* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu

* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos 

* Biệt kích  -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV

* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí

* Khảo  Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo

* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý

* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery

* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hào Kiệt For Rent

  3. Trò Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

  4. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  5. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư

  13. Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  14. Phân Định Chính Tà

  15. Giáo Hội La  Mã:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

  16. Secret Army Secret War - CIA Giải mật

  17. Mật Ước Thành Đô: Trò Bịa Đặt

  18. Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

  19. Lãnh Hải Việt Nam ở Biển Đông

  20. Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

  21. Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

  22. Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

  23. Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

  24. Trò Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

  25. Hài Kịch Nhân Quyền

  26. CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

  27. Tội Ác PG Ấn Quang

  28. Âm mưu của Ấn Quang

  29. Vụ Đài VN Hải Ngoại

  30. Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

  31. Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

  32. Lịch Sử CTNCT

  33. Tượng Đài: Lưu Xú - Lưu Manh

  34. Về Tác Phẩm Vô Ðề

  35. Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh

  36. Bút Ký Tôi Phải Sống

  37. Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

  38. Đặc Công Đỏ Việt Thường

  39. Kháng Chiến Phở Bò

  40. Băng Ðảng Việt Tân

  41. Mặt Trợn Việt Tân

  42. Tù Binh và Hòa Bình

  43. Nước Mắt Trước Cơn Mưa

  44. 55 Ngày Chế Độ Sài Gòn Sụp Đổ

  45. Drug Smuggling in Vietnam War

  46. The Fall of South Vietnam

  47. Giờ Thứ 25

  48. Economic assistant to South VN 1954- 1975

  49. RAND History of Vietnam War era

  50. Chiến Sĩ Vô Danh 

 

 

LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019

-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019

 

THAM KHẢO

Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019

May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019

 

Beginner's Guide Web Design

Responsive Web Design

Professional Web Design

Learning Web Design 4

A List Apart Responsive Web Design

Responsive Web Design Ethan

The Book of CSS3

Mastering Resposive Web Design HTML 5

HTML Tutorial

HTML5 CSS3 Responsive Cookbook

Principle of Web Design

Real Life Responsive Wed Design

Learning Responsive Web Design

Learn HTML and CCS

Pro HTML 5 Accessi

Thiết Kế Web


http://www.expression-web-tutorials.com/

https://www.w3schools.com/howto/howto

_css_social_media_buttons.asp

https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q

https://www.codecademy.com/en/forum_

questions/532619b28c1ccc0cac002730

https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro

https://archive.org/details/responsivewebdesign

https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/

Computer Page

 

https://vimeo.com/

http://www.imdb.com/

https://www.crackle.com/

https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies

https://archive.org/details/feature_films

https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/

 

 

Kim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearningTrang Chủ Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

THÁNG 9-2019

 

UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV

PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT  NBCSPORT  ESPNSPORT - EPOCH

   

Từ trái qua phải: Bùi AnhTrinh, Nguyễn Đình Chiến, Chu Di Tuyển, Kim Âu Hà Văn Sơn, Trương Văn Hùng

 

trinh bui <trinhbui49@yahoo.com>

15:10, Th 7, 31 thg 8 (20 giờ trước)

tới tôi

 

Bạn hiền thân mến.

Tao rất vui vì thấy mày hiểu tao rất dễ dàng, nghĩa là chúng mình vẫn còn là tri kỷ như thời còn đi học.  Thuở đó tụi mình đều được hun đúc trong một cái lò văn hóa của đất trời Đà Lạt, cùng được học chung thầy cô, cho nên chuyện mày hiểu tao cũng như tao hiểu mày là điều có thể lý giải được.

Vừa qua tao đã gởi đến cho mày đọc 2 bài viết mà tao nhận xét và minh oan cho hảo hớn Bảy Viễn cũng như 1 bài minh oan cho hảo hớn Nguyễn Ngọc Loan.  Sở dĩ tao tặng mày 3 bài đó là để cho mày biết tao nhìn con người không bao giờ sai trật.  Và riêng đối với hảo hớn Hà Văn Sơn thì cho tới nay tao vẫn nhìn không sai. 

Không phải tao minh oan cho 2 hảo hớn Bảy Viễn và Nguyễn Ngọc Loan không mà thôi, còn có rất nhiều nhân vật lịch sử của VNCH đã được tao minh oan. Nếu mày không chán thì tao sẽ lần lượt gởi tặng mày và mày nên tặng lại cho con cháu Việt Nam Cọng Hòa để chúng nó biết rõ hơn những uẩn khúc của lịch sử mà đã bị các thế lực chính trị làm biến dạng.

Bây giờ tao gởi tới cho mày một tài liệu ngón nghề của tao, đó là biên khảo về quân sử.  Tao gởi đến mày tập tại liệu “BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP”.  Hiện nay chỉ có tao mới đủ trình độ để lật mặt thật của nhân vật huyền thoại này. http://quanvan.net/bui-anh-trinh-bien-khao-ve-vo-nguyen-giap/

Đây là tập tài liệu quân sử đầu tay của tao, tao viết rất dễ dàng mà chẳng cần tham khảo nhiều tài liệu, tao chỉ cần căn cứ vào 4 quyển hồi ký của ông ta.  Tất cả những gì tao cần biết về sự thật của ông ta đều được ông ta vô tư huênh hoang trên giấy trắng mực đen, cho nên không thể chạy chối đi đâu được.

BÙI ANH TRINH

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP,

 

(26) XIN CHỈ THỊ CỦA MAO TRẠCH ĐÔNG

Năm 1954, ngày 24-1, Trung đoàn 57 thuộc Đại đoàn 304 CSVN và đoàn quân tiếp vận từ Phú Thọ tới Điện Biên Phủ, tuy nhiên quân dụng và đạn dược không được đủ như dự trù, vả lại Trung Đoàn 57 quá mệt sau 10 ngày hành quân vừa bằng xe vừa đi bộ, trong khi Tướng Giáp dự trù Trung đoàn này đã được nghỉ ngơi ở Phú Thọ sẽ là mũi nhọn đột phá trong trận tấn công ngày 25-1.

Năm 1954, ngày 25-1, buổi trưa, Võ Nguyên Giáp đột nhiên ra lịnh đình cuộc tổng tấn công được dự trù vào chiều hôm đó.  Lệnh tạm đình chỉ 24 tiếng đồng hồ. Tuy nhiên đến ngày hôm sau, 26-1, Võ Nguyên Giáp ra lệnh hủy bỏ cuộc tấn công, các khẩu pháo đã kéo vào vị trí ấn định phải được kéo ra và đợi lệnh .Và cũng trong ngày hôm đó, vào buổi chiều, Đại đoàn 308 CSVN vượt biên giới, tiến dọc theo sông Nậm U để đến Luang Prabang, thủ đô của nước Lào.

Chú giải:  Vì sao quân CSVN hoãn tấn công Điện biên phủ

Sở dĩ sau này người ta được biết có cuộc đình hoãn là do hồi ký của Tướng Lê Trọng Tấn, phát hành năm 1994, có kể lại chuyện quân của ông được lệnh kéo súng ra ngoài, trở lại các nơi ẩn nấp từ trước.

Hồi ký của Võ Nguyên Giáp giải thích là vì sáng ngày 26 ông bàn lại với Vi Quốc Thanh, ông đưa ra đề nghị đổi chiến thuật tấn công, từ đánh nhanh, đánh mạnh chuyển sang đánh chậm, đánh chắc.  Vi Quốc Thanh chấp thuận và Tướng Giáp cho lệnh rút quân.

Nhưng theo hồi ký của Tướng Vương Chấn Hoa, thư ký của Tướng cố vấn trưởng Vi Quốc Thanh  thì trước ngày khai hỏa 25-1-1954, Cố vấn Vi Quốc Thanh e ngại quân của tướng Giáp không đủ kinh nghiệm đánh trận địa chiến cho nên ông ta quyết định thay đổi cách đánh.

Tướng Vi Quốc Thanh bàn với tham mưu trưởng của đoàn cố vấn là Mai Gia Sinh rồi báo cho Tướng Giáp đưa đại đoàn 308 sang đánh Lào để đánh lạc hướng theo dõi của tình báo Pháp.  Sau đó ông trình về Bắc Kinh, ngày hôm sau, ngày 27-1-1954, Mao Trạch Đông gởi công điện đồng ý phương án mới ( Tài liệu của Nhà xuất bản Lịch sử Đảng Cọng sản Trung Quốc, 2002 ).

Năm 1954, ngày 26-1, Đại đoàn 308 CSVN vượt biên giới tiến đánh quân Pháp và Lào dọc theo cánh đồng tả ngạn sông Nậm U dẫn tới Luang Prabang .

Ngày 29-1 đại đoàn tới Sốp Nao.  Trong các ngày 29,30,31-1 và 1-2 chiếm Mường Khoa, Mường Ngòi rồi tới Nậm Bạc.  Ngày 2-2 quân của hai Trung đoàn 36/308 và 88/308 CSVN tiến tới bờ sông Mê Kông, cách Luang Prabang 7 cây số. Thủ tướng Lào kêu cứu với thế giới .

Ngày 5-2, Đại đoàn 308 CSVN truy đuổi tàn quân của Pháp ở hạ lưu sông Nậm U. Ngày 6-2 quân CSVN vượt sông Nậm U, còn cách Luang Prabang 10 cây số.  Navarre tăng cường cho Luang Prabang thêm một Liên đoàn lưu động lấy từ Bắc Việt và 1 tiểu đoàn Dù nhảy xuống thị trấn Mường Sai ở bên ngoài thủ đô Luang Prabang.  Từ ngày 6-2 quân CSVN ngưng các hoạt động tiến quân . Đột nhiên ngày 21-2 toàn bộ Đại đoàn 308 CSVN rút về Điện Biên Phủ .

Chú giải :  Sự thật về chuyện hoãn đánh và tấn công Lào

Không ai hiểu nổi chuyện một Đại đoàn thiện chiến nhất của CSVN trong vòng 10 ngày đã đánh từ biên giới Lào vào tới ngoại vi của Thủ đô nước Lào.  Sau đó án binh bất động trong 2 tuần lễ, rồi đột nhiên rút về cũng nhanh như lúc tới .

Tuy nhiên nếu xét lại các hoạt động quân sự của Pháp trước đó thì thấy có việc Bộ tư lệnh quân Pháp tiếp nhận Binh đoàn 100 từ chiến trường Triều Tiên trở về, sau khi bổ sung một số lính tuyển tại Sài Gòn liền đưa sang ngã Căm Bốt để đến Lào.  Xong lại từ Lào trở vào biên giới Việt Nam để tới thành phố Plieku.  Ngoài ra Liên đoàn 11 Việt Nam do Trung tá Nguyễn Khánh chỉ huy cũng theo Binh đoàn 100 sang Lào rồi vào Pleiku.

Từ Pleiku Binh đoàn 100 Lê Dương và Liên đoàn 11 Nam Việt cùng với 2 Liên đoàn 41 và 42 Sơn Cước tiến theo quốc lộ 19 xuống An Khê để đánh Bình Định và Phú Yên.  Có lẽ tình báo CSVN đã ghi nhận đại quân Pháp từ Lào sang, rồi đếm số lượng xe chuyển vận binh sĩ xuống An Khê để suy ra đại quân gồm tới 4 Liên đoàn cho nên Võ Nguyên Giáp và ban tham mưu cũng như toàn thể Bộ chính trị ĐCSVN quyết đoán là quân Pháp đã điều quân từ Lào sang Pleiku;  như vậy thủ đô Luang Prabang bỏ trống.

Vậy thì lý do đưa quân gấp rút chiếm Luang Prabang vì Vi Quốc Thanh và VNG tưởng quân Pháp đã bỏ trống Lào cho nên xua 1 đại đoàn sang là có thể chiếm thủ đô Lào. Tuy nhiên có lẽ là khi sang tới ngoại vi Luang Prabang thì tình báo CSVN tại Lào xác nhận lại là các đơn vị Pháp tại Lào vẫn không di chuyển, ngoài ra còn thêm một Liên đoàn từ Bắc Việt đến tăng cường thì chuyện ngon ăn trở thành không cách chi ăn nổi, vì vậy mà phải rút về lại ĐBP

Phong cách chỉ huy của tướng Giáp

Buổi trưa hôm VNG quyết định hoãn đánh:  “14 giờ 30, mới có liên lạc điện thoại với anh Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308:  – “Chú ý nhận lệnh:  tình hình thay đổi. Đại đoàn các đồng chí có nhiệm vụ hướng về Luông Phabăng tiến quân.  Dọc đường gặp địch tùy điều kiện cụ thể mà tiêu diệt.  Giữ vững lực lượng, có lệnh trở về ngay.  Giữ liên lạc vô tuyến điện.  Khi được hỏi mới trả lời”/  – “Rõ!” Anh Vũ đáp/  – “Triệt để chấp hành mệnh lệnh”/ –  “Xin chỉ thị về sử dụng quân lực như thế nào?/  – “Toàn quyền quyết định, từ một tiểu đoàn đến toàn đại đoàn.  Hậu cần tự giải quyết.   Đúng 6 giờ chiều nay, xuất phát!”/ – “Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh/” (Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, in lần 2, trang 108).

Đây không phải là một lệnh hành quân của một vị Tướng Tổng tư lệnh, mà nó có vẻ như là một đoạn kịch bản của một nhà soạn giả cải lương;  các câu đối thoại mang đầy kịch tính, tạo nên ấn tượng đầy hào hùng và kỳ bí.  Một cái lệnh điều động cả đại đoàn 10 ngàn tay súng tiến quân mà không biết tiến quân để làm gì?  Gặp địch thì muốn đánh cũng được, không đánh cũng được!?  Kéo đi 1 tiểu đoàn cũng phải mà cả đại đoàn gồm 9 tiểu đoàn cũng phải!?

Rồi tự kiếm lấy cái ăn chứ không có tiếp tế, tiếp liệu (!?). Làm sao mà ông tướng đại đoàn trưởng có thể vừa hành quân vừa tự kiếm cái ăn cho cả 10 ngàn con người ta?  Chỉ có nước là đi tới đâu ăn cướp tới đó may ra mới tới được Luang Prabang là nơi cách Điện Biên Phủ 250 cây số.

Tướng Vương Thừa Vũ nhận một cái lệnh hành quân “trời đất” như vậy mà cũng “xin triệt để thi hành” thì không biết ông ta thi hành cái gì và thi hành ra sao?  Trong khi đó, theo hồi ức của Tướng Lê Trọng Tấn thì:

“Với tinh thần chấp hành mệnh lệnh không điều kiện, đại đoàn (308) đã tổ chức đóng cối xay, cối giã gạo khẩn trương xay thóc giả gạo. Nhưng khi lên đường mỗi chiến sĩ cũng chỉ có một ngày lương khô và một ngày gạo. Địa hình chưa quen, tình hình chưa biết, lương thực không có ở phía trước…” ( Lê Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên, in lần 2, trang 276-277 ).

Sau đó Tướng Giáp mới vội vã tổ chức tiếp tế cho 308 bằng cách ra lệnh cho Chỉ huy trưởng hậu cần hỏa tuyến Nguyễn Thanh Bình:

 

“Bộ chỉ huy chiến dịch đã nói với 308 tự túc về hậu cần, nhưng ta phải tìm mọi cách để giúp đỡ đơn vị.  Đồng chí tổ chức một bộ phận đuổi theo, liên lạc với bạn và bộ đội tình nguyện vận động nhân dân, huy động lương thực tại chỗ, tận dụng những kinh nghiệm trong chiến dịch Sầm Nứa.  Quyết không để cho bộ đội thiếu ăn như ở Khâu Vác.  Bộ đội đã đi một ngày đường, theo kịp cũng vất vã đấy”… “Ngay buổi tối, anh Bình và mười cán bộ hậu cần lên đường, cùng đi có cả một đội dân công gánh gạo đuổi theo đơn vị” (trang 121).

Một lần nữa Tướng Giáp đã chứng tỏ thiên tài quân sự của ông;  làm sao mà 10 cán bộ hậu cần với một đội dân công khoảng 100 người có thể gánh gạo đuổi theo một sư đoàn?  Trong khi số gạo ăn cần tối thiểu là 10 ngày ăn cho chuyến đi và 10 ngày ăn cho chuyến về, riêng quân của đại đoàn là 10.000 người, rồi còn gạo ăn cho đoàn dân công gánh gạo nữa thì tính ra mỗi người gánh bao nhiêu tấn gạo cho vừa?

Đó là về phần Đại đoàn 308 CSVN.  Còn đối với Đại đoàn pháo binh 351CSVN thì Chính ủy Phạm Ngọc Mậu kể lại cho Tướng Lê Trọng Tấn:

“Mình vừa gọi điện kiểm tra tình hình thì ông Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) bảo lấy giấy bút ghi mệnh lệnh.  Lệnh thế này: “Ngay từ tối nay, bắt đầu kéo pháo ra khỏi trận địa lâm thời đến vị trí an toàn.  Mệnh lệnh này được yêu cầu chấp hành triệt để.  Nhiệm vụ chuyển pháo ra coi như là mệnh lệnh chiến đấu”/

Trực tiếp đọc lệnh cho mình ghi xong, Chỉ huy chiến dịch hỏi thêm:  Rõ chưa?/  – Báo có rõ!/  – Thế thì chấp hành ngay! Lý do sẽ được giải thích sau!/  Ông Văn bỏ máy rồi mà mình vẫn cứ ngớ ra.  Bao nhiêu công phu chuyển vào lại kéo ra.  Mình cứ áp mãi ống nghe vào tai xem ông có nói gì nữa không, nhưng máy im lặng, thế là mình đến gặp các ông bàn chuyện kéo pháo ra” ( Lê Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên, in lần 2, trang 289-290).

Một ông Tổng Tư lệnh ra một cái lệnh cho ông Tư lệnh sư đoàn pháo binh mà nghe xong ông Tướng pháo binh “vẫn cứ ngớ ra”.  Đây không phải là cách làm việc của các nhà quân sự.  Một mệnh lệnh thi hành chỉ được ban ra sau khi đã cho biết về tình hình và giải thích quan niệm điều quân.  Đằng này ông Giáp chỉ ra lệnh điều quân và giữ lại phần giải thích như là một bí mật bí hiểm.

Qua những mệnh lệnh do chính Tướng Giáp kể lại, người ta có thể thấy lối chỉ huy của ông ta giống như phong cách của một giáo sư dạy sử với những chi tiết ly kỳ hấp dẫn, giống như cách chỉ huy của ông Gia Cát Lượng trong truyện Tam Quốc với những cẩm nang bí hiểm chỉ được phép dở ra khi gặp chuyện cần kíp, không hề giải thích cho người nhận lệnh biết được mục đích của hành động, cũng như phải hành động như thế nào cho đúng.

 

(27) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, CHU ÂN LAI RA LỆNH “ĐÁNH THẮNG ĐẸP”

Lệnh tấn công đến từ Paris và Bắc Kinh

Năm 1954, ngày 21-2, các Ngoại trưởng của Anh, Nga, Pháp, Hoa Kỳ họp nhau tại Berlin để giải quyết việc phần chia ranh giới giữa Đông và Tây Berlin.  Cuối buổi họp, Ngoại trường Nga Molotov nhắc lại việc 4 nước sẽ cùng nhau họp tại Genève trong ngày 26-4 để bàn về việc giải tỏa lệnh cấm vận cho Trung Cọng cũng như bàn về việc thi hành Hiệp ước ngưng bắn tại Đại Hàn.  Nhân dịp đó, Ngoại trưởng Pháp đề nghị sẽ bàn thêm về chiến tranh Đông Dương.  Tất cả đều đồng ý.

Thực ra cả 3 việc chỉ là một vấn đề, tất cả đều liên quan đến lệnh cấm vận Bắc Kinh từ năm 1951. Lệnh cấm xảy ra sau khi ông Mao xua quân đánh qua Triều Tiên.  Rồi cũng vì lệnh cấm đó mà ông Mao hăm sẽ tiến quân về phương Nam để gỡ thế bao vây cấm vận của LHQ. *( Giống như ngày nay Bắc Hàn cũng hăm tấn công Nam Hàn để gỡ thế cấm vận của LHQ ).

Sau khi các nước đồng ý bàn về chiến tranh Đông Dương, Thủ tướng Pháp chỉ thị cho Tướng Navarre là chỉ huy trưởng quân Pháp tại Đông Dương hãy có một hành động quân sự ngoạn mục nhằm chiếm ưu thế tại hội nghị Genève sắp tới.  Tướng Navarre quyết định xua 5 binh đoàn từ Pleiku và Tuy Hòa tấn công chiếm tỉnh Bình Định vào sáng ngày 13-3-1954.

Năm 1954, ngày 3-3. Trong khi đó về phía Cọng sản, Tướng cồ vần Vi Quốc Thanh cũng nhận được điện của Thủ tướng Trung Cọng là Chu Ân Lai :

“…để chuẩn bị cho 5 nước Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung và đại biểu các nước có liên quan tham gia hội nghị Genève thảo luận vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương, triệu tập vào giữa tháng 4 … Để giành chủ động về ngoại giao, có thể tổ chức đánh mấy trận thắng đẹp ở Việt Nam như trước khi đình chiến ở Triều Tiên không ? ”…

Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn bạc, quyết định ngày 13/3 bắt đầu nổ súng tấn công Điện Biên Phủ” ( Vương Chấn Hoa, Đồng Chí Vi Quốc Thanh, Dương Danh Di dịch ). 

*( CSVN mở màn trận ĐBP vào ngày 13-3 để hỗ trợ cho TC tại bàn đàm phán Genève.  Vô tình trùng hợp, phía Pháp cũng chọn đúng ngày này để tấn công chiếm tỉnh Bình Định đang do CSVN kiểm soát;  cũng nhằm hỗ trợ cho Pháp tại Genève ).

Theo lệnh của Bắc Kinh, mới đầu các chuyên gia Trung Quốc dự trù 10 ngày sau sẽ khai hỏa, trận mở màn sẽ tiêu diệt 2 tiền đồn phía Bắc của căn cứ Điện Biên Phủ cùng một lúc.  Tuy nhiên lực lượng pháo binh của CSVN lại không đủ bao giàn cho cả hai mặt trận cùng một lúc, cho  nên cuối cùng Tướng Giáp quyết định đánh tiền đồn Béatric trước, rồi ngày hôm sau mới đánh tiền đồn Gabrielle.

Khai hỏa tại đồn Beatric

Béatrice là một đồn nằm bên tỉnh lộ 41 dẫn vào Điện Biên Phủ.  Tỉnh lộ 41 từ Tuần Giáo, cách Điện Biên phủ 80 cây số về hướng Đông Bắc, chạy về Điện Biên Phủ theo hướng Tây Nam, găp tiền đồn Beatrice trước khi tới sông Nậm Rốn cách đó 2 cây số rưỡi.  Khi gặp sông Nậm Rốn chảy theo hướng từ Bắc xuống Nam thì Tỉnh lộ 41 đổi hướng từ Bắc xuống Nam dọc theo bờ phía đông của sông Nậm Rốn.

Đồn Beatric là một cụm phòng thủ trên 3 ngọn đồi độc lập nhưng gần sát nhau, có bãi mìn và hàng rào kẽm gai dày từ 100 tới 200 mét, do một tiểu đoàn Lê Dương trấn giữ.

Trận đánh đồn Beatric được giao cho Đại đoàn trưởng 312 là Lê Trọng Tấn chỉ huy.  Đơn vị tham dự là Trung đoàn 209/312 do Hoàng Cầm là trung đoàn trưởng và Trung đoàn 141/312 do Quang Tuyến làm trung đoàn trưởng.

Năm 1954, ngày 13-3, buổi trưa, pháo binh CSVN pháo kích vào phi trường Điện Biên Phủ.  Đến 4 giờ chiều phi trường ngưng hoạt động sau khi 3 phi cơ vận tải và 1 phi cơ thả bom bị trúng đạn pháo khi cất hay hạ cánh.

Ngày 13-3

  Lúc 6 giờ 15 chiều, các khẩu súng hạng nặng của hai trung đoàn pháo binh bắt đầu pháo vào đồn theo chiến thuật tiền pháo hậu xung, 15 phút sau thì chỉ huy trưởng và chỉ huy phó của đồn bị tử trận.  Lúc 8 giờ tối quân CSVN đồng loạt xung phong tấn công đồn.  Pháo binh của khu trung tâm mặc dầu bị pháo kích nhưng vẫn có thể yểm trợ cho Beatrice dưới làn đạn pháo, tuy nhiên không thể yểm trợ cho đồn được vì Bộ chỉ huy tiểu đoàn phòng thủ đã bị tiêu diệt ngay từ đầu, không có người hướng dẫn pháo binh.

  Lúc 7 giờ 50 tối.  Trong khi pháo binh CSVN pháo vào khu trung tâm để yểm trợ cho toán quân tấn công Beatrice thì một trái đạn 105 ly rơi trúng hầm của Bộ chỉ huy Phân khu trung tâm làm Trung tá Gaucher và một sĩ quan tử thương.

  Lúc 8 giờ 40, hai trong 3 ngọn đồi của Beatrice bị chiếm.

  Lúc 11giờ đêm tại ngọn đồi của Bộ chỉ huy tổ chức phòng thủ lại xung quanh Bộ chỉ huy, không còn sĩ quan nào, chỉ có hạ sĩ quan.

  Lúc 11 giờ 30, ngọn đồi tại Bộ chỉ huy bị tràn ngập.  Tất cả chỉ có 50 quân nhân chạy thoát được về phía sau .

Ngày 14-3,

Được tin một tiền đồn của Điện Biên Phủ bị mất và thiệt hại hết 1 tiểu đoàn Lê Dương, Tướng chỉ huy quân Pháp tại Bắc Việt là Congy cho phi cơ chở 1 tiểu đoàn nhảy dù lên tăng cường cho Điện Biên Phủ.  Đó là Tiểu đoàn 5 Dù của quân đội QGVN.

  Sáng sớm, đồn Beatrice đổ nát với vài nơi còn ngún khói trở thành hoang tàn vô chủ, quân Cọng sản cũng đã vội rút đi vì sợ máy bay lên thả bom hủy diệt đồn.  Cho đến tối thấy đồn vẫn vô chủ, một trung đội quân CSVN lên chiếm đóng đồi Beatric mà phía Cọng sản gọi là đồi Him Lam.  Còn Bộ chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ không tính tới chuyện tái chiếm hay cứu viện đồn, một quyết định khó hiểu đối với các nhà nghiên cứu quân sự .

  Lúc 8 giờ 45 sáng, Quân CSVN thả một sĩ quan Pháp bị thương với lời đề nghị ngưng bắn tới 12 giờ trưa để hai bên thu dọn xác chết và di tản thương binh tại đồn Beatrice.  Đại tá De Castries chấp thuận.

  Lúc 4 giờ chiều, Tiểu đoàn 5 Nhảy dù của Quân đội Quốc gia Việt Nam nhảy xuống Điện Biên Phủ.  Đây là lần đầu tiên một tiểu đoàn của Quân đội QGVN tham dự trận địa chiến.  Vậy là quân đội CSVN và quân đội QGVN thực sự đánh lớn với nhau bắt đầu từ ngày này.

Trận đánh đồn Grabrielle

Gabrielle là một đồi dài 700 mét, rộng 150 mét, nằm bên bờ sông Nậm Rốn, do một tiểu đoàn lính Algériens trấn giữ, nhiệm vụ ngăn chận hướng xâm nhập của địch quân từ Lai Châu xuống, trong đồn có 4 khẩu súng cối 120 ly để yểm trợ cho các cuộc hành quân tại vùng đồi núi phía bắc Điện Biên Phủ cũng như để phản pháo một khi đồn bị pháo kích.

Trận đánh đồn Gabrilelle được giao cho Đại đoàn trưởng 308 CSVN là Tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy.  Đơn vị tham dự là Trung Đoàn 88/308 do Nam Hà chỉ huy ( Đại đoàn phó 308 là Cao Văn Khánh đi theo 88/308 ). Và Trung đoàn 165/312 do Lê Thùy chỉ huy ( Đại đoàn phó 312 là Đàm Quang Trung đi theo 165/312 ).

Ngày 14-3,

  Lúc  6 giờ chiều, quân CSVN vây kín tiền đồn còn lại của Cứ điểm điện Biên Phủ là đồn Gabrielle ở hướng Bắc của khu trung tâm, cách 4 cây số,  bên bờ sông Nậm Rốn chảy từ hướng Lai Châu xuống.  Đến 11giờ 30 đêm các khẩu pháo cơ hữu của Trung Đoàn 165 thuộc Đại đoàn 312 và Trung đoàn 88 thuộc Đại đoàn 308 CSVN  bắt đầu nả vào Tiền đồn Gabrielle.

  Lúc 11 giờ 30 đêm, quân CSVN bắt đầu pháo và sau 20 phút thì ngưng pháo và xung phong tấn công.  Nhưng lần này đã chuẩn bị sẵn, pháo binh ở khu trung tâm mặc dầu bị pháo binh của CSVN pháo kích nhưng vẫn có thể rót đạn ngay hướng tấn công của quân Cọng sản;  nhờ vậy lực lượng phòng thủ đẩy lui được cuộc tấn công của Trung Đoàn 165 ở hướng Đông Bắc và Trung đoàn 88 ở hướng Đông Nam.

Ngày 15-3,

  Lúc 3 giờ 30 sáng, quân CSVN bắt đầu pháo để mở đợt xung phong thứ hai.  Cũng như đồn Beatric, Bộ chỉ huy tiểu đoàn bị trúng pháo và đồn không còn hệ thống chỉ huy.  Pháo binh từ khu trung tâm chỉ biết bắn hú họa vào các điểm tác xạ của lần tấn công trước.  Lúc 5 giờ 30, một phần của đồn Gabrielle bị tràn ngập nhưng phần còn lại vẫn tiếp tục cầm cự và còn liên lạc được với trung tâm .

  Lúc 5 giờ 30 sáng, De Castries ra lệnh cho Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam vừa mới tới chiều hôm qua lên đường tiếp theo để tái chiếm Gabrielle nhưng Tiểu Đoàn này bị lạc trong vòng rào trung tâm ngay khu phi trường, giữa lúc trời chưa sáng hẳn.  De Castries bèn ra lệnh thành lập đội quân cứu viện gồm 3 chiến xa, 1 đại đội thuộc tiểu đoàn 1 Dù do Trung úy Martin chỉ huy và Tiểu đoàn 5 Dù VN, tất cả do Thiếu tá Séguins-Pazzis chỉ huy.

Đoàn quân do 3 chiến xa dẫn đầu, rồi đến Đại đội của Martin, đến Đại đội 3 của TĐ5/NDVN do Trung úy Phạm Văn Phú chỉ huy *( Sau này là Thiếu tướng Phạm Văn Phú ), đến Đại đội chỉ huy, đến Đại đội 2/TĐ5 do Trung úy Ty chỉ huy, đến Đại đội 1 do Trung úy Rondeau chỉ huy, đến đại đội 4 do một Trung úy Việt Nam chỉ huy.

  Lúc 7 giờ sáng,  Đại đội Dù của Martin và các chiến xa bị quân CSVN phục kích tại bãi lội sông gần bản Khê Phai nhưng hỏa lực của 3 chiến xa đã khiến trận tuyến của Trung đoàn 102 CSVN bị chọc thủng.  Lúc này quân của Martin và của Phú cùng với đại đội chỉ huy của Tiểu đoàn 5 đã qua khỏi bãi vượt sông. Nhưng tới phiên Đại đội 2 của Trung úy Ty thì ông cho án ngữ bên này bãi vượt. Vì vậy hai đại đội 1 và 4 của Tiểu đoàn 5 Dù VN cũng phải dừng lại.

  Lúc 7 giờ 30, hai đại đội của Martin và Phú tới gần Gabrielle khiến quân CSVN phải tản ra bố trí ở phía đông Hương lộ.  Quân Dù VN không chịu tiến tiếp vì sợ rơi vào tuyến phục kích của quân CSVN.  Đại tá De Castries ra lệnh cho quân trong đồn ra khỏi đồn để gặp quân Dù và cùng rút về khu trung tâm, bỏ luôn tiền đồn này.  Quân Dù đón được 4 sĩ quan và 150 lính.  Theo lời khai của tù binh và các binh sĩ sống sót, quân CSVN đã bị chết ngoài vòng rào là 1.500 người.

  Đêm 15-3, Cố vấn Vi Quốc Thanh gửi điện về cho Bắc Kinh:  “Để bảo đảm sử dụng pháo không gián đoạn khống chế sân bay và liên tục kiên trì chiến đấu tương đối dài, cần phải tiếp thêm lương thực và xăng dầu.  Xin đưa thêm 3.000 quả đạn pháo (cỡ 105 kiểu Mỹ), 3.000 quả sơn pháo, 3.000 thùng lớn xăng dầu đến Bằng Tường trước ngày 25-3” ( Viện nghiên cứu lịch sử Quân đội Trung Quốc, Dương Danh Di dịch ).

Ngày 16-3,

  Buổi sáng, chỉ huy trưởng Pháo binh tại cứ điểm Điện Biên Phủ là Trung tá Piroth đã tự sát bằng lựu đạn vì ông bất lực trước trận địa pháo của CSVN, trái với những điều mà trước đây ông từng  cam đoan với De Castries là một khi có trận đấu pháo xảy ra thì pháo binh Pháp sẽ tiêu diệt pháo binh CSVN dễ dàng.

Cái chết của Trung tá Piroth sau khi hai tiền đồn bị thất thủ cũng đã làm cho Tham mưu trưởng quân Pháp tại cứ điểm Điện Biên Phủ bị mất tinh thần nên De Castries lại phải gởi ông này theo phi cơ di tản thương binh về Hà Nội.

  Cũng trong buổi sáng này, Trung tá Langlais tập họp điểm danh tàn quân của đồn Grabrielle, đồng thời phê phán Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam đã hèn nhát trụ lại bãi lội sông. Tiểu đoàn trưởng Botella quyết định cách chức Trung úy Ty và thanh lọc lại đơn vị, đưa một số sĩ quan và binh sĩ ra lao công chiến trường.  Việc này mở đầu cho sự bất mãn của một số sĩ quan trong Đại đội 2 và Đại đội 4 thuộc Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam.

  Ngày 16-3, buổi trưa, phi cơ thả xuống Tiểu đoàn 6 nhảy dù của Pháp là tiểu đoàn thiện chiến nhất của quân viễn chinh Pháp, với người chỉ huy nổi tiếng là Thiếu tá Bigeard, người đã từng cứu nguy cho đoàn quân ở Tư Lệ để đưa về Na Sản. *( Sau này là Trung tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pháp )

 

(28) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, KẾ HOẠCH TỔNG TẤN CÔNG

Giai đoạn tam ngưng chiến để củng cố

Sau khi đồn Gabrielle mất thì căn cứ An Marie nằm ở hướng Tây Bắc khu trung tâm, cách 2 cây số, trở thành tiền đồn đứng mũi chịu sào mặt bắc của Điện Biên Phủ.  Căn cứ An Maria gồm 4 đồn trên 4 ngọn đồi chung quanh Bản Kéo, 2 đồi ở phía tây bắc Bản Kéo và 2 đồi ở mặt đông nam Bản Kéo, tiếp giáp với phi trường Điện Biên Phủ. Căn cứ do 1 tiểu đoàn người Thái trấn đóng.

Ngày 17-3, dân chúng Bản Kéo rủ nhau tản cư vì cho rằng sẽ tới phiên Bản Kéo. Thấy vậy 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 3 Thái đóng tại 2 đồn phía Tây Bắc di tản theo dân chúng, biến mất vào núi rừng Điện Biên Phủ.  Đại tá De Castries phải cho 2 đại đội còn lại vào phòng thủ khu trung tâm và cho 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 1 Dù lên trấn giữ 2 đồn phía nam Bản Kéo, bỏ hẳn hai đồn phía bắc;  nhập hai đồn phía nam vào căn cứ phòng thủ phi trường là căn cứ Huguette.

Căn cứ Huguette có hai đồn là Huguette 1 và 2 đóng ở hai đầu phi trường, nay có thêm 2 đồn ở phía bắc phi trường, gọi là Huguette 6 và 7.  Lại lập thêm một đồn giữa Huguette 6 và căn cứ Dominique ở bờ phía đông sông Nậm Rốn, giao cho Tiểu đoàn 2 Thái trấn giữ .

Ngày 17-3, sau khi chiếm được 2 tiền đồn, Tướng Võ Nguyên Giáp cho lệnh ngưng tấn công để tổ chức lại đơn vị cũng như nhận thêm tiếp tế và bổ sung quân số.  Hai trận đánh vừa qua khiến hai Đại đoàn 308 và 312 bị chết 1.800 người và bị thương khoảng 2.000.

Năm 1954, ngày 22-3, sau khi ổn định phòng thủ khu trung tâm, Thiếu tá chỉ huy trưởng lực lượng xung kích Bigeard tung Tiểu đoàn 1 Dù cùng với 2 chiến xa M.24 mở cuộc hành quân thông đường xuống căn cứ Isabelle ở phía nam, bất ngờ giữa đường đụng phải quân của Tiểu đoàn 322 thuộc Trung đoàn 88/308 đang yểm trợ toán dân công đào giao thông hào làm tuyến phục kích cắt ngang Hương lộ giữa Isabelle và khu trung tâm.  Bị bất ngờ, hai đại đội của Tiểu đoàn 322 bị đánh tan, bỏ lại 400 xác chết với 100 vũ khí. Có lẽ một số xác chết là dân công.

Năm 1954, ngày 28-3, Trung tá Langlais cho 2 tiểu đoàn Dù tấn công vào Bản Ong Pet nằm về phía tây nam khu trung tâm và là phía tây bắc của căn cứ Isabelle.  Tại đây có các giàn cao xạ của Đại đoàn pháo binh 351 được Trung đoàn 36 thuộc Đại đoàn 308 bảo vệ.  Bị đánh bất ngờ, Trung đoàn 36 bị thiệt hại nặng, chết 350 bỏ xác tại chỗ.  Quân Pháp thanh toán các giàn cao xạ và mang về hàng trăm vũ khí các loại.

*( Theo hồi ký “Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử” của Võ Nguyên Giáp thì sở dĩ trận này quân CSVN bị chết nhiều là do hết đạn cho nên bộ đội đã dùng búa, kềm, đồ nghề sửa xe và chân súng gãy lao vào quyết chiến với xe tăng (sic), trang 244, bản in lần 2 ).

Năm 1954, ngày 27-3, sau 10 ngày nghĩ ngơi, bổ sung quân số và chỉnh đốn đơn vị, Tướng Giáp họp các đơn vị trưởng tại Mường Păng, ban hành “kế hoạch tác chiến” tổng tấn công Điện Biên Phủ.  Đơn vị tham dự là 4 Đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn pháo binh.  Theo kế hoạch do các chuyên gia Trung Quốc soạn ra, Tướng Giáp giao cho Đại đoàn 312 của Lê Trọng Tấn đánh chiếm vòng cung Đông Bắc của cứ điểm, Đại đoàn 316 của Tướng Lê Quảng Ba đánh chiếm vòng cung phía Đông của cứ điểm. Hai Đại đoàn này có nhiệm vụ tiêu diệt 5 đồn chính và 1 đồn dự phòng.

Bố trí đồn bót tại khu trung tâm cứ điểm ĐBP

Sau khi mất tiền đồn Beatrice trấn giữ phía Đông Bắc, trên Tỉnh lộ 41, cách 2,5 cây số;  giờ đây mặt Đông Bắc của Cứ điểm Điện Biên Phủ được bảo vệ bởi căn cứ Dominique, mặt chính Đông được bảo vệ bởi căn cứ Eliane, mặt chính Bắc bởi căn cứ Huguette, mặt chính Tây bởi căn cứ Francoise và mặt Tây Nam bởi căn cứ Claudine.

Căn cứ Dominique nằm ngay điểm gặp nhau giữa tỉnh lộ 41 và con sông Nậm Rốn.  Ngay tại điểm gặp nhau, có đồn Dominique 1 nằm bên vệ đường phía Tây của tỉnh lộ 41.  Đối diện với Dominique 1 bên kia Tỉnh lộ là đồn Dominique 2 trấn giữ mặt Đông của tỉnh lộ và cũng là mặt đông của Cứ điểm Điên Biên Phủ.

Để yểm trợ cho Dominique 1 và 2, người ta lập ra đồn Dominieque 3 ở phía sau Dominique 1 và 2, có đặt pháo binh 105 ly, cũng nằm bên vệ đường phía Tây của Tỉnh lộ 41.  Thêm nữa, để bảo vệ cho Dominique 1,2 và 3, người ta lại lập Dominique 4 ở phía sau của các đồn này, bên bờ phía Tây của sông Nậm Rốn, trên đường liên lạc với trung tâm, và cũng để trấn giữ mặt Đông của Phi trường.

Căn cứ Eliane đảm trách phòng thủ mặt Đông của cứ điểm, có 2 đồn chính ở phía Đông tỉnh lộ 41. Đồn Eliane 1 tiếp giáp với Dominique2  ở hướng Bắc và tiếp giáp với Eliane 2  ở phía Nam. Đồn Eliance 2 tiếp giáp với Eliance 1 ở phía Bắc và tiếp giáp Elian 3 nằm chếch về hướng Nam, bên vệ đường của tỉnh lộ 41 nhưng cũng là bờ phía Đông của sông Nậm Rốn.

Đối diện với Elian 3 bên kia sông Nậm Rốn là Claudine 3, cả 2 đồn Eliance 3 và Claudine 3 trách nhiệm phòng thủ mặt nam của khu trung tâm.  Ngoài ra còn có Eliane 4 nằm chếch sau lưng của Eliance 1 và 2 để chặn sự xâm nhập của địch vào khoảng giữa của hai đồn này.

Kế hoạch tổng tấn công của quân CSVN

Theo như hồi ký của Tướng Lê Trọng Tấn thì mục đích của đợt tấn công Beatric và Gabrielle là “tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của chúng”. Còn  đợt tấn công này thì  Tướng Tấn cho biết :  “Nhiệm vụ trong đợt này là tiêu diệt năm điểm cao phòng ngự phía Đông Mường Thanh…Đặc điểm đợt này là cả 5 đại đoàn tham gia tiến công một loạt các cứ điểm có công sự kiên cố của địch”.

Hồi ký của Tướng Giáp không đề cập tới mục đích của trận này, chỉ nói rằng ông phân công cho 312 và 316 phụ trách đánh 6 đồn phía Đông nhưng đối với 308 thì không giao cho đồn nào cả:  “Đại đoàn 308 có nhiệm vụ dùng hỏa lực kiềm chế pháo binh địch ở tây Mường Thanh, dùng bộ phận nhỏ tích cực dương công các cứ điểm 106 (Huguette 7) và 311 (Francoise)” (Bản in lần 2, trang 259).

Không ai tin rằng Đại đoàn thiện chiến nhất của Quân đội CSVN lại ngồi chơi xơi nước trong một trận xả láng.  Không lý Tướng Giáp xua cả 5 đại đoàn tổng tấn công mà Đại đoàn 308 chỉ có một bộ phận nhỏ được giao nhiệm vụ dương công? ( Dương công là mũi đánh nhứ, còn chủ công là mũi đánh chính ).

Vì không tin vào lời kể của Tướng Giáp cho nên các nhà quân sự học có một cách khác để phăng ra “kế hoạch tác chiến” thực sự của Tướng Giáp bằng cách nhìn vào kế hoạch bố trí lực lượng trước khi trận chiến khai hỏa :

Tổng số lực lượng tham dự được ghi nhận là 5 đại đoàn, nhưng đại đoàn 351 là đại đoàn Pháo binh, và Đại đoàn 304 chỉ có 1 trung đoàn tham dự, đó là Trung Đoàn 57/304, được giao nhiệm vụ làm chốt chặn giữa Căn cứ Isabelle và Khu trung tâm.  Còn lại 3 đại đoàn bộ binh với 9 trung đoàn.  Các trung đoàn được bố trí như sau:

Năm trung đoàn trên bờ phía Tây là : (1) – Trung đoàn 88/308 do Nam Hà chỉ huy đối mặt với căn cứ Francois. (2) – Trung đoàn 36/308 áp sát giữa Huguette 7 và Huguette 1  (3) – Trung đoàn 176/316 đối mặt với Huguette 7.  (4) – Trung đoàn 102/308 do Hùng Sinh chỉ huy nằm trừ bị ở phía sau 36 và 176.  (5) – Trung Đoàn 165/312 do Lê Thùy chỉ huy đối mặt với Huguette 6.  Theo như hồi ký của Tướng Giáp thì cả 5 trung đoàn này không được giao đánh đồn nào cả.

Trong khi đó bốn trung đoàn trên bờ phía Đông được giao nhiệm vụ rất rõ ràng:  (1) -Trung đoàn 141/312 do Quang Tuyến chỉ huy đánh Dominique 1. (2) – Trung đoàn 209/312 do Hoàng Cầm chỉ huy đánh Dominique 2. (3) – Trung đoàn 98/316 do Vũ Lăng chỉ Huy đánh Eliance 1. (4) – Trung đoàn 174/316 do Nguyễn Hữu An chỉ huy đánh Eliance 2.

Ngoài ra, Trung đoàn 209/312 CSVN sau khi chiếm Dominique 2 thì sẽ tiến chiếm Dominique 3. Và Trung đoàn 98/316 CSVN sau khi chiếm Eliance 1 sẽ tiến chiếm Eliance 4.

*( Hồi ký của Tướng Lê Trọng Tấn đã ghi nhầm rằng Trung đoàn 98/316 tăng cường cho 308 để đánh Tiểu đoàn Thái số 2 và Tiểu đoàn 6 dù. Nhưng sự thực Trung đoàn 98/316 đánh Eliance 1. Trung đoàn 176/316 mới là trung đoàn tăng cường cho Đại đoàn 308 CSVN.

Hồi ký của Tướng Giáp, trang 259, cũng ghi nhầm y như Lê Trọng Tấn.  So lại thì hai sách nói giống nhau từng câu và từng dấu phẩy, chỉ sửa lại vài chữ.  Chứng tỏ hồi ký của Tướng Giáp, do Hữu Mai biên soạn, đã trích lại Hồi ký của Tướng Tấn nhưng Hữu Mai cũng không phát hiện ra nhầm lẫn trong sách của Tướng Tấn ).

Sở dĩ Trung đoàn 176 được giao qua cho 308 là vì 176 đã hoạt động tại Điện Biên Phủ trước khi quân Pháp chiếm đóng. Do đó họ rất rành địa thế Khu Trung tâm của cứ điểm và quen thuộc với dân chúng địa phương nên họ có móc nối được với một số quân Thái đang phòng thủ Huguett 7.

 

Nhìn vào cách bố trí như trên thì người ta đoán ra chuyện 4 trung đoàn đánh 6 đồn phía Đông là đánh nhứ, còn 5 trung đoàn mai phục ở bờ phía Tây mới thực sự là lực lượng chủ công. Và mục tiêu của lực lượng chủ công là Bộ Chỉ Huy của cứ điểm Điện Biên Phủ, nằm trên bờ phía Tây của sông Nậm Rốn.

Ngoài ra hồi ký của Tướng Lê Trọng Tấn có hé lộ cho thấy nhiệm vụ thực của Đại đoàn 308 CSVN trong đợt tổng tấn công :  “Đại đoàn 308 có nhiệm vụ tiêu diệt khu tung thâm của địch gồm:  Tiểu đoàn Thái số 2 và vị trí pháo binh địch ở đó, phối hợp cùng Trung đoàn 98 tiêu diệt tiểu đoàn dù thuộc địa số 6”.  ( Từ Đồng Quan đến Điện Biên, in lần 2, trang 319.  Thưc ra không phải là Trung đoàn 98 mà là Trung đoàn 176/316).

Để thêm chắc chắn về kế hoạch tác chiến thực sự của Tướng Giáp, các nhà quân sự học có một cách để kiểm chứng, đó là so lại với kế hoạch tác chiến ban đầu đã ban hành ngày 14-1-1954 tại hang Thẩm Púa, được Tướng Võ Nguyên Giáp ghi trong hồi ký như sau :

“Nhiệm vụ thọc sâu được giao cho đại đoàn 308, đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ.  308 sẽ đánh vào tập đoàn cứ điểm từ hướng tây, xuyên qua những vị trí nằm trên cánh đồng, thọc thẳng tới sở chỉ huy của Đờ Cát.  Các đại đoàn 312, 316 nhận nhiệm vụ đột kích vào hướng đông, nơi có những cao điểm trọng yếu.  Dự kiến trận đánh sẽ diễn ra trong hai ngày, ba đêm” ( Bản in lần 2, trang 94 ).

Rõ ràng là Tướng Vi Quốc Thanh và Tướng Giáp đã quyết định xua cả 5 đại đoàn tấn công một trận quyết định trong vòng vài ngày mà thôi.

 

(29) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỔNG TẤN CÔNG, TƯỚNG GIÁP THUA NẶNG

Ngày đầu tiên, 30-3-1954 :  Mũi tấn công chính bị tiêu diệt

 Lúc 6 giờ 30 chiều, quân CSVN đồng loạt pháo kích vào 4 đồn sắp sửa bị tấn công, đồng thời pháo kích vào các vị trí pháo binh của Pháp ở khu trung tâm cũng như tại căn cứ Isabelle. Lúc 6 giờ 45, sau 15 phút “tiền pháo”, quân CSVN đồng loạt tấn công.

  Lúc 7 giờ 30, Trung đoàn 98/316 của Vũ Lăng chiếm được đồn Eliance 1.

  Lúc 7 giờ 45, Trung đoàn 141/312 của Quang Tuyến chiếm được Dominique 1.

  Lúc 8 giờ tối Trung đoàn 209/312 của Hoàng Cầm chiếm được Dominique 2.  Cả hai đồn Dominique 1 và 2 do tiểu đoàn 3 Algérie trấn giữ,  nguyên cả tiểu đoàn đã bỏ chạy về phía sau khi quân CSVN bắt đầu hô xung phong.

Sau khi chiếm được đỉnh Dominique 2, Trung đoàn 209 CSVN tràn xuống sườn phía Tây để tiếp tục tấn công Dominique 3.  Tuy nhiên Trung đoàn bị thiệt hại nặng vì 2 khẩu pháo 105 ly từ Dominique 3 bắn trực xạ ngay trên sườn phía Tây của Dominique 2.

Vì vậy dự định Trung đoàn 209 sẽ chiếm nốt Dominique 3 không thành công.  Tư lệnh Đại đoàn 312 là Lê Trọng Tấn tung tiểu đoàn trừ bị tiếp tục tiến chiếm Dominique 3 nhưng cũng bị thất bại cũng vì đạn pháo trực xạ của 2 khẩu 105 ly.

  Lúc 8 giờ tối.  Sau khi nghe Vũ Lăng, Quang Tuyến và Hoàng Cầm báo tin đã chiếm được mục tiêu,  Tướng Giáp ra lệnh cho Đại đoàn 308 CSVN ở phía Tây bắt đầu tấn công

 

Tại mặt Tây, Sau đợt pháo kích dài 20 phút, Trung đoàn 176/316 CSVN tấn công góc Tây Bắc của Huguette 7, hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Thái bỏ chạy mất tiêu, để lại Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam, do Đại úy Bizard chỉ huy. ( Bizard mới được thả dù xuống thay thế Trung úy Rondeau bị thương nặng vì đạn pháo mấy ngày trước ).

  Lúc 10 giờ đêm. Quân 176/316 tràn ngập góc Tây Bắc của Huguette 7 và chuẩn bị tấn công sang góc Đông Bắc chỉ còn 1 trung đội do Trung sĩ Tournayre chỉ huy.

Từ một ụ phòng thủ ở phía nam Huguette 7, Đại úy Bizard ra lệnh cho Tournayre rút về phía Nam, bỏ trống 6 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly tại các ụ súng ở khu trung tâm của Huguette 7.  Nhưng ông cũng ra lệnh cho 4 khẩu 105 ly còn lại, từ các ụ súng phía Nam, chong sẵn nòng để bắn trực xạ về phía các ụ súng ở khu trung tâm.

Quả nhiên quân của 176/316 đã tràn ngập các ụ súng khu trung tâm và bị pháo trực xạ quét tan tành các ụ súng và quét toàn bộ quân 176 ra khỏi Huguette 7.

  Lúc 11 giờ đêm.  Chỉ huy trưởng Huguette 7 là Clémencon thấy quân CSVN bị đại bác thổi bật ra khỏi Huguette 7 thì yêu cầu Langlais tăng cường cho một đại đội Dù để ra xem xét và tái chiếm khu vực đã bị Trung đoàn 176/136 tràn ngập.  Nhưng Langlais từ chối, vì ông ta đang bận dồn nỗ lực tiếp ứng cho 5 đồn mặt Đông.

Mãi đến sáng thì đại đội tử thủ Huguette 7 được phi cơ yểm trợ và Tiểu đoàn 1 Dù lên tiếp viện, chiếm lại toàn bộ Hugette 7.  Các khẩu súng bị pháo binh Pháp bắn tan tành trong đêm được báo cáo là bị quân CSVN phá hủy, gồm 6 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly.  ( Một nửa số đại bác của Khu trung tâm ).

Kể từ lúc này thì Trung đoàn 176/316 CSVN bị xóa sổ, không hề xuất hiện trong các bài viết kể về trận Điện Biên Phủ.

  Lúc 11 giờ đêm, Thiếu tá Bigeard tung Tiểu đoàn 6 Dù tiếp cứu đồn Eliance 2 đang còn cầm cự, lúc này quân của Trung đoàn 174/316 do Nguyễn Hữu An chỉ huy đã chiếm được một nửa đồi.  Một tiểu đoàn Dù thứ hai là Tiểu đoàn 8 Dù đến Dominique 3 để phản công tái chiếm Dominique 2.

Một tiểu đoàn Dù thứ 3 là Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam trừ  ( thiếu 1 đại đội đang tử thủ ở Huguette 7)  đến Eliance 4 để phản công tái chiếm Eliance 1 .  Ngoài ra De Castries cũng cho lệnh căn cứ Isabelle cho 1 tiểu đoàn cùng với 3 chiến xa lên tăng cường tái chiếm và giải vây cho các đồn đang bị đánh.

Ngày thứ hai, 31-3-1954 :  Tướng Giáp bỏ mặt chính đánh mặt phụ

  Lúc 4 giờ sáng, căn cứ Isabelle cho 3 chiến xa và 1 tiểu đoàn bộ binh lên đường về khu trung tâm để tiếp ứng các cánh quân nhưng giữa đường bị quân của Trung đoàn 57 thuộc Đại đoàn 304 chận đánh ở quảng giữa, nơi đây dân công đã đào sẵn hệ thống giao thông hào.  Trận chiến xảy ra ác liệt nhưng quân Pháp nhờ có chiến xa hỗ trợ nên quân của Trung đoàn 57 phải rút lui trước khi trời sáng.  Phía Pháp có 20 chết và 85 bị thương, phía CSVN ước lượng có 1.000 chết  (Theo tài liệu của Pháp).

*( Trong Trung đoàn 57 có một người nổi tiếng sau này là ông Phạm Ngọc Thảo.  Ông từ Miền Nam được đưa ra Thanh Hóa để học tập chính huấn tại Trung đoàn 57 thuộc đại đoàn 304 CSVN.  Sau đó theo Trung đoàn tham dự trận ĐBP từ ngày đầu tới ngày cuối.

 

Kết thúc trận ĐBP, nhờ rành tiếng Pháp ông được phân công trao đổi với tù binh Pháp tại ĐBP.  Nhờ vậy ông lại được phân công tham gia Ủy ban trao trả tù binh của LHQ tại Nam Vang.  Sau khi chấm dứt nhiệm vụ tại Nam Vang thì ông trốn về vùng Quốc gia ).

 Khoảng 4 giờ sáng, trong khi quân tiếp viện của căn cứ Isabelle bị chận đánh thì các tiểu đoàn Dù đã chiếm lại được Dominique 2, Eliance 1 và lấy lại toàn bộ Eliance 2.  Tướng Võ Nguyên Giáp quyết định điều động Trung đoàn 102/308 CSVN đang chuẩn bị đánh mặt Tây chuyển qua phía Đông để tăng cường chiếm Eliance 2.

  Lúc 3 giờ rưỡi chiều, Thiếu tá Biegard chờ không thấy chiến xa và tiểu đoàn tăng viện của Isabelle đến trong khi quân CSVN tăng cường tấn công chiếm lại Dominique 2 và Eliance 1. Vì vậy  Bigeard tiên đoán khi đêm đến quân Dù sẽ không giữ nổi hai nơi đó nên ông cho lệnh quân Dù tại Dominique 2 và Eliance 1 rút về giữ chặt Dominique 3 và Eliance 4.

  Lúc 3 giờ 30 chiều, Trung đoàn 102/308 CSVN của Hùng Sinh đến khu Eliance để thay thế cho Trung đoàn 174/316 của Nguyễn Hữu An để tiếp tục tấn công lên Eliance 2.  Nguyễn Hữu An bị khiển trách nặng vì chết qúa nhiều mà không chiếm được Eliance 2.

  Lúc 6 giờ 15 chiều, quân của Hùng Sinh mở cuộc tấn công Eliance 2 nhưng bị đẩy lui.  Lúc 10 giờ 45 tối, quân của Hùng Sinh lại xung phong đợt hai nhưng chỉ chiếm được một góc nhỏ của Eliance 2 sau khi bị hy sinh quá nhiều.

Ngày thứ ba, 1-4-1954 :  Mũi tấn công phụ thất bại

  Lúc 7 giờ sáng, quân xung kích của Thiếu tá Bigeard cùng xe thiết giáp lên tăng viện cho Eliance 2.  Trung đoàn của Hùng Sinh rút khỏi Eliance 2, bỏ lại tại hàng rào 300 xác chết  ( Theo tài liệu của quân đội Pháp ).  Nhưng theo hồi ký của Tướng Võ Nguyên Giáp thì :

“Trung đoàn tiếp tục tổ chức đợt tiến công thứ ba về phía hầm ngầm.  Địch chống cự quyết liệt.  Các mũi tiến công của ta đột kích rất mạnh vào khu hầm cố thủ, nhưng không sao tìm được cửa hầm.  Trước hỏa lực đại bác rất mạnh của địch, ta lại phải rút về tuyến phòng ngự.

Ngày 2-4, những lực lượng tăng viện của địch từ Mường Thanh lên phối hợp với lực lượng cố thủ, ra sức mở nhiều đợt phản kích đẩy ta ra khỏi A1.  Trên trận địa, ta chỉ còn lại hơn 50 người.” ( Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, in lần 2, trang 276 ).

Như vậy số thương vong của CSVN lớn hơn nhiều so với ghi nhận của Quân đội Pháp, bởi vì một trung đoàn có khoảng 2.500 người mà chỉ còn hơn 50. Trung đoàn của Hùng Sinh là đơn vị mạnh nhất và còn đầy đủ quân số nhất bởi vì từ đầu chiến dịch Trung đoàn chưa đụng trận lần nào.

  Lúc rạng sáng, hai đại đội lính Thái thuộc tiểu đoàn 2 Thái đang phòng thủ đồn 311 thuộc căn cứ Francoies ở phía tây Cứ điểm đã đột ngột bỏ đồn trốn mất. Hai đại đội của Tiểu đoàn 1/2 Lê Dương được điều lên thu lại các súng cộng đồng, hủy bỏ đồn 311.

  Buổi sáng, các sĩ quan chỉ huy Đại đội 2 và Đại đội 4 thuộc Tiểu Đoàn 5 Dù Việt Nam báo với tiểu đoàn Trưởng Botella là kể từ ngày này cả hai đại đội từ chối tiếp tục chiến đấu.  Botella trình lên Langlais.  Sau khi cố thuyết phục nhưng không thành công, Langlais bắt 2 đại đội nộp trả vũ khí và được sử dụng như lao công chiến trường.  Tiểu đoàn phiên chế thành 3 đại đội tác chiến nhưng mỗi đại đội chỉ có 2 trung đội.

 

  Lúc 10 giờ sáng, một đại đội Lê Dương do Trung úy Spozo chỉ huy lên thay thế Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam đã tử thủ tại Huguette 7 hai ngày nay về tuyến sau nghỉ ngơi.

  Lúc 2 giờ chiều, quân CSVN gởi quân tăng viện cho các vị trí đã chiếm được là Dominique 1,2 và Eliance 1.  Đêm 1-4, Tướng Giáp đưa tàn quân của Trung đoàn 102/308 CSVN của Hùng Sinh ra khỏi Eliance 2 và lại đưa Trung đoàn 174/316 CSVN của Nguyễn Hữu An trở lại.

  Lúc 10 giờ đêm, quân của Trung đoàn 36/308 CSVN tấn công vào Huguette 7.  Lúc 10 giờ 30 đêm, quân của Trung đoàn 165/312 CSVN tấn công Huguett 6.  Cả hai nơi đều đẩy lui được quân tấn công.

Ngày thứ tư, 2-4–1954 :  Tổng tấn công lần 2, cả mặt chính lẫn mặt phụ thất bại

  Lúc 1 giờ sáng, Trung đoàn 174/316 CSVN lại tấn công Eliance 2 lần nữa nhưng cũng không thành công.

  Lúc 4 giờ sáng, quân CSVN mở cuộc tấn công Huguette 7 đợt 2.  Thiếu tá Clémencon tập hợp được khoảng 100 binh sĩ thuộc Đại đội 1 của Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam mới trở về nghỉ từ ban sáng kéo trở lại tiếp cứu cho Huguette 7.  Nhờ có chiến xa yểm trợ, quân tiếp viện vào được Huguette 7, trong đó cả đại đội Lê Dương chỉ còn Trung úy Spozo bị thương nặng và 13 binh sĩ.

  Lúc 8 giờ sáng ngày 2-4, Trung Tá Langlais quyết định hủy bỏ đồn Huguette 7, rút quân về.  Sau đó Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 5 Dù VN được đưa lên tăng cường phòng thủ Hugette 6.

  Buổi sáng, phi cơ C.119 thả bom Napalm vào các đồi Dominique 1 và Eliance 1, tại đây có đặt súng đại bác của CSVN để yểm trợ cho cánh quân đánh Eliance 2.  Quân Cọng sản bị thiệt hại nặng.  Ban đêm phi cơ C.47 thả xuống ĐBP 100 binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 thuộc Liên đoàn 2 Dù ( Trước đó tại Điện Biên Phủ đã có Tiểu đoàn 1 của Liên đoàn 1 Dù của Trung tá Langlais ); số còn lại của Tiểu đoàn 1/ LĐ 2 sẽ được thả tiếp trong các đêm sau.

Ngày thứ năm, 3-4-1954 :  Trung đoàn 165/312 CSVN tấn công Huguette 6.  Trung tá Langlais cho chiến xa đưa quân cứu viện đến.  Lúc 10 giờ rưỡi, quân Cọng sản tấn công lần nữa nhưng cũng thất bại.  Cũng trong đêm này phi cơ thả thêm được 305 quân thuộc Tiểu đoàn 1 thuộc Liên đoàn 2 Dù .

Ngày thứ sáu, 4-4-1954 :  Tổng tấn công lần 3, mặt chính thất bại, rút bỏ mặt phụ

  Lúc 9 giờ sáng, tình báo của đồn Huguette 6 khám phá ra một vị trí đặt súng đại bác 75 ly không giật trước đồn Huguette 6.  Pháo binh của Pháp tập trung tiêu diệt khẩu pháo.  Không ngờ đây cũng là điểm tập trung quân chuẩn bị đánh đồn của CSVN.  Quân thám sát ra đến nơi tìm thấy 200 xác CSVN .

  Lúc 2 giờ trưa, Tướng Giáp cho lệnh trung đoàn 174/316 của Nguyễn Hữu An rút lui khỏi Eliance 2.  Thiếu tá Bigeard quyết định không chiếm lại vị trí mà quân CSVN vừa bỏ đi.  Ông đặt tên cho vùng đất này là “vùng đất không có người” ( No man land,tài liệu của Bernard Fall ).

  Lúc 10 giờ đêm, Đại đoàn trưởng 312 CSVN là Lê Trọng Tấn chỉ huy quân CSVN đánh vào Huguette 6.  Lực lượng tấn công gồm Trung đoàn 165/312 CSVN  do Lê Thùy chỉ huy gồm 4 tiểu đoàn, được tăng cường thêm Tiểu đoàn 141 của Trung đoàn 209/312 CSVN , và đại đội súng cối của Đại đoàn 308 CSVN.  Lúc này tại Huguette 6 chỉ có 86 lính  Lê Dương và 2 Trung úy người Pháp.

Ngày thứ bảy, 5-4-1954  :  Tấn công vớt vát, rút lui khỏi trận địa

  Lúc 1 giờ 15, Trung úy Bailey chỉ huy đại đội trinh sát của Tiểu đoàn 8 Dù cùng với 2 chiến xa đi cứu ứng cho Huguette 6.

  Lúc 1 giờ 50, thêm 1 đại đội của tiểu đoàn 2 Dù tăng cường tiếp viện cho Huguette 6.  Đến 6 giờ, Thiếu tá Bigeard dẫn 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 6 Dù đến gia nhập đoàn quân cứu ứng Huguette 6.  Lúc 2 giờ 40 trưa,  quân tiếp viện vào được Huguette 6.

  Lúc 7 giờ, Lê Trọng Tấn tung Tiểu đoàn trừ bị 14/165 CSVN tấn công Huguette 6 đợt cuối cùng nhưng không ăn thua.

Ngày thứ 8, 6-4-1954 :

  Lúc 8 giờ 30 sáng, quân CSVN rút khỏi Huguette 6 dưới trận mưa bom của máy bay tiêm kích.

  Lúc 10 giờ 15 Bigeard báo cáo tại chiến trường Huguette 6 đếm được gần 1.000 xác CSVN, phần đông còn rất trẻ, khoảng 16 tuổi.  Có 21 lính CSVN được tìm thấy còn sống lẫn trong đống xác chết được đưa về Khu trung tâm. Về phía quân phòng thủ thì đại đội Lê Dương 86 người còn 20 người.  Toán quân tiếp viện có 23 chết, 112 bị thương và 86 mất tích.

  Tướng Giáp cho lệnh tạm ngưng chiến đấu, đại bộ phận rút ra ngoài, để lại một bộ phận nhỏ trấn giữ các vị trí đã chiếm được. Cán bộ cấp cao về Bộ chỉ huy tại Mường Phăng họp kiểm điểm ( VNG, trang 277 ).

 

 

 

 

(30) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, TƯỚNG GIÁP KIỂM ĐIỂM THẤT BẠI

Kết thúc trận tổng tấn công

Năm 1954, ngày 6-4, Tướng Giáp cho lệnh lui quân về phía sau, cán bộ cấp trung đoàn và đại đoàn về Mường Phăng họp kiểm điểm ( Sơ kết ).

Đến lúc này thì kế hoạch tác chiến của Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp thất bại cả mặt chính ( điểm ) lẫn mặt phụ ( diện ). Theo dự trù thì Đại đoàn 308 CSVN do Tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy sẽ hốt gọn tiểu đoàn người Thái là Tiểu đoàn yếu nhất của cứ điểm, sau đó quân của 308 sẽ tràn vào Bộ chỉ huy của Cứ điểm mà không hao tổn nhiều do phải chạm súng với Tiểu đoàn Thái.

Quả nhiên 2 đại đội người Thái đã bỏ chạy khi nghe nổ súng.  Theo kế hoạch thì Tướng Vũ phải nhanh chóng thanh toán Tiểu đoàn Thái và đánh thẳng vào trung tâm để bắt sống Decastries.   Nhưng không ngờ Tướng Vũ đã bị thất bại vì vấp phải đại đội thứ 3 là Đại đội 1 của Tiểu Đoàn 5 Dù Việt Nam.  Và với phản ứng nhanh nhạy của Đại úy Bizard, trung đoàn 176/316 CSVN bị 4 khẩu 105 ly xóa sổ.

Tài liệu quân sự Trung Cọng :

“Lúc này Võ Nguyên Giáp hơi sốt ruột chưa đánh hạ được A1 ( Eliance 2 ), liền ra lệnh tấn công C1 ( Hugette 7 ).  Đồng chí chưa bàn với Vi Quốc Thanh, tự quyết định điều trung đoàn 102 của đại đoàn 308… Trung đoàn 102 là trung đoàn chủ lực của đại đoàn 308, là bộ đội từ khi bắt đầu chiến dịch cho đến nay chưa bị tổn thất, lần này bị trọng thương, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển của trận đánh. Chỉ huy “quả đoán” của Võ Nguyên Giáp lần này bị không ngờ vấp váp”. ( Quả đoán là không dứt khoát, trái với quả đoán là võ đoán ).

“Vi Quốc Thanh rất bực tức, kiến nghị phía Việt Nam nghiêm túc ra lệnh cho bộ đội tấn công điều tra rõ tình hình thực tế để nghiên cứu đối sách”.

“…  Vi Quốc Thanh điện gấp về Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, báo cáo tình hình này, Quân uỷ Trung Quốc cấp tốc điều một số cán bộ từng tác chiến ở Triều Tiên có kinh nghiệm đánh đường hào, đi nhanh ra tiền tuyến Điện Biên Phủ” ( Vương Chấn Hoa, Đồng Chí Vi Quốc Thanh, Dương Danh Dy dịch ).

Kiểm điểm kết quả trận tổng tấn công

Năm 1954, ngày 6-4, Tướng Giáp cho lệnh tạm ngưng chiến đấu, đại bộ phận rút ra ngoài, để lại một bộ phận nhỏ trấn giữ các vị trí đã chiếm được (trang 277).  Các đơn vị trưởng về sở chỉ huy tham dự sơ kết đợt 2 chiến dịch.  Tướng Giáp kể lại tâm trạng của các đơn vị trưởng :

“Văn phòng tổ chức bữa cơm với một số đồ hộp chiến lợi phẩm các đơn vị vừa gởi tặng.  Mấy đồng chí cán bộ đều bở ngỡ trước quang cảnh này, vì họ tưởng bị Bộ chỉ huy chiến dịch gọi lên để thi hành kỷ luật do không hoàn thành nhiệm vụ” ( trang 280 ).

Như vậy là Tướng Giáp đã thất bại trong đợt tổng tấn công chiếm Điện Biên Phủ. Tài liệu của phía Trung Quốc cho thấy kết quả thất bại :

“Chỉ huy “quả đoán” của Võ Nguyên Giáp lần này không ngờ bị vấp váp. Vi Quốc Thanh lựa lời an ủi đồng chí, nêu ra kiến nghị tạm ngừng tiến công chuyển sang tổng kết chỉnh đốn. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này.

Lúc này hội nghị Genève sắp triệu tập, Điện Biên Phủ trở thành một điểm nóng khiến cả thế giới dõi theo sau khi Triều Tiên đình chiến, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm theo dõi tác chiến Điện Biên Phủ, luôn luôn hỏi Vi Quốc Thanh tình hình chiến sự và có nhiều chỉ thị cụ thể đối với chiến thuật tấn công ĐBP ( Hồi ký của Tướng Vương Chấn Hoa, thư ký riêng của Tướng Vi Quốc Thanh ).

Lỗi của Tướng Giáp

Trong khi đó hồi ký của Đại tá Langlais, chỉ huy trưởng phòng thủ Khu trung tâm:  “Nếu Điện Biên phủ đã không bị mất đêm đó ( Đêm 30-3 ) là do kẻ thù bị bất ngờ vì giành được những mục tiêu chỉ định quá nhanh chóng nên không đủ khả năng khai thác những thắng lợi ban đầu”.

Langlais cho rằng lẽ ra Tướng Giáp phải tiến thẳng vào Bộ chỉ huy của Decastries sau khi đã phá vỡ được phòng tuyến phía Đông.  Nếu làm như vậy thì Tướng Giáp đã thành công ngay trong đêm đầu tiên của đợt tổng tấn công ( ngày 30-3-1954 ).

Từ Domino 1 cho tới Eliance 2 là một cung phòng thủ chiếm một phần tư vành đai phòng thủ, quân của Tướng Giáp thừa sức tràn theo chỗ thủng này mà tiến thẳng vào Bộ chỉ huy của Cứ điểm.  Trung đoàn trừ bị 102 của Hùng Sinh thay vì tiến vào chết chùm trên đồi Eliance 2 thì cứ theo chỗ thủng giữa Dominique 1 và Eliance 1 mà vào khu trung tâm như đi vào chỗ không người.

Còn Eliance 2 thì chỉ cần một đại đội phục chận dưới chân đồi thì quân trên đồi nếu có gan tiến ra khỏi đồn cũng sẽ bị chận đánh dễ dàng.  Lúc đó Eliance 2 sẽ trở thành một điểm chết, bị cô lập.  Không có gì phải lo ngại về Eliance 2 nếu Nguyễn Hữu An không chiếm được vào đêm đó, và không việc gì phải nướng tới 2 trung đoàn ( 5 ngàn quân ) cho một điểm chết.

Cho tới khi viết hồi ký Langlais cũng không biết được bên trong nội bộ của Tướng Giáp:  Các chuyên gia quân sự Trung Quốc đã ấn định phải chiếm cho được 5 đồn phía Đông sông Nậm Rốn  để làm “diện” thu hút quân Pháp từ Khu trung tâm tràn sang bờ phía Đông để tiếp cứu cho 5 đồn mặt Đông.

Trong khi đó nhiệm vụ đánh thọc vào trung tâm lại là phần vụ của Tướng Vương Thừa Vũ từ hướng Tây Bắc của Cứ Điểm.  Nhưng cũng theo kế hoạch thì Đại đoàn 308 CSVN chỉ tấn công sau khi Đại đoàn 312 và Đại Đoàn 316 đã chiếm được 5 đồn phía Đông.

Tuy nhiên đến 8 giờ tối mặc dầu Nguyễn Hữu An chưa chiếm được Eliance 2 nhưng vì các cánh quân khác đã khác đã thanh toán xong mục tiêu đúng như dự định cho nên Tướng Giáp đinh ninh rằng chẳng mấy chốc Nguyễn Hữu An cũng sẽ thanh toán xong Eliance 2 cho nên ông phấn khởi ra lệnh cho Đại đoàn 308 CSVN  tấn công.

Không ngờ 308 không hạ nổi Huguette 7, cả Trung đoàn 176 bị tiêu diệt.  Tướng Giáp vội vàng sửa chữa bằng cách ra lệnh cho Đại đoàn 308 CSVN lùi lại phía sau để bảo tồn lực lượng cũng như bảo đảm bí mật của kế hoạch, đồng thời rút Trung đoàn trừ bị của Hùng Sinh băng đồng qua phía Đông để đánh Eliance 2.

Nhưng không ngờ cả Trung đoàn thiện chiến 2.500 người chỉ còn 50 người mà vẫn không nhổ được cái gai Eliance 2 thì Tướng Giáp chỉ còn có nước hô quân rút lui để bàn với các cố vấn tìm cách khác.  Đúng ra nếu ông cứ bỏ qua Eliance 2 mà xua quân tiến thẳng vào trung tâm thì xong rồi;  nhưng tiếc là ông không có phản ứng linh hoạt như vậy.

Tiếp tục cầm cự để xin lệnh mới

Trong hội nghị Tổng kết đợt 2, Tướng Giáp và Tướng Vi Quốc Thanh đã gặp phải khúc xương khó nuốt.  Đạn dược và thực phẩm dự trù cho chiến dịch đã gần cạn, các chuyên gia Trung Quốc chỉ dự toán đạn dược cho một đợt tổng tấn công khoảng tối đa là một tuần lễ cho nên đạn pháo đã được trút xả láng.

Theo hồi ký của Tướng Giáp : “Pháo đói đạn trầm trọng. Có ngày, mỗi khẩu pháo của ta chỉ còn hai, ba viên đạn.  Trước đó, một số đơn vị cũng đã sử dụng đạn quá lãng phí.  Một trung đoàn, qua 5 ngày kềm chế pháo binh địch, bắn hết 2.000 viên đạn súng cối.  Một tiểu đoàn phòng không 12 ly 7 trong một ngày bắn tới 12.000 viên đạn.  Bộ chỉ huy Mặt trận buộc phải quy định việc sử dụng đạn dược: Bắn quá 3 viên 105 phải xin phép Tham mưu trưởng (Tướng Thái), quá mười viên phải xin phép Tổng tư lệnh (Tướng Giáp).” (trang 323).

Đoạn hồi ký này chứng tỏ kế hoạch đánh Điện Biên Phủ chỉ có giai đoạn tổng tấn công là ăn thua đủ cho nên đạn dược được tiêu thụ xả láng.  Sau khi tổng tấn công thất bại mới tính tới chuyện bổ sung 25 ngàn quân và xin thêm đạn dược để đánh đợt thứ 3, riêng lương thực thì bắt dân Thanh Hóa phải nộp luôn cả lúa giống.

Theo như cung khai của các tù binh CSVN bị bắt tại trận Huguette 6 và trận Eliance 1 thì tinh thần bộ đội CSVN bắt đầu rung chuyển sau khi bị chết và bị thương quá nhiều.  Con số chết lên tới 6.000 người và bị thương là 17.000 người. Số người bị thương đã khiến phải gởi trả lại hậu phương 30.000 dân công vận chuyển thương binh .

Tâm trạng hoang mang nao núng đã lan tràn trong các Đại đoàn CSVN.  Số bộ đội CSVN gia nhập đội quân Chuột Nậm Rốn ( Những lính đào ngũ ) cũng lên đến hằng ngàn người.  Hồi ký của Tướng Giáp có nói đến hiện tượng “Hữu khuynh, tiêu cực” trong quân đội CSVN nhưng không nói rõ là hiện tượng gì, nhưng hồi ức của Tướng Lê Trọng Tấn giải thích :

 “Vấn đề còn lại bây giờ là chống hữu khuynh, tiêu cực biểu lộ dưới hai hình thức; một là ngại thương vong, ngại tiêu hao, mệt mỏi, ngại khó, ngại khổ, muốn dứt điểm ngay trong khi điều kiện khách quan chưa cho phép; hai là chủ quan khinh địch”.

Tướng Tấn gọi là ngại thương vong, ngại tiêu hao, nhưng thực sự là “sợ chết”.  Binh sĩ CSVN đã tận mắt chứng kiến kiểu chết như con thiêu thân của chiến thuật biển người cho nên họ buộc phải suy nghĩ và phải thấy ớn.  Con người ta chỉ bị kích động đến điên cuồng khi cuộc chiến chưa nổ ra.  Nhưng khi cuộc chiến đã tàn thì chỉ còn lại kinh hoàng và hãi hùng.  Đây là bản năng thực sự của con người.

 

 

(31) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, QUÂN PHÁP ĂN MỪNG CHIẾN THẮNG

Năm 1954, ngày 7-4, 70 lính Thái thuộc Đại đội 12 của Tiểu đoàn 3 Thái đang phòng thủ tại Hugette 2 bỏ trốn.  30 người còn lại tuyên bố họ không còn gì để gắn bó với người Pháp nữa, trước đây họ đăng lính vì người tuyển mộ họ là Đại úy Guilleminot.  Nay đại úy Guilleminot đã bị thương mấy ngày trước cho nên lời giao kết giữa họ và Guilleminot đã hết hiệu lực.  Họ không cần biết về một chính quyền xa xôi nào đó ở Sài Gòn.

 

Langlais chỉ thị Đại úy Bizard dẫn Đại đội 1/TĐ 5 Dù VN đến Huguette 2 thu hồi vũ khí của lính Thái và trấn giữ Huguette 2.  Số 30 người không chịu chiến đấu được phân tán làm lao công cho các đơn vị Pháo binh.

Qua ngày hôm sau, 8-4, Bizard bàn giao Huguette 2 cho đại đội khác và dẫn quân trở lại chỉ huy phòng thủ Huguette 6.  Tại đây Bizard được tăng cường thêm 1 đại đội Lê Dương do Trung úy Francois chỉ huy.  Đại đội của Francois là do gom lại những tàn binh của Tiểu đoàn 1/2 Lê Dương đã bị tan nát.

Năm 1954, ngày 8-4, sau hội nghị sơ kết trận đánh, Tướng Giáp đánh điện xin Quân ủy Trung ương và Bộ Chính Trị gửi thêm cho 25.000 tân binh để thay thế số bị chết và bị thương.  Cũng trong ngày này Cố vấn Vi Quốc Thanh gửi  điện văn cho Bành Đức hoài xin Trung Quốc gửi cho 1 trung đoàn pháo binh và 67 súng đại bác phòng không 37 ly.

*( Tài liệu của tình báo Pháp, nhờ giải mật được những bức điện của Tướng Giáp và tướng Vi Quốc Thanh;  do Berna Fall sưu tầm và đăng trong tác phẩm “Hell in A Very Small Place: The Siege of Dien Bien Phu, trang 223.  Tài liệu này đã được xác nhận lại với hồ sơ của quân đội Trung Quốc do Quang Zhai sưu tầm và công bố trong tác phẩm “China and The Vietnam Wars”, 1950-1975).

Nhận được báo cáo sơ kết của Tướng Giáp, Bộ chính trị cử Hoàng Tùng, Phó ban tổ chức Trung ương, đến Điện Biên Phủ để bàn xem nên tiếp tục đánh hay rút về vì mùa mưa sắp tới.

Năm 1954, ngày 9-4, Bành Đức Hoài gửi điện văn cho Vi Quốc Thanh nói rằng sẽ chuyển đầy đủ đạn dược theo yêu cầu và căn dặn Vi Quốc Thanh về cách đánh Điện Biên Phủ, đặc biệt chú trọng sử dụng giao thông hào, Bành sẽ gởi chuyên viên giao thông hào có kinh nghiệm ở Triều Tiên cho CSVN. ( Hồ sơ Văn khố Quân đội Trung Quốc do Quang Zhai sưu tầm ).

Chú giải :  Lúc Bành Đức Hoài gửi điện văn cho Vi Quốc Thanh thì Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đang có mặt ở Bắc Kinh.  Trước đó, ngày 1-4-1954, hai ông đã cùng với Chu Ân Lai sang Mạc Tư Khoa để bàn thảo với Krushcheve về số phận của Đông Dương trước cuộc họp ngũ cường tại Genève vào ngày 26-4 sắp tới.

Sau đó hai ông trở về Bắc Kinh ngày 6-4. Và đến ngày 10-4 thì hai ông được Chu Ân Lai thông báo về vụ thất bại tại Điện Biên Phủ.  Theo như hồi ức của Krushcheve thì trước khi hội kiến với Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại một phòng hội trong điện Cẩm Linh, ông Chu Ân Lai đã kéo Krushcheve ra nói chuyện riêng. Chu Ân Lai cho biết Hồ Chí Minh có đề nghị Trung Quốc cho quân đội sang giúp CSVN như đã từng giúp Bắc Hàn.  Hoặc nếu không thì cho các ông được sang tá túc bên kia biên giới của Trung Hoa trong trường hợp quân CSVN bị đánh  bại.

Quân Pháp phản công tái chiếm các vị trí

Năm 1954, ngày 6-4, khi nhận được tin sẽ có một tiểu đoàn dù tăng cường. Trung tá Langlais liền giao cho Bigeard lên kế hoạch tái chiếm Eliace 1.  Bigeard dự trù sẽ dùng 3 đại đội thuộc Tiểu đoàn 6 Nhảy dù của ông làm nổ lực chính để tái chiếm Eliance 1, cùng với 4 chiến xa ( Tiểu đoàn 6 Dù chỉ còn 3 đại đội vì bị hao hụt sau các cuộc giao tranh ).

Ngày 10-4,

 Lúc 5 giờ 50 sáng, 10 khẩu 105 ly của Khu Trung tâm và 8 khẩu 105 ly của Căn cứ Isabelle đồng loạt bắn lên đỉnh đồi Eliance 1 với nhịp độ 10 phút thì bắn 1.800 quả.  Đến 6 giờ 10 thì ngưng pháo và bộ binh xung phong. Trận chiến diễn ra gay go vì Bigeard cũng dùng chiến thuật tiền pháo hậu xung và cũng áp dụng chiến thuật đào hào lấn dần đến mục tiêu.  Đợt xung phong có cả thiết giáp yểm trợ .

  Lúc 2 giờ chiều : quân Pháp làm chủ Eliace 1. Tiểu đoàn 6 Dù có 15 chết, 26 bị thương và 10 mất tích.  Ngoài ra có 6 lính Việt Nam vứt súng bỏ trốn.

  Lúc 16 giờ 45 chiều : Trung đoàn 98/316 do Vũ Lăng chỉ huy tấn công tái chiếm Eliance 1, Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 6 Dù tại Eliance 4 cũng bị tấn công và pháo kích.

  Lúc 10 giờ đêm, quân của Vũ Lăng đã lên được tới đỉnh đồi Eliance 1 , hai đại đội của Pháp chỉ còn là một nhóm chiến đấu nhỏ.  Thiếu tá Bigeard gom một số trung đội thuộc Tiểu đoàn 1 Dù Lê Dương và một số trung đội Bắc Phi, Thái tiến lên tiếp cứu Eliance 1

Ngày 11-4,

  Lúc 0 giờ 45, Tướng Giáp tung thêm tiểu đoàn trừ bị vào trận đánh. Thiếu tá Bigeard cũng tung 2 đại đội trừ bị cuối cùng là Đại đội 2 và Đại đội 3 của Tiểu Đoàn 5 Dù VN ( Tiểu đoàn được phiên chế lại, chỉ còn 3 đại đội và mỗi đại đội chỉ có 2 trung đội.  Đại đội 1 đang trấn giữ Huguette 6 ).

  Rạng sáng, quân của Tiểu đoàn 1 Dù Lê Dương và 2 đại đội Dù Việt Nam xung phong tiến chiếm lấy lại Eliance 1 trong khi quân CSVN đã chiếm được một phần của đồn.  Theo Bigeard thì đây là trận đánh oai hùng nhất của quân trú phòng Điện Biên Phủ

Năm 1954, ngày 14-4, Tướng Navard quyết định thiết lập một căn cứ tại thượng nguồn sông Nậm U của Lào để sẳn sàng cứu ứng quân Điện Biên Phủ trong trường hợp De Castries bắt buộc phải rút khỏi Cứ điểm.  Kế hoạch này do Đại tá Then của Lào chỉ huy.  Sẽ có 4 tiểu đoàn bộ binh thiết lập một căn cứ lớn tại Mường Khoa, tại đây sẽ được không vận tới một lực lượng Biệt kích người H’Mong thuộc Đoàn Biệt kích không vận hỗn hợp.

Lực lượng Biệt kích sẽ hoạt động mở rộng tầm kiểm soát tới biên giới Việt và vào sâu tới Mường Nha, cách Điện Biên Phủ 30 cây số.  Tại đây cũng là bãi đáp cho 3 tiểu đoàn Dù sẽ nhảy xuống để đón quân Diện Biên Phủ rút về.  Ngày 14-6, Trung tá Godard dẫn 4 tiểu đoàn đến Mường Khoa lập căn cứ, phi cơ chuyển vận liên tục mỗi ngày 45 tấn vật liệu, dự trù ngày 29-4 là hoàn tất, nhưng đến ngày 22-4 phải tạm ngưng vì tất cả các phi cơ phải chuyển tiếp tế cho Điện Biên Phủ.

Quân Pháp ăn mừng chiến thắng

Năm 1954, ngày 16-4.  Sau 1 tuần lễ ghi nhận sự lắng dịu của chiến trường và sau khi tái chiếm được đồn Eliance 1.  Bộ chỉ huy quân Pháp đoán rằng CSVN đã tạm ngưng chiến dịch vì đã tới mùa mưa, có lẽ hai bên sẽ cầm cự như vậy cho đến mùa khô.

Tướng Navare quyết định thăng thưởng Đại tá De Castries lên Thiếu tướng;  Trung tá Lalande, chỉ huy trưởng căn cứ Isabelle, lên Đại tá;  Trung Tá Langlais, Liên đoàn trưởng Liên đoàn 1 nhảy dù và chỉ huy trưởng khu trung tâm Cứ điểm, lên Đại tá; Thiếu tá Bigeard, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 nhảy dù và cũng là chỉ huy trưởng Lực lượng xung kích Cứ điểm, lên Trung tá. Và thăng thưởng một số các sĩ quan, binh sĩ có công, trong đó Trung úy Phạm Văn Phú được lên Đại úy nhờ trận tái chiếm Eliance 1.

Báo chí loan tin De Castries được lên tướng và những tiếng súng rời rạc của quân CSVN tại Điện Biên Phủ đã khiến cho dư luận tin rằng Tướng Giáp đã thất bại lần nữa, và lần này lực lượng quân sự của Việt Minh đã hoàn toàn kiệt quệ.  Có lẽ còn lâu họ mới có thể tái lập lại được 5 sư đoàn như trước đây.

Chú giải :  Không ai ngờ rằng cũng trong ngày 16-4, Tướng Giáp và Tướng Vi Quốc Thanh đang ngồi họp với Hoàng Tùng, phái viên của Bộ Chính trị ĐCSVN.  Tin chiến thắng của De Castries đã buộc Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp phải hạ quyết tâm đánh đợt thứ ba, các ông chỉ còn có nước tiến tới, đánh xả láng chết bỏ; chứ không thể nào rút lui được nữa.

Tướng Giáp không có mặt mũi nào để tuyên bố thất bại và rút quân về, còn Tướng Vi Quốc Thanh cũng không dám báo cáo với Mao Trạch Đông là đã bị thua sau khi tiêu thụ hết chừng đó súng đạn và lương thực của “Nhân dân Trung Quốc”.

Hơn nữa, các ông biết rõ quân Pháp tại ĐBP cũng đã kiệt quệ, họ không có quân thêm để tăng cường đã đành, mà họ không có quân để thay thế nữa.  Chứng tỏ là khả năng cung cấp quân cho Điện Biên Phủ đã cạn kiệt. Vậy thì chỉ cần đánh rấn lên một chút nữa là chiến thắng.

Tâm trạng của Tướng Vi Quốc Thanh được thư ký riêng của ông là Tướng Vương Chấn Hoa ghi lại:

“Vi Quốc Thanh đã bình tĩnh suy nghĩ và phân tích khách quan cho rằng, quân đội CSVN tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng quân Pháp càng khó khăn hơn, hơn nữa… Đồng chí nói với các cố vấn :  “Hiện tại toàn thế giới đều nhìn về Điện Biên Phủ, chúng ta không có đường lui.  Chỉ có hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Tạm thời chưa đánh được, mùa mưa đến nước dìm chết chúng.  Nước không dìm chết, thì khốn khó lâu ngày, chúng cũng chết. Không lấy được Điện Biên Phủ quyết không lui quân.  Các đồng chí phải chuẩn bị tư tưởng này”.

Vi Quốc Thanh trao đổi chân tình với Võ Nguyên Giáp, trình bày tỉ mỉ ý nghĩ trên đây của mình để thống nhất nhận thức, kiên định lòng tin.  Hai người còn nghiên cứu biện pháp giải quyết vấn đề tư tưởng cán bộ và khắc phục khó khăn thực tế”. ( Bản dịch của Vương Danh Di )

 

(32) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, TRẬN CUỐI, TƯỚNG GIÁP CHIẾN THẮNG

CSVN quyết tâm đánh trận thứ 3.

Năm 1954, ngày 19-4, Trường Chinh họp Bộ chính trị sau khi Hoàng Tùng đem những tin tức từ Điện Biên phủ trở về.  Lúc này Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đang còn ở tại Bắc Kinh, Nguyễn Chí Thanh đi Liên khu 4, Văn Tiến Dũng đi Liên khu 3.  Bộ chính trị chỉ còn Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương.  Tuy nhiên 3 ông cũng thảo ra một nghị quyết để trả lời các yêu cầu của tướng Giáp:

“Toàn dân toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch” ( Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử, bản in lần 2, trang 325 ).

Sau đó Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh lo việc gởi gấp 25.000 tân binh để bổ sung quân số cho Điện Biên Phủ, huy động dân công ở Ninh Bình vận chuyển cấp thời 600 tấn lương thực. Và Thanh Hóa vét cả lúa giống để cung cấp cho mặt trận 11.000 tấn lương thực.

Về phần Vi Quốc Thanh báo cáo tình hình cho Mao Trạch Đông và xin thêm viện trợ để đánh một đợt nữa.  Đặc biệt là xin thêm 7.000 viên đạn 105 ly. Theo hồi ký của Tướng Giáp thì số đạn này không kịp tới nơi trong dịp tấn công đợt 3 nhưng Tướng Giáp đã nhờ vào số 5.000 viên đạn 105 ly của máy bay Pháp thả rơi vào khu vực của quân CSVN.

Để chuẩn bị cho đợt tổng tấn công lần tới, Tướng Võ Nguyên Giáp cũng ra lệnh cho Bộ chỉ huy Đại đoàn 304 và Trung đoàn 345/304 Từ Phú Thọ lên đường đến Điện Biên Phủ.  Đây là Trung đoàn chủ lực cuối cùng còn ở lại Phú Thọ để bảo vệ Tổng bộ Việt Minh.  Đại đoàn 304 có 1 trung đoàn tham dự tại Điện Biên Phủ từ tháng 1-54 là Trung Đoàn 57.  Trung Đoàn này chuyên môn chốt ở ranh giới giữa khu trung tâm Cứ điểm Điện Biên Phủ với căn cứ hỏa lực Isabelle.

Ngoài ra còn 1 trung đoàn nữa của Đại đoàn 304 là Trung đoàn 66 thì đang hoạt động tại Lào từ tháng 12-53, cùng với Đại đoàn 325, nhằm thu hút quân Pháp tập trung phòng thủ Lào để cho Võ Nguyên Giáp rảnh tay đánh Điện Biên Phủ.

Năm 1954, ngày 25-4, trạm tiếp vận Tuân Giáo đã liên tục chuyển đến cho Tướng Giáp một trung đoàn đại bác 75 ly không giật và 18 giàn hỏa tiễn 75 ly 6 nòng và số quân bổ sung đã nâng tổng số bộ đội CSVN tham chiến tại Điện Biên Phủ là 60.000.  Nâng tổng số dân công tham dự chiến dịch Điện Biên Phủ là 100.000.

Năm 1954, cuối tháng 4, Quân phòng thủ Điện Biên Phủ chỉ còn 3.000 quân chiến đấu được tại khu trung tâm và 1.200 tại căn cứ Isabelle ở phía Nam.  Số tổn thất gồm cả chết, mất tích lên quá 1/3.  Số bị thương hơn 1.000 người không di tản được đang nằm chồng chất trong bệnh xá đào ngầm dưới mặt đất.  Hơn 1.000 khác đào ngũ gia nhập đội quân Chuột bên bờ sông Nậm Rốn.

Số quân nhân còn chiến đấu được đã kiệt sức vì trải qua 48 ngày đêm căng thẳng, ăn uống thiếu thốn.  Lại thêm mùa mưa các công sự phòng thủ bị ngập nước, giao thông hào lầy lội.  Tất cả chỉ trông mong vào nguồn tiếp tế duy nhất là phi cơ thả dù.  Nhưng trong vòng 1 tháng qua đã có 6 phi cơ tiếp tế bị bắn rơi và 93 chiếc khác trúng đạn phòng không.  Lương thực của quân phòng thủ sẽ không bảo đảm đủ ăn nếu phi cơ ngưng thả dù tiếp tế.  Đạn dược thì chỉ còn đủ cho 2 ngày đánh lớn

Chú giải :  Lý do duy nhất để Hà Nội và các sĩ quan chỉ huy Điện Biên phủ không nghĩ tới cách giải quyết thảm cảnh này là vì hy vọng phía Cọng sản cũng đã hết đạn dược và hết quân.  Theo tính toán ban đầu của các sĩ quan tham mưu Pháp thì tướng Giáp chỉ huy động được tối đa là 20.000 quân và 30.000 dân công.  Trong 48 ngày vừa qua số tổn thất của CSVN mà quân Pháp ghi nhận được đã gần tới con số cạn kiệt trong số 20.000 quân. Còn đạn dược thì họ đã bắn gấp 3 lần con số mà các sĩ quan Pháp ước đoán, không thể nào họ có hơn được nữa.

Các Tướng lãnh và sĩ quan tham mưu Pháp không tính tới chuyện quân số trong tay Tướng Giáp hầu như vô tận….!!  Trong khi các Đại đoàn bộ đội CSVN đang bận tấn công Điện biên Phủ thì quân Pháp tại khu vực đồng bằng Bắc Việt đã tiến chiếm hầu hết các làng mạc thôn quê và đẩy hằng triệu đàn ông con trai cũng như thanh thiếu nữ lên núi và những người này chỉ còn có một con đường để kiếm gạo nuôi sống chính mình bằng cách gia nhập bộ đội hoặc dân công chiến trường.

Họ lãnh nhiệm vụ tải gạo, tải đạn cho Điện Biên Phủ và họ giúp các chiến sĩ đào giao thông hào cũng như sẵn sàng cáng thương binh thoát khỏi trận địa, họ cũng ra trận nhưng với chiếc cáng cứu thương dã chiến làm bằng vải hay dây bện, thậm chí còn phân công sẵn đội dân công nào chỉ khiêng thương binh của đại đội hay tiểu đoàn nào, trường hợp một chiến sĩ bị loại khỏi vòng chiến thì đã có dân công chụp súng thay thế ngay.  Do đó Tướng Giáp không thiếu quân, ông ta chỉ lo thiếu đạn.

Đánh Điện Biên Phủ trận cuối, Tướng Giáp chiến thắng

Năm 1954, ngày 28-4, Mao Trạch Đông gửi thư cho Bành Đức Hoài, lưu ý rằng Pháp có thể tung quân chặn đường tiếp vận từ Cao Bằng đi Tuần Giáo và Điện Biên Phủ.  Ngày 30-4, quân ủy trung ương Trung Quốc gửi điện văn lưu ý Tướng Vi Quốc Thanh phải chú tâm tới việc bảo vệ tuyến tiếp vận.  Ngày 30-4, Tham mưu trưởng Quân đội Trung Quốc cũng nhắc Tướng Vi Quốc Thanh đề phòng quân Pháp nhảy dù chận tuyến tiếp viện  (Hồ sơ Văn khố Quân đội Trung Quốc).

*Chú giải :  Sau này các nhà nghiên cứu quân sự lấy làm ngạc nhiên cho chỉ thị của Mao Trạch Đông. Ông ta ngồi tận Bắc Kinh mà thấy ngay điểm yếu của Võ Nguyên Giáp, Tướng Giáp đã vét tới đơn vị cuối cùng là trung đoàn 345/304 CSVN đưa vào Điện Biên Phủ.

Vì vậy mà ông Mao Trạch Đông thấy ngay là ông Giáp đánh theo kiểu được ăn cả, ngã về không, bỏ luôn cả bộ chỉ huy ở hậu phương, bỏ luôn cả lực lượng bảo vệ tuyến vận chuyển.  Nói theo thuật ngữ quân sự là ông ta để hở cả sườn và hở cả lưng.  Đây là chiến thuật liều mạng bởi vì không còn tính tới đường về.

Khuyến cáo của Mao Trạch Đông là một bằng chứng cho thấy bộ chỉ huy quân sự của quân đội Pháp quá tệ.  Suốt một tuyến vận chuyển dài 600 cây số mà quân Pháp không có lấy một trạm tình báo chiến lược chốt trên cung vận chuyển.

Chỉ cần thiết lập một trạm quan sát dưới vỏ bọc là một quán nước hoặc là một căn nhà nông dân bên vệ đường và đếm số lượng xe vận chuyển hàng hóa đi qua từng ngày, từng tuần thì cũng có ngay các con số chính xác về tiếp liệu để có thể suy ra Võ Nguyên Giáp còn đánh nữa hay không, và đánh trong bao lâu.  Rồi một khi đã phát hiện ra thời điểm vận chuyển tập trung cao độ thì tung quân chận chốt giữa bất cứ một đoạn đường nào thì quân Điện Biên Phủ chắc chắn phải chết đói vì gạo tới không kịp.

Năm 1954, ngày 1-5, Điện Biên Phủ vào mùa mưa dầm, sau khi được Quân ủy Trung ương bổ sung người và vũ khí, Tướng Võ Nguyên Giáp cho lệnh tổng tấn công Điện Biên Phủ với 30 ngàn quân.

Ngày 1-5,

  Lúc 9 giờ 30 tối, tại phòng tuyến mặt đông Cứ điểm, quân CSVN đồng loạt nổ súng pháo kích vào đồn Dominique 3, Elian 1 và Eliance 2 cũng như pháo kích vào khu trung tâm và căn cứ Isabelle.

  Lúc 9 giờ 30 tối, tại tuyến phía bắc, quân CSVN pháo kích vào đồn Huguette 5.  Lúc 10 giờ, Trung đoàn 88 thuộc Đại đoàn 308 CSVN xung phong tấn công Huguette 5, chỉ 5 phút sau quân CSVN vào được đồn, hầu như không có chống cự.

  Lúc 10 giờ tối, quân CSVN xung phong tấn công Eliance 1.  Lúc 2 giờ khuya, đồn Aliance 1 bị tràn ngập, Đại úy Phạm Văn Phú bị bắt làm tù binh .

  Lúc 10 giờ tối, Trung đoàn 209 thuộc Đại đoàn 312 CSVN, do Hoàng Cầm chỉ huy, tấn công đồn Dominique 3 do Tiểu đoàn 6 Dù của Thiếu tá Thomas chỉ huy. Lúc 4 giờ 20 sáng ngày 2-5, quân CSVN chiếm được Dominique 3.

 

  Lúc 10 giờ tối, Trung đoàn 174/316 của Nguyễn Hữu An tấn công đồn Eliace 2 do tiểu đoàn 1/3 Lê Dương của Thiếu tá Coustant trấn giữ nhưng bị quân phòng thủ đẩy lui.  Đến 2 giờ khuya quân CSVN lại tấn công đợt 2 nhưng cũng thất bại. Lúc 6 giờ 45 sáng ngày 2-5, quân của Nguyễn Hữu An rút lui khỏi Eliance 2.

Ngày 2-5,

  Lúc 2 giờ sáng, Trung đoàn 36/308 xung phong tấn công Huguette 4 ở sát ngay phía Tây của phi trường nhưng bị quân phòng thủ đẩy lui.  Lúc 3 giờ sáng, quân CSVN tấn công đợt 2 nhưng bị quân Pháp từ đồn Huguette 3 và Lilie 2 tiến đến đánh tập hậu nên phải rút lui vào lúc 6 giờ 25 sáng.

Ngày 3-5,

  Lúc 3 giờ 50 sáng, phi cơ thả dù xuống Điện Biên Phủ 1 đại đội Dù thuộc Tiểu đoàn 1 BCP.

Ngày 4-5,

  Ban đêm, thêm 1 đại đội Dù nhảy xuống Điện Biên Phủ.  Đại đội này lên phòng thủ Eliance 2 thay thế tiểu đoàn 1/13 Lê Dương đã quá mệt mỏi sau 3 ngày tử thủ Eliance2.

  Lúc 10 giờ tối, Trung đoàn 88/312 tấn công đồn Lilie 2.  Lúc 12 giờ khuya, quân CSVN chiếm được Lilie 2 .

  Lúc 10 giờ tối, Trung đoàn 102/308 tấn công Huguette 4.  Đến 3 giờ 35 sáng ngày 5-5, quân CSVN chiếm được Huguette 4, lúc này họ chỉ còn cách hầm chỉ huy của tướng De Castries 300 mét.

  Giữa khuya, Tướng De Castries nhận được lệnh thực hiện kế hoạch rút quân đã dự trù trước, tên là kế hoạch Albatros.  Theo kế hoạch, kể từ khi nhận được lệnh thi hành thì 3 ngày sau, tức là ngày 7-5, quân của Điện Biên Phủ rút về phía Nam, và 3 tiểu đoàn Dù của Hà Nội sẽ nhảy xuống Mường Nha, cách Điện Biên Phủ 30 cây số về phía Tây Nam. Trong khi đó liên đoàn của Trung tá Godard từ Mường Khoa bên đất Lào sẽ tiến tới biên giới để đón đoàn quân di tản. Tuy nhiên giờ đây Tướng De Castries biết rằng kế hoạch này không thể nào thi hành nổi vì không còn thời gian .

Ngày 6-5,

  Lúc 10 giờ đêm, pháo binh CSVN pháo vào trung tâm Cứ điểm Điện Biên Phủ và căn cứ hỏa lực Isabelle.

  Lúc 12 giờ 20, Tướng Lê Quảng Ba, tư lệnh Đại đoàn 316 cho lệnh châm ngòi 1 tấn thuốc nổ được đặt dưới chân hầm phòng thủ đồn Eliance 2.  Sau khi nổ, Trung đoàn 174/316 của Nguyễn Hữu An lại xung phong tấn công.  Lúc 3 giờ sáng ngày 7-5, quân CSVN chiếm được Eliance 2, bắt được Đại úy Pouget và 100 quân nhân của đại đội Dù mới thay thế Tiểu đoàn 1/13 được 2 ngày.

  Lúc 10 giờ đêm, Trung đoàn 98/316 CSVN của Vũ Lăng tấn công đồn Eliance 4.  Đồn này do Thiếu tá Bréchignac chỉ huy.  Đại úy Botella là Tiểu đoàn trưởng của Tiểu Đoàn 5 Dù Việt Nam trở thành sĩ quan thường vụ của Eliance 4.

Quân CSVN gặp sự kháng cự mãnh liệt của Tiểu đoàn 2 Lê Dương và Đại đội 1 của Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam, Trung đoàn trưởng Vũ Lăng phải điều thêm tiểu đoàn trừ bị nhưng cũng bị đánh bật trở ra.  Lúc 7 giờ 30 sáng ngày 7-5, Vũ Lăng tổ chức tấn công đợt 3.  Tới 9 giờ 30 quân CSVN chiếm được Eliance 4.  Lúc này quân CSVN đã chiếm được toàn tuyến phía đông của Cứ điểm .

Ngày 7-5,

  Lúc 3 giờ chiều, toàn thể Đại đoàn 312 CSVN tràn qua sông Nậm Rốn tấn công vào khu trung tâm.  Lúc 5 giờ 20 chiều, Tướng De Castries đầu hàng .

  Lúc 3 giờ chiều, Tướng Decastries thông báo quyết định đầu hàng cho Đại tá chỉ huy trưởng căn cứ Isabelle là Lalande.  Ông này không chịu đầu hàng mà tính chuyện mở đường máu thoát qua Lào, ông ra lệnh cho binh sĩ tiếp tục chiến đấu chờ trời tối sẽ rút đi nhưng đa số binh sĩ quá mệt mỏi và không chắc sống nếu mở đường máu nên quyết định ở lại.

  Lúc 7 giờ tối Lalande dẫn quân thoát khỏi hàng rào Isabelle nhưng bị quân của Đại đoàn 304 phục kích sẵn, Lalande bị bắt, chỉ có khoảng 100 người chạy thoát về Lào.

 

(33) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, TÌNH ĐỒNG MINH CỦA MỸ

Tình đồng minh của Mỹ :

Ngày đó ai cũng nghĩ rằng chắc chắn các nhà chỉ huy quân sự Pháp phải có kế hoạch giải cứu trong trường hợp Điện Biên Phủ bị lâm nguy. Ít ra nếu nhắm không kham nổi thì rút quân ra khỏi Điện Biên Phủ, nhường cái lòng chảo tệ hại đó cho CSVN. Cùng cực lắm thì cũng ra lệnh cho De Castries mở đường máu để tháo thân. Không ai nghĩ tới chuyện Tướng De Castries sẽ giơ tay đầu hàng.

Thực ra thì quân Pháp đã có kế hoạch giải cứu Điện Biên Phủ chứ không phải không, đó là kế hoạch Vulture do Ngũ Giác Đài soạn thảo với 98 oanh tạc cơ và 450 chiến đấu cơ của Quân đội Mỹ nhưng cuối cùng thì Hoa Kỳ đã từ chối vào giờ chót…!  Sau khi các nhà chính trị trở mặt thì các nhà quân sự Pháp mới soạn kế hoạch Albatros dự tính cho quân Điện Biên Phủ rút sang Lào. Tuy nhiên kế hoạch này đã quá trễ, giống như nước lụt tới nơi mới vội vàng đóng tàu để chạy lụt.

Ngày 20-3-1954, sau khi quân CSVN mở màn trận đánh Điện Biên Phủ bằng cách chiếm 2 tiền đồn phía Bắc thì Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp là Thống tướng Ely đã bay sang Hoa Thịnh Đốn cầu viện đồng minh.  Trong 5 ngày ở Hoa Kỳ Ely không xin thêm được viện trợ quân sự nhưng được lời hứa của Bộ trưởng bộ Quốc phòng là Đô đốc Raford về một kế hoạch cứu nguy Điện Biên Phủ trong trường hợp quân CSVN tấn công vào Cứ điểm.

Để cho Ely yên lòng, Raford đã kỹ lưỡng cho các sĩ quan trong Ngũ Giác Đài soạn thảo cụ thể một kế hoạch tiếp viện cho Điện Biên Phủ, đặt tên là “Kế hoạch Vulture”.  Theo kế hoạch này thì sẽ cứu nguy Điện Biên Phủ theo công thức “Không quân Hoa Kỳ với quân Nhảy dù Pháp”.  Con số phi cơ Mỹ sẽ tham chiến tại Điện Biên Phủ là 98 oanh tạc cơ và 450 chiến đấu cơ từ Nhật và Phi Luật Tân.

Ngày 3-4, sau trận tổng tấn công của Võ Nguyên Giáp vào ngày 30-3, Chính phủ Pháp yêu cầu Mỹ thi hành kế hoạch Vulture thì Bộ trưởng Bộ ngoại Giao Mỹ là Dulles trả lời e rằng Quốc hội Mỹ không chấp thuận.  Sau đó thì có quyết định của Tổng thống Eisenhower là không can thiệp vào Đông Dương.

Ngày 4-4, sau khi quân CSVN tổng tấn công;  vào lúc 11 giờ đêm, Chính phủ Pháp mời đại sứ Mỹ tại Pháp là Dillon đến dự một phiên họp của Nội các.  Thủ tướng Pháp yêu cầu Mỹ cho chiến hạm can thiệp như đã hứa với Tướng Ely vì với vũ khí và hành lang tiếp vận cho bộ đội CSVN hiện nay đã đủ bằng chứng cho thấy đây là một cuộc chiến tranh giữa phe Cọng sản và phe Tự do.  Đại sứ Dollin chuyển lời yêu cầu về Bộ Ngoại giao Mỹ.

 

Ngày 5-4, Ngoại trưởng Dulles trả lời rằng Mỹ không thể đơn phương biến chiến tranh Việt Nam thành chiến tranh chống Cộng sản, Mỹ cần thảo luận lại với Chính phủ Anh.

Tình đồng minh của Anh

Ngày 11-4, Ngoại trưởng Mỹ đến Luân Đôn và Paris để bàn bạc với hai Chính phủ Anh, Pháp.  Ngày 14-4, cả 3 quốc gia đồng ý mở hội nghị 10 nước phòng thủ Á Châu để bàn về kế hoạch “Liên minh hành động tại Đông Dương”.

Tuy nhiên ngày 18-4, Đại sứ Anh tại Pháp là Roger Markins thông báo rằng nước Anh không thể tham dự hội nghị được (?!).  Sau đó trong 3 ngày 22,23 và 24-4, ba ngoại Trưởng Anh, Pháp, Mỹ hội họp để bàn chuyện Đông Dương.

Ngoại trưởng Anh cho biết nước Anh không thể có hành động nào trước khi có Hội nghị của Liên Hiệp Quốc tại Genève khai mạc vào ngày 26-4, bởi vì Hội nghị này cũng sẽ bàn về Đông Dương;  sau khi có quyết định của Liên Hiệp Quốc về Đông Dương thì nước Anh mới có thể chiếu theo quyết định của Liên Hiệp Quốc mà hành động.

Ngày 24-4, một lần chót Paris yêu cầu Không quân hoa kỳ can thiệp vào Điện Biên Phủ.  Ngày 25-4, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles cho biết quân đội Mỹ  không thể can thiệp vì cần phải có sự chấp thuận của Quốc hội.

Sở dĩ nước Anh có thái độ gần như khó hiểu đối với yêu cầu bức thiết của đồng minh Pháp và Mỹ là bởi vì Mao Trạch Đông đang hăm he đòi tấn công chiếm lại đất Hồng Kông.  Người Anh đang bận rộn giàn xếp ngoại giao để  Liên Hiệp Quốc giải tỏa lệnh cấm vận Trung Quốc để được Mao chấp thuận cho thuê Hồng Kông thêm một thời gian nữa.

Tình đồng minh của Trung Cọng

Trận chiến  Điện Biên Phủ được Mao Trạch Đông theo dõi từng ngày nhưng chiến thắng cuối cùng tại Điện Biên Phủ là một điều bất ngờ đối với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai.  Hồi ức của Khrushchev trong “Khrushchev Remembers, tập 1”, ấn hành năm 1974, có kể lại trước khi khai diễn hội nghị Genève về vấn đề Trung Quốc thì Chu Ân Lai có gặp Khrushchev và cho biết Hồ Chí Minh thú nhận tình hình của CSVN thật tuyệt vọng, ông ta nói trước với Chu Ân Lai là có thể quân CSVN sẽ rút về vùng biên giới Việt Trung để nếu bị truy đuổi thì chạy sang nhờ Trung Quốc che chở.

Ngoài ra Hồ Chí Minh cũng xin Chu Ân Lai cho quân Trung Quốc tràn sang Việt Nam như là đã sang Bắc Hàn.  Chu Ân Lai chưa trả lời ngay cho Hồ Chí Minh nhưng nói riêng với Khrushchev rằng Trung Quốc không thể làm như vậy được vì quá tốn kém, hiện Trung Quốc đang gặp nhiều khó khăn để giải quyết hậu quả của bài học chiến tranh Đại Hàn.

Nghe Chu Ân Lai nói như vậy thì Khrushchev khuyên Chu đừng nên nói thật điều đó cho Hồ Chí Minh, cứ nói dối cho ông ta yên lòng.  Sau đó thì xảy ra chuyện quân Pháp đầu hàng tại Điện Biên Phủ, Khrushchev kể lại: “Thế rồi một phép lạ xảy ra:  chiến thắng Điện Biên Phủ…Thế là Hồ đạt được điều mà trước đó không mảy may hy vọng, đó là nửa nước phía Bắc của Vĩ tuyến 17”.

Tình đồng minh của Việt Nam Cọng Hòa

Có như vậy mới thấy tình đồng minh của chính trị thắm thiết đến mức độ nào.  Mỹ và Anh đối với Pháp như thế đó thì sau này họ có đối xử lạnh lùng trước cơn nguy kịch của Đồng minh Việt Nam Cọng Hòa thì cũng không có gì làm lạ.  Chỉ tội cho các ông thầy bàn người Việt Nam, cho tới khi nước mất rồi mà vẫn không tin rằng mình bị đồng minh bỏ rơi.  Và không ít người vô tư quy tội cho Nguyễn Văn Thiệu.

Mãi cho đến khi ông Nguyễn Văn Thiệu chết rồi, các hồ sơ mật của Hoa Kỳ được giải mã, các cuộn băng ghi âm các cuộc nói chuyện bằng điện thoại tại tòa Bạch Ốc được đưa ra công chúng thì các ông thầy bàn cảm thấy hỗ thẹn, không dám lên tiếng nói lại cho dư luận được rõ, khiến cho giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đành phải dịch lại tác phẩm “Không Hòa Bình, Chẳng Danh Dự” của Larry Berman vào năm 2003 để cho công chúng Việt Nam thôi bàn tán về những gì khó hiểu đã xảy ra vào năm 1975.

Sau đó thì tới năm 2005 giáo sư Nguyễn Tiến Hưng đã cho ra đời tác phẩm “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” mới nói rõ từng cảnh đau lòng sau hậu trường chính trị Mỹ.  Trong buổi lễ ra mắt sách, có người đã hỏi giáo sư Hưng rằng tại sao ông lại lấy tựa đề đó trong khi trong ruột của cuốn sách lại nói về “Khi đồng minh phản bội”?  Kể từ lúc đó thì các ông thầy bàn thôi ngậm máu phun cho Nguyễn Văn Thiệu.

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP, (34) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, ĐÁP SỐ CUỐI CÙNG CỦA TRẬN CHIẾN

Hậu quả chính trị của trận Điện Biên Phủ :

Sau khi Tướng De Castries đầu hàng thì người Pháp mới thấy rõ tầm mức tai hại của sự thua trận tại Điện Biên Phủ. Trước đây người Pháp có thua trận và bỏ chạy tại Cao Bằng nhưng không có đầu hàng.  Giờ đây thì báo chí Pháp không biết viết gì về nỗi nhục này.  Đàng nào thì người Pháp cũng phải tháo chạy khỏi Việt Nam nhưng quả là tệ hại khi mở đầu cuộc tháo chạy bằng hình ảnh đầu hàng của ông Tướng Pháp.

Báo chí Pháp quay ra chất vấn các ông tướng.  Đến nông nỗi này thì các ông tướng không còn gì để giấu giếm, họ cho báo chí biết tất cả sự thật về việc các nhà chính trị đã bắt họ đánh trận mà không có quân, vũ khí thiếu hụt, đạn được nhỏ giọt, kinh phí chiến tranh thì chụp giật đầu này, và víu đầu kia.

Sự kiện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Pháp tại Paris không còn quân để thay thế cho quân Điện Biên Phủ, rồi không còn quân để tăng cường phòng thủ Điện Biên Phủ. Và cũng không còn quân để đánh tháo cho Điện Biên Phủ đã chứng tỏ là khả năng huy động lực lượng của nước Pháp đã cạn kiệt trong khi khả năng huy động của Võ Nguyên Giáp có thể tăng trưởng vô hạn định;  nếu chết hết 60.000 quân và 100.000 dân công tại Điện Biên Phủ thì ông ta còn hằng triệu thanh niên khác đang chờ cầm súng tại các chiến khu ở hậu phương, chỉ tiếc là ông ta không có đủ súng cho chừng đó người.

Không biết trong giai đoạn 1 và 2 có bao nhiêu binh sĩ thương vong trong số 42.000 quân CSVN tại Điện Biên Phủ, nhưng gai đoạn 3 VNG đã bổ sung bằng 25.000 quân, điều này chứng tỏ có ít nhất là 25.000 quân CSVN đã bị loại khỏi vòng chiến.  Trong khi đó quân số đầu tiên của Pháp là 12.500 quân, cọng thêm với 4.000 quân bổ sung trong giai đoạn 1 và 2, sang tới trận cuối thì họ chỉ còn 4.200 quân là còn đủ sức để chiến đấu.

Làm một bài toán thì thấy ẩn số làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ là nhờ lấy số quân đông làm chiến thuật, tức là chiến thuật biển người của Mao Trạch Đông, phe nào có người còn sống sau cùng là phe chiến thắng.  Cũng với chiến thuật này mà trong trận chiến đánh vào Miền Nam đã có 924.000 chiến binh CSVN bị hy sinh và 300.000 mất tích.  Trong khi phía Quân đội Việt Nam Cọng Hòa có 250.000 chết và Hoa Kỳ có 58.000.  So sánh hai con số này thì rõ ràng bên nào chết nhiều mà cuối cùng vẫn còn quân thì bên đó sẽ chiến thắng.

Các nhà quân sự quốc tế đều ngán ông Mao Trạch Đông với chiến thuật biển người bởi vì dân Trung Quốc quá đông cho nên cần phải giảm bớt phát triển dân số. Ông Mao sẳn sàng thí hằng triệu quân để đạt được một mục tiêu quân sự.  Con số hằng triệu người chết có thể làm cho ông Mao cảm thấy hài lòng bởi vì ông đỡ phải nuôi hằng triệu nhân khẩu.  Nhưng đối với người Việt Nam thì việc mất đi 1 triệu thanh niên khiến cho lực lượng lao động làm ra của cải của dân tộc Việt Nam bị rơi vào khủng hoảng thiếu nhân lực.

Một chứng minh là trong 2 năm 1986, 1987 tỉnh Thanh Hóa bị đói đến nỗi dân chúng phải túa đi các nơi ăn xin thì Thủ tướng Phạm Hùng phải bay vào các tỉnh Miền Tây Nam Bộ để vận động lương thực cứu đói.  Nhưng tại đây ông đã gặp phải sự từ chối quyết liệt của các ông bí thư tỉnh, nhất là ba tỉnh Đồng Tháp, Long An và Bến Tre.  Ông Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre thảy ra trước mặt Thủ tướng Phạm Hùng một danh sách 600.000 thương binh liệt sĩ mà tỉnh Bến Tre đang phải trách nhiệm cung cấp lương thực và hỏi Thủ tướng có biết cái gánh nặng lâu nay của nhân dân tỉnh Bến Tre hay không ?

Cũng nhờ chuyện đó mà người ta mới biết đến gánh nặng của xã hội đối với hậu quả của chiến tranh Việt Nam.  Lúc Lê Duẩn thảy thanh niên Việt Nam vào chiến trường như người ta thảy củi vào lửa thì ông ta  không hề nghĩ tới gánh nặng của nhân dân sau này.  Tỉnh Bến Tre gồm có hai tỉnh lớn nhất của thời VNCH là Vĩnh Bình và Kiến Hòa có khoảng hơn 2 triệu dân mà phải nuôi 600.000 thương binh liệt sĩ thì không thể nào kham nổi.

Điều này khiến cho người ta phải đặt lại vấn đề ai là người chịu trách nhiệm về những cái chết trong Chiến tranh Việt Nam 1959-1975 ?  Không thể đổ lỗi cho Đế quốc Mỹ phải chịu trách nhiệm trong khi Đảng CSVN lại là kẻ phát động chiến tranh và hưởng hết mọi lợi lộc do cuộc chiến thắng mang lại. ( Đất đai, tài sản, địa vị ăn trên ngồi trước, sống ăn chơi hưởng thụ trên kiếp trâu ngựa lầm than của người dân )

Đáp số cuối cùng của trận chiến :

Không trước thì sau người Pháp cũng phải ra khỏi Việt Nam;  quân của họ là quân đánh thuê, thấy vui thì đăng lính, thấy nguy hiểm tới tính mạng thì tháo lui, không có gì bắt buộc họ phải tiến tới.  Chuyện họ phải đối diện với cái chết là chuyện họ không nghĩ tới khi ký giao kèo đăng lính…(!)  Trong khi những người đánh thuê chiến đấu không hết mình thì Chính phủ Pháp phải trả tiền cho đội quân đánh thuê quá nặng.

Rồi đến khi chiến trường Việt Nam nổi tiếng thì không ai chịu đăng lính với cái giá như trước nữa, thậm chí gấp đôi cũng không có.  Không ai dại gì đem tính mạng mình ra đổi lấy đồng tiền lương hằng tháng.  Giả sử sau trận Điện Biên Phủ mà người Pháp có kéo dài thêm được 1 năm nữa thì đội quân viễn chinh cũng không còn ai vì tất cả đều mãn hợp đồng và không ai chịu tái đăng.  Như vậy thì chỉ còn có cách là giao lại cho người Việt Nam.  Nhưng người Việt Nam không dại gì liều chết cho quyền lợi của thực dân Pháp.  Như vậy đằng nào rồi thì người Pháp cũng phải ra đi.

Cũng có rất nhiều người Pháp tiếc mãi cho chủ trương của Tướng Dellatre, họ cho rằng nếu tiến hành ngay công thức “người Việt Nam, tiền Mỹ, Pháp sử dụng” trong vòng hai năm 51- 52 thì quân đội Quốc gia Việt Nam sẽ thay thế ngay quân Pháp và sẽ chiến đấu kiên cường hơn quân đánh thuê của Pháp.

Tuy nhiên đứng vào cương vị của những tướng lãnh Pháp thời đó thì sẽ thấy chuyện này không thi hành được.  Trong khi Staline chuyển cho CSVN mọi thứ vũ khí tối tân nhất đang còn nóng hổi trong các xưởng sản xuất của Nga như là giàn hỏa tiển địa địa 6 nòng 75 ly, giàn cao xạ 4 nòng 37 ly… Ngay cả súng đại bác 105 ly của Hoa Kỳ cũng đã trở thành lỗi thời đối với Trung Cọng cho nên họ đã trao 36 khẩu súng 105 ly của Hoa Kỳ cho CSVN để đánh Điện Biên Phủ, trong khi súng này lại là vũ khí lợi hại bậc nhất của Quân đội VNCH cho tới năm 1975.

Người Nga tận tình chuyển đến Trung Cọng và Việt Nam những vũ khí tối tân như vậy vì cần phải có khách hàng tiêu thụ ngay các vũ khí của họ.  Sau năm 1945 mọi sản xuất của Nga tập trung vào sản xuất vũ khí, họ cần tiêu thụ sản phẩm để giải quyết được công ăn việc làm cho đội quân lao động quốc doanh khổng lồ của họ.

Nếu chiến tranh tại Đại Hàn và Việt Nam thành công thì sẽ quảng cáo cho thị trường vũ khí của Nga đối với các dân tộc đang còn bị kềm hãm trong chế độ thuộc địa, được như vậy thì rồi đây thị trường tiêu thụ vũ khí của Nga sẽ trở thành vô tận.  Trong khi đó người Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho quân đội Pháp những thứ vũ khí tồn đọng sau chiến tranh và viện trợ cho quân đội Việt Nam những vũ khí lỗi thời như súng cối 106 ly, tiểu liên Thompson, súng trường Garant M1…, thậm chí cả những vũ khí cũ phế thải sau khi đã được dùng trong chiến tranh Thế chiến.

Trong khi đó Hồ Chí Minh không phải trả lương cho bộ đội của ông ta, chỉ nuôi ăn mà thôi, thậm chí thời gian đầu bộ đội cũng phải tự túc sắm áo quần chứ Hồ Chí Minh không có tiền.  Tuy nhiên gạo nuôi bộ đội của Hồ Chí Minh cũng không phải do tiền trong túi ông ta, cũng không phải do ngân sách nhà nước bởi vì nhà nước ở trên rừng thì lấy đâu ra ngân sách.  Tất cả là do sự kêu gọi đóng góp của nhân dân.

Người dân nộp lúa gạo cho “Cách mạng” thì cũng vui lòng vì để nuôi con, nuôi chồng, nuôi anh, nuôi em, nuôi cháu mình trên núi;  thậm chí Bác và Đảng cũng được hưởng ké khẩu phần trong số lúa gạo đóng góp này; chứ Bác và Đảng cũng không làm gì ra tiền để mua gạo.  Hồi ký của Vũ Thư Hiên còn cho biết thuở đó các chiến sĩ ăn cơm bằng cái gáo dừa và đích thân Nguyễn Lương Bằng phải tổ chức một hệ thống buôn thuốc phiện để lấy tiền nuôi chính phủ và nuôi cán bộ Đảng.

Như vậy, trong khi người Pháp lo kiếm viện trợ để trả lương và nuôi ăn cho một đội quân không thiết tha gì đến chiến đấu thì ông Hồ Chí Minh lại có hằng hà sa số thanh niên trong tay mà không cần phải trả lương, không cần phải nuôi ăn; còn tinh thần chiến đấu của các thanh niên này thì khỏi chê, họ đánh như liều mạng bởi vì trong lòng họ đang sục sôi quyết tâm tiêu diệt kẻ thù đã gây ra bao thảm cảnh cho cá nhân, gia đình ho;  cho làng mạc, quê hương họ.

Họ rất mong được trở lại sống một cuộc sống bình thường trên quê hương, họ không thể nào kéo dài cuộc sống bơ vơ đói khổ trên rừng, trên núi cho tới không biết ngày nào.  Vì vậy họ chỉ có việc thí mạng với quân Pháp để được sống còn.

So sánh tinh thần chiến đấu và phí tổn cho chiến đấu của hai bên rồi làm một bài toán thì sẽ có đáp số cuối cùng của trận chiến. Việc còn lại là vũ khí, ai trao vũ khí cho Hồ Chí Minh thì kẻ đó sẽ được cuộc, còn ai trao vũ khí cho Pháp thì cũng bằng như vô ích, sẽ mất cả chì lẫn chài.  Người Mỹ đã tính sai khi ứng vốn cho người Pháp và kết quả là người Mỹ đã không được lời mà còn mất hết vốn tại Đông Dương, do đó đừng trách người Mỹ là tại sao không tiếp tục quân viện cho quân viễn chinh Pháp.

 

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP I

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP II

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP III

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP IV

 

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lãng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lý Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Giòng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Ðịnh Chính Tà 1

  42. Phân Ðịnh Chính Tà 2

  43. Phân Ðịnh Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Giòng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 


 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

 

 

 

.

 

 

 

CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState  

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia

.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *