MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Bài Viết Của Kim Âu ֎ Đại Kỷ Nguyên
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018
֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018
֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Vở Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Diễn Đàn ֎ Learning ֎ Sports ֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Video/TV ֎ Lottery ֎ Đà Lạt ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookings
vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran
vOpen Culture vSyndicate vCapital Research
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền
vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn
vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng
vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân
vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong
vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCS
vĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng.TDũng v Ba Sàm
vVăn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
Triệu Đà với công cuộc truyền bá chữ Hán vào Việt Nam
Trong giới Hán học Trung Quốc và Việt Nam khá phổ biến ư kiến khẳng định rằng ngay từ cuối đời Tần (cuối thế kỷ thứ III TCN) chữ Hán đă bắt đầu được truyền vào Bắc bộ Việt Nam (1). Căn cứ duy nhất của họ là đoạn ghi trong Sử kư của Tư Mă Thiên: “Năm 33 (tức 214 TCN, – V.T.K.) Tần Thuỷ Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải; cho những người đi đày đến đấy canh giữ”(2). Cũng dựa vào đoạn ghi chép đó, PGS Trần Nghĩa (Viện nghiên cứu Hán Nôm) cho rằng những người bị đi đày này “… nghiễm nhiên trở thành những sứ giả chở chữ Hán và tiếng Hán tới phương Nam” (3).
Sử kư Tư Mă Thiên là bộ sử liệu vĩ đại đáng tin cậy, nhưng từ một đoạn ghi chép trên mà suy luận rằng chẳng những tiếng mà cả chữ Hán được truyền đến Bắc bộ Việt Nam cùng đạo quân viễn chinh nhà Tần th́ e chỉ là vơ đoán. Vấn đề lại có ư nghĩa nguyên tắc từ góc độ giao lưu văn hoá Trung – Việt nên cuối năm 2003, tại “Hội thảo quốc tế về truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung – Việt”, họp ở Thâm Quyến 19 – 21/12/2003, chúng tôi đă dành nửa đầu của báo cáo để đặt lại vấn đề với 2 ư kiến tranh luận, đó là:
1. Cùng với cuộc viễn chinh của quân Tần, bất quá mới chỉ có sự lan truyền tự nhiên (không thể gọi là truyền bá!) khẩu ngữ (tức tiếng Hán), thường song hành với mọi cuộc xâm lấn và di dân, chứ chưa thể có chuyện truyền bá chữ Hán;
2. Chỉ sau khi Triệu Đà, Huyện lệnh Long Xuyên quận Nam Hải, lợi dụng thời cơ nhà Tần sụp đổ, năm 207 TCN chiếm lĩnh 2 quận Quế Lâm và Tượng Quận, thiết lập vương triều cát cứ Nam Việt quốc (207 – 111 TCN), 18 năm sau thôn tính nốt nước Âu Lạc (208 – 179 TCN) của An Dương Vương, chữ Hán mới thực sự được truyền bá, tức được dạy một cách có chủ định ở vùng đất Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt Nam ngày nay (4).
Chứng minh ư kiến thứ nhất, chúng tôi biện luận như sau:
Theo chính Hán thư th́ Tượng Quận không phải là Bắc bộ Việt Nam mà là vùng đất phía tây của Quảng Tây và phía nam của Quư Châu (5), như vậy th́ trong cuộc viễn chinh vào miền đất Lĩnh Nam của Bách Việt, quân Tần mới chỉ đánh chiếm được vùng đất của Mân Việt (Phúc Kiến, Quảng Đông), Dương Việt và Tây Âu Việt (Quảng Tây và một phần Quư Châu), nhưng chưa chiếm cứ được đất Lạc Việt (tức nước Âu Lạc của An Dương Vương).
Một sử liệu đáng tin cậy khác là bức thư của Hoài Nam Vương Lưu An dâng lên can gián Hán Vũ Đế (140 – 86 trước CN) đem quân vào đất Việt, đă miêu tả quân Tần từng bị khốn đốn ở đất Việt (Lạc Việt? – V.T.K.) như sau: “Đời Tần sai quan uư Đồ Thư đánh đất Việt, người Việt trốn vào rừng núi, đánh không được, đóng quân ở vùng đất trống không, lâu ngày quân lính mệt mỏi, rồi người Việt ra đánh, quân lính Tần đại bại” (6). Sách Hoài Nam tử, cũng do chính Lưu An biên soạn, tả cảnh bại trận của quân Tần c̣n thê thảm hơn: “Trong 3 năm không cởi giáp dăn nỏ […] Người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư, thây phơi huyết chảy hàng mấy chục vạn người” (7).
Đền thờ Triệu Đà, tục gọi là chùa Đường ở Thái B́nh – Ảnh sưu tầm
Năm 214 mới chiếm được vùng Lĩnh Nam, đến đất Việt 3 năm chiến đấu liên miên (“không cởi giáp dăn nỏ”), bị thảm bại (chủ tướng bị giết, sĩ tốt th́ phơi thây); 8 năm sau, 206, nhà Tần đă diệt vong, vậy thời gian đâu mà truyền bá chữ Hán?
Nêu ư kiến chữ Hán chỉ bắt đầu được truyền bá (được dạy và học có chủ định) từ vương triều của Triệu Đà, chúng tôi căn cứ 2 sự kiện có trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, đó là:
1. a) Sử gia Việt Nam dẫn sách Thuỷ kinh chú của Trung Hoa, khẳng định rằng dưới triều đại Nam Việt quốc các Lạc tướng của Hùng Vương vẫn cai trị dân như cũ (8), tức Triệu Đà chủ trương sử dụng các hào trưởng người Việt có uy tín và lực lượng, lại thông hiểu ngôn ngữ và phong tục tập quán địa phương, để quản lư dân Lạc Việt; vậy th́ để thông đạt các chiếu chỉ, mệnh lệnh, tất nhiên nhà Triệu phải tổ chức dạy cho họ chí ít biết đọc và viết được chữ Hán, tức là đến thời điểm ấy mới nảy sinh nhu cầu khách quan về một văn tự làm công cụ cho hệ thống hành chính thống nhất bao gồm người Hoa (ở triều đ́nh trung ương) và người Việt (ở phủ, huyện, làng xă):
2. b) Triệu Đà, để tranh thủ hậu thuẫn của người Việt nhằm xưng đế, cát cứ một phương, độc lập với đế quốc Hán, đă chủ trương dung hợp văn hoá Hoa – Việt, tạo ra những ḍng họ hỗn huyết Hoa – Việt và dung hợp tự nhiên hai văn hoá Hoa và Việt.
Sự kiện thứ hai này là nhân tố thuận lợi thúc đẩy việc bắt đầu truyền bá chữ Hán vào đến tận làng xă, chúng tôi đă cố gắng chứng minh chi tiết hơn như sau.
Triệu Đà vốn người Hán ở đất Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc – Trung Quốc, cho Trọng Thuỷ cầu hôn Mỵ Châu đương nhiên nhằm mục đích thôn tính Âu Lạc. Nhưng sau khi đă tiêu diệt triều đ́nh An Dương Vương, theo Sử kư Tư Mă Thiên, Triệu Đà tiếp tục chủ trương đó: dùng Lữ Gia mà chính Sử kư Tư Mă Thiên gọi là “Việt nhân” (đúng hơn phải nói là người Hán đă Việt hoá do sống giữa cộng đồng người Việt, cũng như Lư (Bôn) Nam Đế, – V.T.K.) và ghi nhận Gia “làm Thừa tướng 3 đời vua […]. Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua […]; ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông, ông được ḷng dân hơn vương” (9). Chẳng những thế, bản thân Đà đă chủ động thích ứng với phong tục, tập quán của người Việt: trong thư dâng Hán Văn Đế (179 – 156 trước CN) ông viết: “Lăo phu ở đất Việt đă 49 năm, hiện đương bồng cháu”. Thâm ư của câu đó, họ Triệu khi tiếp sứ thần nhà Hán là Lục Giả, đă giải thích khá cụ thể bằng hành động “xoă tóc, ngồi cḥ hơ (tức ngổi xổm, chồm hỗm theo phong tục người Việt, chứ không búi tóc, ngồi quỳ gối theo nghi lễ Trung Hoa, – V.T.K.) mà tiếp” và cũng khá thẳng thừng đáp lại lời Giả trách Đà “phản thiên tính” (tức quên phong tục mẹ đẻ là người Hán!): “Tôi ở trong xứ mọi rợ lâu ngày, quên hết lễ nghĩa rồi” (tức không theo lễ nghi của người Hán nữa!) (10). Có thể nói rằng họ Triệu và họ Lữ (Lă) là những đại biểu sớm nhất của các ḍng họ cổ đại hoà trộn hai huyết thống Việt và Hoa được sử sách ghi lại, tức cũng xác nhận vào thời điểm đó mới bắt đầu h́nh thành nhân tố thuận lợi thúc đẩy sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung – Việt.
Việc Triệu Đà chủ trương dung hợp 2 nền văn hoá Hoa và Việt, gần đây được chính một số học giả Trung Quốc khẳng định. Sau khi tham dự Hội thảo Thâm Quyến, trên đường về qua Quảng Châu, nhân ghé thăm khu mộ của cháu Triệu Đà là Văn Vương Triệu Muội, chúng tôi mua được sách Lĩnh Nam chi quang, miêu tả việc khai quật khu mộ đá này năm 1983. Các tác giả sách viết: Triệu Đà … “thúc đẩy chính sách dân tộc “hoà tập Bách Việt”, xúc tiến quá tŕnh dung hợp dân tộc Hán – Việt và phát triển kinh tế – văn hoá” (11).
Khách quan mà nói, quan điểm về sự dung hợp hai nền văn hoá Việt và Hoa dưới triều đại Triệu Đà trong toàn cơi Nam Việt quốc đă từng được một số nhà sử học Sài G̣n nêu lên khá sớm, nhưng đúng như nhà sử học Đào Hùng, Phó tổng biên tập tạp chí Xưa & Nay, nhận định trong Lời giới thiệu công tŕnh cực kỳ lư thú của tiến sĩ năm thứ nhất Đại học Văn khoa Sài G̣n Tạ Chí Đại Trường, xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ, đến đầu năm 2006 này mới được in lại ở Việt Nam, nhan đề Thần, người và đất Việt: “Trải qua một thời gian dài giới nghiên cứu chúng ta thường bị những động cơ chính trị chi phối nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiên kiến”. Có thể nói một trong những thiên kiến như vậy là quan điểm chính thống trong giới sử học miền Bắc coi nhà Triệu là kẻ xâm lược, mà đă là kẻ xâm lược th́ phải xấu, không thể có đóng góp ǵ đáng bàn nữa! Trong công tŕnh nói trên, với một phương pháp nghiên cứu khách quan, không bị lập trường chính trị o ép, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ luận điểm về sự liên tục văn hoá và căn cứ thực tế lịch sử về giao lưu văn hoá của cộng đồng người Việt với Hán, Chămpa và các tộc người khác, đă phát biểu những ư kiến xác đáng, nêu một nhận xét táo bạo, nhưng theo chúng tôi, không phải không có lư, rằng: “Ranh giới Giao [tức Giao Chỉ] – Quảng [tức Quảng Đông, Quảng Tây] c̣n nhập nhoà trong trận chiến Lư – Tống (1075 – 1077) khi Lư đem quân qua châu Khâm, châu Liêm có người giúp đỡ, nội ứng …” (12), tức theo ông, trải qua hơn ngh́n năm vẫn tồn tại những truyền thống bắt nguồn từ sự dung hợp văn hoá Hoa và Việt từ thời Triệu Đà khiến ít ra một bộ phận dân chúng vùng Lưỡng Quảng không hề mặc cảm đạo quân viễn chinh của Đại Việt là những kẻ dị chủng xâm lược.
Bốn chục năm trước đây, khoảng năm 1962/63, chúng tôi từng được nghe một vị sư già ở chùa Thầy nói xương cốt dưới hang chùa là của binh lính Lữ Gia không chịu ra đầu hàng, bị quân Hán vây đến chết đói ở dưới đó. Ngay ở Hà Nội cho đến năm 1979 vẫn c̣n phố Lữ Gia (nay là phố Lê Ngọc Hân). Tại một số địa phương trên đất Việt Nam ngày nay dân chúng vẫn thờ Triệu Đà và Lữ Gia. Chẳng hạn, ở làng Đồng Xâm xă Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái B́nh vẫn c̣n di tích một đền lớn uy nghi, được xếp hạng như di tích thờ vị Tổ nghề chạm bạc truyền thống. Thực ra, Tổ nghề Nguyễn Kim Lâu chỉ được thờ trong một cái am nhỏ ở địa điểm khác. Đây cũng lại là một bằng chứng về cái sự “bị động cơ chính trị chi phối”, khiến người ta phải làm sai lệch sự thật về ngôi đền này, bất chấp thư tịch lịch sử và địa chí. Danh sĩ cuối đời Lê là Hoàng giáp Ngô Th́ Sĩ (1726 – 1780) viết rành rành trong công tŕnh nổi tiếng Việt sử tiêu án: “… làng Đường Xâm quận Giao Chỉ (nay là Đường Xâm huyện Chân Định) có miếu thờ Triệu Đà…” (13). Huyện Chân Định sang triều Nguyễn thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, đến năm 1894, phủ Kiến Xương cắt về tỉnh Thái B́nh mới lập, sau bỏ phủ, đổi gọi là huyện Kiến Xương. Năm 1924 nhà địa dư học Ngô Vi Liễn c̣n ghi ở chương “Tỉnh Thái B́nh” trong sách Địa dư các tỉnh Bắc kỳ (14): “Đền Triệu Vũ Đế ở làng Thượng Gia, phủ Kiến Xương, hội về ngày mồng 1 tháng tư”). Cũng sách của Ngô Vi Liễn cho biết: làng Thượng Gia thuộc tổng Đồng Xâm (sách đời Nguyễn Gia Long c̣n gọi là tổng Đường Xâm).
Tâm thức dân Việt không phải ngẫu nhiên vẫn tôn thờ Triệu Đà. Ngoài công “hoà tập Bách Việt”, phát triển kinh tế và văn hoá, biến cả miền Lĩnh Nam thành ánh hào quang (=Lĩnh Nam chi quang), họ Triệu đă Việt hoá từng cùng dân Việt chống ngoại xâm. Sử kư Tư Mă Thiên viết rằng thời Triệu Minh Vương (chắt của Triệu Đà) vẫn c̣n đang là thái tử Anh Tề, phải vào làm con tin tại triều đ́nh nhà Hán, lấy gái Hán ở Hàm Đan họ Cù, đẻ ra con trai là Hưng, sau được nối ngôi, nên Cù thị trở thành thái hậu Nam Việt quốc; hồi c̣n trên đất Trung Quốc, đă là vợ Anh Tề, Cù thị vẫn dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quư, nay thấy Thiếu Quư sang làm sứ giả, lại cùng gian dâm, rồi khuyên vua quan Nam Việt xin “nội thuộc” nhà Hán … “bọn Lữ Gia bèn làm phản, ra lệnh trong nước: “Vương tuổi c̣n trẻ, thái hậu là người Trung Quốc, lại dan díu với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc […]”. Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán […]; lập Vệ Dương hầu Kiến Đức, người con trai đầu của Minh Vương, vợ (Đại Việt sử kư toàn thư ghi “mẹ”, – V.T.K.) là người Việt, làm vua […], đem quân đánh bọn Thiên Thu (tướng nhà Hán), diệt được họ cách Phiên Ngung (nay là Quảng Châu) 40 dặm. Gia sai người phong gói cờ tiết của sứ giả để ở cửa ải, khéo nói dối để tạ tội, rồi đem quân đóng giữ những nơi hiểm yếu”(chúng tôi nhấn mạnh, – V.T.K.) (15).
Rơ ràng vương triều họ Triệu cùng vị Thừa tướng “Việt nhân”, “được ḷng dân hơn vương”, là những người đầu tiên , trước Hai Bà Trưng cả 144 năm, đă chống quân xâm lược nhà Hán. Cuộc kháng chiến của họ dẫu được dân Việt ủng hộ, vẫn thất bại do tương quan lực lượng quá chênh lệch ở thời buổi nhà Hán vừa mới diệt Tần lên làm chủ Trung Hoa, đang trở thành một đế chế hùng mạnh. Nhưng cũng như một người xưa, Tiến sĩ Vũ Tông Phan, đă viết về Hai Bà Trưng trên tấm bia lập năm 1840, hiện vẫn dựng giữa sân đền thờ Hai Bà ở Đồng Nhân – Hà Nội: “Việc làm của kẻ trượng phu không thể lấy thành hay bại mà bàn luận” (16).
Sử sách nước ta qua các thời đại khác nhau có quan điểm khác nhau về vương triều Nam Việt. Đại Việt sử lược, bộ sử thời Lư – Trần (TK XII – XIII) chép “Nhà Triệu” ngang hàng với các “Nhà” Ngô, Đinh, Lê (Đại Hành), Lư. An Nam chí lược (đầu TK XIV), do Lê Tắc viết trên đất Trung Quốc nên không dám dùng chữ “kỷ” mà Tư Mă Thiên chỉ dành riêng cho các triều đại hoàng đế Trung Hoa, gọi Triệu là “thế gia” (“Triệu thị thế gia”) ngang hàng các “thế gia” Đinh, Lê, Lư, tức vẫn coi là một triều đại thuộc sử Đại Việt. Nguyễn Trăi coi quốc thống Đại Việt trước nhà Lê gồm cả Triệu, Đinh, Lư, Trần. Trong B́nh Ngô đại cáo năm 1427 ông tuyên bố:
Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến.
Cơi bờ sông núi đă riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Trải Triệu, Đinh, Lư, Trần nối đời dựng nước.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương.
Theo tinh thần đó Đại Việt sử kư toàn thư chép nhà Triệu như một triều đại chính thống của Đại Việt. Đến cuối thế kỷ XVIII, Việt sử tiêu án và Đại Việt sử kư tiền biên của Ngô Th́ Sĩ phê phán chép sử Việt như thế là sai và đưa nhà Triệu ra ngoài, gọi riêng là “ngoại thuộc”, để phân biệt với giai đoạn “Bắc thuộc” sau này, khi nước ta “nội thuộc” Trung Quốc. Quốc sử quán triều Nguyễn theo như thế, có lẽ c̣n v́ lư do năm 1804 vua Gia Long xin đặt quốc hiệu là “Nam Việt”, nhưng hoàng đế nhà Thanh không chuẩn cho, hẳn e ngại sự tái diễn việc cầu hôn một công chúa Trung Hoa và xin lại đất Lưỡng Quảng mà Quang Trung đă đặt ra. Để rạch ṛi, triều Thanh đề nghị quốc hiệu “Việt Nam”, nhưng vua Gia Long không chấp thuận, tự đặt quốc hiệu là Đại Nam. Đến đầu thế kỷ XX, khi nước ta đă thành thuộc địa của Pháp, quyền uy Trung Hoa không c̣n tác dụng nữa, sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược (viết 1919, in 1921) mới lại đưa “nhà Triệu” vào quốc thống Đại Việt.
Nếu Quang Trung không mất sớm th́ sẽ ra sao nhỉ?
Nhưng lịch sử không chấp nhận chữ “nếu”. Lịch sử đă an bài từ lâu. Ngày nay Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng hữu nghị, với biên giới đă xác định. Bởi vậy trong báo cáo tại Hội thảo Thâm Quyến 2003, chúng tôi đă nói rơ chỉ xem xét vương triều Triệu Đà thuần tuư từ góc độ giao lưu văn hoá. Nay xin một lần nữa nhấn mạnh như vậy.
Tài liệu đă sử dụng
1.Chu Khánh Sinh: “Ṭng sơ thuỷ đáo thịnh hành: Hán tự đích Đông hướng truyền bá”á(tiếng Hán). – trong sách Hán tự đích ứng dụng dữ truyền bá, Triệu Lệ Minh & Hoàng Quốc Doanh biên, Hoa ngữ Giáo dục xuất bản xă, Bắc Kinh 2000, tr. 106 – 129.
2.Sử kư Tư Mă Thiên. Phan Ngọc dịch. – nxb Văn học, Hà Nội 1988, T. I, tr. 48.
3.PGS Trần Nghĩa: Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt trước thế kỷ thứ X. – nxb Thế giới, Hà Nội 2000, tr. 52 – 55.
4.Các luận điểm trên (bằng chữ Hán) đă được công bố trong Kỷ yếu “Hán tự truyền bá kí Trung – Việt giao lưu quốc tế nghiên thảo hội. Luận văn đề yếu/toàn văn”, Thâm Quyến 19 – 21 / 12 / 2003, Thương vụ ấn quán, tr. 55. Trong tham luận đọc tại Hội thảo này (không kịp gửi đăng trước ở Kỷ yếu), PGS Trần Nghĩa có dẫn sách Tiền Hán thư để phát biểu ư nghi ngờ địa vực Tượng Quận bao gồm cả đất Âu Lạc; một năm sau, đến Hội thảo quốc tế về Nho học ở Việt Nam, do Viện nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam và Viện Harvard Yenching Hoa Kỳ đồng tổ chức tại Hà Nội vào 17 – 18 / 12 / 2004, PGS Nghĩa cũng đă khẳng định chỉ từ thời Triệu Đà chữ Hán mới mới thực sự du nhập Viêt Nam. – xin xem thêm Kỷ yếu cùng tên của Hội thảo Hà Nội 2004, tr. 227.
5.Dẫn theo chú thích 3 của PGS Ngô Đức Thọ trong Đại Việt sử kư toàn thư do GS Phan Huy Lê khảo cứu văn bản, PGS Ngô Đức Thọ dịch và chú thích, nxb KHXH, Hà Nội 1998, T. I, tr. 138.
6.Lê Tắc: An Nam chí lược. Nhóm GS Trần Kính Hoà dịch. PGS Chương Thâu giới thiệu. – nxb Thuận Hoá & Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội 2002, tr. 129; toàn văn chữ Hán tr. 421 – 423.
7.Dẫn theo chú thích 28, chương Ngoại kỷ – quyển I, của học giả Đào Duy Anh trong Đại Việt sử kư toàn thư do Cao Huy Giu dịch, nxb KHXH, Hà Nội 1972, T. I, tr. 315.
8.Khâm định Việt sử thông giám cương mục. – nxb Giáo dục, Hà Nội 1998, T. I, tr. 89 và 107.
9.Sử kư Tư Mă Thiên. Nam Việt uư Đà liệt truyện, sđd, T. II, tr. 377 – 378.
10.Lê Tắc: An Nam chí lược, sđd, tr. 101 – 102; nguyên văn chữ Hán tr. 404.
11.Hạ Anh Hào & Vương Văn Kiến: Lĩnh Nam chi quang. Nam Việt Vương mộ khảo cổ đại phát hiện. – Triết Giang Văn nghệ xuất bản xă 2005, tr. 4. Đại Việt sử kư toàn thư ghi Triệu Văn Vương tên huư là Hồ, con trai Trọng Thuỷ. Hai tác giả Trung Quốc không nhắc ǵ tới Trọng Thuỷ, chỉ viết tính theo tuổi Triệu Muội không thể là cháu trưởng của Triệu Đà.
12.Tạ Chí Đại Trường: Thần, người và đất Việt. – nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội 2006, tr. 74.
13.Ngô Th́ Sĩ: Việt sử tiêu án. – nxb Thanh niên 2001, tr. 27.
14.Ngô Vi Liễn: Tên làng xă và Địa dư các tỉnh Bắc kỳ. – nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội 1999, tr. 672
15.Sử kư Tư Mă Thiên, sđd, T. II, tr.379.
16.Vũ Tông Phan, cuộc đời và thơ văn. Vũ Thế Khôi biên khảo, tuyển chọn và dịch. – nxb Văn học, Hà Nội 1995, tr. 224; sách có kèm theo nguyên bản chữ Hán, các trang mang kư hiệu 41a-41b.
Vũ Thế Khôi
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.