MINH THỊ

TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI THAY ĐỔI THIÊN H̀NH VẠN TRẠNG TRONG TỪNG SÁT NA. NGƯỜI TA CÓ THỂ NAY THỜ PHẬT, MAI THEO CHÚA NHƯNG KHÔNG THỂ CHỐI BỎ CHA SINH, MẸ ĐẺ, HUYẾT THỐNG, GỈNG GIƠI, DÂN TỘC. NGƯỜI TA CÓ THỂ NAY CHỌN CHỦ NGHĨA NÀY MAI CHỌN CHỦ NGHĨA KIA ĐỂ LÀM LƯ TƯỞNG PHẤN ĐẤU NHƯNG CHỚ QUÊN RẰNG MỤC TIÊU PHẤN ĐẤU LÀ PHỤC VỤ CHO BẢN THÂN, GIA Đ̀NH, DÂN TỘC VÀ TỔ QUỐC. ĐÓ LÀ NGUYÊN NHÂN KHIẾN BỌN NGƯỜI NẶNG CĂN TÍNH TÔI Đ̉I, NÔ LÊ VỌNG NGOẠI, PHI DÂN TỘC, PHI NHÂN ĐỀU BỊ XEM LÀ PHẦN TỬ NGU XUẨN VÀ ĐÁNG KHINH NHẤT.

  Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu ֎ Đại Kỷ Nguyên

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

 

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017

֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018

֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018

֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018

 

 

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookings

vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran

vOpen Culture vSyndicate vCapital Research

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNG

vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền

vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn

vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng

vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh

vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân

vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong

vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCSvLuật Khoa 

vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm

vVăn HọcvĐiện ẢnhvCám Ơn AnhvCục Lưu Trữ

vTPBv1GĐ/1TPBvThống KêvĐiều Ngự

 

Hiệp Định Genève Niềm Đau và Nỗi Nhục

của Đất Nước.

August 24, 2011 at 12:12am


 

Tại Hội nghị thượng đỉnh Malta, ngày 3/12/1989, Gorbachev và George H.W.Bush tuyên bố cuộc Chiến tranh lạnh chấm dứt. Cuộc chiến tranh giữa khối tự do chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản đă đem lại đau nhục cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên điều này không thể hiện rỏ ràng v́ được lồng vào bên trong cái vỏ bọc « giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước ». Và cũng nhờ cái vỏ bọc này những người cộng sản đă dành được chiến thắng và luôn c̣n gây ngộ nhận cho thế hệ sao.

Để nh́n lại thực chất của cuộc chiến tranh Việt nam phải nh́n lại Hiệp Định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954.

Sau chín năm chiến tranh triền miên (1946-1954), dân chúng Việt Nam rất khao khát ḥa b́nh, nhưng giấc mơ ḥa b́nh vẫn c̣n ngoài tầm tay của người Việt. Đất nước chia đôi, dân tộc chia đôi ! Gịng sông Bến Hải, giữa nhịp cầu Hiền Lương luôn luôn là niềm đau và nỗi nhục của đất nước. Người Việt ở cả hai phía nói chung, hoàn toàn không thể tự quyết định tương lai của chính ḿnh, mà phải bị động trước những áp đặt của ngoại bang, dù đó là ngoại bang tư bản hay ngoại bang cộng sản. Bất cứ một ngoại bang nào đến với Việt Nam cũng đều v́ quyền lợi riêng tư của họ, chứ chẳng phải v́ yêu thương hay giúp đỡ nước Việt Nam của chúng ta. Chẳng bao giờ có t́nh nghĩa xă hội chủ nghĩa hay t́nh nghĩa tư bản chủ nghĩa. Chỉ có ‘’quyền lợi chủ nghĩa’’ giữa các nước mà thôi.


 

Nhiều câu hỏi luôn được đặt ra ngay tới tận ngày nay

1/ Cách nhận định của hai miền Nam Bắc sau Hiệp định Genève ?

2/ Sau trận Điện Biên Phủ (7.5.1954), khi Pháp quyết định bỏ chạy khỏi Việt Nam, tại sao Hồ Chí minh không thừa thắng xông lên, chiếm lấy tất cả Việt Nam mà lại chịu kỳ hiệp định chia đôi đất nước ?

3/ Ai vi phạm Hiệp định Genève ?

4/ Xương máu của nhân dân Việt Nam đă đem lại những lợi lọc cho ai ?


 

Niềm đau nhục của dận tộc:

1/Cách nhận định của hai miền chiến tuyến :


 

Sự khác biệt trong nhận định của hai miền Nam Bắc sau hiệp định là :

-Miền Nam xem đó là ngày Quốc Hận v́ là ngày tấm bi kịch huynh đệ tương tàn.

-Miền Bắc xem đó là một thành quả thắng lợi.

Trong khi ngoại trưởng miền Nam Trần Văn Hữu đă rơi lệ tại bàn Hội nghị v́ viễn cảnh Trịnh Nguyễn phân tranh xắp tái diễn. Tiếng sáo thở than của Vơ Thành Minh đă tuyệt thực ở bên hồ Leman để chống lại việc cắt đôi đất nước. Th́ các lănh tụ cộng sản th́ c̣n đang lo hô hào cán bộ đẩy mạnh các cuộc đấu tố để tiêu diệt giai cấp địa chủ, thực hiện tư tưởng Mao Trạch Đông. Qua cái đạo luật “cải cách ruộng đất” vào Tháng Mười Hai năm 1953 mà Hồ Chí Minh xem là một “bước tiến” trong cuộc cách mạng quốc tế mà ông theo đuổi. Khi một người tin ḿnh nắm chân lư tuyệt đối trong tay th́ họ dám làm bất cứ cái ǵ để thực hiện chân lư đó, dù phải hy sinh hàng triệu người chỉ là chuyện nhỏ trong vở tuồng lịch sử vĩ đại mà họ coi là cần thiết. Hiệp định Genève đối với người cộng sản luôn luôn là một thắng lợi.

Hôm nay nh́n lại trang sử đau thương của dân tộc nhiều người Việt Nam sống ở miền Bắc cũng công nhận việc chia đôi đất nước năm 1954 là một mối đau nhục, gây nên cảnh nồi da xáo thịt vô ích. Nhưng chúng ta cũng phải nh́n lại để biết phải làm ǵ cho một ngày mai của đất.

2/ V́ sao Hồ Chí Minh không thừa thắng xông lên mà chịu kư Hiệp định Genève : Có nhiều lư do được đưa ra không ai biết chắc đúng hay sai. Nhiều người cho là Cộng Sản Việt Nam đă chịu áp lực của Liên Xô và Trung Cộng. Các đàn anh cộng sản này muốn kết thúc cuộc chiến ở Đông Dương, sau khi họ đă kư kết chấm dứt chiến tranh ở Hàn Quốc. Nghĩ như vậy tức là coi như Cộng Sản Việt Nam bị ép buộc nên phải cắt đôi đất nước. Để làm áp lực, hai nước cộng sản đàn anh hứa tiếp tục viện trợ với điều kiện Cộng Sản Việt Nam chịu đến bàn hội nghị ở Genève.

Có người lại nói chính Cộng Sản Việt Nam muốn kư hiệp ước v́ sợ đằng sau nước Pháp c̣n có Mỹ, phải ngưng chiến để không cho Mỹ có lư do can thiệp vào Việt Nam. Ông William J. Duiker, trong cuốn “The Communist Road to Power in Vietnam” kể rằng Hồ Chí Minh đă mất công thuyết phục cánh chủ chiến trong đảng Cộng Sản, trong phiên họp Trung Ương Đảng vào Tháng Bảy năm 1954. Ông Hồ nói rằng những người trong Trung Ương Đảng muốn tiếp tục chiến tranh không nh́n thấy mối nguy là quân Mỹ có thể sẽ nhảy vào Việt Nam giúp chính phủ quốc gia của Bảo Đại, thay chỗ của Pháp.

Trong thời gian chiến cuộc Điện Biên Phủ, chính phủ Pháp đă yêu cầu Mỹ hỗ trợ bằng cách ném bom chung quanh thung lũng này để tiêu diệt quân Việt Nam đang tấn công. Không khí “chiến tranh lạnh” bao trùm thế giới từ sau Đại Chiến Thứ Hai, cả Nga lẫn Mỹ đang nghi ngờ nhau. Bộ Quốc Pḥng Mỹ vẫn giả thiết rằng sớm muộn Nga xô sẽ đánh Âu Châu và Trung Cộng sẽ tấn công chiếm các nước Đông Nam Á. Mà các nước trong vùng đó đều có một (hay hai) đảng Cộng Sản địa phương đang nổi dậy, làm nội ứng. Lúc đó Mỹ đă rảnh tay ở Cao Ly mà lực lượng máy bay bom đạn của họ vẫn sẵn sàng ở Nhật Bản và Đài Loan. Nhưng chính phủ Mỹ đă từ chối không giúp Pháp ở Điện Biên Phủ. Nếu sau đó chính phủ Pháp chấp thuận những điều kiện của Mỹ, thí dụ, trả lại nhiều quyền tự quyết về quân sự và ngoại giao cho chính phủ quốc gia Việt Nam hơn, sau khi Bảo Đại đă phong nhậm một ông thủ tướng thân Mỹ, th́ việc tham dự của Mỹ có thể thành sự thật. Đó là mối lo chính đáng của Hồ Chí Minh, con người có kinh nghiệm quốc tế nhiều hơn các lănh tụ cộng sản khác.

Ông Duiker cũng cho là v́ lo ngại Mỹ sẽ nhúng tay trực tiếp nên Hồ Chí Minh đă lựa chọn giải pháp chia đôi Việt Nam, thay v́ giải pháp ngưng bắn tại chỗ, mỗi bên giữ phần đất ḿnh đang kiểm soát. Trong trường hợp ngưng bắn tại chỗ, Mỹ vẫn có thể chờ một biến cố nào đó để lấy cớ mà viện trợ trực tiếp cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đánh nhau với Việt Minh trở lại. Khi chính phủ Mỹ không kư vào Hiệp Định Genève chia đôi Việt Nam, chúng ta có thể hiểu là họ nghiêng về giải pháp ngưng bắn tại chỗ, v́ nó thích hợp với mưu đồ của họ hơn, đúng như ông Hồ lo ngại. Mặt khác, nếu chia đất theo lối “da beo” th́ ông Hồ khó thi hành được chương tŕnh đấu tố trong cải cách ruộng đất mà ông đă bắt đầu, dưới sự cố vấn của các đồng chí Trung Quốc.

Nhưng một câu hỏi thực tế là, lúc đó Việt Minh có đủ sứ tiến đánh tới toàn thắng, nếu Mỹ không can thiệp hay chăng? Tướng Navarre, người chỉ huy quân Pháp thời đó, cho biết rằng trong năm 1954 lực lượng Việt Minh đă cạn sức v́ dồn hết sức vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Để chiếm lấy một cứ điểm có 16,000 quân Pháp, Việt Minh đă huy động gần 50,000 quân chủ lực, 55,000 quân phụ lực, và 100,000 dân công tiếp tế cho chiến trường. Phía Pháp chết khoảng 1,500 quân, 4,000 bị thương; trong khi phía Việt Nam mất 25,000 người trong đó 10,000 người chết. Nhiều người phía Việt Minh th́ cho là sau khi thắng trận ở Điện Biên Phủ, họ đủ sức sẵn sàng mở ra những cuộc hành quân ở vùng châu thổ sông Hồng Hà để tiêu diệt lực lượng Pháp và quân đội quốc gia. Tất nhiên họ không dự trù việc tham dự của Mỹ có thể xảy ra, và cũng không biết các điều kiện viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng màHồ Chí Minhbiết. Tướng Navarre th́ nói sau trận Điện Biên Phủ các hoạt động tấn công của Việt Minh đă giảm hẳn đi, nhưng khi ông ta xin thêm 2 sư đoàn viện binh th́ chính phủ Pháp từ chối. Mặt khác, thủ tướng Pháp lúc đó, ông Mendes France, đă hứa trước quốc hội khi nhậm chức là sẽ giải quyết chiến tranh Đông Dương trước ngày 21 Tháng Bảy, cho nên có kư hiệp định đ́nh chiến th́ ngôi thủ tướng của ông mới tồn tại.

Bên cạnh các giả thuyết của các sử gia, có một tài liệu có thể coi là khách quan đối với t́nh h́nh quân sự tại Việt Nam lúc đó, trong cuốn Hồi Kư Khrushchev (Khrushchev Remembers), của người lănh đạo Liên Bang Xô Viết năm 1954, bản dịch cuốn sách này xuất bản năm 1971 ở Mỹ. Gọi là khách quan, v́ ông Nikita Khrushchev rất có cảm t́nh với ông Hồ Chí Minh. Hơn nữa, lúc đó ông nắm đủ các tin tức mà người ngoài không biết, do guồng máy các cố vấn Nga Xô bên cạnh Việt Minh cũng như ở Trung Quốc cung cấp.

Khrushchev kể rằng đầu năm 1954 Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh đến Mát Cơ Va họp để bàn một lập trường chung tại Hội Nghị Genève, “dựa trên t́nh h́nh ở Việt Nam.” Và Khrushchev mô tả, “T́nh h́nh rất nghiêm trọng. Phong trào kháng chiến ở Việt Nam đang trên đà sụp đổ. Các dân quân hy vọng Hội Nghị Genève sẽ dẫn tới một thỏa hiệp ngưng bắn để họ có thể tiếp tục cuộc chiến đấu chống Pháp...” Đó là nhận xét của Khrushchev. Ông c̣n thuật lại lời Chu Ân Lai. Sau một phiên họp chung, có lúc Chu Ân Lai kéo Khrushchev vào một góc, nói, “Đồng chí Hồ Chí Minh đă nói với tôi rằng t́nh h́nh ở Việt Nam đang tuyệt vọng, và nếu chúng ta không tiến đến một cuộc ngừng bắn sớm, th́ người Việt Nam không thể đứng vững chống lại quân Pháp. Do đó, họ đă quyết định nếu cần sẽ rút lui về biên giới Trung Quốc, và họ xin Trung Quốc sẵn sàng tiến quân sang Việt Nam, như chúng tôi đă làm ở Triều Tiên. Nói cách khác, người Việt Nam muốn chúng tôi đánh đuổi Pháp giúp họ. Chúng tôi không thể nào đáp ứng yêu cầu của đồng chí Hồ Chí Minh. Chúng tôi đă tổn thất quá nhiều ở Triều Tiên, cuộc chiến đó tốn kém quá đối với chúng tôi. Chúng tôi không thể nào dự vào một cuộc chiến tranh khác trong lúc này.”

Nghe Chu Ân Lai xong, Khrushchev đă t́m cách thuyết phục ông ta đừng từ chối ngay, “Đồng chí không thể nào nói với ông Hồ là đồng chí sẽ không giúp đỡ khi ông ta bị Pháp đánh phải rút quân về biên giới Trung Quốc. Tại sao đồng chí không cứ nói dối một cách vô hại đi? Cứ để cho người Việt Nam họ tin là đồng chí sẽ giúp họ nếu cần, cái đó sẽ khích lệ họ chiến đấu chống quân Pháp hăng hái hơn.” Chu Ân Lai đă nghe lời khuyên đó, Khrushchev kể, ông ta “không nói với ông Hồ là Trung Quốc sẽ không đánh nhau với Pháp trên lănh thổ Việt Nam.”

Chúng ta có thể tin những lời Khrushchev thuật lại là đúng, v́ ông ta tỏ ra rất hâm mộ Hồ Chí Minh. Lần đầu Khrushchev gặp ông Hồ là vào Tháng Hai năm 1950, khi ông Hồ sang Mát Cơ Va xin Stalin viện trợ. Khrushchev mô tả Hồ Chí Minh là một con người “thành thật, nhân từ, trong sáng;” và nói rằng “Ông ta có thể chinh phục tất cả mọi người với tấm ḷng chân thành và niềm tin tưởng không thể nào lay chuyển của ông rằng chủ nghĩa Cộng Sản là tốt nhất cho dân tộc ông và cho cả loài người.” Khrushchev tả Hồ Chí Minh có đôi mắt “chân thành trông thơ ngây như trẻ em.” Khrushchev ca ngợi, coi Hồ Chí Minh đáng là một vị “thánh tông đồ” của chủ nghĩa Cộng Sản.Nhưng cáo già Stalin th́ không tin. Trong cuộc gặp gỡ đầu năm 1950 này, Hồ Chí Minh đă rút ra một tờ báo h́nh ảnh của Liên Xô, có h́nh Stalin, xin ông ta kư tên vào đó làm kỷ niệm. Stalin vui vẻ kư, nhưng sau đó đă ra lệnh mật vụ tới pḥng Hồ Chí Minh lén thu hồi lại, v́ Stalin cũng sợ ông Hồ sẽ lợi dụng, theo lời Khrushchev thuật. Mọi người đều biết hồi ông Hồ ở bên Trung Quốc và làm việc cho OSS, tổ chức t́nh báo Mỹ, ông có xin Tướng Chennault, chỉ huy phi đoàn Cọp Bay của Mỹ ở Trung Quốc, kư tặng Hồ một bức h́nh. Sau đó ông Hồ mang bức h́nh về Việt Nam, rồi khi họp hội nghị Tân Trào th́ đem bức h́nh đó trưng bày, để mọi người nghĩ rằng ông đă được Mỹ ủng hộ, mà Mỹ th́ đang thắng Nhật. Chưa chắc Stalin biết câu chuyện này, nhưng một lănh tụ cộng sản như ông ta th́ chắc cũng hiểu là không nên tin tưởng những lănh tụ cộng sản khác.

Câu chuyện Khrushchev kể trong cuốn hồi kư về cuộc đối thoại với Chu Ân Lai có thể hoàn toàn là thật. V́ ông ta không có lư do nào để nói dối. Chu Ân Lai chắc cũng không cần bịa chuyện ra nói với Khrushchev. Năm 1954 là lúc bang giao giữa hai nước Nga-Hoa c̣n rất thân thiện, mà nếu Chu Ân Lai nói dối th́ Khrushchev có thể kiểm tra lại, biết liền. Cho nên chúng ta có thể tin rằng Hồ Chí Minh quả thật đă thú nhận với cả hai lănh tụ Nga và Trung Quốc t́nh h́nh lực lượng Việt Minh đang lo bị thua tới mức có thể phải rút sang Trung Quốc. Cũng có thể tin được là năm 1954, Hồ Chí Minh đă xin Trung Cộng đem quân vào Việt Nam.

Khi Chu Ân Lai nói với Khrushchev rằng Trung Cộng không thể tham dự một cuộc chiến nữa, sau khi đă tiêu hao lực lượng ở Cao Ly, điều này cũng đúng. Nhiều người vẫn nghĩ là chính Stalin thúc đẩy Trung Cộng đem quân sang Cao Ly để làm tiêu ṃn lực lượng nước cộng sản anh em này, v́ ai cũng biết chính Stalin bật đèn xanh cho Kim Nhật Thành gây chiến. Nhưng sau khi kư hiệp ước đ́nh chiến ở Cao Ly, Trung Cộng đă thấy sự thiệt hại của họ quá lớn, cho nên không muốn dính vào một cuộc chiến khác. Theo William Duiker th́ vào Mùa Thu năm 1953, Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles đă cảnh cáo nếu Trung Cộng dính vào Chiến Tranh Đông Dương th́ sẽ “có hậu quả nghiêm trọng” khiến Bắc Kinh chấp nhận chính sách ôn ḥa của Nga Xô, sau khi ông Stalin qua đời.

Như vậy th́ việc kư Hiệp Định Genève một phần là do Hồ Chí Minh lo sợ nếu tiếp tục chiến tranh th́ Mỹ sẽ can thiệp, mà sức lực Việt Minh lúc đó đang yếu; một phần khác cũng v́ chủ trương ôn ḥa của Nga Xô khiến cho ông Hồ lo ngại nếu không theo th́ sẽ không c̣n được Nga và Trung Quốc viện trợ như trước nữa. Bản hiệp định chia đôi đất nước đó dẫn tới cuộc chiến tranh Nam Bắc làm chết mấy triệu người Việt Nam, cũng v́ ông Hồ là một người cộng sản kiên cường, đúng như ông Khrushchev ca ngợi. Ông “thánh cộng sản” đó muốn cả hai miền Nam Bắc đều phải sống dưới chế độ cộng sản để tiến hành việc “giải phóng” cả vùng Đông Nam Á và cả thế giới. Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm lúc đó không chịu kư vào Hiệp Định Genève, cũng v́ không muốn chịu trách nhiệm trước lịch sử việc tái diễn Hận Sông Gianh.

3/Ai vi phạm Hiệp định Genève ? :

Có thể nói không ai vi phạm cả v́ Hiệp Định Đ́nh Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam tức Hiệp Định Đ́nh Chiến Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân...mà hoàn toàn không đề cập đến giải pháp chính trị. Có nghĩa là không phải là một Hiệp định Ḥa Bính.

Và điểm đặc biệt không có phái đoàn nào kư tên vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954. Một điều rất lạ lùng là sự việc bất thường nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ kư, lại ít được chú ư và ít được sách báo viết đến ?

Để bỏ chạy an toàn, Pháp thỏa măn những đ̣i hỏi về phía khối cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản chia hai nước Việt Nam và ấn định lịch Tổng Tuyển Cử năm 1956, mà không cần đếm xỉa đến ư nguyện của chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Pháp quyết kư Hiệp Định Genève (20.7.1954), để vĩnh viễn rút quân ra khỏi ba nước Đông Dương, không c̣n liên hệ ǵ đến Việt Nam. Như thế, Pháp dựa vào tư cách nào để ấn định lịch Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 về tương lai chính trị nước Việt Nam? Lịch Tổng Tuyển Cử nầy lại không được các phái đoàn tham dự kư kết để bảo đảm thi hành. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy cộng sản luôn luôn kư kết hiệp ước để làm kế hoăn binh và không bao giờ tôn trọng hiệp ước đă kư kết, huống ǵ là những văn bản không có chữ kư như bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954.

I/T́nh h́nh thế giới đưa đến HỘI NGHỊ GENÈVE

Chiến tranh Triều Tiên kết thúc bằng hiệp ước đ́nh chiến được kư kết tại Bàn Môn Điếm (Panmunjon), ngày 27.7.1953, chia Triều Tiên thành hai vùng Bắc và Nam Triều Tiên, ranh giới là vĩ tuyến 38. Đây chỉ là hiệp ước đ́nh chiến, chứ không phải là ḥa ước giữa các bên lâm chiến. Dầu vậy, hiệp ước và giải pháp chia hai nước Triều Tiên được một số nước, kể cả Pháp, xem là mẫu mực để giải quyết vấn đề Đông Dương.

Ngày 4.8.1953 Liên Xô đề nghị họp Hội Nghị ngũ cường gồm Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô và Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa vào tháng 9.1953 để tiếp tục giải quyết những tranh chấp ở Triều Tiên, đồng thời tại khu vực Á Châu, trong đó nóng bỏng nhất là vấn đề Việt Nam.

Đề nghị nầy bị Hoa Kỳ bác bỏ ngày 2.9.1953. Trong cuộc họp tay ba Anh, Pháp và Hoa Kỳ trong ba ngày kể từ 16.10.1953, cả ba nước đưa ra tuyên bố không chấp nhận đề nghị của Liên Xô, chủ yếu v́ các cường quốc Tây phương không muốn thừa nhận Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa là một cường quốc ngang hàng với họ. Lúc đó, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa chưa được vào Liên Hiệp Quốc. Chiếc ghế thường trực tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc do Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) nắm giữ.

Lúng túng trong chiến tranh Việt Nam, ngày 27.10.1953, Thủ Tướng Pháp là Joseph Laniel tuyên bố sẵn sàng t́m kiếm cơ hội tái lập ḥa b́nh ở Đông Dương. Ông được Quốc Hội Pháp ủng hộ để thương thuyết và đi đến một giải pháp chính trị. Ra trước Thượng Viện Pháp ngày 12.11.1953, Thủ Tướng Laniel lập lại ư kiến trên thêm một lần nữa. Laniel hy vọng kế hoạch hành quân của Đại Tướng Henri Navarre tại Việt Nam sẽ có thể đem lại thành công trên chiến trường, để có thể thương thuyết trong thế mạnh.

Đề nghị của Laniel được phía cộng sản đáp ứng ngay. Trong một cuộc phỏng vấn của báo Expressen (Norway = Na Uy) vào cuối tháng 10.1953, Hồ chí Minh cho biết rằng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa do đảng lao động và mặt trận Việt Minh điều khiển, sẵn sàng t́m hiểu các đề nghị của Pháp và chỉ thương thuyết với Pháp, chứ không nói chuyện với chính phủ Quốc Gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Đại làm Quốc Trưởng.

Về phía Liên Xô, vừa trả lời cho tam cường Tây phương, vừa trả lời cho đề nghị của Thủ Tướng Pháp (Laniel), Ngoại Trưởng Mikhailovich Molotov tuyên bố ngày 26.11.1953 đồng ư tham dự Hội Nghị tứ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và Liên Xô, nhưng dành quyền sẽ triệu tập Hội Nghị ngũ cường sau đó. Măi đến ngày 29.11.1953, bài phỏng vấn Hồ chí Minh mới được báo Expressen công bố, và được Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh đăng lại ngày 1.12.1953, kèm theo bài xă luận hoàn toàn ủng hộ lập trường của Việt Minh.

Ngày 6.12.1953, theo quyết định của các cố vấn Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, quân đội Việt Minh bắt đầu mở cuộc tấn công Điện Biên Phủ. Một tuần sau, Hồ chí Minh tuyên bố chấp nhận thương thuyết với Pháp ngày 14.12.1953. Hỗ trợ ư kiến của Hồ chí Minh, ngày 26.12.1953, Liên Xô đưa ra đề nghị họp tứ cường tại Berlin ngày 25.1.1954, và được các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ chấp thuận.

Vào ngày nói trên (25.1.1954), Hội Nghị tứ cường vừa khai mạc tại Berlin, th́ Ngoại Trưởng Liên Xô, Mikhailovich Molotov, đề nghị mời Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa cùng họp để giải quyết các vấn đề tranh chấp trên thế giới. Măi đến ngày 18.2.1954, ư kiến của Liên Xô mới được ba nước Tây phương đồng ư. Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa được mời tham dự Hội Nghị Genève, sẽ bắt đầu từ ngày 26.4.1954 để bàn về các vấn đề Triều Tiên và Đông Dương.

Hội Nghị ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa tại Genève chính thức khai mạc ngày 26.4.1954, một ngày bàn về Đông Dương, một ngày bàn về Triều Tiên. Liên Xô đề nghị mở rộng những nước tham dự bằng cách mời thêm các phe lâm chiến ở Đông Dương. Ư kiến nầy được chấp thuận tại phiên họp ngày 2.5.1954. Như thế, về vấn đề Đông Dương, hội nghi Genève sẽ có tất cả là 9 phái đoàn tham dự: Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (Việt Minh), Lào và Cambodge (Cambodia).

Hội Nghị Genève về Đông Dương với sự tham dự của 9 phái đoàn, chính thức khai mạc ngày 8.5.1954. Một ngày trước đó, cứ điểm Điện Biên Phủ tại Việt Nam của liên quân Pháp-Việt bị thất thủ vào tay quân đội Việt Minh ngày 7.5.1954.

II.- HỘI NGHỊ GENÈVE

Hội Nghị Genève về vấn đề Đông Dương có thể chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ khi khai mạc (8.5.1954) đến khi tạm nghỉ ngày 20.6.1954. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ ngày 10.7 đến ngày 21.7.1954. Giữa hai giai đoạn là sự thay đổi chính phủ tại Pháp và Hội Nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai (Trung Cộng) và Hồ chí Minh (Việt Minh).

GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT HỘI NGHỊ GENÈVE

Hội Nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (Việt Minh), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8.5.1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ.


 

Thời điểm khai mạc Hội Nghị Genève về Đông Dương rơ ràng rất thuận lợi cho phía cộng sản: Liên Xô và Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa lúc đó chưa rạn nứt mà c̣n liên lạc ngoại giao gắn bó trong tinh thần cộng sản quốc tế, tích cực giúp đỡ Việt Minh. Trong khi đó, sau khi thất trận Điện Biên Phủ (7.5.1954), nội t́nh nước Pháp chia rẽ. Pháp đang muốn kiếm cách rút lui khỏi Đông Dương. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam gặp nhiều khó khăn, quân đội mới được thành lập nên chưa vững mạnh.

Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu khi Hội Nghị bắt đầu. Sau đó, để tăng cường, Quốc Gia Việt Nam gởi phó Thủ Tướng Nguyễn Trung Vinh làm Trưởng Đoàn, Nguyễn Quốc Định phụ tá. Khi Ngô Đ́nh Diệm chấp chánh ngày 7.7.1954, th́ tân Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đến thay Nguyễn Trung Vinh. Phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng lănh đạo. Lúc đó ông Đồng đă được chỉ định làm Phó Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa.

Sau gần 20 ngày hội họp tại Genève, ngày 26.5.1954, Pháp và Việt Minh thỏa thuận ngừng bắn ở Việt Nam, rút quân về những khu vực chỉ định. Phạm văn Đồng đề nghị cách phân chia thật giản dị là chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 13. Việt Minh rút về Bắc, Pháp rút về Nam. Pháp chưa quyết định. Anh Quốc tán thành, Hoa Kỳ phản đối. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam chủ trương thống nhất, không chia cắt. Tại Sài G̣n, Thủ Đô của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, Quốc Dân Đại Hội họp phiên bất thường cũng trong ngày 26.5.1954, phản đối mạnh mẽ việc chia hai đất nước.

Tại Genève, trong cuộc họp mật riêng với Pháp ngày 10.6.1954, Tạ quang Bửu, Thứ Trưởng Quốc Pḥng Việt Minh, nói với đại diện Pháp là Delteil rằng:

‘’Chúng tôi cần một thủ đô [Hà Nội] và cần một hải cảng [Hải Pḥng]’’. Hội Nghị toàn thể tại Genève gặp bế tắc ngày 12.6 khi phái đoàn Việt Minh không chấp nhận sự kiểm soát quốc tế, mà đ̣i rằng ban kiểm soát chỉ có đại diện Pháp và Việt Minh. Việt Minh c̣n đ̣i giải pháp ngưng bắn ở Đông Dương bao gồm luôn cả vấn đề Việt-Miên-Lào.

Khi họp riêng ngày 15.6.1954, với đại diện Liên Xô (Ngoại Trưởng Molotov) và đại diện Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Châu Ân Lai), Phạm văn Đồng bị đại diện hai nước nầy ép phải chấp nhận những giải pháp riêng biệt về ba nước Đông Dương, nghĩa là Việt Minh phải rút quân ra khỏi Lào và Miên. Kể từ 20.6.1954, các Ngoại Trưởng tạm nghỉ và về nước tham khảo ư kiến.

NHỮNG DIỄN TIẾN TRONG THỜI GIAN HỘI NGHỊ GENÈVE TẠM NGHỈ

Mendès France, Thủ Tướng Pháp: Sau thất bại Điện Biên Phủ (7.5.1954), chẳng những Pháp thay lănh đạo ở Đông Dương, mà thay luôn cả chính phủ Pháp ở Paris. Nội các Joseph Laniel từ chức ngày 13.6.1954, và Mendès-France, người Pháp gốc Do Thái, thuộc đảng Xă Hội Cấp Tiến (Socialiste Radical), một thành viên Hội Tam Điểm Pháp, được mời lập chính phủ.


 

Điều trần trước Quốc Hội Pháp, Mendès-France tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong ṿng bốn tuần lễ (chưa đầy một tháng). Nói cách khác, với ư nguyện của Quốc Hội Pháp, chính phủ Mendès-France quyết định bỏ rơi Quốc Gia Việt Nam, và bằng mọi giá kư kết hiệp ước đ́nh chiến, rút quân Pháp ra khỏi Đông Dương. Mendès-France chính thức nhậm chức ngày 21.6.1954. Nếu tính thêm bốn tuần lễ th́ vào khoảng 21.7.1954.

Hội Nghị Liễu Châu: Trong thời gian nghỉ họp, Châu Ân Lai về lại Trung Quốc. Ông mời Hồ chí Minh và Vơ nguyên Giáp qua Liễu Châu (Liuzhou), thuộc Tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), hội họp từ ngày 3.7.1954.

Trong cuộc gặp gỡ nầy, đại để Châu Ân Lai cho rằng có ba cách để đối phó với t́nh h́nh mới:

1.- Thượng sách là ḥa.

2.- Trung sách là đánh rồi ḥa.

3.- Hạ sách là đánh tiếp.

Châu Ân Lai khuyên Hồ chí Minh chấp nhận thượng sách là ḥa để tránh mở rộng chiến tranh, v́ nếu tiếp tục mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ sẽ can thiệp. Theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giải quyết riêng biệt chuyện Lào và Miên, đồng thời chia hai nước Việt Nam ở khoảng vĩ tuyến 16. Với kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên Việt Minh không nên đ̣i hỏi thái quá, khiến Pháp sẽ ở thế phải nhờ Hoa Kỳ can thiệp.

Cũng theo Châu Ân Lai, trong trường hợp Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng hậu, Hoa Kỳ sẽ có thể lật ngược t́nh thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước đây.


 

Như vậy Việt Minh sẽ đuổi được kẻ địch yếu, nhưng lại rước kẻ địch mạnh. Hơn nữa, Việt Minh nên giúp Tân Thủ Tướng Pháp là Mendès-France, để ông ta không bị Quốc Hội Pháp lật đổ. Nếu Mendès-France không thành công, chính phủ Mendès-France sẽ bị đổ, th́ có thể sẽ bất lợi đối với phía cộng sản.


 

Về phía phái đoàn Việt Minh, trong Hội Nghị nầy, Vơ nguyên Giáp cho biết nếu phải rút đi, th́ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện, phần c̣n lại th́ ở lại miền Nam chờ thời cơ, có thể khoảng 10,000 cán bộ.

Hội Nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai và Hồ chí Minh kết thúc sau phiên họp cuối cùng tối ngày 5.7.1954. Nhân Dân Nhật Báo của Bắc Kinh ngày 8.8.1954, đăng

‘’Tuyên bố về cuộc hội đàm Trung Việt của chính phủ Trung Quốc’’, được dịch nguyên văn như sau:

‘’Thủ Tướng nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa Châu Ân Lai và Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa Hồ chí Minh đă cử hành hội đàm tại biên giới Trung Việt từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Thủ Tướng Châu Ân Lai và Chủ Tịch Hồ chí Minh đă trao đổi ư kiến đầy đủ về vấn đề khôi phục ḥa b́nh ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan khác. Tham gia Hội Nghị c̣n có: Hoàng văn Hoan, Đại Sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tại Trung Quốc và Kiều Quán Hoa, cố vấn Đoàn Đại Biểu nước Cộng Ḥa Nhận Dân Trung Hoa tại Hội Nghị Genève’’.

Về lại Việt Nam, Hồ chí Minh họp bộ chính trị đảng lao động (tức đảng cộng sản Việt Nam) tại Thái Nguyên, ra nghị quyết theo quyết định của Hội Nghị Liễu Châu, nghĩa là Việt Minh chấp nhận giải pháp chia hai đất nước, tạm thời ḥa hoăn và chuẩn bị tiếp tục tranh đấu sau khi kư kết hiệp ước đ́nh chiến.

Chủ trương mới nầy được Hồ chí Minh nêu ra trong báo cáo ngày 15.7.1954 tại Hội Nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung ương đảng lao động (tức đảng cộng sản) khóa II từ 15 đến 17.7.1954 tại Việt Bắc, trong đó có đoạn viết: ‘’Trước kia khẩu hiệu của ta là: ‘’Kháng chiến đến cùng’’. Nay v́ t́nh h́nh mới, ta cần nêu khẩu hiệu mới là ḥa b́nh, thống nhất, độc lập, dân chủ’’.

Trong khi đó, thực hiện sự thỏa thuận ngày 26.5 tại Hội Nghị Genève, các phe lâm chiến ở Việt Nam mở Hội Nghị Trung Giá từ ngày 4 đến 27.7.1954 để bàn về chi tiết việc ngưng bắn. Trung Giá, hay Trung Giă, nằm về phía Nam Thị Xă Thái Nguyên khoảng 30 cây số. Đại diện cho Pháp là Đại Tá Lennuyeux, đại diện cho Quốc Gia Việt Nam là Thiếu Tá Nguyễn Phước Đàng, đại diện cho Việt Minh là Thiếu Tướng Văn tiến Dũng.

GIAI ĐOẠN THỨ HAI HỘI NGHỊ GENÈVE

Tân Thủ Tướng Pháp là Mendès-France đích thân đến Genève để hội đàm với Ngoại Trưởng Liên Xô là Mikhailovich Molotov ngày 10.7, và Ngoại Trưởng Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa là Châu Ân Lai trong hai ngày 12 và 13.7. Pháp, Liên Xô và Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa thỏa thuận giải pháp chia hai nước Việt Nam. Pháp đ̣i chia ở vĩ tuyến 18. Trung Hoa đề nghị vĩ tuyến 16, rồi đổi vĩ tuyến 17. Sau đó, khi Châu Ân Lai gặp Phạm văn Đồng, đại biểu của Việt Minh, Châu Ân Lai áp đặt ư định của các cường quốc. Phạm văn Đồng đành chấp nhận. Đại Biểu Quốc Gia Việt Nam là Bác Sĩ Trần Văn Đỗ phản đối việc chia cắt đất nước bất cứ ở đâu.


 

Cuối cùng, sau những tranh căi và mặc cả vào buổi chiều ngày 20.7.1954, hiệp ước đ́nh chiến được soạn thảo xong và kư kết sau 12 giờ đêm 20.7, qua sáng 21.7.1954 trong lúc đồng hồ ở trụ sở kư kết vẫn giữ nguyên ở 12 giờ đê


 

20.7.1954.


 

III.- HIỆP ĐỊNH GENÈVE


 

Danh xưng chính thức của Hiệp Định Genève là Hiệp Định Đ́nh Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam. Hiệp Định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính kư vào hiệp ước đ́nh chiến Genève là Henri Delteil, Thiếu Tướng, thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ quang Bửu, Thứ Trưởng Bộ Quốc Pḥng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Các nước khác cùng kư vào Hiệp Định Genève c̣n có Anh, Liên Xô, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, Lào, Cambodia. Hai chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ không kư vào bản Hiệp Định nầy. Hiệp Định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:


 

- Việt Nam chia làm hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải (Tỉnh Quảng Trị), theo ḍng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Không nói đến vĩ tuyến 17. Trong thực tế, sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ở phía Bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía Nam.


 

- Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm ‘’khu đệm’’, có hiệu lực từ ngày 14.8.1954.


 

- Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày Hiệp Định có hiệu lực.


 

- Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27.7 ở Bắc Việt, 1.8 ở Trung Việt và 11.8 ở Nam Việt.


 

- Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của ḿnh và tự tổ chức nền hành chánh riêng.


 

- Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đăi những người đă hợp tác với phía đối phương.


 

- Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia.


 

- Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới.


 

- Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn.


 

- Sự giám sát và kiểm soát thi hành Hiệp Định sẽ giao cho một Ủy Ban Quốc Tế.


 

- Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Pḥng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).


 

Hiệp Định Đ́nh Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam chỉ là một Hiệp Định có tính cách thuần túy quân sự. Cũng giống như hiệp ước đ́nh chiến Panmunjon (Bàn Môn Điếm) ngày 27.7.1953, Hiệp Định đ́nh chiến Genève không phải là một ḥa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.


 

IV.- BẢN TUYÊN BỐ CUỐI CÙNG KHÔNG CHỮ KƯ


 

Sau khi Hiệp Định Đ́nh Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam được kư kết, các phái đoàn họp tiếp ngày 21.7.1954 và ‘’thông qua’’ bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’. Đây chỉ là lời tuyên bố (Déclaration) của bảy phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc biệt không có phái đoàn nào kư tên vào Bản Tuyên Bố nầy, nghĩa là Bản Tuyên Bố không có chữ kư.


 

Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (Ngoại Trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, th́ 7 phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng ‘’đồng ư’’. Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không đồng ư, và tự đưa ra tuyên bố riêng của ḿnh.


 

Bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’ gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng:


 

‘’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau Tổng Tuyển Cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại ḥa b́nh tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ư nguyện, cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ tổ chức vào tháng 7.1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc Tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám Sát và Kiểm Soát Quốc Tế đă nói trong Hiệp Định Đ́nh Chỉ Chiến Sự. Kể từ ngày 20.7.1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó’’.


 

Điều 7 của Bản Tuyên Bố được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị trong tương lai, theo đó một cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ có thể được tổ chức để thống nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào điều nầy để đ̣i hỏi Nam Việt tổ chức Tổng Tuyển Cử trên toàn quốc.


 

Bắc Việt thường nói và viết rằng việc tổ chức Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam là theo quyết định của Hiệp Định Genève. Thật ra Hiệp Định Genève chỉ là một Hiệp Định Đ́nh Chỉ Chiến Sự (đ́nh chiến) mà không đưa ra một giải pháp chính trị nào. Giải pháp chính trị về một cuộc Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam dự tính tổ chức vào năm 1956 nằm trong điều 7 của bàn ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’.


 

Trong Bản Tuyên Bố riêng của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, Trưởng Phái Đoàn, giải thích v́ sao phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không kư kết Hiệp Định Genève. Sau khi phản đối việc chia cắt đất nước và việc đại diện quân đội Pháp tự ư kư kết Hiệp Định mà không đếm xỉa ǵ đến quyền lợi của quân đội Quốc Gia và nhân dân Việt Nam, Bản Tuyên Bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam viết:


 

‘’V́ thế cho nên chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách kư kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng chính phủ tự dành cho ḿnh quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc Lập, và Tự Do cho xứ sở’’.


 

V́ phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không kư vào Bản Hiệp Định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam (Hiệp Định Genève) và nhất là không tham dự vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng’’, nên chính phủ Quốc Gia Việt Nam tự cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy.


 

Về phía Hoa Kỳ, Trưởng Phái Đoàn là Bedell Smith cũng đưa ra bản tuyên ngôn ngày 21.7.1954 theo đó, tuy không kư vào Hiệp Định, nhưng Hoa Kỳ cam đoan không đe doạ hay dùng vơ lực để sửa đổi Hiệp Định, Hoa Kỳ sẽ nghiêm xét bất cứ một hành vi tái gây hấn vi phạm thỏa hiệp trên, đe dọa ḥa b́nh và an ninh thế giới, Hoa Kỳ tôn trọng việc thực hiện thống nhất Việt Nam bằng Tổng Tuyển Cử tự do đặt dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Ông Bedell Smith kết luận:


 

‘’Chúng tôi chia sẻ niềm hy vọng rằng các thỏa hiệp nầy sẽ cho phép Cao Miên, Lào và Việt Nam nắm giữ điạ vị của họ, trong độc lập hoàn toàn và chủ quyền đầy đủ, giữa cộng đồng yêu chuộng ḥa b́nh của các quốc gia, và sẽ khiến cho các dân tộc ở các vùng đó có thể tự định đoạt lấy tương lai của ḿnh’’.


 

V.- VIỆC THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GENÈVE


 

Hội Nghị Genève kết thúc với ba văn kiện chính thức (ngày 20.7.1954) và một Bản Tuyên Bố chung (ngày 21.7.1954) là:


 

1.- Hiệp Định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam.


 

2.- Hiệp Định đ́nh chỉ chiến sự ở Lào.


 

3.- Hiệp Định đ́nh chỉ chiến sự ở Cambodge (Cambodia).


 

4.- Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương.


 

Ngoài bốn văn kiện trên, c̣n có hai văn kiện do hai phái đoàn đưa ra là:


 

1.- Tuyên ngôn của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.


 

2.- Tuyên ngôn của phái đoàn Hoa Kỳ.


 

Cần chú ư hai điểm:


 

Thứ nhất, Hiệp Định Đ́nh Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam tức Hiệp Định Đ́nh Chiến Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân...mà hoàn toàn không đề cập đến giải pháp chính trị.


 

Thứ hai, không có phái đoàn nào kư tên vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954. Một điều rất lạ lùng là sự việc bất thường nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ kư, lại ít được chú ư và ít được sách báo viết đến.


 

Điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy mở đầu bằng câu ‘’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam...’’ (La Conférence déclare qu’en ce qui concerne le Vietnam…), nghĩa là về vấn đề Việt Nam, Hội Nghị nghĩ rằng, đưa ra ư kiến rằng, hay dự kiến rằng…một cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ được tổ chức vào tháng 7.1956…, c̣n làm theo hay không làm theo, nghĩa là thi hành hay không thi hành, là tùy các bên liên hệ. Hội Nghị không cam kết và cũng không yêu cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành Tổng Tuyển Cử, v́ bằng chứng rơ ràng nhất là Hội Nghị không yêu cầu bên nào kư vào Bản Tuyên Bố nầy, để cam kết hay để giữ lời cam kết. Những Hiệp Định với đầy đủ chữ kư mà c̣n bị vi phạm trắng trợn, huống ǵ là những Bản Tuyên Bố không chữ kư.


 

Hơn nữa, đây là một Bản Tuyên Bố chứ không phải là một bản hiệp ước. Môt Bản Tuyên Bố lại không có chữ kư của bất cứ phái đoàn nước nào, kể các các chính phủ liên hệ đến cuộc chiến ở Đông Dương, có được xem là một văn kiện có giá trị pháp lư để thi hành hay không ?


 

V́ những lư do căn bản nầy, bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’, trong đó đặc biệt điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy về dự kiến một cuộc Tổng Tuyển Cử trong năm 1956, không có tính cách pháp lư để bắt buộc bất cứ nước nào thi hành.


 

Nói cho cùng, có thể nói rằng Bản Tuyên Bố nầy khá mơ hồ và không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương sau khi hai bên đ́nh chiến.


 

Tinh thần của Bản Tuyên Bố Genève ngày 21.7.1954 khiến người ta liên tưởng đến ‘’Tối hậu thư Potsdam’’ mà các nước Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) gởi cho Nhật Bản ngày 26.7.1945. Tối hậu thư Potsdam buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện và quy định rằng ở Đông Dương quân đội Trung Hoa sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía Bắc vĩ tuyến 16, và quân đội Anh sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16 (ngang qua Tam Kỳ). Tuy nhiên tối hậu thư nầy không đề cập đến việc ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp chính trị cho Đông Dương.


 

Điều nầy sẽ tạo ra một khoảng trống hành chánh và chính trị tại Đông Dương sau năm 1945 một khi những quyết định trong tối hậu thư Potsdam được thi hành, v́ nếu Nhật đầu hàng, chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật bảo trợ, cũng sẽ sụp đổ, th́ ai sẽ là người có thẩm quyền tại Đông Dương ? Đây là thâm ư của Anh và Hoa Kỳ, cố t́nh bỏ ngỏ khoảng trống chính trị để tạo điều kiện cho Pháp trở lại Đông Dương.


 

Nay bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’ cũng đi vào vết xe cũ, không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương, ngoài một Bản Tuyên Bố không có người kư. Từ đó, các bên liên hệ đến Bản Tuyên Bố có thể tùy tiện giải thích Bản Tuyên Bố một cách khác nhau, tùy theo chủ trương chính sách của mỗi bên, và nhất là tùy theo ‘’lư của kẻ mạnh’’.


 

Ngay trong Hội Nghị Liễu Châu từ ngày 3 đến ngày 5.7.1954, cả Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa lẫn Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đă thỏa thuận tạm ḥa để tiếp tục chiến tranh. Cũng trong Hội Nghị Liễu Châu, những nhà lănh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đă tŕnh bày kế hoạch hậu chiến, trường kỳ mai phục, gài người cùng chôn giấu vũ khí tại miền Nam để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Như thế có nghĩa là kế hoạch tấn công miền Nam, vi phạm Hiệp Định Genève đă được phía cộng sản dự tính trước khi kư kết Hiệp Định.


 

Cho đến nay, chưa có một giải thích cụ thể nào cho biết tại sao bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’, lại không không có chữ kư của phái đoàn các nước ? Phải chăng sau nhiều tháng hội họp, các phái đoàn quá mệt mỏi với những tranh căi triền miên, nên chỉ hỏi ư kiến bằng miệng cho chóng thông qua ? Hay phải chăng có một âm mưu muốn tính chuyện về sau, nên chỉ hỏi bằng miệng để bỏ ngỏ vấn đề, nhằm dọn đường cho những tính toán chính trị kế tiếp sau Hiệp Định Genève ? Và ai là người đă chủ xướng biện pháp chính trị lập lững nầy ? Nước nào chủ xướng th́ chưa biết, nhưng chính phủ Quốc Gia Việt Nam rất yếu thế, ngay từ đầu lại bác bỏ việc chia cắt đất nước, phản đối Hiệp Định Genève, nên chắc chắn Quốc Gia Việt Nam không phải là nước chủ xướng.


 

Ngày 22.7.1954, Thủ Tướng chính phủ Quốc Gia Việt Nam là Ngô Đ́nh Diệm ra tuyên cáo phản đối việc chia hai nước Việt Nam. Tuy nhiên cuối cùng chính phủ Quốc Gia Việt Nam vẫn chấp nhận thi hành Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954, chia hai đất đất nước ở sông Bến Hải, vùng vĩ tuyến 17. Như thế, từ năm 1954, tại Bắc và Nam Việt Nam, có hai chính phủ riêng biệt, theo hai chính thể riêng biệt, tức có hai nước Việt Nam riêng biệt.


 

Thi hành Hiệp Định đ́nh chiến Genève, việc ngưng bắn chính thức có hiệu lực ngày 27.7.1954 tại Bắc Việt, ngày 1.8.1954 tại Trung Việt, và ngày 11.8.1954 tại Nam Việt. Vấn đề cấp thời của hai chính phủ là tập trung và di chuyển quân đội, công chức, cán bộ của ḿnh và cả dân chúng, về khu vực cai trị của ḿnh. Điều 2 của Hiệp Định Genève (20.7.1954) cho phép thực hiện việc di chuyển các lực lượng của hai bên về vùng tập hợp ở hai bên giới tuyến tạm thời trong thời gian 300 ngày.

Ngày 9.10.1954 là hạn chót cho những người muốn di cư vào Nam di tản khỏi Hà Nội. Hôm sau, ngày 10.10.1954, quân đội Việt Minh vào tiếp thu Hà Nội. Chủ Tịch ủy ban quân quản Hà Nội của Việt Minh là Vương thừa Vũ tức Nguyễn văn Đồi, người đă chỉ huy cuộc tấn công Hà Nội ngày 19.12.1946 và trở thành tư lệnh sư đoàn đầu tiên của Việt Minh là sư đoàn 308. Hải Pḥng, điểm tập trung đồng bào miền Bắc muốn di cư bằng tàu thủy vào miền Nam, do Việt Minh tiếp thu ngày 13.5.1954. Ba ngày sau, toán lính Pháp cuối cùng rút lui khỏi Đảo Cát Bà (Vịnh Hạ Long, vùng Hải Pḥng) ngày 16.5.1955. (Nếu tính từ ngày ngưng bắn có hiệu lực ở Bắc Việt (27.7.1954) cho đến ngày 16.5.1955 là 9 tháng 20 ngày.)

Số người từ miền Nam tập kết ra Bắc không được thống kê đầy đủ. Theo sự tŕnh bày của Vơ nguyên Giáp tại Hội Nghị Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Hoa) từ ngày 3.7.1954 giữa Hồ chí Minh và Châu Ân Lai, trước khi chiến tranh kết thúc, Việt Minh dự tính bước đầu rút khoảng 60.000, trong đó 50.000 người là bộ đội và 10.000 người làm công tác chính trị, nhất là những người ‘’đỏ’’ quá, không thể ở lại. Ngoài ra, Việt Minh dự tính sẽ lưu lại miền Nam từ 5.000 đến 10.000 người để chờ thời cơ, và vũ khí nào cất giấu được th́ cất giấu sau khi quân đội rút đi. Theo một tài liệu khác cũng của cộng sản, số người tập kết ra Bắc khoảng 175.000 người và 15.0000 học sinh. Số lượng nầy có thể đă được phóng đại và không thể kiểm chứng được.

Số người từ miền Bắc di cư vào miền Nam lên đến khoảng gần 900.000 người. Trong số nầy, nhân viên chính quyền (tức công chức) và quân nhân chiếm một phần ít, c̣n đại đa số là dân chúng. Đây là đợt tỵ nạn cộng sản lớn lao đầu tiên trong lịch sử hiện đại, cũng là đợt di dân nội địa lớn lao nhất trong lịch sử nước ta.

Vài điểm đáng chú ư về cuộc di cư vĩ đại của dân chúng miền Bắc vào miền Nam như sau:

Thứ nhất, số người ra đi đông đảo như trên rời đất Bắc có lợi cho đảng lao động, v́ những thành phần chống cộng, đối lập, bất đồng chính kiến, những nhân vật theo các đảng phái Quốc Gia, đều rút về miền Nam, nên không c̣n, hay ít c̣n người ở lại đối kháng với chế độ mới ở ngoài Bắc.


 

Thứ hai, người Việt Nam vốn rất ràng buộc với quê cha đất tổ, mà gần một triệu người đành phải bỏ xứ ra đi. Trong chiến tranh, bộ máy tuyên truyền của Việt Minh luôn luôn ca tụng chế độ cộng sản và chê bai chính thể Quốc Gia Việt Nam. Nay cuộc di cư vĩ đại có thể xem là cuộc trưng cầu dân ư cho thấy số người miền Bắc chọn lựa vào miền Nam đông hơn số người miền Nam tập kết ra Bắc, chứng tỏ ḷng dân như thế nào đối với chế độ của đảng lao động (tức là đảng cộng sản Việt Nam)?


 

Thứ ba, sự chọn lựa nầy củng cố niềm tin nơi chính phủ Quốc Gia Việt Nam, giúp chính phủ Quốc Gia Việt Nam vững tâm hành động, và làm tăng giá trị của chính thể Quốc Gia Việt Nam đối với thế giới.


 

Thứ tư, ngoài những cán bộ cộng sản được cài lại ở miền Nam, sống lẫn lút trà trộn trong dân chúng, chắc chắn đảng lao động không bỏ qua cơ hội cho đảng viên cốt cán len lơi vào đoàn người di cư vào miền Nam để làm t́nh báo.


 

Đúng một năm sau Hiệp Định Genève, để kiếm cớ gây chiến, Phạm văn Đồng, Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, tức Bắc Việt gởi thư ngày 19.7.1955 cho Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam tức Nam Việt là Ngô Đ́nh Diệm, yêu cầu mở Hội Nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20.7.1955, để bàn về việc Tổng Tuyển Cử thống nhất đất nước theo quy định của Hiệp Định Genève.


 

Ngày 10.8.1955, Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm đă bác bỏ đề nghị của Thủ Tướng Phạm văn Đồng, dựa vào lư do rằng chính phủ Quốc Gia Việt Nam không kư vào Hiệp Định Genève và nhất là v́ không có bằng chứng nào cho thấy Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi quốc tế cộng sản.


 

Chính thể Quốc Gia Việt Nam đổi thành Việt Nam Cộng Ḥa vào ngày 26.10.1955. Tuy chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa nhiều lần từ chối, Phạm văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11.5.1956, 18.7.1957, và 7.3.1958 để tuyên truyền với quốc tế. Lần cuối, Ngô Đ́nh Diệm, lúc đó là Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa, bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26.4.1958.


 

Do vào sự bác bỏ của của chính phủ Nam Việt, Bắc Việt tố cáo chính phủ Nam Việt không tôn trọng Hiệp Định Genève. Trong khi đó, Hiệp Định Genève chỉ là một Hiệp Định đ́nh chiến và đă được các phe liên hệ tức là chính phủ Việt Minh và chính phủ Quốc Gia Việt Nam thi hành xong ngay từ 1954, chia hai nước Việt Nam thành Bắc Việt và Nam Việt dưới sự giám sát của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến, gồm đại diện các nước Canada (Gia Nă Đại), Poland (Ba Lan), India (Ấn Độ). C̣n bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương’’ không có chữ kư, th́ chẳng có giá trị pháp lư để thi hành. Tuy nhiên, kẻ gây hấn th́ luôn luôn có lư do để gây hấn.

4/ Cuối cùng đất nước của chúng ta trở thành nơi thử nghiệm các phương tiện kỹ thuật giết người của Hoa-kỳ và Liên-xô. Và khi Mao Trạch Đông chiếm lục địa Trung Quốc, các cường quốc Tây phương không công nhận Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc và không cho Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc được các cường quốc mời họp Hội Nghị Genève. Nghĩa là Trung Quốc được ngồi ngang hàng với các cường quốc Tây phương nhờ chiến tranh Việt Nam, nhờ xương máu của dân tộc Việt Nam. (Việc nầy tái diễn trong chiến tranh 1960-1975, v́ do cuộc chiến nầy, Nixon qua Bắc Kinh dàn xếp với Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai. Sau đó, Hoa Kỳ mở cửa cho Trung Quốc cộng sản vào Liên Hiệp Quốc.)

NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA HIỆP ĐỊNH GENEVA 1954

17thParalell


 

Vĩ tuyến  17


 

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève về Việt Nam đă được kư kết. Vĩ tuyến 17 đă là ranh giới chia đôi hai miền đất nước. Gần một triệu người miền Bắc đă rời bỏ quê hương di cư vào Nam. “Chấm dứt một cuộc chiến tranh bằng biện pháp chia đôi lănh thổ sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh khác…”. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ đă không kư tên vào bản Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Một nửa thế kỷ đă trôi qua, nhưng dân tộc Việt Nam không thể nào quên được cái ngày đau thương khi giang san một giải đă bị chia cắt bởi dă tâm của thực dân và cộng sản.

Không có tham vọng viết sử, tiểu luận này chỉ nhằm nhắc lại những biến cố, những hậu quả của việc chia đôi đất nuớc hầu đáp ứng phần nào nhu cầu t́m hiểu về một quá khứ gây nhiều ẩn ức của các thế hệ trẻ ngày nay. Tiến bộ khoa học cộng với thời gian đủ dài để ta có thể phóng tầm nh́n t́m về hoàn cảnh Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai, về cuộc Chiến Tranh Đông Dương (1946-1954) với trận đánh Điện Biên Phủ, về Hội Nghị Genève và bản Hiệp Định đ́nh chiến ngày 20/07/1954, về cuộc Di Cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc vào Nam, về những vết thương hằn sâu trên da thịt dân tộc Việt Nam gây ra bởi gịng sông Bến Hải…


 

Việt Nam sau Đệ nhị thế chiến


 

Thực dân Pháp đă có mưu đồ xâm lược nước ta từ cuối thế kỷ thứ 18 khi Gia Long đưa Hoàng Tử Cảnh sang Pháp làm con tin để cầu viện giúp ḿnh đánh nhà Tây Sơn. Mưu đồ này đă được thực hiện bằng đường lối ngoại giao và nhất là quân sự. Chúng sử dụng chiến thuyền bắn phá cửa biển Đà Nẵng (1847), chiếm hết 6 tỉnh Nam Kỳ (1859-1867) rồi đánh ra miền Bắc. Ḥa ước năm Giáp Thân (1884) hay c̣n gọi là ḥa ước Patenôtre đă biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp. Từ đó, Pháp đă coi Việt Nam, gồm cả 3 kỳ và hai nước láng giềng là Ai Lao và Cao Miên là Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française). Nước ta hoàn toàn mất độc lập chủ quyền. Triều đ́nh chỉ làm v́, mọi việc hành chánh, kinh tế, ngoại giao đều do người Pháp làm chủ.

Từ khi thực dân Pháp khởi sự đánh chiếm nước ta và suốt trong thời kỳ đất nước mất vào tay người Pháp, nhân dân ta luôn luôn t́m cách khởi nghĩa kháng Pháp. Từ vua quan trong triều đến dân dă khắp nơi, những anh hùng dân tộc như Vua Duy Tân, vua Thành Thái, như Trương Công Định, Phan Đ́nh Phùng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Hoa Thám, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều vv… đă tổ chức những cuộc khởi nghĩa vơ trang đánh đuổi thực dân. Những nhà ái quốc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học và bao nhiêu người khác đă nổi lên đấu tranh giành độc lập. T́nh thế chỉ tạm yên vào khoảng năm 1935.

Từ năm 1933, t́nh h́nh thế giới sau Đệ nhất thế chiến (1914-1918), hai cường quốc Âu Châu là Pháp và Anh tỏ vẻ mệt mỏi, nhất là Pháp c̣n lúng túng về chính trị trong các công cuộc xây dựng lại. Lúc đó, Hitler (Đức), Mussolini (Ư) và Nhật Bản đă kư thỏa ước 3 bên (25/11/1933) lập thành lực lượng “Trục”. Bắt chước Hitler vẫn coi Áo và Ba Lan thuộc Đức, Mussolini coi Ethiopia và Libya thuộc Ư, quân đội Nhật đă tiến chiếm Măn Châu vào ngày 7/7/1937.

Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nh́ đă chính thức bắt đầu vào ngày 1/9/1939 tại Âu Châu. Từ Tiệp Khắc, quân đội Đức Quốc Xă của Hitler đă xua quân vào Ba Lan trước hết rồi đồng loạt tấn công các nước các nước trên chiến trường phía Đông nước Đức. Đến năm 1940, Hitler mở mặt trận phía tây. Quân đội Đức nhảy dù xuống Ḥa Lan và Bỉ (10/05/1940), đồng thời dội bom xuống các thành phố phía Bắc nước Pháp giáp giới với Bỉ. Sau 18 ngày đêm cầm cự, vua Léopold của Bỉ đă phải đầu hàng vào ngày 28/05/40. Thanh toán được Bỉ, quân Đức tiến xuống phía Nam và đánh vào nước Pháp. Paris bị dội bom. Trong lúc Mussolini tuyên chiến với Pháp. Pháp bị lưỡng đầu thọ địch. Chính phủ Pháp lúc đó do thống tướng Pétain cầm đầu đă tuyên bố ngưng bắn vào lúc nửa đêm ngày 17/06/40. Nước Pháp đă lọt vào tay của Đức. Chính phủ Pétain rút về đóng tại Vichy và có chính sách cộng tác với kẻ xâm lược. De Gaulle bay sang Anh và hô hào kháng chiến, kêu gọi người Pháp vượt biển qua Anh gia nhập “Lực Lượng Pháp Tự Do”, chiến đấu bên cạnh quân đội Đồng Minh.

Tại Đông Dương, chính quyền bảo hộ nh́n thấy thế lực của Nhật đang tiến đánh Trung Hoa (1937), nên đă phục ṭng chính phủ Vichy ở mẫu quốc. Với đường lối này, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương trở nên đồng minh của lực lượng “Trục”. Sau khi tiến chiếm Hà Nội vào năm 1939 và sau khi Pháp đầu hàng Đức, quân đội Nhật vẫn để chính quyền thực dân tiếp tục cai trị và phải có nghĩa vụ hậu cần cho quân đội Thiên Hoàng. T́nh trạng này tiếp tục cho đến năm 1945.

Sau khi quân đội Đồng Minh đổ bộ lên bờ biển Normandie và giải phóng nước Pháp, chính phủ Vichy bị lật đổ và bị bắt, De Gaulle lên nắm chính quyền. Chính quyền thực dân tại Đông Dương quay lại thần phục De Gaulle và v́ vậy đă ở thế thù nghịch với quân đội Nhật đang bị thua trận trên chiến trương Thái B́nh Dương. Ngày 9/3/45 người Nhật trao tối hậu thư cho toàn quyền Pháp, Decoux, yêu cầu đặt toàn bộ quân đội Pháp tại Đông Dương dưới quyền chỉ huy và điều động của Nhật. Decoux từ chối và đă bị bắt ngay, không kịp ra lệnh cho lực lượng Pháp dưới quyền. Quân đội Nhật bất thần tấn công các doanh trại và cơ sở của chính quyền thuộc địa. Chỉ trong một đêm họ đă thanh toán xong toàn bộ cứ điểm của Pháp, bắt giam tất cả các quan chức Pháp. Sử gia Phan Khoang đă viết : “Sáng ngày 10/3/45 cờ Nhật phất phới từ Nam Quan đến Cà Mâu. Ngày ấy Đại Sứ Yokohama yết kiến vua Bảo Đại ở Điện Kiến Trung, tuyên bố trao trả độc lập cho nước Việt Nam”. Bảo Đại, sau đó đă tuyên bố hủy bỏ tất cả những hiệp ước kư kết với Pháp trước đó và mời nhà trí thức Trần Trọng Kim ra thành lập chính phủ. Tuy “thoát khỏi” ách nô lệ của Pháp, nhưng chính phủ này vẫn phải đi theo đường lối thân Nhật và quân đội Nhật vẫn chiếm đóng trên đất nước ta.

Sự cai trị của Pháp coi như bị gián đoạn. Trong lúc đó đảng Cộng Sản Đông Dương và các đảng phái quốc gia hoạt động ráo riết để giành độc lập. Mặt Trận Việt Minh do cộng sản thành lập đă chiếm ưu thế nên khi Nhật đầu hàng vào tháng 8/45, trong khoảng trống chính trị lúc đó, họ đă huy động được quần chúng Việt Nam nổi lên cướp chính quyền ngày 19/8/45. Hồ Chí Minh đă đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/45 tại Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Trong buổi lễ Hồ Chí Minh đă tuyên đọc mấy lời thề mà lời thề đầu là “Cương quyết không thương thuyết với Pháp”. Tuy nhiên, t́nh thế phức tạp lúc đó ở nước ta với sự hiện diện của quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch tới tước khí giới quân đội Nhật đă gây bất ổn cho Hồ Chí Minh và đảng cộng sản. Việt Minh rất mong quân đội Trung Hoa sớm rút khỏi Việt Nam. Đồng thời, tham vọng lấy lại thuộc địa của thực dân Pháp cũng khiến họ thương thuyết với Trung Hoa để quân đội của họ có thể thay thế quân đội Trung Hoa ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đă thà phản bội lời thề, thương thuyết với Pháp c̣n hơn bị hại bởi Quốc Dân Đảng Trung Hoa và Việt Nam. V́ thế ông ta đă kư với Sainteny Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946 chấp nhận Việt Nam là một nước tự do trong Liên Hiệp Pháp và để quân đội Pháp tiến vào miền Bắc. Tướng Leclerc của Pháp đă dẫn đoàn quân hơn 10.000 bộ binh và trên 100 chiến xa đổ bộ tại Hải Pḥng. Cũng nên nhắc là theo tinh thần Hiệp Định Sơ Bộ 6/3/46 quân đội Pháp với 15.000 quân hợp tác với 10.000 quân Việt Nam (Việt Minh) để giữ an ninh trên lănh thổ miền Bắc. Việt Minh có sự cam kết của Pháp là sẽ không can thiệp vào những vụ xung đột giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia, nên đă rảnh tay tấn công vào trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) tại Hà Nội và các chiến khu của VNQDĐ tại các tỉnh ở miền Bắc.

Nhưng ư đồ giành lại thuộc địa của Pháp rất là mạnh mẽ trong giới cầm quyền ở Pháp, đặc biệt là De Gaulle. Quân đội Pháp đă mang quân tiến chiếm tất cả những công thự và cơ quan của Pháp trước kia. Thái độ khiêu khích ngày càng gia tăng và cuộc chiến đă bùng nổ ở nhiều thành phố, đặc biệt là Hải Pḥng, Bắc Ninh. Ngày 19/12/1946, Hồ Chí Minh đă kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Những năm đầu, Việt Minh rất yếu thế : vừa đánh vừa xây dựng lực lượng. Chiến thuật họ thường dùng là chiến tranh du kích mà họ học được của Mao Trạch Đông với phương châm “tứ khoái, nhất măn”. Về chiến lược, họ chủ trương trường kỳ kháng chiến, tiêu hao địch. Hậu cần họ lấy tại chỗ, trong nhân dân. V́ vậy quân đội viễn chinh của Pháp phải ngày đêm đi càn quét, đi lùng địch mà không phát hiện. Về vũ khí, Việt Minh chủ yếu chỉ có súng nhẹ. Vũ khí cộng đồng thường là đại liên, trung liên, súng cối 60 ly, súng cối 81 ly. Chủ yếu, lúc đầu là những vũ khí cũ của Pháp, Mỹ, Anh, Nhật để lại sau Đệ Nhị Thế Chiến. Nhiều nơi c̣n dùng gậy gộc, giáo mác, tầm vông vạc nhọn. Họ có lập ra một vài “công binh xưởng” để chế tạo lựu đạn nội hóa, bom ba càng và một số ḿn bẫy. Từ năm 1950, tức là sau khi Mao Trạch Đông chiếm được toàn bộ Trung Quốc, hỏa lực và quân số của Việt Minh mới phát triển. Họ đă thành lập được những đơn vị cấp trung đoàn rồi “đại đoàn” (tương đương sư đoàn hiện nay). Súng ống họ đă có pḥng không, đại bác không dật (DKZ) và pháo binh gồm 105 và sơn pháo 75 ly. Vũ khí và quân trang, quân dụng đă do đàn anh Trung Cộng tiếp tế qua biên giới phí bắc. Những năm cuối của trận đánh, Việt Minh đă phản công và quân chính quy chấp nhận trận địa chiến với Pháp, trong lúc, quân địa phương và dân quân, tự vệ của họ tiếp tục đánh du kích. Kết quả là hệ thống đồn bót của quân đội Pháp bị cô lập.

Nhận thấy tự ḿnh tiến hành một cuộc chiến tranh vũ trang không kham nổi, Pháp đă phải nhờ tới ông Bảo Đại. Họ cam kết công nhận nền độc lập của Việt Nam không cộng sản do Bảo Đại làm quốc trưởng của “Quốc Gia Việt Nam”. Những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, những người từng là nạn nhân của cộng sản vô thần đă lần lượt quy thuận Quốc Gia Việt Nam. Quân Đội Việt Nam được h́nh thành và chiến đấu bên cạnh quân đội Pháp.

Cuộc chiến kéo dài đến tháng 7/1954. Sự tính toán chủ quan, sai lầm của tướng lănh Pháp đă dẫn đến việc dồn quân vào thung lũng Điện Biên Phủ, xa mọi hậu cứ tiếp vận, tạo cơ hội cho Việt Minh tổ chức trận địa tiến hành một trận đánh lớn dẫn đến sự thất thủ của tập đoàn căn cứ Điện Biên Phủ, quân Pháp đầu hàng lúc17 giờ 30 chiều ngày 5/5/1954. Hội nghị Genève về Việt Nam khai mạc ngay ngày hôm sau khi Điện Biên Phủ thất thủ.


 

Hội nghị và Hiệp định Genève


 

Trong suốt gần 9 năm chiến tranh Đông Dương, t́nh h́nh chính trị ở nước Pháp rất rối ren. Năm 1946 nền Đệ Tứ Cộng Ḥa Pháp ra đời với tổng thống Vincent Auriol. Dưới nhiệm kỳ của ông, vừa phải lo chỉnh đốn nền chính trị, hành chánh, kinh tế, xây dựng lại nước Pháp sau chiến tranh, vừa tiến hành một cuộc chiến tranh thu hồi thuộc địa ở Đông Dương cách mẫu quốc hàng chục ngàn cây số. Chính khách Pháp lo tranh giành địa vị. Chỉ trong 9 năm đó đă có 2 đời tổng thống và 17 lần thay đổi chính phủ. Có nhiều chính phủ lên chưa được mấy ngày đă bị lật đổ… Nắm được yếu tố này nên Hồ Chí Minh với sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Cộng đă nắm chắc phần thắng trong tay. Nói cách khác, đây là một trong những yếu tố khiến Pháp bại trận thê thảm ở Đông Dương. Thật sự, người ta đă bỏ rơi những người lính của Pháp đang thi hành nhiệm vụ trên chiến trường Đông Dương.

Trong lúc Điện Biên Phủ thất thủ th́ cũng là lúc chính phủ Laniel sụp đổ và người lên thay thế vào ngày 17/6/54 là Mendès France. Ông có một lời hứa “Nếu trong 4 tuần lễ, vào ngày 20/7 tới đây, tôi không đạt được một cuộc ngưng bắn tại Đông Dương, tôi sẽ từ chức”. Thực t́nh, nếu ông không thành công mà có từ chức th́ cũng như 16 ông “chủ tịch hội đồng bộ trưởng” (thủ tướng) tiền nhiệm của ông thôi. Nhưng ư chí quyết liệt thực hiện lời hứa của ông bằng bất cứ giá nào kể cả hy sinh số phận hàng triệu con người th́ ngoại trừ đảng viên cộng sản hay xă hội, khó ai làm nổi. Ông thuộc đảng Xă Hội Pháp.

Sau Đệ nhị thế chiến, thế giới, đặc biệt là Á Châu đă là sân khấu của một cuộc chiến tranh khác. Đó là cuộc chiến tranh ư thức hệ giữa chủ nghĩa cộng sản bành trướng do Liên Xô và Trung Cộng thống lănh và khối các nước dân chủ Tây Phương, đứng đầu là Hoa Kỳ. H́nh thức cuộc chiến tranh lạnh là “chiến tranh ủy nhiệm”. Các cường quốc lănh đạo không trực tiếp đụng độ với nhau, nhưng khơi mào, nuôi dưỡng các cuộc chiến tranh ở những quốc gia nhỏ bé. Cuộc chiến tranh mà cộng sản gọi là “chiến tranh giải phóng” trên chủ trương, phong trào “giải phóng dân tộc” thực chất là chiến tranh bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Cuộc chiến tranh tại Việt Nam bùng nổ từ cuối năm 1946 và cuộc chiến tranh Triều Tiên khởi sự vào ngày 25/6/1950. Cả 2 cuộc chiến đều khốc liệt, đều là gánh nặng cho các quốc gia tham chiến. Nhưng thực sự th́ khối “thế giới tự do” sốt ruột nhiều hơn với cuộc chiến tranh Triều Tiên v́ có nhiều quốc gia Tây Phương tham dự. Sức ép nội bộ của từng quốc gia khiến họ cần phải có một cuộc đàm phán để chấm dứt sự tham chiến của họ. Họ cũng chẳng tha thiết ǵ đến vấn đề chiến tranh Đông Dương v́ chỉ có Pháp liên quan và v́ thế Pháp đă t́m đủ cách để đưa vấn đề Việt Nam vào cuộc đàm phán mà họ rất cần. Họ thực sự hết lực theo đuổi và muốn rút ra trong danh dự. V́ thế trong Hội Nghị tứ cường (Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô) ngày 25/1/1954 tại Bá Linh, Pháp đă t́m mọi cách thuyết phục các nước kia đưa vào nghị tŕnh vấn đề “chấm dứt chiến tranh, tái lập ḥa b́nh tại Đông Dương”.

Hội Nghị Genève khai mạc vào ngày 26/4/1954 với sự tham dự của đại biểu 19 quốc gia để bàn về chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương. Một ngày bàn về Triều Tiên, một ngày bàn về Việt Nam. Có các phái đoàn cường quốc đứng đầu 2 phe : Phe cộng sản có Liên Xô do Molotov làm trưởng đoàn, Trung Cộng do Chu Ân Lai hướng dẫn. Phe thế giới tự do có Hoa Kỳ với ngoại trưởng John Foster Dulles, Anh Quốc với Anthony Eden và Pháp với Georges Bidault. Các nước liên hệ có phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Việt Minh, Lào, Cao Miên, Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên. Sau đây, chỉ nói về các cuộc đàm phán về vấn đề Việt Nam mà thôi.

Hội nghị Genève về Việt Nam chính thức được đẩy mạnh ngay sau khi Điện Biên Phủ thất thủ và đă khai mạc vào ngày 8/5/1954.

Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam gồm có các ông : Nguyễn Quốc Định, ngoại trưởng (chính phủ Bửu Lộc) là trưởng đoàn, Nguyễn Khắc Khê, Trần Văn Tuyên, Trương Văn Ch́nh, Bửu Kính, Đoàn Thuận. Đến ngày 10/5, phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh được cử làm trưởng đoàn và tăng cường thêm ông Nguyễn Duy Thanh.

Phái đoàn Việt Minh có Phạm Văn Đồng là trưởng đoàn và các ông Phan Anh, Trần Công Tường, Hoàng Văn Hoan, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Thanh Hà, Hà Văn Lâu, Nguyễn Thanh Sơn, Đặng Tính, Trần Lâm, Hoàng Nguyên, Trần Thanh, Lê Văn Chánh.

Phái đoàn Pháp có ngoại trưởng Bidault. Phái đoàn Anh, có ngoại trưởng Eden. Phái đoàn Mỹ có thứ trưởng ngoại giao Bedell Smith. Phái đoàn Liên Xô có Molotov. Phái đoàn Trung Cộng có Chu Ân Lai. Phái đoàn Lào có Phumi Sananikone. Phái đoàn Cao Miên có Tep Than.

Lúc đầu, nghị tŕnh họp cách ngày và họp công khai, có báo chí tham dự. Mỗi bên lên đọc quan điểm của ḿnh. Sau 4 phiên họp như vậy, tại phiên họp ngày 14/5, Molotov đă thông báo kể từ kỳ họp tới là ngày 17/5 các phiên họp sẽ không công khai và được thu hẹp lại : mỗi phe chỉ có 3 đại biểu. Tại phiên họp ngày 26/5, Pháp và Việt Minh thỏa thuận về ngưng bắn và rút quân về các khu vực ấn định. Việt Minh đề nghị chia đôi lănh thổ Việt Nam, Pháp rút về phía Nam, Việt Minh rút về phía Bắc. Hội nghị cũng lập ra một tiểu ban quân sự để bàn cụ thể về ngưng bắn và rút quân.

Phía Việt Minh có Tạ Quang Bửu thứ trưởng quốc pḥng, Đại tá Hà Văn Lâu và Hoàng Nguyên, thông dịch viên.

Phía Pháp Việt có Tướng Delteil, Đại tá Brébisson…, Đại tá Lê Văn Kim, LS. Trần Văn Tuyên, Đại tá Trần Văn Minh và LS. Bửu Kính. Phiên họp đầu tiên của tiểu ban này diễn ra ngày 2/6. Trên địa thế, đă có những cuộc gặp gỡ, đàm phán về quân sự giữa hai phái đoàn quân sự Việt Minh và Pháp Việt tại Trung Giá.

Trong suốt tiến tŕnh Hội Nghị, Việt Minh luôn đ̣i chia đôi lănh thổ. Thoạt đầu, với chiến thắng Điện Biên, họ đ̣i chia đôi ở vĩ tuyến 13. Phía Pháp đ̣i vĩ tuyến 18. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam từ đầu luôn chống lại biện pháp chia đôi đất nước. Dưới sức ép của Liên Xô và Trung Cộng, Việt Minh từ bỏ đ̣i hỏi vĩ tuyến 13 và chấp thuận vĩ tuyến 17. Trưởng phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, ông Nguyễn Quốc Định đă tuyên bố ngay : “Tôi để cho phái đoàn Việt Minh trách nhiệm đối với lịch sử… Chia đôi, nghĩa là sớm muộn cũng lại có chiến tranh”.

Trong lúc đang diễn ra Hội Nghị Genève th́ tại Việt Nam, Bảo Đại đă mời Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng. Ngày 7/7/54, ông Diệm thành lập chính phủ và BS. Trần Văn Đỗ làm Bộ Trưởng ngoại giao thay thế Nguyễn Quốc Định. Ông cũng thay ông Định làm trưởng phái đoàn Việt Nam tại Genève. Ông Đỗ khi biết Việt Nam sẽ bị chia đôi, đă đứng lên phản đối, giọng nghẹn ngào v́ xúc động trong bầu không khí im phăng phắc của cả Hội Nghị. Biến cố này được nhà báo Pháp Jean Lacouture và LS. Trần Văn Tuyên viết lại.


 

Nội dung hiệp định Genève về Việt Nam


 

Hiệp Định Genève về Việt Nam đă được chính thức kư kết vào lúc 3 giờ 50 phút sáng ngày 21/7/1954. Nhưng trên tường, theo đề nghị của Mendès France, đồng hồ vẫn chỉ 12 giờ khuya ngày 20/7 để hắn có thể giữ được lời hứa. Một sự gian lận lịch sử. Một mối nhục cho nước Pháp ngay trong một Hội Nghị quốc tế, tại một quốc gia ngoài lănh thổ Pháp.

Nội dung Hiệp Định có 47 điều và một phụ lục và được tóm tắt như sau :

Lệnh ngưng bắn có hiệu lực từ ngày 22/7/54 vào lúc 0 giờ, giờ Genève, tức 7 giờ sáng giờ Sài G̣n. Tuy nhiên thời điểm ngưng bắn cụ thể được ấn định tại Bắc Việt lúc 8 giờ sáng ngày 27/7; tại Trung Việt lúc 8 giờ sáng ngày 1/8; và tại Nam Việt lúc 8 giờ sáng ngày 11/8.

Lằn ranh giới tuyến chia đôi Việt Nam là vĩ tuyến thứ 17 Bắc. Cụ thể trên địa thế là từ cửa sông Bến Hải, theo gịng sông đến làng Bồ Hô Su và biên giới Việt-Lào. Hai bên bờ sông, một vùng phi quân sự rộng 5 km là trái độn giữa 2 vùng. Theo Hiệp Định, lằn ranh này chỉ tạm thời và sẽ có cuộc tổng tuyển cử để thống nhất 2 miền vào tháng 7/1956 (thời điểm này chính Pháp đă đơn điệu ấn định không có sự đồng ư của Quốc Gia Việt Nam). Trong thời gian chờ tổng tuyển cử, mỗi bên có quyền quản trị hành chánh ở khu vực của ḿnh.

Cấm phá hủy cơ sở trước khi rút quân; cấm trả thù hoặc ngược đăi những người đă cộng tác với đối phương khi trước; cấm đưa thêm quân đội, vũ khí hoặc lập căn cứ quân sự ở vùng đối phương. Việc giám sát đ́nh chiến được giao cho một Ủy Hội quốc tế gồm Gia Nă Đại, Ba Lan và Ấn Độ. Lúc đầu Việt Minh từ chối và đ̣i chỉ có Việt Minh và Pháp mà thôi.

Trong ṿng 300 ngày dân chúng 2 miền có quyền di chuyển từ vùng này sang vùng khác không bị hạn chế, không bị ngăn cản.

Việt Minh và các trưởng đoàn đại biểu đă kư vào bản Hiệp Định và bản thông cáo chung ngoại trừ phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không kư. Phái đoàn Hoa Kỳ cũng không kư.

Cuộc di cư vĩ đại

Tin tức về việc chia đôi đất nước đă là một cú ỀsốcỂ mạnh đối với dân Hà Nội nói riêng và dân chúng toàn miền Bắc nói chung. Thực ra, đối với đồng bào miền Nam và đồng bào cả nuớc chia đôi đất nước là một mối đau của dân tộc. Xưa kia Trịnh Nguyễn phân tranh, lấy sông Gianh làm biên giới đă khiến cho người đời nguyền rủa cho đến ngày nay. Phái đoàn Quốc Gia, ngay sáng ngày 21/7 đă ra một bản tuyên ngôn mang chữ kư của Trưởng phái đoàn, Bs. Trần Văn Đỗ : “long trọng phản đối việc kư kết hấp tấp thỏa hiệp ngưng chiến do hai cơ quan Tư Lệnh Tối Cao Pháp và Việt Minh mà thôi” và “yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách kư kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của nhân dân Việt Nam”.


 

dicu1954_2

Đối với một số dân chúng miền Bắc, không có chuyện ở lại với Việt Minh v́ họ đă chống Việt Minh cộng sản hoặc đă làm việc trong bộ máy hành chính của quốc gia tại Hà Nội và các tỉnh lớn. Chính sách trả thù và những h́nh ảnh đấu tố dă man trong cải cách ruộng đất của Việt Minh đă làm cho họ lo sợ thêm. Bỏ lại tất cả sản nghiệp để di cư vào Nam, dù là chỉ trong vài năm đă là điều trước đây không bao giờ họ nghĩ tới. Nhưng, do Hiệp Định kư kết bởi thực dân và Việt Minh cộng sản, hôm nay, họ chỉ c̣n 300 ngày để quyết định, để chuẩn bị, để gom góp của cải và bỏ xứ lên đường vào Nam ! Dư luận rất xôn xao. Những người thức thời đă nhanh chân lên đường ngay những tháng sau đó.

Nh́n thấy xu hướng có hàng triệu người sẽ bỏ miền Bắc vào Nam, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă phải có đối sách khẩn cấp bằng cách ban hành Nghị Định số 111.TTP/VP, thành lập một Tổng Ủy Di Cư. Cơ quan này đầu tiên được giao cho bộ trưởng Nguyễn Văn Thoại làm tổng ủy trưởng và ông Đinh Quang Chiêu làm phụ tá. Ngày 21/8 ông Ngô Ngọc Đối được cử thay thế ông Nguyễn Văn Thoại và đến ngày 4/12 Bs thú y Phạm Văn Huyến được cử thay thế ông Ngô Ngọc Đối.vn54_03

Cầu không vận do không quân Pháp thiết lập từ ngày 10/8/54 với mỗi ngày khoảng 70 chiếc vận tải cơ Dakota để chuyển vận đồng bào di cư vào Nam. Tại Tân Sơn Nhất, Bộ Xă Hội đón tiếp đồng bào và di chuyển về các trại định cư. Mỗi ngày, vài ngàn đồng bào ở các tỉnh miền Bắc kéo nhau về Hà Nội để được chuyển vận vào Nam. Một số rất đông đă được di chuyển xuống Hải Pḥng để được các chiến hạm của Pháp chở bằng đường biển. Với nhịp độ như vậy, trong 10 tháng ngắn ngủi (300 ngày) đă có trên 860.000 người miền Bắc bỏ xứ di cư vào Nam. Những đồng bào di cư gồm những thành phần nào ? Họ gồm các công chức, một số các nhà trí thức đi theo trường ḿnh dạy, thành viên các đảng phái quốc gia, các nhà tư bản, doanh thương và đại đa số đồng bào Công Giáo. Trên con số 860.000 đồng bào di cư th́ có đến 650.000 người Công Giáo. Trước Hiệp Định, miền Bắc có gần 1,1 triệu người Công Giáo, nay chỉ c̣n lại 300.000 người. Hàng giáo phẩm đă có 1.127 vị theo tín đồ di cư, c̣n lại khoảng 300 người gồm những vị già cả, bệnh tật, không đi nổi. Con số đồng bào di cư c̣n có thể cao hơn nữa nếu c̣n thời gian và nếu Việt Minh không ra sức ngăn cản. Nhiều người ở xa Hà Nội và Hải Pḥng đă không thể đi được. Việt Minh đă đàn áp dă man những người hô hào, tổ chức đưa đồng bào di cư. Nhiều người đă bị bắt, bị thủ tiêu. Nhất là những đồng bào ở vùng Nghệ Tĩnh (Quỳnh Lưu). Sau khi hết hạn 300 ngày, nhiều người c̣n tiếp tục vượt biên bằng thuyền bè và đă bị Việt Minh cho thuyền vơ trang đuổi theo bắn bỏ. Một số người t́m cách vượt sông Bến Hải cũng bị chúng dùng tên độc bắn trong lúc đang bơi chưa tới bờ phía Nam. Họ dùng tên độc v́ trong vùng phi quân sự không được nổ súng. Chưa có ai nghiên cứu để làm bản thống kê những người chết trên đường đi t́m tự do hồi năm 1954.

hiep_dinh_geneve_2

Đồng bào đă được tạm định cư trong các trại xung quanh Sài G̣n trước khi được đưa đi định cư vĩnh viễn ở các vùng Biên Ḥa, Bà Rịa, Vũng Tàu, Ban Mê Thuột, Diling, Blao, Liêng Khàng, Long Khánh, Nha Trang, Cam Ranh, vv… Riêng trên vùng Cao Nguyên Miền Trung, có khoảng 300.000 đồng bào đă được định cư. Sau một thời gian đầu khó khăn, nhưng được sự giúp đỡ tận t́nh của chính phủ và của quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, đồng bào di cư đă ổn định được cuộc sống, làm ăn ngày càng phát đạt tạo thêm phong phú cho nền kinh tế cũng như văn hóa, giáo dục tại miền Nam.

Bức màn tre đă buông xuống. Rất ít tin tức về miền Bắc lọt ra ngoài. Nhưng chắc chắn dân chúng sẽ đói khổ và mất hết quyền tự do căn bản dưới chế độ độc tài cộng sản. Một tài liệu về Nhân Quyền của một cơ quan mang tên MISSIO thuộc Giáo Hội Công Giáo Đức đă làm một cuộc khảo sát về Giáo Hội Miền Bắc và Miền Nam sau Hiệp Định Genève đă ghi những số liệu sau đây : Vào năm 1953, tại miền Nam có 3 trường trung học tư thục Công Giáo. Đến năm 1969 có 226 trường đón nhận 82.927 học sinh Công Giáo và 70.101 học sinh ngoài Công Giáo. Các trường tiểu học tư thục Công Giáo gia tăng, phát triển lên đến con số 1.030 trường vào năm 1969. Mọi giới, mọi ngành trong miền Nam đă phát triển mạnh mẽ.

Quốc hận phân chia đất nước

Cộng sản Việt Nam (CSVN) thường khoe khoang có công giành độc lập cho dân tộc và thống nhất đất nước. Họ dùng hai công trạng này để bắt người dân mang ơn đảng CSVN và biện minh cho sự độc tôn độc tài trên chính quyền tại Việt Nam. Các thế hệ sau có thể không rơ và có thể tin vào luận điệu tuyên truyền này của họ. Phải biết là chính CSVN đă chủ trương và đă đề nghị với quốc tế chia đôi đất nước tại Hội Nghị Genève năm 1954. Họ và thực dân Pháp đă đặt bút kư văn bản quốc sỉ này. Trước đó, CSVN kư kết Hiệp Định Sơ Bộ với Pháp để quân đội Pháp được trở lại miền Bắc. Hồ Chí Minh với tư cách chủ tịch một nước đă đang đêm (2 giờ sáng đêm 13 rạng 14/9/46) gơ cửa Bộ Trưởng thuộc địa Marius Moutet để kư cho bằng được bản “thỏa hiệp quan hệ” (modus vivendi) là một bằng chứng cộng sản không tôn trọng danh dự, quốc thể và độc lập của Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam không thể tha thứ cho CSVN về cái tội chia cắt đất nước. Năm 1954, họ đă cắt một nửa giang sơn dâng cho thực dân Pháp. Hành động này không khác ǵ trong những năm gần đây, họ cắt đất, cắt biển dâng cho Trung Cộng.

Đúng như trưởng phái đoàn Quốc Gia tham dự hội nghị : “Chấm dứt một cuộc chiến tranh bằng biện pháp chia đôi lănh thổ sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh khác…”.

Quả vậy, CSVN đă phản bội chữ kư của chính họ mang quân tấn công miền Nam gây ra cuộc chiến tranh Việt Nam với bao tang tóc thê lương. Lịch sử sẽ phán xét tội phản dân hại nước của CSVN.


 

Trần Đức Tường


 

  


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Gịng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA ֎ Lam vs Ngo

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: