MINH THỊ

Trong khi một thiểu số lưu manh ở hải ngoại kết hợp với bọn lưu manh dân chủ cuội luôn to mồm rêu rao về một hiểm họa Trung Quốc xâm lược, th́ những người dân Việt Nam sống ở sáu tỉnh biên giới phía Bắc vẫn b́nh thản làm ăn sinh sống, không hề sợ hăi và cũng không tỏ thái độ kỳ thị, thù địch nhưng khi cần th́ không kể nam phụ, lăo ấu đều trở thành những chiến sĩ tiên phong đánh trả và dạy cho quân xâm lược Trung Cộng bài học đích đáng như thời kỳ chiến tranh biên giới Việt Trung 1979.  

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh

vSoHavViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười Dân

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVv

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vS.G.EchovSài G̣nvLuật KhoavCafevn 

vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu Trữ

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNM

Ông giáo sư dạy Sử

 

 

Vương Mộng Long

 

 

 

– Cựu học sinh Trung-Học Trần Quư Cáp, Hội-An.

 

– Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.

 

– Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.

 

– Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.

 

– Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.

 

– Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A. Social Sciences and Communication.

 

Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. T́nh cờ tôi nh́n thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đă qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này ḿnh cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm tŕnh độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).

 

So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, th́ học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ. Thật là, không có ǵ diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học tṛ. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để t́nh nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ c̣n có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học. Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quarter) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

 

Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, th́ bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ v́ mùa Fall 2000 tôi đă ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”.

 

Tôi “lấy” lớp Sử Kư này với mục đích t́m hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đă được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân v́ sao, giữa đường, Mỹ đă bỏ rơi Việt Nam, v́ sao chúng ta đă thua trận.

 

Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đă đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học tṛ của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đă trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.

 

Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học tṛ gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi c̣n nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

 

Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương tŕnh đă kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đă đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học tṛ ḿnh tới bất kỳ bến bờ nào mà thầy đă chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ư. Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lănh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đă khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế quốc Pháp.

 

Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1954-1975). V́ theo lời thầy, th́ HCM đă năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đă từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đă lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đă lỗi thời.

 

Chúng tôi đă được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện Biên Phủ, về Hiệp định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Pleime, Khe Sanh, Kontum, B́nh Long, Long Khánh, vân vân… chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng Minh và Việt Nam Cộng Ḥa. Trận Mậu Thân, chỉ là cảnh… nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt Nam Cộng Ḥa. Thầy mô tả Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc Pḥng Hoa Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đă có đôi lần tôi giơ tay nêu ư kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, th́ ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,

 

“Book said!”

 

Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đă lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học tṛ, c̣n ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.

 

Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu t́nh chống chiến tranh thời 1960  và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đă đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa Kỳ vào chỗ chết.

 

Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lănh điểm (F) bởi v́ tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, c̣n về bài tiểu luận (essay) th́ tôi bị loại thẳng tay.

 

Cả hai bài đều lănh điểm KHÔNG (0) chỉ v́ tôi đă viết không hợp ư ông thầy. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này th́ giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

 

Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà tiểu bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành tŕ của Đảng Dân Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!

 

Thời gian này ḷng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu ǵ lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi ḿnh, chửi quân đội ḿnh. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đă bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nh́ nó phải viết theo ư ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

 

Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nh́, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao th́ ra. Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và t́m được một quyển Sử Kư, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rơ ràng những thành quả mà Việt Nam Cộng Ḥa đă thực hiện được. Trong số những tài liệu quư giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photocopy những ǵ thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi căi lư với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê b́nh, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học tṛ của ông, và về những tài liệu mà ông đă dùng để trợ huấn. Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thầy giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian c̣n lại, thầy sẽ giảng gợi ư cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đă chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn ḷng, nhỏ nhẹ,

 

– Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui ḷng cho phép tôi được tŕnh bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

 

Thầy Dan niềm nở,

 

– Dĩ nhiên là được. Ông có điều ǵ cần cứ nói.

 

Thấy câu chuyện đă mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng,

 

– Thưa giáo sư, tôi là một người Việt Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa. Tôi c̣n nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ măn khóa sĩ quan Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gồm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.

 

Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền h́nh. C̣n tôi là người đă lặn lội mười năm ở đó, đă nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đă rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên ḿnh từng ngày, v́ nền độc lập của đất nước tôi, và v́ quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hănh của một người lính chiến, thế nào là ḷng khát khao chiến thắng, thế nào là t́nh huynh đệ chi binh.

 

Suốt đời thầy không hiểu được v́ sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Ḥa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và v́ sao một đại tá Hoa Kỳ đă đưa thân che chở cho một thương binh Việt Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa Kỳ đă tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng sản Quốc tế cố t́nh xuyên tạc, bóp méo tất cả những ǵ có liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Từ đó, tên Việt cộng khát máu HCM đă được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lănh tụ đức độ anh minh.

 

 Chính tên sát nhân này và đảng Cộng sản Việt Nam đă giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đày, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng sản là tốt đẹp, th́ đă không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy h́nh bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân ḿnh phỏng cháy v́ bom napalm của quân Đồng Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đă thấy xót xa, cho rằng quân Đồng Minh tàn ác.

 

Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn cứ Hỏa lực 711, Pleiku, tôi đă tận mắt chứng kiến một cảnh dă man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt cộng lột hết quần áo, bị hăm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan ḷi ḷng tḥng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đă không kịp chạy khi Việt cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.

 

Câu chuyện vừa tới đây th́ hết giờ giải lao, học tṛ trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,

 

– Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.

 

Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học tṛ có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học tṛ sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi:

 

– Ông hăy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời:

 

– Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những ǵ thấy tận mắt, nghe tận tai, và những ǵ xảy ra cho chính bản thân và gia đ́nh tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt Nam đă ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học tṛ tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đă t́nh nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của ḿnh cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban Mê Thuột, Pleiku, Pleime, ĐứcCơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi:

 

“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”

 

Tôi cứ t́nh thực trả lời:

 

– Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đă làm cho tôi quên cái sợ. Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đă không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đă phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu ḿnh để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đă nghĩ ǵ, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đă từng nghe nói tới cái tên “Đường ṃn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che giấu dưới rừng già dọc Trường Sơn. Tôi đă chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.

 

Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết tŕnh về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đă áp dụng trong trận Xuân Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. T́nh quân dân cá nước ấy đă là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù. Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong t́nh thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đă chiến đấu kiên cường như thế nào.

 

Và sau khi biết rằng chỉ trong ṿng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đă chết v́ tổ quốc, th́ ông giáo đă giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,

 

“Trời ơi!”

 

Thầy Dan cũng muốn t́m hiểu xem, sau khi mất nước th́ số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng Ḥa ra sao. Ông đă trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đă mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đă nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác ǵ những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê b́nh, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để t́m lại được tự do, dù có chết cũng cam ḷng. Ông giáo đă tỏ ra say mê theo dơi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực h́nh mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đày.

 

Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đ́nh tôi đă cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rơ, sau Hiệp định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt Nam đă thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng sản Việt Nam đă chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam. Quân đội và nhân dân Việt Nam Cộng Ḥa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng Minh vào Việt Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.

 

Chúng tôi thất trận không phải v́ chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà v́ người Mỹ đă phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương tŕnh Việt Nam hóa chiến tranh, c̣n được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đă chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng Minh bàn giao lại. Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt Nam Cộng Ḥa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam Bốt trong chiến dịch B́nh Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự h́nh tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,

 

– Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đă đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Tôi đă đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đă chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đă hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rơ sự khác biệt.

 

Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi th́ Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà  Lạt đă bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đă nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Pleime do tôi trấn giữ đă bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hăm 34 ngày đêm. Pleime cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đă hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. V́ t́nh trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong t́nh trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

 

Chúng tôi đă chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đă hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đă bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu v́ sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đăi chiến binh của chính nước Hoa Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đă tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hăng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,

 

“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett, Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách giơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nh́n với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhă đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đă buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hăng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đă giới thiệu tôi vào làm việc cho hăng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đă khiến tôi mừng quá lắm rồi.”

 

Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê b́nh cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đă bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, làm như thế ông đă phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đă gieo vào trí óc học tṛ những thành kiến sai lầm đối với Việt Nam Cộng Ḥa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo:

 

– Thầy c̣n nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?

 

– Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học tṛ Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!

 

– Cậu bé Việt Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) v́ nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đă nói hết những điều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

 

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,

 

– Tôi tin lời ông, v́ chẳng có lư do ǵ để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đ́nh Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đă hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

 

Nghe được những lời nói chân t́nh từ miệng ông giáo sư, ḷng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đă thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,

 

“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”

 

Đêm ấy trên đường về nhà, ḷng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Pleime, tôi đă đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những ṿng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân Đoàn II ḥa tấu.

 

Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung b́nh (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).

 

Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên v́ thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,

 

“Long! I’m proud of you!”

 

Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi th́ ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu,

 

“My soldier! I’m loving you!”

 

Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.

 

Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nh́n về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên v́ hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo ḥ, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.

 

Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những ḍng này (2011) hàng chục ngàn học tṛ đă tới, rồi giă từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đă đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đă ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quư như một tấm huy chương, vẫn c̣n văng vẳng,

 

“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”

 

VML-K20-Seattle tháng 7 năm 2011

 

* Hoa Kỳ đă chính thức có mặt ở Việt Nam từ ngày 16 tháng 7 năm 1944, nhóm OSS của Allison Thomas nhảy dù xuống an toàn khu Việt Cộng ở khu vực lân cận làng Tân Trào (Kim Lũng) cùng hai thành viên người Mỹ trong đội của anh là Prunnier, Zielski, hai người Pháp và một người Việt tên là Phác tiếp theo là nhiều người nữa. Nhóm OSS này huấn luyện quân sự cho Việt Cộng nên xem như cha đẻ của "Quân đội nhân dân" được khai sinh vào ngày 22-12-1944.

Thiếu tá Thomas trở thành bạn thân của Vơ Nguyên Gíap và Hồ Chí Minh đă cùng hành quân từ Tân Trào về Hà Nội ngày 16 tháng 8, Allison Thomas và Vơ Nguyên Giáp tấn công Thái Nguyên.Thomas đă nỗ lực giúp Vơ Nguyên Giáp buộc quân Nhật tại Thái Nguyên phải đầu hàng ngày 26 – 8 – 1944, khi Vơ Nguyên Giáp vào Hà Nội sớm từ ngày 21. Lúc đó  Đại uư Archimedes Patti cùng đội Mercy đáp xuống phi trường Gia Lâm vào Hà Nội trở thành một trung tâm quyền lực của Đồng Minh. Archimedes Patti và Hồ Chí Minh đă có một mối quan hệ thân thiết tại Côn Minh từ trước. Ngày 25-8-1945  Hồ Chí Minh ghé thăm Thomas trước khi vào Hà Nội gặp Archimedes Patti ngày 26. Nhưng sau hiệp định Geneve 20-7 1954, Hoa Kỳ mới chính thức can dự sâu vào Việt Nam qua việc dựng lên lá bài Ngô Đ́nh Diệm.

ĐỌC THÊM

 

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge ֎ Mười điều răn ֎ Ten Commandements

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎ Foreign Trade

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days ֎ USA Census

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: