông lên cầm quyền có thể đem lại cho đất nước này một Bộ tư lệnh chỉ có một người duy nhất thay v́ một Hội đồng Quân nhân. Chúng ta có những điều chúng ta cần ở VN".
Vào tháng 3/64, TT Johnson đă chỉ thị cho Lodge phải đánh đổ ư tưởng trung lập. Ông yêu cầu chuyển mối quan tâm này cho Tướng Khánh và hỏi ư kiến về một kế hoạch chung để chấm dứt ư tưởng trung lập hóa này tại Saigon cũng như ở Washington và Paris.
Quan điểm của Lodge rất quan tro.ng. Nó cho thấy quan niệm của Hoa Kỳ về một chính quyền cần có tại miền Nam. Chính quyền này không có nơi các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 nên Hoa Kỳ đă đi t́m nơi khác. Tướng Khánh là người họ tin tưởng.
Trước biến cố bất ngờ ngày 30/1/64 do Tướng Khánh tạo nên, các nhà lănh tụ PG đi từ ngơ ngác đến lo âu, không biết phải phản ứng ra saọ Nhưng thấy thái độ ḥa hoăn và mị dân của Tướng Khánh, họ lại tiếp tục lấn lên.
* Tiễn đưa "ân nhân" :
Khi biến cố "chỉnh lư" ngày 30/1/64 chưa hết gây bàng hoàng trong hàng ngũ nhóm PG đấu tranh th́ họ lại phải tiễn đưa một "ân nhân" ra đị Ngày 23/6/64, Lodge tuyên bố từ chức. Ngày 28/6/64, ông mặc áo gấm màu xanh có h́nh chữ Thọ và chít khăn xếp theo y phục cổ truyền VN, rời phi trường Tân Sơn Nhất. Ra tiễn đưa Lodge, có cả hàng ngàn tăng ni và Phật tử cầm cờ Việt, Mỹ vừa vẫy vừa hoan hô náo nhiệt. Các tăng ni và Phật tử hôm đó không thể biết được rằng người mà họ đang hoan hô nồng nhiệt, sau này sẽ trở lại chỉ huy chôn vùi phong trào đấu tranh của PG. Trước khi lên máy bay, Lodge đă nói với các kư giả :"Khi từ giả VN, tôi chỉ có ân hận có mọt điều là không cứu sống được ông Diệm". Không ai tin được câu nói đó của một nhà ngoại giao đầy thủ đoạn như ông. Tướng Dương Văn Minh đă kể rằng trước khi làm đảo chánh để lật đổ TT Diệm, Lodge đă nói với ông :"Nếu để ông Diêm lưu vong th́ bất cứ một Đại tá nào cũng có thể đảo chánh để đưa ông Diệm về". Tuy nhiên, lời tuyên bố của Đại sứ Lodge trước khi rời VN đă làm nhóm PG đấu tranh khó chịụ
Tướng Maxwell D. Taylor đă được cử làm Đại sứ tại VN thay cho Lodgẹ
2. Đ̣i nợ máu :
Trong bộ "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận", Nguyễn Lang (HT Thích Nhất Hạnh) đă nhận xét :
"Sự hạ sát TT Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cuộc Cách Mạng 1/11/1963. Dù có ra lịnh hay không ra lịnh, các tướng trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về không thực hành được lời hứa bảo đảm được tính mạng hai ngườị Cái chết của họ đă kéo theo cái chết của hai vị Thiếu tá Nhung và Nghĩạ Nhưng đă hết đâụ Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi dây oan được cắt đứt".
Thật ra cái chết của TT Diệm và ông Nhu không phải là "một điều đáng tiêc" như Nguyễn Lang viết, mà đây chỉ là màn đầu của một chiến dịch đ̣i nợ máụ Nhóm TT Trí Quang bắn tiếng cho các tướng lănh biết :
- Những người sau đây phải đền tội : Ngô Đ́nh Cẩn, Phan Quang Đông, Đặng Sĩ, Dương Văn Hiếu, Hoàng Trọng Bá, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Tháị
- Các "dư đảng Cần Lao", phải rời các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo CG và khi nói "diệt dư đảng Cần Lao" th́ phải hiểu là diệt Công giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm PG cực đoan miền Trung.
- Các nhân vật PG được mệnh danh là "các tướng Cách Mạng" (Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu,...) phải nắm các địa vị then chốt trong chính quyền...
Những đ̣i hỏi này được lặp đi lặp lại thường xuyên trên các báo chí PG, trong các cuộc biểu t́nh và tuyên ngôn tuyên cáo của nhóm TT Trí Quang. Nhưng Tướng Minh c̣n do dư.. Ông hiểu rằng những chuyện này không thể làm được. Sau vụ hành quyết 2 anh em ông Diê.m-Nhu do lệnh của Conein qua tay Tướng Mai Hữu Xuân th́ có nhiều sự bất b́nh trong hàng ngũ các tướng lănh v́ họ không được có tiếng nói trong biến cố quan trọng đó. Nhiều người trong họ cho đó là hành động quá đáng và không cần thiết. Tướng Đôn đă chỉ trích Tướng Minh về việc không thông báo cho ông biết lịnh của Lodge và Conein. Do đó Tướng Minh đă không dám đáp ứng đ̣i hỏi củ TT Trí Quang.
Nhưng ngày 30/1/64, Tướng Khánh đă làm cuộc "chỉnh lư". Khánh vốn là người được TT Diệm nâng đở đặc biệt và không tham gia trực tiếp vào cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Để chứng tỏ rằng ông không bênh vực "dư đảng Cần Lao", việc đầu tiên mà ông nhận thấy cần phải làm là đưa các "dư đảng" này ra xét xử.
Trước hết, Tướng Nguyễn Khánh đă chỉ thị cho ông Nguyễn Văn Mầu, Bộ trưởng Tư pháp, phải nghiên cứu cách nào để có thể tuyên án tử h́nh ông Ngô Đ́nh Cẩn và những người liên hê.. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp thấy rằng nếu áp dụng bộ Hoàng Việt H́nh Luật th́ không thể tuyên án tử h́nh những tội vớ vẫn như bắt người trái phép, đả thương, bức tử, tống tiền, v.v... Vậy th́ c̣n một cách là làm một đạo luật mới quy một số hành vi của các nhân vật chế độ cũ vào tội cố sát, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và dự liệu quy định mới này có "hiệu lực hồi tố" (retroactive effect). Một nguyên tắc của h́nh luật là luật h́nh chỉ áp dụng cho các hành vi xảy ra kể từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng cho các hành vi xảy ra trước ngày đó. Sự quy dịnh như trên là trái với nguyên tắc căn
bản của h́nh luật. Nhưng "cách mạng" không cần phải tuân theo một nguyê tắc nào cả. Bộ Tư pháp đă làm đúng theo yêu cầu của Tướng Khánh. Sắc luật số 4/64 ngày 18/2/64 thiết lập Ṭa Án Cách Mạng được ban hành, trong đó có điều khoảng dự liệu luật này có hiệu lực hồi tố. Sau đó, Tướng Khánh đă ra lịnh bắt giữ và điều tra tất cả những người bị các Tỉnh Hội Phật Giáo tố cáo là "dư đảng Cần Lao". Số người bị câu lưu lên đến 267 ngườị Tướng Khánh cho đưa ngay những người có tên trong danh sách mà TT Trí Quang đ̣i nợ máu ra trước Ṭa Án cách Ma.ng. Sau đây là vụ án của Phan Quang Đông và Dương Văn Hiếụ
ạ Vụ Phan Quang Đông :
Ngày 26/3/64, Ṭa Án Cách Mạng họp ở Huế để xét xử PQD về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền tài và lũng đoạn kinh tế, các tội phạm này liên hệ đến 19 nạn nhân trong thời gian từ 26/10/55 - 1/11/63. Nhưng vụ quan trọng nhất là vụ khách sạn Morin ở Huế.
Năm 1957, PQD, nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị (một cơ quan đặc vụ và t́nh báo), thấy ông Nguyễn Văn Yến, một tiểu thương và ông Nguyễn Phương, một nhà thầu khoán, không có tài sản bao nhiêu nhưng đă đứng ra mua lại toàn bộ khách sạn Morin của Pháp, một khách sạn lớn nhất ở Huế lúc đó, liền cho mở cuộc điều trạ V́ các đương sự không chứng minh được nguồn gốc tài sản đă bỏ ra mua và một số bằng chứng cho thấy các đương sự có liên hệ đến nhân viên t́nh báo của Pháp, nên PQD đă bắt và điều tra về việc hoạt động gián điệp cho Pháp. Khi đang tiến hành điều tra thêm th́ Nguyễn Phương đă nhảy lầu tự sát. Đầu năm 1963, gia đ́nh các nạn nhân đă đệ đơn TT Diệm cứu xét. Ông Diệm giao cho Đại tá Đỗ Mậu, Cục Trưởng An ninh Quân đội điều tra nội vu.. Đỗ Mậu rất kỵ Ngô Đ́nh Cẩn nên không dám tự ra Huế điều tra nên bán cái cho đàn em là Đại úy Phạm Bá Thích, Trưởng Ty Anh ninh Quân đội Huế ở Huế. Nhận được chỉ thị của Đỗ Mậu, Thích nhờ Đại úy Nguyễn văn Minh, sĩ quan phụ trách về an ninh của Cẩn giúp đỡ. Cẩn gọi Thích vào và sau khi biết là do TT Diệm chỉ thị điều tra nên Cẩn bảo Đại úy Thích điều tra một cách vô tư v́ đây là lịnh của TT. Cẩn cũng ra lịnh PQD phải cung cấp tất cả tài liệu mà Đại úy Thích cần. Một bản phúc tŕnh cho biết việc liên hệ với gián điệp Pháp là có căn cứ. Bản phúc tŕnh được Đỗ Mậu tŕnh lên TT Diệm và sau đó vụ này không c̣n nhắc tới nữa.
Dù rằng có bút tích của Đỗ Mậu nhưng ông ta cố tránh né không chịu trách nhiệm. Nhưng khi Tướng Ngyuyễn Khánh đă chỉ thị làm một đạo luật vi phạm nguyên tắc của h́nh luật để xử tử h́nh PQD và Ngô Đ́nh Cẩn th́ mọi sự tranh luận về pháp lư và bằng chứng của tội phạm cũng bằng thừạ PQD bị tuyên án tử h́nh ngày 28/3/64.
C̉N TIẾP:
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
Người quốc gia đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân tộc lên bản vị tối thượng nên không tranh quyền đoạt lợi cho cá nhân, phe nhóm, đảng phái hay bầy đàn tôn giáo của ḿnh. Người quốc gia bảo vệ lănh thổ của tiền nhân, giữ ǵn di sản văn hóa dân tộc, đăi lọc và kết hợp hài ḥa với văn minh, văn hóa toàn cầu để xây dựng con người, xă hội và đất nước Việt Nam cường thịnh phù hợp với xu thế tiến bô của nhân loại.
Kim Âu
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvVeteranvGateway
vOpen CulturevSyndicatevCapital vCreatevResearchvXinHua
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền
vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn
vViệt ThứcvViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng
vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân
vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong
vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCSvLuật Khoa
vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm
vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu Trữ