* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-07/2008 -08/2008 -09/2008 -10/2008 -11/2008 -11/2008
-12/2008 -01/2009 -02/2009 -03/2009 -04/2009 -05/2009
-06/2009 -07/2009 -08/2009 -09/2009 -10/2009 -11/2009
-12/2009 -01/2010 -03/2010 -04/2010 -05/2010 -06/2010
-07/2010 -08/2010 -09/2010 -10/2010 -11/2010 -12/2010
-01/2011 -02/2011 -03/2011 -04.2011 -05.2011 -06.2011
-07/2011 -08/2011 -09/2011 -10/2011 -11/2011 -12/2011
-05/2012 -06/2012 -12/2012 -01/2013 -12/2013 -03/2014 -09.2014 -10.2014 -12/2014 -03/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2016 -02/2016 -03/2016 -07/2016 -08/2016
-09/2016 -10/2016 -11/2016 -12/2016 -01/2017 -02/2017
-03/2017 -04/2017-05/2017 -06/2017 -07/2017 -08/2017
-09/2017 -10/2017 -11/2017 -12/2017-01/2018 -02/2018
-03/2018 -04/2018 -05/2018 -06/2018 -07/2018 -08/2018
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. Mar/2017.
Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017. Jul/2017. Aug/2017.
Sep/2017. Oct/2017. Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018.
Feb/2018. Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018. Nov/2018.
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT - EPOCH
Thư liên lạc
trinh bui
<trinhbui49@yahoo.com>
14:24, 16 thg 7,
2019 (4 ngày trước)
tới tôi
Bạn hiền thân
mến,
Chỉ qua một đôi
câu trao đổi, tao có cảm nghĩ là mày đang muốn một thứ lịch sử không
phải của các sử gia, bởi vì các sử gia đều viết theo thiên kiến của
chế độ mà họ đang phục vụ.
Vậy thì tao
thử gửi đến cho mày một cách nhìn lịch sử của cá nhân tao mà tao
nghĩ nó đúng như ý của mày.
Tao không
phải là một sử gia cho nên tao không hề sáng tác ra lịch sử.
Mà tao chỉ là một người đọc lịch sử, nhưng mà tao
đọc thiên kinh vạn quyển;
cho nên kinh nào, quyển nào nói mà tao tin được thì
tao cho nó vào kho kiến thức của mình, cái nào không tin thì tao
thẳng tay loại bỏ.
Sau đây là
loạt bài “Biên Khảo Về Nguyễn Tất Thành” mà tao đã đăng trên net.
Tao nghĩ trước là mày coi để hiểu hơn về ý hướng của tao.
Sau nữa là mày có thể giữ nó như một tài liệu lịch
sử để viết bài.
http://quanvan.net/bui-anh-trinh-bien-khao-ve-nguyen-tat-thanh/
Ngoài ra, để
mày hiểu hơn về cái nhìn của tao đối với con người của mày, tao gởi
đến mày 2 bài viết về Bảy Viễn và một bài về Tướng Nguyễn Ngọc Loan,
những con người mà tao cho là hảo hớn. Trong khi những sử gia của
các chế độ thì không khi nào có cái nhìn đúng về những nhân vật hảo
hớn của lịch sử.
https://vietcongonline.wordpress.com/2014/10/27/bui-anh-trinh-luc-luong-viet-minh-binh-xuyen/
https://vietcongonline.wordpress.com/2015/02/05/tuong-nguyen-ngoc-loan-triet-nhan-dieu-doi/
Tao rất vui
khi gặp lại mày và được biết “anh hùng vẫn chưa thấm mệt”. Tao vẫn
theo dõi hoạt động của mày từ ngày tao ra khỏi trại tù và bắt lại
được tin tức của mày.
Giờ đây gặp lại tao thấy mày vẫn là thằng bạn mà tao
đã mến mộ từ hồi nào tới giờ.
BÙI ANH TRINH
BIÊN KHẢO VỀ NGUYỄN TẤT THÀNH
Lịch sử chính trị
của Việt Nam trong gần 80 năm qua quy tụ xung quanh hoạt động của
nhân vật Hồ Chí Minh, do đó chỉ cần dựng lại bối cảnh 50 năm hoạt
động của ông Hồ Chí Minh thì kể như là giải thích toàn bộ mọi biến
chuyển khó hiểu của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20.
Một khi đã nói
lên sự thật trái ngược
với những sách vở trước kia thì không thể nào tránh khỏi đụng chạm
tới những nhân vật từng có nhiệt tâm với lịch sử, nhiệt tâm với đất
nước. Và cũng không
tránh khỏi được chuyện phải phản bác những luận thuyết từng thống
trị diễn đàn chính trị từ trước tới nay, phía bên này cũng như phía
bên kia.
Giờ đây đã tới
lúc phải trả lại sự thật cho lịch sử, nghĩa là phải chỉnh lại các
quyển sách lịch sử chính trị Việt Nam hiện được dùng để giảng dạy
tại các đại học Pháp, Hoa Kỳ cũng như tại Việt Nam.
Bởi vì những sách này hoàn toàn lỗi thời so với những tài
liệu mới đựoc giải mã và các hồi ký của những người trong cuộc mới
được đưa ra công khai trong vòng hai thập niên vừa qua.
BÙI ANH TRINH
(24) KHỞI THỦY CỦA VIỆT MINH
HỘI
Thế chiến thứ 2 bùng nổ, Stalin trở mặt liên minh với Đức và
Nhật
Năm 1939, tháng 2, tình hình thế giới căng thẳng; chiến tranh
là chuyện không tránh khỏi.
Nước Đức toan tính cùng với nước Ý thống trị Châu Âu, trong
khi đó nước Nhật cũng toan tính thống trị Châu Á.
Để chuẩn bị cho chiến tranh tại Châu Á, tháng 2 năm 1939 người
Nhật đưa một nhà cách mạng Việt Nam đang lưu vong tại Nhật là Hoàng
thân Cường Để sang Thượng Hải để thành lập lực lượng chính trị trong
giới Việt kiều lưu vong để dọn đường theo quân Nhật về nước.
Sau đó Cường Để sang Đài Loan lập một đài phát thanh tiếng
Việt phát về Việt Nam.
Lúc này tại Sải Gòn có ba tổ chức Cọng sản hoạt động rất mạnh
:
(1) Nhóm đảng viên
Đảng Cọng sản Pháp tại Sài Gòn thuộc hệ phái CSQT 3 ( Leninist ), do
Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Trần Văn Giàu… lãnh đạo.
Nhóm này chủ trương liên minh với Pháp để chuẩn bị cùng nhau
chống Nhật ( Chủ trương của ĐCS Pháp và của Stalin ).
(2) Nhóm CSQT 4 ( Trostkist ), do Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu,
Hồ Hữu Tường… lãnh đạo;
chủ trương chuẩn bị chờ Nhật hạ Pháp thì khởi nghĩa nắm chính quyền.
(3) Đảng Cọng sản
Đông Dương ( CSQT 3 ) do Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh
Khai, Phan Đăng Lưu… lãnh đạo;
chủ trương chống chống Nhật nhưng không liên minh với Pháp.
Lúc này Lê Hồng
Phong đang bị ở tù 6 tháng tại Chí Hòa vì tội sài căn cước giả.
Trước đó Lê Hồng Phong ( Ủy viên Trung ương CSQT ) chỉ thị cho
Hà Huy Tập ( Quyền Tổng bí thư ĐCSĐD ) phải hợp tác với
chính quyền Pháp và nhóm ĐCS Pháp tại Sài Gòn nhưng Hà Huy
Tập dứt khoát không nghe.
Lê Hồng Phong họp Trung ương ĐCSĐD cách chức Hà Huy Tập, đưa
Nguyễn Văn Cừ lên làm Tổng bí thư, Hà Huy Tập về Hà Tĩnh.
Năm 1939, ngày 23-8, Stalin bất thần trở mặt, ký hiệp ước bất
tương xâm với Đức; Hiệp
ước do Ribentrop của Đức ký với Molotov của Nga tại Mạc Tư Khoa.
Hitler sẽ chia cho Stalin một phần đất của nước Pháp.
Do đó ngày 1-9-1939 quân Đức tiến chiếm tỉnh Pologne của Pháp
thì ngày 17-9-1939 quân Nga tiến chiếm phía Đông của Pologne.
Cuối năm 1939 Lê Hồng Phong ra khỏi trại giam, kêu Hà Huy Tập
vào Nam. Tập giao Xứ ủy Trung Kỳ cho Tôn Quang Phiệt và Nguyễn Khoa
Văn, hai ông này đều là cựu tù Côn sơn, bị bắt vì theo Tân Việt Cách
Mạng Đảng. *( Hà Huy Tập về nước cuối năm 1936, rủ các ông cựu đảng
viên Tân Việt gia nhập ĐCSĐD;
gồm có các ông Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Khoa Văn, Lê Duẩn, Hà
Huy Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Thị Quang Thái, Đào Duy Kỳ, Đào
Duy Dếnh…Cũng có rủ Đào Duy Anh và Đặng Thái Mai nhưng hai ông này
từ chối ).
Năm 1939, ngày 1-9, Hitler xua quân tấn công Ba Lan, Thế chiến
thứ 2 bùng nổ. Ngày 3-9,
nước Anh và nước Pháp tuyên chiến với Đức.
Tháng 10, Stalin và Hitler ký thêm hiệp ước cùng nhau chia
đôi lãnh thổ Ba Lan.
Sau đó Stalin xúc tiến việc ký một hiệp ước bất tương xâm với
Nhật khiến cho Tưởng Giới Thạch phải quay sang vừa chống Nhật vừa
chống quân Cọng sản của Mao Trạch Đông.
Năm 1939, ngày 17-9, quân của Stalin theo chân quân Hitler
tiến chiếm phía Đông tỉnh Pologne của nước Pháp.
Chính quyền Paris ra lệnh đặt Cọng sản ra ngoài vòng pháp
luật. Tại Đông Dương,
thực dân Pháp nghe tin Stalin phản bội liền cho bắt hết những tay
Cọng sản Đệ Tam cũng như Đệ Tứ.
Cựu chủ nhiệm Báo Le Travaile Đặng Xuân Khu (tức là Trường
Chinh sau này) được một cán bộ Cọng sản nằm vùng tại Hà Nội là Vũ
Đình Huỳnh giúp trốn lên Phúc Yên.
Và Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt sau này)
cũng được Huỳnh giúp trốn về Phủ Lý.
Sau khi Đặng Xuân Khu và Hạ Bá Cang đi thoát thì Vũ Đình
Huỳnh bị bắt.
*Chú giải : Đặng Xuân Khu là người làng Hành Thiện, huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định.
Năm 1926, 19 tuổi, bị đuổi học tại trường Tiểu học Nam Định vì tham
dự biểu tình trong dịp đám tang Phan Chu Trinh.
Năm 1927 cùng Nguyễn Đức Cảnh tiếp tục sự học tại trường Bưởi
Hà Nội. Năm 1929 theo
học trường Cao đẳng Thương Mại Hà Nội.
Năm 1930 theo Nguyễn Đức Cảnh gia nhập Đông Dương Cọng sản
Đảng của Ngô Gia Tự. Bị
bắt cuối năm 1930 trong biến cố Sô Việt Nghệ Tĩnh.
Được thả năm 1936 trong dịp Mặt trận Bình Dân cầm quyền tại
Pháp.
Trong thời gian 6 năm trong nhà tù Sơn La, Đặng Xuân Khu kết
thân với một người cùng làng Hành Thiện tỉnh Nam Định, đó là ông
Nguyễn Thế Rục là 1 trong 5 người của chi bộ Cọng sản Việt Nam đầu
tiên được CSQT thành lập tại Mạc Tư Khoa. Bốn người kia là Trần Phú,
Ngô Đức Trì, Bùi Lâm, Bùi Công Trừng.
Khi mới bị bắt vào tù Đặng Xuân Khu cũng chưa rành về học
thuyết Cọng sản, nhưng ông đã được học hỏi nhiều nơi Nguyễn Thế Rục.
Năm 1936 cả hai ông được thả nhờ ảnh hưởng của Mặt trận Bình
Dân bên Pháp, cùng nhau về Hà Nội tiếp tục hoạt động chính trị với
nghề làm báo, các ông đã liên minh với nhóm Đệ Tứ Quốc tế tại Hà Nội
để lập ra tờ tuần báo Le Travaile rất nổi tiếng.
Đáng tiếc là đến năm 1938 thì Nguyễn Thế Rục chết vì bệnh lao,
công việc điều hành tổ chức CSVN được giao cho Bùi Công Trừng.
Tuy nhiên Trừng mới từ Côn Đảo ra Hà Nội nên chưa nắm vững
tình hình, mọi công tác tuyên truyền tạm thời do Đặng Xuân Khu cáng
đáng.
Năm 1940, ngày 17-1, sau khi Stalin đưa quân chiếm tỉnh
Pologne của nước Pháp, chính quyền Pháp tại Đông Dương quyết định
bắt hết các tay Cọng sản trên toàn Đông Dương.
Ngày 17-1, tại Sài Gòn, Tổng bí thư ĐCSĐD là Nguyễn Văn Cừ bị
bắt cùng với Võ Đình Hiệu, Lê Duẫn, Vũ Thiên Tân.
Ngày 6-2, Lê Hồng Phong bị bắt ở Phan Thiết.
Ngoài ra nhóm Cọng sản Đệ Tam thuộc ĐCS Pháp là Nguyễn Văn
Tạo, Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Sô
cũng bị bắt tại Sài Gòn.
Đến tháng 8-1940 thì Nguyễn Khoa Văn bị bắt tại Huế.
Năm 1940, chính quyền thực dân Pháp lập phiên tòa xử án các
chính trị gia về tội lập hội kín, phá rối trị an:
Các ông Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phạm Ngọc Cư, Nguyễn Văn
Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Sô, mỗi người 5
năm tù ở và 10 năm biệt xứ ( Biệt xứ nghĩa là không được trở lại nơi
từng sinh sống trước khi bị bắt ).
Các ông Võ Công Tồn, Hồ Hữu Tường, Trần Văn Thạch, mỗi ông bị
4 năm tù, 5 năm biệt xứ. Các
ông Nguyễn Văn Sâm, Trương Lập Tạo, mỗi ông bị 3 năm tù, 5 năm biệt
xứ.
Năm 1940, ngày 1-5, Hà Huy Tập bị bắt tại Hà Tĩnh, bị tuyên án
5 năm tù vì tội hoạt động chống Pháp.
Nhóm khởi thủy của Việt Minh Hội
Năm 1940, tháng 5, một người trong nhóm Thiết Huyết tại Côn
Minh là Bùi Đức Minh về Hà Nội thăm dò tình hình nhưng gặp lúc người
Pháp đang tổng truy nã các chính trị gia từng can án, trong số đó có
hai nhà báo là Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp, ông Minh vội dẫn hai
ông chạy trở về Côn Minh.
Tại thành phố Côn Minh các ông gặp Hoàng Văn Hoan từ Thái Lan
lưu lạc sang từ năm 1935.
Ông Hoan và ông Đồng quen biết nhau vì cùng học một khóa huấn
luyện tuyên truyền của Lý Thụy vào năm 1927.
Sau đó Hoan giới thiệu Đồng và Giáp cho Vũ Anh, Phùng Chí
Kiên và Cao Hồng Lãnh.
*Chú giải : Hoàng Văn Hoan sinh năm 1905 tại Nghệ An.
Năm 1926 tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội
tại Trung Kỳ, được đưa đi học khóa huấn luyện tuyên truyền do Lý
Thụy ( NTT ) tổ chức tại Quảng Châu.
Tuy khóa học có 2 tháng nhưng nhờ dịp này ông làm quen được
với bạn cùng theo học là Tôn Đức Thắng và Phạm Văn Đồng, cũng là
đảng viên Việt Nam thanh niên cách mạng Đồng chí hội.
Năm 1928 Hoàng Văn Hoan lưu lạc sang Thái Lan và sống trong
cộng đồng người Việt.
Tại đây vô tình ông gặp lại người thầy dạy chính trị là NTT.
Lúc này NTT vừa mới từ Châu Âu về nằm chờ thời tại Thái Lan.
Nhưng đến năm 1930, Chính phủ Thái Lan ký hiệp ước với Toàn
quyền Pháp tại Đông Dương, cho truy bắt các nhà hoạt động cách mạng
Việt Nam thì NTT biến mất.
Hoàng Văn Hoan không ngờ là NTT đã di cư tị nạn tại Hồng Kông
và rồi bị bắt vì tội hoạt động gián điệp cho CSQT.
Năm 1935 Hoàng Văn Hoan cùng với một người bạn là Đặng Văn Cáp
từ Thái Lan lưu lạc sang Trung Hoa, gặp được người đồng hương Nghệ
An là ông Hồ Học Lãm. Hai ông theo Hồ Học Lãm tham gia thành lập
Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội. Sau đó Hoàng Văn Hoan cùng Đặng Văn
Cáp về sinh sống tại thành phố Côn Minh thuộc tỉnh Vân Nam là tỉnh
giáp giới với tỉnh Lào Cay của Việt Nam. Tại Côn Minh Hoàng Văn Hoan
làm quen được với một người làm tài xế cho hãng dầu cù là Vĩnh An
Đường, người tài xế tên Vũ Anh , bí danh là Trịnh Đông Hải.
Vũ Anh được Lê Hồng Phong kết nạp vào ĐCSĐD năm 1933 và giao
cho nhiệm vụ lập cơ sở tại Vân Nam, bắt liên lạc với trong nước.
Tuy nhiên sau đó Lê Hồng Phong trở lại Ma Cao hoạt động với
Hà Huy Tập rồi về Việt Nam và bị bắt nên Vũ Anh hoạt động độc lập.
Trong khi hoạt động Vũ Anh có liên lạc với nhóm Thiết Huyết là
một nhóm cán bộ Việt Nam Quốc dân Đảng ly khai khỏi đảng của Vũ Hồng
Khanh. Vũ Anh dự trù sẽ giới thiệu nhóm này với Lê Hồng Phong nếu
sau này Lê Hồng Phong trở lại Vân Nam.
Đến năm 1939 một lãnh tụ của ĐCSĐD là Phùng Chí Kiên bị chính
quyền Hồng Kông truy nã nên chạy về Vân Nam gặp Vũ Anh và Hoàng Văn
Hoan.
Phùng Chí Kiên là người huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An.
Năm 1926, 25 tuổi, ông cùng với một người cùng quê là Nguyễn
Sơn lén sang Hoa Nam tham dự khóa huấn luyện chính trị của lãnh tụ
Cọng sản Bành Bái. Sau 2
tháng thì mãn khóa học, ông và Nguyễn Sơn được người đồng hương Đinh
Tế Dân giúp theo học trường Võ bị Hoàng Phố với tên là Mạch Văn
Liệu. Năm 1929 ông tham
gia cuộc nổi dậy tại vùng Sơn Đông tỉnh Quảng Châu rồi cùng với
Nguyễn Sơn gia nhập Đảng Cọng sản Trung Hoa.
Năm 1932 ông được ĐCS
Trung Hoa gởi sang Mạc Tư Khoa theo học trường Stalin cùng với một
người Việt Nam khác là ông Trần Văn Diệm.
Nhưng sau khi tốt nghiệp, năm 1934 ông được CSQT cử về Trung
Hoa giúp Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập dựng lại ĐCSĐD bị tan nát sau
biến cố Sô Viết Nghệ Tĩnh ở Việt Nam và biến cố Cục Phương Đông ở
Thượng Hải trong năm 1931.
Năm 1935 ông tham dự đại hội Đảng tại Ma Cao, được bầu vào ban
chấp hành trung ương Đảng.
Năm 1936 Phùng Chí Kiên theo Hà Huy Tập dời Tổng bộ ĐCSĐD về
Sài Gòn nhưng sau đó ông được cử trở lại Trung Hoa để phụ trách Cục
Hải ngoại của ĐCSĐD tại Hồng Kông.
Nhiệm vụ của ông là trung gian liên lạc giữa ĐCSĐD với ĐCS
Trung Hoa và CSQT.
Năm 1937 Phùng Chí kiên về Việt Nam để tham dự đại hội Trung
ương. Đại hội bầu Hà Huy
Tập làm Tổng bí thư lâm thời của ĐCSĐD.
Sau đại hội Phùng Chí Kiên về lại Hồng Kông.
Đến tháng 9 năm 1939 ông bị nhà cầm quyền Hồng Kông truy nã
nên chạy về Vân Nam tìm gặp Vũ Anh là cơ sở cũ của Lê Hồng Phong.
Cao Hồng Lãnh là một cựu đảng viên VNTNVMĐCH tại Quảng Châu
thời 1925-1927. Năm 1936
Lãnh có theo ông Hồ Học Lãm thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng minh
Hội nhưng hội này không hoạt động, Lãnh trở lại theo học trường võ
bị của THQDĐ tại Thiểm Cam Ninh, Diên An, sau một thời gian phục vụ
trong quân đội của Tưởng Giới Thạch thì bỏ ngũ, về gặp ông Hồ Học
Lãm tại Quý Dương tỉnh Quý Châu, ông Lãm khuyên nên về nước hoạt
động.
Ông Lãnh nghe lời về Côn Minh tìm cách về nước.
Tại đây gặp lại Hoàn Văn Hoan và Đặng Văn Cáp là các bạn
trước kia ở trong Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của ông Hồ Học Lãm;
rồi được Hoan giới thiệu với Phùng Chí Kiên, Vũ Anh và nhóm
Thiết Huyết.
Sau khi gặp lại nhau thì các ông nhờ ông Hồ Học Lãm tìm cách
bắt liên lạc với Nguyễn Tất Thành, tức là Thiếu tá Hồ Quang, đang
làm việc cho một đài phát thanh của quân đội Mao Trạch Đông ( Tự
truyện của ông HCM dưới tên T.Lan ).
BIÊN KHẢO VỀ NGUYỄN TẤT THÀNH, (25) GIA NHẬP NHÓM VIỆT MINH
Nguyễn Tất Thành gia nhập nhóm chính trị Côn Minh
Năm 1940, tháng 5, Hồ Quang ( Nguyễn Tất Thành )
đến gặp 6 nhà chính trị Việt Nam lưu vong tại Côn Minh ( Hồi
ký của Vũ Anh ).
*Chú giải : Hồi ký
của Trung tướng Vũ Anh ghi lại tình hình tổ chức
của các ông tại Vân Nam khi NTT mới đến tìm gặp ông vào
khoảng tháng 2(?) năm 1940:
“Đến một ghế đá ông bảo tôi ngồi xuống và nhìn ra phía con
đường phố chính. Hỏi: –
Hiện nay ở Vân Nam có những ai?
Tình hình Vân Nam như thế nào anh có nắm được không?
Tôi nói: – Ở Vân Nam hiện nay có anh Liệu (Phùng Chí Kiên),
anh Hoàng Văn Hoan và Tôi.
Ba chúng tôi thành lập Bộ Hải ngoại.
Anh Hoan vừa công tác vừa đi học nghề thợ may.
Anh Liệu phụ trách tờ báo lấy tên Đ.T (Đồng Thanh).
Tôi vừa lái xe lấy tiền chi phí cho các anh ấy vừa làm đầu
mối giao thông đi các nơi.
Thỉnh thoảng rỗi tôi giúp anh Liệu in báo.
Bộ Hải ngoại có một cơ quan bí mật cách hiệu Vĩnh An Đường
hơn 3 cây số.
Bên cạnh Bộ Hải ngoại còn có chi bộ Vân Quý do tôi làm bí thư.
Anh Đồng và anh Giáp mới từ bên nước sang.
Hai anh ở nhà anh Hà là người Trung Quốc cùng với anh Cao
Hồng Lãnh, gần hiệu Vĩnh An Đường…”.(Vũ Anh, Những Ngày Gần Bác, tập
hồi ký Đầu Nguồn, 1977, trang 102).
Như vậy thì mãi đến tháng 2 năm 1940 ông Nguyễn Tất Thành mới
mon men gặp các nhà hoạt động cách mạng Việt Nam. ( Thực ra là tháng
5, bởi vì hồi ký của Võ Nguyên Giáp và hồ sơ của mật vụ Pháp cho
biết VNG vượt biên giới Việt Trung vào tháng 5 ).
Lúc đó phía Nguyễn Tất Thành chỉ có một mình ông và phía bên
đối tác của ông thì có sẳn một nhóm 3 người Cọng sản tự lập ra “Bộ
Cọng sản Hải ngoại”. Bộ
Cọng sản này không hề liên lạc với ĐCSĐD ở trong nước cũng như không
có một đảng viên nào khác, coi như là một đảng Cọng sản biệt lập gồm
có ba người.
Ngoài ba ông Cọng sản này, Nguyễn Tất Thành còn gặp Phạm Văn
Đồng, Võ Nguyên Giáp là 2 nhà báo hoạt động chính trị chạy nạn ruồng
bắt của mật thám Pháp, hai ông này cũng không phải là CS;
và Cao Hồng Lãnh là một cựu đảng viên VNTNCMĐCH từng là sĩ
quan trong quân đội
Trung Hoa đang tìm cách về nước.
Còn tổ chức mà Vũ Anh
gọi là Chi bộ Vân Quý chính là một chi bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng
đã ly khai với Việt Nam Quốc Dân Đảng Hải Ngoại của Vũ Hồng Khanh.
Chi bộ gồm có Bùi Văn Hoạch tức Bùi Đức Minh hay giáo Hoạch,
Trần Ngọc Tuân tức Trần Quốc Kính hay giáo Tuân, Vương Thừa Vũ tức
Nguyễn Văn Đồi, Lê Tùng Sơn tức Lê Tùng Anh, Bùi Ngọc Thành và Đặng
Văn Cáp.
Nhóm này theo Nguyễn Thái Học khởi nghĩa năm 1930, bị thất bại
được Vũ Tiến Lữ hướng dẫn chạy sang Vân Nam gặp Nguyễn Thế Nghiệp là
đảng Phó của VNQDĐ đang gom góp các đảng viên và chỉnh đốn lại hàng
ngũ VNQDĐ tại hải ngoại.
Năm 1932-1933 Nghiệp gởi Bùi Ngọc Thành, Bùi Văn Hoạch, Lê
Tùng Sơn và Vương Thừa Vũ theo học trường Võ Bị Côn Minh của Trung
Hoa. Năm 1936 Nguyễn Thế
Nghiệp trở về Việt Nam, những người còn lại ly khai khỏi VNQDĐ của
Vũ Hồng Khanh và hoạt động độc lập, lấy tên là nhóm Thiết Huyết.
Năm 1940, tháng 7. Sau khi gặp gỡ các đồng chí tại Côn Minh,
NTT hứa hẹn sẽ gởi ông Phạm Văn Đồng và ông Võ Nguyên Giáp theo học
trường Quân Chính của Cọng sản Trung Hoa tại Diên An.
Sau đó NTT trở về đơn vị, xin phép ĐCSTrung Quốc
cho ông về lại Hoa Nam để bắt liên lạc với Việt Nam vì tình
hình Việt Nam đang rất cần ông ( Tự truyện của ông HCM dưới tên
T.Lan ).
Năm 1940, cuối tháng 7, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến
và Trần Văn Kiệt bị bắt tại Hóc Môn, Gia Định.
Bắc Sơn Khởi nghĩa, Nam Kỳ Khởi nghĩa và Đô Lương khởi nghĩa
Năm 1940, ngày 30-8, quân đội Nhật ép buộc Toàn quyền
Decoux phải ký một thỏa ước chấp thuận cho quân đội Nhật được
vào Việt Nam và di chuyển tự do trong lãnh thổ Đông Dương nhưng
không quá 6.000 quân.
Tuy nhiên đến ngày 22-9 thì Decoux bị buộc phải chấp nhận cho 25.000
quân Nhật đổ bộ vào Đông Dương và được quyền sử dụng một số sân bay
tại Đông Dương.
Năm 1940, ngày 22 – 9, quân Nhật từ Quảng Tây tiến vào Lạng
Sơn. Quân Pháp do tướng
Mennerat chỉ huy, chận đánh tại biên giới.
Sau 2 ngày đánh nhau, quân Pháp kéo cờ hàng.
Tướng Mennerat dẫn quân chạy về Hà Nội theo ngã Bắc Sơn.
Năm 1940, ngày 25-9, quân Pháp tại Lạng Sơn rút về Hà Nội theo
ngã Bắc Sơn, Thái Nguyên.
Sau khi quân Pháp qua khỏi thị trấn Bắc Sơn, một thủ lãnh của
Đảng Cọng sản Đông Dương là Chu Văn Tấn chủ động nổi dậy cướp chính
quyền ở Bắc Sơn ngày 27-9, thành lập chính quyền cách mạng tại đây.
Chu Văn Tấn là một thượng sĩ chỉ huy một trung đội lính dõng
của Pháp nhưng được Bí thư Xừ ủy Bắc Kỳ là Hoàng Văn Thụ kết nạp vào
ĐCSĐD từ trước. Nhận
được tin của Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thụ cử Trần Đăng Ninh đến Bắc
Sơn phụ giúp Chu Văn Tấn.
Năm 1940, ngày 28-10, sau khi đạt được thỏa thuận với quân
Nhật, quân Pháp từ Hải Phòng theo Quốc lộ 4 lên tái chiếm Lạng Sơn,
dẹp tan chính quyền cách mạng tại Bắc Sơn.
Chu văn Tấn, Trần Đăng Ninh chạy về Pác Bó thuộc tỉnh Cao
Bằng.
Năm 1940, ngày 6-11.
Sau khi Chu Văn Tấn cướp được chính quyền Bắc Sơn, một cuộc
họp cấp Trung ương ĐCSĐD diễn ra tại làng Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh.
Hội nghị gồm có 5 người là Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng Ninh,
Đặng Xuân Khu, Hạ Bá Cang, Phan Đăng Lưu (Hồi ký của Hoàng Quốc
Việt). Hội nghị bầu Đặng
Xuân Khu (Trường Chinh) làm Tổng bí thư lâm thời, thay thế Nguyễn
Văn Cừ bị bắt hồi đầu năm .
* Chú giải : Sau
này Ban nghiên cứu lịch sử Đảng đã tính đây là “Đại hội 7 Trung
ương” bởi vì các ông đã quyết định bầu ông Đặng Xuân Khu làm “Quyền
tổng bí thư”. Nhưng các
nhà nghiên cứu sử không tin như vậy.
Bởi vì cuộc họp này chỉ có Hoàng Văn Thụ là Bí thư Xứ ủy Bắc
Kỳ và Phan Đăng Lưu là Thường vụ Trung ương Đảng thì không hội đủ
diều kiện để họp Trung ương đảng hoặc bầu ban chấp hành Trung ương.
Năm 1940, ngày 22-11, Phan Đăng Lưu về tới Sài Gòn thì Xứ ủy
Nam Kỳ đã cho phát động nổi dậy trước đó 2 ngày và đã bị mật thám
Pháp biết trước nên rình đón Phan Đăng Lưu tại ga Sài Gòn.
Lưu bị bắt ngày 23-11-1940, trước giờ hẹn tổng nổi dậy có vài
tiếng đồng hồ.
Năm 1940, từ ngày 23-11 đến ngày 2-12, Xứ ủy Nam Kỳ của ĐCSĐD
đã tổ chức tổng nổi dậy tại 11 tỉnh và ngoại ô Sài Gòn. Tấn công 3
đồn lính ở ngoại ô Sài Gòn, 1 đồn tại Cần Thơ, 1 đồn tại Chợ Lớn, 1
đồn tại Gia Định, 3 đồn tại Mỹ Tho, 1 đồn tại Sóc Trăng, 1 đồn tại
Tân An, 3 đồn tại Vĩnh Long.
Tổ chức nổi dậy tại 21 làng, 2 cầu bị phá hủy, giết 3 người
Pháp, 13 lính Việt và 4 dân sự Việt. Cướp mang đi 63 súng và 298
viên đạn. Phía Cọng sản
có 16 người chết, 21 bị thương và hơn 600 bị bắt.
Năm 1941, ngày 13-1, Trung sĩ Nguyễn Văn Cung là một hạ sĩ
quan chỉ huy lính Khố xanh tại đồn Chợ Rạng thuộc tỉnh Nghệ An cùng
binh sĩ thuộc quyền nổi dậy cướp chính quyền tại huyện Đô Lương,
tính cướp ngục Vinh ( Nghệ An ) giải thoát cho tù chính trị nhưng bị
quân Pháp đánh bại.
Ngày 11-2 thì Đội Cung cùng các chiến hữu bị bắt.
Ngày 18-2, tòa án binh
Hà Nội xử tử hình Đội Cung cùng 10 người khác, ngoài ra có 12
người bị chung thân khổ sai, 24 người bị án tù từ 5 năm tới 20 năm
khổ sai. Ngày 26-4 xử
bắn 11 người tại Đô Lương.
Đội Cung không dính dáng gì đến ĐCSĐD.
Năm 1941, ngày 28-8, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu,
Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần bị xử bắn tại Bà Điểm, Gò Vấp, Gia
Định. Một năm sau, ngày
6-9-1942 Lê Hồng Phong chết tại Côn Đảo.
(25) GIA NHẬP NHÓM VIỆT MINH
Nguyễn Tất Thành gia nhập nhóm chính trị Côn Minh
Năm 1940, tháng 5, Hồ Quang ( Nguyễn Tất Thành )
đến gặp 6 nhà chính trị Việt Nam lưu vong tại Côn Minh ( Hồi
ký của Vũ Anh ).
*Chú giải : Hồi ký
của Trung tướng Vũ Anh ghi lại tình hình tổ chức
của các ông tại Vân Nam khi NTT mới đến tìm gặp ông vào
khoảng tháng 2(?) năm 1940:
“Đến một ghế đá ông bảo tôi ngồi xuống và nhìn ra phía con
đường phố chính. Hỏi: –
Hiện nay ở Vân Nam có những ai?
Tình hình Vân Nam như thế nào anh có nắm được không?
Tôi nói: – Ở Vân Nam hiện nay có anh Liệu (Phùng Chí Kiên),
anh Hoàng Văn Hoan và Tôi.
Ba chúng tôi thành lập Bộ Hải ngoại.
Anh Hoan vừa công tác vừa đi học nghề thợ may.
Anh Liệu phụ trách tờ báo lấy tên Đ.T (Đồng Thanh).
Tôi vừa lái xe lấy tiền chi phí cho các anh ấy vừa làm đầu
mối giao thông đi các nơi.
Thỉnh thoảng rỗi tôi giúp anh Liệu in báo.
Bộ Hải ngoại có một cơ quan bí mật cách hiệu Vĩnh An Đường
hơn 3 cây số.
Bên cạnh Bộ Hải ngoại còn có chi bộ Vân Quý do tôi làm bí thư.
Anh Đồng và anh Giáp mới từ bên nước sang.
Hai anh ở nhà anh Hà là người Trung Quốc cùng với anh Cao
Hồng Lãnh, gần hiệu Vĩnh An Đường…”.(Vũ Anh, Những Ngày Gần Bác, tập
hồi ký Đầu Nguồn, 1977, trang 102).
Như vậy thì mãi đến tháng 2 năm 1940 ông Nguyễn Tất Thành mới
mon men gặp các nhà hoạt động cách mạng Việt Nam. ( Thực ra là tháng
5, bởi vì hồi ký của Võ Nguyên Giáp và hồ sơ của mật vụ Pháp cho
biết VNG vượt biên giới Việt Trung vào tháng 5 ).
Lúc đó phía Nguyễn Tất Thành chỉ có một mình ông và phía bên
đối tác của ông thì có sẳn một nhóm 3 người Cọng sản tự lập ra “Bộ
Cọng sản Hải ngoại”. Bộ
Cọng sản này không hề liên lạc với ĐCSĐD ở trong nước cũng như không
có một đảng viên nào khác, coi như là một đảng Cọng sản biệt lập gồm
có ba người.
Ngoài ba ông Cọng sản này, Nguyễn Tất Thành còn gặp Phạm Văn
Đồng, Võ Nguyên Giáp là 2 nhà báo hoạt động chính trị chạy nạn ruồng
bắt của mật thám Pháp, hai ông này cũng không phải là CS;
và Cao Hồng Lãnh là một cựu đảng viên VNTNCMĐCH từng là sĩ
quan trong quân đội
Trung Hoa đang tìm cách về nước.
Còn tổ chức mà Vũ Anh
gọi là Chi bộ Vân Quý chính là một chi bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng
đã ly khai với Việt Nam Quốc Dân Đảng Hải Ngoại của Vũ Hồng Khanh.
Chi bộ gồm có Bùi Văn Hoạch tức Bùi Đức Minh hay giáo Hoạch,
Trần Ngọc Tuân tức Trần Quốc Kính hay giáo Tuân, Vương Thừa Vũ tức
Nguyễn Văn Đồi, Lê Tùng Sơn tức Lê Tùng Anh, Bùi Ngọc Thành và Đặng
Văn Cáp.
Nhóm này theo Nguyễn Thái Học khởi nghĩa năm 1930, bị thất bại
được Vũ Tiến Lữ hướng dẫn chạy sang Vân Nam gặp Nguyễn Thế Nghiệp là
đảng Phó của VNQDĐ đang gom góp các đảng viên và chỉnh đốn lại hàng
ngũ VNQDĐ tại hải ngoại.
Năm 1932-1933 Nghiệp gởi Bùi Ngọc Thành, Bùi Văn Hoạch, Lê
Tùng Sơn và Vương Thừa Vũ theo học trường Võ Bị Côn Minh của Trung
Hoa. Năm 1936 Nguyễn Thế
Nghiệp trở về Việt Nam, những người còn lại ly khai khỏi VNQDĐ của
Vũ Hồng Khanh và hoạt động độc lập, lấy tên là nhóm Thiết Huyết.
Năm 1940, tháng 7. Sau khi gặp gỡ các đồng chí tại Côn Minh,
NTT hứa hẹn sẽ gởi ông Phạm Văn Đồng và ông Võ Nguyên Giáp theo học
trường Quân Chính của Cọng sản Trung Hoa tại Diên An.
Sau đó NTT trở về đơn vị, xin phép ĐCSTrung Quốc
cho ông về lại Hoa Nam để bắt liên lạc với Việt Nam vì tình
hình Việt Nam đang rất cần ông ( Tự truyện của ông HCM dưới tên
T.Lan ).
Năm 1940, cuối tháng 7, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến
và Trần Văn Kiệt bị bắt tại Hóc Môn, Gia Định.
Bắc Sơn Khởi nghĩa, Nam Kỳ Khởi nghĩa và Đô Lương khởi nghĩa
Năm 1940, ngày 30-8, quân đội Nhật ép buộc Toàn quyền
Decoux phải ký một thỏa ước chấp thuận cho quân đội Nhật được
vào Việt Nam và di chuyển tự do trong lãnh thổ Đông Dương nhưng
không quá 6.000 quân.
Tuy nhiên đến ngày 22-9 thì Decoux bị buộc phải chấp nhận cho 25.000
quân Nhật đổ bộ vào Đông Dương và được quyền sử dụng một số sân bay
tại Đông Dương.
Năm 1940, ngày 22 – 9, quân Nhật từ Quảng Tây tiến vào Lạng
Sơn. Quân Pháp do tướng
Mennerat chỉ huy, chận đánh tại biên giới.
Sau 2 ngày đánh nhau, quân Pháp kéo cờ hàng.
Tướng Mennerat dẫn quân chạy về Hà Nội theo ngã Bắc Sơn.
Năm 1940, ngày 25-9, quân Pháp tại Lạng Sơn rút về Hà Nội theo
ngã Bắc Sơn, Thái Nguyên.
Sau khi quân Pháp qua khỏi thị trấn Bắc Sơn, một thủ lãnh của
Đảng Cọng sản Đông Dương là Chu Văn Tấn chủ động nổi dậy cướp chính
quyền ở Bắc Sơn ngày 27-9, thành lập chính quyền cách mạng tại đây.
Chu Văn Tấn là một thượng sĩ chỉ huy một trung đội lính dõng
của Pháp nhưng được Bí thư Xừ ủy Bắc Kỳ là Hoàng Văn Thụ kết nạp vào
ĐCSĐD từ trước. Nhận
được tin của Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thụ cử Trần Đăng Ninh đến Bắc
Sơn phụ giúp Chu Văn Tấn.
Năm 1940, ngày 28-10, sau khi đạt được thỏa thuận với quân
Nhật, quân Pháp từ Hải Phòng theo Quốc lộ 4 lên tái chiếm Lạng Sơn,
dẹp tan chính quyền cách mạng tại Bắc Sơn.
Chu văn Tấn, Trần Đăng Ninh chạy về Pác Bó thuộc tỉnh Cao
Bằng.
Năm 1940, ngày 6-11.
Sau khi Chu Văn Tấn cướp được chính quyền Bắc Sơn, một cuộc
họp cấp Trung ương ĐCSĐD diễn ra tại làng Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh.
Hội nghị gồm có 5 người là Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng Ninh,
Đặng Xuân Khu, Hạ Bá Cang, Phan Đăng Lưu (Hồi ký của Hoàng Quốc
Việt). Hội nghị bầu Đặng
Xuân Khu (Trường Chinh) làm Tổng bí thư lâm thời, thay thế Nguyễn
Văn Cừ bị bắt hồi đầu năm .
* Chú giải : Sau
này Ban nghiên cứu lịch sử Đảng đã tính đây là “Đại hội 7 Trung
ương” bởi vì các ông đã quyết định bầu ông Đặng Xuân Khu làm “Quyền
tổng bí thư”. Nhưng các
nhà nghiên cứu sử không tin như vậy.
Bởi vì cuộc họp này chỉ có Hoàng Văn Thụ là Bí thư Xứ ủy Bắc
Kỳ và Phan Đăng Lưu là Thường vụ Trung ương Đảng thì không hội đủ
diều kiện để họp Trung ương đảng hoặc bầu ban chấp hành Trung ương.
Năm 1940, ngày 22-11, Phan Đăng Lưu về tới Sài Gòn thì Xứ ủy
Nam Kỳ đã cho phát động nổi dậy trước đó 2 ngày và đã bị mật thám
Pháp biết trước nên rình đón Phan Đăng Lưu tại ga Sài Gòn.
Lưu bị bắt ngày 23-11-1940, trước giờ hẹn tổng nổi dậy có vài
tiếng đồng hồ.
Năm 1940, từ ngày 23-11 đến ngày 2-12, Xứ ủy Nam Kỳ của ĐCSĐD
đã tổ chức tổng nổi dậy tại 11 tỉnh và ngoại ô Sài Gòn. Tấn công 3
đồn lính ở ngoại ô Sài Gòn, 1 đồn tại Cần Thơ, 1 đồn tại Chợ Lớn, 1
đồn tại Gia Định, 3 đồn tại Mỹ Tho, 1 đồn tại Sóc Trăng, 1 đồn tại
Tân An, 3 đồn tại Vĩnh Long.
Tổ chức nổi dậy tại 21 làng, 2 cầu bị phá hủy, giết 3 người
Pháp, 13 lính Việt và 4 dân sự Việt. Cướp mang đi 63 súng và 298
viên đạn. Phía Cọng sản
có 16 người chết, 21 bị thương và hơn 600 bị bắt.
Năm 1941, ngày 13-1, Trung sĩ Nguyễn Văn Cung là một hạ sĩ
quan chỉ huy lính Khố xanh tại đồn Chợ Rạng thuộc tỉnh Nghệ An cùng
binh sĩ thuộc quyền nổi dậy cướp chính quyền tại huyện Đô Lương,
tính cướp ngục Vinh ( Nghệ An ) giải thoát cho tù chính trị nhưng bị
quân Pháp đánh bại.
Ngày 11-2 thì Đội Cung cùng các chiến hữu bị bắt.
Ngày 18-2, tòa án binh
Hà Nội xử tử hình Đội Cung cùng 10 người khác, ngoài ra có 12
người bị chung thân khổ sai, 24 người bị án tù từ 5 năm tới 20 năm
khổ sai. Ngày 26-4 xử
bắn 11 người tại Đô Lương.
Đội Cung không dính dáng gì đến ĐCSĐD.
Năm 1941, ngày 28-8, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần bị xử bắn tại Bà Điểm, Gò Vấp, Gia Định. Một năm sau, ngày 6-9-1942 Lê Hồng Phong chết tại Côn Đảo.
(26) THÀNH LẬP VIỆT MINH HỘI
Nguyễn Tất Thành mượn tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội
Năm 1940, khoảng tháng 10, Theo hồi ký của Hoàng Văn Hoan,
Thiếu tá Hồ Quang ( Nguyễn Tất Thành ) giả từ quân đội của Mao Trạch
Đông trở về Hoa Nam, ông nhắn Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp hủy bỏ
kế hoạch theo học trường Quân chính để rồi cùng với Vũ Anh, Phùng
Chí Kiên, Cao Hồng Lãnh, Hoàng Văn Hoan đến họp tại thành phố Quế
Lâm.
* Chú giải : Trong
cuộc họp , tất cả đều đồng ý là thời thế đã có những biến đổi thuận
tiện cho việc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước bị trị. Các
ông cần phải có một cơ sở hoạt động hợp Pháp để tuyên truyền, tập
họp lực lượng, sẳn sàng theo quân Tưởng Giới Thạch trở về Việt Nam
đánh Nhật và cướp lấy chính quyền.
Do đó chuyện trước tiên là phải thành lập một đảng, có danh
xưng, có giấy tờ hẳn hoi.
Ông Hồ Học Lãm đề nghị cứ thành lập lại Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh Hội trước đây. Hiện
nay ông còn giữ giấy tờ thành lập hội và hội viên cũng còn có Hồ Học
Lãm, Hoàng Văn Hoan, Đặng Văn Cáp, Cao Hồng Lãnh.
Mọi người đồng ý và đề cử ông Hồ Học Lãm đứng ra lãnh đạo tổ
chức. Tuy nhiên ông Lãm
từ chối vì ông đang bị bệnh nặng, ông đề cử ông Nguyễn Tất Thành và
hứa sẽ đứng tên làm Chủ nhiệm của hội trên mặt giấy tờ.
Hồi ký của Hoàng Văn Hoan: “Vấn đề đầu tiên là vấn đề lấy danh
nghĩa gì để hoạt động?
Bác chủ trương lấy danh nghĩa Việt Nam Độc Lập Đồng Minh ( gọi tắt
là Việt Minh ), và mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để chúng tôi
dựa vào đó mà hoạt động.
Chủ trương đó xuất phát từ chỗ Việt Minh là một tổ chức mà trước kia
chúng tôi đã cùng với ông Hồ Học Lãm lập ra và đăng ký ở Nam Kinh;
xuất phát từ chỗ ông Hồ Học Lãm không phải là Cọng sản mà lại thật
lòng ủng hộ chúng ta, nếu ông đứng ra làm thì chúng ta sẽ được nhiều
thuận lợi…” .
Câu “không phải là Cọng sản” chứng minh được rằng năm 1940
không ai muốn theo CS, trái lại còn giấu biệt chuyện mình từng theo
CS. Đơn giản là vì CS
chủ trương thế giới đại đồng ( Vô tổ quốc ) trong khi thế giời đang
đại chiến, mọi người đánh nhau chết bỏ vì tôn thờ quốc gia của mình.
Chủ nghĩa CS trở thành chuyện giễu.
Do đó sau này có nguồn tin cho rằng Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn
Đồng được HCM kết nạp vào ĐCSĐD năm 1940 là hoàn toàn tưởng tượng.
Không ai điên gì theo CS trong khi phong trào CS trên toàn
thế giới đang bị phỉ nhổ.
Lúc này mới chỉ có nước Nga theo chế độ
CS nhưng Cọng sản Nga quá lép vế so với tư bản Đức, Ý, Nhật;
đủ để cho thế giới kết luận được rằng nên theo CS hay không.
Theo dõi hồi ký của Hoàng Văn Hoan thì cho tới tháng 11 năm
1944 VNG và PVĐ vẫn chưa gia nhập ĐCS.
Năm 1940, tháng 10, theo hồi ký Hoàng Văn Hoan, ông Hồ Học Lãm
làm đơn xin phép tái lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, kể rõ lý
lịch là hội có từ trước (1936) do liên kết với VNQDĐ nay xin tái
tục. Hội do ông Hồ Học
Lãm làm chủ nhiệm.
Đơn làm xong, một phái đoàn gồm 6 người đem đơn ấy đến gặp đại
diện của chính quyền Trung Hoa là Tướng Lý Tế Thâm để xin phép được
hoạt động. ( Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, Vũ Anh, Cao Hồng Lãnh.
Ông NTT lánh mặt vì sợ bị nhận diện là Lý Thụy, một cán bộ CS
hoạt động tại Quảng Châu vào năm 1925-1927 ).
Sáu nhân vật trên đây chính là 6 nhân vật đầu tiên cùng với
Nguyễn Tất Thành sáng lập ra tổ chức Việt Minh.
Ngoại trừ Phùng Chí Kiên, tất cả những người còn lại, kể cả
ông Nguyễn Tất Thành, đều không thiết tha gì với Chủ nghĩa Cọng sản;
họ tụ tập nhau lại chẳng qua là vì tinh thần ái quốc chứ không phải
vì tinh thần quốc tế vô sản.
Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng Đồng Minh Hội
Năm 1940, cuối tháng 11, theo hồi ký Võ Nguyên Giáp thì Nguyễn
Tất Thành và Việt Minh Hội, gồm 7 người, quyết định phải về biên
giới Việt Trung để lập cơ sở.
Các ông dời về thị trấn Tĩnh Tây, cách biên giới Việt Trung
khoảng 80 cây số, cách Thị xã Cao Bằng 100 cây số.
Hồi ký Hoàng Văn Hoan giải thích lý do dời về Tĩnh Tây:
“Mọi vấn đề đặt ra phải suy nghĩ là về biên giới ở vùng nào?
Ở đây (Côn Minh), ngay từ khi Bác đến đã sắp đặt người ở biên
giới, nhưng chính trị Vân Nam không tốt, dù có người ở biên giới
cũng khó lòng hoạt động…
Vừa khéo léo, Bác còn ở Trùng Khánh thì chúng tôi nhận được
thư của ông Hồ Học Lãm nói cơ hội cách mạng đã đến, Trương Bội Công
được Trung Hoa giúp đỡ, hiện đang liên lạc các nơi để tìm người cách
mạng Việt Nam, đồng thời muốn mời ông Hồ Học Lãm ra hợp tác với ông
ta trong việc này… Khi Bác về đến Côn Minh chúng tôi đưa việc đó ra
báo cáo, Bác liền quyết định các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh và
tôi đi Quý Dương gặp ông Hồ Học Lãm…”.
*Chú giải :Trương Bội Công tên thật là Nguyễn Văn Chiêu, người
làng Thường Tín tỉnh Hà Đông Bắc Việt, cùng quê với Nguyễn Hải Thần.
Năm 1908 lưu vong sang Trung Hoa.
Theo học khóa 2 trường võ bị Bảo Định, cùng khóa với ông Hồ
Học Lãm. Sau khi tốt
nghiệp ông phục vụ trong quân đội của Tưởng Giới Thạch.
Năm 1930 ông là chỉ huy trưởng trường Quân sự Nam Ninh.
Tới khi về hưu ông mang cấp bậc Đại Tá.
Năm 1937 quân Nhật tấn công quân Tưởng Giới Thạch tại Hoa Nam,
đến năm 1940 quân Nhật tràn vào Việt Nam qua ngã Lạng Sơn và Cao
Bằng. Tướng tư lệnh đệ
Tứ quân Khu của Trung Hoa là Trương Phát Khuê mời Trương Bội Công
trở lại quân đội với cấp bậc Thiếu tướng để mở trường huấn luyện du
kích điệp báo cho những người Việt Nam lưu vong.
Chuẩn bị đưa họ trở về Việt nam để theo dõi hoạt động của
quân Nhật.
Ngoài ra Trương Bội
Công còn nhận được lệnh thành lập một tổ chức chính trị cho nhóm
người Việt lưu vong, chuẩn bị sau này đưa về Việt Nam hoạt động.
Trương Bội Công báo cho ông Hồ Học Lãm cũng là một đại tá về
hưu để mời ông Lãm cũng như Nguyễn Hải Thần tham dự.
Lãm báo cho nhóm NNT và NTT quyết định về Tĩnh Tây để chiếm
lấy các cơ hội mà Trương Bội Công đang nắm trong tay.
Theo hồi ký của Hoàng
Văn Hoan thì NTT và các ông bàn nhau tìm cách :
(1) Nắm lấy hơn 40 người Việt đang được Trương Bội Công huấn
luyện; (2) Phân hóa đám
người của Trương Bội Công trong tồ chức chính trị sắp được thành lập
(Nguyễn Hải Thần, Trương Trung Phụng);
(3) Vận động chính quyền Tưởng Giới Thạch chấp nhận tổ chức
VNĐLĐMH của các ông làm nồng cốt của tổ chức chính trị sắp thành
lập.
Theo hồi ký của Đặng
Văn Cáp trong tập hồi ký Đầu Nguồn xuất bản tại Hà nội năm 1977 thì
ông được giao nhiệm vụ phá hoại uy tín của Trương Bội Công bằng cách
viết thư rơi, tố cáo Trương Bội Công ăn hối lộ, ăn chặn tiền ăn của
học viên. Hồi ký của một
đảng viên VNQDĐ ly khai khác là Lê Tùng Sơn, cũng trong tập hồi ký
Đầu Nguồn, cho biết ông được giao nhiệm vụ dùng các anh em trong
nhóm Thiết Huyết gia nhập tổ chức của Trương Bội Công để chia ghế và
gây xáo trộn trong tổ chức.
Hồi ký của Võ Nguyên Giáp ( Những Năm Tháng Không Bao Giờ Quên
) cũng cho biết ông được giao nhiệm vụ bám sát Nguyễn Hải Thần và
Trương Trung Phụng , gây ly gián giữa hai người này với Trương Bội
Công và lái họ chấp nhận choVNĐLĐMH được gia nhập và trở thành nòng
cốt của tổ chức chính trị sắp thành lập.
Năm 1940, đầu tháng 12, theo hồi ký Võ Nguyên Giáp, tất cả 7
người trong nhóm Độc Lập Đồng Minh dời về Nậm Quang, có thêm sự tham
gia của Lê Thiết Hùng là con rễ của ông Hồ Học Lãm.
Hùng tốt nghiệp trường Hoàng Phố và là sĩ quan cao cấp (
Trung tá ) trong quân đội Tưởng Giới Thạch.
Ngay tại biên giới có căn cứ Pác Bó là một hang núi nằm gần
biên giới Việt Trung, do Hoàng Văn Thụ, Bí thư xứ ủy Bắc Kỳ
của ĐCSĐD thiết lập để làm nơi trú ẩn cuối cùng cho ĐCSĐD,
tại đây nếu có quân Pháp đuổi tới thì các ông sẽ di chuyển sang bên
kia biên giới hoặc chạy thẳng sang Quảng Tây. Ngoài Hoàng Văn Thụ
còn có 3 ông Đặng Xuân Khu ( Trường Chinh ), Trần Đăng Ninh và Chu
Văn Tấn.
(27) ĐẢNG CỌNG SẢN CỦA TRƯỜNG
CHINH
Năm 1940, cuối năm.
Nhờ sự quen biết trước giữa Hoàng Văn Thụ và Phùng Chí Kiên
(cả hai là ủy viên Ban chấp hành trong Đại hội toàn quốc lần thứ
nhất tại Ma Cao năm 1935), nhóm Đồng Minh Hội tại Nậm Quang bắt liên
lạc được với nhóm ĐCSĐD tại Pác Bó.
Nhóm Đồng Minh Hội xưng là Nguyễn Ái Quốc, đại diện của CSQT.
Để đối lại, nhóm Pác Bó xưng là Ban chấp hành Trung ương
ĐCSĐD do Đặng Xuân Khu là Tổng bí thư “lâm thời”.
* Chú giải : Có lẽ Trường Chinh được “tấn phong” Tổng bí thư
lâm thời vào lúc này chứ không phải tại cuộc họp Đình Bảng.
Sở dĩ các ông tấn phong Đặng Xuân Khu là để có đủ tư cách mà
nói chuyện với CSQT. Lỡ
sau này các ông trùm trong ĐCSĐD có hỏi ai phong cho Đặng Xuân Khu
làm Tổng bí thư thì các ông có thể biện bạch rằng Đại diện CSQT qua
tới nơi mà mình không có ai xứng đáng để đại diện cho ĐCSĐD cho nên
chúng tôi “lâm thời” đề cử ra đồng chí Đặng Xuân Khu.
Năm 1941, khoảng tháng 4, theo hồi ký Hoàng Văn Hoan, đại hội
thành lập “Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng Đồng Minh” do Trương Bội Công
triệu tập tại Thị xã Tĩnh Tây thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa;
phía Trương Bội Công có 5,6 người, phía Hoan có khoảng 20
người. Kết quả
Đồng và Giáp được bầu vào Ban chấp hành Trung ương.
Nguyễn Hải Thần, Trần Ngọc Thành (Vũ Anh) và Đặng Văn Cáp
được bầu vào ban Giám sát.
* Chú giải : Hồi
ký Hoàng Văn Hoan : “ Đối với đại hội, Trương Phát Khuê có gửi một
bức trướng mừng, đề bốn chữ:
Minh chúc thiên Nam, nghĩa là “Soi rạng trời Nam”…Lý Tế Thâm
cũng gởi một bức trướng mừng đề bốn câu thơ…Sau khi đại hội xong,
Bác kế hoạch cho đưa những thứ này về triển lãm lưu động ở một số
nơi trong tỉnh Cao Bằng để gây ảnh hưởng, và tuyên truyền là ta được
“Đồng Minh” giúp”.
Nhờ đoạn hồi ký này, người ta có bằng chứng để thấy rõ ngay từ
năm 1941 Nguyễn Tất Thành đã mạo danh là “được Đồng Minh giúp”.
Cần ghi nhớ là lúc này lực lượng Đồng Minh chưa có sự tham dự
của nước Nga bởi vì Stalin đang còn bắt tay với Hitler.
Đây là màn bịp đầu tay của Nguyễn Tất Thành đối với nhân dân
Việt Nam, lúc đó ông ta không dính dáng gì đến Đồng Minh ( Mỹ, Anh ,
Pháp ).
Năm 1941, sau đại hội thành lập Giải Phóng Đồng Minh, Đồng và
Giáp xúi Trương Bội Công nhận huấn luyện một số Biệt kích để hoạt
động tình báo cho Trung Hoa.
Võ Nguyên Giáp đưa nhóm 40 người tại Nậm Quang trở lại theo
học khóa huấn luyện của Trương Bội Công, trong số này có 20 người
học về cách sử dụng chất nổ, khóa học chỉ có 20 ngày.
Một số khác theo học trường sĩ quan Đại Kiều, khóa học tới 2
năm, có nhiều người sau này trở thành tướng lãnh của quân đội CSVN
như Hoàng Văn Thái, Đàm Quang Trung, Hoàng Minh Thảo, Nam Long, Bằng
Giang, Vũ Lập, v.v…
Đảng Cọng sản Đông Dương đời thứ ba
Năm 1941, ngày 10-5, khai mạc đại Hội 8 Trung ương ĐCSĐD tại
căn cứ Pác Bó tỉnh Cao Bằng, nằm ngay biên giới Việt-Trung.
Đại hội gồm 7 người do Tổng bí thư lâm thời Đặng Xuân Khu
(Trường Chinh) triệu tập, dưới sự chứng kiến của đại diện CSQT là
Nguyễn Ái Quốc ( Nguyễn Tất Thành ).
Sau đó đại hội nhóm họp trong 9 ngày và bầu Đặng Xuân Khu làm
Tổng bí thư thứ 3 của ĐCSĐD thay thế tổng bí thư thứ 2 là Nguyễn Văn
Cừ bị bắt và đang chờ xử bắn sau vụ Nam Kỳ khởi nghĩa.
*Chú giải :
Đại hội gồm có Đặng Xuân Khu, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang, Trần
Đăng Ninh, Chu Văn Tấn, Nguyễn Tất Thành và Phùng Chí Kiên.
Không có sự tham dự của Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Cao
Hồng Lãnh; bởi vì cho
tới lúc này các ông không phải là đảng viên ĐCSĐD.
Riêng Hoàng Văn Hoan và Vũ Anh là đảng viên nhưng chưa phải
là Trung ương. Chỉ có
Nguyễn Tất Thành và Phùng Chí Kiên được bầu vào Trung ương trong đại
hội tại Ma Cao năm 1935,
Hồi ký của Hạ Bá Cang, tức là Hoàng Quốc Việt, xác nhận tư
cách của Nguyễn Tất Thành lúc đó chỉ là đại diện cho CSQT chứ không
phải là lãnh đạo của ĐCSĐD:
“Ông Cụ người gầy nhưng mắt sáng trán cao, có chòm râu thưa,
đen, đẹp. Đến tận lúc bấy giờ các anh phụ trách trong đoàn mới cho
tôi biết: “Đại biểu Quốc
Tế đấy. Đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đấy”…
Hạ Bá Cang nghĩ rằng ông cụ là Đại diện cho CSQT 3 nhưng trong
tự truyện của ông cụ ký tên Trần Dân Tiên hay T. Lan không hề nói
đến tư cách Đại diện CSQT 3 trong hội nghị Pác Bó vào năm 1941.
Sau này tài liệu của CSQT được giải mật cho thấy năm 1938 ông
Nguyễn Tất Thành ra khỏi diện kỷ luật vì tội bán các đồng chí của
mình, được CSQT đưa về phục vụ cho Mao Trạch Đông;
vậy thì năm 1941 ông chỉ là Thiếu tá Hồ Quang của quân đội
Mao Trạch Đông, không dính dáng gì đến CSQT 3.
Việc ông cụ tự xưng là đại diện CSQT chỉ là chuyện bịp.
Năm 1941, tháng 5, theo tự truyện của Hồ Chí Minh dưới tên
Trần Dân Tiên :
“Lập tức một lời kêu gọi vang dội khắp nước Việt Nam:
Nhân dân Việt Nam ta hãy đứng về phía Đồng Minh!
Đánh đuổi Nhật, Pháp, tiểu trừ Việt gian! Đấu tranh cho độc
lập của Tổ quốc! Người
Việt Nam, chúng ta hãy đoàn kết lại!
Đó là lời kêu gọi của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh
hay Việt Minh, tháng 5 năm 1941”.
Đây là lời kêu gọi người Việt Nam hãy theo Mỹ và hoàn toàn
không dính dáng gì đến việc theo Nga bởi vì lúc này ông Stalin chưa
có mặt trong tổ chức Đồng Minh.
Có nhiều luận thuyết cho rằng ông Nguyện Tất Thành được CSQT
đưa về nước trong thời gian này, nhưng đoạn trích dẫn trên đây cho
thấy trước hội nghị ông ta tự trình diễn như là đại diện của CSQT để
gặp nhóm Trường Chinh, sau hội nghị ông trở thành đại diện cho đồng
minh Hoa Kỳ, kêu gọi người Việt hãy theo Hoa Kỳ (sic). Từ một người
của Nga trở thành một người của Mỹ trong một tích tắc, rõ ràng đây
là một tay bịp quốc tế chứ không phải là “cha già dân tộc” như ông
ta tự xưng.
Năm 1941, tháng 6, Hitler bất thần xua quân tiến chiếm Mạc Tư
Khoa, quân Đức với vũ khí tối tân đã ào vào biên giới Nga như chỗ
không người, cho đến tháng 12 năm 1941 thì quân Đức đã tiến đến
ngoại ô của Mạc Tư Khoa.
Năm 1941, ngày 6-12, một trận bão tuyết đã giúp 100 sư đoàn
của Stalin phá được một trận tuyến dài 300 cây số của quân Đức, đẩy
quân Đức ra khỏi Mạc Tư Khoa.
Năm 1941, ngày 8-12, quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng, tuyên
chiến với Hoa Kỳ. Trong
vòng 3 tháng quân Nhật chiếm toàn vùng Đông Nam Á, quét sạch hệ
thống cai trị của Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân;
của Anh tại Mã Lai, Singapor, Miến Điện; của Hòa Lan tại Nam
Dương và vùng Ấn Độ thuộc Hòa Lan.
Chỉ còn lại một mình Đông Dương còn dưới sự cai trị của người
Pháp.
Trong đêm 8-12-1941 người Nhật đã đàm phán với Toàn quyền Pháp
tại Đông Dương là De Coux, và sáng ngày 9-12 hai bên ký kết một văn
bản hợp tác phòng thủ Đông Dương, chống lại sự tấn công có thể xảy
ra của liên quân Anh-Mỹ.
Năm 1942, đầu năm, tại trụ sở “Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng
Đồng Minh” ở Tĩnh Tây, Trung Hoa; Tướng Lý Tế Thâm phát hiện ra
Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng , Võ Nguyên Giáp…là Cọng sản, ông liền
cho lệnh bắt nhưng Đồng và Giáp trốn thoát, chỉ có Hoàng Văn Hoan bị
bắt và bị giam 8 tháng.
Năm 1942, tháng 6, sau đại hội tại Pác Bó, Đặng Xuân Khu phân
công Chu Văn Tấn cùng Phùng Chí Kiên và Đặng Văn Cáp về Lạng Sơn lập
lại chiến khu Bắc Sơn.
Nhưng Pháp biết tin kéo quân lên tảo thanh, Phùng Chí Kiên bị
chết, toàn gia nội ngoại của Chu Văn Tấn bị bắt giữ hay giết hại.
Chu Văn Tấn và Đặng Văn Cáp chạy qua Hoa Nam.
*( Phùng Chí Kiên
tốt nghiệp trường võ bị Hoàng Phố, sau đó sang Nga tốt nghiệp trường
chính trị Stalin. Đặng
Văn Cáp tốt nghiệp trường võ bị Thiểm Cam Ninh của Tưởng Giới Thạch.
Chu Văn Tấn là Thượng sĩ trong quân đội Pháp ).
(28) ĐỔI TÊN LÀ HỒ CHÍ MINH VÀ
XIN ĐI MỸ
Nguyễn Tất Thành trở lại Trung Hoa và bị bắt
Năm 1942, tháng 7, từ Pác Bó Nguyễn Tất Thành trở lại Côn Minh
tỉnh Vân Nam, Trung Hoa.
Không ai biết mục đích của chuyến trở về này nhưng có lẽ là để chữa
bệnh và tránh nạn càn quét của quân đội Pháp.
Tại Quý Dương, người nhà của cụ Hồ Học Lãm đưa giấy tờ cá nhân
của cụ Hồ Học Lãm cho ông Thành sử dụng để qua mắt nhà cầm quyền
Trung Hoa vì cụ Lãm mới chết hồi đầu năm nên không dùng tới những
giấy tờ đó nữa. Từ năm
1940 cụ Lãm đã lấy tên hiệu để làm tên giấy tờ, tên hiệu của cụ Hồ
Học Lãm là Hồ Chí Minh .
Năm 1942, ngày 29 tháng 8, trên đường đi Quế Lâm tỉnh Quảng
Đông, Nguyễn Tất Thành bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt khi đi
ngang qua Túc Vinh tỉnh Quảng Tây, ông xuất trình giấy tờ là một
công dân của Trung Hoa tên Hồ Chí Minh, trong đó có một thẻ phóng
viên nhà báo cũng tên Hồ Chí Minh.
Nhà cầm quyền Trung Hoa không tin, nghi ông là gián điệp của
Nhật, giam tại một trại giam trong hóc núi ở Liễu Châu
* Chú giải : Năm
1969 giáo sư sử học King C.Cheng (Trần Khánh) đã cho phát hành quyển
sách “ Vietnam and China 1938-1954”.
Trong đó ông có trích báo cáo của Tướng Trương Phát Khuê ngày
23-1-1944.
Báo cáo cho biêt ông Hồ Chí Minh bị bắt là vì giấy tờ chứng
minh của ông có điểm nghi ngờ.
Ông đã mang theo trong mình 3 thứ giấy chứng minh được cấp từ
năm 1940: (1) Giấy chứng
nhận của Trung Quốc Thanh niên Tân Văn ký giả Học hội, (2) Giấy
chứng nhận của Quốc tế Tân văn Xã;
cả hai đều là những cơ quan thông tin tuyên truyền của Trung
Cọng. Và (3) là Sự vụ
lệnh của Chiến Khu 4, thuộc Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
Vì vậy mà người ta phải giữ nhân vật Hồ Chí Minh lại để điều
tra.
Năm 1943, đầu năm, Nguyễn Tường Tam chạy qua Trung Hoa, đổi
tên là Nguyễn Tường Dũng.
Tháng 11 năm 1943 ông bị nhà cầm quyền Trung Hoa bắt tại Liễu
Châu vì nghi làm gián điệp cho Nhật, họ tạm giam ông trong một hang
núi. Tại đây ông gặp một
người tên là Hồ Chí Minh, xưng là người của “Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh Hội” đang tìm đường về nước thì bị bắt ( Tùy bút của Nguyễn
Tường Tam ).
Năm 1943, ngày 15-5, sau khi Đức tiến quân đánh chiếm Nga,
Staline tuyên bố gải tán tổ chức CSQT.
Sau đó chỉ thị cho Mao Trạch Đông liên kết với Tưởng Giới
Thạch để chống Nhật.
Đồng thời Tưởng Giới Thạch cũng bị sức ép của Mỹ buộc phải hòa hoãn
với phe Cọng sản và liên kết với Mao để chiến đấu chống Nhật.
Từ đó những người bị giam vì tình nghi theo Cọng sản đều được
thả.
Hồ Chí Minh được thả và theo Tưởng Giới Thạch
Năm 1943, ngày 10-9, lãnh tụ Việt Nam QDĐ tại Trung Hoa là Vũ
Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ đến Quân lao Liễu Châu để lãnh Nguyễn
Tường Tam ra khỏi nhà giam.
Trong dịp này Nguyễn Hải Thần nhờ hai ông bảo lãnh luôn HCM (
Hồi ký của tướng CSVN Lê Tùng Sơn và hồi ký của Nghiêm Kế Tổ ).
Sau khi được thả, Minh và Tam tạm sống tại Liễu Châu.
Tại đây Đại Tá Tiêu Văn của QDĐ Trung Hoa chuẩn bị đại hội
cải tổ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội.
Nghiêm Kế Tổ rủ Minh và Tam ở lại tham dự đại hội.
Năm 1944, ngày 25-3, Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công, Nguyễn
Tường Tam, Hồ Chí Minh và Nghiêm Kế Tổ tham dự đại hội các tổ chức
chính trị Việt Nam lưu vong do Tướng Tiêu Văn ( mới được thăng cấp)
triệu tập tại Liễu Châu tỉnh Quảng Tây.
Sở dĩ có đại hội này vì lúc này Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch
Đông đã bắt tay với nhau để cùng chiến đấu chống Nhật.
Mục đích của đại hội là cải tổ
lại Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội vì từ nay nhận thêm sự
tham gia của các tổ chức Cọng sản.
Đại hội bầu thêm Nguyễn Văn Cơ (Lê Tùng Sơn) vào ban chấp
hành và Hồ Chí Minh là dự khuyết.
Lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng là Vũ Hồng Khanh không tham dự
vì trong đại hội có Nguyễn Văn Cơ đại diện cho Việt Nam Giải Phóng
Đồng Minh Hội mà hội này đã bị Tướng Lý Tế Thâm phát hiện là Cọng
sản. Riêng Nguyễn
Văn Cơ thực ra là Lê Tùng Sơn, một cán bộ VNQDĐ thuộc nhóm Thiết
Huyết, vì xung khắc với Vũ Hồng Khanh mà nhóm Thiết Huyết mới ly
khai khỏi đảng của Vũ Hồng Khanh.
Do đó Khanh tuyên bố nếu đại hội có Sơn thì không có ông ta.
Đại hội bầu lại ban chấp hành của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh
Hội gồm 7 người, trong đó có 1 người dự khuyết là Hồ Chí Minh, đại
diện của Độc Lập Đồng Minh Hội.
Cuối đại hội Tướng Tiêu Văn cho biết ông cần một người về VN
để thành lập một đội quân tình báo hoạt động tại vùng Việt Bắc để
hướng dẫn cho quân Đồng Minh từ Hoa Nam vào Việt Nam đánh Nhật.
Chỉ có Hồ Chí Minh giơ tay xung phong nhận nhiệm vụ
( Ông nhắm vào đám Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Võ Nguyên
Giáp, Phạm Văn Đồng … tại Pác Bó ).
Hồ Chí Minh làm đơn xin định cư tại Hoa Kỳ
Năm 1944, ngày 28-8, Giám đốc Sở Thông Tin Chiến Tranh của Hoa
Kỳ tại Côn Minh gửi văn thư xin cho Ho Ting-ching (Hồ Chí Minh) một
giấy nhập cảnh vào Hoa Kỳ để dịch những bản phát thanh từ San
Francico qua Việt Ngữ.
Tuy nhiên việc này bị từ chối ( Hồi ký Patti. Thời đó Hoa Kỳ mở một
đài phát thanh phát sóng về Á Châu với nhiều thứ tiếng của các dân
tộc Đông Nam Á, trong đó có cả tiếng Việt ).
* Chú giải : Hồi
ký “Why Vietnam?” của
Trung tá tình báo Hoa Kỳ Archimedes Patti : “Trong hồ sơ của OSS
chúng tôi, chỉ có thấy nhắc đến Hồ Chí Minh trong bản báo cáo của
Powell thuộc OWI(8) ghi ngày 28-8-1944 và trong bức điện của William
R. Langdon, tổng lãnh sự Mỹ ở Côn Minh, xin ý kiến Bộ Ngoại giao về
việc xin thị thực nhập cảnh cho Hồ Chí Minh vào nước Mỹ”. Bản dịch
của Lê Trọng Nghĩa.
Đây là một bằng chứng cho thấy sự kỳ lạ của số mệnh.
Cho tới ngày này, tháng 8 năm 1944, ông Hồ Chí Minh hoàn toàn
không có ý trở về làm vua tại Việt
Nam. Ông chỉ muốn
làm một nhân viên dịch thuật các bản tin như ông đã từng làm tại
Quảng Châu năm 1924 và tại Hồng Kông năm 1930.
Nếu như lúc đó người ta chấp
thuận cấp giấy phép nhập cảnh cho ông Hồ Chí Minh lịch sử Việt Nam
sẽ hoàn toàn khác đi (!).
Năm 1944, tháng 11. Quân đội Hoa Kỳ cần gấp một đội quân Biệt
Kích hoạt động tình báo tại vùng Việt Bắc, họ thúc giục tướng Trương
Phát Khuê phải gởi toán tiền thám của chiến dịch Hoa Quân Nhập Việt
vào Việt Nam. Do đó
Tướng Tiêu Văn buộc Hồ
Chí Minh phải về nước ( Hồi ký của Trung tá tình báo Mỹ Patti ).
Hồ Chí Minh nhận 76.000 quan tiền, cầm giấy giới thiệu của chủ
tịch Việt Minh Trương Bội Công, dẫn 18 chuyên viên trở về Pác Bó;
nhân danh các đảng phái cách mạng hải ngoại, gom góp thu phục
các tổ chức và cá nhân yêu nước đang hoạt động tại tỉnh Cao Bằng,
xưng danh tổ chức của mình là Mặt Trận Việt Minh.
* Chú giải : 18
người được Tiêu Văn cho phép HCM dẫn về Việt Nam là những người Việt
vừa mới tốt nghiệp trường sĩ quan Đại Kiều, trong số đó có Hoàng Văn
Thái, Đàm Quang Trung, Hoàng Minh Thảo, Nam Long, Vũ Lập, Bằng
Giang…( Lúc đăng ký theo học trường sĩ quan Đại Kiều thì các ông này
lấy tên khác ).
Theo hồi ký Một Cơn Gió Bụi của sử gia Trần Trọng Kim thì
trong số 18 sĩ quan Đại Kiều có một nhân vật nữ tên Đỗ Thị Lạc :
”Sau đó hội cho ông Hồ Chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là
người trong đảng Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22
người ấy có một nữ đảng viên tên là Ðỗ Thị Lạc là người sau có đứa
con gái với Hồ Chí Minh”.
Tuy nhiên cho tới nay ngoài TTK chưa có ai đưa thêm chứng cớ
để xác định tin này.
Cùng về với HCM còn có rất nhiều nhân vật xuất sắc như Hoàng
Văn Hoan, Lê Thiết Hùng, Cao Hồng Lãnh và toàn bộ nhóm Thiết Huyết
gồm có Bùi Đức Minh, Lê Tùng Sơn,
Đặng Văn Cáp, Bùi Ngọc Thành, Trần Ngọc Kính đều là những
người có kinh nghiệm hoạt động cách mạng và từng tốt nghiệp Trường
Võ Bị Côn Minh. Cao Hồng
Lãnh và Lê Thiết Hùng tốt nghiệp trường Võ bị Hoàng Phố, từng là sĩ
quan trong quân đội Tưởng Giới Thạch.
(29) MỸ ĐƯA HỒ CHÍ MINH VỀ NƯỚC
Hồ Chí Minh làm điệp báo viên cho Hoa Kỳ
Năm 1945, tháng 3, Hồ Chí Minh trở lại Côn Minh dẫn theo một
trung úy phi công Hoa Kỳ tên Wiliam Shaw, bị rớt máy bay trong vùng
Cao Bằng. Ngày 17 tướng
Trương Phát Khuê giới thiệu Hồ Chí Minh với đại úy Charles Fenn,
trưởng toán tình báo OSS của Hoa Kỳ (Tiền thân của CIA).
Sau 3 lần gặp, Charles Fenn kết nạp HCM làm nhân viên điệp báo
của OSS với bí danh Lucius, bí số 19 (Bài viết của Robert Shaplen
đăng trên báo The Reporter, số ra ngày 27-1-1955) .
Sau đó thì Trung úy John và toán OSS nhảy dù xuống vùng Kim
Lũng, Bắc Cạn để liên lạc với nhóm kháng chiến của Chu Văn Tấn ( Hồi
ký “Đầu nguồn” của lãnh tụ CS Cao Hồng Lãnh ).
Năm 1945, ngày 29-3, Hồ Chí Minh xin gặp tướng Tư lệnh Không
đoàn 14 của Hoa Kỳ tại Hoa Nam là Claire L.Chennault.
Tướng Chenault tặng HCM một tấm ảnh có chữ ký để lưu niệm (
Hồi ký Patti. Tấm ảnh này sẽ chứng minh với dân chúng Việt Nam rằng
ông HCM là người của Đồng Minh).
Ngoài ra đại úy
Fenn cũng tặng ông 6 khẩu súng Colt 45.
( Trong các ngày biểu tình cướp chính quyền tại Hà Nội. Các
cán bộ cao cấp đi xung quanh HCM đeo 6 khẩu súng này khiến nhân dân
Hà Nội càng tin rằng các ông là người của Hoa Kỳ ).
Ngày 15-4 HCM trở lại Pác Bó.
Theo tài liệu của Bernard Fall thì người cấp cho ông Hồ Chí
Minh 6 khẩu súng ngắn là Đại tá Paul Helliwell.
Chỉ huy trưởng tình báo quân đội Hoa Kỳ tại Hoa Nam.
Ông Helliwell cho Bernard Fall biết rằng rằng số súng ấy là
để tạ ơn đã cứu viên phi công Mỹ.
Ngoài ra Helliwell cũng cho biết ông HCM có nằn nì xin ông
viện trợ vũ khí và quân dụng nhưng ông cương quyết từ chối vì lúc đó
ông đã biết HCM và tổ chức của ông ta là Cọng sản.
Năm 1945, ngày 27-4, 12 ngày sau khi trở về Pác Bó, Hồ Chí
Minh lại sang Tĩnh Tây để gặp chỉ huy trưởng OSS đặc trách Đông
Dương là Đại úy Archimèdes L.A.Patti
( Hồi ký của Patti, có trưng tài liệu của chính phủ Hoa Kỳ và
hình ảnh ).
Năm 1945, ngày 4-5, Hồ Chí Minh dời căn cứ Pác Bó về làng Tân
Trào, tỉnh Tuyên Quang. Cùng đi có 2 điệp báo viên của OSS là Frank
Tan và Mac Shin (Tài liệu của Viện Sử học Hà Nội, Việt Nam Những Sự
Kiên Lịch Sử, trang 395 ).
Năm 1945, tháng 5, sau khi Hồ Chí Minh về Tuyên Quang, lực
lượng quân sự tại vùng biên giới Cao Bằng – Lạng Sơn do Lê Thiết
Hùng trấn giữ. Nhờ đã
bắt tay trực tiếp với Hoa Kỳ cho nên HCM ra lệnh cho Lê Thiết Hùng
và Hoàng Văn Hoan tìm mọi cách chận cánh quân Hoa Quân Nhập Việt của
Tưởng giới Thạch tại biên giới.
Báo cáo của Tướng Tiêu Văn: “ Khoảng tháng 5 đến tháng 8 năm
1945, các cơ quan ngoại vụ và kiều vụ của Chiến Khu 4 và Quân đoàn 62
Trung Hoa, từ Tĩnh Tây đã phái người vào Việt Nam hoạt động.
Khi quân đội tiến vào, đã bị Việt Minh cản trở trên đường từ
Cao Bằng qua Lạng Sơn, Bắc Giang.
Các Hoa kiều không tuân hành lệnh vườn không nhà trống của họ
cũng bị ngược đãi và giết hại” (Tiêu Văn, “Giải đáp vấn đề Việt
Nam”. Tài liệu của Tưởng
Vĩnh Kính, Thượng Huyền dịch).
Năm 1945, tháng 5, Patti nhận được báo cáo của Hồ Chí Minh
rằng đảng Đại Việt đang có kế hoạch đại khủng bố người Pháp.
Báo cáo do trưởng toán tình báo Hoa Kỳ tại Cao Bằng
là Trung úy John chuyển về Quảng Tây.
Sau này vào năm 1955 nhà báo Robert Shaplen xin phép Trung úy
John đăng trên báo The Reporter nguyên văn bức thư mà Hồ Chí Minh
nhờ John chuyển cho Patti, trong đó có đoạn :
“Tôi gửi anh một chai rượu vang, hy vọng anh thích nó.
Hãy làm ơn cho tôi biết tin tức nước ngoài mà anh có…Hãy làm
ơn chuyển cho cấp chỉ huy của anh 2 bức điện sau đây:
(1) – Đảng Đại Việt đang có kế hoạch đại khủng bố người Pháp
để đổ cho Việt Minh chúng tôi làm.
Nhưng Việt Minh đã ra lệnh cho 2 triệu đoàn viên và tất cả
dân chúng dưới quyền hãy canh chừng và ngăn chận không cho chúng
tiến hành kế hoạch gây tội ác này khi nào có thể và nếu có thể
được…”.
* Chú giải : So
lại với các chứng liệu lịch sử thì thời đó Mặt trận Đại Việt Quốc
Dân Đảng hoàn toàn không có kế hoạch khủng bố nào cả.
Ông HCM vu oan cho họ vì Mặt trận Đại Việt đang là lực lượng
chính trị mạnh nhất Bắc Việt, ông ta lo sợ người
Mỹ tìm cách bắt tay với Đại Việt thì Mặt trận Việt Minh của
ông ta hỏng ăn.
Ngoài ra lúc đó Việt Minh chỉ có 200 đoàn viên tại Tân Trào
chứ không phải 2 triệu.
Việt Minh cũng không có dân chúng dưới quyền vì họ chưa cướp chính
quyền. Những chi tiết mà
Hồ Chí Minh nêu trong thư chỉ là chuyện bịp.
Chính tự truyện của ông Hồ Chí Minh dưới tên Trần Dân Tiên
cũng đã xác nhận : “…ngay hôm mồng 9 tháng 3, đã ban bố khắp nước,
bản chỉ thị, nội dung như sau : Người Pháp không còn là kẻ thù của
chúng ta nữa (sic), họ đã trở thành những người bị nạn.
Vì tình nhân loại, toàn thể đồng bào, trước hết là hội viên
Việt Minh phải cố gắng giúp người Pháp bị Phát xít Nhật bức hại”.
Với những đoạn trích dẫn này, lịch sử Việt Nam có đủ bằng cớ
để chứng minh rằng, trước tháng 8 năm 1945, ông Hồ Chí Minh một lòng
theo Pháp chứ không hề chống Pháp.
Chẳng những một lòng theo Pháp, ông còn tự nguyện làm điềm
chỉ để lấy điểm với người Pháp.
Chẳng những làm một người điềm chỉ thường tình, ông còn là
một người điềm chỉ gian, sẵn sàng dựng chuyện không thành có để lập
công với người Pháp. Rõ
ràng ông ta là một người bán nước chứ đâu phải là yêu nước (!).
Năm 1945, ngày 16-7, Patti gởi vào mật khu Tuyên Quang một
toán OSS thứ hai do thiếu tá Allison K.Thomas chỉ huy.
Trong toán có một Trung úy Pháp từng đồn trú tại Cao Bằng.
Ngày hôm sau Thomas báo cáo rằng chỗ của Hồ Chí Minh có
khoảng 200 tay súng, có thể sử dụng ngay 100 người.
Cuối báo cáo Thomas viết: “Bỏ qua chuyện nhảm rằng HCM là
Cọng sản” ( Hồi ký Patti ).
Nhận xét của Thomas là một bằng chứng cho thấy ngay từ ngày đó
người Mỹ đã ngại cọng tác với Cọng sản.
Và đây cũng là một bằng chứng giải thích vì sao Hồ Chí Minh
cố tình che giấu mình là một cán bộ Cọng sản.
Năm 1945, ngày 20-7, Thomas báo cáo phi trường dã chiến cho
phi cơ L-5 đã làm xong và Hồ Chí Minh
có cho ông biết rằng vợ con của HCM đã bị người Pháp bắt đi
và đốt nhà đốt cửa. Nhận
xét về tổ chức Việt Minh của Thomas là:
“Không phải Cọng sản, cũng không phải do Cọng sản kiểm soát,
cũng không phải Cọng sản lãnh đạo”.
Ngày 1-8 Thomas lựa 100 người khỏe mạnh trong toán quân của
HCM và bắt đầu huấn luyện ( Hồi ký Patti, kèm theo hình ảnh Võ
Nguyên Giáp đứng chào quốc kỳ của Hoa Kỳ ) .
Từ đó Patti yên trí Việt Minh không phải là Cọng sản. Thêm một
bằng chứng về tài bịp của HCM.
Sự thực là Mỹ đã đưa
Nguyễn Tất Thành về Việt Nam
Cho đến năm 1982, trước khi hồi ký của Trung tá tình báo Hoa
Kỳ Archimete Patti được phát hành thì toàn dân Việt Nam đều tưởng
rằng Tổ chức Cọng sản Quốc tế sắp xếp và đưa tiền bạc cho Hồ Chí
Minh về Việt Nam để làm nên Cách mạng Mùa Thu.
Vì vậy mọi lời bàn bạc về Hồ Chí Minh đều đặt trên căn bản là
ông ta do CSQT đưa về, cuộc cách mạng vào mùa Thu năm 1945 tại Hà
Nội là thành công của CSQT.
Nhưng vì CSQT đã bị Stalin giải tán năm 1943 cho nên người ta
gán cho đó là thành công của Stalin.
Mãi cho tới khi hồ sơ mật của Mạc Tư Khoa được giải mã thì
người ta mới hay rằng vào năm 1945 Stalin và ĐCS Nga không biết Hồ
Chí Minh là ai. Rồi đến
khi hồi ký của Patti ra đời thì rõ ràng là ông Hồ Chí Minh được tình
báo Mỹ đưa từ Liễu Châu về Pác Bó vào tháng 11 năm 1944.
Đến tháng 4 năm 1945 toán tình báo Hoa Kỳ cùng đi với Hồ Chí
Minh từ Pác Bó về lập trại huấn luyện biệt kích tại Tân Trào thuộc
tỉnh Tuyên Quang. Rồi
tại Tân Trào, toán tình báo Hoa Kỳ nghe tin Nhật đầu hàng nên hành
quân mở đường cho Hồ Chí Minh về tới Thái Nguyên vào ngày 23-8-1945.
Đến trưa ngày 26-8-1945 ông Hồ Chí Minh về đến Hà Nội và xin
được gặp đại diện duy nhất của chính phủ Hoa Kỳ tại Hà Nội là Thiếu
tá tình báo Patti. Sau
khi thăm dò ý kiến của Patti ông mới họp Trung ương Đảng vào buổi
tối hôm đó để bàn việc lập chính phủ lâm thời.
Nhưng cũng trong cuộc họp này ông lấy lý do Mỹ không thích
Cọng sản cho nên ông đuổi hết mấy tay Cọng sản từng tổ chức cướp
được chính quyền tại Hà Nội vào ngày 19-8-1945 để thay bằng Võ
Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng là người của ông.
( Những người này không phải là đảng viên của ĐCSĐD. Mãi về
sau này “Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng” của ông Trần huy Liệu mới hợp
thức hóa rằng ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng được “Bác” kết nạp
vào năm 1940 ở bên Tàu ).
(30) TẬP THƠ NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
Thi sĩ Hồ Chí Minh
Năm 1954, Trung tướng Lê Thiết Hùng từ chiến khu Việt Bắc theo
đoàn quân chiến thắng về sinh sống ở Hà Nội.
Trong hành trang của Tướng Lê Thiết Hùng có một tập thơ chép
tay của tác giả Hồ Chí Minh. Tập thơ này do vợ ông Lê Thiết Hùng
là bà Hồ Diệc Lan để lại sau khi bà qua đời vào năm 1946.
Theo lời kể của ông Hồ Duy Diệm, trưởng tộc của họ Hồ ở Quỳnh
Lưu, Nghệ An ( Cựu bí thư tỉnh Hòa Bình ) thì năm 1945 bà Hồ Diệc
Lan và ông Lê Thiết Hùng từ Trung Hoa về Nghê An tạm sống tại từ
đường họ Hồ ở Quỳnh Lưu.
Trong thời gian này bà Diệc Lan có cho ông Diệm xem tập thơ Ngục
Trung Nhật Ký của nhân vật Hồ Chí Minh.
Đến năm 1958, chính quyền CSVN cho thành lập “Viện Bảo tàng
Cách mạng”, Tướng Lê Thiết Hùng bèn tặng Viện bảo tàng tập thơ có
tựa đề là Ngục Trung Nhật Ký, tên tác giả là Hồ Chí Minh.
Có người đến Viện bảo tàng đọc được tập thơ tưởng là thơ của
Hồ Chủ tịch nên đề nghị với Viện trưởng viện Văn học là Đặng Thái
Mai cho in và xuất bản tập thơ đó.
Tuy nhiên ông Trần Huy Liệu là Viện trưởng Viện Nghiên cứu
lịch sử Đảng ngăn lại vì ông biết có sự nhầm lẫn về tác giả của tập
thơ, ông đề nghị nên hỏi ý kiến của ông Phạm Văn Đồng là Trưởng ban
Tuyên huấn của Trung ương Đảng.
Ngoài ra ông Đặng Thái Mai và ban biên tập cũng phát hiện có
nhiều điều khó hiểu như:
Từ trang đầu tiên có ghi hai dòng niên biểu là 29-8-1932 và
10-9-1933. Đây là ngày
vào tù và ngày ra tù của tác giả tập thơ.
Đến trang 53, sau 60 bài thơ bằng chữ Hán, thì lại có hai
dòng niên biểu là 29-8-1942 và 10-9-1943, tuồng chữ ghi ngày tháng
này hoàn toàn khác với tuồng chữ trong trang đầu. ( Đây là dòng chữ
do người khác ghi thêm sau này ).
Ngoài ra, từ trang 53 tuồng chữ Hán cũng đổi khác, và chỉ ghi
những sự kiện chính trị bằng chữ Hán lẫn chữ Pháp, chữ Việt. Đây là
tuồng chữ Hán, chữ Pháp, và chữ Quốc ngữ của ông Nguyễn Tất Thành,
tức là Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này.
Sau khi có lời khuyên của ông Trần Huy Liệu, ông Đặng Thái Mai
trình xin ý kiến của ông Trưởng ban tuyên giáo Trung ương Phạm Văn
Đồng. Ông Đồng xác nhận
đó là bút tích của Hồ Chủ tịch và bảo sửa lại những dòng ngày tháng
ghi trong trang đầu thành năm 1942 và 1943
*( Vì năm 1932 “bác” có ở tù tại Hồng Kông nhưng ngày vào tù
là 5-6-1931, và ngày ra
tù là 28-8-1932; không
đúng so với ngày tháng ghi trong trang đầu tập thơ.
Hơn nữa, ngày đó “bác” chưa dùng tên Hồ Chí Minh ).
Sau này ông Đặng Thái Mai cho biết:
“Trong thời gian Viện Văn học hiệu đính bản Ngục trung nhật
ký, chúng tôi đề đạt lên Bác câu hỏi về điểm này, qua Ban Tuyên
giáo. Và đã được trả lời, hai con số trên đây là sai, đúng ra là
1942 và 1943” (Đặng Thái Mai, Nghiên Cứu, Học Tập Thơ Văn Hồ Chí
Minh, 1979).
Sự thực đằng sau tập thơ
Sự thực ông Phạm Văn Đồng biết rằng nửa đầu của tập thơ là 60
bài thơ kỷ niệm những ngày ở tù của ông Hồ Học Lãm (1932-1933).
Đầu năm 1942 ông Lãm qua đời, người nhà cụ Lãm mới đưa giấy
tờ tùy thân của cụ Lãm cho ông Nguyễn Tất Thành sử dụng.
Sau đó ông Thành bị chính quyền Trung Hoa bắt giam vì nghi
ông ta là gián điệp của Nhật.
Ông Thành trưng ra giấy tờ tùy thân là một công dân của Trung
Hoa tên là Hồ Chí Minh và một thẻ nhà báo cũng tên Hồ Chí Minh nhưng
người ta vẫn không tin cho nên ông Thành nhắn người nhà của ông Lãm
gởi cho ông thêm bằng cớ để chứng minh rằng ông chính là nhà báo Hồ
Chí Minh.
Gia đình ông Lãm bèn giởi tập thơ chép tay của cụ Lãm cho ông
Thành. Tuy nhiên ông
Thành không dám đem tập thơ này ra chứng minh vì tuồng chữ của ông
khác với tuồng chữ của cụ Lãm.
Nếu gia đình cụ Lãm gởi cho một tập thơ đã in thì ông còn có
thể dùng làm bằng chứng nhưng với tập thơ chép tay thì đành chịu
thua.
Do đó ông tiếp tục giữ tập thơ để ngâm nga đỡ buồn trong những
ngày còn ở trong tù. Vô
tình phần sau của tập thơ còn nhiều trang giấy trắng nên ông ghi
thêm vào đó những điều cần ghi nhớ trong những ngày còn bị giam.
Sau khi ra khỏi tù ông trả tập thơ lại cho Hồ Diệc Lan là con
gái của ông Hồ Học Lãm, trong đó có một số ghi chép của ông.
Vì vậy chồng của Diệc Lan là Tướng Lê Thiết Hùng mới tặng cho
Viện bảo tàng để lưu niệm bút tích của cả hai nhà cách mạng.
Tập thơ có hai phần với hai tuồng chữ khác nhau, phần đầu
khoảng 60 bài thơ bằng chữ Hán của cụ Lãm và phần sau là một số
trang ghi chép những sự kiện chính trị bằng chữ Hán, chữ Việt và chữ
Pháp của ông Thành. Ông
Phạm Văn Đồng biết sự thật đầu đuôi mọi chuyện nhưng ông cố tình để
cho dân chúng hiểu lầm.
Riêng ông Nguyễn Tất Thành cũng im lặng sau khi tập thơ được
phát hành. Trước những
lời chúc tụng của đàn em thì ông chỉ khiêm tốn bảo rằng đừng nhắc
tới chuyện đó. Và đặc
biệt khi ông còn sống thì tập thơ không được đưa vào chương trình
giáo dục mặc dầu thời đó các em học sinh đã được học một số bài văn
và bài vè của Hồ Chủ tịch.
Sở dĩ người ta không cho phép đưa vào giáo dục vì Tướng Lê
Thiết Hùng còn đó và ông Trần Huy Liệu còn đó.
Ngoài ra ông Đặng Thái Mai và một số người trong Viện Văn Học
cũng đã căn cứ vào bút tích và văn phong của tập thơ mà đặt ra nhiều
nghi vấn về việc ai là tác giả.
Rồi sau khi “bác” chết thì người ta mới đưa Ngục Trung Nhật Ký
vào sách giáo khoa trong tiết mục “Văn thơ của Hồ Chủ tịch”.
Người đời tưởng rằng khi còn sống “bác” kiêm tốn không cho
phép khoe khoang cho nên phải đợi sau khi bác mất mới chính thức xác
nhận.
Nhưng thực ra không phải là sau khi bác HCM
mất, mà là sau khi ông Trần Huy Liệu mất, ông Liệu mất trước
bác HCM một tháng. Lúc
còn sống ông Liệu không công nhận Ngục Trung Nhật Ký là của HCM,
nhưng vì thời đó không thể mở miệng phản đối cho nên ông Liệu đành
phải làm thinh. Cũng như
lúc còn sống ông Liệu không thể mở miệng thú nhận nhân vật anh hùng
Lê Văn Tám là do chính ông ta bịa ra.
Phân tích chứng cớ
(1) Trong tập thơ
có một bài chúc mừng Tướng Lương Hoa Thịnh mới được giữ chức Tư lệnh
phó (Tư lệnh phó Quân Khu), lời lẽ bài thơ cho thấy hai người là bạn
chí thân. Do đó người ta
kết luận được rằng ông Nguyễn Tất Thành không phải là tác giả vì
ngoài đời Tướng Thịnh hoàn toàn không quen biết ông Thành, thậm chí
đối nghịch nhau. Tướng
Thịnh là cán bộ cao cấp của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, trong khi ông
Thành là người của Cọng sản Quốc tế.
Trong khi đó Tướng Thịnh rất
thân với ông Hồ
Học Lãm vì cả hai cùng xuất thân khóa 2 trường sĩ quan Bảo Định và
cả hai cùng phục vụ trong quân đội của Tưởng Giới Thạch tại Hoa Nam.
Trước khi về hưu ông Lãm là Đại tá trong quân đội của Tưởng
Giới Thạch
(2) Ngoài ra có
nhiều bài khác cho thấy tác giả được biệt đãi trong tù vì là cán bộ
cao cấp của Quốc Dân Đảng, bị giam vì bị nghi ngờ là “Hán gian”.
Những chi tiết này trùng khớp với ông Hồ Học Lãm và hoàn toàn
sai nếu so với ông Nguyễn Tất Thành.
(3) Một bằng chứng
khác, là ngày nay Văn khố Quốc gia Hoa Kỳ còn lưu giữ lá đơn
của ông Phạm Văn Đồng ( Ký tên là Hội Quốc Tế Chống Xâm Lược
) xin tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Trùng Khánh can thiệp thả ông Hồ Chí
Minh. Đơn được gởi đi
tại Bưu điện thành phố Tĩnh Tây ngày 25-11-1943.
Chứng tỏ ít nhất cho tới ngày 25-11 thì ông Thành vẫn còn ở
trong tù.
Như vậy thì cái ngày ra tù 10-9-1943 được ghi trong Nhật Trung
Nhật Ký là không thật;
bởi vì ông đã ra tù vào tháng 9 thì tháng 11 ông Phạm Văn Đồng còn
gởi đơn xin tha làm chi nữa ?
(31) NHẬT TUYÊN BỐ VIỆT NAM ĐỘC LẬP
Cuộc binh biến đêm 9 tháng 3
Năm 1945, ngày 9-3,
người Nhật bị thua trên các mặt trận Đông Nam Á, họ muốn ra tay
thanh toán quân Pháp và chính quyền Pháp tại Đông Dương để rảnh tay
đối phó với liên quân Anh, Mỹ sắp tiến vào Đông Dương.
Do đó đêm 9 tháng 3 họ tiến hành một cuộc tổng tấn công trong
đêm, thực hiện một cuộc binh biến, bắt nhốt hết các công chức người
Pháp và tất cả binh lính Pháp trở thành tù binh.
*Chú giải : Lúc
này tổng số quân Pháp tại Đông Dương khoảng 38.000 người, trong đó
có 7.500 là người Pháp chính gốc, số còn lại là lính mộ tại các
thuộc địa Phi Châu, Trung Đông và người bản xứ Đông Dương.
Tổng số quân Nhật tại Đông Dương là 70.000 người.
Tại Sài Gòn quân Pháp bị bất ngờ nên chỉ chống cự được vài
tiếng đồng hồ thì đầu hàng, Toàn quyền Decoux bị bắt vào giữa trưa
ngày 9-3. Trong vài
ngày, hàng ngàn quân Pháp bị giết, một số bị bắt làm tù binh.
Tại Lạng Sơn tướng Lemonier bị giết.
Có một đoàn quân khoảng 5.000 người do tướng Alessandri chỉ
huy chạy sang Vân Nam.
Lúc 1giờ 30 sáng ngày 9 tháng 3, Tư lệnh Không lực số 14 của
Mỹ tại Hoa Nam là Tướng Chenault nhận tin quân Pháp bị đánh và được
yêu cầu cho không quân yểm trợ các cánh quân Pháp đang chạy sang
Trung Hoa. Tướng
Chenault viện lẽ thời tiết xấu để từ chối.
Trong tập hồi ký viết sau này ông đã thổ lộ: “Chính phủ Hoa
Kỳ muốn thấy người Pháp bị đuổi khỏi Đông Dương để không còn thuận
tiện trở lại chế độ thuộc địa…”.
Năm 1945, sau ngày 9-3. Theo tự truyện của ông HCM dưới tên
Trần Dân Tiên : “ Sau ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, Nhật tuyên bố
Việt Nam Độc lập. Bảo
Đại tuyên bố bỏ chủ cũ và theo chủ mới là Nhật.
Lập tức Việt Minh ra một bản tuyên ngôn nói:
Lời tuyên bố Việt Nam độc lập của Nhật là một sự lừa dối…”.
* Chú giải : Đây
chính là lời của HCM ghi trên giấy trắng mực đen chứ không ai bịa
ra. Rõ ràng người Nhật
cướp chính quyền từ trong tay thực dân Pháp và trao lại cho người
Việt. Thế nhưng thay vì
hoan nghênh nghĩa cử của người Nhật, HCM lại hô hoán lên rằng người
Nhật lưu manh (!). Ông
ta hô hoán như vậy chỉ nhằm nịnh bợ người Mỹ.
Hèn hạ hơn nữa, báo chí Pháp -Việt còn lưu lại từng lời từng
chữ bản tuyên bố độc lập của Bảo Đại : “Chiếu tình hình thế giới nói
chung và tình hình Á Châu nói riêng, chính phủ Việt Nam long trọng
công khai tuyên bố, kể từ ngày hôm nay, hiệp ước bảo hộ ký với nước
Pháp được bãi bỏ, và đất nước thu hồi chủ quyền độc lập quốc gia…”.
Thế nhưng HCM đã dở giọng lưu manh biến lời nói của Bảo Đại
thành “tuyên bố bỏ chủ cũ và thay chủ mới” (sic).
Đây là bằng chứng chứng tỏ tư cách đạo đức của ông Hồ Chí
Minh. Trên cương vị minh
chủ phải là một người người quân tử nhưng hành động của ông ta toàn
là hành động tiểu nhân.
Năm 1945, ngày 9-3. Theo tự truyện của Hồ Chí Minh dưới tên
Trần Dân Tiên: “…ngay hôm mồng 9 tháng 3, ( Hồ chủ tịch ) đã ban bố
khắp nước, bản chỉ thị, nội dung như sau:
Người Pháp không còn là kẻ thù của chúng ta nữa (sic), họ đã
trở thành những người bị nạn.
Vì tình nhân loại, toàn thể đồng bào, trước hết là hội viên
Việt Minh phải cố gắng giúp người Pháp bị Phát xít Nhật bức hại…”.
Lúc này ông HCM đang chuẩn bị dẫn trung úy phi công của Hoa Kỳ
sang Trung Hoa. Phi cơ của viên trung úy này bị bắn rơi trong vùng
Việt Bắc, anh ta nhảy dù ra và được đồng bào Miền Núi dẫn đến cho
ông HCM. Sau đó ông HCM
dẫn người phi công sang giao cho Trưởng toán tình báo Hoa Kỳ tại Côn
Minh là Thiếu tá Charle Fenn và được kết nạp làm nhân viên tình báo
của cơ quan OSS Hoa Kỳ với bí danh Lucius và bí số 19.
Lại thêm một bằng chứng nữa về tài trở cờ của Hồ Chí Minh,
ngay khi vừa mới tuyên bố rằng Bảo Đại bỏ chủ cũ, thay chủ mới thì
chính ông bỏ chủ CSQT mà nhận
kẻ thù Pháp làm bạn và sẵn sàng làm tay sai cho Mỹ.
Rõ ràng HCM là một tay lưu manh bán nước chứ không hề là
người yêu nước.
Năm 1945, tháng 3. Theo tố cáo của ông HCM dưới tên Trần Dân
Tiên: “Song những người Pháp đã hợp tác với Nhật.
Dâng vợ và con gái cho Nhật để làm thư ký, đánh máy và vân
vân…”. Chữ vân vân của
ông HCM có nghĩa là còn nhiều chuyện dơ dáy khác mà không nói ra.
*Chú giải : Rõ ràng lời tố cáo này cũng chỉ là tố điêu chứ
người Pháp không thể đê hèn đến nỗi dâng vợ con cho kẻ chiến thắng.
Họ dâng như vậy thì họ được gì ?
Và nếu không dâng thì họ bị gì ?
Nhưng nếu quả thật họ không có làm việc đó thì ông HCM đã lòi
mặt lưu manh, đặt điều dơ bẩn cho những người mà ông gọi là “đã trở
thành những người bị nạn”.
Ngoài ra ông còn tố cáo: “Có những người Pháp, mà số này không
phải ít, được Việt Minh giúp đỡ vượt qua biên giới Trung Quốc, họ tỏ
lời đời đời nhớ ơn, v.v… Nhưng đến biên giới Côn Minh thì họ trở
giọng nói xấu Việt Minh”. Theo tâm lý con người thì không ai được
người ta giúp cho thoát khỏi chỗ chết lại quay ra nói xấu người ơn
của mình. Người Pháp nói xấu cho Việt Minh thì họ được gì nếu như sự
thực Việt Minh toàn làm điều tốt cho họ ?
Đặt một câu hỏi ngược lại là ông Hồ Chí Minh được gì khi ông
phao vu cho người khác như vậy ?
Câu trả lời rất dễ dàng là ông sẽ được làm vua đất nước Việt
Nam!
Bảo Đại tuyên bố độc lập
Năm 1945, ngày 10-3, Bảo Đại tiếp đại sứ Nhật, đại sứ cho biết
người Nhật muốn trao trả độc lập cho Việt Nam sau khi họ đã lật đổ
chế độ thực dân Pháp và họ muốn được cọng tác với Bảo Đại trong công
việc xây dựng một thể chế cách mạng tân tiến tại Việt Nam cũng như
cùng với Nhật xây dựng khối thịnh vượng Đông Nam Á.
Bảo Đại ngạc nhiên và thẳng thắn đặt vấn đề về ông Cường Để
nhưng đại sứ Nhật cho biết chính phủ Nhật chỉ muốn làm việc với
chính phủ Bảo Đại.
Sở dĩ Bảo Đại phải đặt ra vấn đề Cường Để vì Kỳ ngoại Hầu
Cường Để là một hoàng thân cháu nội của vua Gia Long đã sang Nhật từ
năm 1905 và rồi ông ở lại nước Nhật từ thời đó, liên lạc mật thiết
với các chính khách
Nhật, mong cầu viện người Nhật giúp đỡ Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ
của người Pháp.
Do đó khi người Nhật phát động chiến tranh thì đề ra phương
châm “Châu Á của người Á Châu”.
Mọi người Việt Nam đều biết rằng người Nhật sẽ đưa Cường Để
trở về lãnh đạo đất nước Việt Nam nếu có cơ hội thuận tiện.
Năm 1945, ngày 12-3, Bảo Đại công bố tuyên ngôn độc lập của
Việt Nam: “Chiếu tình hình thế giới nói chung và tình hình Á Châu
nói riêng, chính phủ Việt Nam long trọng công khai tuyên bố, kể từ
ngày hôm nay, hiệp ước bảo hộ ký với nước Pháp được bãi bỏ, và đất
nước thu hồi chủ quyền độc lập quốc gia…”.
Năm 1945, ngày 17-8, Bảo Đại cho công bố “Dụ số 1”là công văn
đầu tiên của Hoàng Đế nước Việt Nam sau khi tuyên bố độc lập, hủy bỏ
các văn kiện nhà Nguyễn đã ký với Pháp trước đây.
Ông cho biết ông sẽ cho thành lập một chính phủ mới, trao sự
điều khiển quốc gia cho những người mới trong tinh thần “ Dân vi
quý”.
* Chú giải : Lúc mới đọc được câu “Dân vi quý” thì các nhà
khoa bảng Việt Nam rất ngạc nhiên vì câu này trong sách của Mạnh Tử.
Nguyên câu là “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, có
nghĩa là quyền lợi của dân trên hết, sau đó là quyền lợi của quốc
gia, còn quyền lợi của vua thì không đáng kể.
Bảo Đại là một người theo Âu học, làm sao mà đọc được sách của
Mạnh Tử trong khi thấy ông toàn ăn rồi đi chơi, săn bắn chứ đâu có
chú ý gì tới quyền lợi của dân.
Dân chúng thì nghĩ rằng có lẽ câu này do Trần Trọng Kim, tuy
nhiên Hoàng Xuân Hãn xác nhận dụ số 1 có trước khi Trần Trọng Kim về
tới Huế. Các nhà khoa
bảng có mặt tại Huế lúc đó lại nghĩ có lẽ do Bí thư của Bảo Đại là
Phạm Khắc Hòe viết ra.
Tuy nhiên hồi ký của Phạm khắc Hòe cho biết đó là ý của Bảo
Đại viết ra giấy và bảo ông soạn diễn văn.
Ông Hòe nghi rằng có thể do đại sứ Nhật Yokohama, nhưng Hoàng
Xuân Hãn cũng cho rằng không đúng, ông cho biết Yokohama là một
người Nhật nhưng lớn lên theo học ở Châu Âu, nói tiếng Pháp rặt, lấy
vợ Thụy Sĩ, không biết gì về văn chương Á Đông.
Câu chuyện này tuy chỉ là bên lề lịch sử nhưng cũng nói lên
được một phần tâm hồn của Bảo Đại mà không ai ngờ đến.
Người ta cứ nghĩ rằng ông làm vua mà không để tâm tới đất
nước.
Ai là người tuyên bố độc lập?:
Sau này CSVN tuyên
truyền rằng ông Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập tại Hà Nội vào ngày
2-9-1945. Trong khi
Chính ông HCM dưới tên Trần Dân Tiên đã thú nhận rằng : “ Sau ngày
mồng 9 tháng 3 năm 1945, Nhật tuyên bố Việt Nam Độc lập.”
Vậy thì ngày 2-9-1945 ông HCM tuyên bố độc lập cái nỗi gì
trong khi cả nước chẳng biết Hồ Chí Minh là ai, đại diện cho ai.
So lại với báo chí của Pháp và Việt Nam ngày đó thì tất cả đều
ghi nhận Bảo Đại mới là người tuyên bố độc lập, nhất là tuyên bố hủy
bỏ các hiệp ước bất công trước đây giữa Pháp và Việt Nam.
Lúc tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước thì Bảo Đại có đầy đủ tư
cách pháp nhân để đại diện cho nhân dân Việt Nam, cầm đầu chính phủ
của nước Việt Nam.
Tuy nhiên lời tuyên bố độc lập của Bảo Đại cũng mới chỉ là một
phía, còn phía người Pháp không hề chấp nhận chuyện đơn phương hủy
bỏ hiệp ước. Người Pháp
chỉ chấp nhận điều đó sau khi họ đã ký với Bảo Đại hiệp ước Elysée
vào ngày 8-3-1949.
Vì vậy, trên nguyên
tắc, nước Việt Nam chỉ thực sự độc lập sau khi có hiệp ước Elysée.
Hiệp ước này là công lao tranh đấu của Bảo Đại và các chính
trị gia Việt Nam, thể theo ước vọng của toàn dân Việt Nam.
Riêng ông Hồ Chí Minh thì không có đóng góp một chút công lao
nào trong hiệp ước Elysée!.
BIÊN KHẢO VỀ NGUYỄN TẤT THÀNH, (32) HỘI NGHỊ TÂN TRÀO NĂM 1945
Đội Tuyên truyền Gải phóng quân
Năm 1945, ngày 16-7, toán tình báo Hoa Kỳ nhảy dù xuống Kim
Lũng, cách Tuyên Quang 20 cây số.
Toán tình báo gồm có Thiếu tá Thomas, Trung úy Mỹ Donsky,
Trung úy Pháp Montfort, Trung sĩ Pháp Lagoth, binh nhất Mỹ Prunier
và một Trung sĩ người Việt tên Phác ( Hồi ký của Patti).
Tất cả được Võ Nguyên Giáp tiếp đón trọng thể.
Sau đó Võ Nguyên Giáp làm phiên dịch cho toán OSS huấn luyện
tác chiến cho đội “Tuyên truyền Giải phóng quân”.
Năm 1945, ngày 6-8, quân Mỹ thả trái bom nguyên tử đầu tiên
xuống thành phố Hiroshima, sơ khởi được biết có 66.000 người chết,
cả thế giới sửng sờ. Đến
ngày 8-8 trái bom nguyên tử thứ 2 thả xuống thành phố Nagasaki.
Ngày 8-8, lợi dụng cơ hội nước Nhật sắp thua tới nơi, Staline
tuyên chiến với Nhật.
Ngày 14-8, vua Nhật tuyên bố đầu hàng.
Năm 1945, sau trái bom nguyên tử đầu tiên, Đặng Xuân Khu dự
trù triệu tập “Đại hội Đảng toàn quốc” để phổ biến kế hoạch chuẩn bị
“Tổng nổi dậy”. Đồng
thời Hồ Chí Minh cũng muốn nhân dịp này cho ra mắt Mặt trận Việt
Minh trước công chúng nên cũng triệu tập “Quốc Dân Đại Hội”.
Dự trù cả hai đại hội sẽ diễn ra tại làng Tân Trào tỉnh Tuyên
Quang. Đại hội Đảng sẽ
diễn ra trước, sau đó mới đến đại hội Quốc dân.
Khi Đặng Xuân Khu gửi thư mời đại biểu của Xứ ủy Nam Kỳ tham
dự đại hội thì không biết mời ai vì Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ là Hạ Bá
Cang thì đã ở lại Pác Bó sau khi tham dự đại hội toàn quốc năm 1941,
không biết cơ sở tại Miền Nam còn có những ai.
Cũng may người phụ trách tổ chức đại hội là Lý Chính Thắng
lại chính là cháu gọi Hà Huy Giáp bằng cậu ruột nên biết được địa
chỉ của Hà Huy Giáp tại Sài Gòn.
Đặng Xuân Khu nhờ các đảng viên tại Hà Nội nhắn tin cho Hà Huy
Giáp tập họp cán bộ ra dự đại hội.
Các ông Hà Nội cử bà Cái Thị Tám là vợ của Văn Tiến Dũng vào
Sài Gòn tìm Hà Huy Giáp.
Tuy nhiên Giáp chỉ kêu thêm được một người là Ung Văn Khiêm;
rồi cả ba ngược ra Hà Nội để tham dự đại hội ( Hồi ký của Cái
Thị Tám).
Về phía ông Hồ Chí Minh thì phân công cho bí thư Xứ ủy Nam Kỳ
là Hạ Bá Cang triệu tập cán bộ và đại diện đoàn thể tại Nam Kỳ ra
Tân Trào dự Quốc Dân Đại Hội.
Tuy nhiên Hạ Bá Cang không nắm rõ trong Sài Gòn còn những ai
nên Hồ Chí Minh phái Cao Hồng Lãnh vào Sài Gòn tìm tới cơ sở cũ của
Hạ Bá Cang để bắt liên lạc với các lãnh tụ Cọng sản Nam Kỳ.
Cao Hồng Lãnh gặp được Bùi Lâm.
Bùi Lâm kêu thêm Nguyễn Thị Thập.
Thập giới thiệu một thân hào nhân sĩ là Lê Hữu Kiều, ông này
có xe hơi riêng, và một nhân sĩ đại diện cho giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
là nhà thơ Việt Châu. Cả
năm người đi xe hơi của Lê Hữu Kiều ra Bắc ( Hồi ký của Nguyễn Thị
Thập ).
Về phần Trung Kỳ thì giấy mời Hội nghị Quốc dân được gởi cho
ông Đặng Thái Mai nhưng ông Mai từ chối vì lý do đang bị bệnh.
Còn giấy mời Hội nghị Đảng thì được gởi cho Tôn Quang Phiệt
là lãnh tụ Cọng sản độc nhất còn ở lại hoạt động bí mật tại Huế sau
chiến dịch gom bắt các cựu tù chính trị vào năm 1939-1940.
Nhưng Phiệt không thích nhóm Cọng sản Bắc Kỳ do có hục hặc với
nhau vào thời 1928, thời đó Phiệt lãnh đạo Xứ ủy Bắc kỳ của Tân Việt
Cách Mạng Đảng nên đã có xảy ra chuyện tranh giành đảng viên với
Đông Dương Cọng sản Đảng của Ngô Gia Tự.
Vì vậy Phiệt không muốn đi, bèn phong cho một thanh niên tên
Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Thừa Thiên rồi cử Thanh theo người đưa
thư ra Tân Trào.
Năm 1945, từ ngày 1 đến ngày 6-8, toán OSS và đội Tuyên truyền
Giải phóng quân cùng nhau xây dựng hội trường và nhà ở để tổ chức
huấn luyện quân sự. Đội
tân binh do Đàm Quang Trung chỉ huy.
Ngày 9-8 bắt đầu huấn luyện;
lúc này không ai hay biết gì về trái bom nguyên tử đầu tiên
đã thả tại Nhật trước đó 3 ngày.
Từ ngày 13 đến ngày 15-8, những người tham dự Đại hội Tân
Trào lục tục tới Tân Trào và được hướng dẫn tới thăm trường huấn
luyện quân sự ( Bartholomew-Feis, Ho Chi Minh & OSS, Lê Lương Giang
dịch, xuất bản tại Việt Nam năm 2007 )
* Chú giải : Theo
hồi ký của Hoàng Tùng :
“Một hôm, anh Lê Đức Thọ nói với tôi là anh đi họp một cuộc Hội nghị
quan trọng, dặn tôi ở nhà giữ gìn, trong nom cẩn thận công việc của
Trung ương, sau này tôi mới biết là anh đi dự Hội nghị Tân Trào.
Anh còn tiết lộ bí mật cho tôi biết chuyến đi này anh đi thế
nào cũng gặp Nguyễn Ái Quốc”.
Nghĩa là trước đó Lê Đức Thọ cũng chưa biết NAQ hay HCM là
ai.
Hồi ký của Hoàng Văn Hoan cho thấy những nhân vật hiện diện và
được phong chức tại Tân Trào:
“ Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp do Bác chủ
tọa. Những người tham
gia hội nghị ở Bắc có anh Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, ở Trung
có anh Nguyễn Chí Thanh;
ở Nam có anh Hà Huy Giáp ( Hoàng Văn Hoan nhớ lầm Ung Văn Khiêm là
Hà Huy Giáp ).ở Việt Bắc có anh Võ Nguyên Giáp và tôi;
ở Thái Lan và Lào về có các anh Dương Trí Trung, Trần Đức
Vịnh; ngoài ra còn có
một số đồng chí khác nay không nhớ rõ tên.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở nhà một người dân trong
làng Tân Trào.
Từ Tân Trào tiến về Hà Nội
Năm 1945, chiều 16-8 Trưởng toán OSS là Thiếu tá Thomas báo
tin cho Võ Nguyên Giáp
và Hồ Chí Minh biết rằng Nhật Hoàng đã tuyên bố đầu hàng.
Đêm hôm đó toán OSS đốt pháo bông để ăn mừng chiến thắng.
Sau đó Thomas phân phát những vũ khí dùng để huấn luyện cho
đội quân của Đàm Quang Trung (Tường trình cuả Thomas; tài liệu của
Bartholomew-Feis). Sáng hôm sau Giáp dẫn quân đi bộ về Hà Nội.
*Chú giải : Lúc Võ
Nguyên Giáp kéo quân đi thì Đặng Xuân Khu cũng vội vàng dẫn các đại
biểu Đảng kéo nhau về Hà Nội, hủy bỏ luôn Đại hội.
Tuy Giáp và Khu lên đường cùng một lượt nhưng Khu đến Hà Nội
trước Giáp 2 ngày nhờ giả dạng thường dân, dễ dàng qua các trạm gác
dọc đường. Trong khi
Giáp phải xua quân có mang theo súng ống nên bị chận lại nhiều nơi.
Trước khi kéo về Hà Nội, Đặng Xuân Khu phong cho Nguyễn Chí
Thanh làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ đồng thời bổ sung Nguyễn Chí Thanh
vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng cùng với Võ Nguyên Giáp ( Viện sử
học CSVN, Việt Nam, Những Sự Kiện Lịch Sử, trang 406 ).
Sau đó dặn Thanh ở lại Tân Trào để dự Quốc dân Đại hội của Hồ
Chí Minh. Sở dĩ Khu
phong cho Thanh làm Bí thư Trung Kỳ vì Thanh là đại diện duy nhất
của Trung Kỳ có mặt tại Tân Trào.
Trước đó các ông tính giao chức này cho Tôn Quang Phiệt nhưng
vì Phiệt từ chối tham dự cho nên các ông mới tức mình mà giao cho
Thanh. Tính ra con đường
sự nghiệp của Nguyễn Chí Thanh gặp hên hơn cả Võ Nguyên Giáp, Trường
Chinh. Từ một đảng viên
thường, ông được thăng lên Bí thư Tỉnh ủy, rồi Bí thư Xứ ủy và vào
ban chấp hành Trung ương trong vòng chưa đầy 1 tháng.
Sau khi Trung ương Đảng kéo về Hà Nội, ông Hồ Chí Minh và Phạm
Văn Đồng ở lại Tân Trào để lo tổ chức một buổi lễ tuyên bố tổng khởi
nghĩa trước “Quốc Dân Đại Hội”.
Hồ Chí Minh nấn ná ở lại Tuyên Quang cho đến ngày 25-8, sau
khi Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh đã làm chủ tình hình tại Hà Nội
thì ông Hồ mới mon men về ngoại thành.
Và khi biết chắc rằng đã thành công thì ngày hôm sau ông mới
vào Hà Nội ( Viện sử học CSVN, Việt Nam, Những Sự Kiện Lịch Sử,
trang 421 )
Những chi tết này chứng tỏ nhân vật chủ chốt ra tay hành động
cho cuộc cách mạng mùa thu năm 1945 không phải là Hồ Chí Minh, ông
không phải là người tạo ra cuộc Cách Mạng Mùa Thu, ông chỉ là người
thừa hưởng thành quả của cuộc cướp chính quyền ngày 19-8 do các đoàn
thể dân chúng tạo ra.
Trong đó có công rất lớn của Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội
của ĐCSĐD gồm có Nguyễn Quyết, Nguyễn Khang, Trần Quang Huy, Lê
Trọng Nghĩa, Nguyễn Duy Thân, Trần Đình Long, Nguyễn Thế Vinh, Hoàng
Tùng, Văn Tiến Dũng, Cái Thị Tám, Xuân Thủy, Vũ Đình Huỳnh … Ngoài
ra thái độ nấn ná ở lại Cao Bằng và Tuyên Quang cũng chứng tỏ phong
cách hoạt động của Nguyễn Tất Thành, ông luôn luôn dành chỗ hiểm
nguy cho người khác. Đợi khi nào tình thế trở nên “chắc ăn” ông mới
xuất hiện.
(33) MỸ ĐƯA HỒ CHÍ MINH VỀ HÀ
NỘI
Tình báo Hoa Kỳ cùng đi với Hồ Chí Minh về Hà Nội
Năm 1945, sáng sớm ngày 17-8, từ làng Tân Trào thuộc tỉnh
Tuyên Quang, toán OSS và quân của Võ Nguyên Giáp chia làm 2 cánh
tiến về tỉnh lỵ Thái Nguyên. Một cánh do Võ Nguyên Giáp và Thomas
cùng đi, một cánh do phụ tá cuả Thomas là Défourneaux và Đàm Quang
Trung cùng đi. Mỗi buổi
chiều 2 toán gặp lại nhau, cùng nghỉ qua đêm rồi hôm sau lại chia
hai mà đi.
Vì phải đi bộ cho nên 4 ngày sau, ngày 20-8, đoàn quân mới tới
được Thái Nguyên. Trong
ngày 19-8 Thomas nhận được lệnh của Patti từ Trung Hoa là (1) Không
được đi chung với quân của Giáp. (2) Không được giao cho Giáp các
trang thiết bị của toán OSS. (3) Không được tự tiện tiếp nhận sự đầu
hàng của các đơn vị Nhật. (4) Ngưng tiến về hướng Hà Nội và đợi lệnh
mới. Tuy nhiên Thomas
không thi hành các chỉ thị này (Tài
liệu của Bartholomew-Feis).
Năm 1945, ngày 20-8, lúc 5 giờ sáng, quân của Giáp và OSS đến
Tỉnh lỵ Thái Nguyên.
Thomas gửi tối hậu thư kêu gọi quân Nhật đầu hàng.
Nhưng người Nhật lại tưởng Thomas là người Pháp nên không
chịu đầu hàng.
Đến 6 giờ sáng, quân OSS và quân Việt Minh nổ súng vào các đồn
binh Nhật, quân Nhật bắn trả.
Hai bên bắn nhau như vậy cho tới tối thì một đại đội Bảo an
của Trần Trọng Kim đầu hàng.
Trưa ngày 21-8 hai bên tiếp tục nổ súng, kéo sang ngày 23,
24-8. Và đến ngày 25-8 thì quân Nhật tại Thái Nguyên mới đầu hàng.
Năm 1945, ngày 23-8, đang khi còn đánh nhau với quân Nhật thì
Võ Nguyên Giáp nhận được tin “ta” đã cướp được chính quyền tại Hà
Nội nên vội vã từ giả Thomas, dẫn 2 tiểu đội chạy về Hà Nội.
Sáng ngày 24-8 Hồ Chí Minh từ Tuyên Quang về đến Thái Nguyên,
cũng ghé chào Thomas rồi gấp rút về Hà Nội.
Năm 1945, ngày 17-8, chính phủ Trần Trọng Kim nộp đơn từ chức
lên cho vua Bảo Đại. Một
số các viên chức trong chính phủ vội tìm nơi lánh nạn vì sợ sẽ bị Mỹ
và Đồng Minh trừng trị về tội hùa theo Nhật.
Toàn cõi Việt Nam trở thành vô chính phủ.
Năm 1945, ngày 17-8.
Sau khi được tin chính phủ Trần Trọng Kim giải tán, công chức
Hà Nội biểu tình khổng lồ qua các đường phố lớn, tỏ rõ ý chí bảo vệ
đất nước, chống lại việc Pháp toan tính trở lại Việt Nam.
Ngày 18-8, dân chúng bao vây Bắc Bộ Phủ là dinh Thống Đốc Bắc
Kỳ cũ, lúc này do Khâm sai Phan Kế Toại của chính phủ Trần Trọng Kim
đảm nhiệm. Phan Kế Toại
lánh mặt rồi loan tin từ chức.
Toán quân vũ trang của Mặt trận Việt Minh bắt đầu xuất hiện ở
vài nơi và tranh nhau đi chiếm các trụ sở hành chánh của chính phủ
Trần Trọng Kim .
Sự thực về việc lượm chính quyền tại Hà Nội
Năm 1945, ngày 19-8, dân chúng tiếp tục biểu tình, tụ lại Nhà
hát lớn để nghe một nhóm khoảng 30 người xưng là Mặt Trận Cứu Quốc
Việt Minh tuyên bố. Đây
là nhóm Thành ủy Cọng
sản tại Hà Nội như Xuân Thủy, Trần Đình Long, Nguyễn Thế Vinh,
Nguyễn Quyết, Văn Tiến Dũng, Cái Thị Tám, Hoàng Tùng, Nguyễn Duy
Thân, Lê Trọng Nghĩa. Cờ
Đỏ sao vàng xuất hiện ở nhiều nơi.
Năm 1945, sau ngày 19-8, theo hồi ký của Hoàng Tùng :
“Sau ngày 19/8, Hà Nội lập chính quyền cách mạng.
Tôi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở ngoại thành, tham gia chỉ đạo
khởi nghĩa ở Đông Anh, Phúc Yên, trực tiếp chỉ đạo việc lập chính
quyền ở ngoại thành Hà Nội.
Những người ra mắt toàn là học trò trung học Hà Nội cũ, như
Trần Quang Huy ở trường Thăng Long, Nguyễn Duy Thân ở trường Bưởi,
cùng với ông Vũ Kỳ… Hai cuộc ra mắt toàn là các cậu học trò kém tuổi
tôi. Nhân dân Hà Nội xôn
xao lắm. Họ nói lãnh tụ
Việt Minh có thế thôi à!
Tôi cũng sốt ruột. Khởi
nghĩa xong họ bầu tôi làm chủ tịch, được 3 ngày tôi không làm nữa…
Hàng ngày tôi ra Bắc Bộ phủ gặp anh Xuân Thủy
và một số người khác.
Họ hỏi tôi : – Anh xem có cách nào đi tìm Trung ương về
không, chứ thấy tình hình khó khăn lắm.
Dân không hiểu lãnh tụ Việt Minh là ai cả, chúng tôi thì còn
trẻ lắm, tôi làm sao biết được để mời.
Hàng ngày giải quyết công
việc ở trong khu xong tôi lại đạp xe ra Bắc Bộ phủ xem tình hình thế
nào”.
* Chú giải : Đây
là bằng chứng cho thấy cuộc cướp chính quyền taị Hà Nội không dính
dáng gì đến các ông Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan, Lê Đức Thọ … Và cũng không dính dáng gì
đến “Kế hoạch tổng khởi nghĩa” của nhóm Tân Trào.
Sau này CSVN ưa gọi ngày 19-8-1945 là ngày “cướp chính quyền”
của họ. Dân chúng
Hà Nội rất bực trước kiểu tuyên truyền trâng tráo này nhưng
không dám phản ứng. Đến
năm 1958, ngày 12-5, tạp chí Văn Nghệ của CSVN đăng một bài viết của
Nguyễn Công Hoan “tố” ông Phan Khôi gọi ngày 19-8-1945 là ngày
“lượm” được chính quyền:
“Hắn (Phan Khôi) nói rằng trước kia hắn dùng ba tiếng “cướp
chính quyền” mà thấy ngượng mồm.
Hắn nói rằng lúc đó, Pháp đổ rồi, Nhật hàng rồi, chính phủ
Trần Trọng Kim tê liệt rồi, chính quyền bỏ rơi, thì ta “lượm” được
chứ “cướp” ở tay ai?…”.
Từ đó dân Hà Nội bắt chước ông Phan Khôi, lén dùng chữ “lượm được
chính quyền” để nói tới ngày 19-8-1945.
Năm 1945, ngày 21-8, Đặng Xuân Khu và Trung ương ĐCSĐD về tới
Hà Nội. Các ông vội vàng phối hợp với nhóm cướp chính quyền của
Thành ủy Hà Nội để tìm thêm người đi chiếm giữ các cơ sở quan trọng
trong toàn thành phố.
Trước đó các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam,
Mỹ Tho đã cướp chính quyền vào ngày 18-8 nhưng Đặng Xuân Khu cũng
hoàn toàn không biết.
Năm 1945, ngày 22-8, Thiếu tá tình báo Mỹ Patti cùng với Thiếu
tá tình báo Pháp Sainteny đáp máy bay xuống phi trường Gia Lâm cùng
với đoàn gồm 12 lính tình báo Hoa Kỳ và 4 lính tình báo Pháp.
Năm 1945, ngày 23-8, Võ Nguyên Giáp cùng 2 tiểu đội Giải phóng
quân về đến Hà Nội. Ông
gặp lại nhóm Đặng Xuân Khu và nhóm Thành ủy Hà Nội. Việc đầu tiên là
ông tiếp xúc với Thiếu tá Patti, người đại diện chính phủ Hoa Kỳ tại
Hà Nội.
Năm 1945, ngày 24-8, dân chúng Hà Nội được huy động đi biểu
tình để đón “Phái bộ Đồng Minh”.
Tuy nhiên tại cuộc biểu tình chỉ thấy Võ Nguyên Giáp giới
thiệu Thiếu tá Patti và vài tùy viên.
Khi được báo chí hỏi thăm về “Phái bộ đại diện chính phủ Hoa
Kỳ và Đồng Minh” thì được trả lời là phái bộ sẽ đến sau, đây chỉ là
đại diện của phái bộ.
Nhưng dầu sao dân chúng cũng được chứng kiến Võ Nguyên Giáp lăng
xăng, tỏ ra ông ta là “người” của Patti.
BÙI ANH TRINH
*Chú thích của người viết
Đầu năm 2015 ông Tổng
bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Điều này
chứng tỏ ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.
Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.
Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông
HCM cho kỹ càng để trả lại sự trong sạch cho môi trường lịch sử Việt
Nam.
Trong bài viết trên đây có 3 tấm gương đạo đức của ông HCM mà
người Việt không nên học tập :
(1). Ông ta làm tay sai cho tình báo Mỹ nhưng ông ta giấu toàn
dân; giấu Liên Xô, Trung
Quốc. Thế rồi sau này
ông ta nhân danh Liên Xô, nhân danh Trung Quốc để giết hằng triệu
người theo Mỹ ( Bạc ác)
(2). Việc lượm chính quyền tại Hà Nội là của các ông Hoàng
Tùng, Xuân Thủy, Văn Tiến Dũng…Thế nhưng ông HCM nói phao lên rằng
chính ông ta cướp chính quyền.
Rồi sau đó giết sạch những người nào, những đoàn thể nào dám
chống lại ông ta.( Vô nhân ).
(3). Ông HCM dựa hơi Thiếu tá tình báo Mỹ để bịp với dân chúng
rằng ông ta là người của Mỹ.
Rồi nhân danh là người của Mỹ ông ta đi tìm giết những người
nào trước đó hùa theo Nhật lật đổ Pháp để giành lại độc lập cho Việt
Nam ( Gian xảo ).
Đặng Xuân Khu phong cho Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước
Năm 1945, ngày 23-8, buổi trưa tại Huế, một cán bộ Cọng sản là
Tố Hữu đến gặp thư ký của Bảo Đại là Phạm Khắc Hòe đưa ra một tối
hậu thư yêu cầu Bảo Đại thoái vị.
Bảo Đại họp cùng Trần Trong Kim và một số Bộ trưởng trong
chính phủ, tất cả đều đồng ý Bảo Đại nên thoái vị.
Lúc 4 giờ chiều Phạm Khắc Hòe tìm gặp Tố Hữu, cho biết Bảo
Đại chấp thuận thoái vị ( Hồi ký Phạm Khắc Hòe ).
Năm 1945, ngày 23-8, buổi chiều, nhân vật thứ hai của ĐCSĐD là
Hạ Bá Cang đi trên chiếc xe Citroen tịch thu của Phan Kế Toại;
cùng với Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận vào Huế
tiếp thu chính quyền của Bảo Đại.
Lẽ ra các ông đem theo Nguyễn Chí Thanh là cựu Bí thư Thừa
Thiên cùng về Huế để thành lập chính quyền mới, nhưng lúc này Thanh
còn kẹt ở lại Tân Trào dự Đại hội Quốc dân.
Buổi tối, Đặng Xuân Khu họp Trung ương Đảng và Thành ủy Hà
Nội. Thực ra là chỉ có mười mấy ông, các ông kia còn kẹt trong tù
chưa về kịp. Lúc này ông
Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đang ở Tuyên Quang;
các ông Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Cao Hồng Lãnh không được họp
bởi vì các ông không phải là Trung ương hay Thành ủy.
Hội nghị tạm thời đề ra một danh sách chính phủ do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch, Trần Đình Long Bộ Ngoại giao, Hạ Bá Cang bộ Nội vụ,
Chu Văn Tấn bộ Quốc phòng, Trần Đăng Ninh bộ Tài chánh, Nguyễn Thế
Vinh bộ Thông tin …Tất cả đều là đảng viên ĐCSĐD.
Năm 1945, ngày 24-8, báo chí và đài phát thanh Việt Minh loan
tin Bảo Đại thoái vị đồng thời ra thông cáo Mặt trận Việt Minh đã
thành lập Chính phủ Lâm thời do ông Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ( Nhưng
chưa loan báo danh sách nội các ).
* Chú giải : Về chuyện ông Hồ Chí Minh được phong làm chủ tịch
nước
Tin Bảo Đại thoái vị đến bất ngờ đối với Đặng Xuân Khu bởi vì
các ông hoàn toàn chưa nghĩ tới việc đưa người của mình ra làm minh
chủ cho toàn đất nước.
Thực tế ngày đó, ngày 23-8, các ông biết chắc chắn người làm chủ
tình hình tại Hà Nội là ông Thiếu tá Patti, đại diện cho Tổng thống
Hoa Kỳ, đang nằm tại khách sạn Métropol.
Đặng Xuân Khu nghĩ rằng đối với Patti thì chỉ có một mình ông
Hồ Chí Minh là người có đầy đủ điều kiện để được HK trọng dụng :
Là người của Tướng Tiêu Văn đưa về, là nhân viên tình báo của
O.S.S. Từng có công cứu
một phi công Hoa Kỳ.
Ngoài ra ông còn có một bức hình lưu niệm có chữ ký đề tặng của
Tướng Chenault, Tư lệnh quân đội hoa Kỳ tại Hoa Nam.
So với các nhân vật khác của Việt Nam thì ông Hồ Chí Minh
sáng giá nhất bởi vì chỉ có ông ta là người theo Mỹ chống Nhật.
Vì vậy khi nghe tin Bảo Đại chấp thuận thoái vị, các ông vội
vàng đưa tên ông Hồ Chí Minh cầm đầu một chính phủ lâm thời để thay
thế chính quyền của Bảo Đại mặc dầu lúc đó ông Hồ Chí Minh đang ở
Tân Trào để hoàn thành kịch bản “Tuyên bố tổng khởi nghĩa” trước
“Quốc Dân Đại Hội”.
Năm 1945, ngày 24-8, buổi sáng, phái đoàn tiếp thu chính quyền
của Hạ Bá Cang, Trần Huy Liệu… vào đến Nghệ An gặp xe chở Cao Hồng
Lãnh, Nguyễn Thị Thập, Bùi Lâm, Lê Hữu Kiều, Việt Châu đi ra;
tính dự hội nghị tuyên bố tổng khởi nghĩa tại Tân Trào.
Cang hô xe của Bùi Lâm quay trở lại Huế để tiếp thu chính
quyền Bảo Đại.
*Chú giải : Tuy
nhiên tới Huế thì Cang cùng với Cao Hồng Lãnh, Nguyễn Thị Thập và
Việt Châu đi xe của Lê Hữu Kiều thẳng vào Nam.
Bùi Lâm ở lại tham dự lễ thoái vị xong rồi cùng với đoàn của
Liệu trở về Hà Nội ( Hồi ký của Nguyễn Thị Thập và hồi ký của Nguyễn
Hiến Lê là em chú bác của nhà thơ Việt Châu ).
Sở dĩ Hạ Bá Cang đi thẳng vào Nam là vì các ông nghĩ rằng
chính quyền tại Sài Gòn đang bỏ trống, nếu HBC không nhanh tay thì
Đệ tứ Cọng sản hoặc Dân Xã đảng ( Hòa Hảo ) tại Sài Gòn sẽ cướp
chính quyền mất.
Nhưng Hạ Bá Cang không ngờ cũng trong ngày này, ngày
24-8-1945, nhóm Đảng Cọng sản Pháp tại Sài Gòn do Trần Văn Giàu và
Nguyễn Văn Trấn cầm đầu đã cướp được chính quyền, lực lượng chính
của cuộc cướp chính quyền là Đoàn Thanh niên Tiền Phong do Phạm Ngọc
Thạch và Kha Vạn Cân chỉ huy ( Hai ông này không phải là Cọng sản ).
Năm 1945, cuối tháng 8, lễ thoái vị của Bảo Đại có sự chứng
kiến của Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận.
Theo hồi ký “Con rồng Việt Nam” của Bảo Đại là chiều ngày
25-8. Theo hồi ký của
Phạm Khắc Hòe là ngày 30-8.
Tuy nhiên so lại với báo chí từng ngày thì tất cả đều đăng
tin Bảo Đại làm lễ thoái vị vào ngày 25-8-1945.
Đại diện Hoa Kỳ chấp thuận cho Hồ Chí Minh lập chính phủ lâm
thời.
Năm 1945, ngày 25-8, Hồ Chí Minh về tới làng Gạ, ngoại thành
Hà Nội, thuộc huyện Từ Liêm ( Tài liệu của Viện Sử Học Hà Nội ).
Tại đây ông được Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh
báo cáo tình hình, kể cả việc Trung ương Đảng quyết định đề cử ông
làm chủ tịch nước. Theo
Lê Đức Thọ kể lại cho Hoàng Tùng thì lúc đầu Hồ Chí Minh từ chối.
*Chú giải : Hồi ký của Hoàng Tùng: “ Sau này anh Thọ nói với
tôi rằng khi đề nghị Bác làm chủ tịch nước Bác từ chối mãi, Bác nói:
mình là chủ tịch nước à, mình chỉ đứng đàng sau thôi, còn tìm
người khác làm. Người
còn nói nếu tìm khó quá thì đưa Bảo Đại ra làm rồi mình thu xếp”.
Qua giọng văn của Hoàng Tùng kể lại lời của Lê Đức Thọ thì
người ta có thể thấy được rằng chuyện làm chủ tịch nước thật bất ngờ
đối với Hồ Chí Minh.
Thực ra khả năng của ông, nhất là trình độ học vấn, rất hạn
chế; bởi vì ông chỉ có
bằng tiểu học rồi trên bước đường lưu lạc chỉ làm các công việc như
bồi tàu, phụ bếp, thợ chụp hình, thợ kẻ chữ, dịch các bản tin từ chữ
Hán sang chữ Pháp và làm trưởng trạm giao liên cho tổ chức Cọng sản
tại Hồng Kông.
Với các chức việc này ông không có điều kiện tiếp xúc hay làm
quen với những tư tưởng chính trị cũng như lề thói giao tiếp chính
trị. Nếu chẳng may ông
trở thành chủ tịch nước thì mọi việc sẽ lòi ra hết, ông không thể
nào đứng diễn thuyết liên tục trong nhiều tiếng đồng hồ hay trả lời
đốp chát với các nhân vật ngoại giao quốc tế hay với báo chí.
Trong khi đó trình độ Pháp văn của ông là do tự học trong thời
gian làm bồi tàu 1911-1917 cho nên cách phát âm tiếng Pháp của ông
rặt giọng Tây Bồi, không thể nói trước cử tọa ngoại quốc.
Năm 1945, ngày 26-8, buổi sáng, ông Hồ Chí Minh từ làng Gạ vào
Hà Nội. Võ Nguyên Giáp
đến gặp Trung Tá Patti tại khách sạn Métropole là nơi Patti đang trú
ngụ để mời Patti đến gặp mặt và ăn trưa với Hồ Chí Minh tại số nhà
46 phố Hàng Đào.
Tài liệu “Việt Nam , những sự kiện lịch sử 1919-1945” của Viện
Sử học CSVN cho thấy:
Ngày 21-8-1945 ông Đặng Xuân Khu và Trung ương Đảng mới về đến Hà
Nội. Ngày 25-8 ông Hồ
Chí Minh mới về tới làng Gạ ở ngoại ô Hà Nội, và ngày 26-8 mới vào
nội thành (trang 418).
Nhưng vừa vào nội thành thì ông tiếp xúc với Thiếu tá Patti
trước khi ông họp phiên họp đầu tiên của Thường vụ Trung ương Đảng
vào tối hôm đó. (trang 421).
Chứng tỏ việc trước tiên của các ông vào lúc đó là phải thăm
dò ý kiến của Thiếu tá Patti, người đại diện duy nhất của phe thắng
trận ( Hoa Kỳ và đồng minh Trung Hoa ).
Theo hồi ký của Patti thì lúc đó ông không có quyền hành gì
đối với chính trị của Việt Nam.
Ông chỉ đi với trung tá tình báo Sainteny của Pháp để thăm dò
đường đi nước bước cho quân đội Đồng Minh vào giải giới quân Nhật.
Còn chuyện thiết lập chế độ chính trị tại Việt Nam sau chiến
tranh thì Tổng thống Hoa Kỳ đã giao cho ông Tưởng Giới Thạch.
Năm 1945, ngày 26-8, buổi chiều, Hồ Chí Minh về trú ngụ và làm
việc tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang.
Tối hôm đó lần đầu tiên họp thường vụ Trung ương Đảng. Hồ Chí
Minh đề nghị mở rộng thành phần chính phủ cho có đủ mọi tầng lớp,
người của Đảng chỉ cần giữ các bộ quan trọng mà thôi.
Một số thành viên Cọng sản do Trường Chinh dự trù trước đây
đã tự động xin rút tên. (Tài liệu của Viện Sử học CSVN: Việt Nam
những sự kiện lịch sử 1919-1945, trang 421).
*Chú giải : Cho
tới lúc này Mặt trận Việt Minh vẫn còn phân biệt ra hai cánh riêng
biệt, cánh thứ nhất là ĐCSĐD, lãnh đạo hệ thống Cọng sản trên toàn
đất nước và cánh thứ hai là nhóm Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của
Hồ Chí Minh đưa từ Trung Quốc về.
Sau khi nhóm Cọng sản Hà Nội lượm được chính quyền ngày 19-8
thì ngày 21-8 Đặng Xuân Khu về tới Hà Nội, các ông mới bàn nhau đưa
người trong Trung ương Đảng ra nắm chính quyền mà không đếm xỉa gì
đến cánh Đồng Minh Hội.
Tuy nhiên đến ngày 26-8
Hồ Chí Minh về đến Hà Nội, và sau khi tiếp xúc với Patti thì ông Hồ
phản đối danh sách do Đặng Xuân Khu đưa ra.
Ông lấy lý do rằng nếu để chường mặt các ông Cọng sản ra trên
danh sách nội các thì chắc chắn Patti sẽ từ chối Việt Minh.
Sau đó ông đề nghị những người chưa lộ mặt Cọng sản như là
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu…
Năm 1945, ngày 27-8,Việt Minh ra tuyên cáo cho biết sẽ thành
lập một chính phủ Lâm thời, không phải hoàn toàn do người của Mặt
trận Việt Minh mà còn có các thành phần khác.
Ngày 28-8, Việt Minh công bố danh sách các thành viên của
Chính phủ :
Hồ Chí Minh, Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Ngoại giao.
Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ. Trần Huy Liệu, Bộ trưởng
Thông tin tuyên tuyền.
Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Tài chánh.
Chu Văn Tấn, Bộ trưởng Quốc phòng.
Nguyễn Văn Tố, Bộ trưởng Xã hội Vũ Đình Hòe (nhà báo Thanh
Nghị), Bộ trưởng Giáo dục.
Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Y tế, v.v…Trong danh sách này chỉ
có HCM và Chu Văn Tấn là Cọng sản.
Năm 1945, ngày 2-9, Hồ Chí Minh ra mắt công chúng tại bãi Cột
Cờ Hà Nội, tuyên bố Việt Nam độc lập và hô các lời thề chống Pháp.
Mở đầu bài diễn văn ông đã trích Tuyên ngôn Độc lập của Hoa
Kỳ. Hồi ký của Trung Tá
tình báo Patti cho biết ông ta có giúp Hồ Chí Minh soạn bài diễn văn
này.
BÙI ANH TRINH
*Chú thích của người viết :
Đầu năm 2015 ông Tổng
bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Nghĩa là ông
HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.
Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.
Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông
HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.
Trong bài viết trên đây có 5 tấm gương đạo đức của ông HCM mà
người Việt không nên học tập :
(1). Người ta “cướp chính quyền” từ ngày 19-8-1945 nhưng đến
ngày 26-8-1945 ông HCM mới vào Hà Nội.
Lúc đó mọi chuyện đã xong xuôi.
Thế nhưng sau này ông tự nhận là người làm nên cuộc “Cách
mạng mùa thu”. ( Gian dối ).
(2). Việc trước tiên khi ông HCM vào Hà Nội là đi gặp quan
thầy Patti, Trung tá tình báo của Mỹ.
Sau đó lại nhân danh Patti đuổi những người có công trong
cuộc “cướp chính quyền” ra khỏi “Chính phủ lâm thời” bởi vì những
người này là Cọng sản (sic).
Trong khi chính những người Cọng sản đã rước ông ta về Hà Nội
để làm vua. ( Phản bội ).
(3). Ông HCM cho rằng ngày 2-9-1945 ông ta là người tuyên bố
Việt Nam độc lập. Trong
khi tự truyện của ông ta dưới tên Trần Dân Tiên lại thú nhận rằng
ngày 10-3-1945 “Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam”.
Một khi VN đã được trao trả độc lập vào ngày 10-3 thì ngày
2-9 còn tuyên bố độc lập cái nỗi gì ? ( Bịp bợm ).
(4). Sau khi Nhật tuyên
bố trao trả độc lập, ngày 12-3-1945 vua Bảo Đại ra tuyên cáo Việt
Nam độc lập, hủy bỏ các hiệp ước bất công giữa Pháp và Việt Nam sau
khi Việt Nam bị Pháp đánh chiếm.
Thế nhưng tự truyện của ông HCM dưới tên Trần Dân Tiên lại
viết rằng “Bảo Đại tuyên bố bỏ chủ cũ, theo chủ mới”.
Đây là ngôn ngữ của dân lưu manh hạ cấp. ( Lưu manh ).
(5). Mở đầu của bản tuyên bố độc lập của ông HCM là trích
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ.
Vậy mà sau này ông ta giết sạch những ai theo Mỹ hay ca tụng
tư tưởng độc lập tự do
của Mỹ. ( Tráo trở ).
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *