MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Bài Viết Của Kim Âu ֎ Đại Kỷ Nguyên
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018
֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018
֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScienceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZ
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvInvestors
vN PublicRadiovForeignTradevBrookings
vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran
vOpen Culture vSyndicate vCapital Research
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền
vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn
vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng
vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân
vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong
vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCS
vĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng.TDũng v Ba Sàm
vVăn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
QUẲNG THÁNH KINH ĐI,
COI CHỪNG TÔN GIÁO
KHẢO LUẬN CHƯA ẤN HÀNH CÙA TÁC GIẢ ĐẶNG VĂN NHÂM
KHAI ĐỀ
TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO LÀ G̀?
Cho đến nay, trong chúng ta vẫn c̣n nhiều người, v́ quá mộ đạo, nên vẫn không dám công khai nh́n nhận " ông trời, thượng đế, hay chúa trời Yahvé ..chỉ là " con đẻ " của những bộ óc Do Thái hoang tưởng nhắm mục đích duy nhất bịp đời, kiếm ăn. Quan trọng nhất là những kẻ ấy cũng chưa phân biệt minh bạch được 2 danh từ : tín ngưỡng ̣( belief ) và tôn giáo ( religion).
Theo ta, tín ngưỡng có nghĩa: tin + ngửa mặt nh́n lên ( tỏ ư cung kính), tức vừa tin vừa kính trọng. C̣n tôn giáo có nghĩa: kính trọng + dạy bảo, tức kính trọng và tuân lời dạy bảo cuả đấng thiêng liêng là ông trời, một nhân vật trừu tượng, mơ hồ, mà từ cổ chí kim, trên 2 ngàn năm qua, chưa từng một ai trông thấy mặt ngang, mũi dọc và h́nh dung tṛn méo cuả ông ta ra sao !
Sở dĩ ḷng tín ngưỡng phát sinh là do thủy tổ loài người từ thời thượng cổ, giống hầu nhân đă tự thấy ḿnh hèn yếu trước vạn vật, khiếp sợ từ nước, lửa, gió, băo, núi cao, sông rộng, sóng cao, từ phiến đá đến gốc cây cổ thụ, chí đến các loài cầm thú như :cọp, beo, rắn, rết, chuột, khỉ và các giống chim muông v.v… nên sinh ḷng úy hăi, mà phải tôn thờ chúng như một vị thần linh với hy vọng sẽ được che chở, giúp đỡ. Bằng chứng , trong dân gian trên mặt địa cầu, nhiều nơi đă tạc tượng thờ cúng các loài ác điểu, dă thú, cọp beo, sư tử, rắn hổ mang, khỉ đột, một phiến đá to cao, một gốc cây cô thụ v.v...Bởi vậy, đọc sử sách, kinh điển, ta dễ nhận ra " ḷng sợ hăi thiên nhiên của loài người từ cổ xưa đến nay chính là nhân tố thiết yếu bậc nhất đă đẻ ra... các tôn giáo". Nhưng măi đến khi con người đă sáng chế ra văn tự để truyền thông tư tưởng, lúc đó mới bắt đầu nảy sinh ra các tổ chức tôn giáo với h́nh thức
tụ tập đông đảo như phe nhóm, băng đảng và đẻ ra các loại thánh kinh.
Theo các tài liệu khảo cổ và sách ghi chép của các nhà nhân chủng học,khoảng từ 3.500 năm đến 3.000 (trước TC), dân Sumer , trong vùng Lưỡng Hà, mới sáng chế ra được loại chữ tượng h́nh Pictogramme.Sau đó trong vùng Viễn Á, nước Tàu mới chế ra được loại chữ Idéogramme, chỉ có kư hiệu ghi ư, ghi h́nh chứ không ghi âm. Măi đến năm 3.000 (trước TC) mới ghi được cả âm ( fonogramme ). Cùng thời kỳ này, người ta thấy dân Ấn Độ cũng chế ra được văn tự của họ.
Từ năm 3.000 đến năm 2.500 (tTC) loại chữ tượng h́nh (Hiéroglyphe) của dân Ai Cập phát sinh trên toàn vùng đất dọc theo 2 bên bờ gịng sông Nil.
Khoảng từ năm 1.000 đến 700 (t.TC) mẫu tự Cyrilique của Hy Lạp ra đời và phát triển dọc lên miền Đông-Bắc Âu Châu qua các sắc dân Slave. Đến khoảng năm 600 ( t TC) mẫu tự La Tinh xuất hiện lần đầu tiên trên " ḥn đá đen " nơi người dân La Mă thường hội họp (Forum Romanum), c̣n gọi là họp chợ. Từ đó loại mẫu tự này phát triển khắp vùng Tây Âu , dưới thời các triều đại Carolingien ( nên c̣n gọi là loại chữ Carolin, hay Gothique v.v...)
* CHÚ GIẢI SƠ LƯỢC: VĂN TỰ TƯỢNG H̀NH LÀ G̀?
Ngày nay, hầu hết thế giới đều dùng, ( trừ một số quốc gia theo Hồi giáo có kiểu mẫu tự riêng ), hệ thống An-pha-bê, do dân Phéniciens khởi sáng, làm phương tiện ghi chép tư tưởng của loài người. Tuy nhiên, cũng có nhiều chủng tộc, v́ lạc hậu, hoặc v́ tập quán lâu đời, vẫn phải duy tŕ phương pháp họa h́nh (système pictographique) trong văn tự, như từ thủa muôn vạn năm xưa.Lối văn tự tượng h́nh hay họa h́nh có khi c̣n rất thô sơ như kiểu viết của dân indiens ở Châu Mỹ và dân Esquimaux ở vùng Bắc Cực.Gần đây,người ta t́m thấy nhiều cuốn niên lịch bằng da trâu của dân da đỏ Dakotas thuộc vùng Alaska, Bắc Mỹ. Thổ dân này đă dùng vật nhọn mũi mà vạch lên da trâu phơi nỏ, tỷ như một h́nh người có nhiều chấm nhỏ ở toàn thân,để ghi một nạn dịch đậu mùa hay ban đỏ; hay vạch một h́nh nhân có nhiều tia dài nơi cửa miệng, để “kỷ niệm” một trận dịch ho gà của trẻ nhỏ.
Lối văn tự họa h́nh của dân Esquimaux cũng không khác mấy, nhưng họ không dùng da trâu, mà dùng gỗ hay xương cốt súc vật .Xét ra, lối văn tự tượng h́nh đă có ngay từ Thái cổ do các dân tộc Trung Hoa, Á rập và Ai Cập v.v… phát minh.
Bằng lối cổ tự (hiéroglyphes), người Ai Cập thủa xưa đă “viết” chữ đại khái như sau:
Muốn viết chữ “SAO”, họ vẽ một điểm tṛn có phụ thêm năm tia nhỏ từ điểm đó tỏa ra các phía. Muốn viết chữ ”ĐÊM”, họ vẽ một ṿng cong h́nh bán nguyệt úp sấp, rồi thêm một ngôi sao ở phía dưới . Muốn viết chữ “TÉ”, họ vẽ h́nh một bức tường nghiêng đổ. Muốn viết chữ “ĐỘI”, họ vẽ một đầu người có cái lọ để trên …
Người Á rập xưa cũng dùng phương pháp đó. Nhưng về sau, họ cải biến và đơn giản hóa dần dần, cho tới mức chỉ c̣n là những dấu hiệu (signes), không ăn nhịp ǵ với lối tượng h́nh nguyên thủy.
Sau khi xét qua những kiểu viết của dân Esquimaux, Indiens ngày nay hay của dân Ai Cập, Á rập ngày xưa, rồi so sánh với Hán Tự, ta thấy rằng lối chữ tượng h́nh của người Trung Hoa hoàn hảo hơn nhiều, nhưng rất rườm rà, cầu kỳ và khó nhớ.
Thoạt kỳ thủy, người Trung Hoa cũng chỉ biết “viết” một cách thô sơ như kiểu Á rập và Ai Cập nói trên, nghĩa là họ vẽ theo gần đúng h́nh hài của những vật mà họ muốn ghi chép.
Tỷ như, họ đă viết chữ “NHÂN” giống với h́nh người; chữ “MỤC” giống con mắt; chữ “NHĨ” giống cái tai; chữ “KHẨU” giống cái miệng; chữ “HỎA” giống ngọn lửa cháy; chữ “XUYÊN” giống ḍng sông chảy; chữ ”SƠN” giống dăy núi ba cḥm; chữ “MĂ” giống con ngựa; chữ “NGƯ” giống con cá; chữ “ĐIỂU” giống con chim.
Nhưng về sau, người Trung Hoa thấy rằng nếu cứ vẽ nguyên h́nh các đồ vật và súc vật, th́ vừa mất th́ giờ, vừa trông rắc rối không đẹp, nên họ đơn giản hóa và hoa mỹ hóa dần dần, khiến cho ngày nay, ta mới có những chữ Hán gọn gàng và đẹp mắt.
Bằng chứng là hiện thời, mặc dầu đă có quốc ngữ, người Việt
vẫn ưa dùng chữ Hán, nhất là kiểu chữ TRIỆN (Caractères calligraphiques), trong việc trang sức thân thể, cũng như việc trang hoàng pḥng khách, bàn thờ, đ́nh, chùa, nghè, miếu … khác nào, vào hồi thế kỷ 17 và 18 trở đi, người Aâu Châu đă ưa dùng kiểu chữ Gothique do người Đức đặt ra.
Một đặc điểm của Hán Tự là ngoài lối viết tượng h́nh, lại c̣n lối viết hội ư (écriture idéoghaphique).Tỷ dụ , để tả anh thợ săn bắn chết mười con sư tử, người ta liền vẽ một cái nỏ (arbalète) căng giây, hướng vào h́nh vẽ của mười con sư tử. Nhưng để đỡ tốn công, người đời sau chỉ vẽ mười cái đầu sư tử, có mũi tên dài xuyên thủng ngang qua. Rồi người đời sau nữa lại đơn giản hóa đến mức tối thiểu …
Đó là cách dùng một phần làm tiêu biểu cho toàn thể hay dùng một vài vật hữu h́nh rồi xếp đặt lại để gợi ư tới những vật trừu tượng, vô h́nh dung hay không cụ thể. Cho nên, người Trung Hoa đă viết hai chữ “MỘC” để chỉ cái rừng (Lâm: ), hay ba chữ “MỘC” thành chữ “sâm “ để tả cái cảnh cây cối um tùm rậm rạp.
Đồng thời, Hán Tự, với hai cái dấu chân bước , nếu ở trên gacïh ngang là chữ “THƯỢNG ), nếu ở dưới gạch ngang là chữ “HẠ "; một gạch ngang đặt ở trên chữ “THỔ ) thành chữ “VƯƠNG ) với ngụ ư rằng nhà Vua có quyền hành hơn hết mọi người trên trái đất; một gạch ngang đặt trên chữ “ĐẠI “ thành chữ “THIÊN “ với hàm ư rằng Trời là lớn nhất trong vũ trụ; một dấu chấm điểm trên đầu chữ “VƯƠNG” thành chữ “CHÚA”, ( ) nếu điểm bên cạnh chữ “VƯƠNG”, thành chữ “NGỌC” ( ).
Về chữ “VIẾT” ( ) là nói, (theo Hán tự, th́ chữ “ TẢ “ nghĩa là “VIẾT“ (écrire ), c̣n chữ “VIẾT” nghĩa là “NÓI” : (dire), như trong câu “ KHỔNG –TỬ-VIẾT”, người ta chỉ việc chấm thêm một điểm ngang vào giữa chữ “KHẨU’ ( ), để tỏ rằng khi mồm há ra và lưỡi lo le, tức là “ NÓI “vậy. Ngoài ra, chữ “ TÙ” ( ) gồm có chữ “NHÂN“ ( người ) trong một cái khung như bốn bức tường đóng kín; chữ “SẦU “( ) gồm có chữ “THU“ ở trên chữ “TÂM “, ( Thu tâm ai gợi lên sầu?!!) , để tả nỗi buồn mỗi độ
thu sang với hoa tàn, lá úa…
Nhưng không hiểu tại sao, người Trung-Hoa thượng cổ lại khinh thường bạn nữ lưu quá xá?! Bằng chứng là người Trung-Hoa đă quy tụ ba chữ “ NỮ “ là con gái, để làm thành một chữ “ GIAN “ nghĩa là kém đoan trang và bất chính. Aâu, một phần cũng là nhờ chữ Hán, mà ta càng biết thêm cái óc “ Trọng nam khinh nữ “ của dân tộc Á-Đông thủa xưa vậy. Ngoài ra, cũng nhờ Hán tự mà ta có thể t́m hiểu được phần nào về trạng thái xă hội thời Phong kiến phôi thai. Tỷ như chữ “QUẦN “ là “ BẦY” ( Troupeau ), đem phân tích ra, ta thấy chữ “QUẦN” ( ) họp lại bởi chữ “QUÂN” là ông Vua, là người cầm đầu, và chữ “DƯƠNG” là con dê; như vậy, xă hội cổ Trung-Hoa cũng đă sống bằng nghề chăn dê, nghề du mục. Hay cũng chính chữ “QUẦN”, nhưng nghĩa là cái quần ( pantalon ); chữ “ QUẦN” ( ) này gồm có “QUÂN” là Vua, là người cầm đầu và chữ “Y” ( ) theo nghĩa cổ nghĩa là vật che thân thể, có khi bằng lá cây hay da muông thú… Như vậy, có lẽ, về thời Thái cổ, trong mỗi bộ lạc , chỉ có một ḿnh viên đầu xỏ là được mặc quần , c̣n bao nhiêu bộ hạ đều phải cởi truồng hay đóng khố ( ?)
Tóm lại, lối văn tự tượng h́nh và hội ư của người Trung-Hoa thật là tinh vi, ư vị và phong phú, khiến cho không thể nào hiểu xiết được.Để dẫn chứng, chúng tôi xin giới thiệu bộ “KHANG-HI TỰ- ĐIỂN “là một trong những bộ sách có giá trị nhứt của Văn học sử Trung-Hoa. Bộ Tự vị này xuất bản cách đây gần 300 năm, dưới trào Vua Khang-Hi ( Kang-His ) tức Thanh Thánh Tổ ( 1662-1722 ). Cuốn sách này được soạn thảo rất công phu, hàng mấy năm trời , với sự hợp tác của toàn thể văn quan trong Triều và các bậc sĩ phu trứ danh trong nước.
Ấn hành trên giấy “ tàu bạch “ vừa tốt, vừa mỏng và bóng, bộ Khang-Hi Tự-Điển gồm có 12 đại tập ghi tên theo thập nhị CHI, ( từ Tư, sửu… đến Tuất Hợi); mỗi đại tập lại chia làm 3 tiểu tập, tỷ như tập Tư th́ chia ra “TƯ TẬP THƯỢNG “, “TƯ TẬP TRUNG “và “ TƯ TẬP HẠ “ Bộ Khang Hi Tự Điển này, tôi nhận thấy nó chứa tới 45.000 chữ Hán. Ấy là chưa kể những tiếng mới mượn của Âu-Mỹ và những tiếng v́ nhu cầu mới được đặt ra trong khoảng gần trăm năm nay, như ta đă thấy trong lối văn “ Bạch-Thọai” ( Pạc Và) hiện thời.
Chữ Hán đă nhiều lại khó viết, khó nhớ ; v́ không có mẫu tự, nên học chữ nào là chỉ viết một chữ ấy thôi. Hơn nữa, nếu sai một ly, sẽ đi một dặm. Tỷ như chữ “ ĐIỀN”, ( ) nếu nét sổ ở giữa tḥ lên sẽ thành chữ “DO” ( ) , thụt xuống sẽ thành chữ “GIÁP” ( ), nếu vừa thụt vừa tḥ sẽ thành chữ “THÂN” ( )…Chính v́ thế mà năm 1955, Ô. Wei Chueh, Chủ Tịch Ủy Ban Cải cách Hán Tự đă phải phàn nàn với kư giả Anh-Cát-Lợi James Cameron như sau: “ Ở nước tôi, một em học sinh mười tuổi phải học tới 200 chữ; nếu muốn đọc nhựt báo, ít nhứt phải hiểu 7.000 chữ. Các nhà in nước tôi, tối thiểu phải có 35.000 chữ đúc. Chúng tôi không có an-pha-bê, nên không thể dùng máy chữ được. Về điện tín, chúng tôi phải đếm nét chữ, rồi đổi ra con số ( chiffres ). Như vậy, việc giáo dục ở nước tôi bị ngăn trở rất nhiều, và văn hóa bị chậm tiến. Cho nên , chúng tôi nhất quyết phải cải cách Hán Tự, để theo kịp trào lưu tiến hóa của Tây-Phương”…
* (Tài kiệu tham khảo:Le premier alphabet de l’ homme của Johannes lowenstein; Les hommes fourmis (les Chinois) travaillent của J. Cameron; La définition du mot”Ecriture” của Paul Augé; Phần cổ văn trong bộ KHANG HI TỰ ĐIỂN).
Bây giờ, nếu căn cứ vào các chứng liệu nêu trên, ta có thể ước đoán ra quăng thời gian nào các tôn giáo Du Già ,Thiên Chúa và Hồi giáo ở Trung Đông đă ra đời cùng với các loại thần linh, thượng đế vô h́nh, vô tướng bằng phương tiện truyền thông của "chữ nghĩa". Tóm lại cho dễ nhớ : Tất cả các kinh thánh loại này đều chỉ ra đời trong khoảng thời gian từ 500 năm trước TC và không quá 1.000 năm ! (* Ghi chú: đạo Hồi của các sắc dân Ả Rập ra đời sau đạo TC khoảng 500 năm sau T). Riêng các tôn giáo trong vùng Viễn Đông như các đạo Phật, Khổng, Lăo...đều đă phát sinh trước các đạo Du Già, Thiên Chúa và Hồi giáo ít lắm cũng từ 500 năm.
Nên biết, tiến tŕnh khai sinh ra tôn giáo chỉ khởi sự phát triển khi tâm năo con người đă manh nha tư tưởng tín ngưỡng. Với ḷng úy kỵ, sợ hăi sâu sắc ghê gớm các hiện tượng huyền bí hung tàn của thiên nhiên họ mới qui tụ với nhau thành các nhóm đông đảo, lập giáo thuyết tôn thờ các đấng thần linh quyền lực vô biên nào đó như huyền thoại, để được che chở. Đó là bước đầu tiên khởi sự h́nh thành cái khung tôn giáo với những bộ sách được xưng tụng là "thánh kinh" (síc! ) dầy cui hàng mấy ngàn trang giấy kể đủ thứ chuyện bịa đặt hoang đường nhảm nhí, dă man, cộng chung với những điều luật hăm he trị tội phàm tục và xử tội cực kỳ độc ác như: đóng cọc lỗ đít, ném đá đến chết, hỏa thiêu ... nhân danh thượng đế bù nh́n !
KINH THÁNH LÀ G̀?
KINH THÁNH (Holy Writ, Bible) là tên chung gọi những bộ sách " CỰU ƯỚC và TÂN ƯỚC" của riêng các đạo Du Già Do Thái và Thiên Chúa Tây Phương. Chữ " KINH" bắt nguồn từ Hán tự (bộ Mịch , 13 nét), chỉ những bộ sách ghi chép lời dạy cao siêu, thánh thiện của các bậc hiền nhân quân tử. Nếu nói là "KINH ĐIỂN" th́ ư chỉ các loại sách thánh hiền, sách về cương thường đạo lư, sách tài liệu cao kiến của cổ nhân uyên bác được lưu truyền làm khuôn vàng thước ngọc về các vấn đề học thuyết, chủ nghĩa, những trải nghiệm thực tế hiếm quí cho hậu thế. Đó là cái gốc của văn hóa.
Sở dĩ con người được cao quí hơn các loài cầm thú v́ nhờ có văn hóa . Mà khi đă gọi là "văn hóa" tất nó phải có tính chất thanh cao, thiện hảo. Đó một điều kiện bắt buộc không thể thiếu (sin qua non). Trong văn hóa kể gồm cả đức tin, tôn giáo và luân lư (la foi, la religion, la morale). Như vậy, tóm lại, 2 bộ sách Cựu Ước và Tân Ước của các đạo Thiên Chúa, Du Già đều là những quyển sách..." thánh", trong đó ghi chép toàn những lời khải truyền của các vị thánh, chúa của 2 đạo ấy, gồm từ Chúa Trời Yahvé (c̣n gọi là chúa cha), Chúa Jesus ( chúa con), cùng với các thứ siêu thánh như Moise, 12 vị thánh tông đồ và rất nhiều vị thánh linh tinh khác nữa. Để truyền bá tín ngưỡng, 2 tôn giáo kể trên đă dùng chung luôn cả 2 bộ kinh Cựu Ước và Tân Ước làm phương tiện giáo dục các tầng lớp con chiên bổn đạo. Sự cố này từng diễn ra liên tục suốt 2 ngàn năm qua, khiến trên khắp thế giới đă có rất nhiều bậc thông thái kinh điển Du Già và Thiên Chúa không khỏi bị "ngứa tai, gai mắt, nhức nhối lương tri" phải lên tiếng phê b́nh công kích kịch liệt, tạo nên một khu rừng kinh điển, phê b́nh, mổ xẻ kinh sách, t́m hiểu giáo thuyết của đủ loại thần linh, thánh, chúa và ác qủy Satan...thiết tưởng dù cho ngày nay, nếu có ai
muốn dùng cả cuộc đời để chuyên tâm khảo sát cũng không
sao đầy đủ. Do đó, khi nghiên cứu và biên soạn sách này, tôi chẳng phải là một con ong khai sơn phá thạch, chẳng phải là kẻ đầu tiên lên tiếng phê b́nh nghiêm chỉnh, mà chỉ là một kẻ phàm phu, tục tử rất tầm thường, hành động theo bản năng thiên nhiên và tự tính hiếu kỳ của một cá nhân ham thích học hỏi những điều hay lẽ phải trong tác phẩm của các bậc cao nhân viễn kiến trên thiên hạ. Đặc biệt nhất, trong hàng trăm tác giả ngoại văn nổi tiếng khắp thế giới có tên ghi trong " thư mục tham khảo" nơi cuối sách này, tôi c̣n được dịp chuyển dịch một số văn đoạn trực tiếp từ các tác giả Christopher Hitchens, Normand Rousseau, André Comte-Sponville, Bernard Feillet, Natale Benazzi & Matteo d'Amico, Pascal Boniface, Odon Vallet...Tác phẩm của các vị ấy đă giúp cho chúng ta có những tài liệu giá trị để tham cứu, trích lục, hầu giúp cho nhau - một giống dân c̣n tŕ độn, chậm tiến - sớm kịp t́m lại chút ánh sáng tuyệt vời của "sự thật", mà từ hàng ngàn năm qua đă bị những thứ tôn giáo tín ngưỡng ngoại lai tù mù, u ám, chân giả bất phân, che chắn, lừa gạt!
Theo lệ thường, từ cổ chí kim bất cứ một thứ vật dụng ǵ đă cũ xưa, lỗi thời, hư hỏng, rách nát, dơ bẩn, xông mùi xú uế, hay một món ăn nào đă bị nhiễm trùng khi chế biến, những miếng thịt đă thiu thối, bám đầy ḍi bọ..., dù quí báu đến đâu v́ lư do vệ sinh cá nhân và mục đích nhân đạo, ngăn ngừa tật bịnh truyền nhiễm hiểm nghèo cho cả một vùng đông đúc dân cư, người ta đều phải quẳng nó đi, ném chúng nó vào thùng rác đóng kín nắp lại, hoặc rắc vôi bột sát trùng, rồi chôn sâu trong ḷng đất v.v...Đối với những món ăn tinh thần c̣n nguy hiểm và quan trọng nhiều hơn thế. V́ khi loại độc tố tinh thần ấy đă xâm nhập vào tim óc con người rồi, chẳng những nó phá hoại trí năo trong sáng của nạn nhân, nó c̣n di truyền, bám trụ trong đầu óc con cháu của họ đến ngàn đời không thoát khỏi. Bởi thế, những thứ thánh kinh chuyên chở giáo thuyết nhồi sọ tinh thần cuồng tín u mê, mang tính vô luân, tuyên truyền thú tính giết người dă man hàng loạt có tính diệt chủng, dâm loạn, vô nhân đạo của các đấng thần linh, thánh chúa với dụng ư
"làm gương" (sic!) cho tín đồ đều phải loại ra khỏi các kệ sách gia đ́nh và thư viện ngay lập tức. Chính bởi hậu quả tinh thần ghê gớm kể trên; nay , với tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu này, tôi mạn phép nêu lên câu hỏi sau đây để bạn đọc, bất phân tôn giáo, tùy nghi suy luận tự t́m ra cho ḿnh một lư giải thích nghi:
" TẠI SAO CHƯA QUẲNG THÁNH KINH ĐI?"
Bất cứ ai đă có dịp đọc hết bộ thánh kinh Cựu Ước và Tân Ước của các đạo Du Già Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo, cũng như bộ kinh Coran của Hồi giáo (vốn bắt nguồn từ 2 đạo kể trên), đều không khỏi rùng ḿnh kinh ngạc và buồn nôn như kẻ tác giả này.
1 - Về mặt văn chương, bố cục lủng củng, không mạch lạc, thiếu nhất quán, lời lẽ và văn ngôn trong thánh kinh thô kệch, tối nghĩa, nhiều khi dùng phép ẩn dụ (parabole) rất lệch lạc khó hiểu, kể ra toàn những chuyện pha trộn hoang đường, hư cấu với chút ít màu mè lịch sử đương đại, tiền hậu bất nhất, mâu thuẫn lung tung, chẳng khác nào một anh già nhà quê lẩm cẩm, lú lẫn, nói trước quên sau, đầu đuôi lộn xộn. Nếu so với bộ sách" Thất Tài Tử Thư " của Trung Hoa cổ, các chuyện kể trong kinh thánh thua xa về mọi mặt từ h́nh thức đến nội dung. Thua luôn cả bộ tiểu thuyết : Hồng Lâu Mộng, Kim B́nh Mai... Thậm chí, nếu so với những chuyện dân gian như: Tây Du Kư, Thủy Hử, chuyện kiếm hiệp của nhà văn Kim Dung, các bộ thánh kinh Cựu Ước và Tân Ước chỉ là một thứ hợp soạn bịa đặt vụng về, ngây ngô đáng buồn cười.* Nên biết: Bộ truyện kiếm hiệp của Kim Dung đă đạt đến mức thượng thừa, quán cổ xuyên kim về nghệ thuật kể truyện, hấp dẫn đến độ thu hút độc giả mê man như lạc lơng trong giấc mộng du vô tận. Về mặt bố cục vô cùng liền lĩ, uốn lượn tài t́nh như gịng thác chảy không hề ngừng đọng trong giây phút. Truyện nào của Kim Dung cũng gồm rất nhiều nhân vật đủ loại (đông hơn kinh thánh gấp chục lần!), hoạt động liên tục, với các t́nh tiết tự nhiên, hợp lư, xảy ra hết sức bất ngờ rồi diễn biến nhanh như
chớp.
2- Về mặt giá trị kiến thức thánh kinh lại càng hết sức tồi tệ,
phơi bày một tŕnh độ hiểu biết rất nông cạn, nếu không nói là ngu ngốc đến độ phản khoa học. Bằng chứng bất khả kháng biện là vụ giáo hội Thiên Chúa đă hành h́nh dă man các khoa học gia Giordano Bruno (1584) và Galilée. Hơn thế, khi xử nhục h́nh Galilée và hỏa thiêu Giordano Bruno, giáo hội TC c̣n chứng tỏ đă hành động phản thiên nhiên, phản khoa học. Sự ngu dốt của các hàng giáo phẩm lănh đạo TC giáo thời ấy đă kéo lùi tiến độ khoa học của nhân loại đến mấy ngàn năm! Hành động hỏa thiêu nữ thánh Jeanne d'Arc, nữ anh hùng dân tộc Pháp, ngoài đại ác tội giết oan v́ ḷng ghen tị, kèn cựa với món "đồng trinh" thứ thiệt của một người con gái nông dân, chứ không phải thứ đồng trinh kiểu "nước vỏ lựu máu ṃng gà" của đức bà Marie. Đồng trinh ǵ mà đẻ đái con cái tùm lum ( nombreuse nichée) vẫn c̣n...đồng trinh?! * Nên biết: theo lời kể của thánh Matthieu (XIII 55-57), chúa Jesus c̣n có thêm 4 người anh em trai và nhiều chị em gái nữa!Trong kinh Phúc Âm của thánh Jacques, ta không thấy xác nhận, nhưng cũng không hề phủ nhận điều này. Vậy, hiển nhiên là chuyện ấy có thật! Ngoài ra c̣n một nhân vật khác nữa , cũng tên Jacques trong kinh thánh, mà nhiều nhà nghiên cứu thánh kinh và TCG đă cho là anh em của chúa Jesus! Truy nguyên đến kỳ cùng, ta mới nhận ra sai lầm nguyên thủy có tính cốt lơi về món " đồng trinh" (vierge), hay c̣n gọi là " trinh sản" ( parthénogenèse) của bà Marie, vốn gốc chữ Hébreu " almah" chỉ có nghĩa đơn giản là một "thiếu phụ" ( jeune femme) mà thôi! Vậy mà các nhà biên soạn thánh kinh Tân Ước, toàn gốc dân Do Thái, bỏ đạo Du Già chạy theo TC giáo, dám dịch ẩu là
."đồng trinh"!!!
3- Về mặt chính trị, xă hội, các bộ kinh thánh của đạo Thiên Chúa Du Già càng thua kém rất xa, xa lắc xa lơ các bộ "Tứ Thư, Ngũ Kinh" của Khổng giáo, bộ " Đạo Đức Kinh" của Lăo Tử, và của các bậc thánh triết Hy Lạp... Trên mọi phương diện nghệ thuật trị quốc an dân, giáo dục quần chúng, phát triển văn hóa và tổ chức trật tự xă hội, các nhà đại hiền triết đông phương đă không hề dạy quần chúng phải dùng bạo lực sát nhân hàng loạt như đức chúa trời Yahvé, thánh Moise, và các thánh tông đồ Paul, Pierre...v.v...
4- Về mặt luân lư, đạo đức, kinh thánh của các giáo hội Du Già Thiên Chúa hoàn toàn trái nghịch hẳn với tinh thần bao dung, phóng khoáng và tư tưởng cao siêu tuyệt diệu trong giáo thuyết của Phật Thích Ca, của Không Tử và Lăo Tử. Trên thực tế, từ 2.500 năm về trước đến nay, loài người ở các nước Á châu đă có tục "TAM GIÁO ĐỒNG MÔN" , thờ cả 3 tôn giáo : Phật giáo, Khổng giáo, Lăo Giáo cùng chung trong một giáo đền, một chùa. Trong khi đó, ngược lại 3 tôn giáo của các giống dân Sémites và dân Tây phương, tuy cùng theo đường lối độc thần giáo, cùng thờ chung một chúa trời Yahvé, cùng chia xẻ một thứ giáo thuyết...nhưng lại thù hận lẫn nhau đến mức không đội trời chung, tàn sát lẫn nhau đến đứa con đỏ sơ sinh cực kỳ dă man liên tục suốt 2 ngàn năm qua.Trước hết, các đạo cùng một gốc, gồm: Du Già, Thiên Chúa, Hồi giáo tàn sát lẫn nhau hàng ngàn năm qua chưa dứt. Trong nội bộ đạo Thiên Chúa chia ra nhiều chi phái: Thiên Chúa La Mă,Chính Thống, Cơ Đốc (Tin Lành), Anh quốc giáo (Anglican) ,Phản Thệ Giáo Calvin (Thụy Sĩ)...Đạo Hồi, sau khi đấng tiên trị cuối cùng Mohamed qua đời, đă phân hóa thành 2 hệ phái : Sunnit và Chiite, tàn sát lẫn nhau, không chừa đàn bà con nít mới đẻ, hằng ngày, cho đến nay c̣n đang diễn ra vô cùng tàn bạo tại (Iraq). * Nên biết: Phe Hồi giáo Sunnit thờ giáo chủ khai sáng Mohamed, thánh địa ở La Mecq thuộc nước Arabie Séoudite. C̣n phe Chiite thờ giáo chủ Ali, vừa là "người anh" con chú con bác, đồng thời c̣n là " con rể" của giáo chủ Mohamed. Thánh địa có đền thờ giáo chủ Ali đă được dựng lên tại thủ đô Bagda, nước Iraq. Mối hận thù vu vơ, phi nhân tính và vô luân lư của các đạo ấy đă khùng điên đến độ như thế chưa đủ, các đạo Du Già, Thiên Chúa, Hồi giáo c̣n chủ trương bách hại, tàn sát diệt chủng hết mọi tôn giáo khác, gọi là "dị giáo", của loài người trên mặt đất! Toàn bộ kinh thánh của 2 tôn giáo Du Già, Thiên Chúa c̣n tỏ ra rất tầm thường, dung tục quá lố, bịa sạo chuyện khải truyền, và chỉ nhắm mắt tôn thờ Yahvé, một đức chúa trời hoang tưởng,tâm hồn nhỏ mọn, ḷng dạ tôm tép, gian ác, hung tàn, dă man, hiếu sát, hết sức ghê tởm, đáng phải nguyền rủa đến muôn đời ( xin đọc sâu vào tác phẩm sẽ thấy chứng tích đầy đủ). Khi hành đạo, chiếu theo các sự kiện ghi trong kinh thánh và các dấu vết lịch sử tôn giáo, suốt 2.000 năm qua, giáo hội Thiên Chúa c̣n tỏ ra khát máu, gian tham, vơ vét, tích lũy tiền bác, tài sản của các giới giáo dân để làm giàu, trái hẳn với lời dạy của chúa Jesus . [ Một cách giống như vậy, đạo Hồi, phái Chiite, cũng lợi dụng tôn giáo, nhân danh thượng đế Allah Bakkhahi, buôn bán thân xác các nữ tín đồ, lập ra giáo luật " hôn nhân tạm thời" (mariage temporaire) để bán giấy phép cho bọn đàn ông được giao hợp với người đàn bà theo giá biểu ấn định từ 1 tiếng đồng hồ, đến 2 tiếng, 3 tiếng... hoặc một ngày , một tuần lễ v.v... tùy nhu cầu. Sau khi gấy phép hết hạn, 2 kẻ nam nữ " kết hôn tạm" ấy được coi như đă ly dị là xong !] Như vậy, giáo hội TC đă hành động gian ác ghê gớm, nguy hiểm hơn cả đức chúa trời Yahvé của họ gấp vạn lần! Phải chăng đó là thứ nghĩa vụ thiêng liêng của hạng tôi tớ "noi gương chúa" của giáo dân?!
* Nên chú ư: Suốt mấy ngàn năm qua, nhất là từ sau đệ nhất thế chiến đến ngày nay, trong bất cứ một chuộc chiến tranh đẫm máu nào trên mặt quả địa cầu, người ta vẫn đều thấy thấp thoáng gần xa bóng cây Thập Tự Giá!
Tóm lại, đối với một loại "thánh thư" kể toàn những chuyện thiển cận, thù hận ngút trời, tham lam, gian ác, hiếp dâm tập thể và chém giết lẫn nhau dă man, tàn bạo tới nỗi máu người trong thành Jerusalem đă ngập tràn lên đến tận mắt cá chân, tại sao, cho đến nay vẫn không thấy một ai phát động chiến dịch hủy diệt ngụy thư?
QUẲNG THÁNH KINH ĐI KHÔNG... DỄ !
Nêu câu hỏi trên, có lẽ tôi chưa thông suốt được chút nào về lịch sử các tôn giáo của nhân loại, nói chung gồm cả 2 khuynh hướng: độc thần giáo ( Du Già, Thiên Chúa, Hồi giáo) và đa thần giáo (Vật Linh, Bà La Môn, Ấn giáo, Phật, Lăo, Khổng...). Nếu tôi đă thực sự quán triệt được phần nào tôn giáo sử Đông -Tây, tất nhiên tôi phải biết sự tích đấng Thiền Tổ đời thứ 28 ở Ấn Độ, Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) năm 520 (sau TC, ngày 21, thg 9, âl.) ngài đă qua Trung Quốc diễn giảng đạo lư cho vua nhà Lương là Vơ Đế nghe. Thời bấy giờ, ở bên Tàu , người ta đều tu học đạo Phật theo lối " hữu vi", nên không biết nhiều về thuyết "vô vi", nên chẳng mấy ai hiểu ngài. Ngài vào núi Tung, đến chùa Thiếu Lâm , diện bích suốt 9 năm, tu thiền định với chủ trương khai phóng " bất lập văn tự, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật".Nói nôm na là:" vô sư vô sách, quỷ thần bất trách, qủy thần tri ". Bởi ngài đă kịp nhận ra đám rừng kinh sách rậm rịt chỉ là thứ chướng ngại vật lớn lao đă ngăn bước chân và làm lạc lối con người t́m đường đạt đạo và bọn thầy chùa lưu manh, gian ác dễ lợi dụng, lừa gạt đám quần chúng ngu si. Tóm lại, như vậy ngài đă là nhân vật tiền phong thực hiện việc " QUẲNG THÁNH KINH ĐI..." . Khi đă vứt bỏ hết kinh sách rồi th́ đám tu sĩ " trung gian giữa ông trời và con người" tất nhiên trở thành vô dụng, bị phế lọai. V́ sau khi đă qua sông rồi, c̣n ai vác chiếc thuyền gỗ nặng nề, thô kệch theo làm ǵ nữa? Hay là khi ta đă nh́n thấy mặt trăng rồi, ta đâu cần đến ngón tay chỉ trỏ của ai kia làm ǵ nữa, phải không?!..
Như vậy chứng tỏ đấng Thiền Tổ Bồ Đề Đạt Ma đă quán triệt được tận gốc rễ của sự tu hành và tính chướng ngại vô cùng lớn lao của thánh kinh; nhưng phát kiến tích cực của ngài vẫn không đủ sức thuyết phục nhân loại và tín đồ Phật giáo chịu " quẳng thánh kinh đi..." và chỉ tu đạo theo lối " trực chỉ chân tâm" và " kiến tánh", tức theo đạo, tu đạo bằng chính tấm ḷng trong sáng và trí khôn biết phân biệt đúng / sai, hay/ dở của ḷng ḿnh.
Bây giờ đem vấn để "quẳng thánh kinh đi..." của Thiền Tổ Bồ
Đề Đạt Ma mà quán chiếu vào vấn đề kinh sách của các đạo thờ độc thần của Tây phương ta thấy điều ǵ? Mặc dù tính chất vô luân của kinh thánh đă hiển lộ quá hiển nhiên, đến nỗi ngay cả các đức giáo hoàng, các hàng chức sắc cao cấp lănh đạo ṭa thánh Vatican cũng không ai dám ra mặt phủ nhận hay biện bạch ǵ. Nhưng giải quyết một vấn đề tín ngưỡng đă tồn tại trong năo tủy con người cả mấy ngàn năm không đơn giản như ta quẳng một món ăn nhiễm độc vào thùng rác. Riêng trong quần chúng , chẳng một lực lượng thế tục nào, dù là chính phủ dân chủ uy tín mạnh mẽ đến đâu, cũng không dám đụng đến vấn đề cực kỳ nhạy cảm ấy. Trước một vấn đề quá phức tạp, hết sức tế nhị và vô cùng khó khăn, đầy áp lực chết người đó, ta chỉ c̣n trông cậy vào 2 yếu tố rất tiêu cực là thời gian và sự tỉnh ngộ của các giới tín đồ mà thôi!
Theo ta biết, qua trải nghiệm cuộc sống, các yếu tố tiêu cực thường chỉ đem đến những hiệu quả rất phi phỏng sau một thời gian hết sức lâu dài. Tuy nhiên, riêng vụ kinh thánh của đạo TC, ngày nay ta cảm thấy có đôi chút phấn khởi và đáng tự tin hơn. V́ lẽ từ nửa thế kỷ gần đây, dường như giáo hội TC đă cảm thấy điều ǵ bất ổn đang nổi cộm như một cục bướu độc hại trong thánh kinh, nên họ không c̣n năng nổ tuyên truyền, rôm rả rao giảng thánh kinh và áp đặt nghiệt ngă giáo luật đối với tín đồ như xưa nữa. Thí dụ giáo hội Thiên Chúa ngày nay đă bị tách rời khỏi lănh vực chánh trị, giáo quyền không được phép ngang nhiên xâm phạm, hay can thiệp vào lănh vực thế quyền, giáo hội không c̣n tùy tiện ngăn cấm triệt để các vụ: kết hôn dị giáo, phá thai, ngừa thai, đồng tính ái ân..., không dùng ṭa án giáo h́nh xử tội hỏa thiêu, ném đá, đóng cọc lỗ đít mấy người đàn bà, đàn ông " đồng đạo" can tội gian dâm cẩu hợp.Thậm chí ngày nay, bọn con chiên phạm đại tội phản chúa, phản giáo, bôi bẩn giáo điều ghi trong kinh thánh- như bọn tu sĩ pédophiles vậy!- vẫn nhởn nhơ kéo nhau đến nhà thờ đọc kinh, rước lễ trước mặt chúa mà vẫn không hề bị các cha cố, thay mặt chúa khuyên răn hay trừng phạt mảy may ǵ (lạ thật!). Ngoài ra, các con chiên bổn đạo không c̣n bị buộc tội phù thủy, báng đạo, phạm thánh, phản đạo v.v...
Trong dư luận, c̣n có nguồn tin cho rằng giáo hội TC đă cấmcác giới con chiên bổn đạo đọc kinh thánh và đă thu hồi các bộ kinh thánh vô luân ấy. Nếu quả vậy, thật là điều vạn phúc cho các giáo dân?! Trong lănh vực tinh thần quần chúng, ta nhận thấy từ cuối thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, nhờ phát minh khoa học thông tin điện tử thần tốc, trí khôn của loài người đă mau chóng mở mang bao la hơn xưa. Hăy dẫn ngay một chứng tích vĩ đại, hùng hồn nhất: Hiện con người trên quả địa cầu này đă thành công vẻ vang trong cuộc phóng vệ tinh lên sao Hỏa và đang nghiên cứu khí hậu, phong thủy để tiến hành chương tŕnh đưa con người lên đó sinh sống. Được biết: quả đất chúng ta đang sống đây cách xa HỏaTinh (Mars) đến 92 triệu Km. khiến hành tŕnh thám hiểm Sao Hỏa phải mất đến 7 tháng. (Theo tài liệu của Nasa, công bố ngày 17.4.14, các khoa học gia về vũ trụ học phải đo bằng tốc độ " ánh sáng". Một năm ánh sáng = 9.460 tỷ (milliards) cây số...).Bởi con người đă có khả năng cướp quyền tạo hóa, đồng thời lật mặt nạ lừa bịp của " chúa trời " trong kinh thánh, nên có thể v́ vậy mà giáo hội TC không c̣n dám thản nhiên đầu độc tư tưởng tín đồ bằng những chuyện huyền thoại hoang đường ngớ ngẩn, phản khoa học nữa!
ĐỨC TIN BĂNG HOẠI
Do đó giáo hội TC đành phải thả lỏng cho đức tin (la foi) của các giới tín đồ tha hồ tự do bay bổng khắp không gian và vũ trụ. Như ta đă biết, hiện nay, chẳng ai không biết t́nh trạng suy thoái đức tin TCG La Ma ở Âu Mỹ đă diễn ra hết sức trầm trọng. Khoảng 20 năm trước đây, những buổi họp giáo dân tại nhà thờ của các giáo xứ thường đông đúc, nay chỉ c̣n thưa thớt, loe ngoe vài mống già nua lụ khụ đang lê lết trên đường t́m đến với chúa trời Yahvé hoang tưởng của họ! Tội nghiệp! Nhưng để cho chính xác hơn, căn cứ vào con số thống kê những người rửa tội trong năm 2.000 so với năm 1.900 đă giảm sút mất một phần ba. Ngày xưa, dưới thời kỳ thực dân, số người cải đạo (đôi khi bị cưỡng bách bằng vơ lực) trong các nước Á Châu và Nam Mỹ Châu rất nhiều. Kể từ khi chế độ thực dân đă cáo chung, con số tín đồ tân ṭng cũng giảm thiểu trầm trọng. Bây giờ, tính chung tín đồ TCG La Mă trên thế giới có khoảng trên 1 tỷ người, và Tin Lành có khoảng nửa tỷ. Sa sút thảm hại nhất có lẽ là phái Chính Thống (Orthodoxe) ở Đông Âu và Nga Sô. Khoảng năm 1.900, trong số 5 người dân có một tín đồ Chính Thống Giáo. Bây giờ con số tụt mất phân nửa. Trong 10 người dân mới có 1 người theo Chính Thống Giáo. Trước năm 1939, bốn nước TCG hàng đầu ở Âu Châu gồm : Đức, Ư Đại Lợi, Pháp và Tây Ban Nha. Ngày nay những nước TCG đứng hàng đầu là: Ba Tây (Brésil), Mễ Tây Cơ, Hoa Kỳ, và Phi Luật Tân. Ngày xưa, nước Pháp vốn được tôn xưng là ”trưởng nữ” của giáo hội TCG La Mă nay đă bị tụt xuống hàng thứ 6, đứng sau nước Ư (hàng thứ 5). Về phía đạo Tin Lành, sau Anh, Mỹ là đến nước Nigéria, và cộng đồng dân da đen , thuộc các chủng tộc Phi châu, gốc nô lệ đă bị cưỡng bách theo đạo của đế quốc thực dân Anh...
Nhận định về đức tin TCG, ta thấy nữ sĩ Mme de Maintenon đă viết:” Ở các tỉnh, tín đồ Thiên Chúa không c̣n nữa!”. Thực sự , ngày nay các giáo đường TCG ở vùng quê đều vắng tanh chẳng khác ǵ những cái giếng khô giữa sa mạc. Hơn nữa , công chúa Palatine c̣n nói thêm :” Niềm tin đă tắt!” (La foi est éteinte)! Mới đây (2014), theo một thống kê về đức tin TC tại Pháp, người ta không khỏi ngạc nhiên nhận thấy: Trong 2 người Pháp đă có hơn 1 người tự nhận ḿnh vô tín ngưỡng!
Trong tác phẩm ”Pensées détachées”, văn hào Bossuet, thời vua Louis XIV, đă từng nói:” Người ta coi Thượng Đế như chẳng có ” (On compte Dieu pour rien).
Niềm tin đă mất, số lượng tín đồ sa sút, nhưng trong mấy năm gần đây, hành động phạm pháp, đặc biệt là tội ”pédophilie” (gian dâm cẩu hợp với trẻ con trong giáo phận) của giới tu sĩ TCG Âu, Mỹ đă làm sứt mẻ rất nhiều uy tín tôn giáo, đồng thời gây thiệt hại rất lớn lao cho ngân sách của ṭa thánh Vatican. Theo tin tức truyền thông và dựa trên hồ sơ ṭa án, báo New York Times cho biết, tính đến ngày 31. 12. 2002, đă có 4.268 nạn nhân tuyên bố hay đă nạp hồ sơ kiện các tu sĩ TCG can tội lạm dụng t́nh dục trong 6 thập niên qua. Kết quả cuộc khảo sát này cho thấy: trong đó có 1,205 linh mục (tức 1,8% tu sĩ được phong linh mục từ năm 1950 đến năm 2001) đă bị tố giác tội lạm dụng t́nh dục. Trong số đó, nhiều người được thụ phong trong khoảng các năm 1950 và 1970. Nhưng các vụ phạm pháp này đă xảy ra nhiều nhất trong 2 thập niên 70 và 80. Trong số có khoảng 50% linh mục bị tố cáo đă làm t́nh từ 1 đến 4 thiếu niên, và 16% đă làm t́nh từ 5 trẻ trai trở lên...!
Mới đây nhất, hiện c̣n đang nóng hổi, trong khoảng thời gian từ những ngày 4-8 tháng 6. 2014, trên mặt truyền thông, báo chí, truyền thanh truyền h́nh Anh Quốc và Ái Nhĩ Lan đă khui vụ mồ hoang tập thể của 800 cô nhi vô thừa nhận trong khuôn viên của Nữ Tu Viện " THE TUAM HOME" thuộc quận Galway County ở Ái Nhĩ Lan (Irland) (theo con số kiểm điểm của địa phương, trong nấm mồ chôn tập thể vĩ đại ấy, người ta chỉ t́m thấy có 796 hài cốt trẻ sơ sinh, từ mới đẻ ra được 2 ngày cho đến 9 năm tuổi là nhiều nhất, nên đă gây chấn động dư luận quần chúng khắp Âu châu, nhất là các giới tín đồ, con chiên bổn đạo thuần thành của Thiên Chúa Giáo!
Nên biết: Nữ Tu Viện Tuam Home vốn là một trong tồng số 10 nữ tu viện lớn đă do các nữ tu đồng trinh, độc thân của giáo hội Thiên Chúa Ái Nhĩ Lan, thuộc tổ chức" Bon Secours Nuns" điều hành quản trị từ năm 1925 đến 1961, chuyên môn quyên tiền từ thiện của bá tánh để nuôi trẻ mồ côi, con hoang vô thừa nhận và cũng là nơi tạm trú của trên 35.000 phụ nữ chửa hoang ( unmarried pregnant women) - c̣n gọi là " những người đàn bà con gái sa ngă" ( fallen women) - ...Nhưng thời gian sau này có nhiều dư luận tại địa phương cho rằng phần đông trẻ con vô thừa nhận của tổ chức này toàn là con chửa hoang của các " ma sơ" (ma soeur) đồng trinh (sic!) và các giới cha cố phạm giới lén lút tạo tác nên, nhưng không đăng kư sổ bộ khai sinh của thị xă hoặc khai báo với giáo hội.
Trước vụ này, tổng giám mục Diarmuid Martin, cai quản địa phận Dublin, một khuôn mặt nổi trội trong hàng giáo phẩm của giáo hội TCG Ái Nhĩ Lan, đă phải lên tiếng:"...cần phải mở cuộc tra cứu toàn bộ...". V́ tất cả những vụ chôn cất chung hàng mấy trăm hài nhi vào một nấm mộ hoang không cả mộ bia trong nghĩa địa riêng của Nữ Tu Viện " TUAM HOME" đều không ghi bất cứ một chi tiết nào về tên tuổi, ngày giờ và nguyên nhân tử vong của từng đứa trẻ đă qua đời. Đặc biệt kỳ dị là chính đức tổng giám mục của nước cộng ḥa Ái Nhĩ Lan cũng phải tỏ ư vô cùng kinh ngạc về ngôi mộ hoang tập thể lớn lao ghê gớm ấy. Riêng giám mục Michael Neary, người đứng đầu địa phận, nơi gồm có Nữ Tu Viện TUAM HOME cũng không khỏi thốt ra câu:" Tôi hết sức kinh ngạc, như mọi người, khi được biết về tổng số khủng khiếp trẻ em tử vong đă chôn trong nghĩa địa ở TUAM!".... ( Trích lược tin của BBC từ 4 - 8.6.14). Trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm qua, giới tu sĩ TCG thường vẫn phải đối phó với nạn thặng dư nhân sự hơn là thiếu hụt. Thời cổ đại, trong đền thờ Amon ở Karnak đă có đến 81.322 tu sĩ. Để thoát khỏi tệ nạn tu sĩ toàn quyền năng ở Thèbes, quốc vương Aménophis IV đă phải chọn tín ngưỡng Aton, thờ độc thần. Thuở sinh tiền chúa Jésus, lúc đó đền Jérusalem cũng đă có từ 12.000 đến 15.000 đạo sĩ, cộng thêm bọn thầy tu gịng Lévite Do Thái, chuyên làm việc tế tự trong giáo đường. Để chống lại những hành vi nhũng lạm của bọn tu sĩ cha truyền con nối và chuyện buôn thần bán thánh, Jésus đă muốn triệt hạ ngôi đền và đuổi cổ hết bọn buôn bán, gây ô uế , ra khỏi nơi thờ tự thanh khiết. Nhưng, hỡi ôi, sự việc bất thành, ngài đành chịu đóng đinh trên cây thập tự giá!
Nếu khi nào luật độc thân được băi bỏ, và tu sĩ trở thành như một nghề kiếm cơm như nghề luật sư, bác sĩ...và được hưởng quyền kế nghiệp, cha truyền con nối, hay mẹ (làm linh mục, mục sư) truyền nghề cho con gái v.v... được giáo hội thừa nhận, có lẽ lúc đó số tu sĩ có thể gia tăng nhiều hơn, và các trường ḍng của giáo hội sẽ bị tràn ngập học sinh.Trong trường hợp này, nếu được phần lượng sẽ mất phần phẩm. Nhưng dù sao, trước nạn khan hiếm tu sĩ trầm trọng khắp nơi, giáo hội đành phải nhắm mắt chấp nhận hy sinh cái phẩm để lấy lượng. Hiện tượng đặc biệt nhất là ngày nay giáo hội TC đă không dám sa thải một linh mục phạm tội ấu dâm nào, mà chỉ loay hoay hoán chuyển những phạm nhân ấy ṿng ṿng từ giáo phận nay sang giáo phận khác mà thôi! Những chỉ dấu trên đây đă hé lộ cho ta thấy: Chẳng c̣n bao lâu nữa tôn giáo sẽ trở thành cái vỏ dừa rỗng ruột, tức nhà thờ và giáo hội vẫn tồn tại như xưa, nhưng đức tin Thiên Chúa đă tan biến mất như một vũng nước bốc hơi và các giáo sĩ chỉ c̣n trơ lại như một thứ kư sinh trùng xă hội, hành động vô tích sự, sống vô sản xuất. Thực trạng này hiện nay đă và đang diễn ra tại Do Thái, ngay trong ruột gan của đạo Du Già, phái chính thống, cuống rốn của đạo Thiên Chúa. Từ xưa, đám tu sĩ Rabbins đạo Du Già chính thống của Do Thái vốn được hưởng toàn quyền đặc miễn trong mọi lănh vực, từ gia đ́nh ra ngoài xă hội chỉ v́ lư do tu học. Mọi thứ gánh nặng trong gia đ́nh, làm việc kiếm tiền, nuôi nấng, dạy dỗ con cái...đều do người vợ phải đảm trách. Hồi đầu năm nay (2014), chính phủ Do Thái nhận thấy có sự bất công trong nghĩa vụ quân sự, đă ban hành luật mới, động viên tất cả các giới tu sĩ đạo Du Già chính thống. Lập tức những kẻ "tu hành" (sic!) này liền dùng chiêu bài tôn giáo, vịn cớ tu học, phản đối mạnh mẽ, kêu gọi nhau xuống đường chống chính phủ lung tung! Hành động như thế, các tu sĩ Do Thái Du Già chính thống đă nói lên điều ǵ? Đó là cái vỏ tôn giáo thờ đức chúa trời đă rỗng ruột, tức một thứ tôn giáo đă KHÔNG C̉N ĐỨC TIN NỮA, mà chỉ là một thứ hang ổ tập họp những người hoàn toàn vô trách nhiệm, lười biếng, suốt đời chuyên ăn hại đái nát! Hơn nữa, sự kiện ấy c̣n cáo giác thêm một sự thật rất ê chề và vô cùng cay đắng là bọn tu sĩ hàng mấy ngàn năm qua đă chỉ mượn danh tôn giáo để trục lợi, hưởng nhàn và làm..."cha" thiên hạ!
TÔN GIÁO VÀ VÔ TÔN GIÁO KHÁC G̀ NHAU?
Trước khối tín đồ ngày nay đă trở nên văn minh, sáng suốt hơn và đức tin đă bị phá sản đến cùng cực và đang âm thầm tan ră từng mảng lớn như mấy tảng băng bị ánh nắng mặt trời nung đốt, khiến các vị giáo hoàng TC không c̣n tự coi ḿnh là bậc siêu nhân quán thế " KHÔNG LẦM LỖI" (infaillibilité).
* Nên nhớ : Từ thế kỷ XI, các giáo hoàng TC La Mă đă được hưởng quyền thế tục" KHÔNG LẦM LỖI" (infaillibilité). Nhưng đó chỉ là một cái vỏ che đậy bên ngoài, sự thực của lịch sử đă chứng minh rất nhiều ông giáo hoàng đă vô cùng lầm lỗi và rất vô luân. Điển h́nh đáng kể nhất trong thời cận đại của chúng ta, khoảng các thập niên 1930-40, tức thời kỳ đệ nhị thế chiến với Đức Quốc Xă, giáo hoàng Pie XII, đă trở nên một thứ chính trị gia Machiavel tân thời đă công khai hợp tác với tập đoàn Nazis (Đức Quốc Xă) đến mức nổi danh với biệt hiệu là " Giáo Hoàng của Hitler" (Pape de Hitler). Tuy giáo hoàng Pie XII đă không trực tiếp xả súng đại liên giết người hàng loạt bên những hố tử thần đă đào sẵn như mấy tên lính Quốc Xă hay những tay đệ tử trung thành, tín đồ TC ngoan đạo của ngài như những tên Ante Pavelic, lănh tụ dân Croate theo đạo TC cùng với đồng bọn của hắn là bọn "Oustachics" (cái tên này do Pavelic đặt cho, nó bắt nguồn bởi động từ "Outati", nghĩa là : vùng lên! ). Nhưng dưới sự chỉ huy trực tiếp và nôn nả, hăng say đôn đốc của giáo hoàng Pie XII chỉ trong ṿng có 4 năm, từ 1941-45, bọn chúng đă tắm trong biển máu của hàng triệu dân Serbes tín đồ Chính Thống Giáo, dân Do Thái, và dân Bohemiens, Tziganes v.v...(tác phẩm: Le Pape et Hitler,l'Histoire secrète de Pie XII, của John Cornwell, nxb Le Club). Chính v́ thế mà sau này giáo hoàng Jean Paul II, gốc dân Ba Lan, đă phải công khai lên tiếng " xin lỗi" toàn thể tín đồ và nhân loại về các đại ác tội trong quá khứ của đạo TC. Kế đến, đức giáo hoàng Benedict XVI phải thoái vị, v́ các tội lỗi ô uế, bẩn thỉu của các giới lănh đạo tinh thần con chiên khắp nơi trên thế giới. Đây là một biến cố độc nhất vô nhị trong lịch sử hàng ngàn năm của giáo hội TC La Mă. Gần đây nhất, mới vài ngày nay (đầu tháng 4. 2014) vị đương kim giáo hoàng Francis đă phải dùng đài phát thánh của giáo hội "Vatican Radio" kêu gọi các cộng đồng giáo dân khắp thế giới hăy tha thứ cho các tu sĩ phạm tội gian dâm cẩu hợp với trẻ con...Sự kiện này hiển nhiên đă chứng minh niềm tin của giáo dân đối với giáo hội Thiên Chúa đang trên đà sa sút nghiêm trọng! Tại sao ông không cầu xin đức chúa trời cha và con tha thứ cho những kẻ chăn chiên phạm tội ô uế ấy?! Cầu nguyện như thế ông giáo hoàng vừa khỏi mắc tội " truất quyền " của đức chúa trời lại c̣n thêm hợp t́nh hợp lư, theo đúng hệ thống thứ bâc giáo quyền theo mẫu h́nh Kim Tự Tháp.
Mặt khác,theo tôi, giáo hoàng Francis công khai ngỏ lời xin tha tội cho các tu sĩ TCG phạm đại tội h́nh sự như vậy c̣n tỏ ra bất công và bất minh. Rơ ràng ông muốn bao che cho các can phạm đồng đạo của ông. Đặc biệt nhất là ông đă cố t́nh mưu dùng giáo quyền để trấn áp thế quyền.Tại sao ông không ra lịnh" rút phép thông công" ngay lập tức đám tu sĩ gây nhơ bẩn cho đạo, làm tan vỡ niềm tin trong quần chúng tín đồ? Tại sao ông không để cho nhà cầm quyền sở tại điều tra vụ án, lập hồ sơ truy tố công khai bọn lợi dụng danh nghĩa tôn giáo, vi phạm luật đời, xâm hại ấu nhi? Ông nên nhớ rằng: Những kẻ phàm nhân, nếu phạm các tội ấy sẽ phải đền tội nhục h́nh rất nặng nề đến măn kiếp trong ngục thất! Tôi mong đợi được ông giáo hoàng hay một vị đại diện nào đó của ṭa thánh Vatican chỉ giáo. Xin đa tạ trước!
May sao, ngày 23 tháng 12. 2014, theo các nguồn tin tức truyền thông thế giới, trong một đại hội long trọng tại ṭa thánh Vatican, chính đương kim giáo hoàng, Francis, đă công khai lên tiếng mạnh mẽ phê phán gay gắt t́nh trạng quan liêu ở Vatican trong một thông điệp tiền Giáng sinh gửi đến các vị hồng y. Ngài than phiền về ‘bệnh Alzheimer tinh thần’, ‘sự khủng bố bằng lời đồn đại’, ‘suy nghĩ ngày một cứng rắn’, và ‘cảm giác ḿnh là măi măi và không ai đụng được đến ḿnh’.Ngài nói Giáo triều Roma – cơ quản điều hành tối cao của Giáo hội Thiên chúa giáo La Mă – đang mắc ‘15 căn bệnh’ mà Ngài muốn chữa trị trong năm mới. Giáo hoàng Francis, vị lănh đạo Giáo hội đầu tiên đến từ châu Mỹ-Latin, cũng phê phán ‘những ai bị ám ảnh bởi h́nh ảnh của ḿnh’. Ngài yêu cầu cải cách Giáo triều. Khi Giáo hoàng Francis kết thúc bài diễn văn của ḿnh, cử tọa ngồi im lặng.êu ở Vican
Trong bài diễn văn hôm thứ Hai ngày 22/12, Giáo hoàng Francis nói một số giáo sỹ ham muốn quyền lực đă phạm tội ‘thản nhiên giết chết thanh danh của các vị đồng sự và huynh đệ của họ’. Ngài so sánh công việc của đội ngũ chức việc trong Giáo hội giống như một dàn nhạc ‘lỗi nhịp’ bởi v́ họ không hợp tác được với nhau và không có tinh thần làm việc nhóm.Trước khi được bầu lên hồi tháng 3/2013, Giáo hoàng Francis đă gặp phải chống đối nội bộ đối với một số cải cách mà Ngài muốn thực hiện.
Ngài đă thành lập một loạt các cơ quan chuyên trách để chống tham nhũng và quản lư yếu kém đồng thời cũng chỉ định một đội ngũ cố vấn.Giáo hoàng cũng phát động việc làm sạch Ngân hàng Vatican vốn bị nhiều tai tiếng sau hàng loạt vụ bê bối. áo hoàng Francis dường như ông nhận được sự
Ngài cũng đề nghị tản quyền của Vatican – vốn tập trung vào tay Giáo triều trong hàng trăm năm qua – để cho phép các giám mục trên khắp thế giới có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề về giáo lư của Giáo hội.Bản thân Giáo hoàng Francis chưa từng làm việc trong Giáo triều trước khi bước lên ngôi vị giáo hoàng.Từ Rome, phóng viên BBC David Willey b́nh luận:
“Rơ ràng Giáo hoàng Francis đă gặp phải sự chống đối trong số gần 3.000 thành viên của Giáo triều mà đa số là người Ư.
Ngài chưa từng làm việc ở Rome trước khi Ngài được bầu làm Giáo hoàng hồi năm ngoái. Ở Vatican, Ngài là người ngoài đến từ một nơi khác. Ngài rơ ràng rất bất măn với tác phong làm việc tŕ trệ và yếu kém ở Vatican.Ngài đang cố gắng cải cách Vatican với sự giúp đỡ của một nhóm cố vấn bao gồm các hồng y mà Ngài triệu tập từ khắp các châu lục để soạn thảo một bản Hiến pháp mới của Vatican.”
Một hôm sau, trong thông điệp Giáng sinh thứ nh́, "Urbi et Orbi", Đức Giáo hoàng nhắc đến các nạn nhân của cuộc xung đột tại Syria và Iraq.Trong đó có những lời đáng ghi nhớ như sau:
"Quá nhiều người đang bị giữ làm con tin hoặc bị thảm sát" tại Nigeria, Ngài nói thêm. Giáo hoàng Francis cũng thúc giục đối thoại giữa Israel và Palestine, và lên án các cuộc tấn công của Taliban tại Pakistan.Hàng chục ngàn người đă tới Quảng trường St Peter để nghe Đức Giáo hoàng người Argentina đưa ra thông điệp hàng năm.Ngài nói người Thiên chúa giáo tại Iraq và Syria đă phải chịu cuộc xung đột quá lâu, và "cùng với những người thuộc các nhóm sắc tộc thiểu số và các nhóm tôn giáo khác, đang phải chịu sự đàn áp tàn bạo"."Mong rằng Giáng sinh sẽ đem tới cho họ niềm hy vọng, và cho cả những người phải ly tán nhà cửa, phải sống lưu vong, tị nạn, cho các trẻ em, người lớn, người già ở nơi này cũng như trên toàn thế giới," Đức Giáo hoàng nói.
Trong bài diễn văn ngày Giáng sinh, Ngài cũng cầu cho ḥa b́nh tại Ukraine, Nigeria, tại Libya, Nam Sudan và các vùng khác của châu Phi.Ngài kêu gọi hăy chia sẻ cảm thương cho gia đ́nh của 132 thiếu niên bị giết trong vụ Taliban tấn công ở Pakistain hồi tuần trước, và cho các nạn nhân của nạn dịch Ebola.Trong hôm thứ Tư, Ngài đă có cuộc điện thoại gây ngạc nhiên tới cho những người tị nạn ở một khu trại gần Irbil thuộc vùng Kurdistan phía bắc Iraq. "Các con giống như Đức Jesus trong đêm Giáng sinh vậy. Ngài cũng không có một căn pḥng nào cho ḿnh," Ngài nói với họ.Cuộc tiến quân vào Iraq của các tay súng Nhà nước Hồi giáo (IS) đă khiến hàng chục ngàn người Thiên chúa giáo và thuộc các nhóm phái tôn giáo khác phải bỏ chạy".
Các lời phê b́nh và cổ động gắt gao trên đây của giáo hoàng Francis, không biết mai sau có đem đến cho giáo hội TC chút cải tiến cụ thể ǵ không,nhưng ngay lúc này đă khiến chút niềm tin và hy vọng nhỏ nhoi c̣n le lói trong tôi chợt bùng lên để tiếp tục hoàn tất tác phẩm này. Tôi hy vọng những tín đồ ngoan đạo khắp nơi trên thế giới, chẳng cứ ǵ dân VN tŕ độn, chậm tiến hăy sớm mở mắt, mở tai và mở cả trí tuệ của ḿnh ra noi theo tinh thần của giáo hoàng Francis, mà soi rọi vào các cuộc bắn giết dă man, tàn bạo, đầy thù hận, hoàn toàn thú tính trên khắp thế giới, hằng ngày, do các tôn giáo độc thần gây ra.
Với tinh thần tôn trọng tự do tín ngưỡng hoàn toàn trong sáng và ḷng chân thật không thay đổi, với sách này, tôi chẳng có ư khen chê, bài bác tôn giáo nào mà chỉ nói lên một sự thật rất cụ thể, rất dễ kiểm chứng vốn đă tích lũy trong kinh thánh Du Già, TC và Hồi giáo từ nhiều ngàn năm qua. Dù cho đọc xong sách này, ai đó vẫn cứ tiếp tục phụng thờ tôn giáo, cứ tiếp tục tin nơi thần linh, thánh chúa của ḿnh, hoặc trở nên vô thần...cũng chẳng sao, chẳng ảnh hưởng mảy may nào đến xă hội, miễn là cá nhân đó, trước tiên phải " tự biết ḿnh trước khi biết đến tôn giáo và chúa trời..." đúng theo lời dạy của thánh triết Hy Lạp Socrate!
Tôi nhận định: Một tín đồ tuyên xưng mộ đạo, mang danh nghĩa tôn giáo toàn ṭng mà chẳng biết tí ǵ về tôn giáo và đức chúa trời của ḿnh (đă ghi rơ trong thánh kinh), nếu so với một kẻ vô tín ngưỡng, hay vô thần, cả đời không đọc một chữ thánh kinh, không tin trời, không tin thiên đàng hay địa ngục ǵ ráo trọi, và nhất là chẳng hề nghe lời khuyến dụ của những kẻ khoác áo tu hành... cả 2 kẻ ấy đều như nhau!
TÔN GIÁO, MỘT NHU CẦU?
V́ bị nhồi sọ cưỡng bách bằng lối tuyên truyền lừa gạt và hù dọa trắng trợn từ các đời cha ông đến tận ngày nay, nên nhiều người đă quan niệm hết sức sai lầm, cho rằng " tôn giáo là một nhu cầu". Vậy, nhu cầu tôn giáo là ǵ? Theo định nghĩa của từ điển Le Robert":" Một nhu cầu là một đ̣i hỏi phát sinh từ thiên nhiên hay do đời sống xă hội" (Un besoin est une exigence née de la nature ou de la vie sociale)". Thí dụ: nhu cầu về mặt thiên nhiên là: " tứ khoái", gồm : ăn, ngủ, đ..., ỉa"! Con người mà không có nhu cầu " tứ khoái", không ăn uống, không ngủ, không giao hợp được, bị táo bón đến mức không đi ỉa được...nhất định 100% , vài ngày sau sẽ chết toi ngay! Ngược lại, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, chưa một kẻ nào đă bị chết v́..."VÔ TÍN NGƯỠNG" hết thảy. Vậy, tại sao lại dám gán bậy cho là ...nhu cầu tự nhiên?!
C̣n tôn giáo là ǵ? Chẳng qua nó chỉ là một h́nh thức tụ họp nhiều người như các tổ chức hội đoàn nghề nghiệp, hiệp hội ái hữu, băng đảng, bầy đàn, bè nhóm linh tinh... tùy sở thích của mỗi cá nhân, chẳng khác nào một thứ đồ trang sức xe xua có tính cách phô trương màu mè, cho một cá nhân. Với khái niệm ấy, chúng ta hăy nh́n chung quanh một lượt, rồi xét xem từ cổ chí kim đă có kẻ nào đă bị chết toi v́ chứng tật " vô tôn giáo" không? Ngoài ra, những người có tôn giáo với những người vô tôn giáo có ǵ khác nhau không? Hơn thế, trong giới con chiên ngoan đạo trên cơi thế gian này đă có ai dám công khai tự phán câu kinh Phúc Âm sau đây:" Ta tốt đẹp hơn những kẻ khác!"(Je suis meilleur que les autres!)(Luc. 18,9) hay không ?!
Tóm lại, ta có thể khẳng định dứt khoát: Tôn giáo hoàn toàn không phải là một nhu cầu, Có cũng được, không càng tốt hơn, miễn đừng đánh mất đức tin! Đức tin tôi nói đây không phải là thứ tín ngưỡng một đấng thần linh, một ông trời độc nhất nào đó do tôn giáo nhồi sọ. V́ hàng tỷ người đă tín ngưỡng, cầu xin ông trời liên tục suốt ngày đêm hàng mấy ngàn năm qua mà chẳng hề một ai được thấy ông ta đáp ứng dù chỉ trong nháy mắt! Đức tin mà tôi đề cập nơi đây hoàn toàn không thể thiếu và thuộc về thiên bẩm cá nhân, ví như bánh lái con tàu lênh đênh trên sóng cả, phong ba băo táp của đại dương.
" ÔNG TRỜI": MỘT BỊA ĐẶT ĐỘC HẠI GHÊ GỚM CỦA TÔN GIÁO!
Trước khi nói chuyện " ông trời", ta hăy nêu lên vài điểm chính về "vũ trụ luận". Từ đó tự nhiên ta sẽ nhận ra ngay các đức chúa trời, gồm: chúa cha Yahvé, chúa con Jeusus và Allah...có phải những ông trời thứ thiệt hay chỉ có tính cách ngụy tạo, con đẻ của bọn Do Thái viết thánh kinh.
Căn cứ trên thánh kinh: đức chúa trời Yahvé của dân Do Thái là người đă sáng tạo ra vũ trụ, đồng thời c̣n là " cha đẻ" (sic!) ra toàn bộ nhân loại và các loài sinh động vật trên mặt đất này Khởi từ ông Adam và bà Eva! Nhưng, ngược lại, trớ trêu thay, các nhà thông thái nghiên cứu về khoa học vũ trụ và nhân chủng học cùng với các nhà khảo cổ lừng danh thế giới đều chẳng một ai thèm đếm xỉa một lời nhỏ xíu nào đến nhân vật huyền thọai nhảm nhí ấy.Riêng khoa học gia Charles Darwin (1809-1882) người Anh đă cùng với các nhà bác học danh tiếng đồng thời, gồm: Henslow, Hooker, Lyell...sọan ra các tác phẩm giá trị bất biến:"Bàn về nguồn gốc các giống, loài bằng đào thải tự nhiên (1859)", "Bàn về sự thay đổi của vật nuôi và cây trồng (1859)", "Bàn về gịng dơi loài người (1871)," Sự biểu hiện về cảm xúc ở người và vật (1872)", "Kết quả thụ tinh trực tiếp và thụ tinh chéo trong giới thực vật (1876)"...Tóm lại Darwin là một nhà địa chất, nhà sinh vật học, nhà tâm lư, nhà lư luận chính yếu về " Tiến Hóa luận" và vũ trụ luận. Học thuyết của ông đă được nhiều khoa học gia khắp thế giới ủng hộ (T.H. Huxley). V́ học thuyết " BIG BANG" của Darwin, ông chúa trời Yahvé của các tôn giáo bị nổ banh xác không c̣n một hạt bụi li ti nào trên mặt đất, họa chăng chỉ c̣n rơi văi ngấm ngầm vài mảnh vụn trong ḷng của một số giáo đồ chậm tiến nhất. Với thuyết ấy, vũ trụ này đă tự sinh và tự hiện hữu, từ " vô thủy đến vô chung", chẳng một kẻ thần thánh dởm nào đủ khả năng tạo ra nó khi cao hứng, rồi sau này sẽ ra tay diệt nó khi...cụt hứng! Vẫn theo thuyết Darwin và công tŕnh nghiên cứu khoa học của các nhà nhân chủng và khảo cổ học, chúng ta được biết đă có nhiều loài sinh động vật từng xuất hiện trên mặt địạ cầu này hàng tỷ năm về trước...Riêng thủy tổ giống người, đầu tiên chỉ mới xuất hiện tại Phi Châu khoảng 150.000 năm trước đây, kế đến vùng Trung Đông, khoảng từ 80.000-130.000 năm, rồi tới A Châu ( khoảng 50.000 năm) và cuối cùng lan tràn trên lục địa Au Châu (khoảng 40.000 năm).[Illustreret Videnskab.nr..1, 2011]. Dựa trên cơ sở biện chứng trên đây, nếu ta chịu khó đào sâu thêm chút nữa, tất sẽ thấy ḷi ra ngay nơi sinh, tháng đẻ của ông chúa trời Yahvé Do Thái. Ong chúa trời này được sinh ra đời không bằng con đường âm đạo thông thường của nữ giới, mà lại do bọn tác giả soạn kinh " Cựu Uớc" người Do Thái " đẻ" ra bằng chữ Hebreux trên giấy bút, trong khoảng thời gian từ 1.000 năm đến 600 năm trước Thiên Chúa trong vùng Cận Đông.
* GHI CHÚ:Theo tôi, ông trời Yahvé của dân Do Thái không thể nào ra đời trước khoảng thời gian nêu trên, v́ lúc bấy giờ dân Do Thái cũng như các giống dân khác trong vùng, như Ai Cập, ả Rập...hăy c̣n dùng các loại chữ kư âm h́nh nêm (cunéiforme), chữ tượng h́nh (hiéroglyphe)...Với những chứng liệu đanh thép nêu trên, làm cách nào ông trời Yahvé của dân Do Thái và đức chúa cha của đạo TC có thể tạo dựng nên một càn khôn vũ trụ với muôn loại vạn vật vốn đă từng hiện hữu trên mặt quả địa cầu này hàng tỷ, tỷ năm trước ông ta?!
Khi luận về tôn giáo và tín ngưỡng " ông trời", tôi nhận thấy trước đây không xa, nhiều nhà bác học đại tài và các bậc thánh triết lừng danh trong thiên hạ, như: Lumière (thế kỷ XVIII), cùng với Descartes, Pascal, Newton, Leibniz...đều đặt kỳ vọng vào một tôn giáo tự nhiên (religion naturelle), không có tu sĩ và hoàn toàn độc lập trước mọi thể chế. Điều ấy cũng là ước mơ của văn hào Voltaire về " un dieu sans église" một ông trời không giáo hội, không nhà thờ. V́ nhà thờ chỉ là chỉ là nơi tụ tập bọn gian ác, sảo trá, thông đồng lường gạt kẻ ngây thơ, tượng trưng là đám râu tóc bờm xờm học vấn lem nhem (barbu hirsute et inculte). Riêng các khoa học gia đều là những người có khả năng cướp quyền tạo hóa, đồng thời có công phá tan mọi thứ huyền bí dị đoan về ông trời, tức kẻ thù đă " lột mặt nạ " của tôn giáo!Nhưng, sở dĩ cho đến nay tôn giáo và ông trời ba xạo vẫn c̣n tồn tại, vẫn c̣n tiếp tục múa may quay cuồng trên sân khấu mê tín dị đoan, v́ có người c̣n cho rằng khoa học không đủ khả năng đoàn kết tinh thần quần chúng trong một xă hội. Những bộ óc bă đậu ấy đă bị tôn giáo nhồi sọ đậm đen rồi, nên họ không biết rằng: Con người không thể nào đ̣i hỏi toán học ( mathématique) thỏa măn sự liên kết chặt chẽ và tạo sinh động chung cho cả một tập thể trong một tổ chức. Điều này thuộc về tâm linh và t́nh cảm. Dù là một nhà thông thái trong lănh vực khoa học, nhưng nhà thông thái ấy vẫn có thể bị đau khổ, tâm hồn dằn vật, khi ông ta bị mất phương hướng tâm linh. Trong khi ngược lại, một kẻ ngu si, đần độn cứ nhất thiết thủ cứng phương hướng tâm linh, tin chắc mẻm 100%: Sau khi chết nó sẽ được mấy anh mắt xanh, mũi lơ, rặm râu, sâu mắt, tóc bờm xờm cứu rỗi, tiến dẫn lên thiên đàng với chúa trời, nên nó vẫn cứ vô tư như gỗ đá.Vả chăng, như ta từng thấy biết, tinh thần (spiritualité) vốn không đủ để tạo nên một tôn giáo; và một tôn giáo cũng không đủ khả năng tạo nên ông trời như thứ ông trời độc thần (Dieu monothéistique) của các đạo Du Già-Thiên Chúa (Judéo-Chrétien)và đạo Hồi. Chưa đủ! Ông trời cô độc ấy cần phải tương quan mật thiết với tinh thần của con người như mối tương quan hiện hữu giữa một thể lỏng (liquide) với một tinh thể cô đọng (cristalisé). Tinh thần vốn giao động (v́ thuộc thể lỏng), c̣n ông trời là một tinh thể cô đọng, nên không thể nào xóa bỏ được cũng như bom nguyên tử. Với nhận thức này, tôi tin nơi câu của Esaie đă nói với dân Do Thái:" Nếu ngươi không tin, ngươi sẽ không tồn tại" (Si vous ne croyez pas, vous ne subsisterez pas)! Có một số người c̣n coi ông trời như một nhà tổ chức tập thể ngoại hạng, khi một xă hội bị tan vỡ (désorganise), bị phân hóa li ti (s'atomiser) hay tương phản lủng củng (s'opposer), khiến niềm tin của tập thể bị suy yếu, tinh thần (thể lỏng) giao động, rối loạn.Trong trường hợp này ta cần một vật thể cô đọng thành khối như một " ông trời". Riêng về tôn giáo, sự liên kết yếu kém. Nó không thể nào hàn gắn dính chặt kẻ nọ với người kia được. Một số người khác c̣n kể đến sự liên kết bằng yếu tố "tổ quốc", với tinh thần sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Nhưng, bây giờ, liệu người ta c̣n chịu chết cho tổ quốc nữa hay không?
* Nên biết: Ḷng yêu tổ quốc bây giờ là ḷng yêu đồng Dollars và đồng Euros là cuộc sống no đủ của đàn chim thiên di. Sự sai lầm lớn lao nhất của chủ thuyết giải thoát (Libéralisme) ngày nay là không biết đến công thức của Danton:"Ta chỉ hủy hoại cái ǵ mà ta thay thế!" (On ne détruit que ce que l'on remplace).
*Nên biết: Thị trường Mỹ hàng mấy trăm năm nay vững mạnh nhất hoàn cầu v́ nó đă biết đem đồng Dollars lên hàng thần tượng để tôn thờ thay cho ông trời vô tích sự. Đó là ch́a khóa của đức tin của tinh thần nước Mỹ! (Chú ư: Trên tờ 1 Dollar của Mỹ có in hàng chữ : IN GOD WE TRUST! Vậy, rơ ràng, đối với Mỹ, ông trời trên thực tế chỉ là đồng...1 DOLLARS mà thôi! Gần đây, giới trung lưu Mỹ đă hè nhau chống lại giáo dục Mỹ,v́ đem dạy thuyết sáng tạo (Créationnisme) trong các trường học, v́ họ sợ đầu óc trẻ con sớm bị lú lẫn, cùn ṃn, chểnh mảng về khoa học. Dân tộc Mỹ vốn đứng đầu thế giới trên lănh vực khoa học, nên họ luôn luôn sùng bái thời kỳ " Lumière" với các nhà thông thái siêu việt của nhân loại. Từ thế kỷ XVIII, các nhà thông thái siêu đẳng về khoa học của nhân loại đă khẳng định dứt khoát: TIN VÀO ÔNG TRỜI LÀ NHỮNG KẺ MẮC BỊNH THIỂU NĂNG TINH THẦN (arriération), hay c̣n gọi là " chậm hiểu, lạc hậu"... VÀ LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA L̉NG HỜN GHEN, THÙ HẬN.
Trong cuộc chiến Trung-Đông ta thường nghe nhiều người nói:" Tất cả đều do lỗi của ông trời. Chúng ta hăy loại bỏ hắn đi, chúng ta sẽ không c̣n chiến tranh...!" Dù kêu gọi ồn ào như thế, nhưng tôi thiển nghĩ: Ông trời vẫn c̣n nhiều cơ hội tồn tại. Bởi thánh kinh vô luân c̣n đó, giáo hội c̣n đó và các hàng cha cố, các Rabbins Do Thái c̣n đó, các Imams Hồi giáo một thứ cán bộ tuyên truyền thánh kinh vô luân vẫn c̣n đó!
Vậy, tốt hơn hết, ta nên tin cậy nơi TA, nơi con người hơn là tin nơi ..." ông trời"!
Kể từ thế kỷ XVIII, theo ta, thay v́ mỗi khi mở miệng người ta kêu trời, hoặc nói :" trời bảo, trời dạy, trời phán", th́ nên nói ngược lại là: Khoa học dạy, khoa học chứng minh. Nhất là khi muốn cầu xin điều ǵ, thực tế nhất, chắc ăn nhất và linh nghiệm cấp kỳ trong nháy mắt, ta hăy cứ vái lậy, cầu nguyện "ông trời Dollars", chắc chắn sẽ tọai nguyện tức khắc. Muốn thấu đáo hơn, xin t́m đọc tác phẩm của Sylvette Denèfle," Et l'homme créa les Dieux. Comment expliquer la religion" ( Robert Laffont).
TƯƠNG QUAN GIỮA THÁNH KINH VÀ TÔN GIÁO
Như mọi người đều biết, đạo Thiên Chúa từng công khai minh xác thánh kinh là bộ thánh thư đă ghi chép trung thực những lời khải truyền trực tiếp của đức chúa trời Yahvé dành cho thánh Moise, để Moise phổ biến trong quần chúng Do Thái, một chủng tộc ưu tuyển, biệt đăi của chúa trời. Bây giờ, khi đem toàn bộ thánh kinh, Cựu Ước và Tân Ước lên bàn mổ, ta bất chợt khám phá ra toàn những ung nhọt tinh thần cực kỳ độc hại. ta không khỏi giật ḿnh kinh hoảng, đầu óc quay cuồng toàn ác mộng. V́ vậy, ngay khi chợt có ư nghĩ thực hiện tác phẩm này, tôi thầm biết nó sẽ gây nên nhiều tranh biệ gắt gao. Nhưng chẳng đặng đừng! Bởi thiển nghĩ thánh kinh chẳng phải là thứ chỉ toàn giấy mực vô tri giác, nó c̣n có công năng chuyên chở một điều ǵ cao siêu, thiện hảo hay ngược lại hết sức tồi tệ, vô luân núp dưới danh nghĩa..."ĐỨC CHÚA TRỜI"!
Đấy chính là mục tiêu tối thượng mà người cầm bút nào có chút lương tri với tinh thần tôn trọng CHÂN LƯ và SỰ THẬT , nhất thiết phải xả thân soi sáng.
* ĐẶC BIỆT ĐÁNG QUAN TÂM NHẤT: trong 3 tôn giáo cùng một gốc thờ độc thần YAHVÉ vốn cực kỳ đại gian, đại ác trong quá khứ. Nhưng nay, kể từ sau đệ nhị thế chiến, đạo Thiên Chúa đă tỏ ra ḥan thiện khá nhiều và khoan nhượng hơn xưa, thậm chí đến độ không c̣n áp dụng một số giáo điều ṇng cốt với những giáo lệnh sắt máu hăy c̣n ghi rành rành trong kinh thánh. Trong khi đó, ngược lại, 2 đạo Du Già và Hồi giáo, hằng ngày, hằng giờ vẫn c̣n đang say sưa tắm máu lẫn nhau, máu người đồng chủng, đồng đạo, lẫn cả máu người ngoại chủng và ngoại đạo!...
Tác giả cẩn chí,
ĐẶNG VĂN NHÂM
(Đan Quốc, Tháng Giêng 2015)
Được đăng bởi chinhnghia vào lúc 7:58 PM
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.