* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT - EPOCH
Từ trái qua phải: Bùi AnhTrinh, Nguyễn Đình Chiến, Chu Di Tuyển, Kim Âu Hà Văn Sơn, Trương Văn Hùng
trinh bui <trinhbui49@yahoo.com>
15:10, Th 7, 31 thg 8 (20 giờ trước)
tới tôi
Bạn hiền thân mến.
Tao rất vui
vì thấy mày hiểu tao rất dễ dàng, nghĩa là chúng mình vẫn còn là tri
kỷ như thời còn đi học.
Thuở đó tụi mình đều được
hun đúc trong một cái lò văn hóa của đất trời Đà Lạt, cùng được học
chung thầy cô, cho nên chuyện mày hiểu tao cũng như tao hiểu mày là
điều có thể lý giải được.
Vừa qua tao
đã gởi đến cho mày đọc 2 bài viết mà tao nhận xét và minh oan cho
hảo hớn Bảy Viễn cũng như 1 bài minh oan cho hảo hớn Nguyễn Ngọc
Loan.
Sở dĩ tao tặng mày 3 bài
đó là để cho mày biết tao nhìn con người không bao giờ sai trật.
Và riêng đối với hảo hớn
Hà Văn Sơn thì cho tới nay tao vẫn nhìn không sai.
Không phải tao minh oan cho 2 hảo hớn
Bảy Viễn và Nguyễn Ngọc Loan không mà thôi, còn có rất nhiều nhân
vật lịch sử của VNCH đã được tao minh oan. Nếu mày không chán thì
tao sẽ lần lượt gởi tặng mày và mày nên tặng lại cho con cháu Việt
Nam Cọng Hòa để chúng nó biết rõ hơn những uẩn khúc của lịch sử mà
đã bị các thế lực chính trị làm biến dạng.
Bây giờ tao
gởi tới cho mày một tài liệu ngón nghề của tao, đó là biên khảo về
quân sử.
Tao gởi đến mày tập tại
liệu “BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP”.
Hiện nay chỉ có tao mới
đủ trình độ để lật mặt thật của nhân vật huyền thoại này.
Đây là tập
tài liệu quân sử đầu tay của tao, tao viết rất dễ dàng mà chẳng cần
tham khảo nhiều tài liệu, tao chỉ cần căn cứ vào 4 quyển hồi ký của
ông ta.
Tất cả những gì tao cần
biết về sự thật của ông ta đều được ông ta vô tư huênh hoang trên
giấy trắng mực đen, cho nên không thể chạy chối đi đâu được.
BÙI ANH TRINH
BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP,
(1) LỜI MỞ ĐẦU
Nói đến chiến tranh Đông Dương thì hầu như
mọi người đều nghĩ tới Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một Tổng tư lệnh
quân đội mà chẳng qua một trường lớp đào tạo quân sự nào. Việc này
đã gây nhiều bàn tán cũng như nhiều tranh cãi giữa các nhà quân sự
học với các sử gia.
Các nhà quân sự học cho rằng ông Võ Nguyên
Giáp không thể nào là một thiên tài quân sự lỗi lạc như một số báo
chí ca tụng bởi vì trong thời đại chiến tranh tân tiến với đủ loại
vũ khí cơ giới, thiết bị chiến tranh khoa học và phương tiên thông
tin liên lạc hiện đại mà không có trình độ căn bản quân sự từ các
trường võ bị thì không thể nào trở thành một tướng chỉ huy quân đội
chứ đừng nói là trở thành thiên tài quân sự.
Trong khi đó các
nhà báo lại cho rằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp là do thiên tài bẩm
sinh với bằng chứng là ông ta đã đánh thắng quân đội Pháp với vũ khí
và chiến thuật của thời đại Thế chiến thứ hai.
Cũng với con người đó, vũ khí đó,
mà quân Pháp đã chiến thắng các nhà quân sự lừng danh của Hitler
nhưng lại thua tài điều binh của Võ Nguyên Giáp thì đủ chứng minh
rằng ông ta phải là một thiên tài quân sự bẩm sinh.
Mọi sự đánh giá về khả năng quân sự của ông
Giáp chỉ nổi lên sau trận Cao Bằng năm 1950 và trận Điện Biên Phủ
năm 1954. Toàn thể nước Pháp sửng sờ với hình ảnh quân Pháp tháo
chạy khỏi Cao Bằng, Lạng Sơn; và hình ảnh một ông tướng của nước
Pháp đã giơ hai tay đầu hàng trước quân đội của Võ Nguyên Giáp tại
Điện Biên Phủ.
Trong khi đó thì
Đảng CSVN lại không muốn đánh bóng chiến công của Võ Nguyên Giáp;
và chính bản thân của ông ta cũng
tỏ ra cực kỳ khiêm tốn, luôn luôn nhấn mạnh rằng chiến công đó là
của toàn quân và dân Việt Nam.
Nhưng rồi sau
khi xảy ra chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1979 thì
ĐCS Trung Quốc cho bạch hóa các tài liệu mật mới lòi ra là cả hai
trận Cao Bằng và Điện Biên Phủ đều không phải do Võ Nguyên Giáp chỉ
huy.
Vì vậy Võ Nguyên Giáp mới cho ra
quyển hồi ký “Đường Tới Điện Biên Phủ” để giải thích về các tài liệu
do Trung Quốc công bố.
Rồi sau lại viết quyển “Điện Biên
Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử”.
Nhờ hai tác phẩm này mà các sử gia
có dịp đánh giá chính xác khả năng quân sự của Đại tướng Võ Nguyên
Giáp.
Truy nguyên xuất
thân đời binh nghiệp của Võ Nguyên Giáp thì thuở nhỏ ông theo học
tại trường Quốc Học Huế, chưa tới 20 tuổi ông
gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng
do sự giới thiệu của giáo sư Đặng Thái Mai, thời gian này ông cũng
làm quen với một nữ đồng chí là Nguyễn Thị Quang Thái, em ruột của
Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Duy Trinh.
Năm 20 tuổi,
ngày 25-11-1930, ông bị tòa án Thừa Thiên tuyên án 2 năm tù về tội
tham gia biểu tình phản kháng bản án dành cho Nguyễn Thái Học.
Tuy nhiên chỉ 1 năm sau thì ông
được tha.
Ông ra Hà Nội theo học trường
Lycée Albert Sarraut.
Sau khi đỗ bằng Tú Tài ông ghi tên
theo học trường Luật Hà Nội, cùng khóa với luật sư Trần Văn Tuyên,
nhưng học tới năm thứ 3 thì ông bỏ học, kết hôn với Nguyễn Thị Quang
Thái và dạy môn Lịch sử tại Trường Trung học tư thục Thăng Long.
Vì dạy học về môn Lịch sử cho nên ông Giáp
nghiên cứu nhiều về các trận chiến tranh nổi tiếng trên thế giới,
ông có thể thuộc lòng các trận đánh của Napoléon cũng như các trận
đánh thời Thế chiến thứ nhất, ông nhớ từng chi tiết các trận đánh
cũng như số quân và số súng đại bác của từng trận đánh.
Nhờ mớ kiến thức này mà trong các cuộc bàn
chuyện thời sự hay chính trị với các chính trị gia Hà Nội ông trở
nên một chuyên gia quân sự nổi bật vì các chính trị gia khác thì
không bao giờ nhớ được Napoléon đánh những trận nào.
Năm 1946 ông Hồ
Chí Minh muốn giao cho ông Võ Nguyên Giáp làm Tổng tư lệnh quân đội
Việt Minh nhưng lại sợ người ta cười vì ông Giáp chỉ là một ông thầy
dạy môn lịch sử.
Thế nên ông HCM nhờ ông Trần Huy
Liệu, Bộ trưởng bộ Thông tin tuyên truyền của chính phủ Việt Minh
bơm Võ Nguyên Giáp lên thành một thiên tài quân sự bẩm sinh.
Năm 1950 báo chí
đột nhiên loan tin ông Võ Nguyên Giáp đánh thắng trận Cao Bằng, rồi
sau đó đánh các trận đánh lớn tại Vĩnh Yên, Mạo Khê, Ninh Bình,
Nghĩa Lộ, Hòa Bình, Na Sản và cuối cùng ông chiến thắng vẻ vang tại
Điện Biên Phủ.
Cũng từ đó quốc tế phải công nhận
Võ Nguyên Giáp là “thiên tài quân sự bẩm sinh”.
Để tìm hiểu về Thiên tài quân sự Võ Nguyên
Giáp, tôi đã nghiên cứu quyển hồi ký “Đường Tới Điện Biên Phủ” của
Tướng Giáp và từ hồi ký này tôi đã chứng minh được rằng trong suốt
cuộc chiến chống Pháp ông VNG không có một trận thắng nào, trái lại
toàn là thua nặng ( 8 trận ).
Tôi cũng đã
nghiên cứu quyển hồi ký “Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử” của VNG và
chứng minh được rằng trận Điện Biên Phủ do Tướng Vi Quốc Thanh chỉ
huy và riêng Tướng Giáp đã đại bại trong trận Tổng tấn công Cứ điểm
Điện Biên Phủ sau khi nướng hết 23 ngàn quân trong tổng số 42 ngàn
quân.
Sau đó Vi Quốc Thanh đã quyết định
đánh tiếp một trận Điện Biên Phủ thứ hai với 25 ngàn quân khác và
chiến thắng.
Tôi lại cũng nghiên cứu quyển hồi ký “Tổng
Hành Dinh Trong Mùa Xuân Toàn Thắng” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và
chứng minh đựợc rằng trong suốt cuộc chiến chống Mỹ thì Võ Đại tướng
đứng ở bên lề chứ không được dự bàn hay tham gia điều động quân đội.
Thế nhưng nực cười là các cháu ở Mỹ cho tôi
biết là nếu dở 10 cuốn sách nói về chiến tranh Việt Nam tại các thư
viện đại học Mỹ thì cả 10 cuốn đều cho rằng Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
là người chỉ huy cuộc chiến chống Mỹ tại chiến trường Miền Nam Việt
Nam. Hấu hết các sách đều cho rằng CSVN có một ông tướng thiên tài,
ông ta đã bắt ông Tướng Pháp phải giơ tay đầu hàng và bắt các ông
tướng Mỹ phải tháo chạy.
Tôi nhận thấy
những người làm văn hóa Việt Nam tại Mỹ nên mở một chiến dịch đòi
hỏi các trường đại học Hoa Kỳ phải sửa lại các sách vở đang được
dùng để giảng dạy về chiến tranh Việt Nam cho đúng với thực tế.
Nghĩa là Mỹ thua tại Việt Nam
không phải vì ông Võ Nguyên Giáp quá giỏi.
Để cho con em của mình muốn tìm
hiểu về cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam có một cái nhìn đúng đắn
hơn.
Tôi cũng nghĩ
rằng chiến dịch này phải được đồng phát động trong dịp VNG qua đời,
chắc chắn ngày đó người ta mới chịu cùng nhau đánh giá lại sư nghiệp
của ông ta.
Vấn đề là những người làm văn hóa
Việt Nam phải hẹn nhau cùng phát động hạ bệ thần tượng Võ Nguyên
Giáp cùng một lúc, chứ tôi e rằng ngày đó có người vì không cập nhật
kiến thức quân sử Việt Nam sẽ lên tiếng ca ngợi ông ta, xảy ra tình
trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược, con cháu mình dễ rơi vào trận
hỏa mù không biết đường đâu mà lần.
BÙI ANH TRINH, Tháng Tám năm 2013
(2) NHÀ BÁO VÕ NGUYÊN GIÁP
Nhà báo Võ Nguyên Giáp
Năm ông 27 tuổi,
1937, Mặt trận Bình dân bên Pháp lên cầm quyền, cho nới rộng các
quyền tự do cho các xứ thuộc địa, trong đó có quyền tự do lập hội và
tự do ra báo.
Ông Võ Nguyên Giáp cùng ông Hoàng
Minh Giám và một nhóm giáo sư tại trường Thăng Long thành lập một tổ
chức chính trị lấy tên là Mặt trận Dân Chủ Bắc Kỳ, các ông cho ra tờ
báo Notre Voix do Võ Nguyên Giáp làm chủ bút.
Biết Võ Nguyên
Giáp cần người viết báo, anh vợ của VNG là Nguyễn Duy Trinh mới giới
thiệu một người bạn tù của ông ta tên là Phạm Văn Đồng.
Ông Đồng bị bắt cùng một vụ với
ông Nguyễn Duy Trinh vào năm 1929 và cùng đựơc tha vào năm 1936. Lúc
bị bắt thì ông Đồng là đảng viên của Việt Nam Thanh Niên Cách mạng
Đồng chí Hội và ông Trinh là đảng viên của Tân Việt Cách mạng Đảng.
Notre Voix là
một tuần báo viết bằng tiếng Pháp, số đầu tiên ra ngày 15-1-1937,
tuy nhiên chỉ được 2 tháng, báo ra được tới số thứ 9 thì đóng cửa vì
lý do lủng củng tài chính, số cuối cùng là ngày 16-3-1937. Nguyễn
Duy Trinh biết được Phạm Văn Đồng mất việc bèn nhờ ông Đặng Thái Mai
là thầy dạy học của Trinh và Giáp giới thiệu Phạm Văn Đồng qua viết
cho tờ Le Travaile của Đặng Xuân Khu vào đầu tháng 4-1937.
Lúc đó ông Mai đang viết cho Le
Travaile.
Le Travaile là
một tờ tuần báo viết bằng tiếng Pháp, do Nguyễn Thế Rục, Đặng Xuân
Khu (Trường Chinh), thuộc CS Đệ Tam phối hợp với Trần Đình Long là
một lãnh tụ Cọng sản thuộc ĐCS Pháp;
Trần Huy Liệu, cựu đảng viên VQDĐ;
và Trịnh Văn Phú, thuộc CS Đệ Tứ;
lập ra tại Hà Nội.
Số đầu tiên ra ngày 16-9-1936.
Nguyễn Thế Rục
là 1 trong 5 người thuộc chi bộ Cọng sản đầu tiên của Việt Nam được
CSQT lập ra tại Mạc Tư Khoa vào năm 1928. Trần Đình Long là sinh
viên du học tại Pháp, được ĐCS Pháp gởi sang Mạc Tư Khoa theo học
tại học viện Stalin, sau đó về Hà Nội sinh hoạt trong chi bộ ĐCS
Pháp.
Trịnh Văn Phú là một du học sinh
tại Pháp, theo khuynh hướng Cọng sản Đệ Tứ, bị trục xuất về nước sau
vụ biểu tình tại Paris để phản đối xử án Nguyễn Thái Học năm 1930.
Đặng Xuân Khu là một học sinh tham
gia Đông Dương Cọng sản Đảng của Ngô Gia Tự, bị bắt vào trại tù Sơn
La mới theo học Nguyễn Thế Rục là người cùng làng Hành Thiện tỉnh
Nam Định .
Nhưng sau khi
ông Phạm Văn Đồng sang viết cho tờ Le Travaile vào đầu tháng 4 năm
1937 được nửa tháng thì ngày 19-4-1937 tờ Le Travaile bị đóng cửa do
có sự chia tay giữa Cọng sản Đệ Tam và Cọng sản Đệ Tứ.
Từ Mạc Tư Khoa Stalin ra lệnh tất
cả các tổ chức Cọng sản Đệ Tam không được cọng tác với Cọng sản Đệ
Tứ.
Như vậy tính ra
trong cuộc đời chính trị của ông Võ Nguyên Giáp có 2 tháng làm báo
tại Hà Nội và ông Phạm Văn Đồng có 2 tháng rưỡi.
Sau này các tài liệu của CSVN cố
tình hướng dư luận tin rằng ông Giáp và ông Đồng là hai nhà báo gạo
cội nhưng trên thực tế thì kể như hai ông chưa từng làm báo.
Tuy nhiên trong
những ngày cọng tác làm báo, ông Phạm Văn Đồng rất khâm phục kiến
thức quân sự của ông Giáp và khuyên nên theo học một trường võ bị để
thích hợp với khả năng thiên phú của ông ta.
Năm 1938 nhân dịp thất nghiệp do
hai tờ báo Notre Voix và Le Travaile bị đóng cửa, ông Đồng dẫn ông
Giáp sang Côn Minh thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Hoa để cho ông Giáp
theo học Trường Võ bị Côn Minh.
Nhưng khi hai
ông đến nơi thì trường đóng cửa do chiến tranh giữa Nhật và Trung
Hoa. Trong khi còn lưu lại Trung Hoa, ông Đồng được tin ông Lý Thụy
tái xuất hiện tại Trung Hoa, hai ông cố tìm nhưng không gặp.
Trên đường về ông Đồng kể cho ông
Giáp nghe về nhân vật kỳ bí tên Lý Thụy mà ông Đồng từng theo học
một khóa tuyên truyền 2 tháng, cách đó 12 năm.
Đến năm 1940 xảy
ra chiến tranh Pháp-Đức.
Chính quyền Pháp tại Đông Dương
cho bắt phòng ngừa các nhà hoạt động chính trị.
Ông Đồng và ông Giáp được một
người trong nhóm Thiết Huyết hướng dẫn chạy sang Côn Minh, Trung
Hoa. Tại đây các ông gặp ông Hồ Học Lãm và nhờ ông Lãm bắt liên lạc
với Lý Thụy tức là ông Nguyễn Tất Thành.
Ông Thành tìm
đến gặp các ông, thu nhận ông Đồng, ông Giáp làm đệ tử rồi hiệp cùng
4 người khác thành lập ra tổ chức Việt Minh Hội (Việt Nam Độc lập
Đồng Minh Hội).
Bốn người kia là Phùng Chí Kiên,
Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan và Cao Hồng Lãnh.
Khi vừa mới gặp
Nguyễn Tất Thành, ông Đồng giới thiệu về ông Giáp với thiên tài quân
sự bẩm sinh.
Ông Thành hứa sẽ vận động cho cả
ông Giáp lẫn ông Đồng theo học trường Quân chính của Quân đội Mao
Trạch Đông tại Diên An.
Trường này vừa dạy quân sự vừa dạy
chính trị.
Tuy nhiên vì sự
vận động của ông Thành không có kết quả cho nên ông Giáp đành chấm
dứt mộng ước theo học trường võ bị.
Cuối năm
1940, bảy ông dẫn nhau về Thành
phố Tĩnh Tây thuộc tỉnh Quảng Tây của Trung Hoa, giáp giới với tỉnh
Cao Bằng của Việt Nam, để gầy dựng cơ sở chờ thời cơ.
Đầu năm 1941 nhóm của ông Nguyễn Tất Thành
bắt liên lạc được với nhóm của ông Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Chu
Văn Tấn tại căn cứ Pác Bó nằm gần biên giới Việt Trung, thuộc tỉnh
Cao Bằng. Lúc này nhà báo Trường Chinh đã trở thành quyền Tổng bí
thư của ĐCSĐD và Hoàng Văn Thụ là Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. ( Tự phong
dỏm với nhau chứ không phải thực sự ).
Mùa Xuân năm 1941 ông Nguyễn Tất Thành cùng
ông Phùng Chí Kiên đến căn cứ Pác Bó, tính chuyện mở đại hội ĐCSĐD
để tái tổ chức lại Đảng sau khi các lãnh tụ Cọng sản khác đều bị bắt
vì cuộc Bắc Sơn khởi nghĩa và Nam Kỳ khởi nghĩa. Trong khi đó các
ông Đồng, Giáp, Hoan, Anh, Lãnh ở lại Tĩnh Tây để bám vào tổ chức
chính trị “Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội” do Tướng Trương Bội
Công thành lập.
Sau đại hội Trung ương Đảng (gồm 7 người)
tại hang Pác Bó vào tháng 5 năm 1941, Phùng Chí Kiên, Chu Văn Tấn,
Đặng Văn Cáp đến Bắc Sơn thuộc tỉnh Lạng Sơn để lập chiến khu.
Phùng Chí Kiên
từng tốt nghiệp trường võ bị Hoàng Phố, sau đó tốt nghiệp trường
chính trị Staline tại Mạc Tư Khoa.
Chu Văn Tấn là Thượng sĩ của quân
đội Pháp.
Đặng Văn Cáp tốt nghiệp trường võ
bị Côn Minh, cựu sĩ quan trong quân đội của Tưởng Giới Thạch.
Tuy nhiên chỉ vài tháng sau các
ông bị quân Pháp càn quét, Phùng Chí Kiên chết, Tấn và Cáp chạy sang
Trung Hoa.
Trong khi đó tại
Trung Hoa, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan, Vũ Anh,
Cao Hồng Lãnh bị chính quyền Trung Hoa phát hiện ra là những người
Cọng sản.
Hoàng Văn Hoan bị bắt, Anh, Lãnh
chạy về Vân Nam; và Đồng, Giáp chạy về Pác Bó.
Tại Pác Bó ông Đồng và ông Giáp
gặp lại người bạn cùng làm báo tại Hà Nội cách đó hơn một năm là ông
Trường Chinh.
Lúc này lực
lượng ĐCSĐD tại hang Pác Bó do Hoàng Văn Thụ chỉ huy cho nên Võ
Nguyên Giáp là người duy nhất có thể bàn bạc với Hoàng Văn Thụ trong
công việc phòng thủ tại hang Pác Bó.
Tiếng là phòng thủ nhưng thực ra
chỉ là chạy tránh mỗi khi có quân của Pháp càn quét.
Tuy nhiên lực lượng quân sự duy nhất của
Thụ chỉ có trung đội lính dõng do Chu Văn Tấn chỉ huy nhưng Tấn đã
dẫn quân chạy sang Trung Hoa cho nên lúc đó tại hang Pác Bó có một
nhóm lãnh đạo của ĐCSĐD nhưng không có súng, vì vậy khả năng hiểu
biết về các trận đánh của Napoléon của Võ Nguyên Giáp cũng không
giúp gì được cho Hoàng Văn Thụ.
Tháng 6 năm 1942
quân Pháp càn quét gắt gao khu vực Pác Bó, Nguyễn Tất Thành trở lại
Trung Hoa để chữa bệnh và tìm cách gỡ thế bí cho ĐCSĐD nhưng không
ngờ ông lại bị bắt.
Trong khi đó thì Chu Văn Tấn đã
dẫn quân từ Trung Hoa trở lại Pác Bó vào năm 1943.
Hoàng Văn Thụ tổ
chức lại lực lượng vũ trang.
Tuy có thêm thanh niên gia nhập
nhưng không có thêm súng, tất cả số súng có được vẫn là
mấy chục cây súng trường trong tay
binh sĩ của Chu Văn Tấn.
Vì vậy cho tới lúc này Võ Nguyên
Giáp vẫn chỉ là một giáo sư dạy Sử Địa.
Đến tháng 8 năm
1943 Hoàng Văn Thụ bị Pháp bắt, và bị xử bắn giữa năm 1944.
Nhóm lãnh đạo tại Pác Bó không có
người chỉ huy về quân sự ngoại trừ Chu Văn Tấn.
Tuy nhiên vì Chu Văn Tấn là người
Tày và trình độ văn hóa có hạn cho nên ông không thích ngồi bàn bạc
suông trong nhóm lãnh đạo Cọng sản.
Ông chỉ muốn khi nào đụng chuyện
cần tới quân đội thì kêu ông, vậy thôi.
Vì vậy các ông đề nghị Võ Nguyên
Giáp làm tham mưu cho Chu Văn Tấn nhưng thực ra chỉ là nói thay cho
Tấn trong các cuộc họp chính trị.
Thời vận của Võ Nguyên Giáp hoàn toàn biến
đổi vào cuối năm 1944 khi Hồ Chí Minh đột ngột xuất hiện cùng với
các nhà quân sự thứ thiệt là 18 người mới tốt nghiệp trường sĩ quan
Đại Kiều do Tướng Tiêu Văn cung cấp, trong số đó có các ông nổi
tiếng sau này như Hoàng Văn Thái, Hoàng Minh Thảo, Đàm Quang Trung,
Vũ Lập, Nam Long, Bằng Giang v,v…
Ngoài ra cùng về trong chuyến này còn có
những tay tổ trong nhóm Thiết Huyết như Vương Thừa Vũ, Bùi Đức Minh,
Bùi Ngọc Thành, Lê Tùng Sơn, Đặng Văn Cáp là những người tốt nghiệp
trường Võ bị Côn Minh.
Ngoài nhóm Thiết
Huyết còn có Lê Thiết Vũ từng tốt nghiệp trường Võ bị Hoàng Phố, Cao
Hồng Lãnh tốt nghiệp trường võ bị Thiểm Cam Ninh.
Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm là những
người tốt nghiệp
trường Hạ sĩ quan Pháp.
Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên
Giáp tổ chức nhóm người mới tới này thành đội ngũ để chuẩn bị tiếp
nhận toán OSS của Hoa Kỳ đến huấn luyện.
Nhóm huấn luyện
của Mỹ nói tiếng Pháp cho nên Võ Nguyên Giáp được đề cử làm người
liên lạc và là thông dịch viên của toán huấn luyện.
Từ đó cuộc đời của ông Võ Nguyên
Giáp từ một ông thầy giáo dạy lịch sử trở nhành một nhà quân sự.
(3) KHẢ NĂNG QUÂN SỰ CỦA TƯỚNG GIÁP
Kiến thức quân sự không có
Trong bất cứ
thời đại nào, một người làm tướng phải biết rõ hiệu năng tác dụng
của mọi loại vũ khí cũng như mọi loại khí tài được sử dụng trong
quân đội.
Rồi phải biết khả năng hiệu dụng
của con người đối với vũ khí và khí tài, tức là phải biết sử dụng
sao cho có hiệu quả tối đa.
Rồi phải biết tính toán trong trường hợp
nào phải đánh bằng cách nào hay bằng vũ khí nào, cái nào trước, cái
nào sau, cái nào thực, cái nào giả, ai là nổ lực chính, ai là nổ lực
phụ, trong địa thế như thế nào và trong điều kiện thời tiết như thế
nào…tất cả những thứ này đòi hỏi phải qua trường lớp hoặc rút kinh
nghiệm tại chiến trường.
Ngoài ra người
chỉ huy trong quân đội cần phải có khả năng phán đoán thật chính
xác, biết tâm lý địch cũng như biết tâm lý của quân mình để có thể
quyết định được lệnh nào sẽ được thi hành ra sao.
Nếu không từng đi với người lính
ngoài chiến trường thì không thể đoán được trong 1 tiếng đồng hồ
người lính đi được bao xa với bao nhiêu ký trên lưng;
dưới trời mưa, dưới nắng của sa
mạc, trong đêm mờ tối, khi bụng đói, khi phải rút chạy v.v…
Và cũng phải biết trong trường hợp nào thì
phải ra lệnh như thế nào, không thể nghe súng nổ thì bắt con người
ta nhào tới trước được; bản năng sinh tồn của con người cho phép
người lính có quyền từ chối những mệnh lệnh điên rồ.
Vậy mà
Võ Nguyên Giáp từ một ông thầy
giáo dạy môn lịch sử đã nhảy một bước lên Đại tướng mà không cần qua
một trường võ bị nào, mà cũng chưa cầm quân một trận nào. ( Ông được
phong Đại tướng vào ngày 20-1-1948.
Nhưng theo hồi ký của ông thì ông
đánh trận đầu tiên là trận Đông Khê vào ngày 15-9-1950 ).
Nhà quân sự Võ Nguyên Giáp
Thời vận của ông
thầy giáo Võ Nguyên Giáp hoàn toàn biến đổi vào cuối năm 1944 khi Hồ
Chí Minh đột ngột xuất hiện tại Pác Bó cùng với các nhà quân sự thứ
thiệt là 18 người mới tốt nghiệp trường sĩ quan Đại Kiều của Tưởng
Giới Thạch do Tướng Tiêu Văn cung cấp;
trong số đó có các ông nổi tiếng
sau này như Hoàng Văn Thái, Hoàng Minh Thảo, Đàm Quang Trung, Vũ
Lập, Nam Long, Bằng Giang v,v…
Ngoài ra cùng về trong chuyến này còn có
những tay tổ trong nhóm Thiết Huyết như Vương Thừa Vũ, Bùi Đức Minh,
Bùi Ngọc Thành, Lê Tùng Sơn, Đặng Văn Cáp là những người tốt nghiệp
trường Võ bị Côn Minh.
Ngoài nhóm Thiết
Huyết còn có Lê Thiết Vũ từng tốt nghiệp trường Võ bị Hoàng Phố, Cao
Hồng Lãnh tốt nghiệp trường võ bị Thiểm Cam Ninh.
Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm là những
người tốt nghiệp
trường Hạ sĩ quan Pháp.
Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên
Giáp tổ chức nhóm người mới tới này thành đội ngũ để chuẩn bị tiếp
nhận toán OSS của Mỹ đến huấn luyện.
Nhà giáo dạy môn lịch sử Võ Nguyên Giáp
chính thức được xem là dân nhà binh khi ông vừa làm thông dịch, vừa
làm huấn luyện viên cho khoảng 100 tay súng thuộc đội “Vũ trang
tuyên truyền Giải phóng quân”, được toán tình báo OSS huấn luyện. Vô
tình, dưới con mắt của nhóm “Tuyên truyền giải phóng quân” thì Võ
Nguyên Giáp trở thành một bậc thầy về quân sự, nhất là quân sự với
vũ khí tân tiến của Mỹ.
Ngày nay hồ sơ
lưu trữ của Quốc gia Mỹ còn lưu lại những bức hình Võ Nguyên Giáp
bận bộ đồ complet trắng đứng chào Quốc kỳ Mỹ tại Tân Trào cũng như
hình Võ Nguyên Giáp đang đứng bên các sĩ quan tình báo Mỹ chỉ dẫn
cho các học viên du kích về các thao tác quân sự.
Từ khóa huấn luyện này thì ông nhà
giáo Võ Nguyên Giáp đủ tư cách trở thành một nhà chỉ huy quân sự
thuộc trường phái quân sự Mỹ (!).
Nhưng thực ra
đây là một khóa cấp tốc đào tạo các chiến binh Biệt kích thuộc Lực
lượng Đặc biệt của Mỹ, họ chỉ dạy cho cách bò lết dưới hỏa lực và sử
dụng các loại vũ khí cũng như lựu đạn, mìn bẩy;
không dạy về chiến thuật bởi vì
môn này chỉ dạy cho sĩ quan.
Trong khi
khóa huấn luyện mới được 6 ngày
thì có tin Nhật đầu hàng Đồng Minh, ông chỉ huy trưởng Võ Nguyên
Giáp vội dẫn khoảng 100 người đang được tình báo Mỹ huấn luyện, tiến
về Hà Nội nhưng đến Thái Nguyên thì đụng phải Quân Nhật.
Toán tình báo Mỹ
và toán tuyên truyền giải phóng quân do Đàm Quang Trung chỉ huy phải
trụ lại Thái Nguyên.
Ngày 23 tháng 8, nghe tin dân
chúng Hà Nội đã cướp chính quyền từ ngày 19, Võ Nguyên Giáp để lại
đội Tuyên truyền giải phóng quân cho toán
tình báo Mỹ, dẫn 2 tiểu đội chạy
về Hà Nội.
Tổng tư lệnh quân đội Việt Minh
Tuy nhiên lúc về đến Hà Nội thì dưới con
mắt của dân chúng Võ Nguyên Giáp vẫn là một ông thầy giáo dạy Sử,
dân Hà Nội không được biết về việc ông đã được các chuyên viên tình
báo Hoa Kỳ huấn luyện trong 6 ngày về cách sử dụng vũ khí cũng như
cách bò lết dưới hỏa lực (sic).
Vì vậy sau khi
cướp chính quyền xong, Trường Chinh và Trung ương Đảng đề ra danh
sách chính quyền lâm thời thì để Chu Văn Tấn làm bộ trưởng Quốc
Phòng, dầu gì ông Tấn cũng là cựu thượng sĩ trong quân đội Pháp.
Chứ nếu để Võ Nguyên Giáp thì
người ta cười cho.
Nhưng khi được
biết mình sẽ làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì Chu Văn Tấn dẫy nẩy,
ông ta là người dân tộc Tày và thất học cho nên đâu có trình độ văn
hóa mà làm Bộ trưởng, ông sợ người ta cười.
Trường Chinh bèn giải thích là Chu
Văn Tấn chỉ làm bộ trưởng trên danh nghĩa mà thôi, còn mọi việc cứ
để Võ Nguyên Giáp làm.
Vì vậy Võ Nguyên Giáp trở thành
người điều động lực lượng quân sự của Việt Minh dưới danh nghĩa “Chủ
tịch ủy ban kháng chiến”.
Tháng 9 năm 1946
Hồ Chí Minh phong cho thầy giáo Võ Nguyên Giáp làm Tổng tư lệnh quân
đội Việt Minh.
Tuy nhiên ông Tổng tư lệnh mà chưa
qua một trường đào tạo quân sự nào thì khó ăn nói với báo chí cho
nên ông Bộ trưởng Bộ thông tin Trần Huy Liệu mới nghĩ ra cách nói
phao lên rằng thầy giáo Võ Nguyên Giáp là “thiên tài quân sự” bẩm
sinh.
Tháng 12 năm
1946, quân Pháp đã thành công trong việc đổ quân tái chiếm Việt Nam,
kể cả tái chiếm Hà Nội.
Họ bắt đầu dở trò khiêu khích để
lấy cớ mà thanh toán lực lượng quân sự của Võ Nguyên Giáp.
Biết rằng trước
sau cũng phải rút khỏi Hà Nội, ngày 19-12-1946, Tổng tư lệnh Võ
Nguyên Giáp bất thần cho quân bảo vệ Hồ Chí Minh và chính phủ Việt
Minh di tản lên miền rừng núi Phú Thọ, giao việc cản đường quân Pháp
cho 8 ngàn tự vệ Hà Nội và 6 ngàn tự vệ Nam Định, những người này
không có súng, chỉ được phát cho vài quả lựu đạn để cầm chân quân
Pháp;
nhằm giúp Võ Nguyên Giáp có đủ
thời gian đưa Hồ Chí Minh chạy thoát.
Đây là kế hoạch
quân sự đầu tay của Võ Nguyên Giáp.
Được đúng 1 năm sau, vào ngày
20-1-1948, Hồ Chí Minh phong cho thầy giáo Võ Nguyên Giáp chức Đại
tướng, cho tới lúc này ông cũng chưa đánh một trận nào, cho dù là
một trận rất nhỏ.
Đó là tất cả con đường binh nghiệp
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
(4) KIẾN THỨC QUÂN SỰ CỦA TƯỚNG
GIÁP
Kiến thức quân sự hoang đường
Những hồi ức tâm
đắc mà Tướng Giáp kể lại trong hồi ký cho thấy ông có vẻ là một nhà
giáo hơn là một nhà tham mưu quân sự.
Ông kể lại một đoạn chiến đấu mà
ông cho là oai hùng:
“ …Xích xe tăng chà lên chiến hào
và ụ súng.
Các chiến sĩ, kể cả những người đã
bị thương, giật giây lựu đạn, chờ xì khói rồi mới ném thẳng vào quân
địch.
Cuối cùng lựu đạn cũng hết.
Các chiến sĩ dùng búa đanh, kìm,
lắc lê, chân súng gãy…lăn xả vào quân địch đánh giáp lá cà.
Cuộc chiến không cân sức kéo dài
tới 2 giờ chiều…”( Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử, in lần 2, trang
244).
Nếu là một tướng
thiên tài về quân sự phải biết cân nhắc trước sức mạnh của địch và
của ta.
Nếu biết cân nhắc thì khi đối diện
trước trận đấu mà một bên là xe tăng với súng đạn đầy đủ; một bên
với búa, kìm và chân súng gảy thì chỉ có nước hô quân bỏ chạy hay
đầu hàng để giữ mạng sống.
Đàng này ông Tướng lại hô quân
nhào vào thí mạng với quân thù thì rõ ràng ông đâu có biết tính toán
hay biết cân nhắc;
thậm chí giống như điên khùng.
Cũng may là ngoại trừ ông Tổng tư lệnh, tất
cả các vị tướng khác như Lê Thiết Hùng, Vương Thừa Vũ, Lê Tùng Sơn,
Đặng Văn Cáp, Bùi Đức Minh, Bùi Ngọc Thành, Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm,
Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái, Hoàng Minh Thảo, Đàm Quang Trung, Nam
Long, Vũ Lập, Cao Hồng Lãnh, Lê Trọng Tấn… đều là những nhà quân sự
thứ thiệt mà quân Pháp không ngờ tới.
Những ông tướng
cấp dưới này không bao giờ nghe theo cái kiểu suỵt chó vô gai của Võ
Nguyên Giáp.
Đáng tiếc là những vị tư lệnh này
xuất thân không phải là Cọng sản nên phải chịu đời khổ sở với những
ông tướng chính ủy của ĐCSVN như Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng,
Chu Huy Mân, Song Hào, Lê Liêm, Trần Độ, Phạm Hùng, Đỗ Mười, Vũ Anh,
Lê Quang Đạo…
Những ông tướng
chính ủy này không phải là nhà quân sự
cho nên chuyên môn khóa tay các
ông tư lệnh trong những pha quyết định.
Đặc biệt các ông chính ủy chỉ có
một chiến thuật duy nhất là hô hào binh sĩ nhào tới trước họng súng
địch, tức là chiến thuật “biển người” của Mao Trạch Đông.
Sau này tướng Westmoreland của Hoa
Kỳ cho rằng Tướng Giáp chỉ có tài thí quân. Quả nhiên có đọc hồi ký
của Võ Nguyên Giáp mới thấy rằng Tướng Westmoreland nói không oan.
Chẳng những vậy,
Tướng Giáp còn nêu những gương anh dũng không thể nào chấp nhận
được:
“Phương là một y tá, đã bị gãy cả
hai tay.
Đức là chiến sĩ, một thiếu sinh
quân 17 tuổi vừa vào bộ đội, bị thương cả hai mắt không còn nhìn
thấy gì. Trong những giờ qua, hai người đã dựa vào nhau tiếp tục
chiến đấu.
Phương quan sát mục tiêu, Đức dùng
tay bóp cò súng. Vừa lúc các đồng đội tới thì Phương trút hơi thở
cuối cùng” (trang 244).
Chuyện này chỉ
có trong tưởng tượng.
Nếu là một người từng lăn lộn
ngoài chiến trường, từng chứng kiến những cảnh thương vong ngoài
trận mạc, sẽ không có những tưởng tượng ngây ngô như vậy. Tâm lý của
người bị gãy hai tay sắp chết không thể nào có đủ tỉnh táo để quan
sát, và người bị thương mù cả hai mắt không thể có lòng dạ nào mà
điều chỉnh họng súng bắn trúng nhiều mục tiêu theo lời chỉ dẫn của
người khác trong nhiều tiếng đồng hồ; nhất là các mục tiêu đang di
động và nhiều mục tiêu cùng xuất hiện một lúc. Ông Giáp hoàn toàn đi
trên mây trên gió, ông không thể là một nhà mưu lược quân sự.
Tướng Giáp kể về
cái chết của chiến sĩ Phan Đình Giót trong trận đánh đồn Him Lam
(Béatric):
“Tiểu đội trưởng Phan Đình Giót
mau lẹ trườn lên dưới làn đạn
của địch, dùng tiểu liên bắn và
ném lựu đạn về phía lô cốt.
Khi anh tới gần lô cốt thì đạn và
lựu đạn đã hết.
Anh lao mình vào lỗ châu mai, làm
ngừng tiếng súng địch trong giây lát, tạo thời cơ cho bộ đội xung
phong” ( trang 217).
Dĩ nhiên là
Tướng Giáp không có mặt để chứng kiến pha đó, ông chỉ nghe và rồi kể
lại theo tưởng tượng của chính ông.
Không ai có thể tin rằng trên đời
lại có người hành động điên rồ như lời kể của Tướng Giáp, người ta
đành phải truy theo hồi ức của Tướng Lê Trọng Tấn là người trực tiếp
chỉ huy trận đánh đó.
Tướng Tấn cũng
chỉ nghe kể lại chứ ông không mục kích.
Ông kể: “Lúc này Giót đã bị thương
tới lần thứ ba. Lợi dụng lúc hỏa lực địch ngưng bắn trong vài giây,
xung kích của ta xông lên, thấy cả khuôn ngực của Phan Đình Giót áp
vào lỗ châu mai địch…”( Lê Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên, in
lần 2, trang 309 ). Cùng nghe kể lại nhưng Tướng Giáp bịa ra theo
tưởng tượng của mình, còn Tướng Tấn nghe kể làm sao thì thuật lại y
như vậy.
Vui hơn nữa là
Tướng Giáp lại có những tưởng tượng mà xi nê cũng không chấp nhận
nổi.
Thí dụ như ông nói về cách các tài
xế xe tải tránh đạn của máy bay:
“…xe ta thường bị máy bay địch
phát hiện. Gặp trường hợp này, phụ xe đứng bên ngoài, nhìn thấy máy
bay địch lao xuống bắn thì hét lái xe ngừng lại cho máy bay địch lỡ
đà tuôn đạn về phía trước” (trang 331).
Hàng trăm năm
nay chưa có nhà đạo diễn phim nào cho diễn cảnh này trên màn ảnh bởi
vì trên thực tế không thể nào có chuyện như vậy được, cho dù là thực
tế đã được sắp xếp sẵn trong phim trường.
Bởi vì khi máy bay xà xuống bắn
thì máy bay và xe cùng tiến trên một trục dọc, máy bay sẽ bay từ
phía sau xe rồi vượt qua khỏi xe;
người phi công sẽ bấm cò súng cho
viên đạn đầu tiên ghim cách phía sau chiếc xe một khoảng cách thường
là gấp 5 chiều dài của thân xe;
loạt đạn sẽ cày một đường dài từ
phía sau ra phía trước cách khoảng 5 thân xe nữa mới ngưng.
Do đó khi người
phi công đã bấm cò súng thì dầu chiếc xe có chạy hay dừng vẫn nằm
trong vệt dài của loạt đạn, không thể nào có chuyện hễ thắng lại thì
thoát.
Nếu được như vậy thì người ta đã
ghi vào binh thư chống máy bay rồi, nhưng cho tới nay thì không có
binh thư nào viết như vậy, kể cả binh thư của quân đội CSVN.
Còn nếu ngoài
thực địa mà làm được như vậy thì thiếu gì phim chiến đấu cho diễn
cảnh đó bởi vì các pha né đạn máy bay ngoạn mục
như vậy sẽ
rất ăn khách.
Thế nhưng thiên tài quân sự Võ
Nguyên Giáp lại thản nhiên kể chuyện như thật, không phải ông kể như
một chuyện may mắn mà ông nói về một chiến thuật chống máy bay rất
hữu hiệu.
Lại một pha tả
cảnh các chiến sĩ đang gò lưng kéo pháo lên đèo:
“Bất thần xuất hiện những ánh chớp
giật, tiếp theo là tiếng nổ ầm ầm, mãnh đạn cháy bỏng chém gãy những
cành cây, cắm vào vách núi.
Chính trị viên hô to: “Các đồng
chí, quyết không rời pháo”. Các chiến sĩ gan dạ bám chặt dây kéo,
chân như đóng xuống đất, nghiến răng ghìm pháo.
Bài “Quốc tế ca” trầm hùng vang
lên như tiếp thêm một sức mạnh nhiệm màu giúp họ vượt qua giờ phút
hiểm nghèo” (trang 112).
Quả là phim
trường cũng không thể diễn lại được cảnh này vì nó phản tâm lý.
Đang làm việc căng thẳng mà bất
thần cái chết ập đến thì không có một tập thể nào có thể tiếp tục
thản nhiên làm việc và cất lên bài Quốc tế ca với giọng trầm hùng!
Nếu có bắt buộc phải hát thì họ sẽ
hát với giọng hoảng loạn chứ không thể nào lấy được giọng trầm hùng.
Họ còn phải lo
giải quyết làm sao neo được khẩu pháo đứng yên để chạy tìm chỗ nấp
vì đạn pháo sẽ tiếp tục giáng xuống dài dài;
nhiều người may mắn thoát được
loạt đạn đầu nhưng ai cũng lo là còn nhiều loạt đạn kế tiếp sẽ tới.
Vậy mà tướng Giáp lại tưởng tượng
ra rằng lính của ông có thể dễ dàng cất lên giọng trầm hùng giữa lúc
lo chạy tìm chỗ nấp.
Quả là phim
trường cũng chào thua bởi vì nếu có cố diễn thì nét mặt các diễn
viên sẽ rất sượng vì phản tâm lý.
Vô tình Tướng Giáp để cho mọi
người thấy rõ là ông cầm quân mà không hề biết được tâm lý của người
lính như thế nào hay ngay cả tâm lý của con người như thế nào
Danh hiệu thiên tài quân sự
Với những chuyện
“trời ơi” như thế này thì người ta cần phải xét lại về thiên tài
quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Xuất thân con đường binh nghiệp
của ông là một thầy giáo dạy môn lịch sử , người thầy giáo dạy sử
luôn luôn dùng trí tưởng tượng để chế biến thêm các chi tiết của
lịch sử để gây hấp dẫn cho học sinh đang thích thú theo dõi.
Chính điều này đã làm cho Tướng
Giáp bị bệnh méo mó nghề nghiệp khi ông làm Tư lệnh quân đội CSVN.
Ngày nay gom lại
các truyền thuyết về ông Võ Nguyên Giáp qua các bài tùy bút của các
học sinh của ông, hay các bài tùy bút của các nhân viên dưới quyền
ông, và hồi ức của các bạn bè cùng trang lứa của Võ Nguyên Giáp, thì
ông đã được dư luận Hà Nội ghi nhận về trí nhớ rất đặc biệt của ông
với các trận đánh của Napoleon.
Ông có thể
bàn luận thao thao bất tuyệt trong
nhiều tiếng đồng hồ về các trận đánh của Napoleon và đưa ra các con
số dẫn chứng mà không cần nhìn vào tài liệu.
Tuy nhiên những bài viết nói về thiên tài
của Tướng Giáp với các trận đánh của Napoléon lại vô tình điềm chỉ
ông ta là tác giả của lệnh “Tiêu thổ kháng chiến” vào năm 1946, bởi
vì tiêu thổ kháng chiến là một chiến thuật mà nhân dân Nga dùng để
đánh bại đoàn quân bách chiến bách thắng của Napoléon.
Lệnh tiêu thổ
kháng chiến kêu gọi hễ quân địch tới đâu thì dân chúng hãy đốt hết
nhà cửa làng mạc rồi rút lên rừng để địch không có gì ăn, không có
chỗ trú ngụ thì chúng sẽ bỏ đi.
Kết quả của lệnh này là thành phố
Tuy Hòa biến thành tro bụi, thành phố Vinh chỉ còn viên gạch này
chồng lên viên gạch kia, các cung điện tại thành phố Huế bị đốt và
thành phố Hà Đông trở thành một đống đổ nát hoang tàn.
Đây là một lệnh
vô cùng khôi hài bởi vì quân Pháp được nuôi ăn bằng vựa lúa Miền Nam
và vựa lúa Căm Bốt thì biết bao giờ họ mới ăn hết gạo.
Còn nhà ở thì ngay giữa rừng núi
Điện Biên Phủ và trong hầm hố họ vẫn ở được thì cần gì phải có nhà.
Ngày nay đọc lại các hồi ký, bút ký về thời
kỳ đó người ta cứ tưởng là chuyện bịa đặt nhưng may nhờ cuốn sách
Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện của ông Hồ Chí Minh mà người ta mới có
hân hạnh được biết rằng chuyện đó có thật.
Còn danh hiệu
“thiên tài quân sự” là do sáng kiến của ông Trần Huy Liệu, Bộ trưởng
bộ Thông tin của Chính phủ Việt Minh.
Đó là vào đầu năm 1946, Hồ Chí
Minh giải tán đảng Cọng sản của Trường Chinh, đưa Võ Nguyên Giáp lên
làm Tổng tư lệnh quân đội thay cho Bộ trưởng Quốc phòng Chu Văn Tấn.
Sở dĩ phải thay
Chu Văn Tấn bởi vì Tấn là cán bộ cao cấp của ĐCSĐD, trong khi Tướng
Tiêu Văn của Trung Hoa không muốn thấy đảng viên CS trong nội các
Việt Minh.
Ngày đó Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn
Đồng, Trần huy Liệu chưa lộ diện là đã theo Cọng sản nên VNG mới
được HCM sắp xếp làm Tổng tư lệnh quân đội, PVĐ nắm Bộ trưởng Tài
Chánh. Trần Huy Liệu làm Bộ trường Thông tin.
*( Sau này mới
hợp thức hóa bằng cách sửa hồ sơ, cho rằng HCM kết nạp VNG và PVĐ
tại Trung Hoa vào năm 1940 và Trần Huy Liệu được kết nạp hồi còn ở
Côn Đảo.
Nhưng thực ra hồi ký của Hoàng Văn
Hoan cho thấy cuối năm 1944 hai ông này vẫn ghưa gia nhập ĐCS. Và
lời kể của Bùi Công Trừng cho thấy THL không được kết nạp ở Côn Đảo.
Thời đó, 1943-1945, Cọng sản Quốc
tế đã bị Stalin giải tán để làm vừa lòng Hoa Kỳ và Anh, Pháp.
Do đó ông Đồng, ông Giáp, ông Liệu
không điên gì mà theo CS ).
Nhưng vì ông
Tổng tư lệnh VNG chỉ là một ông thầy dạy môn lịch sử, chưa qua một
trường lớp quân sự nào, cho nên ông Bộ trưởng bộ Thông tin Trần Huy
Liệu cho phao lên rằng VNG có thiên tài quân sự bẩm sinh.
Bằng chứng là ông ta nhớ thuộc làu
tất cả các trận đánh của Napoléon (sic).
Ngoài sản phẩm
“thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp”, ông Liệu còn sáng tác ra sản
phẩm “thiếu niên anh hùng Lê Văn Tám”;
cũng là một nhân vật anh hùng
không có thật nhưng được nhân dân tôn thờ (!)..
(5) QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN CỦA CSVN
Mao Trạch Đông thành lập Quân Đội Nhân Dân
Việt Nam
Năm 1994, cựu Bí
thư CSVN Hoàng Tùng tung ra quyển hồi ký “Những kỷ niệm về Bác Hồ”
xác nhận năm 1950 Stalin và Mao Trạch Đông gọi Hồ Chí Minh sang Mạc
Tư Khoa.
Trước mặt Mao Trạch Đông, Stalin
nói với HCM rằng từ nay Trung Quốc sẽ lãnh đạo CSVN :
“Chuyến đi Trung
Quốc và Liên Xô của Bác năm 1950 là chuyến đi gian khổ.
Khi đó Staline nói:
Bây giờ cách mạng Trung Quốc thành
Công rồi, Trung Quốc có trách nhiệm giúp đỡ các nước Phương Đông…
Trung Quốc cho như thế là Quốc tế cọng sản đã phân công cho Trung
Quốc phụ trách Châu Á”.
Hồi ký Hoàng
Tùng :
“Mùa thu năm 1950, Trung Quốc phái
hai phái đoàn cố vấn sang Việt Nam.
Một đoàn do La Quý Ba làm cố vấn.
La Quý Ba trước là bí thư của Mao,
Bí thư Sơn Tây.
Ông này
là người nghiêm chỉnh, phục Mao
như ông thánh.
Ông là người tin cẩn của Mao.
Còn tổng cố vấn quân sự là Vi Quốc
Thanh. Đoàn
cố vấn quân sự đông hơn vì có đủ bộ máy của quân sự”. ( Hồi ký Hoàng
Tùng ).
Các cố vấn Trung
Quốc sắp xếp lại nhân sự trong đảng CSVN và trong quân đội CSVN.
Điều chính yếu là loại bỏ các nhân
vật thuộc nhóm Độc Lập Đồng Minh Hội do Hồ Chí Minh đưa từ Trung Hoa
về và thay thế bằng những đảng viên Cọng sản lâu năm.
Ngay cả Võ Nguyên Giáp cũng được
đặt vào vị trí dưới quyền của một vị lãnh đạo chính trị của Đảng
trong quân đội, gọi là Tổng bí thư Quân ủy, người đó là Tướng Nguyễn
Chí Thanh, mới được Cố vấn Trung Quốc phong lên cấp Thiếu tướng để
kèm Võ Nguyên Giáp.
Hồi ký Hoàng
Tùng :
“Ta không hiểu thâm ý của Trung
Quốc là họ muốn sửa ta.
Họ sang để giới thiệu kinh nghiệm
TQ, lí luận Mao Trạch Đông, lí luận quân sự, tổ chức quân đội.
Việc đầu tiên của họ là sửa quân
đội đã.
Họ sửa cả Đảng trong quân đội cho
nên mới lập ra chức chính ủy.
Trước ta chỉ có chính trị viên.
Cùng là chính trị nhưng có khác
nhau về chức năng.”
“Chính ủy là
người bao trùm lên cả tư lệnh, ….
Lập ra chính ủy là để xác định vị
trí của Đảng, mà việc đầu tiên là nhắm vào ông Giáp.
…“Theo Trung Quốc, ông là một trí
thức, xuất thân không phải là công nông, để ông nắm quân sự là không
ổn”.
Tuy nhiên sự
thực không hoàn toàn đúng như Hoàng Tùng nghĩ;
người ta muốn hạ quyền lực của ông
Giáp bởi vì ông Giáp là người của phe Hồ Chí Minh, là phe mà Mao
Trạch Đông cũng như Staline không mấy tin tưởng.
Bằng chứng là Trường Chinh cũng
xuất thân là con địa chủ, cũng là trí thức; mà sao lại được các cố
vấn tin tưởng đưa lên cao hơn cả Hồ Chí Minh trong nấc thang quyền
lực của Đảng?
Tại sao họ chỉ
xoáy vào Võ Nguyên Giáp mà không xoáy vào một nhân vật tương đương
với Võ Nguyên Giáp là ông Phạm Văn Đồng?
Ông Đồng cũng xuất thân từ gia
đình quan lại, cũng là trí thức.
Chẳng qua là Trung Quốc muốn quân
đội phục vụ cho Đảng cho nên quân đội phải tuân phục dưới quyền của
Đảng, tránh tình trạng một lãnh tụ quân sự khống chế được quân đội,
tạo nên thanh thế, xong rồi đem thanh thế đó chạy theo người khác.
Mao Trạch Đông
muốn nắm chắc trong tay một tổ chức mà ông ta sắp sửa trao vũ khí và
lương thực.
Ông ta không sợ Hồ Chí Minh hay
Phạm Văn Đồng ngã theo ai, ông ta chỉ sợ quân đội ngã theo ai.
Vì vậy không riêng Võ Nguyên Giáp
ở trên cao bị hạ bớt uy thế mà tất cả các cấp chỉ huy từ Tướng Giáp
trở xuống đều bị truy xét lý lịch.
Hồi ký Hoàng
Tùng :
“Đặt ra chức chính ủy là để phụ
trách Đảng trong quân đội.
Có người đưa ra một danh sách
những người xuất thân không phải là gia đình công nông định để gạt
ra khỏi quân đội.
Ai đưa danh sách này cho đoàn cố
vấn?
Tôi ngờ rằng đó là một người trong
quân đội, người này là Lý Ban, phó của Văn Tiến Dũng”.
Tiêu chuẩn lựa chọn người chỉ huy của Mao
Trạch Đông
Năm 1950, tháng
11.
Theo Hoàng Tùng : “Sau thắng lợi
mới, tổng kết chiến dịch và sau đó là tiến hành chỉnh huấn, chỉnh
quân. Thay đổi lại tổ chức quân đội. Thế là năm 1950-1951 đoàn cố
vấn thực hiện chỉnh đốn quân đội. Các chỗ khác họ chưa đụng tới”
Theo hồi ký của
Hoàng Tùng thì mùa thu năm 1950,
La Quý Ba là trưởng đoàn cố vấn
chính trị của trung Quốc đã muốn loại Võ Nguyên Giáp ra khỏi Bộ chỉ
huy quân đội Việt Minh vì xuất thân của ông ta.
Tuy nhiên Hồ Chí Minh không chịu,
nại lý do Stalin vẫn dùng Tướng Jukov là ông Tướng của Nga Hoàng làm
Tổng tư lệnh Hồng quân Liên Xô.
Tại Miền Nam
Trung tướng Nguyễn Bình cũng có
công trạng chẳng kém gì Võ Nguyên Giáp tại Miền Bắc, ông xuất thân
từ giai cấp công nhân nhưng lại là cựu đảng viên Quốc dân Đảng, mới
được Lê Duẫn và Lê Đức Thọ kết nạp vào đảng năm 1946 ( Theo tuyên
truyền của CSVN chứ sự thật chưa chắc có chuyện này ).
Cho nên do kết quả của đợt chỉnh
quân năm 1951, Nguyễn Bình bị triệu hồi về Bắc để xa rời các thuộc
tướng và quân sĩ của ông tại miền Nam;
không may ông bị chết trên đường
ra Bắc.
Ngoài ra, các
tướng tư lệnh xuất thân từ nhóm Thiết Huyết như Lê Tùng Sơn,
Đặng Văn Cáp, Bùi Ngọc Thành, Bùi
Đức Minh, Cao Hồng Lãnh, cũng cùng chung số phận như Nguyễn Bình,
chỉ giữ các chức vụ không có quân và lần hồi cho ra khỏi quân đội.
Năm 1951, sau
đại hội thành lập Đảng Lao Động, tức là đại hội toàn quốc lần 2, cố
vấn La Quý Ba thay đổi vị trí trong nhóm lãnh đạo Việt Minh, từ
Hồ Chí Minh tới Võ Nguyên Giáp hay
tư lệnh Đại đoàn như Vương Thừa Vũ, Cao Văn Khánh;
Trung đoàn trưởng như Nguyễn Hữu
An, Đặng Vũ Hiệp, Lê Trọng Nghĩa v.v…Và ngay tới tận cùng của quân
đội là cấp chiến sĩ cũng rơi vào một cuộc đổi mới, tổng sắp xếp theo
thứ tự mới;
mà thứ tự mới này do cán bộ Trung
Quốc đặt ra.
Hồi ức của Đại
tướng Lê Trọng Tấn cũng cho biết:
“Nghị quyết của hội nghị toàn quốc
lần thứ 3 của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Hàng nghìn cán bộ cao cấp, trung
cấp, sơ cấp của Đảng được điều vào tăng cường cho quân đội…” (Lê
Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên, in lần thứ 2, trang 106).
Điều này là một
tổn thất to lớn đối với quân đội Việt Minh bởi vì các cán bộ quân sự
có từ trước là do sàng lọc, tinh lựa trong số những thanh niên cầm
súng chống Pháp từ năm 1945, chỉ có những người có thực tài về chỉ
huy mới trở thành cán bộ trong quân đội;
trong một tiểu đội 12 người thì
người có phản ứng linh hoạt nhất phải là ông tiểu đội trưởng;
trong một trung đội 40 người thì
người chỉ huy hay nhất phải là ông trung đội trưởng.
Chính Tướng
Delatte đã thú nhận với Bảo Đại:
“Nếu trong hàng ngũ sinh viên Việt
Nam có những người ra trận thì những người đó chiến đấu cho Việt
Minh.
Họ là con cái của dân chúng, các
tiểu điền chủ mới hăng hái ra trận và đánh rất hay…”.
Thế nhưng theo như cách dùng cán bộ của Mao
Trạch Đông thì tất cả những người tài xuất thân từ con nhà tiểu tư
sản sẽ bị thay thế hoặc bị kèm cặp bởi những cán bộ chính trị là
những người giỏi về môn tuyên truyền nhưng không giỏi về đánh trận
và không có kinh nghiệm đánh trận, những cán bộ này có tài động viên
cho binh sĩ sẵn sàng liều chết mà không cần suy nghĩ.
Riêng các vị chỉ
huy được tuyển theo tiêu chuẩn của Mao Trạch Đông.
Hễ ai thuộc
Mao Tuyển ( Những lời dạy dỗ của
Mao Trạch Đông ) càng nhiều thì càng chứng tỏ mức độ trung thành với
Đảng. Và khi chọn cán bộ chỉ huy quân đội thì Cọng sản Trung Quốc
chọn người nào trung thành với Đảng nhất chứ không phải là người nào
tài giỏi nhất.
Cách chọn người
chỉ huy trung thành và giỏi tuyên truyền có lợi trong quân đội của
Mao Trạch Đông bởi vì ông ta chuyên môn sử dụng chiến thuật biển
người, chiến thuật này cần những con thiêu thân lao vào chỗ chết mà
không cần đắn đo suy nghĩ.
Do đó chỉ có cán bộ chính trị của
Mao Trạch Đông mới giúp cho người chiến binh Cọng sản sẵn sàng lao
vào họng súng địch như những người điên.
(6) GIẾT HẾT NGƯỜI TÀI, THAY BẰNG
NGƯỜI NGU
Mao Trạch Đông cho thành lập “Quân đội Nhân
dân Việt Nam”
Hồi ký “Đường Tới Điện Biên Phủ” của Võ
Nguyên Giáp :
“Mao Trạch Đông
nói :
Việt Nam đang cần trang bị 10 đại
đoàn để đánh thắng Pháp, trước mắt hãy trang bị cho 6 đại đoàn có
mặt ở Miền Bắc.”
……“Ngay sau khi Bác trở về nước
cuối tháng 3 năm 1950, các bạn Trung Quốc đã nhanh chóng thực hiện
lời cam kết” ( Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2,
trang 14 và 15)…
“Cho tới hết năm 1950, ta đã tiếp nhận của
Trung Quốc 1.200 tấn vũ khí, đạn dược, 180 tấn quân trang quân dụng,
2.634 tấn gạo, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y, 800 tấn hàng quân
giới, 30 ô tô, 120 tấn xăng dầu và phụ tùng ô tô”(Trang 109).
Đoạn trích dẫn
trên đây cho thấy
kể từ 1950 Việt Minh đã đổi chủ.
Ông chủ mới đã cho thành lập quân
đội mới với vũ khí, trang bị mới;
đổi tên từ “Bộ đội Việt Minh”
thành
“Quân đội Nhân dân Việt Nam”. Hằng
sư đoàn, trung đoàn được đưa sang TQ.
Chính Võ Nguyên Giáp dẫn 20 ngàn
người đầu tiên sang Quảng Tây để được huấn luyện.
Ông kể :
“Tháng 4 năm
1950, 2 trung đoàn của 308 đi theo đường Hà Giang qua Mông Tự (Vân
Nam) nhận vũ khí.
Tiếp đó, 1 trung đoàn của 312 đi
theo đường Cao Bằng qua Hoa Đồng (Quảng Tây).
Bạn cũng chở gấp vũ khí sang Cao
Bằng để trang bị tiếp cho 2 trung đoàn khác phải ở lại chiến trường
để đối phó với quân địch…”
Như vậy truyền thuyết nói rằng quân đội
Việt Minh từ giáo mác với gậy tầm vông mà đã dần dần biến thành Quân
đội nhân dân với vũ khí hạng nặng để chọi với quân Pháp và chiến
thắng là điều không thể có được.
Số phận của trí thức trong quân đội Cọng
sản :
Ngoài ra Võ
Nguyên Giáp cũng xác nhận :
“Qua ba tháng luyện tập, được bắn
đạn thật, các chiến sĩ tiến bộ khá nhanh.
Nhiều đồng chí Trung Quốc rất ngạc
nhiên khi thấy bộ đội ta, từ cán bộ tới chiến sĩ, nghe giảng bài đều
ghi chép rất nhanh, tỏ vẻ nghi ngại rằng trong quân đội Việt Nam có
quá nhiều phần tử trí thức”
“Ta phải cố gắng làm cho bạn hiểu số
đông cán bộ ta là học sinh, còn hầu hết chiến sĩ là thanh
niên nông thôn, nhiều người chỉ bắt đầu học chữ sau khi vào
bộ đội”.(trang 15).
Điều gì khiến
các cán bộ Trung Quốc phải sợ trí thức trong quân đội Việt Nam?
Rõ ràng là họ không muốn quân đội
của họ có lồng vào một số thành phần gai cấp thù địch.
Họ muốn đây là đội quân của Cọng
sản, chiến đấu cho giai cấp vô sản, chứ không phải là đội kháng
chiến quân yêu nước.
Hồi ký của Tướng TQ Vương Chấn Hoa cho thấy
ngay năm 1951 các cố vấn TQ đã phát hiện ra thành phần trí thức tiểu
tư sản có trong đội ngũ QĐNDVN mới được thành lập ( Bộ đội Việt Minh
cũ ) :
“Bởi vì Quân đội Nhân dân nói chung không
đề bạt cán bộ trong chiến sĩ ( Bần cố nông ), mà là tuyển dụng học
sinh thanh niên ( trí thức tiểu tư sản ) được học trường quân sự
hoặc đợi huấn luyện tập huấn ngắn ngày, rồi phân phối về bộ đội làm
cán bộ trung đội, đại đội… Đó là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng
đến sức chiến đấu của bộ đội. Trong cán bộ các cấp hiện có thành
phần cũng khá phức tạp” ( Bản dịch của Dương Danh Di ).
“Thành phần khá
phức tạp” nghĩa là “có cả thành phần giai cấp kẻ thù của chủ nghĩa
CS”
( Trí-Phú-Địa-Hào :
trí thức, tư sản, người gàu có tại
nông thôn, người có uy tín trong dân chúng ).
Ảnh hưởng tới sức chiến đấu nghĩa
là bộ đội trí thức hễ thấy chết thì lùi lại, trong khi chiến thuật
biễn người của Mao Trạch Đông dạy cho chến sĩ thấy chết thì cũng cứ
xông tới để được chết vinh quang (!!).
Hồi ký của tướng TQ Vương Chấn Hoa :
Tháng 8/1950, sau khi đoàn cố vấn Trung
Quốc đến Việt Nam, phía Việt Nam chỉ cần cố vấn giúp đỡ về công tác
quân sự, còn về công tác chính trị không muốn để cho cố vấn nhúng
tay vào. … ( Dương Danh Di dịch ).
Cũng theo Vương Chấn Hoa, Tướng cố vấn
trưởng Vi Quốc Thanh coi đây là “vấn đề nhức nhối”, ông buộc Nguyễn
Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp phải loại thành phần trí thức ra khỏi
các vị trí chỉ huy:
“– Một là luân phiên huấn luyện cán bộ hiện
có, nâng cao tố chất quân sự và trình độ chính trị của họ. – Hai là
coi trọng đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ, từng bước thay đổi thành
phần của đội ngũ cán bộ. …” ( Vương Chấn Hoa ).
Võ Nguyên Giáp nghe theo lệnh của cố vấn
Ngoài ra hồi ký của tướng cố vấn TQ Vương
Nghiên Tuyền xác nhận Võ Nguyên Giáp có nhận được chỉ thị của Vi
Quốc Thanh và có nói hùa theo :
“Các
chỉ huy cao cấp dự toạ đàm cuối cùng nhận thức được trong chiến sĩ
thực sự có nhân tài, nên đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ ( Tức là
lấy binh sĩ thất học thay thê cho cấp chỉ huy trí thức ) . Sau chiến
dịch Biên Giới, Võ Nguyên Giáp đi cùng cố vấn pháo binh Đậu Kim Ba,
xuống bộ đội mở ba cuộc chiến sĩ toạ đàm …”
“…Sau đó đồng
chí nói với cố vấn:
Bộ đội cấp dưới ( binh sĩ thất học
) có những nhân tài cầm quân đánh giặc. Ý kiến của các đồng chí ( cố
vấn TQ ) đúng, phải tìm nhân tài có kinh nghiệm tác chiến từ cấp
dưới, đưa lên vị trí lãnh đạo, mới có thể nâng cao sức chiến đấu”. (
Dương Danh Di dịch ).
Thế nhưng sau này Võ Nguyên Giáp lại viết
hồi ký đổ cho Nguyễn Chí Thanh chứ không phải cố vấn TQ :
“Anh Thanh
(Nguyễn Chí Thanh) cho rằng phần lớn cán bộ sơ cấp, trung cấp của ta
( tiểu đội trưởng, trung đội trưởng và đại đội trưởng, tiểu đoàn
trưởng) xuất thân từ tầng lớp Tiểu tư sản học sinh, chỉ mới giác ngộ
về dân tộc, còn ít giác ngộ giai cấp nên thiếu kiên định.
Trọng tâm đợt chỉnh huấn này, nên
nhằm vào cán bộ” ( Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 210 ).
Các cán bộ chỉ
huy cấp trung đội, đại đội, tiểu đoàn là những người xuất sắc nhờ có
kiến thức. Những người này được tinh lựa trong hàng ngũ binh sĩ mà
lên;
vị trí chỉ huy của họ do được mọi
người trong đơn vị tin tưởng mà đề cử ra.
Nhưng một điều trớ trêu là họ xuất
sắc nhờ họ có học, nhưng sự có học của họ lại do vì xuất thân là con
nhà tư sản.
Mà theo chỉ đạo của cố vấn La Quý
Ba thì từ nay họ bị loại khỏi địa vị chỉ huy, thay vào đó là những
anh Chí Phèo xuất thân bần cố nông thất học.
Giết hết cấp chỉ huy trí thức, thay bằng
người ngu
Và rồi thảm kịch
bùng nổ khi Mao Trạch Đông cử cố vấn Kiều Hiểu Quang sang VN thực
hiện Cách mạng Cải cách ruộng đất vào năm 1953.
Tướng TQ Vương Nghiên Tuyền ghi
lại :
“…quân đội Việt Nam tiến hành chỉnh huấn
quân sự, chính trị quy mô lớn vào hè thu năm 1953. Trước tiên triển
khai chỉnh quân chính trị gần giống phong trào chỉnh quân kiểu mới
của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, tiến hành giáo dục tố khổ,
nâng cao giác ngộ giai cấp…”
“Hội nghị toàn thể lần thứ 4 Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam thông qua”Dự thảo cương lĩnh và chính sách
ruộng đất” tháng 1-1953.. … tất cả cố vấn Trung Quốc trong quân đội
Việt Nam đều lao vào công tác giúp quân đội Việt Nam” ( Thực hiện
chiến dịch tố khổ ).
“ …. gần 10.000 cán bộ xuất thân từ công
nông được thử thách trong chiến đấu đảm nhiệm các chức vụ quan trọng
hơn…”( Dương Danh Di dịch ).
Gần 10.000 bần
cố nông thất học được đưa lên làm chỉ huy.
Có nghĩa là gần 10.000 sĩ quan chỉ
huy tài giỏi bị thay thế.
Họ bị hạ bằng phương pháp “tố
khổ”, một hình thức giống như đấu tố trong Cải cách ruộng đất.
Kết quả của tố khổ là mấy ngàn sĩ
quan chỉ huy bị giết.
Hồi ký của Hoàng
Tùng : “Thuyết của họ là không
dựa vào tổ chức cũ, mà tổ chức lại một số tổ chức khác của Đảng, họ
phủ nhận hết các tổ chức khác như chính quyền, các đoàn thể.
Ai lãnh đạo cách mạng tháng 8
thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953.
Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong
đó có mấy ngàn người bị xử tử”!
Không thể trách
các cố vấn Trung Cọng, họ đều xuất thân thất học nên suy nghĩ của họ
là suy nghĩ của bần cố nông.
Nhưng tồi bại cho Võ Nguyên Giáp
và Nguyễn Chí Thanh.
Hai ông đều là trí thức tiểu tư
sản, thế mà muối mặt nghe theo lời cố vấn giết oan mấy ngàn sĩ quan
của mình.
Họ không có tội gì hết, chỉ có tội
là yêu nước nhưng có tài nhờ có học !!
(7) CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG MỞ MÀN
Mao Trạch Đông phát động chiến tranh Đông
Dương
Năm 1950, tháng
6, Trung Cọng phái 2 phái đoàn cố vấn sang Việt Nam.
Một đoàn chính trị do La Quý Ba
làm trưởng đoàn, ông này trước kia là bí thư của Mao Trạch Đông, là
người tín cẩn của họ Mao.
Một đoàn tổng cố vấn về quân sự
gồm 79 người do Vi Quốc Thanh cầm đầu, có đầy đủ các chuyên viên
tham mưu về quân sự.
Hồi ký của Hoàng
Tùng :
“Đầu năm 1950, Bác cùng Bộ chính
trị phân tích tình hình, mối quan hệ giữa thế và lực. Lực của ta còn
yếu… Nên ta tính năm 1950 chưa thể tổng phản công được. Vi Quốc
Thanh chuẩn bị, mọi việc nhất nhất xin ý kiến của Mao.
Mùa thu năm 1950, ta đánh chiến
dịch Biên giới Đường số 4…”.
Năm 1950, ngày
28-7, Tướng vố vấn Trần Canh đến Thái Nguyên gặp Hồ Chí Minh và cố
vấn chính trị La Quí Ba.
Trần Canh
cho biết ông ta đã trình kế hoạch
đánh Cao Bằng cho Bắc Kinh và đã được Quân ủy Trung ương Trung Cọng
gởi điện chấp thuận ngày 26-7
( Nhật ký của Đại Tướng TC Trần
Canh ).
Năm 1950, ngày 2-8, tại Quảng Uyên, một thị
trấn sát biên giới Trung Hoa, thuộc tỉnh Cao Bằng, Tướng Hoàng Văn
Thái triệu tập các trung đoàn trưởng trở lên, phổ biến kế hoạch
“tiêu diệt thị xã Cao Bằng”, sau đó cùng với một số cố vấn của Đại
đoàn 308 đi trinh sát thực địa.
Ngày 3-8, Võ
Nguyên Giáp đến Quảng Uyên.
Được Trần Đăng Ninh là Cục trưởng
hậu cần cho biết số người trực tiếp tham gia trận đánh là 30.000,
cần 2.700 tấn gạo và 200 tấn vũ khí đạn dược.
Đồng bào địa phương chỉ cung cấp
được cỡ 100 tấn gạo.
Số còn lại sẽ do Trung Quốc chở từ
tỉnh Quảng Tây sang.
Sau đó Trần Đăng Ninh đi Quảng Tây
( Hồi ký Đường Tời Điện Biên Phủ
của Võ Nguyên Giáp, bản in lần 2, trang 22 ).
Con số 200 tấn vũ khí đạn dược cho một trận
đánh đủ chứng minh trận đánh Cao Bằng là của ai. Và con số 2.700 tấn
gạo cho một trận đánh mà trong đó Trung Quốc phải chi 2.600 tấn cho
thấy mức độ can thiệp của Trung Quốc đối với quân đội của Võ Nguyên
Giáp như thế nào.
Một trận đánh mà quân lính do Trung Quốc
trang bị và tổ chức, vũ khí do Trung Quốc cung cấp, gạo ăn từng ngày
cũng do Trung Quốc cung cấp, ban nghiên cứu kế hoạch đánh cũng là
chuyên gia Trung Quốc, và người tổng chỉ huy cũng là tướng Trung
Quốc. Vậy thì là quân đội của ai ?
Năm 1950, ngày
12-8, phái đoàn cố vấn Trung Quốc gồm có Vi Quốc Thanh, Mai Gia
Sinh, Đặng Nhất Phàn… đến Cao Bằng bàn thảo với đoàn cố vấn của Đại
Đoàn 308 đang giúp Tướng Hoàng Văn Thái soạn thảo kế hoạch đánh Cao
Bằng.
Đoàn cũng trú quân tại Tả Phày Tử
cùng một nơi với sở chỉ huy của Võ Nguyên Giáp ( Hồi ký Võ Nguyên
Giáp ).
Năm 1950, ngày
16-8, Võ Nguyên Giáp họp quân ủy, quyết định bỏ kế hoạch đánh Cao
Bằng và chuyển sang nghiên cứu đánh Đông Khê.
Sau cuộc họp Võ Nguyên Giáp đến
gặp tướng cố vấn Vi Quốc Thanh và trình bày ý định đánh Đông Khê
thay vì đánh Cao Bằng. Vi Quốc Thanh bảo đợi Đại tướng TC Trần Canh
( Hồi ký Võ Nguyên Giáp. Trần Canh
là tướng tư lệnh quân Trung Quốc tại Quảng Tây, tiếp giáp với Cao
Bằng, Ủy viên dự khuyết Trung ương ĐCS Trung Quốc.
Lúc đó Trần Canh đang ở Thái
Nguyên tiếp xúc với Hồ Chí Minh ).
Năm 1950, ngày
8-9, tại Quảng Uyên, Tướng Trần Canh thuyết trình cho Tướng cố vấn
Vi Quốc Thanh và đoàn cố vấn, cùng với Tướng Võ Nguyên Giáp và Tướng
Hoàng Văn Thái của Việt Nam về kế hoạch đánh chiếm Cao Bằng.
Sau đó ông dành 4 tiếng đồng hồ để
thuyết trình cho các vị chỉ huy trận đánh là Đại đoàn trưởng 308,
các Trung đoàn trưởng 36, 88, 102 và 209, 174 ( Nhật ký của Trần
Canh ).
Kế hoạch phòng thủ của Pháp tại Cao Bằng
“Phòng tuyến
Biên thùy Đông Bắc” của quân đội Pháp là một phòng tuyến nằm trên
Quốc lộ 4, mà quốc lộ này chạy song song với đường biên giới Việt
Trung, từ tỉnh Mong Cáy ở bờ biển vịnh Bắc Việt qua tỉnh Lạng Sơn
đến tỉnh Cao Bằng.
Từ Cao Bằng đến Mong Cáy có rất
nhiều cửa ngõ thông sang biên giới Tàu. Vì vậy khi người Pháp tái
chiếm Việt Nam thì họ đã tái chiếm Cao Bằng, Lạng Sơn , Mong Cáy
trước bởi vì ba tỉnh này trù phú nhờ giao thương với Trung Hoa.
Sở dĩ họ rải
quân dọc theo Quốc lộ 4 là để ngăn chận sự dòm ngó của quân Trung
Hoa cũng như ngăn chận các hoạt động qua lại của các lực lượng yêu
nước Việt Nam.
Các hoạt động này nhằm chuyển vận
vũ khí hoặc chạy qua chạy lại mỗi khi bị quân Pháp truy kích.
Khu vực Mong Cáy, Lạng Sơn Cao
Bằng cũng là nơi có nhiều quyền lợi thiết thực của các doanh nhân
người Pháp với các mỏ than, mỏ kim loại và các đồn điền trà, cà phê
đều tập trung dọc theo Quốc lộ 4.
Địa đầu giới
tuyến của “Phòng tuyến Đông Bắc” là tỉnh Cao Bằng.
Có 2 ngã tiếp tế cho tỉnh địa đầu
giới tuyến này, ngã thứ nhất là từ Hà Nội đi theo Quốc lộ 3, qua
tỉnh Vĩnh Phúc Yên rồi tỉnh Thái Nguyên, rồi Bắc Cạn, đến Cao Bằng.
Ngã thứ 2 từ Hải Phòng theo Quốc
lộ 5 qua Quảng Yên, bắt đầu gặp tỉnh Mong Cáy tại Tiên Yên thì
chuyển sang hướng
tây theo Quốc lộ 4, đến Lạng Sơn,
rồi đến Cao Bằng. Từ Mong
Cáy đến lạng Sơn là 197 Km và từ
Lạng Sơn đến Cao Bằng là 136 Km.
Mặc dầu có 2 ngã
tiếp tế cho Cao Bằng,
nhưng trên thực tế các đoàn tiếp
tế chỉ đi theo ngã thứ 2, tức là từ Cảng Tiên Yên thuộc tỉnh Mong
Cáy theo Quốc lộ 4 đi lên bởi vì ngã thứ nhất là Quốc lộ 3 chạy giữa
các rặng núi đá vôi tuy không hiểm trở nhưng rất nhiều đèo dốc.
Suốt một vùng đèo dốc 140 cây số
từ Cao Bằng đến Thái Nguyên đều thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh.
Vì vậy khi quân
Pháp đặt kế hoạch di tản khỏi Cao Bằng thì họ cho 15 Tiểu đoàn tiến
chiếm Thái Nguyên để làm thế nghi binh, giả cách sẽ cho quân Cao
Bằng rút về bằng ngã Quốc lộ 3 với tính toán là quân của Võ Nguyên
Giáp sẽ tập trung vào Quốc lộ 3 mà bỏ lơ Quốc lộ 4.
Tuy nhiên khi các đơn vị nghi binh
lên chiếm Thái Nguyên thì toàn bộ Thái Nguyên bỏ trống, quân của Võ
Nguyên Giáp đã kéo hết lên đánh Cao Bằng, kế hoạch nghi binh với 15
tiểu đoàn vô tác dụng.
Năm 1950, ngày
15-9, quân CSVN gồm 9 tiểu đoàn tấn công 1 tiểu đoàn quân Pháp tại
thị trấn Đông Khê trên Quốc lộ 4, giữa Lạng Sơn và Cao Bằng. Quân
CSVN gồm có Trung đoàn 36 thuộc Đại đoàn 308.
Trung đoàn 209 ( Trước đây là
Trung đoàn Sông Lô, do Lê Trọng Tấn chỉ huy và Trần Độ là Chính ủy
), Trung đoàn 174 (Trước đây là Trung đoàn Cao Bắc Lạng do Đặng Văn
Việt chỉ huy và Chu Huy Mân là Chính ủy), Tiểu đoàn 11 biệt lập và
Tiểu đoàn 426 biệt lập.
Cuộc tấn công do
Thiếu tướng Hoàng Văn Thái chỉ huy và Lê Trọng Tấn làm phó ( Theo
hồi ký của Võ Nguyên Giáp và Lê Trọng Tấn thì quân CSVN khoảng
6.500.
Nhưng theo nhật ký của Tướng Trần
Canh thì quân của Võ Nguyên Giáp là 10,000 người và quân Pháp tại
Đông Khê là 260 người ).
Năm 1950, ngày
18-9, Tướng Tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương là Carpentier nghe tin
Đông Khê bị tấn công thì cùng Tư lệnh tuyến Biên thùy Đông Bắc là
Đại tá Constans bay lên lạng Sơn.
Tại đây ông ra lệnh cho thả một
Tiểu đoàn dù để tái chiếm Đông Khê nhưng địa thế tại đây không có
bãi thả dù cho nên Tiểu đoàn Dù được thả xuống Thất Khê để đợi lệnh.
Sau đó Carpentier quyết định rút
khỏi Cao Bằng và lấy Thất Khê làm địa đầu của phòng tuyến Biên thùy
Đông Bắc, ông ra lệnh cho binh đoàn của Lepage lên Lạng Sơn rồi lên
Thất khê.
Năm 1950, ngày
20-9, Tướng Tư lệnh quân Pháp tại Bắc Kỳ là Alessandri đang nghỉ
phép tại Pháp vội bay về Hà Nội, ông đề nghị tái chiếm Đông Khê
nhưng Tướng Carpentier không chấp thuận và ra lệnh rút tất cả quân
Pháp tại Cao Bằng về Lạng Sơn,
lấy Lạng Sơn làm địa đầu giới
tuyến cho khu biên thùy Đông Bắc.
(8) AI RA LỆNH CHO TƯỚNG GIÁP TRONG
TRẬN ĐÔNG KHÊ ?
Tướng TQ Trần Canh và trận Đông Khê
Từ xưa đến nay
các nhà nghiên cứu quân sử quốc tế đinh ninh rằng chiến tranh Đông
Dương được mở màn bởi trận chiến thắng đầu tiên của Võ Nguyên Giáp
tại Đông Khê vào ngày 16-9-1950.
Nhưng sau khi Trung Quốc cho bạch
hóa các tài liệu quân sự, và sau khi nhật ký của Tướng Trần Canh
được phát hành vào năm 1984 thì mọi người mới hay rằng trận đó do
Đại tướng Trần Canh của Trung Quốc chỉ huy.
Theo như lời kể
lại của Tướng Trần Canh thì trước đó Võ Nguyên Giáp đã lên phương án
đánh vào Thị xã Cao Bằng, nhưng Tướng Trần Canh đã bác phương án này
và đưa ra phương án đánh đồn binh Pháp tại Thị trấn Đông Khê.
Sau đó quân CSVN đã tiến đánh Đông
Khê với quân số 10.000 người, trong khi phía quân Pháp chỉ có 260
người.
Nhưng sách của Tướng Giáp thì cho rằng
quyết định bỏ Cao Bằng đánh Đông Khê không phải là ý kiến của Trần
Canh, Tướng Giáp đã dẫn chứng một buổi họp tham mưu trước trận đánh
mà trong đó có mặt Tướng Chu Huy Mân, Tướng Vương Thừa Vũ, Tướng
Trần Độ, Tướng Nguyễn Hữu An, Tướng Song Hào, Tướng Cao Văn Khánh là
những người hiện còn sống :
“Các đơn vị bắt
đầu phản ánh ý kiến của cán bộ sau khi đi trinh sát về.
Đại đoàn 308 được trao nhiệm vụ
tiến công tiêu diệt pháo đài, nhận thấy công sự của địch quá vững
chắc khó giành thắng lợi.
Trung đoàn 209 phải vượt sông Bằng
ngại khó khăn vì sông sâu, nước chảy xiết và không giải quyết được
hỏa lực bắn chéo sườn của địch.
Trung đoàn 174 đề nghị nên đánh
Đông Khê, chưa nên đánh Cao Bằng… … (trang 32 và 33).
Đoạn
hồi ký này xác nhận chuyện bỏ Cao Bằng, chuyển sang đánh Đông Khê là
do sáng kiến của Trung đoàn trưởng 174.
Mặc dầu Tướng Giáp không nêu tên
của vị Trung đoàn trưởng và không gải thích lý do vì sao mà Trung
đoàn trưởng 174 đề nghị nên bỏ Cao Bằng mà đánh Đông Khê.
Nhưng ngược trở
lại đoạn trước thì thấy Tướng Giáp có ghi:
“Trận đánh Đông Khê của Trung đoàn
174 ngày 25-5-1950 vừa qua, nằm ngoài ý định của bộ Tổng tư lệnh. Bộ
đội ta tiêu diệt Đông Khê đã làm rúng động khu Biên thùy Đông Bắc.
Địch đã rút hầu hết những vị trí
nhỏ về tổ chức thành những cụm cứ điểm…” (trang 20).
Như vậy người ta có thể suy đoán được rằng
ông Trung đoàn trưởng 174 khuyên nên đánh Đông Khê bởi vì ông ta đã
từng đánh Đông Khê và chiến thắng dễ dàng, mặc dầu lần đó Trung đoàn
174 chưa được trang bị vũ khí của Trung Quốc và chưa được Mao Trạch
Đông huấn luyện.
Riêng cái câu
thòng: “nằm ngoài ý định của bộ Tổng tư lệnh” khiến cho người ta đâm
ra khó hiểu cho ý nghĩa của đoạn văn này.
Nhưng phân tích kỹ thì nó có nghĩa
là trận này Tướng Giáp không có ra lệnh, và Trung đoàn 174 cũng
không tham khảo ý kiến của tướng Giáp trước khi đánh.
Nghĩa là Tướng Giáp không có “ăn
ké” gì được trong chiến công này.
Trong khi đó VNG
luôn luôn mong muốn chiến thắng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt
Nam phải được kể là chiến thắng của chính tay ông chỉ huy.
Người ta thấy rõ niềm mong ước của
ông trong đoạn hồi ký : “Đánh Cao Bằng sẽ khó bảo đảm nguyên tắc
“trận đầu phải thắng” của quân đội ta. Và nếu đánh thắng, cũng khó
tránh khỏi tổn thất lớn trong khi ta chỉ tiêu diệt được một bộ phận
nhỏ quân địch : 2 tiểu đoàn” (trang 30).
Người ra lệnh cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp
tại Đông Khê
Khi trận đánh
bắt đầu nổ ra thì Trung đoàn 174 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ : “Giờ
đầu, địch chưa kịp phản ứng trước đòn tấn công bất ngờ.
Ban chỉ huy Đông Khê báo cáo về, ở
hướng Bắc và Đông Bắc, trung đoàn 174 làm nhiệm vụ chủ công đã chiếm
lĩnh đầu cầu. 9 giờ chiếm đồi Yên Ngựa. 10 giờ 30, chiếm tiếp Phìa
Khóa. Địch chưa phản kích.
Nhưng vẫn chưa có báo cáo của
Trung đoàn 209 ở hướng Đông Nam” (trang 47).
Như vậy Trung đoàn trưởng 174 lại
ghi được bàn thắng thứ hai.
Sau đó toàn bộ
kế hoạch tấn công bị khựng lại: “Buổi trưa, anh Thái báo cáo : Một
bộ phận của Trung đoàn 209 hành quân lạc, nên Trung đoàn chưa kịp bố
trí trận địa tiến công.
Đề nghị tạm ngưng trận đánh… Mặc
dầu chuẩn bị kỹ lưỡng, nhưng trận đánh ngay từ đầu đã có sự trục
trặc.
Tôi chấp nhận đề nghị”.
“4 giờ sáng ngày
17, Trung đoàn 174 mới chiếm thêm Cặm Phầy. Ở phía Nam Trung đoàn
209 cũng chỉ chiếm được phía nam Đông Khê, gồm Phủ Thiện, Nhà cũ, và
Trường học thì vấp phải những hỏa điểm ngầm và hỏa lực súng cối bắn
chặn phải dừng lại. Cả
hai mũi đều không phát triển được
nữa.
Đồng chí Trần
Canh nói:
“Không nên để trận đánh kéo dài”.
Bác nhấn mạnh:
“Dù khó khăn thế nào, trận đầu
cũng phải thắng”.
*( Cả hai câu nói của TC và HCM
đều là mệnh lệnh.
Rõ ràng bên trên VNG còn có Trần
Canh và HCM.
Dĩ nhiên HCM chỉ là người cổ võ
chứ không phải là chỉ huy ).
Thế rồi Tổng tư
lệnh Võ Nguyên Giáp giải quyết chiến trường bằng cách gởi đi một
“nghị quyết”(sic) :
“Lệnh cho hai trung đoàn chấn
chỉnh lại bộ đội , rút kinh nghiệm để khắc phục những thiếu sót về
chiến thuật, kỹ thuật, đặc biệt là về quan hệ hợp đồng chiến đấu
giữa các mũi xung kích, giữa bộ binh với pháo binh. Cần dứt điểm
trong đêm 17 tháng 9”(trang 48).
Trong khi các
cánh quân đang cần một cái lệnh điều binh như thế nào:
Cánh nào tạt qua trái, cánh nào
chuyển sang phải, cánh nào tiến lên, cánh nào thối lui, cánh nào trụ
lại, cánh nào thọc hông, cánh nào bọc hậu. Thế nhưng ông Tướng lại
ra lệnh “rút kinh nghiệm” giữa lúc con người ta đang còn đánh nhau
ác liệt trên trận địa.
Rồi tưởng đâu
rút kinh nghiệm chuyện gì, hóa ra lại rút kinh nghiệm về hợp đồng
tác chiến (?). Khả năng hợp đồng tác chiến như thế nào thì phải huấn
luyện cho con người ta nhuần nhuyễn trước khi đưa họ ra trận đánh,
chuyện này đòi hỏi nhiều ngày nhiều tháng và phải diễn tập nhiều
lần.
Còn trong khi đang đánh nhau thì
không thể nào thay đổi khả năng hiệp đồng tác chiến của họ được.
Nhất là trong tình thế có nguy cơ
sẽ bị thua đến nơi.
Vả lại khuyết
điểm trong hiệp đồng tác chiến vào lúc đó là khuyết điểm của ông
Tướng chứ không phải là của các đơn vị tham chiến. Trước khi xuất
quân thì đã giao hẹn với nhau là cả hai cánh quân cùng áp sát, bố
trí quân trước các mục tiêu vào buổi chiều;
và cùng tấn công một lượt trong
buổi tối.
Thế nhưng trung
đoàn 174 đánh từ tối đến sáng thì xong phần vụ của mình, còn 209 thì
đến trưa vẫn còn đi lạc, hai bên không hiệp đồng với nhau nổi. Vậy
thì hoàn toàn lỗi do ông Tướng, ông hiệp đồng làm sao mà ông này còn
đi lạc thì ông kia đã tấn công?
Bởi vậy nếu có rút kinh nghiệm thì
chỉ có ông rút chứ không phải ai khác.
Nhưng cũng may,
giữa lúc tình hình đang lâm vào thế hiểm nghèo đột nhiên có người mở
miệng ra lệnh cho Tướng Giáp:
“Trung đoàn trưởng 174 Đặng Văn
Việt đề nghị Bộ ( VNG ) cho chuyển hướng đột phá của Trung đoàn 209
qua phía Đông pháo đài, bỏ hướng Bắc vì địch tập trung đối phó, và
chỉ thị cho 209 đánh một mũi từ phía Nam lên, một mũi vào sau lưng
pháo đài. Đề nghị của đơn vị chủ công được chấp thuận” (trang 48).
Thay vì nói rằng
“đề nghị của Đặng Văn Việt được chấp thuận” thì ông Tướng chỉ nói
“đề nghị của đơn vị chủ công được chấp thuận”;
nếu người ta chỉ đọc qua thì sẽ
không để ý hoặc không hiểu “đơn vị chủ công” là ai;
trong khi
thực ra đơn vị chủ công là Đặng
Văn Việt.
Ông Tướng né nhắc tới tên của Việt
lần thứ 2, và cũng né nhắc tới Trung đoàn trưởng 174 lần thứ hai vì
ông không muốn người ta ghi nhớ về nhân vật đã ra cái
lệnh điều binh rất thông minh và
rất kịp thời đó.
Ngoài ra ông nói
“Đặng Văn Việt đề nghị Bộ cho chuyển hướng” mà không nói là ĐVV đề
nghị “tôi” cho chuyển hướng.
Ông gian xảo ở chỗ người ta đọc
lướt qua sẽ không để ý “Bộ” là ai, chỉ nghĩ rằng có lẽ là Bộ tham
mưu của VNG.
Rõ ràng Đặng Văn Việt đã ra lệnh
điều binh cho Tướng Giáp ngay giữa lúc trận chiến đang gay go và ông
Tướng đã cấp thời y theo lời của Việt mà điều động các cánh quân để
rồi giành được chiến thắng.
Đáng tiếc là sau
trận đó Đặng Văn Việt ( Biệt danh con hùm xám đường số 4 ) bị VNG
cách chức vì tội bao che cho một thuộc cấp vô kỷ luật.
Sau đó ông bị buộc rời khỏi quân
đội vì xuất thân học trường Tây, thuộc thành phần địa chủ, cha là
Tổng đốc Nghệ An ( Hồi ký của Phó thủ tướng Đoàn Duy Thành ). Nhưng
cũng nhờ vậy mà ông thoát chết trong cuộc thảm sát mấy ngàn sĩ quan
chỉ huy vào năm 1953 ( Hồi ký Hoàng Tùng ).
(9) TRẬN CAO BẰNG, LẠNG SƠN
Pháp hành quân thông đường Đông Khê
Năm 1950, ngày 20-9, sau khi quân CSVN
chiếm thị trấn Đông Khê, tướng Tư lệnh quân Pháp tại Bắc Kỳ là
Alessandri đang nghỉ phép tại Pháp vội bay về Hà Nội, ông đề nghị
tái chiếm Đông Khê nhưng Tướng Carpentier, Tư lệnh quân đội Pháp tại
Đông Dương, không chấp thuận và ra lệnh rút tất cả quân Pháp tại Cao
Bằng về Lạng Sơn, lấy Lạng Sơn làm địa đầu giới tuyến cho khu biên
thùy Đông Bắc
Ngày 1 tháng 10 Đại tá Lepage cho Tiểu đoàn
dù của Pháp bắt đầu xuất trận từ đồi 703 thuộc tỉnh Lạng Sơn, dàn
hàng ngang tiến về phía Đông Khê. Đoàn quân di chuyển gần 10 cây số
vẫn không gặp địch ( Thực ra Trần Canh đã bố trí cho Đại đoàn 308
phục kích chặn viện trên tuyến đường này nhưng Đại đoàn 308 vì chờ 8
ngày không thấy quân tiếp viện nên bỏ trận tuyến đi về các buôn làng
lấy gạo ).
Khi còn cách Đông Khê khoảng 1 cây số thì
Tiểu đoàn Dù chạm địch, hỏa lực của quân CSVN quá mạnh nên quân Dù
không thể nào tiến lên nổi. Trong khi đó thì đoàn quân phía sau cũng
bị tấn công, ngay loạt đạn đầu Tiểu đoàn 1/8 RMT đã bị tiêu diệt nửa
đại đội ( Đây là toán quân của Đại đoàn 308 CSVN đi lấy gạo nghe tin
địch đến vội chạy về tấn công đoạn hậu, vô tình các sĩ quan Pháp
tưởng bị rơi vào ổ phục kích cả đầu lẫn đuôi ).
Qua ngày 2-10 Tiểu đoàn nhảy dù cố tấn công
tiến chiếm Đông Khê nhưng không thể nào tiến nổi, trong khi đó 2
tiểu đoàn bộ binh còn lại cũng bị tấn công vào đêm 2-10. Qua tới
ngày 3-10 thì các súng đại bác của Binh đoàn Lepage đã bắn hết đạn,
Le Page cho lệnh phá hủy súng. Chi đội thiết giáp gồm 6 xe bọc sắt
có bánh bằng cao su đã bị hủy diệt do quân phục kích bắn bể các bánh
xe.
Quân Pháp rút khỏi Cao Bằng
Trong khi binh đoàn của Lepage đang kẹt tại
Đông Khê thì tại Cao Bằng Trung tá Charton vẫn cứ theo kế hoạch hành
quân mà tiến hành, rạng sáng ngày 3-10 Charton cho lệnh phá hủy tất
cả các vật liệu quân sự còn lại tại Cao Bằng và dẫn 3 tiểu đoàn bộ
binh cùng với quân lính của 15 pháo đài chung quanh Cao Bằng tiến
theo Quốc lộ 4 đi về hướng Đông Khê.
Tuy nhiên khi tới điểm hẹn là cây số 22 vào
chiều ngày 3-10 thì ông được tin quân của Lepage không thể nào chiếm
lại được Đông Khê. Charton lâm vào thế cởi trên lưng cọp vì không
thể nào rút lui về Cao Bằng để cố thủ vì quân Việt Minh đã chiếm Cao
Bằng sau khi Cao Bằng bị bỏ ngỏ.
Ông cũng không thể ngồi lại chờ Lepage giải
tỏa Đông Khê vì không biết đến bao giờ, trong khi quân của ông không
có đủ lương thực để hành quân lâu dài, lại còn phải nuôi ăn và bảo
vệ đoàn thường dân di tản. Ông cũng không thể nào tiếp tục đi tới vì
từ cây số 22 trở đi thì hai bên là vách núi đá vôi dựng đứng, chắc
chắn là quân Việt Minh đã nằm sẳn trên các vách núi đá đó rồi, chỉ
cần họ lăn đá xuống thì quân của ông cũng đủ tan rã chứ đừng nói tới
chuyện đánh nhau.
Vì vậy ông quyết định cắt rừng phía tây
Quốc lộ 4, từ cây số 22 ông băng rừng theo hướng chính Nam thì sẽ
gặp lại Quốc lộ 4 tại đồi 703, không qua Đông Khê. Sáng ngày 4-10
Charton cho lệnh phá hủy 6 chiếc xe thiết giáp (xe bọc sắt, bánh xe
có vỏ ruột bằng cao su nên không có khả năng băng rừng), binh sĩ
mang theo nửa cấp số đạn và 1 ngày lương thực, còn bao nhiêu lương
thực và quân xa đều phá hủy rồi dẫn quân băng rừng.
Đồng thời ông cũng báo cho Lepage biết lộ
trình của ông. Được tin, Lepage bỏ cuộc tấn công vào Đông Khê, di
chuyển toàn binh đoàn tạt về hướng Tây để bắt tay với đoàn quân của
Charton từ hướng Bắc xuống.
Hai binh đoàn bị lạc vào mê hồn trận
Tuy nhiên cả hai vị Đại tá đều không ngờ là
quân Pháp đi trong rừng núi đá vôi thì chẳng khác nào lạc vào mê hồn
trận. Hằng trăm, hằng ngàn đồi núi đá vôi ngổn ngang chẳng biết
đường hướng nào mà tiến. Quân của Lepage tạt qua hướng Tây thì bị
lạc trong khu vực Cốc xá. Quân của Charton đâm thẳng xuống Nam thì
bị lạc trong khu vực Lan Hai. Cả hai khu vực cách nhau chưa đầy 10
cây số nhưng quân hai bên không gặp nhau bởi vì cả hai đều bị lạc.
Trong khi đó quân Việt Minh không để cho
các sĩ quan Pháp thoải mái tìm nhau. Chỉ cần trong một đêm là sáng
hôm sau họ có mặt trên các đỉnh đồi núi mà quân Pháp đang tìm lối
ra. Trong các ngày 5, 6 và 7 quân Pháp đã trở thành mục tiêu sống
cho các xạ thủ súng cối, sơn pháo và xạ thủ súng trường của quân
Việt Minh.
Đêm 7-10 cả hai vị chỉ huy đều cho lệnh tản
hàng, mạnh ai nấy thoát thân. Nhưng quân lính Pháp không còn đủ sức
để tự thoát thân vì họ không còn lương thực và không tìm được lối ra
.
Năm 1950, ngày 11-10, Sau khi quân Pháp tại
Cao Bằng bị đánh tan thì tướng tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương là
Carpentier cho lệnh rút khỏi đồn Thất Khê là tiền đồn của tỉnh Lạng
Sơn. Đồng thời cũng cho rút 15 tiểu đoàn tại Thái Nguyên, trước đây
các tiểu đoàn này chiếm Thái Nguyên để làm nghi binh cho quân Cao
Bằng rút lui.
Quân Pháp rút khỏi Lạng Sơn
Năm 1950, ngày 18-10, có tin Tướng Bành Đức
Hoài cho quân Trung Quốc áp sát biên giới Lạng Sơn, quân Pháp bỏ
tỉnh Lạng Sơn mà chạy, bỏ lại 1.300 tấn đạn, quân dụng và tiếp liệu
không kịp tiêu hủy.
Việc rút khỏi Lạng Sơn hoàn toàn không nằm
trong tưởng tượng của Trần Canh và Võ Nguyên Giáp: “4 giờ sáng ngày
18-10, địch bắt đầu rút quân khỏi Lạng Sơn. Điều này nằm ngoài dự
kiến của chúng ta” (Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, in lần
2, trang 82). Do đó cuộc di tản khỏi Lạng Sơn tiến hành êm xuôi mà
không có một tiếng súng nào. Trong khi đó quân Việt Minh rút về khu
an toàn để ăn mừng chiến thắng và dưỡng quân chờ đánh trận khác.
Năm 1950, ngày 25-11, tại Đại Hàn, Tướng
Lâm Bưu của Trung Quốc xua 300 ngàn quân qua Bắc Hàn tấn công Sư
đoàn 24 và Sư đoàn 25 của Hoa Kỳ. Trong vòng 24 tiếng đồng hồ, quân
Mỹ có 12.975 người chết, bị thương và bị bắt; cả thế giới rúng động.
Lại có tin quân Trung Quốc sẽ tràn sang Việt Nam. Giới dân sự Pháp
tại Hà Nội chuẩn bị di tản. Tướng Carpentier xin lệnh Paris cho rút
khỏi Mong Cáy, Hòn Gay và di tản Pháp kiều tại Hà Nội.
Năm 1950, cuối tháng 11, Chính phủ Pháp
đang hoang mang với đề nghị rút quân khỏi Mong Cáy và di tản Pháp
kiều của Carpentier thì tin tình báo Hà Nội cho biết sau khi Lạng
Sơn bỏ ngỏ thì Việt Minh cũng chẳng cần tiến chiếm, họ giao cho một
số du kích địa phương tổ chức lại chính quyền Lạng Sơn.
Tin này khiến cho Paris nổi giận đuổi cổ
Tướng Carpentier và đuổi luôn ông Cao ủy Pignon. Rồi thay một ông
Cao Ủy khác bằng một ông tướng 4 sao, ông này chỉ huy luôn quân sự
lẫn dân sự. Đó là Tướng Jean De Lattre de Tassigny.
Sai lầm của Tướng Giáp
Sau này có rất nhiều nhà nghiên cứu quân sự
đặt một giả định rằng nếu sau khi Pháp rút lui khỏi Lạng Sơn mà Võ
Nguyên Giáp cho tiến quân xuống Lạng Sơn và Uy hiếp Tiên Yên, Mong
Cáy thì chắc chắn quân Pháp sẽ bỏ ngỏ Mông Cáy rút về Hải Phòng.
Hồi ký của Võ Nguyên Giáp cho biết ông có
nghĩ tới chuyện đó : “Trước đà đổ vỡ của toàn bộ Khu Biên thùy và
tình hình hoảng loạn của quân địch, tôi định ra lệnh cho bộ đội tiếp
tục truy kích tới Tiên Yên. Nhưng đồng chí Trần Canh góp ý kiến là
không nên. Vì Tiên Yên ở xa, chiến dịch đã thành công lớn, ta cần
một chiến thắng trọn vẹn. Trần Canh đã chỉ huy nhiều trận đánh lớn
nên có kinh nghiệm về vấn đề này”.
Khi viết lại hồi ký, Tướng Võ Nguyên Giáp
đã có ý thanh minh cho mình và đổ lỗi cho Tướng Trần Canh, cho rằng
Trần Canh không thừa thắng xông lên vì do ông ta có nhiều kinh
nghiệm trận mạc, sợ say men chiến thắng dễ tạo ra sơ xuất. Nhưng nếu
vì lý do đó thì chứng tỏ Trần Canh đâu có kinh nghiệm trận mạc? Nếu
là người có kinh nghiệm thì sẽ thừa thắng đánh rấn, chắc chắn làm
nên nhiều chiến thắng hơn nữa.
Cho tới 50 năm sau Tướng Giáp vẫn chưa hiểu
được tướng Trần Canh. Với kinh nghiệm làm tướng hơn 50 năm Tướng
Giáp phải thử đứng về phía Trần Canh để thấy rằng trước mắt cần phải
có khoảng 2.000 tấn gạo nữa cho đội quân 30 tiểu đoàn, chưa kể đạn
dược tiêu thụ. Trần Canh không thể ngay tức thời huy động cho đủ số
gạo đó và cho kịp với đà tiến quân, hơn nữa tỉnh Quảng Tây của Trung
Quốc đang bị mất mùa mà lại phải cung cấp 2.500 tấn gạo cho trận
đánh Cao Bằng vừa rồi.
Do đó Trần Canh phải hỏi ý kiến của Bắc
Kinh và Bắc Kinh đã có trả lời cho ông ta trước khi Võ Nguyên Giáp
nêu ý kiến. Không biết câu trả lời của Bắc Kinh như thế nào nhưng
ngay sau đó Tướng Trần Canh gấp rút quay về Trung Quốc để dẫn quân
đi đánh Đại Hàn. Chứng tỏ Mao trạch Đông dồn tất cả gạo và đạn dược
cho đội quân 56 sư đoàn đang tiến về Đại Hàn.
*[ Những con số trên đây là do Võ Nguyên
Giáp lấy trong nhật ký của tướng Trần Canh. Tướng Trần Canh qua đời
năm 1961 nhưng gia đình còn lưu lại quyển nhật ký của ông . Năm 1984
chính quyền Trung Cọng cho phổ biến Nhật ký của Trần Canh nhằm lật
mặt thật của cuộc kháng chiến chống Pháp của CSVN ]
(10) TRẬN VĨNH YÊN
Võ Nguyên Giáp thua trận Vĩnh Yên
Năm 1950, ngày
25-11, Bộ trưởng Le Tourneau thông báo cho Đại tướng Jean Delatte de
Tassigny về việc chính phủ Pháp đề cử ông làm Tổng tư lệnh quân Pháp
tại Đông Dương.
De Lattre không từ chối nhưng chỉ
nhận lời với điều kiện sẽ không có ai chỉ huy ông ta tại Đông Dương,
có nghĩa là ông sẽ vừa làm Tư Lệnh quân đội vừa làm Cao Ủy (chức
Toàn quyền cũ, sau này đổi thành chức Đại sứ).
Ngày 26-12 Tổng thống Pháp bổ
nhiệm De Lattre làm Cao Ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân Pháp tại Đông
Dương .
Năm 1950, ngày 18-12, tại Hà Nội, Tướng Tư
lệnh quân Pháp tại Bắc Kỳ là De Latour cho lệnh rút quân khỏi Đình
Lập và Bình Liêu là hai tiền đồn phòng thủ phía tây bắc Mong Cáy
trên Quốc lộ 4 vì quân của Võ Nguyên Giáp đã áp sát xung quanh các
vị trí này.
Năm 1950, ngày 28-12, sau khi chiếm Đình
Lập và Bình Liêu, quân CSVN áp sát thị trấn Tiên Yên với 7 tiểu
đoàn. Tướng chỉ huy quân Pháp tại Bắc Kỳ là De Latour xin lệnh rút
quân khỏi Mong Cáy và Tiên Yên để bảo toàn lực lượng, đem quân về
phòng thủ Hòn Gay. Nhận được báo cáo của De Latour, Tướng Delattre
liền cách chức De Latour, thay bằng Tướng Salan và ra lệnh cố thủ
Tiên Yên, Mong Cáy (!).
Năm 1950, ngày 31-12, đích thân Delattre
đáp xuống Tiên Yên đang ở giữa vòng vây của quân CSVN và tại đây ông
chỉ thị ngưng lệnh di tản dân chúng, đồng thời ra lệnh quân Mong Cáy
thay vì rút chạy khỏi Mong Cáy thì phải tiến xuống Tiên Yên tấn công
quân CSVN.
Ngày 1-1-1951
Đại tá Beaufre chỉ huy 9 tiểu đoàn bộ binh và 3 đội xung kích Hải
quân tấn công quân CSVN tại Tiên Yên từ phía Mong Cáy và từ phía
biển.
Quân CSVN nhanh chóng rút lui.
De Lattre giải đoán đây chỉ là
cánh nghi binh, vì vậy ông nhanh chóng cho lệnh rút quân về khu vực
xung quanh Hà Nội vào ngày 3-1!
Năm 1951, ngày
10-1, đúng như Delattre dự đoán, tin tình báo cho biết Việt Minh sắp
tấn công.
Đại đoàn 308 xuất hiện tại sườn
phía Nam núi Tam Đảo, đối diện với thị Trấn Vĩnh Yên, cách thị trấn
khoảng 10 cây số, cách Hà Nội 60 cây số về hướng Bắc.
Đại đoàn 312 mới thành lập cũng
xuất hiện cách Vĩnh Yên 15 cây số về hướng Tây Bắc.
Trung Đoàn biệt lập174 và Trung
đoàn biệt lập 98 đang tiến về Đông Triều. Trung đoàn biệt lập 48
xuất hiện ở Ba Vì là phía Tây của Vĩnh Yên.
Nếu nối một đường rải quân của
CSVN từ Ba Vì đến Đông Triều thì được một đường dài 120 cây số.
Năm 1951, ngày
12-1, Báo chí Hà Nội loan tin từ 30 đến 40 tiểu đoàn Việt Minh mở
mặt trận dài 120 cây số cùng tiến về Hà Nội.
Paris xúc động mạnh!
Năm 1951, đêm
13, rạng ngày 14-1, lúc 1 giờ 30, Trung đoàn 141 thuộc Đại đoàn 312
tấn công đồn Bảo Chúc, cách Vĩnh Yên 15 cây số về hướng Bắc, trên
Tỉnh lộ 203 nối liền Bảo Chúc với Vĩnh Yên.
Trong khi đó Trung đoàn 209 của
Đại đoàn 312, Trung đoàn 36 và Trung Đoàn 88 thuộc Đại đoàn 308 phục
kích trên Tỉnh lộ 203 để chờ đoàn quân cứu viện từ Vĩnh Yên lên,
Trung đoàn 102 của Đại đoàn 308 làm trừ bị.
Diễn tiến trận đánh
Mờ sáng ngày 14
Trung tá Vanuxem dẫn Liên đoàn số 3 từ Vĩnh Yên đi tiếp viện đồn Bảo
Chúc.
Đến 8 giờ sáng thì tiểu đoàn đầu
tiên lọt ổ phục kích của Trung đoàn 36 tại Cẩm Trạch.
Trong lúc đó thì tiểu đoàn thứ hai
của Vanuxem mới đến làng Đào Từ là ngay ổ phục kích của Trung đoàn
88.
Lẽ ra Trung đoàn
88 có nhiệm vụ chặn hậu tức là đánh tiểu đoàn thứ 3 của Vanuxem
nhưng vì tiểu đoàn thứ 3, là tiểu đoàn người Thái, phải đi bộ nên
còn ở phía sau;
Trung đoàn 88 thấy hết đoàn xe đi
qua thì chận đánh nên trúng ngay tiểu đoàn thứ 2.
Trưa ngày 14
Delattre từ Sài Gòn đáp xuống Hà Nội thì hay tin quân Việt Minh tấn
công đồn Bảo Chúc.
Lúc 4 giờ chiều ông đang trả lời
báo chí thì nhận được điện báo tình hình thua trận của quân Vanuxem
và sự tiến chiếm các ngọn đồi phía bắc Vĩnh Yên của Đại đoàn 308.
Ông vội vàng chấm dứt họp báo để
đích thân điều động lực lượng chống trả.
Ông ra lệnh cho
Tướng Salan và đại Tá Redon bay lên Vĩnh Yên ngay chiều hôm đó, 1
giờ sau hai ông đáp xuống Vĩnh Yên.
Delattre chiếm lấy bộ chỉ huy của
Salan và làm việc với các sĩ quan tham mưu đến 3 giờ khuya.
Ông ra lệnh trong đêm 14-1 quân
của Vanuxem vừa mới thua trận ban chiều phải kéo lên phía bắc Vĩnh
Yên lập phòng tuyến trên Quốc lộ 2 để đối mặt với Đại đoàn 312 đang
bố trí tại các ngọn đồi 210 (có tên địa phương là Núi Đanh), đồi 101
và đồi 63 nằm về phía bắc Quốc lộ 2.
Đồng thời điều
động Liên đoàn số 1 của Trung tá Edon từ Hương Canh theo Quốc lộ 2
tiến về Vĩnh Yên.
Trong khi đó Liên đoàn số 2 của
Trung tá De Castries đang trấn giữ tại Lục Nam tạm bỏ trống Lục Nam
để kéo quân qua Phúc Yên rồi lên Vĩnh Yên.
Một liên đoàn khác do Đại tá
Beaufri chỉ huy phòng thủ khoảng giữa Hà Nội và Phúc Yên để đề phòng
trường hợp Vĩnh Yên chỉ là nghi binh mà Hà Nội mới là mục tiêu
chính.
Riêng Đại tá Redon là Tư lệnh phó Bắc Kỳ
đêm hôm đó phải nằm tại Tiểu khu Vĩnh Yên với toán quân phòng thủ,
sau này ông kể lại: “Nếu tối nay Việt Minh tấn công, không biết quân
sĩ sẽ phản ứng như thế nào vì trông họ mệt mỏi, bồn bả, đờ đẫn”.
Mờ sáng ngày 15, toán quân tiền thám của
Liên Đoàn 1 di chuyển từ Hương Canh sang Vĩnh Yên đã phát hiện Trung
đoàn 88 của Đại đoàn 308 CSVN đang mai phục chận viện tại khoảng
giữa Hương Canh và Vĩnh Yên.
Trung tá Edon ra
lệnh bỏ quốc lộ, chia 2 cánh đánh thọc hông Trung Đoàn 88 trong khi
phi cơ trút bom lửa xuống vị trí phục kích của Trung đoàn 88.
Trong ngày phi cơ đã thực hiện 320
phi vụ bom lửa để thông đường Quốc lộ 2 .
Lợi dụng lúc
Trung đoàn 88 CSVN đang đối phó với phi cơ và 2 cánh quân thọc hông
của Edon, một đoàn quân xa có thiết giáp hộ tống từ Hương Canh đã
chạy xuyên qua trận địa, chở được 2.500 quả đạn đại bác cho Vĩnh Yên
và quay trở lại trong ngày mà chỉ bị thiệt hại 2 xe.
Quân của Trung đoàn 88 bị thiệt
hại nặng phải rút về hướng bắc để nhập với Đại đoàn 308 CSVN, trong
khi quân của Edon cũng đến được Vĩnh Yên, phối hợp với Liên Đoàn của
Vanuxem lập một phòng tuyến tại mặt bắc của Thị trấn Vĩnh Yên.
Đến 4 giờ 30
chiều thì máy bay của De Lattre đáp xuống Vĩnh Yên, ông nói đùa với
Đại tá Redon:
“Sao Redon? Ba cái vụ lẻ tẻ này
chưa chấm dứt à?”. Redon đâm bực vì 2 đại đoàn với 18 tiểu đoàn
thiện chiến nhất của Việt Minh thì đâu phải là ba cái lẻ tẻ.
Redon báo cáo với Delattre mục
tiêu của Võ Nguyên Giáp mà quân Pháp thu thập được qua lời khai của
tù binh: Việt Minh sẽ chiếm thung lũng dọc sông Hồng và sẽ tiến tới
Hà Nội nếu Pháp thua ở đây.
Theo lời kể lại
của Redon thì lúc đó Delattre mới hiểu được tầm quan trọng của vấn
đề, “ba cái lẻ tẻ” chỉ là mới bắt đầu.
Ông hỏi Redon cần gì và sợ cái gì?
Redon đáp ông cần 6 tiểu đoàn trừ
bị với trọng pháo.
Delattre nói ngay:
“Ông sẽ có tất cả” rồi trở về Hà
Nội.
Đêm đó Delattre thông báo cho
Redon là ngày mai ông sẽ nhận được 12 Tiểu đoàn và 3 đại đội Pháo
binh.
Tối 15 rạng ngày
16, quân Việt Minh rút về bố trí dọc theo hai bên Tỉnh lộ 202, trên
đường dẫn lên
khu nghĩ mát Tam Đảo.
Tuy nhiên trong ngày quân Pháp
không tiến theo Tỉnh lộ 202 mà để việc dọn sạch hai bên đường cho
không quân, còn bộ binh tiến chiếm các ngọn đồi phía đông Tỉnh lộ
202.
Một tiểu đoàn nhảy dù chiếm lại
ngọn 210. Chiều ngày 16 Delattre lại đáp xuống Vĩnh Yên một lần nữa.
Đêm 16-1, quân
Việt Minh tấn công các ngọn đồi vào lúc 9 giờ tối, đến 2 giờ sáng
thì Trung đoàn 36 của Đại đoàn 308 chiếm được đồi 101 nhưng cũng bị
thiệt hại nặng nề.
Trong khi đó Trung đoàn 209 của
Đại đoàn 312 mở nhiều đợt xung phong lên đồi 210 do tiểu đoàn Nhảy
dù trấn giữ.
Đến 5 giờ sáng tiểu đoàn Nhảy dù
gần hết đạn, Redon tính cho lệnh rút xuống phía Nam thì quân Việt
Minh đột ngột giản vòng vây vì quân của Vanuxem kéo tới đánh tập hậu
để giải vây cho đồi 210.
Quân Việt Minh quay lại chống trả
mãnh liệt, một tiểu đoàn của Vanuxem bị tiêu diệt gần hết.
Trời sáng hẳn thì phi cơ can
thiệp, quân Việt Minh rút đi, trận chiến chấm dứt vào giữa trưa.
Kết quả ban đầu
là khoảng 1.500 quân Việt Minh bị chết, 450 bị bắt và khoảng 3.000
bị thương.
Phía Pháp 50 tử trận, 450 mất tích
và 200 bị thương. Theo báo cáo của tướng TC Vi Quốc Thanh gởi về Bắc
Kinh thì con số thương vong của phía CSVN ít nhất là 6.000 người
(Hs/VKTQ, Quang Zhai sưu tầm).
11) TRẬN VĨNH YÊN, HỒ CHÍ MINH BIẾN THUA
THÀNH THẮNG
Không biết gì về binh pháp
Mờ sáng ngày 14
Trung tá Vanuxem dẫn Liên đoàn số 3 Pháp ( 2.000 người ) từ Vĩnh Yên
đi tiếp viện đồn Bảo Chúc.
Đến 8 giờ sáng thì tiểu đoàn đầu
tiên lọt ổ phục kích của Trung đoàn 36 CSVN tại Cẩm Trạch ( 2.500
người ).
Trong lúc đó thì tiểu đoàn thứ hai
( 600 người ) của Vanuxem mới đến làng Đào Từ là ngay ổ phục kích
của Trung đoàn 88 CSVN.
Lẽ ra Trung đoàn
88 CSVN có nhiệm vụ chặn hậu tức là đánh tiểu đoàn thứ 3 của Vanuxem
nhưng vì tiểu đoàn thứ 3, là tiểu đoàn người Thái, phải đi bộ nên
còn ở phía sau;
Trung đoàn 88 thấy hết đoàn xe đi
qua thì chận đánh nên trúng ngay tiểu đoàn thứ 2.
Nếu tiểu đoàn
thứ ba, đi sau cùng, của Vanuxem là một Tiểu đoàn Dù của Pháp thì
may ra sự thể biến đổi;
nhưng gặp tiểu đoàn người Thái thì
họ chẳng dại gì ập vào chỗ đánh nhau cho nên họ dừng lại nghe ngóng
tình hình.
Quả nhiên tình
hình biến chuyển không thuận lợi cho hai tiểu đoàn bị phục kích,
thấy vậy tiểu đoàn người Thái trụ lại tại chỗ để chờ đón đoàn quân
rút lui của 2 tiểu đoàn kia.
Đến 1 giờ trưa đồn Bảo Chúc bị
tràn ngập. Gần tối Liên đoàn số 3 trở về Vĩnh Yên chỉ còn 1 tiểu
đoàn Thái và đơn vị pháo binh là còn nguyên vẹn, 2 tiểu đoàn kia chỉ
còn lại 500 người bơ phờ mệt mỏi.
Trong khi đó thì Đại đoàn 308 cũng thu quân
về chứ không nhân dịp đó mà đánh tràn xuống. Sau này trong buổi họp
kiểm thảo trận đánh, Võ Nguyên Giáp đã trách Tư lệnh Đại đoàn 308
Vương Thừa Vũ là quá nhát.
Nhưng theo kỹ
thuật quân sự thì ông tư lệnh Đại đoàn 308 đã làm đúng.
Nhiệm vụ giao cho ông ta là chặn
đánh đoàn quân tiếp viện và ông ta đã hoàn thành sứ mạng đó một cách
tốt đẹp.
Nếu ông ta thừa thắng xông lên mà
đuổi quân của Vanuyxem tới Vĩnh Yên thì là đã đi ra ngoài nhiệm vụ
và quyền hạn của ông ta.
Lúc họp bàn hành quân Võ Nguyên
Giáp chỉ giao cho Vương Thừa Vũ chừng đó nhiệm vụ thì ông ta chỉ
biết thi hành chừng đó.
Lỗi lầm của VNG là không cho một
lệnh dự trù trong trường hợp quân tiếp viện chạy dài thì phải làm
thế nào .
Ngoài ra binh
thư cũng không cho phép đại đoàn 308 một mình đuổi rấn Vanuxem được,
bởi vì theo kế hoạch thì quân của Việt Minh chưa khống chế được phía
đông của Tỉnh lộ 203.
Do đó có thể trong khi 308 đang
tiến quân đuổi theo hướng từ Bắc xuống Nam thì một cánh quân khác
của Pháp trong vùng phía Đông, tức là trên Quốc lộ số 2 đánh thọc
ngang hông thì đoàn quân đang rượt đuổi của Đại đoàn 308 CSVN chắc
chắn sẽ bị đánh tan.
Trường hợp này
các binh thư Âu cũng như Á đều có ghi vì đó là chiến thuật “xoay
trục” lừng danh của quân Mông Cổ.
Trong thực tế thì lúc đó không có
cánh quân nào của Pháp được bố trí tại mặt đông của Tỉnh lộ 203
nhưng lại có Tiểu đoàn Thái của Vanuxem vì đi bộ mà trụ lại ngay tại
mặt đông của Tỉnh lộ, nếu Trung đoàn 36 của CSVN đuổi tràn xuống
hướng Nam thì sẽ bị ngay Tiểu đoàn Thái đánh thọc hông, lúc đó Trung
đoàn 36 chắc chắn phải thua.
Trong trận này
thì Bộ chỉ huy của Võ Nguyên Giáp nằm trong một hang núi ở Tam Đảo,
thuộc phía đông của Tỉnh lộ 203, được bảo vệ bởi Trung đoàn trừ bị
102 thuộc Đại đoàn 308. Thời đó quân đội của Võ Nguyên Giáp chưa sử
dụng vô tuyến âm thoại (Radio) cho nên nếu Võ Nguyên Giáp theo dõi
trận chiến trên vô tuyến âm thoại và ra chỉ thị đuổi đánh Vanuxem
ngay lúc đó;
đồng thời chỉ thị Trung đoàn 102
từ rặng núi Tam Đảo theo Tỉnh lộ 202 tiến về hướng Nam, song song
với trục tiến quân truy đuổi của 308 về Vĩnh Yên;
như vậy Trung đoàn 102 sẽ gặp và
tấn công ngang hông Tiểu đoàn Thái của Vanuxem đang bố trí tại phía
đông Tỉnh lộ 203.
Lúc đó chắc chắn quân CSVN sẽ
chiếm được Vĩnh Yên vào chiều tối ngày 14-1.
Bỏ lỡ cơ hội bằng vàng
Sau này hồi ức
của Đại tá Redon cho thấy Võ Nguyên Giáp đã bỏ lỡ cơ hội bằng vàng
khi không cho tấn công luôn thị xã Vĩnh Yên vào đêm 14-1-1954 :
“Nếu tối nay Việt Minh tấn công,
không biết quân sĩ sẽ phản ứng như thế nào vì trông họ mệt mỏi, bồn
bả, đờ đẫn”.
Lúc đó quân Pháp chỉ có 1 tiểu
đoàn nguyên vẹn nhưng là một tiểu đoàn thân binh người Thái, không
có tinh thần chiến đấu. Và 500 lính viễn chinh
thuộc hai tiểu đoàn bộ binh mới bị
đánh tan tác vào buổi sáng.( Mỗi tiểu đoàn khoảng 600 người )
Trong khi đó Tướng Giáp có nguyên 2 đại
đoàn ( Trên 20 ngàn người ), lại vừa chiến thắng tưng bừng, nhưng
không biết lợi dụng tình thế để tiến chiếm luôn Vĩnh Yên.
Hồi ký của Tướng
Giáp giải thích :
“Nửa đêm tôi gọi điện cho anh Lê
Trọng Tấn, rồi anh Vương Thừa Vũ, hỏi có thể điều ngay một trung
đoàn vào tập kích Vĩnh Yên? Nhưng cả hai đại đoàn đều không nắm được
các đơn vị đang vận động, xin cho đánh vào
đêm 15” ( Đường tới Điện Biên Phủ,
in lần 2, trang 148 ).
Lời giải thích
này vô tình chứng tỏ Võ Nguyên Giáp không phải là một ông tướng.
Ông ta là người chỉ huy trận đánh,
mọi dữ kiện, mọi tin tức từ ban tham mưu luôn luôn được trình cho
ông từng giờ từng phút.
Nếu ông biết rõ tình hình bố trí
của quân Pháp tại thị xã Vĩnh Yên vào lúc đó ra sao thì ông chỉ cần
ban lệnh cho hai ông kia đem bao nhiêu quân đánh vào mặt nào của
điểm nào.
Đằng này ông hỏi “có thể điều ngay
một trung đoàn?” ( 2.500 người ).
Câu này không phải là một lệnh
điều quân, mà chỉ là thả một câu thăm dò được chăng hay chớ.
Người ngoài quân
đội không thể hiểu được giá trị của một mệnh lệnh trong quân đội
nghiêm trọng như thế nào, nhưng những ai từng cầm quân sẽ thấy mệnh
lệnh này của Tướng Giáp giống như câu ra lệnh của một bác nông dân:
“Thằng Ba thằng Tư đâu?
Đứa nào đó chạy ra ngoài ngõ coi
má bây về chưa?”.
Đây cũng là một
mệnh lệnh, nhưng là một lệnh được chăng hay chớ, thằng Ba đi cũng
được, thằng Tư đi cũng phải, mà cả hai thằng không đi cũng không
sao;
bởi vì chuyện coi bà mẹ về chưa
cũng không có gì quan trọng.
Mệnh lệnh của
Tướng Giáp trong trường hợp này cũng giống như vậy, tức là ông Tấn
đi cũng được hay ông Vũ đi cũng được, rồi cả hai ông không đi thì
cũng không sao.
Một Đại tướng Tổng tư lệnh Quân
đội đã ra một cái lệnh bâng quơ như vậy đúng ngay vào lúc có thể
quyết định thắng bại của chiến trường (sic).
Qua trận Vĩnh
Yên, Võ Nguyên Giáp đã nhận được bài học đắt giá vì đánh giá sai lầm
khả năng tác chiến của quân Việt Minh giữa vùng đồng bằng trống
trải, là trận địa hoàn toàn xa lạ đối với họ.
Ông càng sai lầm hơn nữa khi sử
dụng chiến thuật biển người trong khi Không quân của Pháp làm chủ
chiến trường.
Biển người mà gặp bom Napalm thì
thành biển lửa.
50 năm sau Tướng
Giáp viết hồi ký và đưa ra những lý do khiến ông thất bại trong trận
Vĩnh Yên :
“Chúng ta thiếu nhiều vũ khí cần
cho đánh vận động.
Ta không đủ vũ khí nặng để chế áp
những trận địa pháo của địch.
Ta hoàn toàn không có vũ khí phòng
không.
Do đó, những mũi tiến công và đội
hình xung phong của ta trở thành mục tiêu của máy bay cường kích và
những khẩu pháo được điều chỉnh bởi máy bay “Bà Già…” ( ĐườngTới
Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 155 ).
Bất cứ một người
chỉ huy quân sự nào cũng phải biết so sánh sự lợi hại của từng loại
vũ khí lớn nhỏ chứ đừng nói là so sánh giữa súng trường với đại bác,
xe tăng và máy bay.
Thế mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp
không biết những điều căn bản đó.
50 năm sau ông vẫn nêu lên như đây
là những yếu tố khách quan không ngờ;
có nghĩa là “ta thua bởi vì địch
có đại bác và có máy bay” (?!).
Không có vũ khí chống pháo, chống
máy bay mà ông lại dám xua 2 sư đoàn đánh trận địa chiến?
Phải chăng là “điếc không sợ súng”
!?
Thủ đoạn biến thua thành thắng
Ngày 29-1-1951,
sau khi nhận được báo cáo của Vi Quốc Thanh về thất bại của Võ
Nguyên Giáp, Mao Trạch Đông khuyến cáo Vi Quốc Thanh nên kiên nhẫn
và đừng làm mích lòng người Việt:
“Những khuyết điểm của họ hiện
thời cũng là những khuyết điểm của quân đội Trung Quốc hồi còn trẻ.
Chẳng có gì lạ về điều đó. Chỉ bằng cách thuyết phục chúng ta mới có
thể giúp cho họ dần dần tiến tới trong một thời gian phấn đấu lâu
dài” ( Hs/VKTQ và Tuyển tập Mao Trạch Đông, quyển 2, trang 90 )..
Mặc dầu Hồ Chí
Minh đã biết là thua trận, nhưng sau đó Hồ Chí Minh lại cho triệu
tập Chính phủ và bảo Võ Nguyên Giáp lên báo cáo về chiến dịch vừa
qua.
Không biết HCM bày cho VNG như thế
nào mà Tướng Giáp báo cáo trước hội nghị :
“Bộ đội ta đã
chiến đấu 23 ngày đêm liên tục.
Ta loại khỏi vòng chiến 5.000 quân
địch, trong đó có hơn 2.000 tên bị bắt sống, tiêu diệt 30 vị trí,
trong đó có 10 vị trí đại đội, thu được hơn 1.000 súng các loại đủ
trang bị cho một trung đoàn…” ( Đường Tới Điện Biên Phủ, in lần 2,
trang 153 ).
Sau khi Võ
Nguyên Giáp báo cáo xong, tới phiên Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố:
“Về Trung Du, quân đội ta đã tiến
bộ nhiều.
Chiến đấu với binh đoàn cơ động
địch ban ngày trên địa hình bằng phẳng, đánh quỵ cả một G.M, không
phải chiến dịch chưa hoàn thành các mục tiêu đề ra, mà kết quả thu
được có phần vượt mức” ( Đường Tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang
157 ).
Vào những năm
cuối thập niên 1990, các sử gia Việt Nam ở hải ngoại bắt đầu thấy
được sự thật qua các tài liệu của TQ được giải mã cho nên VNG liên
tục tung ra 3 quyển sách của ông vào năm 1994, 2000 và 2001 để thanh
minh về các lời đồn đoán tai hại.
Tuy nhiên không may cho ông là ông
càng bào chữa thì lại càng đưa ra nhiều bằng chứng xác nhận sự thật
đau lòng đằng sau những chiến công oanh liệt :
thua nặng nhưng hóa phép thành
chiến thắng.
Có như vậy mới
thấy HCM, VNG chiến thắng là nhờ suỵt chó vô gai, cái hay là ở chỗ
này :
Người trước chết thẳng cẳng người
sau vẫn cứ hăng hái nhào vào vì in trí “địch sẽ chết và ta sẽ thắng”
mà không hề nghĩ tới là “ta sẽ chết”.
Đường vinh quang của HCM, VNG toàn
được xây bằng xác của những người chất phác cả tin. ( Quốc ca
CSVN :
Đường vinh quang xây xác quân thù.
Nhưng thực tế toàn là xác quân ta
).
BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP II
BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP III
BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP IV
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *