MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU   THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học ֎ Báo Chí

 

    ֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Giờ Thứ 25

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

 ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018. Jan/2019

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAme ProgressvFaivCityvBus.Insider 

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHuav

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều

vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvBuddhism

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gươngv

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật Khoa Văn NghệvSOTT

vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu TrữvSoHa

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNMvB́nh Dân

BINH THƯ YẾU LƯỢC

 

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

 

 

V – KÉN LUYỆN

 

Sách Vơ kinh:

 

Vơ vương hỏi: Đạo luyện quân là thế nào? – Thái công thưa: Trong quân có những người rất dũng lược, liều chết, không sợ đau đớn bị thương, họp thành một toán gọi là quân mạo nhẫn1. Có những người vọt xa nhảy cao, nhẹ chân chạy nhanh, họp lại thành một toán gọi là quân quán binh2. Có những người bầy tôi thất thế muốn lập lại công danh, họp lại một toán gọi là quân tử đấu3. Có những người là con em của tướng chết trận, muốn v́ tướng ḿnh mà trả thù, họp lại một toán gọi là quân căm thù. Có những người nghèo đói bực dọc muốn cho thỏa chí, họp làm một toán gọi là quân tất tử4.

 

Thái tôn hỏi: Gia-cát Lượng bảo rằng quân có tiết chế mà không có tướng tài cũng không thể thua được, mà quân không có tiết chế dù có tướng tài cũng không thể thắng. Trẫm ngờ lời bàn ấy không được thực đúng. – Tĩnh nói: Lời bàn của Vơ hầu5 có tính chất khích động. Thần xét sách Tôn tử nói rằng: Dạy tập không rơ ràng, quan và quân không thường, bày binh ngang dọc, thế gọi là loạn. Từ xưa loạn quân tự thua không thể chép hết. Kể ra, dạy tập không rơ ràng, là nói sự huấn luyện không theo phép đời xưa; quan và quân không thường là nói tướng thần trao nhiệm không giữ chức lâu; loạn quân tự thua là nói tự ḿnh tan vỡ chứ không phải bị địch đánh mà tan vỡ. Thế nên Vơ hầu nói quân có tiết chế th́ dù tướng tầm thường cũng chưa thua. Nếu quân tự loạn th́ tuy tướng giỏi cũng nguy, c̣n ngờ ǵ nữa.

 

Thái tôn nói: Phép dạy tập thực là không thể bỏ qua. – Tĩnh nói: Dạy tập đúng phép, th́ quân sĩ vui dùng; dạy tập không đúng phép th́ dù sớm chiều đôn đốc cũng không ích ǵ. Thần v́ thế mà chăm chắm theo phép xưa, đều đă chép thành đồ, ngơ hầu mới thành quân có tiết chế được.

_____________________________

1. Mạo nhẫn: Xông liều vào chỗ nhọn sắc, tức quân cảm tử.

2. Quán binh: Quân quen thạo.

3. Tử đấu: Đánh nhau đến chết.

4. Tất tử: Quyết phải chết. – Sách Vơ kinh trực giải, phần “Lục thao”, chương 53.

5. Tức Gia-cát Lượng, phong Vũ hương hầu.

 

Vua Thái Tôn nói: Trẫm cùng Lư Tích bàn binh pháp nhiều chỗ giống thuyết của khanh, nhưng Tích không xét xuất xứ. Khanh chế “Lục hoa trận pháp” do đâu mà ra? – Tĩnh nói: Thần căn cứ ở phép Bát Trận của Gia-cát Lượng, trận lớn bọc trận nhỏ, dinh lớn bọc dinh nhỏ, góc cạnh liền nhau, chỗ cong chỗ găy đối nhau, phép xưa như thế, thần nhân đó mà vẽ đồ; cho nên ở ngoài th́ vạch vuông, ở trong th́ ṿng tṛn, mà thành “Lục hoa trận pháp”, tục gọi là thế. – Thái tôn nói: Trong tṛn, ngoài vuông, là nghĩa ǵ? – Tĩnh nói: Vuông sinh ở bước, tṛn sinh ở kỳ, vuông để bước được đúng, tṛn để quanh được đều. Thế là số bước theo h́nh đất, đi quanh theo h́nh tṛn. Bước đúng, quanh đều. th́ biến hóa không rối. Bát trận là phép cũ của Vơ hầu vậy. – Thái tôn nói: Vẽ vuông để xem phép bước, vẽ tṛn để xem phép binh khí. Bước là phép dạy chân, binh [khí] là phép dạy tay, tay chân tiện lợi, thế là được quá nửa công việc. – Tĩnh nói: Ngô Khởi có nói: Dứt mà không ĺa, lùi mà không tan, đó là phép bước vậy. Dạy quân sĩ cũng như bày con cờ trên bàn cờ, nều không vạch đường th́ con cờ dùng sao được? Tôn tử nói: Đất sinh ra đo, đo sinh ra lường, lường sinh ra số, số sinh ra cân, cân sinh ra thắng. Cho nên quân thắng như lấy dật (nén) mà cân với thù1, quân bại như lấy thù mà cân với dật. Đều bắt đầu tự đo lường vuông tṛn cả. – Thái tôn nói: Lời nói của Tôn tử sâu sắc lắm, không đo đất xem xa gần, xem h́nh rộng hẹp, th́ lấy ǵ mà chế được tiết. – Tĩnh nói: Người tướng tầm thường ít biết được tiết. Người đánh giỏi th́ thế hiểm mà tiết liền. Thế ví như dương nỏ, tiết ví như phát nẩy nỏ. Thần tŕnh bày thuật như sau: Phàm lập đội, đều cách nhau 10 bước, đội trú cách đội sư 20 bước, Cứ cách một đội th́ dựng một đội chiến. Tiến th́ 50 bước làm một tiết. Khi thổi một tiếng tù và th́ các đội đều tan ra, đứng ở trong ṿng 10 bước. Đến tiếng tù và thứ tư, th́ lồng thương mà ngồi quỳ xuống. Bấy giờ đánh trống, cứ 3 tiếng trống th́ 3 tiếng dạ, đi từ 30 đến 50 bước, để chế thế biến của địch. Quân ngựa theo sau tiến ra, cũng đi 50 bước, rồi đến lúc th́ dừng lại. Quân chính dừng trước, quân ḱ dừng sau. Xem t́nh h́nh địch thế nào, lại nổi hiệu trống để đổi dùng quân ḱ trước dùng quân chính sau để đón địch đến, t́m chỗ sơ hở mà đánh. Đó là trận pháp “Lục hoa”, đại khái đều thế2.

Thái tôn nói: Năm lá cờ máu ngũ phương làm chính ư? Vẫy cờ phan vào đánh làm kỳ ư? Khi phân khi hợp thay đổi nhau th́ số đội làm sao cho đúng được?

-Tĩnh nói: Thần tham dùng phép xưa; hễ 3 đội hợp lại th́ cờ dựa nhau mà không giao nhau, 5 đột hợp lại th́ 2 cờ giao nhau, 10 đội hợp lại th́ 5 cờ giao nhau. Khi thổi tù và và mở 5 lá cờ giao nhau ra th́ một đội tản ra làm 10; mở 2 lá cờ giao nhau th́ một đội tản ra làm 5; mở cờ dựa nhau không giao nhau th́ một đội lại tản làm 3. Quân tản th́ lấy hợp làm kỳ, quân hợp th́ lấy tản làm kỳ. Ra lệnh 3 lần, tŕnh 5 lần, tan 3 lần, hợp 5 lần th́ lại trở về chính. Thế th́ phép bốn đầu tám đuôi3 có thể dạy được. Đó là điều đội pháp lên làm.

 

Thái tôn khen phải.

Thái tôn nói: Sách Thái công chép rằng: Đất vuông hoặc 600 bước, hoặc 60 bước để nêu rơ 12 vị trí địa chi, phép ấy làm như thế nào? - Tĩnh nói: Vạch đất vuông 2.200 bước theo h́nh khai phương, mỗi bộ chiếm 20 bước vuông đất, chiều ngang cứ 5 bước đứng một người, chiều dọc cứ 4 bước đứng một người, gồm là 2.500 người, chia làm 5 phương, để bốn chỗ đất không gọi là chứa trận ở trong trận vậy. Khi Vơ vương đánh Trụ, quân Hổ bí đều cầm 3.000 người, mỗi trận4 có 6.000 người, cộng là 30.000 quân. Đó là phép vạch đất của Thái công vậy. - Thái tôn nói: Phép “Lục hoa trận” của khanh, th́ vạch đất bao nhiêu? - Tĩnh nói: Xét cả khu đất này vuông 1.300 bước, nghĩa là sáu trận, đều chiếm đất 400 bước, chia làm hai hướng đông và tây để đất không 1.200 bước làm nơi dạy đánh. Thần từng dạy 30.000 người, mỗi trận 5.000 người, lấy một trận làm nơi đóng đinh, c̣n 5 trận th́ theo h́nh trận vuông, tṛn, cong, thẳng, nhọn, mỗi trận năm lần biến, phàm 25 lần trở lên. - Thái tôn nói: Trận “Ngũ bành” là thế nào? - Tĩnh nói: Vốn nhân theo màu sắc của năm phương mà đặt tên ấy. C̣n vuông, tṛn, cong, thẳng, nhọn là do địa h́nh mà làm. Phàm quân mà không quen tập năm cái ấy th́ đánh giặc làm sao được? Binh là nghề biến trá, cho nên tạm gọi tên là Ngũ hành để mượn cải nghĩa thuật số tương sinh tương khắc mà tô điểm thêm. Thực ra th́ tượng của binh là nước, tùy theo địa thế mà chảy. chính là ư ấy5.

___________________________

1. Thù là 1 phần 24 của lạng.

2. Dịch theo Vơ kinh trực giải quốc ngữ ca.

3. Bốn đầu tám đuôi là phép Bát trận đồ.

4. Cả thảy 5 trận.

5. Trở lên, đoạn Thái tôn hỏi Lư Tĩnh đáp là chép ở sách Vơ kinh trực giải, phần “Lư Vệ công vấn đối”.

 

*

*   *

 

 

Sách Ngô tử:

 

Phàm người ta thường chết v́ không hay, bị thua v́ điều ḿnh không giỏi, cho nên phép dùng binh phải lấy sự dạy răn làm trước. Một người học chiến1 dạy thành mười người, mười người học chiến dạy thành trăm người, trăm người học chiến dạy thành ngh́n người, ngh́n người học chiến dạy thành vạn người, vạn người học chiến dạy bành ba quân. Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi nhọc, lấy no đợi đói; tṛn mà chợt vuông, ngồi mà chợt chạy, đi mà chợt dừng, tả mà chợt hữu, trước mà chợt sau, chia mà chợt hợp, thắt mà chợt cởi, mỗi một cách biến đều phải tập rồi mới trao cho cầm binh. Đó gọi là việc của người làm tướng2.

 

 

 

*

*   *

 

 

Sách Kinh thế:

 

Binh lính ngày thường đắm ở nơi yên ổn, không tập khó nhọc, nay nghĩ chữa tính trễ biếng ấy, rèn luyện gân cốt cho cứng rắn, th́ không ǵ bằng dạy cho một phép đi vây. Xét ra từ trước đến nay các đốc phủ, đề trấn ở trực tỉnh đều có lệ đi vây cả: Mỗi năm ở trong buổi mùa thu mùa đông th́ cử hành 2, 3 lần để tập quen khó nhọc, mà cổ động sĩ khí, phép ấy hay lắm. Thần trước ở dinh Đề đốc Tứ-xuyên cũng đă từng làm, rất là có ích. Đến nay hơn 30 năm, không những chưa hề cử hành, mà nếu đem phép đi vây hỏi bọn thuộc viên th́ cũng mù mịt không biết ǵ, thực phép chỉnh đốn quân đội không phải như thế. Thần chịu ơn đặc biệt của Hoàng thượng giao cho việc trọng ở chốn biên cương, phàm việc có ích cho vơ bị không điều ǵ là không hết ḷng trù hoạch, mong được thực hiện. Nay thần định trong ba tháng mùa đông năm nay, việc làm ruộng đă xong, xét theo lệ trước, ở miền sát Thành-đô, chọn một nơi không gần ruộng vườn, dựa kề g̣ núi, rộng không quá 100 dặm, dẫn quan binh đến để đi vây săn. Trong mấy ngày đi về sẽ tự làm việc huấn luyện, dạy cho phương chia hợp tiến lui và phép đóng đinh đỗ ngủ, để cho cưỡi ngựa rong ruổi, quen việc kỵ xạ, quân bộ th́ đuổi chạy ngoài đồng nội, rèn lấy sức chân. Trước ngày th́ nhắc rơ hiệu lệnh, nghiêm buộc quân lính, không cho rối động, cốt khiến binh dân cùng giữ yên. Tập rèn như thế mỗi năm ba lần, lấy làm lệ thường, th́ binh lính quen việc khó nhọc, rồi hẳn ngày tinh mạnh, kỵ binh bộ binh, kỹ nghệ tự nhiên thuần thục. Lại khiến tập biết phép phân hợp tiến lui, và phép lập dinh đỗ ngủ. Binh và ngựa sẽ khỏe mà có tiết độ, hàng trận sẽ được chỉnh tề. Đối với dinh ngũ các tỉnh biên thùy rất là có ích.

 

Giáo lệnh của quân: Chia dinh định trận, có ai tiến lui trái lệnh th́ ghép vào tội phạm giáo; hàng trước th́ hàng trước dạy, hàng sau th́ hàng sau dạy, hàng tả th́ hàng tả dạy, hàng hữu th́ hàng hữu dạy, giáo cử 5 người, ai đứng đầu là có thưởng. Người nào không dạy th́ cũng tội như người phạm giáo, phải đi quanh dưới đất để tự nêu tội với hàng ngũ; trong hàng ngũ người nào tự đứng ra nêu tội th́ cho miễn tội.

 

Phàm một ngũ ra trận, nếu có một người không tiến ra liều chết với địch, th́ người dạy cũng bị tội như người phạm pháp.

 

Phàm thập phải giữ cả thập, nếu mất một người mà 9 người không liều chết với địch, th́ người dạy cũng tội như người phạm pháp. Từ thập trở lên cho đến t́ tướng, có kẻ nào không theo pháp lệnh th́ người dạy cũng tội như người phạm pháp.

 

Người ngũ trưởng dạy 4 người, lấy miếng ván làm trống, lấy mảnh sành làm chiêng, lấy gậy làm cờ; đánh trống th́ tiến, phất cờ th́ bước nhanh, đánh chiêng th́ lùi, vẫy sang tả th́ sang tả, vẫy sang hữu th́ sang hữu, chiêng trống đồng đánh th́ người xuồng. Ngũ trưởng dạy xong, hợp lên tốt trưởng; tốt trưởng dạy xong, hợp lên bá trưởng; bá trưởng dạy xong, hợp lên binh úy; binh úy dạy xong, hợp lên t́ tướng; t́ tướng dạy xong, hợp lên đại tướng; đại tướng dạy xong, bày trận ở giữa nội. Đặt nêu lớn cách 300 bước một cái. Bày trận xong th́ bỏ nêu đi, cứ 100 bước đi thong thả, 100 bước rảo mau, 100 bước chạy bay. Tập đánh cho thành tiết, theo đó mà thưởng phạt.

____________________________

1. Học chiến: Học phép đánh trận.

2. Ngô tử, thiên IV.

 

*

*   *

 

 

Sách Vơ kinh:

 

Đờ́ xưa dạy dân, phải lập đấng bậc sang hèn, khiến không lấn nhau; đức nghĩa không vượt qua nhau, tài nghệ không che lấp nhau, sức mạnh không xâm phạm nhau, cho nên phương hướng cùng theo mà ư ḥa hợp. Đời xưa pháp luật của nước không đem dùng với quân, mà kỷ luật của quân không đem dùng với nước, cho nên sức không bao giờ vượt nhau.

 

Phàm trống, có trống đi với trống, có trống đi với cờ, trống đi với xe, trống đi với ngựa, trống đi theo, trống đi với binh khí, trống ở đầu, trống ở chân, đó là bảy thứ trống, phải gồm cho đủ.

 

Phàm quân nhiều cũng như ít, quân thắng cũng như không. Binh khí không bảo là sắc, áo giáp không bảo là bền, xe không bảo là vững, ngựa không bảo là tốt, quân không tự cho là nhiều, thế cũng chưa nắm được đạo.

 

Phong. Ở ngoài tám trận Thiên Địa Phong Vân Long Hổ Điểu Xà ra, lại lập chín quân, chia làm sức xung phong của trận:

 

1. Thân quân là những người trai tráng trong làng, tôi tớ trong nhà để hộ vệ đại tướng.  

2. Phẫn quàn là quân phục thù chuộc tội, nguyện đi hàng đầu.  

3. Thủy quân là quân có thể xông pha sóng gió, cướp lái lật thuyền.  

4. Hỏa quân là quân có thể phóng hỏa cầu hỏa lôi từ xa tới trận địa.  

5. Cung nỗ quân là quân có thể nấp ở dương cung, muôn tên đều bắn, chống địch ở ngoài trăm bước.  

6. Xung quân là quân sức lay núi non, khí vung cờ xí, có thể hăm trận bắt giặc.  

7. Kỵ quân là quân khỏe mạnh phi thường, bay chạy ở trong khoảng hai hàng trận, đuổi đánh đến nơi xa xôi.

8. Xa quân là quân sức vóc nhanh nhẹn, tiến th́ không sợ tên đạn, lui th́ ngăn được ngựa chạy, khiến địch không thể xông đến được.

9. Du quân là quân ḍ thăm t́nh h́nh - cơ nghi để giúp đỡ ba quân, cử động đều rất quan hệ, thoăn thoắt như vượn leo, sói tuột, rắn ḅ, chuột rúc, qua chỗ hiểm vượt chỗ sâu, trèo thành khoét vách.

Trong chín quân ấy, thân quân th́ hộ vệ ở trung quân, c̣n dư th́ chia tám góc, góc nào th́ ngăn giữ góc ấy, khi hợp th́ đều tiến ra, lúc co lúc duỗi, khiến cho trong khoảng một trận như huyết mạch liền nhau, nhờ đó mà thông suốt được.

Kết. Ba quân đông đúc, duy hiệp theo từng người mà cố kết thôi. Người trí th́ cho được phát triển; người dũng th́ cho được dùng sức; ai có ḷng muốn th́ cho được thỏa; ai bất khuất th́ cho vươn lên, cho hả được giận, cho trả được thù. Thấy người đau ốm cũng như ḿnh đau ốm; giết kẻ có tội th́ ḷng không nỡ; người có công th́ dù nhỏ cũng thưởng; người đắc lực th́ ban thưởng cho nhiều; được ǵ th́ chia đều; làm vất vả th́ đăi hậu; thành thực yêu quân chúng; bắt địch ít giết hại. Được như thế, chẳng những ba quân thấy vẫy cờ là theo, mà khắp thiên hạ cũng nghe tiếng là theo về.

 

Ngự. Việc binh không phải là việc lành. Tài lợi cũng dùng, tài hại cũng dùng; người vơ th́ hay giết, người dũng th́ hay ác, người trí th́ hay dối trá, người mưu th́ hay tàn nhẫn, việc binh không bỏ sót người vơ, người dũng, người trí, người mưu, tức là không bỏ sót người hay giết, người độc ác, người dối trá, người tàn nhẫn. Cho nên khéo chế ngự th́ dùng lấy tài năng mà bỏ điều hung ác, thu điều ích mà ngăn điều tổn. Thế th́ thiên hạ không ai là không tài; quân thù cũng có thể vời được; quân giặc cũng có thể vỗ về; trộm cướp cũng có thể dùng; cho đến kẻ dám khinh nhờn pháp luật, bỏ đi theo địch, cũng đều có thể sai khiến được.

 

Luyện. Ư phấn khởi mà sức nhút nhát, ấy là người khí suy; sức khỏe thừa mà ḷng sợ sệt, ấy là người mật vỡ, khí suy mật vỡ th́ trí dũng hết mà không thể dùng được. Cho nên cần phải lập thế để mà luyện khí, khinh thắng để mà luyện mật, bày ḷng để mà luyện t́nh, thống nhất phép dạy để mà luyện trận.

 

Lệ. Cái phép khuyến khích quân sĩ, đừng cậy ở pháp lệnh. Cho danh th́ kẻ cứng mạnh cũng phấn khởi; dụ lợi th́ người nhẫn nghị cũng phấn khởi; bị hăm vào chỗ nguy, nếu lấy thuật mà lừa th́ người nhu nhược cũng phấn khởi: Tướng hay dùng cả ân uy th́ ai nấy đều hiệp, chước ǵ cũng nên, sĩ tốt trong ba quân, ai cũng như hùm bay rồng uốn, gặp địch là đánh được. Nếu lại lập thế đề giúp uy, đủ tiết để hộ khí, th́ dù thua cũng chẳng nhụt được khí, dù nguy cũng chẳng núng được ḷng; thế th́ lại không người nào và không lúc nào mà không khiến phấn khởi được.

 

Lặc. Ḱm ngựa th́ phải dùng dàm khóa, ḱm binh th́ phải dùng pháp lệnh. Cho nên người lấy được thiên hạ không bỏ phép. Nhưng ơn nặng cũng có thể thi hành trừng phạt; trừng phạt thi hành rồi sau mới có uy. Thế nên người giỏi dụng binh, lấy sự được mất mà làm công tội, rơ sự đánh chạy để mà cưu thương. Giết một người mà mọi người sợ; giết kẻ nhát, chém kẻ thua, mà quân sĩ càng phắn khởi; đứng th́ như núi, động th́ như lở, khiến quân sĩ không dám khinh pháp lệnh, cho nên chỉ có được mà không có thua.

 

Tuất. Trời sinh ra nhân tài rất là khó. Kẻ sĩ tri mưu, mang trách nhiệm giúp mà không thấy được dùng, muốn đi với địch th́ ta chống. Kẻ làm tướng phải mở rộng ḷng mà hỏi han, không để cho người ta không được tri ngộ. Đó là một điều thương kẻ sĩ. Những kẻ sĩ mang giáp trụ, phơi sương nằm nội, chịu đói chịu rét, đau đớn thân thể mà không kêu khổ, trải bao khó khăn mà không kêu nhọc. Cho nên người giỏi dùng binh không để cho họ bị hăm với địch và không giết càn. Đó là hai điều thương kẻ sĩ.

 

Nhuệ. Nuôi uy quư ở ngày thường; xem biến quư ở mưu trí. Hai quân sát nhau, một tiếng hô mà phấn khí lên, chỉ là có nhuệ khí mà thôi. Mọi người không dám ra mà ḿnh dám ra là nhuệ. Quân địch đông xông lại, ḿnh ít mà dám xông ra là nhuệ. Ra vào giữa quân địch, đi lại xông pha là nhuệ. Làm mạnh, làm khỏe, dũng cảm mănh liệt là nhuệ. Như gió, như mưa, như non lay núi lở là nhuệ. Tướng vụt mà tiến lên, quân ùa mà xông vào, quân và tướng đều là nhuệ cả. Chỉ nhuệ không th́ vấp ngă, không nhuệ th́ suy. Có mưu trí mà chu tất, phát ra mà thu lại được, th́ nhuệ hay vô cùng.

 

Trận. Nói về trận, th́ có vài mươi nhà, ta gồm hết mà tóm lại. H́nh trận dáng như chữ nhân gọi tên là Nhân trận. Thuận cũng là chữ nhân, nghịch cũng là chữ nhân, tiến cũng là chữ nhân, thoái cũng là chữ nhân, hợp lại cộng làm một người, tan ra cũng làm một người. Một người làm một trận, ngh́n muôn người sống làm một trận, ngh́n muôn người hợp làm một trận, ngh́n muôn người động làm một người. Nhuệ binh ở trước, trọng binh ở sau, phong quân để xông mà du quân để đi quanh. Ở trong chia làm âm, dương, hư, thực, đương, thụ, xả, xung1, khi bay, khi nấp, khi thổ, khi nạp2, khi động, khi tĩnh, khi nhóm, khi trương. Đấu mà không thể loạn, lùi th́ dựa nhau, không dựa th́ nguy. Người không tự loạn, loạn th́ chỉnh ngay; người có thể tự dựa và phải dựa người, loạn làm sao được? Cao cao thấp thấp tùy theo thế, dài ngắn rộng hẹp biến theo h́nh. Trận chữ nhân thật thần vậy.

_____________________________

1. Đương, thụ, xả, xung: lúc chống giặc, lúc chịu giặc, lúc bỏ, lúc xông.

2. Khi thổ, khi nạp: Khi nhả ra, khi nuốt vào.

 

VI - QUÂN LỄ

Phụ: Thưởng phạt.

 

 

Trị quân phải theo lễ, mà quyền bính ở ḿnh.

 

Trị quân mà đối với người trẻ người lớn đều có lễ, th́ biết là người đủ làm được việc. Trị quân mà không theo lễ, th́ tướng nhỏ có thể lấn được tướng súy, tướng súy có thể lấn được thiên tử, họa loạn do đó mà sinh ra. Quyền lớn không thể không ở ḿnh được, nếu quyền dời xuống người dưới, trên dưới thế ngang nhau, trên không sai khiến được dưới, dưới không bẩm báo lên trên, đó là quyền lớn không ở ḿnh vậy. Thời Hậu Đường quân sĩ giết tiết độ sứ, rồi nhân lấy chức của người bị giết ấy mà trao cho. Gần đây như họ Trịnh mất quyền thống ngự, quân sĩ sinh kiêu1, đến nỗi loạn vong, th́ cũng giống thế.

 

Tuốt gươm đứng dậy, giết trâu khao quân để yên ủi khuyến miễn, th́ sĩ khí phấn khởi lên nhiều.

Nên trọng thưởng ở nơi biên cảnh. Khi quân Di Địch lấn cơi, bọn đại gian th́ mưu can phạm đạo thường, bề tôi giỏi th́ vâng mệnh đi đánh để giữ vương quốc, siêng việc vua mà lập công lớn. Binh pháp nói: công lao không việc nhỏ nào mà không chép để thưởng.

 

Ở quân th́ đi đứng cứng cáp; khi đi mau th́ quả quyết; mặc binh phục th́ không lạy; ngồi xe binh th́ không chào; qua cửa thành không rảo bước; gặp việc nguy không nhường ai. Cho nên lễ với pháp là ngoài với trong, văn với vơ là tả với hữu2.

Khi xe vua đến, tôi con nên giết trâu lọc rượu để đăi trăm quan, há dám đem quân giặc mà biếu cho vua cha đâu?

Quân (đi thú) đi sau tướng lại3 mà đến sau chỗ đại tướng một ngày th́ cha mẹ vợ con cùng bị tội hết4; quân trốn về nhà một ngày mà cha mẹ vợ con không bắt hay nói ra th́ cũng đồng tội. Đánh trận mà quân sĩ bỏ trốn và tướng lại bỏ sĩ tốt mà chạy một ḿnh th́ đều chém. Lại trước bỏ quân mà thua chạy, sau lại hay chém được mà cướp nắm lấy quân th́ thưởng. Ba quân đại chiến, nếu đại tướng chết mà quan lại đi theo 500 người trở lên không hay liều chết với địch được th́ chém, những lính theo gần ở tả hữu đại tướng khi ra trận cũng đều chém hết; c̣n dư sĩ tốt nào có quân công th́ đoạt một cấp, không có quân công th́ đi thú ba năm. Đánh trận mà mất người trong ngũ và người trong ngũ chết mà không lấy được xác, th́ các người đồng ngũ đều bị đoạt hết công, lấy được xác th́ đều tha tội... Dùng phép mà ngăn cái tệ trốn về và cấm binh bỏ trốn, đó là điều thắng thứ nhất của quân. Thập và ngũ cùng liến nhau và khi chiến đấu quan binh cùng cứu nhau, đó là điều thắng thứ hai của quân. Tướng hay lập uy, quân giữ kỷ luật, hiệu lệnh th́ tin, đánh giữ đều được, đó là điều thắng thứ ba của quân.

 

Phép ra lệnh cấm quân sĩ5.

 

Phụ: Thưởng phạt.

 

Thái công nói: Tướng lấy việc giết được người lớn làm uy; thưởng cho người nhỏ th́ sáng. V́ giết người quư trọng đương có quyền là h́nh gia lên trên hết, thưởng đến những kẻ chăn trâu, nuôi ngựa, nấu bếp là thưởng đến dưới cùng. Do đó mà uy tín của tướng có thể lập được.

 

Quân chưa gần gũi mà đă trừng phạt th́ họ không phục, không phục th́ khó dùng; quân đă gần gũi mà không thi hành trừng phạt th́ không thể dùng được. Cho nên khi ra lệnh th́ dùng văn, mà thi hành th́ dùng vơ thế mới gọi là tất lấy được. Lệnh đó quen thi hành, đem ra dạy dân th́ dân hẳn phục, đem dùng với quân th́ cũng theo.

________________________________

1. Tức là loạn Kiêu binh đời Lê Cảnh Hưng ở nước ta.

2. Đoạn này đă có chép ở trên chương “Tướng đạo”, dẫn lời Vơ kinh.

3. Tướng lại: Tướng là người cầm quân, chỉ huy, lại là người giữ việc giấy má sổ sách trong quân.

4. Đoạn này chép ở Vơ kinh, chương 24 “Binh lệnh hạ”. Vơ kinh trực giải quốc ngữ ca dịch câu này là: “Đi thú giữ sau tướng viên, một ngày th́ cũng tội liền vợ con”.

5. Chương này chép ở Hổ trướng khu cơ, ở đây bỏ, xin xem Hổ trướng khu cơ ở sau.

 

 

 

VII – TUYỂN NGƯỜI LÀM VIỆC DƯỚI TRƯỚNG.

 

 

Sách Vơ kinh:

 

Thiên văn 2 người, giữ việc xem sao và xem lịch, xem gió, chọn ngày giờ, xét tai dị; địa lợi 2 người, tra xét h́nh thế lợi hại, xa gần, khó dễ; binh pháp 2 người, giảng bàn binh pháp, luyện tập quân sự; thư toán 4 người, biên ghi lương thực, quân số khí giới; y sĩ 2 người, điều trị cho quan và quân; du sĩ 5 người, pḥng làm gián điệp tuần thám; từ trát 4 người, để thảo giấy tờ và việt chương tấu.

 

 

 

*

*   *

 

 

Sách Kinh thế:

 

Sẵn quân mười vạn, nếu không có vài ngh́n tử sĩ xông pha vào nơi hung hiểm th́ không thề dùng kỳ1 được. Hành quân đi ngh́n dặm, nếu không có vài lũ gián điệp xuất qủy nhập thần th́ cũng không thể dùng kỳ được. Ta xem những nhà chuyên dùng kỳ, có người mưu sẵn đă thành mà lâm trận th́ thua. Há chẳng phải là tử sĩ th́ chỉ giúp tướng cao sang2, gián điệp chỉ là do trưởng công bằng sao! Động bằng ơn, kết bằng nghĩa, c̣n sợ không được, huống chi tướng không có chuyên quyền, mà lương không có để dùng lúc bất thần; trong hội đầu cơ, chớp mắt không kịp, tuy muốn dùng kỳ, nhưng không biết tự đâu mà dùng được.

 

Nhà vua có chân tay tai mắt; đại tướng có lông cánh tán tương, cho nên quân đội dùng nhân tài, cũng ngang với triều đ́nh. Có trí sĩ như tham mưu, hay tán hoạch, hay mưu lược, chủ dùng ở nơi màn trướng mà quyết định việc quân cơ, động có việc ǵ là hỏi; có dũng sĩ như kiêu tướng, hay kiện tướng, hay mănh tướng, chủ việc quyết chiến để xung đột, dẫn quân tiến lên; có thân sĩ, như tướng riêng, như tướng cầm tay, như tướng nanh vuốt, chủ việc hộ vệ tả hữu, để mà tuyên lệnh và cầm nắm binh cơ; có thức sĩ, hiểu thế trận, biết biến hóa, xem khí tượng, nghiệm gió mưa, hiểu hết thế đất, rơ t́nh h́nh địch, xem xét những điều nhỏ nhặt, giữ việc tiến chỉ của cả quân; có văn sĩ biết suốt xưa nay, hiểu thấu nguồn gốc, giữ nghi tiết, rộng bàn bạc, thảo hịch viết sớ, sửa soạn từ chương; có thuật sĩ tính về thời nhật, xét lẽ âm dương, xem bói toán, giữ đi về, luyện mồi thuốc độc, khiến việc quyền nghi nên chăng, lợi ḿnh hại giặc; có số sĩ, biết vận nước, đón cơ hội, nhằm đánh úp đặt phục, tính lương cỏ, chép vật dùng, ghi công trạng, giữ sổ quân, biên hết tài năng, tính sổ nhiều ít; có kỹ sĩ như kiếm khách, đâm tử sĩ, khinh trộm cắp, úp thuyết khách, xét gián điệp, khiến ra vào đồn địch, xem cơ mà đặt mưu; có nghệ sĩ, sáng chế đồ dùng, quy hoạch ng̣i hồ, sửa đồ xấu hỏng, chế vật mới lạ, đảo lớn nhỏ, rút xa gần, đổi trên dưới, lật nặng nhẹ, theo phép cổ, soạn sách mới, trang bị binh vật, để chu toán việc đánh giữ. Ngoài ra c̣n có các tài khác, như kịch, như múa, như cười, như mắng, như hát, như nhảy, như vượt, như bay, như vẽ, như nấu nước uống, như nhuộm màu nhuộm bùn, như mượn đồ vật, như nhanh chân đi giỏi, tóm lại không sao kể hết tên được, nhưng đều là kỹ năng đủ dùng để làm việc và gỡ rối. Tất phải kén chọn tinh tế khiến mọi người đều giỏi việc ḿnh phụ trách, để cho việc ǵ cũng có người chuyên, mà trong quân không có việc ǵ không làm được. Đến như hiến mưu định sách th́ chẳng chọn người, th́nh ĺnh mà gặp, tuy một người lính thường cũng cần nhấc lên, lời nói chỉ có tiến mà không cự tuyệt, dù chẳng hay cũng chẳng phạt, như thế th́ người anh hùng đều về. Đó là h́nh tượng các ngôi sao trong vũ lâm vậy. Trời sinh ra người, khí trụ ở trong ḷng th́ trí tuệ, khí tan ra chân tay th́ chất phác. Chất phác th́ sức nhiều; trí tuệ th́ yếu nhiều. Trí dũng đều gồm được th́ đời ít có. Cho nên tài người nào có thể vượt một trăm người th́ làm trưởng trăm người, vượt được một ngh́n người th́ làm trưởng ngh́n người, vượt qua ngh́n người thành một quân th́ có thể đối phó cơ sự ở một mặt, có thể đảm đương sức chống ở một mặt, đủ làm trưởng cả quân. Quân có lúc có, th́ tướng cần có thể dùng một ḿnh, cho nên người khéo dùng tài th́ những chức thiên t́3 cũng đều là đại tướng cả.

_______________________________

1. Dùng binh lẻ.

2. Tướng cao sang, có quyền lớn của nhiều để thưởng to nên người ta cam liều chết để lấy thưởng.

3. Thiên t́: Tức thiên tướng và t́ tướng.

 

VIII - ĐỒ DÙNG CỦA BINH

 

Cuốc xẻng để làm đất; ŕu búa dao cưa để làm gỗ; thợ vàng thợ sắt để làm đồ ngũ kim; trâu ngựa để chuyên chở; gà chó để xem ngày giờ; thợ may để chế quần áo; thuốc men để chữa bệnh; chông sắt để pḥng đón đường; giày da để pḥng chạy xông; lương khô đề pḥng lúc hết ăn.

 

*

*   *

 

Phàm voi thấy đồ hỏa khí và tiếng súng th́ chạy, khi chạy th́ người không thể giữ nổi, khó bề rèn tập cho quen; phải đào một cái hố to có thể cho voi đủ đứng được, bề sâu chừng 5 thước, đuổi voi xuống đó, rồi sau đem đồ hỏa khí để tập, lúc đó voi dầu có sợ hăi cũng không thể chạy được.

 

 

 

*

*   *

 

 

Phép nhử lấy ngựa của giặc.

 

Xưa Sử Tư-minh nhà Đường làm phản, có ngựa tốt ngh́n con, hằng ngày cho ra bến sông để tắm, rồi cho đi quanh về để tỏ là có nhiều ngựa. Lư Quang-bật1 sai t́m ngựa cái ở trong quân được 500 con, cho đem buộc ở trong thành, chờ khi ngựa giặc ra hết bến sông, ngựa cái cứ hí măi lên, ngựa giặc lội qua sông chạy sang, bấy giờ đuổi vào trong thành hết thảy.

 

 

Phép nuôi ngựa.

 

Mỗi tháng cứ đến ngày dần đầu tiên, đem muối cho ngựa ăn th́ ngựa không bệnh.

 

Hỏa tiễn (tên lửa).

 

Sách Binh lược:

 

Tên lửa thế mạnh, quân địch sợ hơn cung nỏ. Người khéo chế có thể bắn xa được 6, 7 trăm bước. Mỗi một cái tên lửa phải giọt ước 3 vạn dùi mới thành. Trên đầu dùng thuốc súng Hồi-hồi2 ước 2 phần 10. V́ tên lửa sức lớn mà chiếu buồm mỏng bắn qua không cháy lên được, như sợ nó thấu qua th́ ở dưới chỗ miệng lửa cách một hai tấc, dùng mảnh tre gài chéo chữ thập để ngăn lại. ở chỗ tre và sắt tiếp nhau th́ dùng dây gân buộc lại và sơn đi. Cái vè ở mũi tên cũng phải sơn cho nó chịu gió mưa và khí ẩm. Tên lửa ở phương Nam chế hay để tụ hàng mấy chục hay trăm cái vào một cái ḷng, gọi là ổ tên, hay là lồng lửa. Chín cái gọi là lồng cửu long. Hạng nhỏ th́ gọi là tên vọt, ngồi trên ngựa cũng có thể bắn được.

 

H́nh 1. Hỏa tiễn

 

Chông sắt đánh bẫy ngựa.

 

Đào một cái hố sâu rộng vuông vừa 4 thước, đem chông sắt đặt vào trong, trên gác cây nhỏ, rồi lấy cỏ và đất phủ bằng đi, tự nhiên như chỗ đất hoang, nếu giặc xông vào dinh ta th́ người ngựa tất sập xuống hố mà bị thương. Quân phục vùng dậy mà bắt sống.

 

 

H́nh 2. Hố sập ngựa

_____________________________________

1. Lư Quang bật: Người đời Đường, làm tiết độ sứ đời Đường Túc tôn, b́nh loạn An Sử.

2. Thuốc súng Hồi-hồi: Tức là thuốc hỏa được dùng để bắn súng, v́ đầu tiên do người Hồi-hồi, tức người A-rập đem vào Trung Quốc nên gọi là thuốc súng Hồi-hồi.

 

Súng.

 

Binh bộ chúng tôi kính cẩn tâu về việc bàn giảm nguyên lệ được dùng thuốc súng cho các hạng súng, kính đóng thành tập dâng tâu, ngửa mong nhà vua soi xét. Nay đă vâng sắc: Lần này thí nghiệm súng Chấn uy đại tướng quân, lệ cũ dùng 10 cân, nay chỉ dùng 8 cân mà tiếng bắn ra vang dội, như vậy thuốc súng mới giă này mạnh hơn trước nhiều lắm. Vậy giao cho Binh thương đồng với bọn hộ vệ cảnh tất, bàn tính bớt cân lạng cho được thỏa đáng, và thông sức cho các địa phương, hết thảy tuân theo. Nay bộ thần đă vâng mệnh hội đồng với bọn loan giá, chiếu theo lệ cũ dùng thuốc cho các hạng súng, bàn bạc chước định. Trừ các hạng súng xung tiêu diễn bắn các đạn chấn địa lôi, liên châu, lan can, th́ lâm thời chiếu theo xa, gần mà lượng dùng thuốc, không thể ấn định được, ngoài ra các thứ súng đồng, gang, sắt và các súng thần công, thần cơ, đều là bắn đạn ch́, đạn gang, nay xin chiếu theo sức thuốc thêm bớt thế nào, hễ là thuốc cũ thử bắn chỉ 2 độ hay 3 độ th́ xin y theo lệ cũ mà làm, c̣n súng nào dùng thuốc mới th́ xin nên tinh giảm 2 phần 10, cho độ số được thích nghi. Bọn chúng tôi đem t́nh tiết tính bàn giảm bớt thuốc súng và mỗi hạng súng dùng thuốc bao nhiêu, theo khoản liệt kê ra sau. Như được ơn chuẩn cho, xin cung chép cho địa phương tuân theo mà làm. Kính tâu:

 

Kê khai:

 

Các hạng súng đồng, gang, sắt. (Như bắn ở trường bắn, lấy 1 tấc đường kính ṇng súng và đạn bắn đến 100 trượng làm độ, quá th́ sợ sai).

 

Súng 5 tấc 2 phân – (Đích bắn 520 trượng). Lệ cũ thuốc đạn, mỗi phát 20 cân, nay lệ mới mỗi phát 16 cân. Độ bắn hơn 600 trượng, nhảy thêm ngoài 100 trượng.

 

Súng 5 tấc 1 phân – (Đích bắn 510 trượng). Lệ cũ thuốc đạn 19 cân 8 lạng, nay lệ mới 15 cân 9 lạng 6 tiền. Độ bắn hơn 580 trượng, nhảy thêm 100 trượng.

 

Súng 5 tấc – (Đích bắn 500 trượng). Lệ cũ 19 cân. Lệ mới 15 cân 3 lạng 2 tiền. Độ bắn  560 trượng, nhảy thêm 90 trượng.

 

Súng 4 tấc 9 phân – (Đích bắn 490 trượng). Lệ cũ 18 cân 8 lạng, lệ mới 14 cân 12 lạng 8 phân. Độ bắn 540 trượng, nhảy 80 trượng.

 

Súng 4 tấc 8 phân – (Đích bắn 480 trượng). Lệ cũ 18 cân, lệ mới 14 cân 6 lạng 4 tiền. Độ bắn 520 trượng, nhảy 70 trượng.

 

Súng 4 tấc 7 phân – (Đích bắn 470 trượng). Lệ cũ 17 cân 8 lạng, lệ mới 14 cân. Độ bắn hơn 500 trượng, nhảy 60 trượng.

 

Súng 4 tấc 6 phân – (Đích bắn 460 trượng). Cũ 17 cân, mới 13 cân 9 lạng 6 tiền. Độ bắn hơn 490 trượng, nhảy thêm 50 trượng.

 

Súng 4 tấc 5 phân – (Đích bắn 450 trượng). Cũ 16 cân 8 lạng, mới 13 cân 3 lạng 2 tiền. Độ bắn hơn 480 trượng, nhảy 40 trượng.

 

Súng 4 tấc 4 phân – (Đích bắn 440 trượng). Cũ 16 cân, mới 12 cân 12 lạng 8 tiền. Độ bắn hơn 470 trượng, nhảy 35 trượng.

 

Súng 4 tấc 3 phân – (Đích bắn 430 trượng). Cũ 15 cân 8 lạng, mới 12 cân 6 lạng 4 tiền. Độ bắn 460 trượng, nhảy 30 trượng.

 

Súng 4 tấc 2 phân – (Đích bắn 420 trượng). Cũ 15 cân, mới 12 cân. Độ bắn 450 trượng, nhảy 25 trượng.

Súng 4 tấc 1 phân – (Đích bắn 410 trượng). Cũ 14 cân, mới 11 cân 3 lạng 2 tiền. Độ bắn hơn 440 trượng, nhảy 20 trượng.

 

Súng 4 tấc – (Đích bắn 400 trượng). Cũ 13 cân, mới 10 cân 6 lạng 4 tiền. Độ bắn hơn 435 trượng, nhảy 15 trượng.

 

Súng 3 tấc 9 phân – (Đích bắn 390 trượng). Cũ 12 cân, mới 9 cân 9 lạng 6 tiền. Độ bắn hơn 430 trượng, nhảy 10 trượng.

 

Súng 3 tấc 8 phân – (Đích bắn 380 trượng). Cũ 11 cân, mới 8 cân 12 lạng 8 tiền. Độ bắn hơn 425 trượng, nhảy trên dưới 10 trượng.

 

Súng 3 tấc 7 phân – (Đích bắn 370 trượng). Cũ 10 cân, mới 8 cân. Độ bắn hơn 420 trượng, nhảy trên dưới 9 trượng.

 

Súng 3 tấc 6 phân – (Đích bắn 360 trượng). Cũ 9 cân, mới 7 cân 3 lạng 2 tiền. Độ bắn hơn 415 trượng, nhảy trên dưới 7,8 trượng.

 

Súng 3 tấc 5 phân – (Đích bắn 350 trượng). Cũ 8 cân, mới 6 cân 6 lạng 4 tiền. Độ bắn hơn 410 trượng, nhảy trên dưới 6,7 trượng.

 

Súng 3 tấc 4 phân – (Đích bắn 340 trượng). Cũ 7 cân 8 lạng, mới 6 cân. Độ bắn hơn 408,9 trượng, nhảy trên dưới 5,6 trượng.

 

Súng 3 tấc 3 phân – (Đích bắn 330 trượng). Cũ 7 cân, mới 5 cân 9 lạng 6. Độ bắn hơn 407,8 trượng, nhảy trên dưới 5,6 trượng.

 

Súng 3 tấc 2 phân – (Đích bắn 320 trượng). Cũ 6 cân 8 lạng, mới 5 cân 3 lạng 5 tiền. Độ bắn hơn 406,7 trượng, nhảy trên dưới 5,6 trượng.

 

Súng 3 tấc 1 phân – (Đích bắn 310 trượng). Cũ 6 cân, mới 4 cân 12 lạng 8 tiền. Độ bắn 405,6 trượng, nhảy trên dưới 5,6 trượng.

 

Súng 3 tấc – (Đích bắn 300 trượng). Cũ 5 cân 8 lạng, mới 4 cân 6 lạng 4 tiền. Độ bắn 404,5 trượng, nhảy trên dưới 4,5 trượng.

 

Súng 2 tấc 9 phân – (Đích bắn 290 trượng). Cũ 5 cân, mới 4 cân. Độ bắn hơn 403,4 trượng, nhảy trên dưới 4,5 trượng.

 

Súng 2 tấc 8 phân – (Đích bắn 280 trượng). Cũ 4 cân 8 lạng, mới 3 cân 9 lạng 6 tiền. Độ bắn hơn 402,3 trượng, nhảy trên dưới 4,5 trượng.

 

Súng 2 tấc 7 phân – (Đích bắn 270 trượng). Cũ 4 cân, mới 2 cân 3 lạng 2 tiền. Độ bắn 400 trượng, nhảy trên dưới 3,4 trượng.

 

Súng 2 tấc 6 phân – (Đích bắn 260 trượng). Cũ 3 cân 8 lạng, mới 2 cân 12 lạng 8 tiền. Độ bắn trên dưới 390 trượng, nhảy trên dưới 3,4 trượng.

 

Súng 2 tấc 5 phân – (Đích bắn 250 trượng). Cũ 3 cân, mới 2 cân 6 lạng 4 tiền. Độ bắn trên dưới 380 trượng, nhảy 3,4 trượng.

 

Súng 2 tấc 4 phân – (Đích bắn 240 trượng). Cũ 2 cân 12 lạng, mới 2 cân 3 lạng 2 tiền. Độ bắn trên dưới 370 trượng, nhảy 3,4 trượng trở xuống.

 

Súng 2 tấc 3 phân – (Đích bắn 230 trượng). Cũ 2 cân 8 lạng, mới 2 cân. Độ bắn trên dưới 360 trượng.

 

Súng 2 tấc 2 phân – (Đích bắn 220 trượng). Cũ 2 cân 4 lạng, mới 1 cân 12 lạng 8 tiền. Độ bắn trên dưới 350 trượng.

 

Súng 2 tấc 1 phân – (Đích bắn 210 trượng). Cũ 2 cân, mới 1 cân 9 lạng 6 tiền. Độ bắn trên dưới 340 trượng.

 

Súng 2 tấc – (Đích bắn 200 trượng). Cũ 1 cân 12 lạng, mới 1 cân 6 lạng 4 tiền. Độ bắn trên dưới 330 trượng.

 

Súng 1 tấc 9 phân – (Đích bắn 190 trượng). Cũ 1 cân 8 lạng, mới 1 cân 3 lạng 2 tiền. Độ bắn trên dưới 320 trượng.

 

Súng 1 tấc 8 phân – (Đích bắn 180 trượng). Cũ 1 cân 4 lạng, mới 1 cân. Độ bắn trên dưới 310 trượng.

 

Súng 1 tấc 7 phân – (Đích bắn 170 trượng). Cũ 1 cân, mới 12 lạng 8 tiền. Độ bắn hơn 300 trượng.

 

Súng 1 tấc 6 phân – (Đích bắn 160 trượng). Cũ 14 lạng, mới 11 lạng 2 tiền. Độ bắn trên dưới 280 trượng.

 

Súng 1 tấc 5 phân – (Đích bắn 150 trượng). Cũ 10 lạng, mới 9 lạng 6 tiền. Độ bắn trên dưới 260 trượng.

 

Súng 1 tấc 4 phân – (Đích bắn 140 trượng). Cũ 10 lạng, mới 8 lạng. Độ bắn trên dưới 240 trượng.

 

Súng 1 tấc 3 phân – (Đích bắn 130 trượng). Cũ 8 lạng, mới 6 lạng 8 tiền. Độ bắn trên dưới 220 trượng.

 

Súng 1 tấc 2 phân – (Đích bắn 120 trượng). Cũ 6 lạng, mới 4 lạng 8 tiền. Độ bắn trên dưới 200 trượng.

 

Súng 1 tấc 1 phân – (Đích bắn 110 trượng). Cũ 4 lạng, mới 3 lạng 2 tiền. Độ bắn trên dưới 180 trượng.

 

Súng 1 tấc – (Đích bắn 100 trượng). Cũ 3 lạng, mới 2 lạng 4 tiền. Độ bắn trên dưới 160 trượng.

 

Súng 9 phân – (Đích bắn 90 trượng). Cũ 2 lạng 5 tiền, mới 2 lạng. Độ bắn trên dưới 140 trượng.

 

Súng 8 phân – (Đích bắn 80 trượng). Cũ 2 lạng, mới 1 lạng 4 tiền. Độ bắn trên dưới 120 trượng.

 

Súng 7 phân – (Đích bắn 70 trượng). Cũ 1 lạng 5 tiền, mới 1 lạng 2 tiền. Độ bắn trên dưới 100 trượng.

 

Súng 6 phân – (Đích bắn 60 trượng). Cũ 1 lạng, mới 8 tiền. Độ bắn trên dưới 80 trượng.

 

Súng 5 phân – (Đích bắn 50 trượng). Cũ 8 tiền, mới 6 tiền 4 phân. Độ bắn trên dưới 70 trượng.

 

Súng 4 phân – (Đích bắn 40 trượng). Cũ 5 tiền, mới 4 tiền. Độ bắn trên dưới 60 trượng.

 

Súng 3 phân – (Đích bắn 30 trượng). Cũ 1 tiền 8 phân, mới 1 tiền 6 phân. Độ bắn trên dưới 50 trượng.

 

Súng Thần công – Cũ 1 lạng, mới 8 tiền. Độ bắn hơn 80 trượng hay hơn 60 trượng.

 

Súng Thần cơ – Cũ 6 tiền, mới 4 tiền 8 phân. Độ bắn hơn 50 trượng hay hơn 45 trượng.

 

Bài ca tập hỏa pháo1

 

Quân tựu trường tập,

Nghe ba hồi kiểng.

Chính phụ bày hàng,

Treo cửa châu mai.

Cắm cờ, mang bầu thuốc lại.

Tháo máy móc hậu, kéo súng vô.

Chắn hậu, đặt đ̣n ngáng lấy nút.

Chờ giở vung ng̣i, nút gió.

Giơ tay chắn lỗ ng̣i, gơ ba cái,

Giở nắp bầu thuốc, vào thuốc,

Ấn thuốc, nạp thuốc một lần.

Lấy đạn, nạp đạn ba lần.

Đậy vung ng̣i về nạp.

Cất đ̣n ngáng, tháo máy móc hậu, kéo súng ra.

Hai dây quàng đốc.

Hai đ̣n cầm xe.

Giở vung ng̣i, lay ng̣i thăm thuốc.

Lấy bầu, giở nắp bầu, dỗ thuốc ng̣i.

Đậy nắp bầu, cà thuốc.

Rút bầu, bỏ sau lưng.

Đậy vung ng̣i, nhắm làn,

Hoặc thiên tả, hoặc thiên hữu,

Hoặc lấy cao lấy thấp, hoặc lấy làn ngay.

Lấy có, thổi hỏa mai.

Cất đ̣n xe, tháo dây.

Giữ quàng đốc.

Giở vung ng̣i, châm.

 

 

Diễn hải pháo, hai người.

 

Kiểng hồi, quân tựu trường tập.

Chính phụ bày hàng,

Treo cửa châu mai.

Tháo máy móc hậu, kéo súng vô.

Chánh phụ đều chực mà chắn hậu.

Chánh đặt đ̣n ngáng lại, chắn lỗ ng̣i,

Phụ lấy nút lên, mà chực nút gió.

Chánh phụ đều về.

Chánh lấy thuốc lên, xé bao vào thuốc.

Phụ cầm nắp mà ướm một chày.

Chánh ra lấy đạn, vào đạn rồi,

Lại chắn lỗ ng̣i.

Phụ nặp đạn ba chày.

Chánh đậy vung ng̣i, ra đ̣n ngáng.

Phụ về nạp, tháo hậu móc máy.

Chánh phụ đều kéo súng ra,

Hai dây máy bỏ đường xà.

Chánh phụ đều về.

Chánh lấy bầu ng̣i mà vào.

Phụ lấy lồng đèn mà vô.

Chánh giở vung, lay ng̣i, thăm thuốc.

Lấy bầu, giở nắp bầu, dỗ thuốc ng̣i.

Đậy vung lên. Chánh phụ đều về.

Chánh treo bầu ng̣i.

Phụ treo lồng đèn.

Chánh lấy c̣ vào mà chực.

Nhắm làn cao thấp.

Phụ th́ giở vung ng̣i ra.

Chánh kêu: “Tổng, bắt, cậy”, truyền chắn bắn.

_____________________________

1. Bài ca này và hai bài sau đều chép bằng chữ Nôm.

 

Thao diễn bắn súng quá sơn.

 

Phép truyền tập bắn quá sơn.

Hỏa liên cũng một phép nay rơ ràng.

Tua noi1 hiệu lệnh cho ḥa.

Lập tức nghe ba hồi trống đă vang.

Súng đặt có hàng, binh đóng chỉnh nghiêm.

Thứ nhất tiếng kiểng dóng lên,

Thảy trong hàng ngũ đều yên xứ ngồi.

Thứ hai lại một tiếng bồi,

Lấy nút nút gió, chắn ng̣i lại thăm.

Trước vào thuốc nạp một lần,

Sau vào đạn nạp là xong ba chày.

Tiếng thứ ba lay ng̣i dỗ thuốc,

Rồi lấy vung đậy lên.

Tiếng thứ tư cầm c̣ thổi lửa,

Vung liền giở ra.

Thứ năm hai tiếng liền ḥa bắn đi.

 

 

Thể lệ định phân số hộc phương thuốc súng.

 

Trong 100 cân cần dùng diêm tiêu 75 cân 10 lạng, lưu hoàng 11 cân 4 lạng, than 13 cân 2 lạng. giă chày nước 5 ngày đêm, thành thuốc 94 cân 11 lạng, trừ ngoài phi hao mất 5 cân 5 lạng. Giă bộ 6 ngày, thành thuốc 94 cân 8 lạng, trừ phi hao 5 cân 8 lạng. Thí nghiệm cho đúng thức hạng lớn 3 độ; hạng vừa 4 độ; hạng nhỏ 5 độ. Năm Tự Đức thứ 12 Binh bộ tâu xin 3 độ phải được 5 độ, 4 độ phải được 6 độ, 5 độ phải được 7 độ. Giă bộ 6 ngày, đổi làm 7 ngày. Kính vâng đă được chuẩn cho tại án.

 

Lại tra xét đến cách chế tạo ống phun lửa. Một ống cần dùng diêm tiêu 9 lạng 3 tiền 3 phân 4 ly, lưu hoàng 2 lạng 6 tiền 6 phân 6 ly. Than 1 lạng. Đến như thuốc đạn và phi hao th́ không có định lệ. Mỗi một ống cần dùng 3 tờ giấy định, 5 sợi mây, 1 tờ giấy đại chia làm sáu ống, để trang thuốc ng̣i, 1 tờ giấy trung làm ng̣i, chia làm hai ống để bọc thuốc ng̣i, giấy bản nhỏ 4 tờ để bọc ngoài ống, gạo trắng một bát để nấu hồ, phất giấy bọc 130 ống. Mỗi một ống đạn 5 lạng 9 phân, thuốc bắn 1 lạng 3 tiền 7 phân, thuốc phun 6 lạng 5 tiền 4 phân.

 

Thuốc ng̣i: Diêm tiêu 1 lạng 2 tiền 5 phân, lưu hoàng 3 tiền 5 phân, than 3 phân.

_____________________________

1. Tua noi: Tiếng xưa nghĩa là nên theo.

 

IX – HIỆU LỆNH

 

Nghiêm. Hiệu lệnh mỗi khi phát ra, ba quân run sợ. Nghe trống th́ tiến lên; nghe chiêng th́ dừng lại; nghe súng th́ đứng dậy; nghe kiểng th́ đi ăn; nghe thanh la th́ hăng lên; vẫy cờ th́ chạy; mưa không tránh vào nhà; nóng không cởi áo giáp; nhọc không được bỏ khí giới; thấy khó không lùi; gặp lợi không lấy; hăm thành không giết càn; có công không được khoe khoang; đi nhanh không nghe tiếng; địch xung mà không động; địch chấn mà không kinh; bị úp mà không chạy; bị cắt mà không chia. Thế mới là nghiêm.

 

Tài miệng lưỡi. Thánh hiền lấy không có tài miệng lưỡi mà miễn lỗi. Binh pháp lại lấy tài miệng lưỡi làm có công. Cho nên người giỏi dùng binh lừa dối cũng làm, phải trái dùng tài, có khi phạm đến việc trời, có khi phạm đến tục cấm, có khi giả làm quỷ thần, có khi thác làm mộng mị, có khi đưa vật ḱ quái, có khi đặt lời sấm dao1, cử động mỗi khi mỗi khác, tiếng nói tùy lúc trái nhau, cổ lệ ḷng quân, đập tan khí giặc, khiến người không thể lường được; khi th́ cấm làm càn, rồi lại dùng làm càn, bởi v́ lời nói càn dối, về việc chính đáng th́ không đủ cậy, mà về sự giả thác th́ lại có thừa.

 

Con gái. Đại tướng đời xưa, đôi khi có nhờ con gái. Gái dùng về văn để cho giặc vui thích chơi đùa; gái dùng về vơ để tiến đánh, ruổi xe, giải nguy, gỡ nạn, dùng cơ ứng biến, đều có lợi cả.

 

Văn. Vơ cố nhiên chỉ bàn về dũng. Nhưng tờ văn tờ hịch, có khi nhân một lời mà nước phục quân hàng. Sĩ tốt có hơi biết chữ th́ cưỡi ngựa ngâm thơ, đi đường hát lái. Điều lệ cấm lệnh, khi rỗi th́ khiến học tập cho quen, hiểu rơ được nghĩa, làm nhà binh quân tử sư nho2 th́ cũng không hại ǵ.

______________________________

1. Lời ca dao đồng dao có điềm tốt xấu về tương lai.

2. Nghĩa là người quân nhân mà biết chữ thông văn th́ cũng không hại ǵ.

 

*

*   *

 

Người ta do ḷng mà định lời nói, định lời nói để phát ra lệnh. Cho nên cần phải cổ vũ ḷng hùng dũng, nói ra lời cứng rắn, mài sắc ḷng sắt đá, nghiêm giữ khí phong sương, phát ra hiệu lệnh, nêu rơ phép quân.

 

Trước 3 ngày treo lệnh ở cửa quân(Treo mệnh lệnh trước 3 ngày rồi mới thi hành, để cho mọi người đều biết), sai quân chính đánh mảnh gỗ đi tuyên bố ở trong sáu quân. Ai phạm lệnh th́ sai quân chính theo lệnh tập họp quân nhân, rồi sau mới hành h́nh, khiến cho sáu quân đều biết cả.

 

Đại tướng đă chịu mệnh, nắm giữ quyền đánh dẹp, khao quân ở đồng nội, rồi mới xuống lệnh. Ai không theo lệnh th́ giết. Phàm nghe trống mà không tiến, nghe chiêng mà không dừng, cờ cất mà không đứng dậy, cờ hạ mà không phục xuống, thế gọi là quân trái; như thế th́ chém.

 

Gọi tên không thưa, vời mà không đến, đi về trái hẹn, hành động trái luật, thế gọi là quân lờn; như thế th́ chém.

 

Đêm giữ đánh kiểng, lười mà không đánh, giờ canh không đúng, khẩu hiệu không rơ, thế gọi là quân lười, như thế th́ chém.

 

Nói nhiều lời oán, giận không được thưởng, chủ tướng sai khiến th́ ương bướng khó trị, thế gọi là quân ngang, như thế th́ chém.

 

Oang oang cười nói như không có người, trên ngăn cấm không thôi, thế gọi là quân kiêu, phải chém.

 

Giữ đồ khí giới, dây cung th́ đứt, tên không có vè có mũi, gươm giáo han rỉ, cờ xí rách nát, thế gọi là quân dối, phải chém.

 

Nói vu nói dối, bày chuyện quỷ thần, giả thác mộng mị, lừa dối quan quân, thế gọi là quân yêu, phải chém.

 

Hễ đến nơi nào là lấn áp cư dân, thông dâm phụ nữ, thế gọi là quân gian, phải chém.

 

Nhanh mồm lém lưỡi, tranh căi phải trái, gây oán với quan quân, lệnh xuống không chịu theo, thế gọi là quân báng, phải chém.

 

Lấy trộm của người để làm của ḿnh, cướp thủ cấp của người để làm công ḿnh, thế gọi là quân trộm, phải chém.

 

Hoặc nghe bàn mưu kế và hiệu lệnh, đem nói ra ngoài, để địch nghe biết, thế gọi là quân bội, phải chém.

 

Khi sai làm việc, ngậm miệng không thưa, gục đầu cúi ḿnh, nét mặt khó khăn, thế gọi là quân nhát, phải chém.

 

Ra vượt hàng ngũ, tranh trước rối sau, bàn nói om ṣm, không theo lệnh cấm, thế gọi là quân rối, phải chém.

 

Thác đau ốm để trốn khó nhọc, thế gọi là quân trá, phải chém.

 

Cầm giữ tiền thưởng, trong khi ban thưởng th́ thiên vị người thân, khiến cho quan quân kết oán, thế gọi là quân sai, phải chém.

 

Xem giặc không rơ, thám giặc không tường, đông mà nói không đông, không đông mà nói đông, nhiều mà nói ít, ít mà nói nhiều, thế gọi là quân lừa, phải chém.

 

Trong khoảng dinh trại, không có việc khao thưởng mà vô cớ uống rượu, thế gọi là quân cuồng, phải chém.

 

Lệnh này đă lập, quan quân có ai phạm, theo quân pháp mà chém ngay.

 

*

*   *

 

Không dè dặt lời nói th́ mưu phải tiết lộ; không có lệnh nghiêm th́ việc hẳn rối; không ban thưởng th́ quân sĩ hẳn lười; hàng ngũ rối loạn do ở ám muội, phải xem xét rơ ràng để chữa đi; đêm hôm sợ hăi, cần phải nghiêm túc mà ngăn ngừa.

 

 

*

*   *

 

Quân địch vào sâu đất ta, thành quách không bền, lương cỏ thiếu thốn, giữ th́ không lợi, ở ta cần hẹn cho giặc là phải đánh. Kẻ nào nhát lùi th́ bảo cho là tất chết, kẻ nào đánh bắt được giặc th́ bảo cho là tất thưởng. Trong lúc đem quân ra trận, kẻ nào quay lại sau th́ chém. Đánh địch mà ḿnh không định, mắt thường lấm lét, th́ phải chém. Có sắc lo buồn mà xoăn xoe, nh́n nhau mà chập chừng mắt, bỏ chiêng trống mà không đánh, đều phải chém cả. Được một thủ cấp th́ cũng hậu thưởng. Như thế th́ có thể dùng thế tán địa1 mà đánh.

 

 

*

*   *

 

Đại tướng dùng lễ để thi hành thưởng phạt th́ quân sĩ không oán và người ta đều có ḷng sợ.

 

Các điều quân lệnh, phải nghiêm ở trước khi xuất quân, khiến cho tai mắt thấm nhuần, tránh không dám phạm.

 

- Giả làm vẻ đau ốm mà trốn đi đánh và đi nửa đường mà trốn đánh th́ chém.

 

- Cướp bóc tài vật của dân và hiếp dâm phụ nữ th́ chém.

 

- Đào trộm mồ mả để lấy của cải th́ chém.

 

- Nói chuyện riêng với địch để tiết lộ quân cơ th́ chém.

 

- Tự tiện vào nhà dân ngủ trọ, ĺa bỏ hàng ngũ, để mất trật tự th́ chém.

 

- Đêm hôm vô cớ mà tiếng to ầm ĩ, làm kinh động quân, th́ chém.

 

- Đêm hôm phát cháy, v́ không cẩn thận mà cháy th́ chém.

 

- Canh giữ và đi tuần sơ hở, kẻ địch thừa dịp hoạt động, th́ chém.

 

- Tự tiện giết tướng tốt đầu hàng th́ chém.

 

- Tướng tốt đầu hàng th́ cha con, vợ chồng không được khiến họ chia ĺa, làm trái th́ chém.

 

- Đánh nhau v́ tư thù mà đến chết th́ chém, người cai quản cũng bị phạt.

 

- Làm hại tài vật của dân gian và trêu cợt vợ con của dân th́ phạt trượng nặng.

 

- Chửi nhau riêng làm mất quân lễ th́ phạt trượng.

 

- Trên dưới tranh giành nhau làm mất trật tự th́ phạt trượng.

 

- Nhận riêng cơm rượu của người khác, để đến nỗi ăn lầm phải thuốc độc của địch, người cai quản bị tội nặng.

 

- Riêng cùng bọn phù thủy cùng người xem số, xem bói làm phiến động bằng việc họa phúc để cho quân t́nh ngờ vực, th́ phạt trượng.

 

- Say rượu nói xằng làm mất trật tự, sau khi tỉnh th́ phạt trượng.

 

- Phá rỡ nhà cửa của dân và chặt cắt hoa quả, th́ phạt trượng.

_____________________________

1. Thế tán địa là địa thế của quân đánh giặc ở trên đất của ḿnh.

 

Phát khẩu hiệu.

 

Buổi chiều, các viên cai án ở trong quân đều hầu quan tham tán, biên lănh khẩu hiệu, mỗi canh đổi một khẩu hiệu, mỗi khẩu hiệu hai chữ, hỏi một chữ, đáp một chữ, thí dụ hỏi chữ “vũ” th́ đáp chữ “cường”, hỏi chữ “dũng” th́ đáp chữ “yên”.

 

 

*

*   *

 

Sách Kinh thế:

 

Quân đi không có phép chung, th́ phần chia không thể hợp được, phần xa không thể ứng được, chỗ này chỗ kia làm sao hiểu được nhau, đó là đường thất bại vậy. Nhưng chung mà không kín, lại bị mưu địch th́ hỏng. Cho nên không những phải dùng cờ vàng, ngựa chạy, lệnh tiễn, lửa đốt, khói bốc để báo tin cần kíp, mà hai quân gặp nhau nên kết ám hiệu, đi xa ngh́n dặm nên dùng thư trắng viết không thành chữ, làm văn vô h́nh, làm thẻ không giấy để cho người đem đi không biết, người bắt được cũng không thấy ǵ, thực là thần vậy. Nhưng nếu cách địch khó đi, xa mà không tới được, th́ lại xem cơ mà làm.

 

 

*

*   *

 

Sách Vơ kinh:

 

Vơ vương hỏi: Ví như đem quân ta chia ra làm mấy nơi, muốn cho đúng hẹn về họp th́ làm thế nào?

 

Thái công nói: Phàm phép dùng binh, ba quân đông đúc tất phải biến, khi phân khi hợp, đại tướng nên định trước nơi chiến và ngày chiến, rồi sau truyền gửi hịch thư cho các tướng lại, hẹn kỳ đánh thành vây ấp, đều họp ở một nơi để bảo rơ ngày đánh và từng giờ từng khắc. Đại tướng đặt dinh bày trận, dựng cây đo bóng ở trước trại quân, dẹp đường mà đợi. Các tướng lại tới đó, so xem ai trước ai sau, người đến trước hẹn th́ thưởng, người đến sau hẹn th́ chém. Như thế th́ xa gần chạy họp, ba quân đều đến góp sức góp sức hợp đánh.

 

Vương hỏi: Ông giở sách Cấm thư1 xem ngũ âm thắng bại thế nào? – Thưa rằng: Phàm phép dùng binh, hiệu lệnh là tai mắt, dùng binh mà không rơ hiệu lệnh, như người mù đi đêm. Tôi xét trong kinh nói việc dùng binh, chuyên lấy hiệu lệnh làm gốc2.

_____________________________

1. Cấm thư: tức là binh thư, xưa là sách cấm.

2. Xem Vơ kinh trực giải, phần “Lục thao”.

 

BINH THƯ YẾU LƯỢC

 

QUYỂN II

 

 

 

I - HÀNH QUÂN

 

Trộm nghe luật quân rất nghiêm, nhà binh cần phải giữ vững. Cho nên nói “Tội lớn th́ giết, tội nhỏ th́ răn”, v́ muốn khiến ḷng quân sợ tướng hơn là sợ địch. Một khi quân lệnh đă ra th́ nghiêm như sương mùa thu, chẳng ai dám phạm. Do đó nên ngày xuất quân phải vời hết những người quản suất đến để bảo cho những hiệu lệnh ước thúc, cho sao chép lại để khiến mọi người đều biết. Có bao nhiêu điều kể rơ ở sau:

 

- Phàm quân đi phải dùng người hướng đạo, vẽ đồ, vẽ các sông núi, nơi hiểm nơi dễ, thế th́ như trông thấy giặc ở trước mắt. Trước hết kén những người am tường đường sá làm đội du binh (hoặc 2, 3, 4, 50 người , có ngựa th́ càng hay). Trong đội phái ra mỗi đạo 9 người, chia làm ba thứ, mỗi thứ 3 người (các ngă đường cũng vậy, đây là theo phép bát quái thám kị), mỗi thứ cách nhau ước một tầm trông, sai người nh́n xem, hoặc lên cao mà trông, hoặc leo cây mà trông, thấy rơ quân địch nhiều hay ít, hoặc dừng, hoặc đi, kíp xuống, chuyển về tŕnh báo. Nếu thám báo không thực th́ cứ luật nghiêm trị; thám báo được đúng th́ ghi tên khen thưởng.

 

- Mỗi một chi binh chia làm 3 toán, trung, tiền, tả, hữu, hậu đều thế (hoặc 1 đội làm một toán, 2 đội làm một toán), có chánh toán, có phó toán, khiến nương tựa lẫn nhau.

 

- Định đến ngày nào ra quân th́ truyền trước cho quản suất đều biết, để chuẩn bị lương thực, súng đạn, chông sắt cùng các hạng đồ sắt, mọi thứ đầy đủ (chông sắt để đặt ở đồn mà tự vệ, các hạng đồ sắt dùng để đẵn cây lấy gỗ làm đồn).

 

- Đến ngày, trước hết đánh ba hồi trống lớn, các quân họp cả. Phái người (hoặc thân hành th́ hơn) kiểm điểm số quân, khí giới và chông sắt đồ sắt các thứ cho đủ. Đến giờ lành, trước lấy tù và thổi ba hồi th́ quân cầm khí giới; 1 tiếng chiêng th́ quân đều bày hàng ngồi. Trống lớn tiên nghiêm đánh 3 tiếng (tiếng thứ nhất th́ lắng nghe, tiếng thứ hai th́ động tay, tiếng thứ ba th́ đứng dậy), 3 tiếng la đồng th́ mở cờ (đến tiếng thứ ba quân đều dựng cờ). Trống lớn 2 tiếng đánh cặp nhíp, quân đều cầm khí giới. Trống lớn 3 tiếng th́ đi. Như đi thong thả th́ trống lớn đánh 3 tiếng mmotj mà thưa, đi kíp th́ đánh mau. Như sắp đến nơi dừng nghỉ th́ trống đánh 3 tiếng rất gấp. Đă đến nơi đỗ th́ trống điểm 2 tiếng gấp, quân đi trước dừng lại. Trống đánh mau 6 tiếng th́ quân đi sau đến hết. Lại đánh 3 tiếng trống gấp th́ quân đều hạ khí giới, 3 tiếng là đồng th́ gác khí giới, quân đều nghỉ ngơi. (Quân tuy nghỉ ngơi mà khí giới tùy thân, ngồi đâu th́ ngồi đấy, không được om ṣm to tiếng và bỏ hàng vượt thứ. Trước hết du binh thay đổi nhau d

ḍ xét cẩn thận và lên cao trông xa bốn phía).

 

- Phàm quân đi, trừ quân tiền du ḍ đường, c̣n phải y theo thứ tự tiền, tả, trung, hữu, hậu mà mỗi toán cách nhau ước khoảng một tầm tên, không được quá xa, cũng không được quá gần. Lính nấu bếp đều phải theo sau toán quân của ḿnh, để chiếu cố nhau. Quân đi hàng đôi mà tiến, gươm súng xen nhau, dài ngắn cùng tiếp. Không được nói cười huyên náo và bỏ hàng mất thứ tự, ai trái th́ theo quân luật trị tội.

 

- Phàm quân đi, đă có du binh để thăm ḍ, thấy giặc th́ về báo, hoặc gấp quá không kịp về th́ bắn súng hay đánh một hồi thanh la để chuyển báo. Ở trung quân đại tướng tức th́ cho đánh một hồi thanh la, truyền hiệu cho các toán biết có gặp giặc, mọi người đều chỉnh bị súng ống nạp thuốc đạn để chờ đợi. Tùy theo số giặc nhiều hay ít, giặc nhiều th́ sai ba toán trước tiến lên bày trận đối địch, ít th́ sai một toán trước đối địch, hai toán làm tiếp ứng. (Phép dùng cờ ngũ phương sai đi, tiền quân th́ cờ đỏ, tả quân cờ xanh, hữu quân cờ trắng, trung quân cờ vàng, hậu quân cờ đen. Lệnh tiễn sai các tiểu chi cũng chiếu theo năm sắc năm phương làm chuẩn, không được trái lệ). Lại sai hai toán binh tả hữu, một toán tả một toán hữu t́m đường tất phải tiến đánh, như thế hai sừng trâu, gọi tên là trận Huyền vũ; sai một toán tả một toán hữu t́m thế ẩn để phục binh. Chánh toán tả, chánh toán hữu đều theo địa phận làm tả hữu ứng cứu. Lại sai hai chánh toán hậu với hai phó toán hậu làm hậu phục. Chánh toán hậu th́ chỉnh binh để pḥng sau, pḥng quân địch đánh tập hậu. Như tiền binh đắc thắng th́ không nên đuổi xa, hậu binh và tả hữu binh cũng vậy, v́ vậy binh quư ở vạn toàn. Đắc thắng th́ cấm các hạng quân nhân không được tham lấy tài vật của địch, sợ bị địch nhử mồi. Quân địch đă trốn xa, th́ đánh 2 tiếng trống lớn hẹn binh, 3 hồi chỉnh binh thành hàng. Đánh 1 tiếng la đồng th́ quân đều chỉ súng và khí giới về trước, quay mặt về đằng sau. Đánh 3 tiếng trống thong thả th́ thu quân về nơi cũ. Quân đă thắng trận càng nên cẩn thận hơn khi chưa thắng trận, v́ sợ quân thắng th́ sinh kiêu, điều đó nhà binh rất kỵ.

 

- Phàm quân đi, đến nơi nào có sông ng̣i nhỏ th́ phái du binh, hoặc chặt tre làm cầu, làm bè, hoặc quăng dây thừng sang trước, đi một dặm để thăm ḍ, về báo không có giặc, rồi sau phái binh, một phần nghiêm binh pḥng giữ, một phần đẵn tre chém cây làm cầu làm bè, giăng dây để sang, đừng nên nóng vội. Như gặp sông lớn th́ sức trước cho thuyền ghe chờ đợi, phái du binh sang trước, đi xa 1, 2 dặm, thăm ḍ xem có giặc hay không. Như có giặc th́ đừng sang sông, sợ giặc nhân ta sang nửa chừng mà đánh. Như thấy nước nông và trên thượng lưu có ngăn nước th́ cũng đừng sang, sợ địch phá nước ngăn, như kế Hàn Tín đánh úp Long Thư1. Nếu báo quả không có giặc, th́ phải cho ba toán tiền chi sang trước, cách chừng một tầm trông, bày binh sắp hàng để pḥng ngự không ngờ, rồi sau mới theo thứ tự tả, tiền, trung, hữu, hậu mà sang. Đường sau cũng phái du binh thám xét, sợ quân giặc nhân ta sang nửa chừng mà đánh úp hậu binh ta, không thể không cẩn thận được. Khi đă sang xong th́ mới vời du binh mặt sau sang theo sau. Binh xuống thuyền sang sông, th́ y theo đơn vị, giữ súng và khí giới, hoặc gặp sóng gió cũng không kinh động, thế th́ không có sự lo bất ngờ.

 

- Phàm quân đi, gần đến giới phận rừng núi th́ trước phái du binh và người địa phương lén vào rừng rậm, hoặc lên cao, hoặc trèo cây, hoặc t́m hang sâu bụi rậm, xem có quân giặc hay không, rồi về báo. Nếu có giặc th́ ta giành trước lấy nơi cao hay nấp chỗ rậm, rồi sau theo phép trận “song đầu”, bày hai hàng gươm súng xen nhau, vừa bắn vừa tiến, như lăn ṿng tṛn, gọi là trận “Ngô công cuốn đất”. Nếu không có giặc, th́ cũng y theo hai hàng mà chuyển qua, giữ cho không ngại v́ việc binh phải giữ ǵn, không thể không cẩn thận được.

_______________________________

1. Kế Hàn Tín đánh Long Thư: Thời Hán Cao tổ, Hàn Tín đem quân đánh Tề, Tề cầu cứu với Sở, Sở sai Long Thư đem 20 vạn quân đến cứu Tề. Đánh nhau ở Duy-thủy, Tín sai quân lính đêm làm hơn 1 vạn cái túi chứa đầy cát đem ngăn chặn ḍng nước bên trên, không cho chảy xuống, rồi đem quân sang nửa sông đánh nhau với Long Thư. Tín giả cách thua, chạy về, Long Thư đem quân lội qua sông để đuổi. Tín sai người dỡ túi cát, nước chảy xuống mạnh, quân Long Thư quá nửa không qua được sông, Tín đánh gấp, giết được Long Thư.

 

*

*   *

 

Sách Ngô tử:

 

Phàm binh nổi lên là v́ năm cớ:

 

1) Tranh danh; 2) Tranh lợi; 3) Tính ác; 4) Loạn trong; 5) Nhân đói.

 

Lại có năm tên là: 1) Nghĩa binh; 2) Cường binh; 3) Cương binh; 4) Bạo binh; 5) Nghịch binh. Trừ bạo cứu loạn là nghĩa binh, cậy đông mà đánh là cường binh, nhân giận mà dấy binh là cương binh, bỏ lễ tham lợi là bạo binh, nước loạn người khổ mà nổi lên là nghịch binh. Muốn phục năm hạng binh ấy đếu phải có phép. Làm cho nghĩa binh phục th́ dùng lễ. Làm cho cường binh phục th́ dùng khiêm tốn. Làm cho cương binh phục th́ dùng lời lẽ. Làm cho bạo binh phục th́ dùng biến trá. Làm cho nghịch binh phục th́ dùng quyền biến1.

 

 

*

*   *

 

Đời xưa quân có thập và ngũ; xe có hàng lối; trống khua cờ vẫy, người lên thành trước phần nhiều là những quốc sĩ giỏi cả, người chết trước cũng thường là người quốc sĩ giỏi. Tổn địch một người mà tổn ta đến hàng trăm người, đó là giúp địch và hại ta, thế tướng2 không hay cấm được. Đánh giặc chia quân mà trốn về hay lâm chiến mà vỡ chạy th́ hại lắm, thế tướng không hay cấm được. Giết người ngoài trăm bước là cung tên; giết người trong 50 bước là giáo mác. Tướng đă đánh trống mà sĩ tốt cứ ồn ào, bẻ tên, bẻ mác, ôm kích, sau khi thấy có lợi mới đánh, có mấy hạng người ấy th́ tự thua ở trong rồi, thế tướng không hay cấm được. Quân sĩ lỗi thập ngũ, mất xe, hao binh tổn tướng mà chạy, đại chúng cũng chạy, thế tướng không hay cấm được. Phàm tướng có thể cấm được bốn điều ấy th́ núi cao cũng sập, nước sâu cũng lấp, trận bền cũng phá. Nếu không cấm được bốn điều ấy th́ cũng như mất thuyền lái mà cách sông ng̣i, không thể được vậy.

 

Khi lấn vào đất giặc, gặp chốn đồng bằng nội rộng, th́ nên kết trận. Nếu gặp núi sông hiểm trở th́ kíp sai kiêu kỵ du binh ḍ thăm trước sau. Hễ thấy núi cao rậm rạp, hang hốc ghồ ghề, th́ tiền quân từ từ mà tiến để đợi hậu quân, rất không nên cách xa gián đoạn, đó là yếu lược để giữ hiểm pḥng nguy vậy.

 

Khi lấn vào bờ cơi địch mạnh, dẫu rằng có đường, nhưng phải tiến trộm, cũng sai du binh lên g̣ cao, xem xét kĩ càng cả trước sau tả hữu, nếu thấy nơi nào có đàn chim sợ bay, chồn vượn chạy rối, hay cỏ cây không có gió mà động và đất bụi lầm trời, th́ dưới hẳn có quân phục, phải trở về báo với chủ tướng, dừng quân kết trận mà đóng lại để chờ xem cơ giặc thế nào. Đó là yếu lược để xét quân ẩn phục vậy.

 

Vào sâu đất địch, gần tới khoảng đường trọng yếu, chợt thấy sắc cỏ mới khô héo th́ ở dưới hẳn có sự trá ngụy, xem xét kĩ càng rồi hăy đi; nếu gặp cầu, trước hăy đem vật nặng đè lên, rồi sau sẽ đi, không làm thế th́ sợ có vạ sa sụp. Đó là yếu lược cẩn thận về đất và cầu vậy.

_________________________________

1. Ngô tử, thiên I.

2. Thế tướng: Ông tướng tầm thường ở đời.

 

*

*   *

 

 

Sách Yên thủy thần kinh:

 

Phép sang sông.

 

Phàm sang sông, trước hết phải chuẩn bị cầu phao bè gỗ, dự sai du binh sang trước, ḍ thăm những nơi trọng yếu, quả không có quân phục, th́ tới nơi rộng răi, bày mở thế trận để đợi, rồi sau mới cho đại quân sang.

 

 

Phép gặp ng̣i.

 

Phàm quân đi gặp ng̣i rộng 5, 3 trượng, trước kia đă có cầu nhỏ, th́ bỏ ngựa lại, sai ba quân mỗi người bó một bó củi để bỏ xuống đó, ngựa và người có thể sang qua.

 

 

Phép lạc đường.

 

Phàm quân đi gặp rừng núi, trời chiều lạc đường, th́ thả một con ngựa già đi trước rồi theo sau th́ có thể gặp đường, v́ ngựa già có thể biết đường.

 

 

*

*   *

 

Sách Tôn tử:

 

Phàm phép dùng binh, xe ruổi1 ngh́n cỗ, xe da ngh́n cỗ, quân mặc giáp 10 vạn Người giỏi dùng binh th́ việc phu phen binh lính không đ̣i gọi hai lần, chở lương không bắt đến ba lần. Lấy dùng ở trong nước và nhân lương của địch, cho nên quân có đủ ăn. Nước nghèo th́ lương quân phải vận tải xa, vận tải xa th́ trăm quân khổ. Gần chỗ quân đóng th́ bán đắt, bán đắt th́ trăm họ hết của, của hết th́ sưu dịch ở làng xóm cũng lúng túng. Sức cạn của hết, trong nước nhà cửa đều rỗng không; trăm họ hao phí, 10 phần mất 7; nhà nước hao phí, nát xe mệt ngựa, giáp trụ, cung tên, mâu thuẫn, sào chèo, trâu to xe lớn, 10 phần mất 6. Cho nên người trí tướng cốt t́m ăn ở địch; ăn ở địch, một chung đỡ cho ta 20 chung, một thạch đỡ cho ta 20 thạch. Cho nên giết địch là v́ tức giận, lấy của địch là v́ lợi ở của cải. Cho nên khi đánh nhau bằng xe, được 10 cỗ trở lên th́ thưởng cho người được trước, rồi thay đổi cờ xí, xáo trộng xe mà ngồi, binh lính th́ khôn khéo mà nuôi. Thế gọi là thắng địch để làm mạnh thêm cho ta. Cho nên việc binh quư thắng mà không quư lâu. Cho nên tướng giỏi là người giữ tính mệnh của dân, là người chủ an nguy của nhà nước vậy2.

________________________________

1. Xe nhẹ thắng bốn ngựa.

2. Tôn tử, thiên II.

 

*

*   *

 

Ngh́n dặm chở lương, phí tổn trong ngoài, tiêu dùng tân khách, vật liệu như keo sơn, đồ đạc như xe giáp, mỗi ngày phí ngh́n vàng, rồi sau mỡi cử vạn quân được.

 

 

*

*   *

 

Sách Kinh thế:

 

Đi. Khi đi vào chỗ hiểm nên ngại có quân, sang sông cũng rất ngại bị xẻ nước. Đi ban ngày sợ có quân xông đến. Nghỉ ban đêm lo có địch quấy rối. Đă chặt đứt th́ nối liền; khó nhanh chóng th́ đi cuốn1. Một chỗ không pḥng th́ lỗi sơ suất. Trước vẽ địa h́nh để xem đại thế; lại t́m người thổ trước để dẫn đường. Dù cho một bụi rậm, một suối nước cũng phải biết hết, rồi sau mới có thể hành quân.

 

Đi nhanh. Quân đi quư, đi thong thả, để nuôi sức. Chỉ khi nhân lúc người ta không pḥng bị và lợi ở đánh gấp th́ nên gấp đường đi nhanh. Ban ngày đi nhanh th́ cuốn cờ nghỉ trống, ban đêm đi nhanh th́ cuốn giáp ngậm tăm. Đi nhanh một ngày th́ sức mệt. Đi nhanh cả ngày và đêm th́ tinh thần uể oải. Một ngày đi nhanh được một trăm mấy chục dặm đường; ngày đêm đi nhanh được hai ba trăm dặm đường. Đi đường gần th́ đứt không thành hàng, quân khó đến hết, đi gồm đường xa th́ bỏ đại quân mà tiến, cho nên đại quân ở xa lại sau, người không kịp ăn, ngựa không kịp nghỉ, nhọc mà ít người theo kịp. Nếu không phải cậy vào sức đánh bền giỏi, sức địch đă nhụt gẫy và h́nh thế núi sông đă hiểu suốt, th́ sao dám làm như thế? Cho nên không phải toàn lợi mà không hại. Cẩn thận chớ cho quân đi nhanh là giỏi vậy!

 

Sách Vơ kinh:

 

Thái công nói2: Phàm phép cầm quân nên trước cho quân đi thăm ḍ xa, cách địch 200 dặm, biết rơ chỗ quân địch đóng; nếu địa thế không tiện th́ lấy xe vũ xung của ta làm lũy mà đi tới trước và đặt hai lớp án binh ở sau, lớp xa th́ cách 100 dặm, lớp gần th́ cách 50 dặm. Phải có quân cảnh cấp để trước báo cho nhau biết. Quân ta thường được vững bền, hẳn không thương tổn.

 

Núi quanh ở đường, không nên đi càn v́ sợ có quân phục ở trước vậy. Núi phục ở sau th́ nên đi cho chóng qua, kíp lấy binh giữ đàng sau, sợ có giặc đánh cắt đường sau vậy. Nước cạn mà có khi đầy th́ đừng lội, v́ sợ có mưu túi cát lấp ngăn. Nước đứng mà bờ có bùn lầy th́ đừng lội, v́ có nạn sa lầy. Nước ở nơi hiểm yếu của địch mà không thấy có quân đội canh pḥng, chưa nên lội ngay, trước hết phải sai tinh binh ḍ xét những chỗ hang núi gồ ghề, v́ sợ có quân phục vậy.

_________________________________

1. Đi cuốn: Tức đi theo phép Ngô công cuốn đất nói ở trên.

2. Bổ sung theo chương 39 “Tuyệt đạo” của sách Vơ kinh trực giả quốc ngữ ca.

 

*

*   *

 

Sách Kinh thế:

 

Binh nặng th́ trệ mà không nhanh, binh nhẹ th́ tiện mà nhiều lợi. Nặng mà có thể chia ra th́ lợi gấp bội. Đóng dinh mà chia ra, để pḥng đánh úp; bày trận mà chia ra, để ngừa giặc xông vào; đi mà chia ra, sợ bị chặn cắt; đánh mà chia ra, sợ bị cướp đánh; quân lẻ mà chia ra để đón lúc sơ; quân nhiều th́ có thể chia để dùng làm binh kỳ; quân ít cũng có thể chia để biến hóa. Binh không nên giao việc nặng; cũng không cho đi làm việc xa. Khí giới hiếm th́ chậm phát. Hợp quân cho mạnh uy, chia quân ra để nắm thắng. Tay cầm mấy mươi vạn quân mà không bị ứ đọng là v́ biết phép chia quân vậy.

 

Quân đi phải trương thế ra, xếp đặt cờ trống, rộng khua trông chiêng, lấy ngh́n làm vạn, lấy ít làm nhiều, lấy yếu làm mạnh, lấy thắng giả mà làm ra thắng; cương tất thắng nhu, thực tất thắng hư, lớn tất nuốt nhỏ. Đó là lẽ tất nhiên vậy.

 

Đại quân chưa tiến, uy dũng phải trương ra trước. Ở phép dùng du binh ư? Tất hai bên tả hữu phải lập đội đầu và đội thứ nh́, do tướng giỏi thống ngự, làm như trương hai cánh mà tiến lên. Một là có thể thăm ḍ quân địch đi đứng thế nào; một là có thể xem xét quânđịch có mai phục hay không; một là có thể chợt gặp địch th́ giúp đại quân ta mà đánh. Đội đầu th́ đi trước mà xem xét, đội nh́ th́ dựa hai bên cánh tả hữu quân ta mà đi. Khi đội đầu đă đi tuần đến, th́ ví như ở ngh́n dặm mà lập dinh. Kịp khi quân đến dinh, th́ đội nh́ lại đi trước mà xem xét, đội đầu lại dựa hai bên cánh tả hữu mà đi. Đội nh́ lại đi tuần đến ví như ở ngh́n dặm mà lập dinh; đội đầu lại theo như phép cũ mà đi. Cứ lần lượt ṿng quanh, nối nhau không dứt, th́ du binh tả hữu tuy chỉ có hai đội, mà quân đi ngh́n dặm đều có cánh vậy. Vả một lần đi một lần xét, thay đổi mà tiến, càng không lo mỏi mệt.

 

Phép hành quân, mới ra đi cần phải nghiêm túc, chỉnh tế hàng ngũ, khiến ba quân như một người, để tới thành công vậy. Đặt đàn hai tầng, trên lễ ngũ đế ngũ tướng(Ngũ đế là năm vị thần chủ năm phương: Trung ương Hoàng đế, Đông phương Thanh đế, Tây phương Bạch đế, Nam phương Xích đế, Bắc phương Hắc đế. – Ngũ tướng là năm vị thần sao là Thiên-mục, Văn-xương, v.v…), dưới lễ các danh tướng cổ kim và các sao tướng tinh. Khiến tướng quân mặc đồ nhung phục, cầm cờ kiếm, các viên biệt tướng, tham tri, đốc thị, tề chỉnh làm lễ. Trước kén một viên mẫn cán ở trung quân cho đeo ấn tiên phong, đem một chi quân bản lănh tiến đi trước, gặp nước th́ bắc cầu, gặp núi th́ phá đá, cắt trừ gai góc, cho tiện quân đi. Phàm gặp sông to, núi lớn, miếu thiêng th́ làm lễ. Quân đi một ngày 30 dặm th́ nghỉ, để ngừa sự chẳng ngờ. Chỉ trông quân là biết ngay được thua. Khi dừng th́ vững như núi không thể chuyển, khi tiến th́ nhanh như gió không thể theo. Trông như mây liền nước chảy. Như có một trăm quân đi trước, chợt đến nơi hiểm địa, bị giặc vây trước sau, tức th́ ở mặt trước sai quân tinh nhuệ đặt đồn lũy để cố giữ, thay đổi nhau mà bắn để làm thế hoăn chiến, đợi đại quân đến, thấy quân giặc rối loạn th́ đánh ngay.

 

*

*   *

 

Sách Vơ bị chế thắng chí:

 

Quân sĩ chưa xuất phát, trước 3 ngày hạ lệnh cho các quân thu xếp hành trang, lương khô, giày dép và các vật tùy thân cho đủ, nghe lệnh th́ đi.

 

Như lúc hành quân, đem 100 quân đi tiên phong, trung quân c̣n ở xa, bất th́nh ĺnh gặp giặc th́ chia làm 5 toán, 2 toán làm chính, 3 toán làm kỳ. Như gặp địch đem binh chính tiến vào, th́ đặt quân phục, giả cách chạy; ba toán làm binh kỳ giữ vẹn hai bên tả hữu; quân khinh vệ đánh đàng trước; như thấy quân địch rối loạn th́ báo ngay cho trung quân tiếp chiến.

 

Không biết sông núi hiểm trở th́ không thể hành quân. Có người hướng đạo, trước phải biết chỗ đi chỗ nghỉ, đường thẳng đường cong, th́ mới có thể tiến binh; và nên đề pḥng những loại hướng dẫn không thực. Đường nhỏ hẹp hiểm trở, núi cao trại lớn, mười người giữ ngh́n người không qua được, nên trước sai người giả làm dân làng đi kiếm củi mà nḥm ngó, không có việc ǵ th́ hăy đi qua cho mau.

 

Đi qua những nơi quan sơn hiểm ải th́ sai du binh đi tiên phong trước, lên nơi cao nhất, trông khắp bốn mặt, sợ có quân giặc phục chặn. Như gần đó có rừng núi, cây cỏ um tùm, che kín người ngựa, phải xem xét, không có ǵ th́ về báo chủ tướng ngay, sẽ theo thứ tự mà cho người ngựa qua. Trước hết cho quân bản bộ qua, sau cho đội quân thứ nhất qua, ở nơi rộng răi đất bằng, sắp hàng đứng ở hai bên, rồi hậu đội theo thứ tự mà qua. Đội thứ nhất đến trước bày hàng đứng, chờ chủ tướng qua, người ngựa sang hết, bấy giờ mới cho đội thứ nhất đi lên, theo thứ tự, cứ y hàng ngũ mà đi. Tiền đội đă được nghỉ nhiều, theo thứ tự mà đi trước, hậu đội không đến nỗi khổ sở vội vàng, nếu có giặc đến đánh th́ cũng dễ đối phó.

 

Qua chỗ hiểm ải, không được kêu gọi ồn ào, sợ giặc nghe biết. Tuy là đi chóng, nhưng đội ngũ vẫn đầu đuôi tiếp nhau, không đến nỗi đứt quăng.

 

Hành quân qua nơi hiểm mà tiền đội gặp ngựa giặc, tức th́ sai người ngựa tiền đội đi chân mà chiếm lấy nơi cao phẳng, đứng yên đó, rồi truyền báo tin cho chủ tướng biết, lấy cờ trắng để tương ứng với hậu đội mà không sai người chạy về báo lại nữa. Nếu đàng trước có việc th́ cũng truyền báo ngay như thế. Trong khi vội không nên rối động. Nếu người và ngựa không rối loạn th́ ứng phó với địch cũng dễ.

 

Quân cưỡi ngựa trắng đi đường, cho cầm cờ năm sắc mỗi sắc một lá, cờ thêu một lá, phải định theo sắc của mỗi phương. Việc cần truyền báo th́ cứ theo từng đội mà truyền như trên kia, lần lượt mở một lá cờ để ứng, truyền đến hậu đội. Như đàng trước gặp rừng lớn th́ mở cờ xanh, gặp nước th́ mở cờ đen, gặp binh mă th́ mở cờ trắng, gặp núi hiểm th́ mở cờ vàng, gặp khói lửa th́ mở c̣ đỏ, gặp thành ấp th́ mở cờ hoa, theo từng đội, lâm thời mà một sắc cờ để ứng, truyền đến người sau cho đều biết để pḥng bị.

 

Các nơi đặt cờ không cho phạm với hiệu cờ của chủ tướng…

 

Quân đi qua sông, trước sai thủy thủ đi trước, thăm ḍ nông sâu thế nào. Như nước sâu mà không có bè, th́ dùng mấy sợi dây thừng to buộc vào cây rừng ở hai bờ, hoặc là đóng cọc mà buộc chắc, khiến người vin dây mà lội sang sông. Gươm giáo th́ cứ mười cái buộc làm một bó, ở chỗ cận tiện chặt tre gỗ làm mảng, dưới xếp gươm giáo, trên trải áo giáp, rồi dùng một cái dây thừng, xỏ ṿng lớn vào dây, cho người sang sông trước đứng ở trên bờ mà kéo qua sông; hoặc có thể dùng chum to, buộc lại làm cái bè chum; hoặc là dùng da dê lột cả con làm cái túi da, thổi hơi vào trong rồi thắt các miệng túi lại, mỗi túi có thể trở 2 người; hay là dùng mấy túi buộc lại thành bè, cũng có thể trở người sang được. Đội ngũ qua sông y theo phép vượt núi vậy.

Quân đi chỗ bùn lầy rất sâu, người ngựa khó tiến, dùng cây cỏ rải trên mặt đường, sau dùng đất kho rải lên, rộng hẹp tùy thời, người ngựa đều có thể qua được.

 

Quân đi có xe vận tải, hay phải khuân vác các vật lương thảo nhẹ nặng, th́ đều đi ở giữa đường, bị mưa th́ dùng giáp đội yểm hộ, sợ bị hại lương thảo của ta.

 

Quân đi gặp nước mà lấy múc nấu cơm, nên sai người bị tội chết hay con vật sắp bỏ uống thử nước ấy trước xem, sợ có người thả thuốc độc vào, người ngựa uống có khi bị chết. Qua sông cũng thử như thế.

 

Đi đường bùn lầy, trước sai người thăm qua, sợ có thả chông gai và đào hố sâu ở trong bùn, hay có ngăn tháo nước ở thượng lưu. Ngày xưa người Man Di là Trí Cao1 thả chông ở trong bùn và Hàn Tín đă xẻ tháo nước ngăn mà chém Long Thư.

 

Thuyền sang sông lớn, trước hết sai người ḍ xét, sợ quân giặc trước dùi ngầm lỗ để làm ch́m đắm quân ta.

 

Quân đi vào nơi rừng núi rậm rạp, phải đề pḥng có phục binh. Trước nên chọn quân khỏe mạnh 2, 3 trăm người lẻn đi vào nơi hiểm trở không có pḥng bị để chẹt giữ đường ra; lại chọn người mạnh dạn đi t́m ṭi ở đường, hoặc từ ngọn cây hay núi cao sai người trông xa, biết rơ không có quân ẩn phục, th́ chia binh trước sau để làm chiêu2, rồi sau mới cho xe cộ và những người già nhỏ đi trước, quân bộ kế tiến. Qua sông cũng như thế.

 

Quân đi, gặp rănh hố rộng dăm ba trượng, người ngựa không thể qua được, th́ sai trong quân mỗi người cầm một cái cọc gỗ và một bó cỏ hay củi, chuyền nhau lấp đi, thế th́ có thể qua được ngay.

 

Răn sự tiết lộ. Phàm ra quân đi đánh dẹp, chỉ sai thu nhặt hành trang, không cho biết sai đi nơi nào, sợ có kẻ gian ḍ thám cho giặc biết trước mà pḥng bị, lại đánh chặn quân ta.  Như muốn đi sang phía đông-nam để đánh úp giặc, th́ giả nói là đi tây-bắc, khiến quân địch không thể pḥng bị, để đánh bất ngờ.

 

Cẩn thận việc đi. Nếu giặc ở ngoài 30 dặm, phàm qua nơi hiểm trở, báo truyền lại xin cho quân qua hiểm, báo xong, trước cho gia đinh và tinh binh ở trung quân chạy đến chỗ hiểm để mai phục, xong th́ cử hiệu pháo một tiếng, đánh trống, cho binh sĩ qua hiểm. Phàm hành binh th́ trung quân ủy riêng một viên quan biết rơ đích xác, cùng đi với quân tiền tiên, cấp cho một số cờ ngũ phương. Có việc th́ mở cờ ra, gặp rừng cây mở cờ xanh, gặp sông chằm mở cờ đen, gặp binh ngựa mở cờ trắng, gặp núi hiểm mở cờ vàng, gặp khói lửa mở cờ đỏ, qua các vật thấy đó rồi th́ cuốn cờ lại. Phàm chiêu dao3, như đường có thể đi một hàng một th́ dựng một lá, hàng đôi th́ dựng hai lá hay đi hàng ba th́ dựng ba lá, đi hàng bốn th́ bốn lá, ở chỗ dinh đi được th́ mở năm lá. Hậu đội miệng truyền dần ở trước là sắc cờ ǵ, chiêu ǵ. Trung quân nổ ngay pháo hiệu đổi dinh và chuẩn bị hiệu lệnh.

 

Dẹp đường trước. Quân đi qua đâu th́ báo trước cho nhân dân sở tại, bốn mặt đều cách 3 dặm, cấm tuyệt người và súc vật; xe thuyền trên cạn dưới nước đều phải sửa soạn. Ngu hậu4 và du binh hẹn cho địa giới quân đi qua trước 20 dặm phải dẹp đường.

 

Dẹp hàng ngũ. Đội ngũ hành dinh lúc đi đường cần phải minh bạch nghiêm túc. Nhưng có khi bày hàng không đều, tḥ sau, thụt trước, thưa dày khác nhau đứt quăng không liền, đi rảo rối loạn, tự bỏ đội ngũ, đánh trống không đi, nghe chiêng không dừng, hạ cờ không nấp xuống, cất cờ không đứng dậy, mở cờ không tiếp, được lệnh không truyền, truyền lệnh không rơ, đường sá nghẽn tắc, nói cười ồn ào, đều phải trị bằng quân pháp, lâm địch th́ chém ngay.

________________________________

1. Tức là Nùng Trí Cao.

2. Làm chiêu, tức là chia binh và cờ ở dọc đường để dùng hiệu cờ mà báo tin cho nhau.

3. Chiêu dao, nghĩa đen là gọi và vẫy, ở đây là dùng hiệu cờ để báo tin cho người đi sau

4. Lính đi tuần.

 

Thu nuôi lính ốm. Phàm quân đi, gặp có người hay ngựa bị ốm,không thể đi được, khi lên đường th́ bẩm chủ tướng ngay, cấp cho tín phiếu, cho sai người  áp đưa đến thành quách phủ châu huyện dinh trại đồn sở ở địa phương gần đấy nhận về điều trị, đồng thời có những người quen biết của người ốm ở trong hàng ngũ th́ lưu lại 2, 3 tên để chờ người ốm. Những người lưu lại đó trông coi thuốc thang, bệnh khỏi th́ đưa ngay về bản dinh. Địa phương ấy phải làm tờ cam kết tra xét bệnh t́nh đă khỏi. Như bệnh khỏi mà không đưa về bản dinh th́ sở tại bị lấy luật hậu ḱ (trễ ḱ hạn) mà xử. Nếu có người chết ở chỗ hành quân, th́ bản đội ngũ đào mộ mà chôn, rồi lập tiêu chí, tướng lănh đem các đầu mục đưa thức ăn uống đem theo đến cúng. Làm trái th́ xử theo luật cố khí1. Xong việc sẽ trở lại lấy đem về.

 

Cẩn thận đồ rơi. Phàm quân đi ở đường, có đồ khí giới, đồ vật sót mất, ai trông thấy th́ thu nhặt ngay, đem về nơi đóng ngủ đưa cho quân, gọi người đến nhận lănh, người mất của và người được của sẽ chiếu cách thưởng phạt; ai ẩn giấu không báo th́ trị tội; cũng không được đưa riêng cho nhau.

 

Gặp vật quái dị. Quân đi gặp thấy chim muông ḱ dị, thần quỷ quái vật vào trong dinh lũy, hay là bắt được, th́ phải đợi báo cho chủ tướng. Nếu không báo mà tự quyền bày ra, họp chúng làm rầm rĩ lên, đều chiếu phép quân trong lúc lâm trận mà xử.

 

Hiểu rơ quân cơ. Phàm có người báo tin, hay quan và binh nghe được tin tức của giặc, đều không cho đón chặn ở giữa đường mà hỏi đáp nhau, phải ngậm miệng đi chóng đến chỗ chủ tướng mà bày tỏ, khi cho được tuyên bố với quân chúng th́ mới có thể nói với các quan bả tổng2. Nếu trước khi gặp chủ tướng mà dám ở giữa đường nhân có người hỏi mà nói ra, dù chỉ một người biết trước chủ tướng cũng coi là tiết lậu quân cơ, người hỏi người đáp đều xử theo quân pháp. Cho đến cả đối với các tổng tiêu3 và bè bạn trong bản dinh cũng không cho tiết lộ trước. Lại hoặc có người biết sau chủ tướng, đă được dặn ḍ không cho truyền nói nữa, không cho tiết lậu nữa, mà c̣n dám cố hỏi, th́ cho người bị hỏi bẩm lại, đều phải trị tội nặng cả.

 

Tập rèn mang nặng. Phàm quân đi đều phải mặc áo giáp đội mũ, cầm khí giới, ngơ hầu tới khi đánh địch th́ ḿnh nhẹ. Như đường xa trời nóng, được lệnh mới được thay đổi.

 

Chuẩn bị lương khô. Khi b́nh thường mỗi người lính đem 2 cân gạo, sao vàng 1 cân, giă nhỏ làm bột 1 cân, bọc riêng 5 cáp, lấy 5 cáp dùng dầu thơm làm bánh hấp chín, 5 cáp dùng rượu ngon tẩm phơi khô, khi nào tẩm không thấm nữa mới thôi, nghiền nhỏ bọc riêng, 5 cáp dùng muối ḥa dấm tẩm phơi, cũng không thấy thấm nữa mới thôi, nghiền nhỏ, bọc riêng. Trong khi hành quân, không bị giặc vây rất khẩn th́ không cho dùng, ra quân phải mang theo, quên đeo th́ cũng bị tội như mất binh khí.

 

Định dặm đường. Quân đi 30 dặm vào cơi khác, càng gần với giặc, nếu chợt gặp giặc, th́ quân có thể đánh không hại ǵ, v́ gân sức chưa suy. Nếu như vượt đường xa, người ngựa mệt mỏi mà th́nh ĺnh gặp giặc, mười người không địch nổi một người, th́ nên bố trí nghỉ ngơi như không có việc, th́ mới có thể giao phong được. Phàm từ giờ dần đến giờ tuất, mỗi ngày đi được 60 dặm, cứ 10 dặm th́ lại tề chỉnh nghỉ ngơi, 30 dặm th́ họp lại ăn lương khô.

 

Đi đường núi hiểm. Núi sâu đường hiểm, ngựa không được đi cùng hàng, người không được đi liền vai, sợ có quân phục của địch ở nơi đường hiểm, hoặc xô vào trước ta hay xông vào giữa ta, hay chặn đứt sau ta. Dù có quân đi tuần ngựa thám thính, sợ có khi t́m xét không đến, quân địch đánh lúc ta không ngờ, hay là quân tuần ngựa thám nhầm sấn vào giữa nơi quân phục của địch, bị hăm ở đó, không kịp báo, nếu ta mạo hiểm mà tiến, muôn một gặp địch ở đường độc đạo, nó có pḥng bị đợi ta không pḥng bị, núi hiểm cách trở, đầu đuôi khó ứng viện nhau, trong khoảng trăm bước trước sau chẳng cứu được nhau, nếu không pḥng bị trước th́ làm thế nào được! Nay dùng phép “liên châu đảo quyển”4 hay thế “phi thiên ngô công”5. Đại ước: Nay quân ở dinh có 1.000 người, chia làm 10 đại tiêu, mỗi 100 người làm một tiêu, cứ trong mỗi tiêu th́ dùng 2 lá cờ tiêu trưởng, 2 lá cờ trưởng hiệu, từ một tiêu bắt đầu đến 10 tiêu th́ thôi. Tiêu thứ nhất đi trước đến quăng đường thứ nhất, ngựa thám báo quăng đường thứ nhất không có sự ǵ, tiêu thứ nhất xem tiêu binh đến trước cầm lá cờ sắc ǵ, tức th́ ngả xuống theo chữ định hàng ngũ là h́nh núi, th́ chiếu h́nh ấy mà lập dinh, rồi lại cho ngựa tiến lên trước. Tiêu thứ hai lại lộn cuốn lên đoạn đường thứ hai ở trước, báo cũng như thế. Tiêu thứ hai lại xem tiêu binh cầm cờ sắc ǵ, chiếu h́nh mà lập dinh. Đến tiêu thứ ba, tiêu thứ tư, cho đến tiêu thứ mười cũng đều như thế. Nếu có tin báo có giặc, tức th́ phải đem tiêu ḿnh hơi lui về chỗ cửa đường ở giữa khoảng hai bên lập dinh của ta, nhằm thế bọc núi liền đồng mà lập trú dinh, thu những lính tiêu và ngựa thám về yên bài để giết giặc. Như giặc ở giữa đánh ra th́ hai bên núi đă có quân ta lập dinh trước, nó mở quân không được, sao dám đánh ở giữa! Như nó dám đến đánh giữa ta, th́ hai bên núi ta ra quân giáp đánh. Nó đánh ở dinh tả th́ dinh hữu ra quân cứu viện; nó đánh ở dinh hữu th́ dinh tả ra quân cứu viện. Nó lui th́ ta theo ngay sau. Dinh hậu lại như phun châu mà ra; lại tiếp nhau hạ dinh; đổi phiên nhau lui và đánh. Giặc mệt ta nghỉ. Thế th́ giặc không có thể đến đàng trước để đánh ta được. Nếu giặc phục binh từ trung gian vụt dậy mà ra, th́ quân ta hai đầu đóng ngay ở núi hiểm, các dinh trung gian của ta đều có thế liên châu, đánh tả th́ hữu đến, đánh hữu th́ tả đến. Quân ta ở trước chỗ đất cao để chờ địch, nó cũng không thể thi hành kế ǵ khéo hơn được. Quân ta trước đă lập dinh, hết thảy những địa lôi, bàn đinh, chông sắt, chông chà đều có thể bố trí được, mà hết thảy các súng ống đều quay ra ngoài để đợi địch đến. Ḷng quân thống nhất, không dám chạy tán, tự thấy hành dinh như sao, đây đó làm viện cho nhau, tới đâu cũng là có nhà, người trông thấy đều tự hăng hái, c̣n sợ ǵ địch nữa. Quân địch muốn xông vào giữa ta cũng không thể làm ǵ được. Nếu địch chặn đứt sau ta, th́ lấy lui làm tiến, quân tiêu sau quay làm quân tiêu trước, cuốn ngược mà quay về, địch cũng khó mà chạy được. Như gặp chốn sông lớn, đường hẹp th́ ta nên trước cho quân canh giữ, há lại khinh tiến để cho không có đường về hay sao? Xét xưa nghiệm nay, trong cuộc hành quân để đánh trận hiểm, muôn điều không hơn thế được.

_________________________________

1. Bỏ người bạn cũ.

2. Bả tổng là chức quan vơ cao cấp ở bậc cuối cùng chỉ huy một dinh hay một ti (đời Minh).

3. Tổng tiêu là chức quan vơ chỉ huy một tiêu.

4. Như xâu ngọc lộn cuốn.

5. Như con rết bay lên trời.

 

*

*   *

 

Vượt ng̣i rănh th́ có cầu bay; sang sông lớn th́ có đường Thiên hoàng. Nước thượng lưu xẻ xuống th́ có biển Bột hải.

 

Phàm thế lực của ta ngang với thế lực của địch, th́ chia quân làm ba nơi: tiền quân th́ ở chỗ hào sâu lũy cao, dựng cờ đánh trống, pḥng thủ cho bền chắc; hậu quân th́ chứa lương cỏ, không cho địch biết là ḿnh định đánh, cho quân nhuệ sĩ của ta ngầm úp ở trong, đánh vào lúc không ngờ, tức có thể thu công vạn toàn vậy. Hoặc sai tiền quân ta ngày ra khiêu chiến, quấy cho địch phải mệt nhọc, lại sai những người già yếu đánh trống qua lại, khi ở phía tả, khi ở phía hữu, làm cho nó phải nhọc, quân nó phải sợ. Sai quân cảm tử của ta, hoặc đánh ở trong, hoặc đánh ở ngoài, quân địch tất phải thua.

 

Phàm phép ra quân, trước hết cho đi ḍ xét ở xa, cách 200 dặm để biết địa thế và địch t́nh; lại đặt quân tiếp ứng ở sau ước 50 dặm. Như có sự khẩn cấp th́ trước sau báo cho nhau.

 

II – HƯỚNG ĐẠO

 

Không dùng người hướng đạo th́ không biết được địa lợi. Cho nên việc binh lấy trá mà làm, lấy lợi mà động, lấy phân hợp mà làm biến hóa. Cho nên khi nhanh chóng th́ như gió, khi thong thả th́ như rừng, khi lấn cướp th́ như lửa, khi không động th́ như núi; khó biết được ngầm, động như sấm dậy; cướp làng chia quân, mở đất phân lợi, theo quyền biến mà hoạt động.

 

Biết được núi sông, suối ngọt, cỏ nước, nhà ở, đường sá cong hay thẳng, th́ thưởng hậu, được người như thế th́ hậu đăi, gọi là binh hướng đạo.

 

Ngựa già khéo biết đường.

 

 

 

*

*   *

 

 

Phàm dùng quân sĩ, hoặc bắt tù làm hướng đạo, nên pḥng mưu giặc ngầm thi kế gian, bị nó dụ dỗ lừa phỉnh. Tất phải xem sắc mặt, xét ư t́nh, so sánh lời của mấy người, uốn nắn ráp nhau, rồi mới có thể tin dùng. Nên ban thưởng cho hậu, trao cho tước trật. Nên kén những người tâm phúc khôn ngoan, cho theo cùng đi. Nên đề pḥng cẩn mật họ hai ḷng. Nhưng không bằng lấy những người dùng được đă nuôi sẵn mà thường quen hiểu đường đi; cũng bất tất cứ phải người bản thổ. Như ở giữa đồng không, bốn phía không phân biệt được, lại gặp đêm tối, th́ nên trông sao Bắc thần1 và ngắm sao Trung tinh2 làm chính.

________________________________

1. Ngôi sao sáng ở đuôi sao Bắc đẩu, tức Estoile polaire.

2. Cḥm sao trong nhị thập bát tú ở giữa trời.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

.

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: