MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Bài Viết Của Kim Âu ֎ Đại Kỷ Nguyên
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018
֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018
֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Đà Lạt ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Diễn Đàn ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookings
vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran
vOpen Culture vSyndicate vCapital Research
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền
vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn
vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng
vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân
vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong
vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCS
vĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng.TDũng v Ba Sàm
vVăn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
Nam Quan
Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị
Quan lâu Hữu Nghị Quan
Hữu Nghị Quan (Trung văn giản thể: 友谊关; Trung văn phồn thể: 友誼關; phanh âm: Yǒuyǐ Guān), tên cũ là Ải Nam Quan (nghĩa là Cửa ải nh́n về phương Nam), là một cửa khẩu biên giới của Trung Quốc trên biên giới Trung Quốc - Việt Nam, nằm ở thôn Ải Khẩu (隘口), trấn Hữu Nghị (友誼), thành phố Bằng Tường (憑祥), Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (廣西), cách Bằng Tường 15 kilômét về phía tây và cách Đồng Đăng 5 kilômét về phía bắc.
Mục lục
1 Tên gọi qua các thời kỳ lịch sử
2 Quan lâu
3 Các sự kiện lịch sử gắn với ải Nam Quan
4 Ải Nam Quan trong tư liệu
5 Ải Nam Quan trong văn nghệ
6 Xem thêm
7 Chú thích
8 Liên kết ngoài
Tên gọi qua các thời kỳ lịch sử
Khẩu ngạn Hữu Nghị Quan
Ải Nam Quan được xây dựng từ triều Hán, tên gọi ban đầu là 雍雞關 (tạm phiên âm Hán Việt là "Ung Kê Quan"). Chữ "雍" có ba âm đọc là "ung", "ủng" và "úng", do chưa có văn hiến cho biết ư nghĩa chính xác của tên gọi "雍雞" nên ở đây chỉ tạm đọc chữ "雍" là "Ung". Về sau Ủng Kê Quan được đổi tên thành Đại Nam Quan (大南關), Giới Thủ Quan (界首關).
Năm Hồng Vũ nguyên niên (洪武元年) triều Minh (Tây lịch năm 1368), đổi tên thành Kê Lăng Quan (雞陵關).
Tháng 6 năm Vĩnh Lạc (永樂) thứ 5 (Tây lịch: ngày 5 tháng 7 năm 1407) triều Minh, đổi tên thành Trấn Di Quan (鎮夷關).[1]
Trong khoảng thời gian từ năm Tuyên Đức (宣德) thứ 3 (Tây lịch năm 1428) đến năm Gia Tĩnh (嘉靖) thứ 18 triều Minh (Tây lịch năm 1539), chưa rơ cụ thể là năm nào, Trấn Di Quan được đổi tên thành Trấn Nam Quan (鎮南關).
Tháng 10 năm 1953 Chính vụ viện Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa phê chuẩn đổi tên thành Mục Nam Quan (睦南關).
Tháng 1 năm 1965 Quốc vụ viện Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa phê chuẩn đổi tên thành Hữu Nghị Quan (友誼關). Tháng 3 năm 1965, lễ đổi tên Mục Nam Quan thành Hữu Nghị Quan được tổ chức tại Mục Nam Quan, Chung Phong (鐘楓), phó chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tráng tộc Quảng Tây, chủ tŕ buổi lễ.
Quan lâu
Quan lâu (關樓) Hữu Nghị Quan được xây lại năm 1957 cao 22 mét, gồm một tầng đế và ba tầng gác có hành lang bao quanh. Tầng đế có diện tích 365,7 mét vuông, dài 23 mét, rộng 15,9 mét, độ cao b́nh quân là 10 mét. Mỗi tầng gác có diện tích b́nh quân là 80 mét vuông. Phía trên cổng ṿm của quan lâu có một bức đại tự làm bằng hán bạch ngọc (漢白玉) khắc ba chữ "友誼關" (Hữu Nghị Quan). Ba chữ này là do phỏ thủ tướng Quốc vụ viện kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị (陳毅) viết. Bên trái quan lâu là núi Tả Bật Sơn (左弼山), bên phải quan lâu là núi Hữu Phụ Sơn (右輔山). Trên núi Tả Bật Sơn có pháo đài Trấn Quan (鎮關). Trên núi Hữu Phụ Sơn pháo đài Kim Kê Sơn (金雞山).
Các sự kiện lịch sử gắn với ải Nam Quan
Năm 981, sau khi vua Đinh Tiên Hoàng của Đại Cồ Việt bị ám sát, vua nhà Tống là Tống Thái Tông sai Hầu Nhân Bảo tấn công Đại Cồ Việt qua đường Lạng Sơn, đi qua ải Nam Quan.
Năm 1077, Tống Thần Tông sai Quách Quỳ tấn công Đại Việt, quân bộ đă đi theo đường Nam Quan, xuống ải Quyết Lư rồi ải Chi Lăng.[2]
Năm 1284, 1287, vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (Kubilai) đă sai Thoát Hoan tấn công Đại Việt bằng đường bộ qua Lạng Sơn, ắt phải qua ải Nam Quan.
Năm 1427, tướng nhà Minh là Liễu Thăng bị giết tại đèo Mă Yên sau khi qua Trấn Di Quan.[3]
Năm 1539, sứ thần nhà Mạc là Nguyễn Văn Thái đến Trấn Nam Quan dâng biểu xin hàng nhà Minh.[4]
Năm 1774, Đốc trấn Lạng-Sơn là Nguyễn Trọng Đang cho tu bổ Ngưỡng Đức Đài, nằm về phía nam của Trấn Nam Quan.
Năm 1788, theo lời cầu viện của thân mẫu của Lê Duy Kỳ, vua nhà Thanh là Càn Long (1736-1795) cử Tôn Sĩ Nghị cầm đại quân sang Đại Việt, đi bằng ba ngả: Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh vào cửa Nam Quan, qua Lạng Sơn đi xuống, Sầm Nghi Đống đi qua đường Cao Bằng, và đề đốc Vân Nam Ô Đại Kinh vào đường Tuyên Quang. Đoàn quân viễn chinh nhà Thanh bị vua nhà Tây Sơn là Quang Trung đánh tan, phải chạy về vào đầu năm kỷ dậu (1789).
Năm 1885, xảy ra Trận Trấn Nam Quan và Lạng Sơn giữa quân Pháp và quân nhà Thanh (Trung Quốc). Vào ngày 24/2/1885, một ngày sau khi xảy ra trận chiến ở Đồng Đăng, Tướng de Négrier cho phá sập Ải Nam Quan vào lúc 2 giờ 30 chiều và cho dựng lên gần đó một tấm biển ghi bằng chữ Hán: “Không phải vách đá bảo vệ được biên giới, mà là sự tôn trọng các hiệp định”
26 tháng 6 năm 1887, Công Ước Về Hoạch Định Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc kư giữa Pháp và Nhà Thanh. Ngày 21 tháng 04 năm 1891 tiến hành cắm cột mốc tại vùng biên giới gần ải Nam quan.
Năm 1907, Tôn Trung Sơn và Hoàng Hưng phát động cuộc khởi nghĩa Trấn Nam Quan chống Thanh, nhưng thất bại.
Năm 1957, Chính phủ tỉnh Quảng Tây đă chi tiền trùng tu lại thành lầu Hữu Nghị quan, trở thành một kiến trúc ba tầng như hiện nay
Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979, trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979, Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa tung trên 660.000 quân tấn công Việt Nam ở sáu tỉnh biên giới: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, và đă chiếm được các thị xă Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn. Bộ binh Trung Hoa vào thị xă Lào Cai bằng thung lũng sông Hồng, vào thị xă Cao Bằng theo thung lũng sông Bằng (Bằng Giang), và vào thị xă Lạng Sơn theo thung lũng sông Kỳ Cùng, qua ải Nam Quan.
Năm 1999, ngày 30 tháng 12, tại Hà nội, hai ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm của Việt Nam và Đường Gia Triền của Trung Quốc chính thức kư ‘Hiệp ước biên giới trên đất liền’, theo đó phân định lănh thổ tại khu vực xung quanh Ải Nam Quan. Bản hiệp ước này được quốc hội Trung Quốc thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2000, và quốc hội Việt Nam thông qua ngày 9 tháng 6 cùng năm, và việc cắm mốc biên giới bắt đầu từ năm 2001 đến cuối năm 2008 là xong.[cần dẫn nguồn]
Ải Nam Quan trong tư liệu
Tâm Quang-Langlet trong bài "La perception des frontières dans l'Ancien Vietnam à travers quelques cartes vietnamiennes et occidentales" (tạm dịch: Quan niệm biên giới ở Việt Nam thời trước qua vài bàn đồ Việt Nam và Tây Phương) trong quyển "Les frontières du Vietnam, Histoire des frontières de la péninsule indochinoise" (Các biên giới của Việt Nam, Lịch sử các biên giới trên bán đảo Đông Dương), nhà xuất bản L'Harmattan, 1989, cho biết rằng trên bản đồ Hồng Đức (được thiết lập vào năm 1490) có vẽ h́nh một cái đồn để tượng trưng cho ải Nam Quan và có ghi chú là Ải Nam Quan nằm ở huyện Văn Uyên (thuộc trấn Lạng Sơn, tương ứng với Trấn Nam Quan của Trung Quốc) và tại đấy có hai đài, đài Chiêu Đức (thuộc về Trấn Nam Quan, Trung Quốc) và đài Ngưỡng Đức (thuộc về ải Nam Quan, Việt Nam).
Năm 1774, Đốc trấn Lạng-Sơn là Nguyễn Trọng Đang cho tu sửa, xây lại Ải Nam Quan bằng gạch. Về việc sửa sang đài Ngưỡng Đức, văn bia của Nguyễn Trọng Đang ghi khắc có đoạn như sau:
"... Đài "Ngưỡng-Đức" không biết dựng từ năm nào; h́nh như mới có từ khoảng niên hiệu Gia-Tĩnh nhà Minh, ngang với niên-hiệu Nguyên-Ḥa, đời vua Lê Trang Tông ở nước ta. Đài không có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ; sửa chữa qua loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê ta trung hưng, đời thứ 14, vua ta kỷ-nguyên thứ 41, là năm Canh tư, ngang với năm thứ 44 niên hiệu Càn-Long nhà Thanh; Đang tôi làm chức Đốc-trấn (Lạng-Sơn), trải qua 5 năm là năm Giáp-th́n; sửa chữa lại, xây dựng bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoành tráng...".
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan:
Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là "Đại Nam Quan", phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quăng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan", dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ "Trung ngoại nhất gia", dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có "Chiêu đức đài", đằng sau đài có "Đ́nh tham đường" (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía nam có "Ngưỡng đức đài" của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dăy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan th́ dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ."
Theo "Địa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ" của Ngô Vi-Liễn, Phạm Văn-Thư và Đỗ Đ́nh-Nghiêm (Nhà in Lê Văn-Tân xuất-bản, Hà-Nội, 1926):
"Cửa Nam-Quan ở ngay biên-giới Trung-quốc và Việt-Nam. Kể từ Hà-Nội lên đến tỉnh-lỵ Lạng-Sơn là 150 km; đến cây-số 152 là chợ Kỳ-Lừa; đến cây-số 158 là Tam-Lung; đến cây-số 162 là Đồng-Đăng; đến cây-số 167 là cửa Nam-Quan đi sang Long-Châu bên Tàu. Như vậy từ Đồng-Đăng lên cửa Nam-Quan có 5 km; từ Kỳ-Lừa lên Nam-Quan mất 15 km [về phía tây-nam chợ Kỳ-Lừa có động Tam-Thanh, trước động Tam-Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô-Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng-Sơn] và từ tỉnh-lỵ Lạng-Sơn lên Nam-Quan là 17 km."
Theo "Đi thăm Đất Nước" của Hoàng Đạo-Thúy (Nhà Xuất-bản Văn-hoá, Hà-Nội, 1976):
"Đồng-Đăng cách biên-giới Trung-quốc 4 km. Nơi đây có Hữu-Nghị Quan của Trung-quốc"
Quyển "Phương Đ́nh Dư địa chí" của Nguyễn Văn Siêu (bản dịch của Ngô Mạnh-Nghinh, Tự-Do xuất-bản, Saigon, 1960) th́ ghi:
"Cửa hay ải Nam-Quan, đời Hậu-Lê trở về trước gọi là cửa Pha-Lũy (hay Pha-Dữ), ở về phía bắc châu Văn-Uyên, trấn Lạng-Sơn. Từ châu Bằng-Tường (tỉnh Quảng-Tây) bên Trung-quốc muốn vào nước An-Nam phải qua cửa quan này".
Ải Nam Quan trong văn nghệ
Trường ca "Con đường cái quan" của nhạc sĩ Phạm Duy nói về một chuyến đi xuyên lănh thổ Việt, kết thúc ở mũi Cà Mau và bắt đầu từ ải Nam Quan. Mở đầu có đoạn:
"Tôi đi từ ải Nam Quan/ sau vài ngàn năm lẻ/ chia đôi một họ trăm con/ đă lên đường..."
Nhà thơ Hoàng Cầm có vở kịch "Hận Nam Quan" mô tả cảnh chia tay giữa Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trăi tại Ải Nam Quan, có đoạn:
"...Nghe cha nói tương lai đầy ánh sáng / Khiến ḷng con bừng tỉnh một cơn mê. / Quỳ lạy cha, cha lên đường ảm đạm, / Rời Nam Quan, theo gió con bay về. / Ôi! Sung sướng, trời cao chưa nỡ tắt, / Về ngay đi, ghi nhớ hận Nam Quan. / Bến Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt, / Cha nguyện cầu con lấy lại giang san..."
Xem thêm
Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị
Chiến tranh Pháp-Thanh
Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
Vấn đề lănh thổ biên giới Việt Nam - Trung Quốc
Chú thích
^ Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/1105, accessed July 13, 2016.
^ “10”. Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lư. Hà Nội: Nhà xuất bản. Hà Nội. Tháng 4 2003. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp); |đồng tác giả= cần |tác giả= (trợ giúp)
^ Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/398, accessed July 13, 2016.
^ Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/2740, accessed July 13, 2016.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thư viện h́nh ảnh và phương tiện truyền tải về Nam Quan
"Hiệp ước biên giới Việt - Trung công bằng cho cả hai bên"
Việt Nam và Trung Quốc đă thỏa thuận những nguyên tắc ǵ để xác định lại đường biên giới?
Biên giới Việt Nam - Trung quốc thay đổi sau các công ước Pháp Thanh, làm Việt Nam mất dần vùng đất Tụ Long
Mũi Bạch Long hay mũi Bạch Long Vĩ (Paklung) trên bản đồ 1888 bị cắt cho nhà Thanh
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.