MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018
֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018
֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZ
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookings
vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran
vOpen Culture vSyndicate vCapital Research
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền
vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn
vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng
vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân
vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong
vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCS
vĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng.TDũng v Ba Sàm
vVăn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
Sơ lược nguồn gốc dân tộc Việt
Theo nghiên cứu của Phạm Việt Châu và Đinh Việt Nhân, Bách Việt là tiếng của người Hán dùng để chỉ tập hợp các sắc dân chủng Việt (phần lớn cư ngụ tại miền Nam sông Dương Tử) mà người Hoa Hán gặp gỡ và tranh đấu khi họ bành trướng từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam. Lănh thổ của bộ tộc Bách Việt, theo huyền sử, là nước Xích Quỷ dưới quyền vua Kinh Dương, bắc giáp Hồ Nam, nam giáp Chiêm Thành, tây giáp Tứ Xuyên, đông giáp biển Đông.
Từ thuở hồng hoang cổ đại, trước khi định cư ở châu thổ sông Hồng, tổ tiên ta xuất hiện khi nào? Nơi đâu? Chi phái? Sinh sống? Tục lệ? Tính t́nh? Những vùng đất Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam đă thuộc Việt tộc? Tại sao vua Quang Trung đ̣i Lưỡng Quảng?
Để t́m hiểu nguồn gốc tộc Việt, nên dùng sử liệu xưa từ "Kinh Thư" của Khổng Tử và Sử Trung Hoa của Tư Mă Thiên do hai sử gia Việt Nam là Phạm Văn Sơn và Phan Khoang chuyển dịch. Sau đó đối chiếu với truyền thuyết 18 đời vua Hùng trong “Đại Việt Sử Kư” của Ngô sĩ Liên. Có lẽ khách quan nhất.(1)
Kinh Thư, bộ sử Trung Hoa cổ đại, một trong Ngũ Kinh của Khổng Tử, được ghi chép từ đời các vua Nghiêu, Thuấn đến cuối đời Tây Chu, từ năm 2500 đến 770 trước tây lịch.(2) Với nước ta là thời kỳ truyền thuyết 18 đời vua Hùng. Kinh Thư hầu hết viết sử Tàu, nhưng cũng có vài đoạn ngắn Khổng Tử tŕnh bày địa giới các bộ tộc không phải tộc Hán ở phía bắc và nam Trung Hoa (cổ). Ông cũng nhắc đến tính t́nh đời sống các bộ tộc đó. (Kể từ đây trước tây lịch, xin viết: TTL)
Giai đoạn 1: Từ 2500-770 TTL. Theo “Việt Sử Tân Biên" của Phạm Văn Sơn trích Kinh Thư (Trang 35, 36) Từ 2000 năm TTL và trước đó tộc Hán chỉ sinh sống, tạo thành nhiều nước chư hầu cho Tây Chu(3) quanh quẩn lưu vực sông Hoàng Hà. Phía bắc tộc Hán: rợ Xích Địch (tiền thân rợ Hung Nô), rợ Tây Nhung, Sơn Nhung (sau đó bị đồng hóa thành người Hán).
Phía nam sông Hoàng Hà: Từ lưu vực sông Hoài, sông Dương Tử đến phía nam núi Ngũ Lĩnh là các dân tộc Man Di(4) có tên: Giao Chỉ, Mân Việt, Tây Việt, Việt Thường. Về sau, thế kỷ thứ 2 TTL người Hán dùng chữ Giao Chỉ(5) để đặt tên nước ta bị họ đô hộ gồm: Lưỡng Quảng đảo Hải Nam và miền Bắc Việt Nam gọi là Giao Chỉ bộ (sẽ nói sau).
Để dễ t́m nguồn gốc hăy xem Man Di là danh từ riêng chỉ các tộc không phải tộc Hán ở phía nam sông Hoàng Hà. Dân Việt ngày nay là trực hệ hoặc gián hệ với các chi phái của Man Di, dân ta vừa qua thời du mục sống đời bộ lạc bán khai.(6) Họ ở nhà sàn giống người thượng thiểu số, phụ nữ mặc đồ kín từ cổ đến chân, đàn ông mặc váy đầu gắn lông chim, trước đó chỉ đóng khố. Nh́n họa tiết hoa văn trên mặt trống đồng ta biết các phục sức của người xưa.
Theo Nguyễn Hiến Lê trong "Lịch sử Văn Minh Thế giới" (trang 123): Tổ Tiên ta là nước Việt Thường, ở vùng đất giữa hồ Động Đ́nh và hồ Phiên Dương, nam ngạn sông Dương Tử(7) đă cống vua Chu Thành Vương thế kỷ 10 TTL (Tây Chu) chim trĩ. Những tộc Việt khác là anh em cùng gốc tộc Man Di.
Kinh Thư và cổ sử Tàu: Các tộc Man Di có 4 đặc điểm: xăm ḿnh, cắt tóc ngắn, khoanh tay, cài áo bên phải (Hán tộc cài áo ở giữa). Họ làm nghề chài lưới, săn bắn, sinh sống gần ao, hồ, sông, biển, ven rừng, thường xăm ḿnh h́nh con giao long, văn hóa "khác hẳn" Hán tộc. Đấy là những điểm mấu chốt cho các nhà khoa học t́m thấy nguồn gốc ta thêm độc đáo(8).
Cổ sử Hán viết: "Người Man Di có tính khinh bạc, hiếu chiến, sắc sảo việc binh, không sợ chết. Họ ở núi mà đi đường thủy, lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến như gió thoảng, đi khó đuổi theo. Họ giỏi thủy chiến, luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng của Hán tộc, ngoài ra tộc Man Di hoài vọng muốn phát triển về phương bắc" (Việt Sử Tân Biên trang 20, 42, 43, 75).
Ta thấy Tộc Hán có vẻ nể sợ tinh thần quật cường của Man Di. Có lẽ Hán đúng. Nhờ đi truyền, hậu duệ Man Di là dân Việt đă thắng các trận thủy chiến quan trọng về sau: 2 lần chiến thắng trên sông Bạch Đằng, Hàm Tử, Chương Dương, Vân Đồn, Vạn Kiếp...
Sử gia Việt Nam đối chiếu cổ thư này với địa lư th́ các giống Man Di lúc ấy (từ 2500-770 TTL ) sống ở những tỉnh Phúc Kiến, Hồ Bắc, Hồ Nam, Chiết Giang gần hồ Động Đ́nh có núi Ngũ Lĩnh (phía nam sông Dương Tử). Điều này giống với truyền thuyết dân gian "Con rồng cháu Tiên" và 18 đời vua Hùng. Trong Đại Việt Sử Kư của Ngô Sĩ Liên viết: Vua Đế Minh cháu 3 đời vua Thần Nông đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (tỉnh Hồ Nam) gặp nàng tiên, lấy nhau sinh ra Lộc Tục, Lộc Tục làm vua lấy hiệu Kinh Dương Vương(10) Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đ́nh Hồ là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra 1 bọc chứa 100 trứng, nở ra 100 con (Bách Việt); 50 theo cha lên núi; 50 theo mẹ xuống biển. Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm vua Hùng Vương thứ nhất. Vua Hùng đặt tên nước là Văn Lang, quốc hiệu đầu tiên của nước ta. Khoảng năm 2800 TTL .
Theo sử Tàu ghi: Từ 3-4 ngàn năm TTL, một giống dân làm "nghề nông trong sa mạc Gobi" từ tây bắc tràn xuống sông Hoàng Hà, thấy vùng đất ph́ nhiêu nhiều phù sa thích hợp nông nghiệp. Họ đánh đuổi dân địa phương giống Miêu tộc rồi chiếm cứ sinh sống trở thành người Hán. Từ đó sinh ra ông Bành Tổ, tổ tiên của người Tàu. Cũng từ đó có giả thiết: Miêu tộc là tổ tiên giống Man Di, nên Man Di luôn hoài vọng về phương bắc, nhớ lưu vực sông Hoàng Hà. Không sai thực tế mấy, giới khoa học ngày nay xác định tộc Hán là gốc Mongolic, tộc Man Di hầu hết gốc Indonesien.
Giai đoạn 2: Năm 770-220 TTL (thời Tần Thủy Hoàng): Theo "Trung Quốc Sử Cương" của Phan Khoang: (Trang 1, 62 ) 500 năm kế tiếp, tộc Hán bắt đầu liên tục lấn đất phía nam, tộc Man Di không chịu nổi áp bức của người Hán, hầu hết rời "quê cha đất tổ, lưu vực sông Dương Tử” lần lượt di cư về Hoa Nam, định cư ở Quảng Tây, Quảng Đông, đảo Hải Nam và miền Bắc Việt Nam(11). Một số nhỏ ở lại sinh sống ở lưu vực sông Dương Tử, tất nhiên không lâu sau họ bị đồng hóa thành người Hán và biên giới Trung Hoa vẽ rộng thêm về nam nhưng chưa đến Lưỡng Quảng.
Nghiên cứu cổ sử Trung Hoa, sử gia tây phương Leonard Aurousseau trong "Le Royaume de Văn Lang" viết: Người Việt ngày nay là gốc nước Việt vua Câu Tiễn có Phạm Lăi, Tây Thi; sinh sống vào thế kỷ thứ 6 TTL ở tỉnh Chiết Giang. Thế kỷ thứ 3 TTL nước Việt bị nước Sở đánh thua, toàn bộ dân Việt chạy về nam chia thành các phái: Mân Việt, Nam Việt, Lạc Việt. Lạc Việt ở miền Bắc Việt Nam. Hầu hết sử gia Việt Nam không đồng ư với giả thuyết: "Người Việt gốc nước Việt của Câu Tiễn..." của Leonard Aurousseau (Việt Sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn trang 35).
Cũng theo cổ sử Tàu: Giao Chỉ là bộ tộc thường xăm ḿnh h́nh thủy quái giao long để lặn xuống sông biển, thuồng luồng cá sấu tưởng đồng loại không ăn thịt. Phù hợp với sử ta: Các đời vua Hùng khuyến khích dân chài xăm ḿnh.
“Đại Việt Sử Kư” của Ngô Sĩ Liên ghi: Truyền thuyết triều đại Hùng Vương chấm dứt năm 258 TTL. Kinh đô vua Hùng thứ 18 ở Phong Châu tỉnh Phú Thọ - miền Bắc Việt Nam. C̣n kinh đô các vua Hùng khác, nhất là vua Hùng thứ 1, 2 chưa biết nơi đâu? Nếu có, có nghĩa ở phía nam sông Dương Tử, loanh quanh Hoa Nam hoặc miền Bắc Việt Nam (thời kỳ khuyết sử).
Kinh Thư không nói về nước Văn Lang và 18 đời vua Hùng, nhưng Kinh Thư và cổ sử Trung Hoa đồng cho biết: Trước tây lịch dân cư Lưỡng Quảng, đảo Hải Nam và miền Bắc Việt Nam cùng một nguồn gốc không liên hệ ǵ Hán tộc có tên là Bách Việt (Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim trang 29) và xa xưa hơn: Ḍng Dương Tử là "Nguồn Sống" dài đằng đẵng 15, 18 thế kỷ của tổ tiên ta trước tây lịch (đă tŕnh bày bên trên). Đây là những tài liệu quư của Trung Quốc rất khách quan mà sử ta cần quan tâm để đi t́m hiểu nguồn gốc dân tộc Việt.
Hầu hết sử ta và Trung Hoa ghi: Từ năm 257 TTL, Thục Phán lật đổ vua Hùng thứ 18, lên làm vua hiệu An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc gồm cả Lưỡng Quảng, kinh đô Phong Khê, tỉnh Phúc Yên. Ông xây thành Cổ Loa (c̣n di tích). Sử không biết vua An Dương Vương là tộc Việt hay tộc Hán? Lúc đầu ông thần phục nhà Tần, Hán Cao Tổ thắng, ông thần phục nhà Hán nhưng vẫn chống triều đ́nh Trung Hoa. Ngoài mặt ông thần phục, để Âu Lạc ḥa b́nh xây dựng nước; Trung Hoa gây chiến ông kêu gọi dân Việt nghênh chiến, giống các triều đại Lư, Trần, Lê về sau.
Giai đoạn 3: Từ 220 (Tần Thủy Hoàng) đến 111 TTL (nước ta bị Bắc thuộc lần thứ nhất):
a) Đồ Thư - Sau khi các tộc Man Di di cư về Nam một số lớn hội nhập với Bách Việt (nói chung). Đất rộng người thưa. Năm 220 TTL, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem quân tiến đánh Bách Việt là các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Lưỡng Quảng và miền Bắc Việt Nam. Chiết Giang Phúc Kiến là giống Mân Việt. Lưỡng Quảng và miền Bắc Việt Nam là Tây Việt, Âu Lạc có tù trưởng Dịch Hu Tống và Thục Phán An Dương Vương làm vua. Sau 7 năm chiến tranh (220-214 TTL) nhà Tần tiêu diệt phần lớn Mân Việt, khi Đồ Thư vào Lưỡng Quảng th́ bất phân thắng bại với An Dương Vương và Dịch Hu Tống. Rồi Dịch Hu Tống, Đồ Thư tử trận, nhưng quân Hán không rút về bắc, họ vẫn giữ phần đất đă chiếm. Tần Thủy Hoàng ra lệnh thiết lập bộ máy cai trị, gồm tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang một phần tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (Việt Sử Tân Biên trang 108).
Nhà Tần đặt tên Quảng Đông là quận Nam Hải, Quảng Tây là quận Quế Lâm. Trận chiến này tuy quân Hán chưa vào nổi miền Bắc Việt Nam nhưng họ hàng anh em cùng tộc Việt Man Di ở Quảng Đông Quảng Tây, nhất là Phúc Kiến Chiết Giang bị giết hại và mất đất nặng nề. An Dương Vương tiếp tục làm vua Bắc Việt và một phần Quảng Đông Quảng Tây đến 207 TTL. Ông làm vua 50 năm.
Sử liệu giai đoạn 2 và 3, các sử gia VN thường trích từ sử Trung Hoa của Tư Mă Thiên đáng tin cậy nhất, ông Thiên sống khoảng năm 137 TTL đời Hán Vơ Đế (bên ta là nhà Triệu)
b) Triệu Đà và nhà Triệu (207-111 TTL). Tần Thủy Hoàng chết năm 210. Trước khi Hoàng chết, đội quân Hán do Đồ Thư chỉ huy đă xâm lược phần lớn đất đai phía nam như đă tŕnh bày ở giai đoạn 3a. Ông ra lệnh Triệu Đà về Hoa Nam thay thế Đồ Thư kiện toàn việc cai trị phần đất quân Hán mới chiếm đóng. Triệu Đà lập thủ phủ là Phiên Ngung (Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông). Ngay khi ấy Triệu Đà ḍm ngó Âu Lạc (miền Bắc Việt Nam). Những năm đầu 2 bên giao hiếu tốt đẹp kết sui gia. Trọng Thủy con trai của Triệu Đà lấy Mỵ Châu con gái vua An Dương Vương.
Sau khi Tần Thủy Hoàng chết (210TTL), con là Hồ Hợi c̣n nhỏ làm vua, nước Tàu nhiễu nhương.
Lợi dụng Hán Sở tranh hùng (sau đó Hán thắng, Hán Cao Tổ làm vua), năm 207 Triệu Đà xưng vương, ông giết các quan Tàu trung thành với nhà Tần, nhà Hán. Ông đem quân thôn tính Âu Lạc, thống nhất Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam và miền Bắc Việt Nam thành 1 quốc gia độc lập đặt tên Nam Việt, kinh đô là Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay). Triệu Đà cất quân chiếm Tràng Sa/Hồ Nam, đối địch với triều đ́nh Trung Hoa. Ông làm vua 70 năm, luôn luôn lo mở mang Nam Việt gây cơ sở riêng cho ḍng họ Triệu, đồng thời nâng cao đời sống nhân dân. Ông vẫn duy tŕ phong tục bản địa, để nâng cao dân trí, ông đem đạo lư, văn học Trung Hoa truyền vào Việt tộc, tạo quyền lợi b́nh đẳng cho bất kỳ địa phương, lúc nầy tộc Việt được đánh dấu thoát ra đời sống bán khai. Nhất là ông có mục đích rơ rệt không chịu lệ thuộc Trung Quốc. Họ nhớ ơn ông. Thời Triệu Đà Nam Việt là đế quốc hùng cường đối thủ các vua Hán phương bắc (Việt Sử Tân Biên tr. 145, 153)
Sau Triệu Đà, con cháu không giỏi như cha(12) thêm nội gián Hán tộc là thái hậu Cù Thị. Năm 111 TTL vua Hán Vơ Đế sai Lộ Bác Đức đem quân xâm lăng nước Nam Việt. Thái phó Lữ Gia giết Cù Thị, rồi đem quân bố pḥng các nơi hiểm yếu và chống trả... nhưng cuối cùng quân Nam Việt thua. Không những mất Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam mà vùng đất sau cùng của Việt tộc là miền Bắc Việt Nam c̣n sót lại cũng bị nhà Hán xâm lăng cai trị. Xin nhớ đó là năm 111 TTL.
Theo "Trung Quốc Sử Cương" trang 70 và "Việt Nam Sử Lược" của Trần Trọng Kim: Kể từ năm 111, khởi đầu 1000 năm nước ta bị Bắc thuộc, triều đ́nh Trung Hoa xem Âu Lạc Nam Việt như một quận huyện của họ. Lúc nầy Lưỡng Quảng, đảo Hải Nam và miền Bắc Việt Nam có tên do nhà Hán đặt: Thương Ngô, Quế Lâm, (Quảng Tây). Nam Hải, Hợp Phố (Quảng Đông). Châu Nhai, Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam). Cửu Chân, Nhật Nam (miền Bắc Việt Nam) và toàn vùng địa phương lớn gọi chung là Giao Chỉ bộ (tên của một bộ tộc tổ tiên ta từ 2000 năm trước bên bờ sông Dương Tử) đồng chịu sự đô hộ như nhau. Vua quan Hán tộc luôn luôn hà khắc sách nhiễu dân Giao Chỉ đến cùng cực và đưa người Hán từ phương Bắc đến vùng này để đồng hóa tộc Việt trong Giao Chỉ bộ.
V́ gần phương bắc, tất nhiên người Hán đến Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam nhiều nhất. Qua nhiều thế kỷ người Giao Chỉ vùng Lưỡng Quảng bị đồng hóa rơ rệt. Đồng thời để ta quên nguồn gốc, Trung Hoa đổi tên Giao Chỉ bộ nhiều lần như: Giao Châu, An Nam Đô Hộ phủ. Chia để dễ trị, từ từ danh xưng địa phương lớn được thu gọn chỉ trong địa hạt miền Bắc Việt Nam.
Trong suốt 10 thế kỷ luôn luôn có những anh hùng dân Việt lănh đạo kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân lật đổ chế độ cai trị của tộc Hán, như Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Nhưng hầu hết chỉ thành công ngắn hạn. Măi đến năm 939 sau tây lịch Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, dân Việt mới lật qua được trang sử tự chủ cho đến ngày nay, nhưng ta chỉ lấy lại được miền Bắc Việt Nam mà thôi.
Thế kỷ 11 đời vua Lư Nhân Tôn, triều đ́nh biết nhà Tống sẽ đem quân đánh nước ta. Tiên hạ thủ vi cường, Lư Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân đánh Quảng Đông, Quảng Tây tiến sâu lănh thổ Trung Quốc hàng trăm dặm, giết các quan đầu tỉnh, phá nát các cơ sở tiếp liệu khí giới để đánh nước Nam ở châu Ung, châu Khiêm, châu Liêm. Các ông làm chủ t́nh h́nh 1 tháng rồi rút về sông Như Nguyệt, đông bắc kinh đô Thăng Long, đón chờ quân Tống đem đại binh phục thù.
Không kể Triệu Đà đánh chiếm Trường Sa, Hồ Nam, đây là lần độc nhất trong lịch sử, nước ta đem quân đội tấn công nước Tàu. Lần thứ 2 tấn công nước Tàu bằng ngoại giao dưới thời vua Quang Trung. Sẽ đề cập sau (sau phần Triệu Đà).
Mặc dầu sử gia Phạm Văn Sơn khen ngợi Triệu Đà là nhà quân sự chính trị tài ba, biết lo cho dân cho nước và 70 năm làm vua, Triệu Đà chống Hán, nhưng theo ông Sơn: Triệu Đà thuộc tộc Hán, là quan vua Tần nên ông Sơn coi nước ta bị Bắc thuộc Tàu từ khi Triệu Đà xâm lăng Âu Lạc, truất phế vua An Dương Vương năm 207 TTL. (Việt Sử Tân Biên trang 141).
Ngược lại, sử gia Trần Trọng Kim nhận xét: Triệu Đà tuy gốc Hán nhưng con cháu được sinh ra trên đất Việt, quan trọng nhất: Họ Triệu phục vụ cho đời sống Việt tộc và làm theo ư nguyện nhân dân "Chống Hán", nên sử gia Trần Trọng Kim coi Triệu Đà cùng nhà Triệu là các vua Chính Danh của nước ta và khởi đầu Bắc thuộc lần thứ nhất khi nhà Hán xâm lăng Nam Việt giết con cháu Triệu Đà năm 111 TTL (Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim trang 47).
Vậy! Không hiểu nên xếp Triệu Đà và nước Nam Việt thuộc về Hán tộc hay Việt tộc?
Triệu Đà và nhà Triệu từ 207-111 TTL không những không bị triều đ́nh Trung Hoa cai trị c̣n là đối thủ của triều đ́nh Trung Hoa th́ không thể gọi nước ta bị Bắc thuộc từ năm 207.
Nếu nhà Triệu không bị lật đổ, tiếp tục giữ ngôi và làm theo ư nguyện nhân dân “chống Hán” cho đến ngày nay, cũng tương tự các triều đại: Lư, Trần, Lê... th́ vẫn thuộc tộc Việt.
Ví như ngày nay, nếu con cháu của di dân Việt Nam, Trung Quốc làm Tổng Thống Mỹ phục vụ ư nguyện nhân dân Mỹ. Nước Mỹ vẫn là Hoa Kỳ, nước Mỹ không thể là Việt Nam hay Trung Quốc.
Không kể thời 18 đời vua Hùng (truyền thuyết), th́ đời vua An Dương Vương năm 257 nhất là thời Triệu Đà 207 TTL, nước ta, các tộc Man Di đă thành lập quốc gia Âu Lạc, Nam Việt bao gồm các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam và miền Bắc Việt Nam. Hai vua có chủ trương rơ rệt: nâng cao đời sống nhân dân và "chống Hán". Xa hơn, 1000 năm TTL theo cổ sử Trung Hoa: các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang, Quảng Đông, Quảng Tây đă có thời là quê hương tộc Việt. Xa hơn nữa: sông Hoài và ḍng Dương Tử là nguồn sống của tổ tiên ta thuở xa xưa.
Căn cứ những điều đó, sau khi đại thắng quân Thanh năm 1789, vua Quang Trung đặc phái 1 sứ bộ sang Bắc Kinh năm 1792. Tướng Vũ văn Dũng là chánh sứ cùng 2 ông nghè Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích dùng Kinh Thư và Sử Trung Quốc với 3 tấc lưỡi “xin lại tượng trưng” hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của tổ tiên và xin cưới công chúa Tàu cho chủ soái. Đề nghị hợp lư của một dân tộc bị mất mát quá nhiều đang được lănh đạo bởi một anh hùng dân tộc là thiên tài quân sự. Vua Quang Trung đă sẵn sàng đội quân tinh nhuệ để xin không được th́ đánh, ông dùng cả đội quân Tầu phản Thanh phục Minh như: Thiên Địa Hội, giặc Tàu Ô, cho ư đồ của ḿnh.
Trong lần đi này tướng Vũ Văn Dũng, ông Nghè Nhiệm cùng xin vua Càn Long băi bỏ tục cống người vàng. Hoàng đế nhà Thanh phán ngay: "Thanh triều văng sự bỉ kim nhân”. Có nghĩa: Thanh triều văn minh xem việc cống người vàng của các triều đại trước (nhà Minh) là thô bỉ. Từ đó nước ta được chấm dứt việc cống kim nhân (14).
Quang Trung biết đây là thời cơ tốt nhất của lịch sử để "xin lại Lưỡng Quảng". Thu hồi lại phần nào đất tổ tiên (Hoa Nam vẫn là đất của tộc Việt dù không vua An Dương Vương hay Triệu Đà).
Quả nhiên! Sau khi vua Càn Long nhận sắc (quốc thư) từ chánh sứ Vũ Văn Dũng, hôm sau vua Thanh đồng ư: Gả công chúa và "cho" Nguyễn Huệ tỉnh Quảng Tây.
Để sáng tỏ một biến cố lịch sử quan trọng thời cận đại ta hăy xem một đoạn gia phả con cháu tướng Tây Sơn Vũ Văn Dũng ghi lại chi tiết việc sứ đoàn vua Quang Trung triều kiến vua Càn Long. Trong cuốn “Quang Trung Nguyễn Huệ” của Hoa Bằng xuất bản năm 1944 tại Hà Nội.
Theo gia phả họ Vũ đă thuật, th́ khi bệ kiến vua Thanh Càn Long, Vũ Văn Dũng tâu xin 2 việc:
Việc thứ nhất là cầu hôn, v́ phối sất là việc quan trọng, Quốc vương hiện nay lớn tuổi (Quang Trung 40 tuổi), mà hôn nhân chưa định xong bởi chưng trong nước th́ toàn là hạng thần tử, các phiêu phong láng giềng th́ lại không được Quốc vương ưa thích nên muốn vua Thanh xét t́nh cho.
Việc thứ hai là xin đất đóng đô, lấy cớ rằng Quốc vương ở một nước hẻo lánh, thủy bộ không tiện mà vượng khí trong nội địa th́ hết mất rồi!
Hai việc ấy, tâu lên vua Thanh châu phê giao cho đ́nh nghị. Trong khi đ́nh thần nhà Thanh chưa kịp bàn xét th́ liền hôm sau, sứ đoàn nhận được lời mời bệ kiến vua Càn Long ở Ỷ Lương Các. Vũ Văn Dũng lại dâng tấu lần thứ hai xin vua Thanh ban cho 2 tỉnh Quảng Đông Quảng Tây làm đất đóng đô và gả một công chúa để gây cho nước biên thùy cái phong hóa của Trung Quốc.
Hai việc ấy được chuẩn y. Nhưng vua Thanh chỉ ưng cho tỉnh Quảng Tây làm đất đóng đô thôi.
Việc đ̣i đất đă được đến đây. C̣n việc định gả công chúa th́ tiến được bước dài hơn:
Sau ngày tiếp Nam sứ ở Ỷ Lương Các, vua Thanh liền sai bộ Lễ sửa soạn nghi lễ việc cưới gả, định ngày cho công chúa sang Nam đẹp duyên với Nguyễn Huệ.
Nhưng sau đó mấy hôm, Vũ Văn Dũng nhận được tin chẳng lành: Vua Quang Trung mất! V́ vậy mọi việc đều lỡ dở. Nguyễn Huệ mất rồi, Càn Long c̣n nể nang ai? Vua Thanh lờ luôn lời hứa. Chánh sứ Vũ Văn Dũng và sứ đoàn đành ôm hận mà trở về.
Tóm lại: Qua bao biến thiên lịch sử hầu hết dân Việt ngày nay có nguồn gốc tộc Giao Chỉ, Bách Việt. Giống Mân Việt ở Phúc Kiến, Tây Việt ở Lưỡng Quảng đă bị đồng hóa thành dân Hán trong thời kỳ nước ta bị Bắc thuộc, chỉ tộc Việt nào di cư dài xuống châu thổ sông Hồng mới sống c̣n. Ta bị mất đất nặng nề nhất dưới thời Tần Thủy Hoàng (220 TTL) và Hán Vũ Đế (111 TTL).
Một ngàn năm bị Tàu đô hộ. miền Bắc Việt Nam vẫn không bị đồng hóa, trong khi có nước, có bộ tộc từng đô hộ Trung Hoa hàng trăm năm, cuối cùng chính họ bị Trung Hoa đồng hóa như: Mông, Măn, Hồi, Tạng. Chúng ta mới hiểu nghị lực phi thường của tổ tiên Giao Chỉ, Bách Việt.
Lịch sử tộc Việt đă trải dài hơn 40 thế kỷ. Từ thời hồng hoang cổ đại tổ tiên ta bơi lặn kiếm sống giữa ḍng Dương Tử, phải xăm ḿnh h́nh giao long để tránh thuồng luồng cá sấu, đến ngày nay con cháu dùng ghe gắn máy đuôi tôm di chuyển nhộn nhịp trên sông rạch châu thổ Cửu Long Đồng Nai. Chúng ta hiểu: không những người xưa phải chống trả với đối thủ Trung Quốc lớn mạnh hơn chục lần, đă đồng hóa nhiều đế quốc; mà các anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, Quang Trung c̣n đánh tan tác những đế quốc xâm chiếm đô hộ Trung Quốc là Mông Cổ và Măn Châu nữa.
Hồ Quí Chương
Tái bút: Thế kỷ 20 nhờ khoa học phát triển, nguồn gốc dân tộc ta phát giác thêm nhiều mới lạ phức tạp. Hơn 20 tác giả Việt Nam, ngoại quốc nghiên cứu: Khi tộc Giao Chỉ di cư từ sông Dương Tử đến Hoa Nam, Bắc Việt, nơi đây đă có chủng tộc Indonesien từ Mă Lai Nam Dương đến Đông Dương chờ đón từ lâu. Trên đường vượt biển đổ bộ vào Đông Dương hàng ngàn đợt người của một chủng tộc lớn chẳng lẽ không ai đổ bộ lên cả hải đảo Trường Sa, Hoàng Sa ngoài khơi gần bờ biển Đông Dương.
Ông B́nh Nguyên Lộc dầy công nghiên cứu bằng công tŕnh đồ sộ "Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc VN" được xuất bản trước 1975. Nay nhà xuất bản Xuân Thu hải ngoại đă tái bản.
Năm 1998 Stephen Oppenheimer PhD đại diện 1 tổ hợp nghiên cứu cổ sử Á Đông và cũng là Professor of Paediatrics at Chinese University of Hong Kong, đă xuất bản "Eden in the East" nghiên cứu lịch sử văn minh vùng Đông Nam Á từ 10,000 năm trước tây lịch. Để tránh hiểu lầm chữ chuyên môn, như Indonesien trong cổ sử Việt là giống Indonesien = Bách Việt, không có nghĩa dân Nam Dương (17). Xin để nguyên văn vài đại ư từ sách của ông:
-The Polynesians did not come from China but from the islands of Southeast Asia
-The domestication of rice was not in China but in Malay Peninsula 9,000 years ago (p. 562)
Có thể t́m mua sách ở bất kỳ book store.
Chú Thích:
(1) Dùng sử liệu, đúng theo quan niệm cũ! Nhưng sau thế kỷ 19 các nhà nghiên cứu dùng khoa học t́m hiểu nguồn gốc dân tộc ta, họ phát giác nhiều độc đáo, phức tạp. Trước khi t́m hiểu những phức tạp bằng khoa học, ít nhất nên hiểu căn bản lịch sử đoạn đường các chi tộc tổ tiên gian truân di cư từ sông Dương Tử đến Bắc phần, VN.
(2) Khổng Tử c̣n viết: Kinh Xuân Thu, cuốn sử thứ 2 chuyên về nước Lỗ, cũng trong hệ thống Ngũ Kinh. Xin đọc “Tứ Thư Ngũ Kinh” để biết đại ư 9 môn học chính mà tổ tiên ta đă học để trở thành ông Nghè. Tiến sĩ.
(3) Nhà Chu (nhà Châu) gồm 2 thời kỳ Tây Chu và Đông Chu. Lúc khởi đầu thế kỷ thứ 12 BC đến 770 BC kinh đô gần Tây An tỉnh Thiểm Tây, sử gọi Tây Chu. Để tránh áp lực chư hầu và các rợ phía bắc, năm 770 BC vua Chu B́nh Vương dời đô về phía đông, kinh đô Lạc Dương, sử gọi là Đông Chu. Cuối cùng bị nhà Tần diệt năm 240 BC.
(4) Xin đừng giận chữ Man Di, “thói quen“ người Hán thường xem dân tộc khác không phải Hán tộc là man di, là rợ. Phía bắc Vạn Lư Trường Thành là rợ Hồ (Hung Nô), người tây phương bị gọi là tây di, các tộc phía nam trong số có Việt tộc là "nam man". Không ít người Việt trước 75 giống người Hán xưa: Da ngăm đen nói tiếng Việt không rành bị gọi mán, mọi, chà và. Tàu bị kêu chú chệt, Tây bị gọi bạch quỷ, ngay Mỹ cũng bị gọi thằng mẽo.
Tuy Hung Nô bị Trung Hoa gọi "rợ", nhưng hàng ngàn năm vua quan dân Hán sợ rợ lắm. Từ Hạ, Thương, Chu hàng trăm đời vua Tầu lần lượt ra lệnh hằng triệu nhân lực khổ công xây dựng, tu bổ, nâng cao nối dài Vạn Lư Trường Thành để ngăn cản rợ. Lúc đầu chỉ bằng đất, đời nhà Chu mới xây bằng gạch có h́nh tượng như bây giờ. Thái Tử Phù Tô trưởng nam Tần Thủy Hoàng v́ ngăn cản cha đốt sách chôn sống học tṛ, ông bị đày và chôn xác tại đây. Ngày nay Trường Thành dài hơn 5000 dặm, nổi tiếng nghĩa địa lớn nhất thế giới đông tây kim cổ, đă vùi chôn hằng triệu thi thể con dân Hán tộc khốn khổ vùng bắc và tây bắc Trung Hoa thời thượng cổ, trung cổ, chết v́ xây dựng, chưa kể chết v́ chiến tranh. Đến đời nhà Minh thế kỷ 15, 16, Trường Thành vẫn được tu bổ tiếp tục xây dài thêm.
(5). Xin đừng đặt nặng chữ Giao Chỉ là 2 ngón chân cái giao nhau, cùng thời nhiều bộ tộc khác không phải Giao Chỉ cũng có 2 ngón chân cái giao nhau. Ngày nay nếu cứ t́m người nào có 2 ngón chân cái giao nhau mới là người Giao Chỉ; e rằng Việt tộc đă bị đồng hóa hay bị tiêu diệt, mất giống trên bản đồ nhân chủng từ lâu.
(6) Khách quan, lịch sử văn minh thế giới xác nhận khoảng 1, 2 ngàn năm trước tây lịch, hầu hết các dân tộc thế giới đều sống bán khai, ngoại trừ hiếm hoi vài dân tộc tổ chức thành quốc gia như: Ai Cập, Hi Lạp, và Trung Quốc.
(7) Việt Thường nơi dây không dính dáng nước Việt Thường (Quảng B́nh, Quảng Trị) tên cũ của Chiêm Thành.
(8) Bài nầy "Nguồn gốc tộc Việt" từ sử liệu. Sẽ sưu tầm Nguồn gốc tộc Việt dưới mắt các nhà khoa học.
(10) Xin đừng lầm với An Dương Vương Thục Phán, hàng ngàn năm sau cũng làm vua Việt tộc. Thế kỷ thứ 3 BC Thục Phán đảo chánh lật ngôi vua Hùng thứ 18, lấy hiệu An Dương Vương. Sẽ tŕnh bày chi tiết ở những đoạn kế.
(11) Tất nhiên lúc nầy Hoa Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam chưa có tên. Để dễ xác định, phải tạm dùng những địa danh sẽ có tên. Trước năm 214 BC Đồ Thư chưa xâm lăng Bách Việt, vùng đất rộng lớn phía nam Trung Hoa chưa thuộc về Hán tộc, chưa bị triều đ́nh Trung Hoa đặt tên. Sẽ đề cập vùng Hoa Nam ở các đoạn kế.
(12) Kết quả mối bi t́nh sử Trọng Thủy Mỵ Châu cùng xuống tuyền đài để lại 1 đứa con tên là Hồ. Triệu Đà chết, ông truyền ngôi cho cháu đích tôn Hồ. Hồ lên ngôi lấy hiệu là Văn Vương. Từ Văn Vương trở đi con cháu kém cỏi, không tài giỏi như ông nội Triệu Đà, ông ngoại An Dương Vương. Không lâu Nam Việt bị mất về nhà Hán.
(13) Măn châu đô hộ Hán tộc 270 năm. Biết bao máu nước mắt tủi nhục dân Hán đổ ra trong gần 3 thế kỷ làm nô lệ. Phong tục người Hán không muốn ai đụng chạm đến cái đầu. Khi Măn Thanh mới xâm chiếm Trung Hoa. Chỉ v́ tóc bín để giống tộc Măn. Lệnh "Muốn giữ đầu th́ đừng giữ tóc" nhà Thanh giết cả triệu dân Hán chống cắt tóc.
(14) Để biết thêm về lệ cống “Kim Nhân”. Mời đọc bài "Thành quả trường Quốc Tử Giám" cùng tác giả sưu tầm.
(15) Các sử gia VN thường trích sử liệu này, khi đề cập việc Vua Quang Trung "xin lại" Lưỡng Quảng.
(17) Theo "Nguồn gốc Mă lai của dân tộc Việt Nam" của B́nh Nguyên Lộc: Chữ Indonesien để chỉ một chủng tộc từ 5000 năm trước tây lịch từ bán đảo Mă Lai đến bờ biển Đông Dương, Trung Hoa định cư. Các tộc Ngô Việt, Mân Việt ở Chiết Giang, Phúc Kiến ven bờ biển Trung Hoa cũng có nguồn gốc Indonesien. Đoạn cổ sử nầy rất phong phú, phức tạp, các nhà nghiên cứu c̣n chưa thống nhất.
http://hohyhung.blogspot.com/
Theo: http://taophunghoiquan.blogspot.com/
NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT TẠI VIỆT NAM
Kien Giang
September 1, 2014 ·
Người Việt là một dân tộc có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng gần 90% dân số Việt Nam và được chính thức gọi là dân tộc Kinh để phân biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính sử dụng là tiếng Việt.
Tín ngưỡng: Phần lớn Đạo Khổng và Đạo Phật, với một thiểu số theo đạo Công giáo, Ḥa Hảo và Cao Đài. Cũng có một thiểu số người Kinh theo đạo Hồi ở miền tây nam.
Nguồn gốc:
Theo truyền thuyết dân tộc Kinh, những người Việt đầu tiên là con cháu của một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là "cùng bọc" (hay c̣n gọi là Đồng bào) và "đồng bào" là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc.
Nếu xét xa hơn nữa th́ Lạc Long Quân, tên thật là Sùng Lăm, là con của Kinh Dương Vương, vua nước Xích Quỷ và Long nữ; c̣n Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Lạc Long Quân nối ngôi cha làm vua nước này. Bờ cơi nước Xích Quỷ phía bắc giáp hồ Động Đ́nh (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông giáp biển Nam Hải, phía tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc).
Kinh Dương Vương tên thật là Lộc Tục, là con của Đế Minh, cháu ba đời của vua Thần Nông. Đế Minh đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Con cả của Lạc Long Quân và Âu Cơ trị v́ dưới tên Hùng Vương, và là vị vua đầu tiên của người Việt. V́ thế, người Việt thường tự xưng là con rồng cháu tiên. Tổ tiên người Việt đă di cư từ miền nam Trung Quốc hiện giờ đến đồng bằng sông Hồng và ḥa nhập với người dân bản xứ.
Vào năm 258 TCN An Dương Vương thành lập vương quốc Âu Lạc, tại miền Bắc Việt Nam bây giờ. Vào năm 208 TCN một viên tướng người Trung Quốc là Triệu Đà đánh bại An Dương Vương. Triệu Đà kết hợp Âu Lạc với các lănh thổ tại miền cực nam Trung Quốc thành vương quốc Nam Việt.
Phân bố:
Tuy gốc từ miền bắc Việt Nam, người Việt đă xâm chiếm phần lớn đất đai của vương quốc Chăm pa và Đế quốc Khmer qua thời gian. (Xem thêm bài Nguyễn Hoàng.) Hiện nay họ là dân tộc chính trong phần lớn các tỉnh tại Việt Nam và chiếm một phần đáng kể trong dân số tại Campuchia. Vào thời kỳ Khmer Đỏ tại Campuchia, người Việt là nhóm người thiểu số bị ngược đăi nhiều nhất (nhóm Khmer Đỏ rất căm thù người Việt và kích động quần chúng dùng bạo lực đối với nhóm người này), hàng vạn người Việt đă bị giết sau nhiều cuộc tàn sát do chế độ này gây ra. Hầu hết những người sống sót đă di cư về Việt Nam.
Vào thế kỷ 16, một số người Việt di cư về phía bắc vào Trung Quốc. Tuy đă bị ảnh hưởng Trung Hoa nhiều hơn, con cháu những người này vẫn c̣n nói tiếng Việt và được công nhận là một dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. Xem thêm bài Người Kinh (Trung Quốc).
Khi thực dân Pháp rời khỏi Việt Nam vào năm 1954, một số người Việt theo họ về Pháp. Trong lúc đó, khoảng 1 triệu người từ miền bắc di tản vào miền nam theo lời kêu gọi "Chúa đă vào Nam"
Sau Chiến tranh Việt Nam, một số người khác bỏ nước ra đi để tránh chính phủ cộng sản. Phần lớn tái định cư tại Bắc Mỹ, Tây Âu và Úc. Tại Hoa Kỳ có một cộng đồng người Mỹ gốc Việt khá lớn.
Địa bàn cư trú của các tổ tiên các Dân tộc Việt Nam.
Một số người cho rằng nguồn gốc của các dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ các dân tộc cổ đại sinh sống trên lục địa Trung Hoa, hoặc cao nguyên Tây Tạng, một số khác cho rằng nguồn gốc chính từ người Việt bản địa. Nhưng căn cứ vào các kết quả nghiên cứu gần đây, xem xét sự h́nh thành các dân tộc Việt Nam trong sự h́nh thành các dân tộc khác trong khu vực th́ có thể nói rằng tất cả các dân tộc Việt Nam đều có cùng một nguồn gốc, đó là chủng Cổ Mă Lai. Quá tŕnh h́nh thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:
Theo các nhà nhân chủng học, nếu phân chia theo h́nh dáng th́ loài người được chia thành bốn đại chủng, đó là: Đại chủng Âu (Caucasoid), Đại chủng Phi (Negroid), Đại chủng Á (Mongoloid), Đại chủng Úc (Australoid, hay c̣n gọi là Đại chủng Phương Nam). Vào thời kỳ đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm trước đây), có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở vùng Tây Tạng di cư về phía đông nam, tới vùng ngày nay là Đông Dương th́ dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mă Lai (tiếng Pháp: Indonésien). Người Cổ Mă Lai có nước da ngăm đen, tóc quăn gợn sóng, tầm vóc thấp. Người Cổ Mă Lai từ vùng Đông Dương lan tỏa về hướng bắc tới sông Dương Tử; về phía tây tới Ấn Độ, về phía nam tới các đảo của Indonesia, về phía đông tới Philippines.
Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng (khoảng 5.000 năm trước đây). Tại khu vực mà ngày nay là miền bắc Việt Nam, miền nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống), có sự chuyển biến do chủng Cổ Mă Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống, sự chuyển biến này h́nh thành một chủng mới là chủng Nam Á (tiếng Pháp: austro-asiatique). Do hai lần ḥa nhập với Đại chủng Á mà chủng Nam Á có những nét đặc trưng nổi trội của Đại Chủng Á hơn là những nét đặc trưng của Đại chủng Úc. Cũng chính v́ thế chủng Nam Á được liệt vào một trong những bộ phận của Đại chủng Á.
Thời kỳ sau đó, chủng Nam Á được chia thành một loạt các dân tộc mà các cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Thực ra không có đến một trăm (Bách) dân tộc nhưng quả thật đó là một cộng đồng dân cư rất đông đúc bao gồm: Điền Việt (cư trú tại Vân Nam, Trung Quốc), Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt (cư trú tại Quảng Đông, Trung Quốc), Lạc Việt (cư trú tại Quảng Tây, Trung Quốc và Bắc bộ, Việt Nam),... sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử (Trung Quốc) cho đến Bắc bộ (Việt Nam). Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khơ me, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao,... Sau này quá tŕnh chia tách này tiếp tục để h́nh thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Trong khi đó, phía nam Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mă Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc thuộc nhóm Chàm.
Việc xác định về mặt địa lư có thể h́nh dung như sau:
Địa bàn cư trú của người Bách Việt: là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử, Trung Quốc, đỉnh là Bắc trung bộ, Việt Nam.
Địa bàn cư trú của người Bách Việt và Nam Đảo: là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử, Trung Quốc, đỉnh là đồng bằng sông Mê kông, Việt Nam.
Các dân tộc Việt Nam hiện nay
Bản đồ nhân chủng học miền NamTheo số liệu thống kê năm 2000, Việt Nam có 54 dân tộc. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 87% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày (1.190.000), Thái (1.040.000), Mường (914.000), Hoa (900.000), Khmer (895.000), Nùng (706.000), Hmông (558.000), Dao (474.000), Giarai (242.000), Êđê (195.000). Những dân tộc c̣n lại có dân số dưới 100.000 người, một nửa trong số đó có dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có khoảng vài trăm người.
54 dân tộc Việt Nam, xếp theo nhóm ngôn ngữ:
• Nhóm Việt-Mường: Chứt | Mường | Thổ | Việt (Kinh)
• Nhóm Tày–Thái: Bố Y | Giáy | Lào | Lự | Nùng | Sán Chay | Tày | Thái
• Nhóm Môn–Khmer: Ba Na | Brâu | Bru - Vân Kiều | Chơ-ro | Co | Cơ-ho | Cơ-tu | Giẻ-triêng | Hrê | Kháng | Khmer | Khơ-mú | Mạ | Mảng | M'Nông | Ơ-đu | Rơ-măm | Tà-Ôi | Xinh-mun | Xơ-đăng | Xtiêng
• Nhóm H'Mông–Dao: Dao | H'Mông | Pà Thẻn
• Nhóm Kadai: Cờ lao | La-chí | La ha | Pu péo
• Nhóm Nam đảo: Chăm | Chu-ru | Ê-đê | Gia-rai | Ra-glai
• Nhóm Hán: Hoa | Ngái | Sán d́u
• Nhóm Tạng: Cống | Hà Nh́ | La Hủ | Lô Lô | Phù Lá | Si La
Các bằng chứng địa chất và khảo cổ học
Một trong các bằng chứng nổi bật nhất chứng minh các dân tộc Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có chung một nguồn gốc là việc các nhà khảo cổ học đă phát hiện ra rất nhiều điểm tương đồng về một nền văn hóa rất phát triển gọi là văn hóa Ḥa B́nh ở rải rác các nơi ở Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan,... Các nghiên cứu đă rút ra kết luận rằng:
Có một nền văn minh Đông Nam Á cổ đại có mặt từ rất sớm, khoảng 15.000 trước Công nguyên. Nơi đây, con người biết trồng cây, làm đồ gốm, đúc đồng sớm nhất trên thế giới. Các vật dụng được khai quật ở tây bắc Thái Lan, miền bắc Việt Nam, Malaysia, Philippines, bắc Úc cho thấy họ biết làm những vật đó trước Trung Đông, Ấn Độ, Trung Hoa mấy ngàn năm.
Nền văn minh Đông Nam Á không phải là hệ quả của việc du nhập từ các nền văn minh khác như Ấn Độ, Trung Hoa, Trung Đông mà ngược lại, văn minh từ Đông Nam Á lan tỏa đến các vùng khác như Trung Hoa 6.000 đến 7.000 năm trước Công nguyên: Văn hóa Long Sơn (Lungsan) và văn hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao) đều là hệ quả của văn hóa Ḥa B́nh.
Các dữ liệu mới chỉ t́m thấy cách đây vài chục năm như trên đă làm thay đổi cách suy nghĩ của các nhà khảo cổ học về sự tiến triển của các nền văn minh trên Trái Đất. Việc t́m thấy nền văn minh Đông Nam Á rất sớm đó có thể khẳng định các dân tộc ở vùng này là có liên hệ chủng tộc với nhau. Họ hoàn toàn không phải là hệ quả của các chủng tộc khác từ Trung Hoa tới.
Các bằng chứng ngôn ngữ học, văn hóa dân gian:
Truyền thuyết "Con Rồng cháu Tiên" nói về nguồn gốc của dân tộc Việt.
Nguồn gốc dân tộc Việt bắt đầu từ họ Hồng Bàng. Vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương (vua nước Xích Quỷ - tức là Quỉ Đỏ) hiện c̣n có mộ tại làng An Lữ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông lên làm vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (hơn 2000 năm trước Công nguyên) sau đó lấy bà Long Nữ (con gái Thần Long là vua Hồ Động Đ́nh), sinh hạ được Sùng Lăm (lấy hiệu là Lạc Long Quân). Ông lấy bà Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh ra 100 trứng, nở ra 100 người con. Một hôm nhà Vua bảo bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt, hai ông bà đồng ư chia hai số người con; năm mươi người con theo mẹ lên núi, số c̣n lại theo cha xuống biển. Sau đó, nước Xích Quỉ chia thành nhiều nước gọi là Bách Việt. Một trong các nước nhỏ này là nước Văn Lang. Lạc Long Quân về sau phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng Vương thứ 1, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phúc hoặc Phú Thọ). Ḍng dơi Hùng Vương lưu truyền được 18 đời, đến đời Hùng Vương thứ 18 th́ bị nhà Thục lấy mất nước.
Một số nhà nhân chủng ngôn ngữ học đă xác định một số từ Trung Quốc có gốc rễ từ các từ Việt cổ, như "giang" (江), có nghĩa là sông (xem Dương Tử Giang). 越, 粵, 鉞 trong Hán văn cổ đều có âm là "việt" và cùng nghĩa có thể thay thế lẫn nhau được. Ngày nay 鉞 là "lưỡi ŕu dùng trong nghi lễ" có thể t́m thấy rất nhiều ở Hàng Châu, Triết Giang là một phát minh phía nam Trung Quốc; 粵 là tên gọi tắt cho tỉnh Quảng Đông; c̣n 越 chỉ Việt (Việt Nam) hoặc khu vực bắc Triết Giang bao quanh Thiệu Hưng và Ninh Ba.
Các tên gọi có thể có nguồn gốc phương Nam như Thần Nông, Nữ Oa v́ không theo ngữ pháp tiếng Hán.
Các tập tục: ăn trầu, nhuộm răng, bốc mả...
NGUYỄN VĂN DANH HTST
Cuộc truy t́m nguồn gốc người Việt lần thứ ba
Mặc sự công nhận chính thức về cội nguồn người Việt của nhà nước và cả giới khoa học chính thống, cuộc truy t́m nguồn gốc người Việt của các nhà nghiên cứu nghiệp dư vẫn lặng lẽ và đang ngày càng tỏ ra quyết liệt với những quan điểm mới, nhiều khi cực đoan nhưng không phải không có lư. Tất cả cho thấy quả thật rất có vấn đề trong định nghĩa thế nào là nguồn gốc người Việt.
Truy t́m nguồn gốc người Việt ngỡ như đă xong bỗng gần đây được xới lên, nhất là trên mạng, nơi có điều kiện bày tỏ quan điểm một cách khá b́nh đẳng. Theo dơi những cuộc trao đổi này, chúng tôi chợt nhận ra vẫn c̣n những câu hỏi vô cùng lớn về nguồn gốc người Việt chưa được giải đáp.
Tóm tắt vấn đề như sau (xin chỉ nêu tên tác giả mà không dẫn nguồn, cho gọn):
- Theo quan điểm chính thống của giới sử học hiện nay th́ người Việt là người bản địa, chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn và phát triển xuyên suốt từ đó đến nay trên địa bàn nước Việt Nam, đă nhận nhiều tác động từ bên ngoài, đă có nhiều biến đổi, đă tập hợp thêm nhiều nhóm dân tộc khác vào cộng đồng nói tiếng Việt và đă trở thành một khối thống nhất không thể tách rời, với một lịch sử đă được nghiên cứu hầu như đă đầy đủ và rơ nét.
Cuộc truy t́m nguồn gốc người Việt lần thứ ba
Tuy vậy, sự mạnh mẽ và quan phương của quan điểm này vẫn không ngăn nhiều người nêu ra những nghi hoặc về cội nguồn nếu không thể kết nối được nó với dân tộc anh em nào khác nữa, xa hơn về trước. Tại sao các dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng, H’Mông, Mèo, Dao... đều t́m thấy người anh em của họ ở ngoài biên giới của bất kể nước nào trong khu vực, cớ sao người Việt lại không t́m thấy anh em nào của ḿnh ở trên các nước khác? Liệu đó có phải là hệ quả của một sự h́nh thành cộng đồng Việt rất muộn, tức Việt mới, do tổng hợp từ nhiều nguồn dân tộc khác nhau. Và điều này xảy ra trong giai đoạn ngàn năm Bắc thuộc hoặc thậm chí muộn hơn nữa, thế kỷ XIII, XIV? (Các nhóm người Việt, gọi là người Kinh, ở Quảng Đông và Quảng Tây - Trung Quốc nay đều là những di dân Việt vào các thế kỷ gần đây).
- Từ giữa thế kỷ XX về trước, dựa trên các tư liệu huyền sử như Lạc Long Quân - Âu Cơ, Triệu Đà, An Dương Vương và nhất là 18 đời vua Hùng, nhiều tác giả cho rằng người Việt có nguồn gốc từ phương Bắc, gốc từ các tộc người Hán di cư về châu thổ sông Hồng và tạo nên tộc người Việt như ta thấy trong sử liệu chính thức. Đại diện cho quan điểm này là nhà nghiên cứu Nguyễn Phương, học giả Đào Duy Anh...
- Gần với quan niệm này th́ cho rằng người Việt nay là cùng trong nhóm cộng đồng Bách Việt vốn phát triển khá rực rỡ ở phía Nam sông Hoàng Hà (Trung Quốc). Người Hán khi tiến vào Hoa Hạ đă tiếp thu rồi nâng cao rất nhiều từ nền văn minh này. Trong thời nhà Đường, nhiều nhóm người Việt (thuộc Bách Việt) đă hoàn toàn nhập vào với văn hóa Hán và trở thành một phần của nước Trung Hoa 1,4 tỉ dân hiện nay. Riêng nhóm Việt ở Phú Thọ - Mê Linh tuy cũng bị 1.000 năm cai trị của các triều đại Trung Hoa nhưng v́ một lư do nào đó vẫn giữ được ư thức dân tộc và đến thời Ngô Quyền th́ giành được độc lập, giữ được nền độc lập đó cho đến tận nay. Và có thể nói cộng đồng Việt thuộc An Nam là đại diện xuất sắc và điển h́nh nhất của cộng đồng Bách Việt này. Đại diện cho quan điểm này là Lê Mạnh Thát, Hà Văn Thùy, Nguyễn Đức Tố Lưu...
- Tác giả Phan Duy Kha và các bạn hữu nêu ra cội nguồn người Việt nào đó ở về phía Nam, vùng núi Khu 4 cũ, từ Vinh (Nghệ An) đến Hà Tĩnh, đă tiến ra vùng Việt Tŕ (Phú Thọ) để tạo nên văn hóa Đông Sơn rồi sau đó trở lại nâng cao và sáp nhập vùng Khu 4 vào Việt (hậu).
- B́nh Nguyên Lộc một ḿnh vạch ra một hướng tiếp cận khác. Ông đưa ra nhiều bằng chứng và quan trọng nhất là với vốn từ vựng đang có th́ người Việt phải có nguồn gốc từ Mă Lai Đa Đảo, tức cộng đồng các tộc người hiện đang sống ở các nước như Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan và dĩ nhiên: Việt Nam. Chỉ v́ tiếp thu một phần ngôn ngữ văn hóa của người Hán trong ngàn năm Bắc thuộc mà người Việt đă trở thành xa cách với cội nguồn Mă Lai của ḿnh. Quan điểm của B́nh Nguyên Lộc dù đă được giới nghiên cứu chỉ ra nhiều thiếu sót nhưng vẫn chưa có câu trả lời đầy đủ về lư do vốn từ vựng to lớn có nguồn gốc Mă Lai trong vốn từ của người Việt (việc cùng nguồn gốc ngữ hệ Nam Á không trả lời được hết các ví dụ B́nh Nguyên Lộc nêu ra).
- Gần đây, GS Liam Kelley (Đại học Hawaii, Mỹ) đă xới lại vấn đề nghi ngờ cội nguồn phương Bắc và cả cội nguồn bản địa của người Việt, cũng không thiên về cội nguồn Mă Lai như B́nh Nguyên Lộc. Người Việt là ai th́ Liam Kelley chưa nêu câu trả lời nhưng ông đang chứng minh ngày càng rơ nét rằng những thứ mà ta tự hào và tin rằng nó vốn của người Việt từ lâu nay th́ thật ra đều là của người Thái. Vài ví dụ: Người Thái ở phía Nam Trung Quốc vẫn đang dùng trống đồng và cái khèn nhạc cụ - thứ có trên trống đồng, trong khi người Việt th́ hoàn toàn không c̣n biết đến 2 loại nhạc cụ này từ rất lâu rồi. Người Việt là người Thái quên gốc gác hay thực sự là một dân cư khác đến chiếm lĩnh vùng đất này? Hay sự h́nh thành do tổng ḥa văn hóa và ngôn ngữ của các cư dân cùng chung sống ở châu thổ sông Hồng?
Vậy th́ người Việt từ đâu mà có? Câu trả lời chưa rơ song vấn đề đang được đặt lại một cách lư thú và khoa học hơn. Nếu sự h́nh dung nguồn gốc của người Việt thời Pháp thuộc là cuộc truy t́m nguồn gốc người Việt lần thứ nhất và vẫn được kế thừa, phát triển đến hiện nay th́ cuộc truy t́m lần thứ hai của những nhà nghiên cứu sử học nghiệp dư như B́nh Nguyên Lộc, Nguyễn Phương, Công Đ́nh Thanh, Hà Văn Thùy đă cho thấy vấn đề cần phải được nh́n rộng hơn ở ngoài biên giới nước Việt nay; thậm chí phương pháp nhân chủng, đo sọ, di truyền cũng đă được sử dụng để t́m nguồn gốc người Việt. Và đến nay, cuộc đặt lại vấn đề nguồn gốc người Việt lần thứ ba đă h́nh như được bắt đầu, thuận lợi của lần này là sự công bố và các ư kiến phản biện đều được thể hiện rất nhanh chóng, như tất cả đều đang ở trong một nhà và mọi ư kiến đều có thể trao đổi và được tranh luận ngay khi được phát biểu. Đặc điểm của lần này chính là sự tham gia của các quan điểm nhân học hiện đại, nhắm đến mục tiêu sự dịch chuyển của các tộc người chứ không hề c̣n là cuộc t́m kiếm một cội gốc đơn tuyến nào. Việc t́m kiếm một cội gốc đơn tuyến thuần nhất, xuyên suốt từ cổ đại đến nay như Tạ Đức trong cuốn Nguồn gốc người Việt - người Mường vừa xuất bản năm 2014 ngay lập tức đă tỏ ra không thuyết phục mặc dù công tŕnh khá dày dặn.
Đây là cuộc thảo luận khoa học rơ ràng là lư thú và khá hấp dẫn. Nhiều tranh luận gay gắt đă được thể hiện. Tác giả bài viết này cùng bạn hữu cũng đang ấp ủ những hướng t́m kiếm mới, hy vọng cuộc t́m kiếm này sẽ mở vấn đề ra đa diện, nhiều chiều với những phương pháp tiếp cận mới, thỏa măn được mọi băn khoăn về cội nguồn.
HỒ TRUNG TÚ
THỨ BA, NGÀY 04 THÁNG 8 NĂM 2015
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.