* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-07/2008 -08/2008 -09/2008 -10/2008 -11/2008 -11/2008
-12/2008 -01/2009 -02/2009 -03/2009 -04/2009 -05/2009
-06/2009 -07/2009 -08/2009 -09/2009 -10/2009 -11/2009
-12/2009 -01/2010 -03/2010 -04/2010 -05/2010 -06/2010
-07/2010 -08/2010 -09/2010 -10/2010 -11/2010 -12/2010
-01/2011 -02/2011 -03/2011 -04.2011 -05.2011 -06.2011
-07/2011 -08/2011 -09/2011 -10/2011 -11/2011 -12/2011
-05/2012 -06/2012 -12/2012 -01/2013 -12/2013 -03/2014 -09.2014 -10.2014 -12/2014 -03/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2016 -02/2016 -03/2016 -07/2016 -08/2016
-09/2016 -10/2016 -11/2016 -12/2016 -01/2017 -02/2017
-03/2017 -04/2017-05/2017 -06/2017 -07/2017 -08/2017
-09/2017 -10/2017 -11/2017 -12/2017-01/2018 -02/2018
-03/2018 -04/2018 -05/2018 -06/2018 -07/2018 -08/2018
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. Mar/2017.
Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017. Jul/2017. Aug/2017.
Sep/2017. Oct/2017. Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018.
Feb/2018. Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018. Nov/2018.
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT - EPOCH
Thư liên lạc
trinh bui
<trinhbui49@yahoo.com>
14:24, 16 thg 7,
2019 (4 ngày trước)
tới tôi
Bạn hiền thân
mến,
Chỉ qua một đôi
câu trao đổi, tao có cảm nghĩ là mày đang muốn một thứ lịch sử không
phải của các sử gia, bởi vì các sử gia đều viết theo thiên kiến của
chế độ mà họ đang phục vụ.
Vậy thì tao
thử gửi đến cho mày một cách nhìn lịch sử của cá nhân tao mà tao
nghĩ nó đúng như ý của mày.
Tao không
phải là một sử gia cho nên tao không hề sáng tác ra lịch sử.
Mà tao chỉ là một người đọc lịch sử, nhưng mà tao
đọc thiên kinh vạn quyển;
cho nên kinh nào, quyển nào nói mà tao tin được thì
tao cho nó vào kho kiến thức của mình, cái nào không tin thì tao
thẳng tay loại bỏ.
Sau đây là
loạt bài “Biên Khảo Về Nguyễn Tất Thành” mà tao đã đăng trên net.
Tao nghĩ trước là mày coi để hiểu hơn về ý hướng của tao.
Sau nữa là mày có thể giữ nó như một tài liệu lịch
sử để viết bài.
http://quanvan.net/bui-anh-trinh-bien-khao-ve-nguyen-tat-thanh/
Ngoài ra, để
mày hiểu hơn về cái nhìn của tao đối với con người của mày, tao gởi
đến mày 2 bài viết về Bảy Viễn và một bài về Tướng Nguyễn Ngọc Loan,
những con người mà tao cho là hảo hớn. Trong khi những sử gia của
các chế độ thì không khi nào có cái nhìn đúng về những nhân vật hảo
hớn của lịch sử.
https://vietcongonline.wordpress.com/2014/10/27/bui-anh-trinh-luc-luong-viet-minh-binh-xuyen/
https://vietcongonline.wordpress.com/2015/02/05/tuong-nguyen-ngoc-loan-triet-nhan-dieu-doi/
Tao rất vui
khi gặp lại mày và được biết “anh hùng vẫn chưa thấm mệt”. Tao vẫn
theo dõi hoạt động của mày từ ngày tao ra khỏi trại tù và bắt lại
được tin tức của mày.
Giờ đây gặp lại tao thấy mày vẫn là thằng bạn mà tao
đã mến mộ từ hồi nào tới giờ.
BÙI ANH TRINH
BIÊN KHẢO VỀ NGUYỄN TẤT THÀNH
Lịch sử chính trị
của Việt Nam trong gần 80 năm qua quy tụ xung quanh hoạt động của
nhân vật Hồ Chí Minh, do đó chỉ cần dựng lại bối cảnh 50 năm hoạt
động của ông Hồ Chí Minh thì kể như là giải thích toàn bộ mọi biến
chuyển khó hiểu của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20.
Một khi đã nói
lên sự thật trái ngược
với những sách vở trước kia thì không thể nào tránh khỏi đụng chạm
tới những nhân vật từng có nhiệt tâm với lịch sử, nhiệt tâm với đất
nước. Và cũng không
tránh khỏi được chuyện phải phản bác những luận thuyết từng thống
trị diễn đàn chính trị từ trước tới nay, phía bên này cũng như phía
bên kia.
Giờ đây đã tới
lúc phải trả lại sự thật cho lịch sử, nghĩa là phải chỉnh lại các
quyển sách lịch sử chính trị Việt Nam hiện được dùng để giảng dạy
tại các đại học Pháp, Hoa Kỳ cũng như tại Việt Nam.
Bởi vì những sách này hoàn toàn lỗi thời so với những tài
liệu mới đựoc giải mã và các hồi ký của những người trong cuộc mới
được đưa ra công khai trong vòng hai thập niên vừa qua.
BÙI ANH TRINH
(57) CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Đợt 1,
thí điểm Cải cách ruộng đất
Năm 1953, ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh
cho thi hành cải cách ruộng đất tại tỉnh Thái Nguyên là nơi đang có
Trung ương ĐCSVN chiếm đóng.
Hồi ký Hoàng Tùng đã hé cho thấy thực quyền của Hồ Chí Minh
trong những ngày đầu Cải cách ruộng đất:
“Đó là việc làm thí điểm cải cách ở đồng bằng và chọn đồn
điền Nguyễn Thị Năm. Nguyễn Thị Năm tức là bà Cát thành Long, có một
người con làm trung đoàn trưởng cục chính trị của Văn Tiến Dũng. Gia
đình bà trong dịp tuần lễ vàng có hiến 100 lượng vàng. Bà cũng tham
gia công tác của hội phụ nữ từ năm 1945 đến năm 1953. Tôi chưa đến
đó lần nào, nhưng các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ
thường hay ăn cơm nhà bà.
Gia đình Nguyễn Thị Năm cũng giống như gia đình Đỗ Đình Thiện,
Trịnh Văn .Bộ, giúp đỡ nhiều cho cách mạng.
Chọn Nguyễn Thị Năm để làm trước là do cũng có người mách cho
cố vấn của Trung Quốc.
Họp Bộ Chính trị Bác nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử
thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ
vào người đàn bà mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người
Pháp nói rằng không nên đánh đàn bà, dù đánh bằng một cành hoa. Sau
cố vấn La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi
vẫn cho là không phải”. Và họ cứ thế làm.
*Chú giải : Và họ
cứ thế làm
Phân tích
lời kể của Hoàng Tùng, người ta có thể thấy là trong các cuộc
họp Bộ Chính trị, tức là cơ quan quyền lực cao nhất của Việt Nam,
đều có La Quý Ba: “Họp
bộ chính trị Bác nói … Sau cố vấn La Qúy Ba đề nghị mãi. Bác nói
“Thôi tôi theo đa số…”.
Đoạn này vô tình cho thấy người chủ trì cuộc họp Bộ chính trị của
ĐCSVN là La Quý Ba.
Và đa số Bộ chính trị đã chìu ý La Quý Ba mà biểu quyết giết
bà Năm mặc dầu Hồ Chí Minh phản đối thì đủ chứng tỏ là đảng đó của
La Quý Ba chứ không phải là đảng của Hồ Chí Minh. Hoàng Tùng đã kết
luận bằng câu: “Và họ cứ
thế làm”, câu này đã xác nhận là “họ” muốn thì “họ” làm chứ Bác và
Bộ chính trị cũng đành chịu.
Ngoài ra còn có một lời chứng khác do ông Bùi Tín công bố:
“Tôi hỏi ông Hoàng Quốc Việt vậy thì ông nghĩ sao về câu
chuyện này? (Giết oan bà Năm).
Lúc ấy là năm 1987, đã có “đổi mới”, “nói thẳng và nói thật”.
Ông nói: “Đến Bác
Hồ cũng biết là không đúng cũng không dám nói với “họ” (Bùi Tín, Mặt
Thật, trang 39).
Chính La Quý Ba cố tình xử tử bà Nguyễn Thị Năm là để thử lại
bài toán xem cái đảng vừa mới được ông ta tổ chức lại có chịu nghe
lời ông ta hay không. Và nếu câu trả lời là “không” thì dĩ nhiên sẽ
không có súng đạn và gạo cho quân đội CSVN.
Đó chính là lý do vì sao mà các lãnh tụ CSVN đã có quyết định
giống như là không có tình người.
Tội lỗi của ông Hồ Chí Minh
Các nhà lãnh đạo Cọng sản Việt Nam từ Trường Chinh trở xuống
đều nghĩ rằng mình không thể nào phản bội những người đã từng cưu
mang giúp đỡ cho mình. Vì vậy các ông mới vô tư nhận sự giúp đỡ của
địa chủ, điển hình là bà Nguyễn Thị Năm.
Tuy nhiên trong lúc đó có một người duy nhất biết rằng sau này
sẽ giết bà Nguyễn Thị Năm.
Đó là ông Nguyễn Tất Thành ! Ông là người duy nhất chứng kiến
Cách mạng cải cách ruộng đất tại Nga trong các năm 1923-1924 và Cách
mạng cải cách ruộng đất tại Trung Hoa năm 1938-1940. Thế nhưng ông
vẫn cứ làm ngơ cho cán bộ của ông sa đà vào chuyện mang ơn giai cấp
địa chủ.
Ông Hồ để cho các ông kia tha hồ ăn cơm ở nhà bà Năm, ông ta
giả vờ coi như chuyện đó không có gì đáng nói, ông không hề khuyến
cáo. Nhưng cho tới năm
1956 thì chính ông đứng ra buộc Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí
thư vì cái tội giết oan nhân dân, cụ thể là giết oan người ơn của
mình.
Ngày nay Hoàng Tùng vẫn cho rằng bác Hồ Chí Minh bị nghi oan
trong việc giết bà Nguyễn Thị Năm.
Nhưng nếu lục lại các tài liệu phát động chiến dịch Cải cách
ruộng đất từ năm 1953 thì luôn luôn có trích một bài viết mang tựa
đề “Địa chủ ác ghê” được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953 như
sau :
“Thánh hiền dạy rằng : Vi phú bất nhân. Ai cũng biết rằng địa
chủ thì ác: như
bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khóa – thế
thôi. Nào ngờ bọn địa
chủ giết người không nháy mắt.
Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long (Nguyễn Thị Năm) cùng 2 đứa con và
mấy tên lâu la đã: *
Giết chết 14 nông dân. *
Tra tấn, đánh đập hằng chục nông dân nay còn tàn tật.
* Làm chết 32 gia đình, gồm có 200 người- năm 1944, chúng đưa
37 gia đình về đồn điền phá rừng, khai ruộng cho chúng. Chúng bắt
làm nhiều và cho ăn đói.
Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một
người.
* Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65
nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền.
Cũng vì chúng cho ăn đói, bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30
người đã chết ở xóm Chùa Hang. *Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ
côi về nuôi, chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt
làm quá sức, lại đánh dập không ngớt.
Chỉ mấy tháng 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long đã trực tiếp, gián
tiếp giết ngót 260 đồng bào.
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô, thiếu nợ, thì
tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
* Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần rồi dội nước lạnh vào
người. Hoặc bắt đội
thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau
buốt tận óc tận ruột. *
Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
* Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng,
hộc máu. Bơm nước vào bụng rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
* Chúng đổ nước cá nước mắm làm cho nôn sặc lên.
* Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng
thịt. * Đó là chưa kể
tội phản cách mạng của chúng.
Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt
bớ cán bộ. Sau cách mạng
tháng Tám chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để
phá hoại kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa chứng cớ
rõ ràng ra tố cáo, mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú
nhận tất cả những tội ác hại nước hại dân”.
Ngày nay đọc qua bài viết này ai cũng lắc đầu bởi vì bịa đặt
phi lý quá, không thể nào có trên sự thật.
Vì vậy mà 54 năm sau, có một người Việt tại Úc tên là Nguyễn
Quang Duy đã cố công tìm hiểu xem ai là tác giả của bài viết “Địa
chủ ác ghê” được dùng làm tài liệu cho các cán bộ thi hành Cải cách
ruộng đất. Cuối cùng ông
Nguyễn Quang Duy đã tìm thấy bài viết được đăng lần đầu tiên trong
báo Nhân Dân, số ra ngày 21-7-1953.
Tên tác giả của bài viết là C.B.
Mặc dầu các cơ quan tuyên huấn CSVN không cho biết C.B là ai
nhưng ông Duy đã đọc thấy trong tập 6 của “Hồ Chí Minh Toàn Tập” có
15 bài viết mà ông Hồ Chí Minh ký tên là C.B.
Tập 6 là các bài viết của Hồ Chí Minh từ tháng 1-1951 đến
tháng 7-1954. So lại văn
phong bài viết với văn phong của ông Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Quang
Duy kết luận rằng chính ông Hồ Chí Minh là tác giả của bài báo vu
oan cho mẹ con bà Nguyễn Thị Năm.
Nhưng để cho chắc ăn hơn, ông Duy lại tìm thấy lời xác nhận
được ghi trong “Hồ Chí Minh, Biên Niên Tiểu Sử”, tập 5, trang 418,
như sau: “Bài viết của
Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Địa chủ phản động ác ghê, ký bút danh D.X, đăng trên báo Cứu Quốc số
2459 (ngày 2-11-1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đã
cấu kết với thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước, mưu phá hoại
chính sách ruộng đất của chính phủ. Chúng là bọn mặt người dạ thú và
tội ác của chúng là “tuyệt vô nhân đạo…”!
Giết người có công, có ơn với mình;
rồi lại viết bài vu oan hạ nhục người ta, gán cho người ta
những thứ tội không bao giờ có;
lại còn nói rằng người ta đã nhận hết tội lỗi.
Quả thật ông Hồ Chí Minh mới xứng đáng với cụm từ “tuyệt vô
nhân đạo”.
Bài viết này là bản án tử hình có sẵn, dành cho giai cấp địa
chủ và phú nông. Đây là
một bản án viết khống mà các cán bộ cải cách chỉ việc điền tên người
khác vào là đủ để giết những người nào mà họ muốn giết.
Rõ ràng người viết bản án này có chủ tâm muốn giết oan hàng
trăm ngàn người khác.
Bài báo đã đốt lên một ngọn lửa căm thù đến cực độ. Tại mỗi
làng xã, các cán bộ cải cách đều đọc bài báo để cho dân chúng thấy
rằng bọn địa chủ tàn ác như thế nào. Và thế là tới phiên quần chúng
nhân dân thất học đã nổi điên lên vì một nỗi hận thù không có thật
và rồi với lòng căm thù họ đã giết người không ghê tay bằng những
hành động dã man chưa từng thấy trong lịch sử.
Thủ phạm của những hành động man rợ này chính là ông Hồ Chí
Minh chứ không phải là ai khác.
Nếu ai tin vào bài báo với những con số, với lời xác nhận
rằng mẹ con bà Năm đã nhận tội thì cũng đương nhiên tin rằng mọi địa
chủ, phú nông khác cũng đều có máu tàn ác như vậy, hay chỉ cần một
phần mười như vậy là cũng đáng bị giết rồi.
Không trách các bần cố nông ngu dốt đã tự nhiên nổi cơn điên
hành hình địa chủ hay phú nông; cũng không trách các cán bộ Cọng sản
đã kích động quần chúng giết người;
mà trách người mang danh là “Cha già dân tộc” đã tố điêu cho
hàng vạn, hàng triệu người Việt Nam vô tội.
Nhờ có hồi ký những người trong cuộc như Hoàng Tùng, Hoàng
Quốc Việt, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần, Nguyễn Văn Trấn, Đoàn Duy
Thành mà người ta mới thấy rõ thủ đoạn của ông Nguyễn Tất Thành.
Ông biết rằng giết bà Năm là oan nhưng ông vẫn chấp nhận
giết. Sau khi giết xong
thì những người quyết định giết bà Năm đã ân hận nhưng riêng ông thì
không.
Chính ông cầm bút viết bài báo vu oan cho người đã chết để bắt
đầu phát động một chiến dịch tàn sát hằng trăm ngàn người vô tội
khác. Ông làm chứng rằng
nạn nhân đã thú nhận những thứ tội tàn ác do ông tự nghĩ ra.
Ngày nay vẫn còn có người cho rằng ông Hồ Chí Minh vô tội
trong vụ Cải cách ruộng đất.
Họ cho rằng ông hoàn toàn không hay biết về những hành động
tàn ác của các cán bộ Cọng sản;
bằng chứng là ông đã khóc trước dân chúng khi ông đứng ra thú
nhận sai lầm của cấp dưới trong cải cách ruộng đất.
Nhưng chính những giọt nước mắt đó đã khiến cho lịch sử có
thêm bằng chứng để khẳng định HCM là một tay cực lưu manh.
(58) HẤT CẲNG TRƯỜNG CHINH
Năm 1956, ngày 24-8, nhật báo Nhân Dân nhìn nhận hậu quả của
Cách mạng cải cách ruộng đất:
“Anh em trong cùng một gia đình không còn dám đến thăm nhau,
và dân chúng không dám chào hỏi khi gặp nhau ngoài đường phố”.
Năm 1956, ngày 29-9, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung
ương Đảng họp trong 1 tháng để kiểm điểm những sai lầm và đề ra
phương pháp sửa sai. Trường Chinh từ chức Tổng bí thư.
Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương bị loại ra khỏi Bộ chính trị,
Hồ Việt Thắng bị loại ra khỏi ban chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1956, ngày 29-10, tại một cuộc mít tinh tại sân vận động
Hàng Đẫy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chủ tịch đọc báo cáo
của hội nghị Trung ương ĐCSVN chính thức công nhận những sai lầm
trong Cải cách ruộng đất.
Cuộc mít tinh được
cụ Bùi Kỷ, một nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc đọc lời khai mạc.
Sau cuộc mít tinh báo Nhân Dân đưa ra xã luận:
“Chính trong sai lầm mà nhân dân ta càng thêm vĩ đại, Đảng ta
càng thêm vĩ đại”. (Bùi Tín, Mặt Thật, trang 60).
*Chú gải : Sau này
có rất nhiều nhà nghiên cứu chính trị thắc mắc là tại sao Đại tướng
Võ Nguyên Giáp là một người không dính dáng gì đến chính trị lại
đứng ra nhận khuyết điểm thay cho ĐCSVN ?
Việc này sẽ làm tổn hại tới hình ảnh đẹp của người hùng Điện
Biên Phủ?
Tuy nhiên sự thật của việc này là do Hồ Chí Minh lợi dụng sự
phẫn nộ của dân chúng để từ chối sự can thiệp của cán bộ Trung Quốc,
đồng thời dùng quân đội của Võ Nguyên Giáp làm áp lực đẩy Trường
Chinh, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt và phe đảng của Trường Chinh ra
khỏi trung tâm quyền lực.
Sau khi chấm dứt ảnh hưởng của phe thân Trung Quốc, ông HCM
giao cho Võ Nguyên Giáp liên lạc với Đại sứ của Liên Xô là Séc Ba
Cốp để tiến hành cách mạng vô sản theo chiều hướng xét lại của
Krushcheve. Do đó HCM
đưa Võ Nguyên Giáp ra để gián tiếp tuyên bố rằng quân đội với Đảng
là một, và đất nước đang đặt trong tình trạng quân quản do Đại tướng
Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Nhờ biến cố này mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp và ông Phạm Văn
Đồng được đưa vào Bộ Chính Trị của ĐCSVN thay thế Hoàng Quốc Việt và
Lê Văn Lương. Rốt cuộc
thì cánh Đồng Minh Hội là Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp, Hoàng Văn Hoan đã thực sự khống chế được trung tâm quyền lực
của ĐCSVN. Lâu nay do áp
lực của La Quý Ba các ông phải ẩn nhẫn chịu lép vế.
Giờ đây các cố vấn Trung Quốc đã rút về thì các ông phải lấy
lại quyền lực. Trước
tiên các ông kéo một cây cột trụ khác của quân đội là Tướng Nguyễn
Chí Thanh ngã về phe Hồ Chí Minh.
Lâu nay Tướng Thanh không được các ông lãnh đạo Đảng coi
trọng vì cho rằng nhờ gặp may mà Thanh nhảy lên làm quan tắt, trong
khi tuổi Đảng còn quá non.
Giờ đây trước sự tranh giành quyền lực giữa hai phe thì tự
nhiên Tướng Thanh trở thành một trọng lực đáng nể, có thể làm
nghiêng cán cân về bên này hay bên kia.
Năm 1956, ngày 30-10, Hội nghị của Mặt Trận Tổ Quốc nhóm họp
tại Nhà hát Nhân Dân để cho các nhân sĩ phát biểu về hậu quả của Cải
Cách Ruộng Đất. Đại biểu
Quốc hội Nguyễn Mạnh Tường đã đọc một bài diễn văn lịch sử:
“Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm
những người vô tội đã chết oan, không phải vì tay của địch mà chính
của ta….các người chết oan vì các sai lầm trong Cải cách ruộng đất
này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh.
Chúng ta đã xóa bỏ các ô danh đó, nhưng con cháu của những nạn
nhân không tài nào mà không ngậm ngùi?
Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của
người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được?…”, “Nhân dân đòi hỏi
người có công được thưởng và người có tội phải đền tội…Quần chúng im
lặng chờ đợi công lý”…
*Chú giải : Đòi Hồ
Chí Minh phải tự treo cổ
Nguyễn Mạnh Tường đã nhân danh công lý để đòi hỏi những kẻ gây
ra tội phải đền tội… Nhưng một điều ông không ngờ là ông đòi hỏi
công lý trong lương tâm của chính những kẻ bất lương.
Ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh, ông Lê Đức Thọ, ông Lê Văn
Lương, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Chí
Thanh…đã quyết định giết oan ngay người đầu tiên là bà Nguyễn Thị
Năm.
Giờ đây Nguyễn Mạnh Tường kêu gọi những kẻ giết người phải đền
tội thì vô tình kêu gọi thanh toán hết Trung ương ĐCSVN (sic).
Ông đã đòi hỏi Hồ Chí Minh và Bộ chính trị ĐCSVN phải tự treo
cổ mình, một đòi hỏi có thể khiến cho chính ông Tường có thể bị treo
cổ. Cũng may là ông
Tường cũng như mọi người không biết chính Hồ Chí Minh, Trường Chinh…
là thủ phạm và ông Tường cũng không có hành động gì thêm.
Không đợi tới ngày nay
đọc lại bài diễn văn của Nguyễn Mạnh Tường mà người Việt Nam mới
nghiệm ra sự độc ác của Chủ nghĩa Cọng sản, nhưng mọi người Việt Nam
đều nhớ những bài thuộc lòng trong sách giáo khoa dạy cho các em học
sinh Tiểu học thời Cải cách ruộng đất.
Những bài thơ của Tố Hữu được đưa vào sách giáo khoa là những
bằng chứng không thể nào khỏa lấp được:
“Giết , giết nữa, bàn tay không phút nghĩ. Cho ruộng đồng lúa
tốt, thuế mau xong. Cho Đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng. Thờ
Mao Chủ tịch, thờ Staline bất diệt”.
Giết người cho thuế mau xong có nghĩa là giết dân lành cố
tình cất giấu lúa gạo, không chịu nộp thuế cho nhà nước, chứ không
phải là giết quân thù ngoại xâm.
Hay như bài học thuộc lòng của Xuân Diệu: “Anh em ơi!
Quyết chung lòng.
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù.
Địa hào, đối lập ra tro.
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắp đường.
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây.
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi”.
Qua các tác phẩm bất hủ này, người ta thấy kẻ thù của CSVN là
những người có ruộng đất ( Địa chủ ), những người có uy tín trong
dân chúng ( Thân hào nhân sĩ, kể cả các vị lãnh đạo tôn giáo ),
những người phản đối Cọng sản ( Đối lập ), những người không chịu
theo Cọng sản ( Lưng chừng ), những người chống lại Cọng sản ( Phản
động ).
Tất cả đều bị quy cho tội chết, kể cả những người mang tội
lưng chừng tức là không chống mà cũng không theo CSVN.
Nhưng không phải tội nhân được chết một cách yên lành êm thắm
mà bị chết bằng cách đọa đày cho tới khi nhắm mắt, bằng lối hành
hình dã man, bằng lối tra khảo cho tới chết, bằng lối làm nhục đến
nỗi nạn nhân không còn muốn sống, hoặc có sống thì cũng chết dần
chết mòn.
Đây không phải là chuyện tưởng tượng do Tố Hữu hay Xuân Diệu
tự nghĩ ra để lập công với Đảng mà là lý thuyết Cách mạng vô sản đã
được phổ biến trong quần chúng, các nhà thơ chỉ ghi lại khí thế có
thực của phong trào Cách mạng Cải cách ruộng đất.
Riêng những vị lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm
Văn Đồng… đều biết rõ thảm cảnh dã man này sẽ diễn ra vì các ông đều
đã được học cách đạo diễn những phiên xử án gọi là “tòa án nhân dân”
cho nên các ông thừa biết hậu quả của lệnh “Thực hiện cải cách ruộng
đất” mà ông Mao Trạch Đông đã chỉ thị cho ông Hồ Chí Minh vào tháng
10 năm 1952.
Hồi ức của Hoàng Quốc Việt cho thấy các nhà lãnh đạo CSVN biết
trước là Đảng sẽ mất uy tín và tạo căm thù trong dân chúng cho nên
các ông đã bàn nhau làm qua quýt cho có.
Nhưng Mao Trạch Đông cũng không ngây thơ gì, ông ta cho cán
bộ của ông ta xuống tận các xã Việt Nam, thành lập “đội cải cách”
trong từng xã.
Và quyền hành của các đội cải cách do các cố vấn Trung Quốc
lập ra được dân chúng tóm gọn lại thành một câu thành ngữ: “nhất đội
nhì Trời”. Bởi vì một
khi đội đã ra quyết định tử hình mà anh có cầu Trời giải cứu thì
Trời cũng đành bó tay.
Trong khi đó thì Đảng của Trường Chinh lại hết lời tán tụng,
cho đó là vinh quang. Họ
đã nhờ những nhà thơ soạn ra những bài vè kích động thú tính dã man
trong tầng lớp dân chúng thất học để những người này điên cuồng giết
người mà không cần biết nạn nhân có tội hay không, nếu không thì họ
cũng sẵn sàng gán cho thành có.
Năm 1956, ngày 2-11, dân chúng tỉnh Nghệ An chận đường một xe
của Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến đưa đơn xin can thiệp cho
được di cư vào Nam. Một
bộ đội dùng báng súng để giải tán dân làng nhưng bị dân chúng đánh
trả và tước mất súng. Người bộ đội trở lại với một số đồng đội nhưng
bị nông dân kéo ra đông hơn chống trả kịch liệt.
Tới chiều nông dân kéo tới càng đông và chuẩn bị kéo nhau lên
tỉnh biểu tình. Hà Nội đưa Đại đoàn 325 đến dẹp loạn, số người bị
giết và bị bắt lên dến 6.000 người.
Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến đánh động việc này với dư
luận Thế giới; nhưng lúc
này trùng hợp với vụ quân đội Liên Xô đàn áp nhân dân Hungaria nổi
dậy chống Cọng sản, và vụ Tổng thống Ai Cập cho phong tỏa kênh đào
Suez cho nên dư luận thế giới không mấy chú ý đến vụ nổi dậy tại hai
huyện Quỳnh Lưu và Đô Lương thuộc tỉnh Nghệ An.
*Chú giải :
Đợt 5 là đợt tàn khốc nhất trong 5 giai đoạn Cách mạng Cải
cách ruộng đất và kéo dài tới 1 năm 7 tháng và phải chấm dứt nửa
chừng vì nhân dân bắt đầu nổi loạn.
Lúc đó ông Hồ Chí Minh chỉ biết khoanh tay ngồi nhìn chứ
không dám lên tiếng phản đối mặc dầu uy tín của ông đối với dân
chúng đã xuống tới mức tận cùng.
Tuy nhiên chính nhờ vậy mà ông mới có dịp quật ngược thế cờ để
hạ Trường Chinh. Ông chờ
cho tình thế chín muồi,
niềm bất mãn trong Đảng cũng lên đến tột độ ông mới triệu tập đại
hội Trung ương Đảng, phê phán kịch liệt chính sách Cải cách ruộng
đất tại nông thôn cũng như Cải tạo tư sản tại thành thị, mọi phát
biểu đều đổ lỗi cho Trường Chinh đã rước cố vấn Trung Quốc vào.
Rồi tất cả đồng thanh buộc Trường Chinh gửi trả cán bộ Trung
Quốc về nước và thực hiện sửa sai.
Trường Chinh đành phải nhận khuyết điểm về mình chứ không dám
đổ cho Hồ Chủ tịch mà cũng không dám oán trách Mao Chủ tịch.
Sau đó thì từ chức Tổng bí thư.
(59) LÊ DUẨN VÀ HỒ CHÍ MINH
Năm 1956, nhân vụ dân chúng nổi loạn vì cải cách ruộng đất, Hồ
Chí Minh hạ bệ Trường Chinh, đuổi Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương ra
khỏi Bộ chính trị; toan
tính đưa Võ Nguyên Giáp vào Trung ương Đảng và vào thẳng Bộ chính
trị để lãnh đạo ĐCSVN.
Vì vậy người lãnh đạo cao cấp nhất còn lại của ĐCSVN là Lê Đức
Thọ đã nhanh tay cứu vãn Trung ương Đảng bằng cách vận động đưa Lê
Duẩn từ trong Miền Nam ra thay thế Trường Chinh, lấy lý do Lê Duẩn
là người duy nhất đã không thi hành lệnh cải cách ruộng đất của La
Quý Ba và Kiều Hiểu Quang.
Sự vận động của Lê Đức Thọ có ngay kết quả vì lúc bấy giờ đa
số những người lên tiếng chống đối Cải cách ruộng đất là nhóm cán bộ
ăn ngay nói thẳng của Miền Nam gồm có Ung Văn Khiêm, Dương Bạch Mai,
Nguyễn Văn Tạo, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Văn Trấn, Hà
Huy Giáp, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Nguyễn Thị Thập…
Ngoài mặt Lê Đức Thọ lấy cớ là Lê Duẩn sáng suốt trong vụ cải
cách ruộng đất, nhưng bề trong ông biết Lê Duẩn có lá bùa để trị ông
Hồ Chí Minh. Lá bùa đó
đã được người phụ tá của Lê Đức Thọ là Hoàng Tùng thú nhận trong hồi
ký: “Anh Lê Duẩn có nói
với tôi là Hà Huy Tập báo cáo với Quốc tế ( Cọng sản Quốc tế 3 ) về
việc mật thám ( Pháp ) đưa bà Thanh ( Chị của Nguyễn Tất Thành ) đi
Trung Quốc tìm Nguyễn Ái Quốc”.
Quả nhiên Lê Duẩn hạ HCM rất dễ dàng, cách của Lê Duẩn là nhân
danh Tổng bí thư ĐCSVN đề nghị Liên Xô cho xem hồ sơ của HCM còn lưu
trữ tại Mạc Tư Khoa. HCM
sợ thành tích bất hảo của ông ta bị đưa ra ánh sáng cho nên đành
chịu lép vế.
Thư tố cáo của Trần Phú
Theo chỉ thị của CSQT.3, tháng 10 năm 1930 Trần Phú mở Đại hội
thành lập Đảng Cọng sản Đông Dương tại Hông Kông.
Hội nghị bầu Trần Phú làm Tổng bí thư.
Đặc biệt ông Nguyễn Tất Thành có mặt tại Hồng Kong nhưng
không tham dự hội nghị bởi vì trước đó ông ta đã giả danh CSQT để mở
một cuộc họp thống nhất 2 đảng Cọng sản của Ngô Gia Tự và Hồ Tùng
Mậu mà sau này CSVN lấy làm ngày kỷ niệm thành lập ĐCSVN ( 3-2-1930
).
Sau hội nghị, Trần Phú gởi thư tố cáo với CSQT :
“Năm 1930, ngày 9-12, một cuộc họp nội bộ ĐCSĐD kiểm điểm công
khai các sai lầm của Victor ( Mật danh của Nguyễn Tất Thành )
trong việc ông ta giả lệnh CSQT họp thống nhất hai đảng mà
không có chỉ thị hay tài liệu hướng dẫn của CSQT, ông ta đã tự
nghiễn ra phương hướng hoạt động để chỉ thị cho các đại biểu và phạm
hàng loạt sai lầm…NTT đã nhận khuyết điểm và hứa sẽ sửa chữa những
sai lầm …” ( Hồ sơ lưu trữ Mạc Tư Khoa, hồ sơ mang ký hiệu
RC,495,154,616 ).
Sau đó Trần Phú dời Tổng bộ ĐCSĐD về Sài Gòn.
Đến ngày 17-4-1931, vài ngày trước khi Trần Phú bị bắt, ông
ta đã gởi về cho MTK một bức thư cuối cùng, tố cáo Victor ( Nguyễn
Tất Thành ) đã phá hoại ĐCSĐD :
“Chúng tôi lưu ý các đồng chí đến tình
huống này, không phải với mục đích chỉ trích đồng chí Victor
( NTT ), mà chỉ để nhắc nhở các đồng chí về việc đảng Cọng sản Đông
Dương thống nhất đã ra đời như thế nào và chỉ để chứng tỏ nó đã sai
lầm cho Đảng của chúng tôi ngay cả cho đến nay…”.( Hồ sơ lưu trữ Mạc
Tư Khoa, hồ sơ mang ký hiệu RC,495,32,95 ).
Thư tố cáo của Hà Huy Tập
Năm 1935, ngày 27-3, tại Ma Cao.
Đại hội đại biểu toàn quốc đảng Cọng sản Đông Dương lần thứ
nhất dưới sự lãnh đạo của Hà Huy Tập.
Sau 3 ngày họp, đại hội bầu ra một ban chấp hành trung ương
gồm 13 người, trong đó có Lê Hồng Phong đứng đầu, sau đó là Hà Huy
Tập, Hoàng Văn Nọn, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Rụt, Phùng Chí
Kiên, Đinh Thanh, Võ Nguyên Hiến, Thẩu Xỉ, Hoàng Văn Thụ,
1 người tuyển chọn sau, và Nguyễn Tất Thành vị trí thứ 13 là
vị trí dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng.
*( Nguyễn Tất Thành sau khi ra khỏi nhà tù Hồng Kông thì chạy
về Nga vào cuối năm 1934.
Còn Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn thì
đi MTK vào tháng 12 năm 1934 để tham dự Đại hội 7 CSQT, nhưng đại
hội bị đình đến tháng 7 năm 1935 ).
Tuy nhiên khi nêu tên Nguyễn Tất Thành ( Lý Thụy ) ra trước
đại hội thì nhiều đảng viên phản đối và tố cáo nhiều chuyện không
tốt về thành tích của NTT.
Tạm thời Hà Huy Tập phải giải quyết bằng cách ghi tên NTT
trong vị trí dự khuyết nhưng ghi thêm trong nghị quyết là NTT chỉ
hoạt động ở nước ngoài mà thôi ( Hồi ký Hoàng Tùng ).
Sau khi đại hội kết thúc Hà Huy Tập mới tiếp tục điều tra về
các việc làm của Nguyễn Tất Thành trong thời gian hoạt động tại
Trung Hoa. Kết quả điều
tra rất nghiêm trọng cho nên ông phải tức thời báo cáo về Mạc Tư
Khoa.
Năm 1935, ngày 20-4, Hà Huy Tập, tân bí thư Cục Hải ngoại của
ĐCSĐD, gởi cho QTCS một bức thư tố cáo trước đây NTT biết Lâm Đức
Thụ là một tay mật thám nhưng vẫn làm việc với Thụ.
Hậu quả là cảnh sát của Tưởng Giới Thạch có hình và bắt hàng
trăm đảng viên An Nam Cọng Sản đảng của Hồ Tùng Mậu, những hình này
do trước đó các đảng viên đã nộp cho NTT
( Hồ sơ lưu trữ Mạc Tư Khoa, hồ sơ mang ký hiệu số RC. 459,
154, 586 ).
Theo hồi ức của một Ủy viên trung ương Đảng của Liên Xô là
Anatoly Voronin thì CSQT đã họp hội đồng kỷ luật gồm có Manuilsky,
Khang Sinh và Vasiliéva . Tuy nhiên NTT chứng minh được rằng Lâm Đức
Thụ chỉ bán những ai không phải là Cọng sản.
Cũng theo Anatoly Voronin thì Khang Sinh đòi án tử hình,
Manuilsky trung lập, còn bà Vasiliéva thì bênh vực với lý do đây chỉ
là do NTT thiếu kinh nghiệm.
Cuối cùng NTT chỉ bị kỷ luật phải học tập cải tạo thêm và
không được giao bất cứ công việc gì trong vòng 2 năm, sau đó sẽ cứu
xét lại.
Hiện nay tại Mạc Tư Khoa còn lưu trữ một văn kiện với lời phê
của bà Vasiliéva về NTT:
“Về chuyện liên quan đến Kvak ( Nguyễn Tất Thành có tên Nga trên
giấy tờ là Nguyen Ai Kvak ), chúng tôi cho rằng trong 2 năm tới đồng
chí này phải nghiêm túc chăm chỉ học tập và không thể nhận công việc
nào khác. Chỉ sau khi học xong, chúng ta mới có kế hoạch đặc biệt để
sử dụng đồng chí này” (Hsltr/MTK. RC, 495, 154,585 ).
*Chú giải: Theo
như hồi ký của Hoàng Tùng, cựu bí thư Trung ương ĐCSVN, thì Lê Duẩn
có nói rằng Nguyễn Tất Thành bị kỷ luật là do bị Hà Huy Tập báo cáo
từ Hồng Kông rằng mật thám Pháp có dẫn bà chị của Nguyễn Tất Thành
là Nguyễn Thị Thanh sang Tàu gặp ông để “thương lượng”.
Nhưng sau khi các tài liệu của CSQT được công bố thì người ta
thấy Hà Huy Tập chỉ phê phán hành vi cá nhân của NTT đối với tổ chức
CSVN. Không hề có chuyện
về bà Nguyễn Thị Thanh.
Tuy nhiên lời thố lộ trên đây chứng tỏ Lê Duẩn biết khá nhiều
về cá nhân Nguyễn Tất Thành qua lời kể của Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong
và Nguyễn Thị Minh Khai cho nên sau này ông ta tỏ ra coi thường HCM.
Và trong thời gian Lê Đức Thọ làm Phó cho Lê Duẩn tại Miền
Nam (1946 – 1950 và 1952 – 1954 ) thì Lê Duẩn có hé lộ cho Thọ biết
rằng ông ta đang nắm trong tay bằng cớ HCM chẳng ra gì.
Vì vậy mà hồi ký của Nguyễn Văn Trấn cho thấy Lê Đức Thọ cũng
coi HCM chẳng ra gì :
“Mày coi, coi nó tội nghiệp không. Đồng chí Hồ Chí Minh muôn
vàn kính yêu của chúng ta bận đồ lụa gụ, chủ trì hội nghị mà mặt day
ra sân. Có lỗ tai tự nhiên phải hứng những lời mạt sát Liên Xô.
Khi chướng tai quá, quay vô, đưa tay để nói, thì thằng Thọ lễ
phép Bắc hà: “Bác hãy để
cho anh em người ta nói đã mà”.
Tao đếm lão Hồ đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp
ngăn ( Nguyễn Văn Trấn, nói với mẹ và Quốc hội ).
Thú nhận của Nguyễn Tất Thành
Năm 1938, ngày 6-6, tại Mạc Tư Khoa, Nguyễn Tất Thành gởi cho
Trung ương CSQT một bức thư thống thiết :
“Hôm nay là kỷ niệm 7 năm tôi bị bắt ở Hồng Kông. Ngày này
cũng là khởi đầu năm thứ 8 tôi nằm không, không được hoạt động . Tôi
viết thư này với mục đích xin các đồng chí thay đổi tình cảnh đau
lòng này của tôi.
Xin các đồng chí phái tôi đi bất cứ nơi nào hoặc giữ tôi tại
đây cũng được. Nhưng hãy dùng tôi trong bất cứ việc gì mà các đồng
chí thấy là có ích. Tôi chỉ yêu cầu các đồng chí đừng bắt tôi phải
sống một thời gian quá dài mà không sinh hoạt gì cả và ở bên ngoài
đảng”. ( HCM Biên niên tiểu sử, Hà Nội,1992, tập 2, trang 60 ).
Bà Vasiliéva, Ủy viên Trung ương CSQT, chuyển thư này lên Bí
thư CSQT là Dimitrov với một ghi chú ngắn bên lề rằng ông NTT bất
hòa với giới lãnh đạo của ĐCSĐD ( Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai
…) mà hiện nay mối bất hòa đó vẫn còn.
Dimitrov quyết định cho Nguyễn Tất Thành về Trung Hoa phục vụ
cho quân đội Mao Trạch Đông. *( Sau này tự truyện của HCM với tên
T.Lan kể lại rằng ông phục vụ trong vai Thiếu tá chính trị tên là Hồ
Quang ).
*Chú giải : Trước năm 1990 không ai biết về các bức thư xin ra
khỏi diện kỷ luật của ông NTT, nhưng cho tới khi hồ sơ CSQT sắp sửa
được đưa ra cho công chúng thì chính quyền Liên Xô cho phép ông
Nguyễn Mạnh Cầm là đại sứ Việt Nam tại Nga được đến xem các tư liệu
có liên quan đến Việt Nam và còn cho phép ông Cầm được mang về những
tài liệu nào mà phía Việt Nam thấy là cần thiết cho Việt Nam.
Lúc đó phái đoàn của ông Cầm chỉ lấy 2 hồ sơ. Một liên quan
đến bức thư NTT xin về Việt Nam năm 1928 và một liên quan đến bức
thư NTT xin được ra khỏi tình trạng bị kỷ luật năm 1938. Sở dĩ đoàn
của Nguyễn Mạnh Cầm lấy lại 2 tài liệu này là nhằm mục đích muốn thủ
tiêu bằng cớ chứng minh lãnh tụ Hồ Chí Minh quá tệ.
Tuy nhiên khi mang về giao cho Viện nghiên cứu lịch sử Đảng
thì lúc này tại Việt Nam cũng có phong trào đổi mới, cho nói thẳng,
nói thật. Nội vụ được trình lên cho Trưởng Ban Văn hóa Tư tưởng
Trung ương Đảng là ông Trần Độ thì ông này chủ trương cứ cho công bố
sự thật. Các nhà viết sử Hà Nội đã cho công bố các bức thư này trong
sách “HCM, Biên Niên Sử” phát hành năm 1992.
(60) LÊ DUẨN HẠ BỆ HỒ CHÍ MINH
Hạ bệ Hồ Chí Minh
Năm 1960, ngày 5-9, Đại hội toàn quốc lần thứ 3 chính thức bầu
Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất
( Do vì ở Liên Xô cũng không có chức vụ Tổng bí thư,
Krushcheve cũng chỉ là Bí thư thứ nhất của Liên Xô ).
Đặc biệt kỳ này sửa đổi điều lệ Đảng, đặt ra chức Chủ tịch
Đảng dành cho ông Hồ Chí Minh nhưng không có điều lệ nào quy định
nhiệm vụ của Chủ tịch Đảng.
Ngoài ra quy định Ban chấp hành Trung ương gồm có 47 người,
nhưng thành phần dự khuyết lên tới 31 người.
Nghĩa là sẽ có vô số ông mất chức không biết lúc nào.
Đại hội cũng quyết định Đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức
Phó thủ tướng kiêm Tổng tư lệnh Quân đội, xuống giữ chức Chủ nhiệm
Ủy ban Khoa học Nhà nước, Tướng Chu Văn Tấn thay Võ Nguyên Giáp giữ
chức Tổng tư lệnh. Thực
ra việc ngưng chức đã xảy ra trước đại hội 2 tháng.
Năm 1960, mùa thu, Krushcheve triệu tập Hội nghị 81 đảng Cọng
sản trên thế giới tại Mạc Tư Khoa nhằm vạch ra đường lối mới cho
phong trào Cọng sản Quốc tế.
Đảng CSVN cử Lê Duẩn, Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh là 3
lý thuyết gia Cọng sản của Việt Nam đi tham dự. Cùng đi có hai thư
ký là Trần Quang Huy, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng , chủ nhiệm
tạp chí “Học tập” (cơ quan lý luận của Đảng).
Và Trần Quỳnh, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Văn phòng Trung
ương Đảng.
Theo Trần Quỳnh thì mới đầu Mạc Tư Khoa cho phân phát bản dự
thảo nghị quyết của Hội nghị ( Bản dự thảo tức là bản nháp );
theo đó thì
“… đã xuất hiện khả năng quá độ hòa bình lên CNXH trong lòng
các nước tư bản. Vì
những lẽ trên đây, giữa các nước thuộc cộng đồng XHCN và các nước tư
bản vấn đề ai thắng ai sẽ giải quyết bằng thi đua hòa bình, xây dựng
kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, tạo ra tính ưu việt chế độ, chế độ nào trong
cuộc thi đua ấy tỏ ra ưu việt hơn sẽ cuốn hút được đa số nhân dân và
sẽ chiến thắng” ( Trần Quỳnh, Những Kỷ Niệm Về Lê Duẩn ).
Cũng theo Trần Quỳnh thì Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh phản đối
tinh thần bản dự thảo vì “chung sống hòa bình” có nghĩa là Liên Xô
sẽ không ủng hộ chiến tranh, bao nhiêu hy vọng đánh chiếm Miền Nam
trở thành mây khói.
Trong khi đó tại Miền Nam bà Nguyễn Thị Định đã phát động nổi
dậy trên 3 huyện của tỉnh Bến Tre vào ngày 17-1-1960 và ông Mai Chí
Thọ chỉ huy 225 du kích CSVN tấn công hậu cứ của Trung Đoàn 32 của
VNCH tại Tây Ninh vào ngày 26-1-1960.
Sau 2 chiến thắng vang dội đó, ngày 31-1-1960 Trung ương Đảng
đã ký nghị quyết 15, chủ trương vũ trang đấu tranh ở Miền Nam và lần
lượt cho 2 sư đoàn bộ đội Miền Nam âm thầm vượt tuyến trở lại Miền
Nam quấy phá.
Nhưng không ngờ Trường Chinh lại quyết định theo Liên Xô, ông
nhờ một nghiên cứu sinh đang học tại trường Đảng Liên Xô là Vũ Tuấn
đến thảo luận và chuẩn bị bài phát biểu cho phái đoàn ĐCSVN.
Tại khách sạn xảy ra tranh cãi gay go giữa 3 nhà lãnh đạo
ĐCSVN, Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh quyết định không theo Liên Xô
nhưng Trường Chinh thì nhất định theo.
Cuối cùng thì Trường Chinh chịu thua vì rơi vào thiểu số, vả
lại Lê Duẩn là trưởng đoàn.
Để giải thích thái độ của Trường Chinh, Trần Quỳnh viết : “Tôi
hiểu vì sao Trường Chinh hành động như vậy.
Một là anh ấy rất “căm” Trung Quốc vì anh cho rằng Trung Quốc
đã xúi anh phạm sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ
chức cớ đó mà bị kỷ luật, buộc phải thôi giữ chức Tổng bí thư lúc
bấy giờ, đó là lý do chính. Hai là anh ấy không bằng lòng với Lê
Duẩn vì Lê Duẩn đã thay thế anh làm bí thư thứ nhất của Đảng”.
Cuối cùng thì phái đoàn CSVN phát biểu theo ý của Lê Duẩn:
“Không thể có chung sống hòa bình giữa chủ nghĩa đế quốc và những
dân tộc và giai cấp bị chúng áp bức và bóc lột”… “Đề ra chủ trương
quá độ hòa bình lên CNXH như là một tất yếu của lịch sử là thủ tiêu
đấu tranh giai cấp, thủ tiêu cách mạng, trói tay trói chân giai cấp
công nhân và nhân dân lao động…
Năm 1960, ngày 2-11,
phái đoàn Việt Nam gần 50 người do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu
tham dự Hội nghị các nước Cọng sản tại Mạc Tư Khoa.
Sau khi nghe đọc bản dự thảo của nghị quyết, ông Hồ Chí Minh
chỉ thị cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm thảo ra văn bản
tuyên bố tán thành nghị quyết cũng như kêu gọi sự hòa giải giữa hai
đảng Cọng sản đàn anh. Nghĩa là HCM đã quyết định ngược lại với chủ
trương của Lê Duẩn. Vì
vậy Lê Duẩn cho họp đại hội để chính thức hạ HCM. ( Hồi ký “Nói Với
Mẹ và Quốc Hội” của Nguyễn Văn Trấn ).
Năm 1960, ngày 28-12, họp Đại hội lần thứ 2 Trung ương Đảng
CSVN để nghe tường trình của phái đoàn tham dự Hội nghị tại Liên Xô.
Đại hội biểu quyết không ngã theo chủ trương sống chung hòa
bình của Krushcheve.
Nghĩa là tán thành Lê Duẩn và phản đối HCM.
Ngoài ra quyết định Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ra khỏi Quân
đội, giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Phát triển nông nghiệp;
Đại tướng Văn Tiến Dũng thay Nguyễn Chí Thanh giữ chức Bí thư
Quân ủy và Trung tướng Song Hào thay Nguyễn Chí Thanh giữ chức Chủ
nhiệm Tổng cục Chính trị.
Đây là một cuộc âm thầm đảo chánh cho nên quyết định của đại
hội Trung ương chỉ phổ biến trong nội bộ 47 người, và được bảo mật
tuyệt đối. Tuy nhiên
theo hồi kí của Trần Quỳnh thì không chuyện gì giấu được tình báo
của Trung Quốc và Liên Xô :
“Cái phức tạp hơn là ở chỗ khác. Tình báo của Trung Quốc cũng
như của Liên Xô đầy dẫy khắp nơi. Ngoài ra nhiều đảng viên không làm
tình báo cho Trung Quốc và Liên Xô vô tình, vì tình cảm của mình mà
lộ ra cho biết việc nhà của Đảng ta.
Mạng lưới tình báo ấy có hiệu quả đến nỗi những cuộc họp của
Bộ chính trị ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân diễn ra thì trong ngày tin tức
về nội dung cuộc họp đã đến tai Liên Xô và Trung Quốc. Nếu là vấn đề
quan trọng thì trong ngày trên bàn làm việc của lãnh đạo mỗi nước
đều có báo cáo”.
*Chú giải : Tại sao Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh bị hạ ?
Sở dĩ hai ông Đại tướng bị hạ thấp quyền lực vì sau vụ cải
cách ruộng đất 1956 ông HCM đã hạ bệ Trường Chinh, bắt TC phải từ
chức Tổng bí thư, đuổi Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt ra khỏi Bộ
chính trị, và giao cho
VNG đứng ra ổn định tình thế, rồi đưa VNG vào Trung ương đảng (
Trước đó VNG đứng ngoài Trung ương, theo hồi ký “Đường tới Điện Biên
Phủ” của VNG ).
Lợi dụng sự thất thế của băng Trường Chinh sau chiến dịch
CCRĐ, Võ Nguyên Giáp đã thẳng tay triệt hết vây cánh của Trường
Chinh đê âm mưu nhảy lên thống trị ĐCSVN.
Điều này đưa tới sự căm ghét ngầm của Trường Chinh.
Còn Nguyễn Chí Thanh thấy cánh Trường Chinh thất thế bèn ngã
theo cánh HCM, thậm chí có tin đồn HCM nhận NCT làm con nuôi.
Hồi ký của Vũ Thư Hiên cho rằng Tướng Giáp bị hạ tầng công tác
là do năm 1954 người ta phát hiện một lá đơn của ông gửi Toàn quyền
Pháp để xin được đi du học, lời lẽ trong thư rất tệ mạt.
Còn Tướng Nguyễn Chí Thanh thì bị ông Đặng Xuân Thiều tố cáo
là thời 1941 Thanh đã phản bội tổ chức, khai báo cho thực dân bắt
các đồng chí.
Và hồi ký Mặt Thật của ông Bùi Tín cũng cho biết năm 1975
người ta tìm được bằng chứng phản bội của Tướng Nguyễn Chí Thanh
trong hồ sơ lưu trữ của Chính quyền Sài Gòn.
Cho tới nay chưa có một thông tin nào khác để có thể kiểm
chứng nguồn tin của ông Vũ Thư Hiên cũng như của ông Bùi Tín.
Trong khi đó hồi
ký của Phó thủ tướng Trần Quỳnh thì cho rằng chính Trường Chinh tố
cáo có lần ông ta đến chơi nhà ông Đặng Thái Mai thấy ông Mai đang
xem một bức thư của chánh mật thám Pháp Martini với hàng chữ đầu là
: “Các con Mai và Giáp thân mến”.
*( Nhưng khi ông Trần Quỳnh viết lên chi tiết này thì ông
Trường Chinh đã qua đời cho nên khó biết ông Chinh có nói hay không.
Vả lại tình tiết có vẻ phi lí cho nên dẫu cho ông Chinh có
nói thì cũng không thể tin được .
Có thể giải thích cho vụ này :
Đó là vì Trường Chinh căm VNG lợi dụng lúc Trường Chinh thất
thế mà có ý đồ thống lĩnh ĐCSVN nên Trường Chinh về hùa với Lê Duẩn
để triệt VNG, chính Trường Chinh đứng ra làm chứng tố cáo VNG và
Đặng Thái Mai ( bố vợ của Giáp );
dĩ nhiên là làm chứng gian,
bởi vì nếu có thật tại sao Trường Chinh vẫn tiếp tục cọng tác
với VNG và Đặng Thái Mai từ 1938 đến đến 1960.
Phải chăng Trường Chinh cũng đồng lõa với VNG ?
Còn về phần người Pháp đã có VNG làm tay trong thì tại sao
lại để thua Việt Minh? ).
Giả thuyết sau cùng :
Sau khi Trung Quốc cho bạch hóa hồ sơ mật về trận Điện Biên
Phủ mới lòi ra Võ Nguyên Giáp không phải là người làm nên chiến
thắng tại ĐBP. Cho nên
thời đó Lê Duẩn chỉ cần công bố VNG không phải là người chỉ huy trận
ĐBP thì sự nghiệp vĩ đại của VNG đi đời.
Vì vậy mà VNG đành chịu lép.
Còn Nguyễn Chí Thanh cũng bị phát hiện khai man lý lịch là do
năm 1957 Lê Duẩn từ Miền Nam ra thì gặp lại đàn anh của mình là Tôn
Quang Phiệt ( Phiệt kết nạp Duẩn vào Đảng Tân Việt năm 1928.
Và cả hai cùng gia nhập ĐCSĐD năm 1938 do Hà Huy Tập và Trần
Ngọc Danh kết nạp ). Còn
Tố Hữu thì gặp lại thầy của mình ( Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim
Thành được Lê Duẩn và Nguyễn Khoa Văn kết nạp vào năm 1938 ).
Gặp lại Lê Duẩn thì Phiệt và Thành tố cáo Nguyễn Chí Thanh
không xứng đáng ngồi trong ban chấp hành Trung ương do vì xuất thân
không phải gai cấp cố nông, chỉ là khai man lý lịch ( Con nhà quan
lại, học trường Tây ).
Nghe vậy thì Lê Duẫn để đó, đợi đến đại hội toàn quốc thì đưa Tôn
Quang Phiệt vào Ban chấp hành Trung ương rồi sau đó họp đại hội
Trung ương đưa Nguyễn Chí Thanh ra kiểm điểm và buộc Thanh ra khỏi
quân đội.
(61) HÌNH ẢNH CUỐI CÙNG CỦA HỒ CHÍ
MINH
Mao Trạch Đông quyết định đánh Mỹ tại Miền Nam
Năm 1963, mùa hè, Trung Quốc mời Hà Nội cử một phái đoàn sang
Vũ Hán, Trung Quốc để bàn về dự thảo đường lối chính sách của Bắc
Kinh. Bộ chính trị lại
cử Lê Duẩn, Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh sang Bắc Kinh, lần này
có 3 thư ký là Trần Quỳnh, Trần Quang Huy và Vũ Tuấn.
Sau mấy ngày làm việc, đoàn Việt Nam đồng ý hầu hết dự thảo
của Trung Quốc, chỉ phản đối 2 điểm, một là cáo buộc Liên Xô đã
chuyển theo Chủ nghĩa Tư bản và hai là đề nghị thành lập một tổ chức
Cọng sản quốc tế mới, do Trung Quốc cầm đầu.
Sau đó là nghe Mao Chủ tịch nói chuyện.
Mao nói : “Tôi đã xem ý kiến đóng góp của các đồng chí. Việt
Nam là một Đảng nhỏ mà có được 4,5 ý kiến đóng góp như thế là trình
độ lí luận các đồng chí khá đấy, không tồi.
Nhưng nay tôi muốn nói với các đồng chí một chuyện khác…”
“Tôi phải làm lại một cuộc cách mạng mới ( Cuộc cách mạng văn
hóa với đoàn thanh thiếu niên Hồng Kỳ binh ). Tôi sẽ đánh đổ giai
cấp địa chủ và giai cấp tư sản đang thống trị. Tôi sẽ đưa giai cấp
bần nông và giai cấp công nhân lên nắm chính quyền trở lại. Tôi sẽ
tổ chức một đội quân bần nông năm trăm triệu người.
Tôi sẽ giải phóng cho cả Đông Nam Á, cho cả Việt Nam, các
đồng chí không cần đánh”
( Hồi ký Trần Quỳnh ).
Cũng theo Trần Quỳnh :
“Ra khỏi phòng họp, khi Mao tiếp kiến xong, Trường Chinh kéo
tay tôi nói một cách vui vẻ : “Nghe Mao Trạch Đông nói mới thấy là
ông ta cho đến tận xương tủy đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác Lênin”.
“Cuộc gặp mặt với Mao Trạch Đông có một tác động bất ngờ đối
với ta. Khi đoàn ta về đến Hà Nội, Trường Chinh nói không chống đối
dự thảo báo cáo và nghị quyết của Bộ chính trị về các vấn đề quốc tế
nữa ( Ngã theo Trung Quốc ), mà còn thúc giục thông qua nhanh và
triệu tập hội nghị Trung ương sớm để thông qua”.
*Chú giải : Trần
Quỳnh cho rằng chỉ nghe Mao Trạch Đông nói chuyện là Trường Chinh
hết căm Trung Quốc rồi đổi từ ủng hộ Liên Xô chuyển sang thân Trung
Quốc. Nhưng có lẽ sự
thực không đơn giản như vậy.
Chắc chắn trong mấy ngày thảo luận thì lãnh đạo Trung Quốc đã
có tiếp xúc riêng với ông Trường Chinh và Trường Chinh đã thuận ngã
theo Trung Quốc. Còn câu
nói của Trường Chinh với Trần Quỳnh sau khi nghe Mao Trạch Đông phát
biểu chỉ là động tác giả nhằm hợp thức hóa sự chuyển đổi quan điểm
của ông.
Về phần ông Lê Duẩn thì chắc chắn ông ta phải cảnh giác về mối
liên hệ giữa Trung Quốc với Trường
Chinh. Hễ Trung
Quốc càng ủng hộ Trường Chinh thì địa vị Bí thư thứ nhất của Lê Duẩn
càng có vấn đề. Tuy
nhiên ông yên trí đã có người khác trị Trường Chinh, đó là ông Lê
Đức Thọ. Ông này theo
Trường Chinh từ hồi ở Tân Trào 1945 và biết được sự thật của việc Hồ
Chí Minh bắt tay với Trường Chinh lập ra Mặt trận Việt Minh vào
tháng 12 năm 1944.
Vì vậy ông Thọ dư sức
làm chứng trước Đảng rằng đại hội Đảng tại Tân Trào là do Trường
Chinh và Hồ Chí Minh bịa ra chứ sự thực đại hội đó không có.
Cho nên chuyện Trường Chinh được bầu làm Tổng bí thư và Võ
Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan được bầu
vào Ban chấp hành Trung ương Đảng trong đại hội Tân Trào cũng chỉ là
chuyện bịa.
*( Năm 1976 Lê Duẩn ra lệnh không tính Hội nghị Tân Trào là
đại hội Trung ương ĐCSVN.Trước đó Hội nghị Tân Trào được tính là Đại
hội Đảng toàn Quốc lần thứ 2, sau đại hội lần thứ Nhất tại Ma Cao
năm 1935 ).
Hơn nữa, lâu nay Lê Duẩn đang bị thôi thúc bởi những tin tức
đáng phấn khởi từ Miền Nam đưa ra. Lợi dụng chính phủ Ngô Đình Diệm
đang phải đối phó với phong trào tranh đấu của Phật giáo đang càng
ngày càng dữ dội, quân du kích CSVN nổi lên quấy phá, khủng bố khắp
các miền nông thôn Nam Việt Nam.
Vì vậy Lê Duẩn sẳn sàng ngã theo Mao Trạch Đông để có vũ khí
đánh chiếm Miền Nam.
Đặc biệt là các ông ở Miền Nam đã đánh lừa các ông Hà Nội :
Tất cả các báo cáo từ Miền Nam nói về các cuộc biểu tình của
Phật giáo đều được ghi là :
“Nhân dân ta không chịu nổi áp bức của Mỹ Diệm cho nên một mặt
đứng lên phá đổ “Ấp chiến lược”, một mặt biểu tình đòi lật đổ Diệm.
Công cuộc đấu tranh của nhân dân Miền Nam càng ngày càng lan
rộng khắp nơi từ thôn quê đến thành thị.
Ngày tàn của chế độ Diệm đã sắp tới” ( Hồi ký của Mai Chí
Thọ).
Nghe như vậy thì Hà Nội quýnh lên, các ông tính chuyện đưa gấp
người và vũ khí vào Miền Nam để có thể kịp thời nhận lấy chính quyền
sau khi Tổng thống Diệm bị lật đổ.
Trong khi các ông đang quýnh quáng thì cả Liên Xô lẫn Trung
Quốc đều từ chối giúp đỡ Hà Nội đánh chiếm Miền Nam, họ sợ phải đối
đầu với Hoa Kỳ. Do đó Lê
Duẫn ngày đêm mong ngóng một cái gật đầu của Liên Xô hoặc là của
Trung Quốc. Giờ đây ông
vui mừng thấy Mao Trạch Đông tỏ ý chấp thuận.
Chính tai ông đã nghe Mao Trạch Đông phát biểu tại Hội nghị
Vũ Hán:
“Bom nguyên tử là con hổ giấy. Nếu chiến tranh nguyên tử xảy
ra, bất quá là Trung Quốc chết đi 400 triệu người, cũng còn lại 300
triệu. Còn bọn xâm lược sẽ bị tiêu diệt. Dân Trung Quốc mắn đẻ lắm.
Chẳng bao lâu dân số Trung Quốc sẽ lên 700 triệu, thậm chí 800
triệu, 1 tỉ. Có gì mà phải sợ chiến tranh nguyên tử?” (Hồi ký Trần
Quỳnh).
Cũng cùng một tư tưởng như Mao Trạch Đông, Lê Duẩn không ngại
chết dân, chết lính, ông chỉ ngại không có vũ khí.
Bà Bảy Vân, vợ thứ 2 của Lê Duẫn đã nhắc lại lời của ông
trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 23-12-2008:
“Anh Ba (Duẩn) nói với
lãnh đạo Trung Quốc rằng:
“Chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người rồi, nếu Trung Quốc chi
viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp
hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, chúng tôi dù phải hi sinh
vài triệu người nữa, chúng tôi vẫn thắng Mỹ”.
Suy cho cùng thì chết ai chứ đâu có chết con cái hay những
người thân trong gia đình của các ông đâu mà lo.
Còn nếu như thành công thì gia đình và phe đảng của ông hưởng
đủ chứ đâu cần phải chia cho gia đình của những người chết, chỉ cần
cấp cho họ cái bằng “liệt sĩ” hay cái bằng “mẹ anh hùng” là họ đủ
cảm thấy vinh quang rồi.
Mà bằng liệt sĩ và huân chương thì ông có thiếu gì, muốn bao nhiêu
thì có bấy nhiêu.
Hội nghị trung ương 9
Năm 1963, tháng 12, sau hội nghị Vũ Hán,
Lê Đức Thọ vận động Lê Duẩn cho triệu tập đại hội Trung ương
Đảng để dứt khoát theo Liên Xô hay theo Trung Quốc.
Lúc này đa số đã nghiêng về Trung Quốc;
bởi vì các ông đang chủ trương dùng vũ lực đánh chiếm miền
Nam Việt Nam nhưng lúc đó người lãnh đạo của Liên Xô là Krushchev
lại chủ trương hòa hoãn với Hoa Kỳ, trong khi Mao Trạch Đông chỉ
trích Krushchev là quá sợ Hoa Kỳ, theo ông ta thì Hoa Kỳ chỉ là “con
hổ giấy” và ông ta muốn hỗ trợ Hà Nội đánh vào Miền Nam.
Bạch thư của CSVN phát hành năm 1979 nói rõ : “Trong những
cuộc hội đàm với phía Việt Nam năm 1963, họ ( Trung Quốc ) tìm cách
thuyết phục Việt Nam chấp nhận
quan điểm của họ là phủ nhận hệ thống Xã hội Chủ nghĩa và mở
cho họ một con đường xuống Đông Nam Á” ( trang 41 ). Vì thế Lê Duẫn
mở đại hội Trung ương, quyết định theo Tàu.
Hội nghị này là hội
nghị Trung ương thứ 9 của Đại hội toàn quốc lần 3.
Nghị quyết của đại hội 9 không được viết thành văn bản và giữ
bí mật tuyệt đối. Sau đó
Trường Chinh triệu tập một đại hội cốt cán gồm 400 nhân vật hàng đầu
trong Đảng để phổ biến và giải thích nghị quyết nhưng tất cả chỉ nói
miệng chứ không có văn bản. Có một số công khai chống lại nghị
quyết, đó là Bùi Công Trừng, Lê Liêm và Ung Văn Khiêm ( Hồi ký Trần
Quỳnh ).
Tại hội nghị ông Hồ Chí
Minh bị Lê Đức Thọ công khai tỏ thái độ khinh thường khiến cho các
đại biểu hiểu rằng thời đại của ông Hồ Chí Minh đã chấm dứt.
Và quả nhiên từ đó ông sống như một cái bóng.
*Chú giải : Hình
ảnh cuối cùng của ông Hồ Chí Minh
Một đoạn hồi kí của Nguyễn Văn Trấn ghi lại lời kể của Bùi
Công Trừng trong cuộc họp đảo chánh HCM:
“Mày coi, coi nó tội nghiệp không. Đồng chí Hồ Chí Minh muôn
vàn kính yêu của chúng ta bận đồ lụa gụ, chủ trì hội nghị mà mặt day
ra sân. Có lỗ tai tự nhiên phải hứng những lời mạt sát Liên Xô.
Khi chướng tai quá, quay vô, đưa tay để nói, thì thằng Thọ lễ
phép Bắc hà: “Bác hãy để
cho anh em người ta nói đã mà”.
Tao đếm lão Hồ đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp
ngăn. Cuối cùng ông cũng
cho hội nghị nghe, ông nói ca dao bằng tiếng khóc:
“Khi thương trái ấu cũng tròn.
Khi ghét bồ hòn cũng méo” và ông nói xụi lơ “Thấy lợi người
ta cho thêm lửa vô; thấy
bất lợi người ta rút ra đó mà” ( Nguyễn Văn Trấn, Viết gửi Mẹ và
Quốc hội, trang 328 ).
Qua cách dùng chữ của các nhà lãnh tụ CSVN thời 1963, họ gọi
là “lão Hồ” và nói một cách châm biếm là “đồng chí Hồ Chí Minh muôn
vàn kính yêu của chúng ta”, đủ nói lên uy thế của HCM vào thời điểm
tột đỉnh của thành công như thế nào, mặc dầu Bùi Công Trừng và
Nguyễn Văn Trấn là những người ủng hộ Hồ Chí Minh chống lại phe đảo
chánh.
Và hồi ký “Đèn Cù” của Trần Đĩnh :
“Xong Nghị quyết 9 ( 1963 ) , tôi được nghe truyền đạt rằng
từ nay Cụ Hồ thôi họp Bộ chính trị – vì sức khoẻ – còn Võ Nguyên
Giáp, Lê Liêm thì ngồi chơi xơi nước và học nhạc lý cùng piano. Đảng
ra tay trấn áp rất nhanh. Nghe nói lục soát cả chỗ làm việc ( trang
266 ).
Hồ Chí Minh năm mươi năm sau,
Năm 2012. Nhà báo Huy Đức, người viết hồi ký cho ông Võ Văn
Kiệt, cho ra đời tác phẩm “Bên Thắng Cuộc” mà trong đó theo lời kể
của ông Võ Văn Kiệt thì trong buổi họp của Quốc hội CSVN vào ngày
25-6-1976 ông Kiệt đã hăng hái đề nghị Quốc hội công nhận đổi tên
thành phố Sài Gòn thành tên thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh bác ngay với lý do
là để Quốc hội xem xét rồi quyết định sau.
Ngạc nhiên trước thái độ thờ ơ của Trường Chinh, và nghĩ rằng
mình có “chính nghĩa” cho nên ông Kiệt đợi tới giờ Quốc hội nghỉ
giải lao đến gặp riêng Lê Duẩn, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng
để chất vấn Trường Chinh tại sao không muốn đổi tên thành
phố. Trước mặt Lê Duẩn
và Phạm Văn Đồng, Trường Chinh vẫn bác đi trong khi Duẩn và Đồng
không nói năng gì.
Sự thực là lúc đó Lê Duẩn, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng đều
biết về thành tích bất hảo của Nguyễn Tất Thành mà hồ sơ kỷ luật
đang còn nằm tại Mạc Tư Khoa.
Chính nhờ đó mà Lê Duẫn đã hạ bệ Hồ Chí Minh một cách êm thắm
vào năm 1960. Vì vậy khi
Võ Văn Kiệt gặp riêng các ông để khiếu nại thì chỉ có ông Trường
Chinh trả lời nhưng với lý do không đủ sức thuyết phục.
Các ông sợ lỡ như sau này Mạc Tư Khoa cho công bố hồ sơ mật
của CSQT, lòi ra chuyện lãnh tụ HCM là tay lừa thầy phản bạn thì lúc
đó khó mà bắt dân chúng kệu tên TP Sài Gòn bằng tên HCM.
Năm đó Lê Duẩn đã tính cho hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh bằng
cách cho tiết lộ dần dần sự thực về “cha già dân tộc”.
(62) LỜI KẾT
Lịch sử và cơ hội chủ nghĩa
Ngày nay nhìn ngược lại lịch sử chính trị của ông Hồ Chí Minh
thì toàn là một chuổi đưa đẩy tình cờ.
Số phận của đất nước Việt Nam luôn luôn biến chuyển theo kế
hoạch toàn cầu của các nước lớn nhưng mỗi khi các nước lớn nghĩ tới
Việt Nam thì y như rằng có sự xuất hiện của ông Nguyễn Tất Thành và
lần nào ông cũng dở ngón bịp sở trường để trình diễn như ông là
nhân vật mà lịch sử đang cần..
Lần đầu tiên là tại nước Pháp năm 1919, khi phong trào các dân
tộc thuộc địa nổi lên đòi độc lập, các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn
Trường, Nguyễn Thế Truyền phát động phong trào đấu tranh cho dân tộc
Việt Nam thì tình cờ ông Nguyễn Tất Thành xuất hiện và nhận làm chân
chạy việc cho các nhà chính trị, tự nhiên ông cũng trở thành một nhà
hoạt động chính trị.
Ngay lần này ông đã giở ngón bịp, làm một thẻ mượn sách thư
viện rồi ghi bí danh là Nguyễn Ái Quốc để đem đi lòe thiên hạ và
được nổi tiếng. Trong
khi đó những nhân vật Nguyễn Ái Quốc thật đã về Việt Nam hoạt động
đấu tranh và bị tù đày hoặc chết trong tù.
Tình cờ thứ hai là khi các chính trị gia Pháp thành lập Đảng
Cọng sản Pháp thì lại có tên ông Paul Tất Thành trong danh sách đảng
viên đầu tiên. Sở dĩ gọi
là tình cờ vì sau này chính ông kể lại là lúc đó ông chẳng biết hai
chữ Cọng sản nghĩa là gì.
Lần này ông giở ngón bịp ra với các nhà chính trị Pháp, nói
rằng ông theo Lénin vì Lénin chống đế quốc thực dân.
Rồi sau này ông viết sách cũng nói như vậy để bịp dân chúng.
Trong khi đó nhân vật đã dẫn dắt ông vào con đường chính trị
là ông Nguyễn Thế Truyền đã không theo Cọn sản và trở về Việt Nam
hoạt động cứu nước.
Tình cờ thứ ba là khi tổ chức CSQT đang cần người theo dõi
hoạt động chính trị tại 3 nước Đông Dương thì vô tình Manuilsky đọc
được các bài báo bàn về chính trị Đông Dương ký tên Nguyễn Ái Quốc
khiến cho ông ta quyết định mời Nguyễn Tất Thành về Mạc Tư Khoa.
Tại Mạc Tư Khoa ông Thành đã giở ngón bịp ra với QTCS bằng
cách lấy tên là Nguyễn Ái Kvak để người ta tưởng rằng ông chính là
nhân vật Nguyễn Ái Quốc. Sau này người Việt Nam kính phục ông với
cái tên này trong khi người nghĩ ra cái tên này là luật sư Phan Văn
Trường.
Tình cờ thứ tư là sau khi phát hiện Nguyễn Tất Thành không
phải là Nguyễn Ái Quốc thì CSQT đẩy ông về làm việc cho thống tấn xã
Nga tại Quảng Đông Trung Hoa.
Nhưng khi ông vừa đến Trung Hoa thì gặp ngay lúc Phan Bội
Châu đang chuẩn bị thành lập một đảng chính trị của người Việt tại
Hoa Nam. Ông lấy một nửa
tiền lương của mình để tham gia thành lập đảng này rồi mựơn danh của
đảng để rủ thanh niên trong nước theo Cọng sản.
Lần này thì ông bịp mọi người bằng cách trình diễn như ông là
một người yêu nước thứ thiệt và ngay tức khắc ông nổi danh tại Hoa
Nam. Trong khi đó người
thực sự lừng danh tại Hoa Nam là ông Phan Bội Châu đã bị ông bán cho
Pháp.
Tình cờ thứ năm là khi xảy ra chuyện xích mích giữa Đông Dương
Cọng sản Đảng và An Nam Cọng sản Đảng thì người ta nhờ ông đứng ra
làm trung gian hòa giải vì tưởng rằng ông là đại diện của CSQT.
Nhân dịp này ông quay ngược trở lại bịp CSQT bằng cách viết
báo cáo nói rằng ông đã nhân danh là đại diện của CSQT mà hòa giải
chuyện tranh chấp giữa hai đảng Cọng sản Việt Nam, trong khi trước
đó 2 năm ông đã giả từ tổ chức Cọng sản sống một cuộc đời an phận
tại Thái Lan.
Tình cờ thứ sáu là khi chiến tranh Thế giới xảy ra, các nhà
hoạt động chính trị Việt Nam đều bị bắt giam, bên ngoài không còn
nhân vật nào sáng giá thì ông xuất hiện tại hang Pác Bó.
Lần này ông bịp nhóm Cọng sản Pác Bó bằng cách tự xưng là đại
diện của CSQT, trong khi ông chẳng là gì của CSQT, chẳng có một đồng
xu cắc bạc và cũng chẳng có một tên quân nào.
Trong khi đó các ông trùm Cọng sản khác với những thành tích
kinh hồn lại nằm trong tù.
Rồi đến tháng 8 năm 1945 các ông trùm Cọng sản tại Côn Đảo bị
ông Nguyễn Tất Thành giả vờ quên mà giam thêm 1 tháng trên đảo.
Đến khi về được đất liền thì trở thành trâu chậm uống nước
đục, phải đi xin việc nơi ông Nguyễn Tất Thành.
Tình cờ thứ bảy là khi người Mỹ cần thành lập một đội quân
Biệt kích để hoạt động trong vùng chến khu Việt Bắc thì vừa lúc ông
được tha ra khỏi nhà tù rồi tham dự đại hội bầu lại Ban chấp hành
Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội. Cuối đại hội chỉ có ông là người
duy nhất giơ tay xin nhận sẽ trở về Việt Nam thành lập đội thám báo
cho Hoa Kỳ.
Ông giơ tay như vậy chỉ là hòng bịp Tướng Tiêu Văn để lấy tiền
và bịp Nguyễn Hải Thần để lấy giấy giới thiệu là Ủy viên dự khuyết
của Trung ương Việt Minh ( Tên tắt của Việt Nam Cách mạng Đồng minh
Hội ). Trong khi đó nhà
ái quốc Nguyễn Hải Thần lại bị ông nói xấu đến nỗi khi ông Thần về
đến Hà Nội thì không còn ai muốn tiếp xúc.
Tình cờ thứ tám là khi Nhật đầu hàng, Việt Nam vô chính phủ
thì tại Hà Nội chỉ có ông là lãnh tụ duy nhất đang cọng tác với Hoa
Kỳ trong công cuộc chống Nhật.
Lần này thì ông bịp mấy tay Cọng sản đã cướp chính quyền tại
Hà Nội rằng ông là người của cả Nga lẫn Mỹ;
ông yêu cầu những ông trùm Cọng sản rút lui khỏi danh sách
của Chính phủ Lâm thời do ông lãnh đạo bởi vì đại diện Hoa Kỳ là
Thiếu tá Patti không thích Cọng sản;
rồi nhân đó đưa những người thân tín của ông vào thay thế.
Trong khi đó ông kết tội những người Quốc gia là đã chạy theo
Nhật ( Chỉ vì Nhật đánh đổ thực dân Pháp, trả độc lập lại cho người
Việt Nam ). Sau đó ra
lệnh giết 10.500 nhà cách mạng với tội làm Việt gian cho Nhật.
Tình cờ thứ chín là viên Tướng Trung Hoa đảm trách trị an tại
Hà Nội là Tiêu Văn, lại là người đã từng đưa tiền và cung cấp cán bộ
cho ông Hồ Chí Minh về Việt Nam mộ quân chống Nhật.
Lợi dụng thân tình với Tiêu Văn ông bịp các ông CSVN rằng nếu
không giải tán ĐCS thì Tiêu Văn sẽ thanh toán các ông.
Thế là ông vận động giải tán đảng CSVN.
Trong khi đó các ông trùm Cọng sản tài ba vì phản đối giải
tán mà bị ám sát chết, còn những ông trùm Cọng sản khác từng vào
sinh ra tử lại bị cho ra rìa, xa rời trung tâm quyền lực của tổ chức
Việt Minh.
Tình cờ thứ mười là năm 1950, khi ông Stalin và ông Mao Trạch
Đông họp nhau tại Mạc Tư Khoa bàn kế hoạch phát triển chủ nghĩa Cọng
sản về vùng Đông Nam Á thì chỉ có ông là cán bộ Cọng sản có uy tín
nhất tại Việt Nam; ông được
Stalin gọi sang Mạc Tư Khoa để giao việc trong khi trên thực tế có
nhiều ông trùm Cọng sản khác tài giỏi hơn ông rất nhiều.
Lúc trở về ông bịp các ông CSVN rằng ông là người thân tín của
Stalin lẫn Mao Trạch Đông, rồi đây Mao sẽ cung cấp cho các ông vũ
khí cũng như lương thực.
Trong khi đó các nhân vật Cọng sản có tài như Nguyễn Sơn, Trần Ngọc
Danh, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Khánh Toàn, Bùi Công Trừng đều bị ông ám
sát hoặc làm cho thân bại danh liệt.
Cả một chuổi tình cờ liên tục đã khiến cho ông Nguyễn Tất
Thành trở thành nhân vật lịch sử của Việt Nam trong khi ông chẳng có
một tài năng hay một thành tích nào đáng kể.
Cuộc đời của ông chỉ là một chuổi bịp liên tục cho nên ông
không phải là người làm nên lịch sử Việt Nam như lâu nay dư luận
thường hiểu lầm.
Lịch sử của đất nướcViệt Nam chỉ biến chuyển theo kế hoạch
toàn cầu của các nước lớn trên thế giới, chứ không hề biến chuyển
theo mưu tính của một tay thủ đoạn vặt, không biết suy luận, chẳng
có bản lĩnh hay tài năng chỉ huy.
Cuộc sống âm thầm như cái bóng sau khi ông lên ngôi hoàng đế
vào năm 1954 đủ chứng minh ông hoàn toàn không có uy lực trước những
nhân vật hành động như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hà Quốc
Việt, Phạm Hùng, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Văn Linh, Lê Văn Lương, Hà
Huy Giáp, Tôn Quang Phiệt …
Ông Hồ Chí Minh thường vô tình có mặt đúng vào lúc các cơ hội
lịch sử đang mở ra, và ông đã dùng mánh khóe trình diễn như ông là
người mà lịch sử đang cần.
Nhưng vì chỉ là mánh khóe suông cho nên không lần nào ông
thành công.
Cuối cùng ông gặp một cơ may duy nhất, đó là lúc Mao Trạch
Đông quyết định nhúng tay vào Việt Nam và cần một nhân vật bù nhìn
thì khi đó đã có sẵn tên ông đang là chủ tịch nước lưu vong trên
rừng Việt Bắc. Do đó có
thể nói theo kiểu văn chương rằng ông Nguyễn Tất Thành chuyên môn
dùng bạc giả để đi đánh bạc với số phận của đất nước;
trải qua nhiều lần ăn thua, thành bại nhưng ông vẫn kiên trì
và đã gặp may mắn trong canh bạc cuối cùng.
Ngày xưa ông Phan Chu Trinh chủ trương
khai dân trí và chấn dân khí,
nhằm truyền bá cho dân Việt biết rằng mỗi người có quyền làm
chủ cuộc sống của mình và toàn dân có quyền làm chủ non sông đất
nước của mình.
Ngày nay tập tài liệu này cũng bắt chước theo đường lối đó;
nghĩa là nhắc nhở cho thanh niên trong nước biết rằng họ có
cái quyền làm con người;
không một đảng phái nào được quyền quản lý đời sống của họ, về vật
chất cũng như tinh thần;
không một đảng phái nào được quyền bắt cả một dân tộc phải cúi đầu
làm việc dưới sự chỉ bảo của Đảng trong khi đó các cán bộ Đảng ngồi
không tận hưởng công lao, mồ hôi xương máu của nhân dân.
Sai trái của ông Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo CSVN đã được
tập tài liệu này soi rọi, đủ để có thể kết luận rằng không nên nhân
danh Hồ Chí Minh hay nhân danh chủ nghĩa Cọng sản để chiếm đoạt đất
đai tài sản của dân chúng và hưởng thụ phè phởn trên mồ hôi xương
máu của dân chúng.
Chính bản thân người sưu tầm tập tài liệu này đã từng tìm hết
cách để bào chữa cho ông Hồ Chi Minh để có thể thông cảm cho ông ta,
nhưng những dấu vết tội ác do ông để lại quá rõ nét cho nên không
cách gì châm chước cho ông ta được.
Quả tình ông ta tuy gian xảo nhưng không mấy khôn ngoan
Tháng 3 năm 2007, có một số thanh niên Việt Nam sinh sống tại
Quận Cam, Hoa Kỳ, đã mời nhà báo Ngô Nhân Dụng nói chuyện cho họ
nghe về non sông đất nước.
Nhà báo Ngô Nhân Dụng kể lại:
“Hơn một tháng trước đây, tôi có dịp gặp gỡ để nói chuyện với
một nhóm bạn trẻ để nói một câu chuyện về Việt Nam, do họ yêu cầu.
Đó là những người ở lớp tuổi mới ngoài 30, tất cả đã tốt
nghiệp đại học và đang làm việc, trừ một sinh viên Ph.D.
Một điều các bạn trẻ thắc mắc là họ muốn biết những gì đã xảy
ra khiến cho nước Việt Nam bị chia đôi năm 1954, rồi vì thế sinh ra
cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn.
Nhiều bạn trong lớp tuổi đó đã sinh ra và lớn lên ở Việt Nam
sau năm 1975, họ đã được học lịch sử theo lối nhìn và cách xếp đặt
của đảng Cọng sản. Và họ
không tin, họ muốn biết rõ hơn” ( Báo Người Việt ngày 27-4-2007).
Nghĩa là cho tới nay
không có ai trả lời được tại sao người Việt lại giết nhau từ năm
1945 cho tới năm 1975.
Câu hỏi tưởng như đùa nhưng rõ ràng là có thực.
Cả một dân tộc 45 triệu người đánh nhau suốt 30 năm mà cho
tới 62 năm sau người ta vẫn không biết vì sao lúc đó người Việt lại
đánh nhau.
Câu trả lời chưa có bởi vì tất cả những câu trả lời từ trước
tới nay đều nhằm bênh vực phía bên này và công kích phía bên kia.
Chẳng những vậy, người ta sẵn sàng dựng chuyện không thành
có, giấu biệt chuyện có thành không để tuyên truyền ca ngợi phe
mình, nguyền rủa phe đối nghịch.
Thét rồi lịch sử Việt Nam mới nhìn qua giống như là một chuổi
phân tranh, huynh đệ tương tàn vì những lý do chẳng đâu vào đâu.
Trong khi đó người sưu tập tài liệu này đã thấy câu trả lời
quá rõ ràng xuyên qua các chứng cớ lịch sử.
Nghĩa là không có chiến tranh huynh đệ tương tàn, mà chỉ có
Lịch Sử Chiến Đấu Bảo Vệ Tự Do Nhân Quyền của dân tộc Việt
Nam. Người Việt đã bảo
vệ hạnh phúc của dân tộc bằng cuộc chiến đấu chống Thực dân từ cuối
thế kỷ thứ 19 và cuộc chiến đấu chống Cọng sản từ giữa thế kỷ 20.
Và cho tới nay cuộc đấu tranh chống Cọng sản vẫn chưa chấm
dứt.
(63) “SO TUỒNG CHỮ CỦA ÔNG HỒ CHÍ
MINH”
Nhiều người muốn so tuồng chữ của ông Nguyễn Tất Thành với
tuồng chữ của ông Hồ Chí Minh để xem có phải hai ông là một người
hay không ? Vậy thì tốt
hơn hết thử lấy tuồng chữ xưa nhất là đơn xin học trường Hậu Bổ Pháp
vào năm 1911 và tuồng chữ mới nhất là di chúc năm 1968 để so.
Khi so sánh hai tuồng chữ của cùng một người thì cần phải để ý
tới những yếu tố sau :
(1) Khoảng cách thời gian:
chữ viết của một người biến đổi theo thời gian chứ không phải
y khuôn trước sau như một giống như máy đánh chữ.
Lúc học vỡ lòng chữ viết khác, lúc học tiểu học viết khác,
trung học , đại học viết khác.
Lúc 20 tuổi viết khác, lúc 40 tuổi viết khác, lúc 80 tuổi
viết khác.
(2) Cây viết :
Đơn xin học trường Hậu Bổ viết bằng viết chấm mực, ngòi lá
tre. Di chúc viết bằng
viết máy.
(3) Cách viết :
Đơn xin học THB viết nắn
nót, di chúc viết tháu.
(4) Tuổi người viết : Đơn xin nhập học lúc 21 tuổi, di chúc
viết lúc 78 tuổi. Chữ
viết lúc thanh niên uyển chuyển mềm mại
hơn, lúc tráng niên chữ viết
cứng ngắc hơn, chữ viết lúc tuổi già run rẩy hơn.
(5) Sức khỏe lúc viết : Lúc viết đơn nhập học trong tình trạng
khỏe mạnh. Lúc viết di
chúc thì đã bệnh nặng, không còn sức lực.
(6) Tâm trạng lúc
viết : Khi viết đơn xin
nhập học thì chứa chan hy vọng, lúc viết di chúc thì đã mõi mòn.
Sau khi đã trừ hao những khác biệt nói trên thì mới so sánh tự
dạng: so sánh độ nghiêng
của chữ, so sánh kiểu chữ, so sánh tật quen của từng chữ thông
thường và những chữ đặc biệt thành nếp riêng.
Chỉ cần liếc qua chữ “h” và chữ “f”, ( là những chữ dễ nhận
dạng nhất ), trong mấy dòng cuối của đơn xin nhập học năm 1911 với
chữ “h” và chữ “f” trong mấy dòng đầu của di chúc năm 1968 thì kết
luận được ngay hai tuồng chữ là của cùng một người.
Mặc dầu chưa cần trừ hao những yếu tố khác biệt nói trên. (
xem hình đính kèm ).
Tóm lại, năm 1911 tại Paris có một người xưng là Nguyễn Tất
Thành, quê ở Nghệ An, con của cụ nghè Nguyễn Sinh Huy. Thế rồi năm
1945 tại Hà Nội cũng có một người tự xưng là Nguyễn Tất Thành, quê ở
làng Kim Liên, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An, con của cụ nghè Nguyễn
Sinh Huy. Nếu đem so
tuồng chữ thì hai người có cùng một tuồng chữ.
Vậy thì phải hiểu như thế nào đây ?
Có tin được không?
(65) TẠI SAO LẠI KỶ NIỆM CÁI NGÀY
BÁN NƯỚC ?
Báo Sài Gòn Giải Phóng online ngày 17-1-2015 :
“Ngày 16-1, tại Hà Nội, Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt
Nam, Hội Hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc đã tổ chức lễ kỷ niệm 65 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc (18-1-1950 _
18-1-2015). Tham dự có Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân, Hội trưởng Hội Hữu nghị đối ngoại nhân
dân Trung Quốc Lý Tiểu Lâm, Đại sứ Trung Quốc Hồng Tiểu Dũng”.
Giở lại tài liệu lịch sử cách đây 65 năm :
Hồi ký của Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, phó
trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng, Tổng biên tập báo Nhân Dân :
“ Năm 1950 Stalin và Mao Trạch Đông cho gọi bác sang”… “Chuyến
đi Trung Quốc và Liên Xô của Bác năm 1950 là chuyến đi gian khổ.
Khi đó Staline nói:
Bây giờ cách mạng Trung Quốc thành Công rồi, Trung Quốc có
trách nhiệm giúp đỡ các nước Phương Đông cũng như Liên Xô có trách
nhiệm giúp đỡ các nước Châu Âu và Châu Mỹ.
Trung Quốc cho như thế là Quốc tế cọng sản đã phân công cho
Trung Quốc phụ trách Châu Á”.
Vấn đề được đặt ra là sau khi găp Stalin và Mao Trạch Đông
“bác” đã nhận được gì ?
Hồi ký Đường Tới Điện Biên Phủ của Võ Nguyên Giáp ghi rõ :
“Trong một buổi làm việc ở Mátxcơva cùng với Xtalin, có cả Mao
Trạch Đông, Bác đề nghị Liên Xô giúp trang bị cho 10 đại đoàn bộ
binh và 1 trung đoàn pháo cao xạ …” Mao Trạch Đông nói :
“Việt Nam có thể đưa ngay một số đơn vị sang nhận vũ khí trên
đất Trung Quốc. Tỉnh
Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam”… “Ngay sau khi
Bác trở về nước cuối tháng 3 năm 1950, các bạn Trung Quốc đã nhanh
chóng thực hiện lời cam kết” ( Đường Tới Điện Biên Phủ, in lần 2,
trang 14 và 15)…
“Cho tới hết năm 1950, ta đã tiếp nhận của Trung Quốc 1.200
tấn vũ khí, đạn dược, 180 tấn quân trang quân dụng, 2.634 tấn gạo,
20 tấn thuốc và dụng cụ quân y, 800 tấn hàng quân giới, 30 ô tô, 120
tấn xăng dầu và phụ tùng ô tô” (Trang 109).
Một khi Mao Trạch Đông viện trợ cho “bác” chừng đó thứ thì đổi
lại bác đã hứa với Mao Trạch Đông và Stalin những gì ?
Câu trả lời đã hiện rõ trong hồi ký của Hoàng Tùng :
“Quốc tế cọng sản phân công cho Trung Quốc phụ trách Việt
Nam”. Nghĩa là “bác” đã
bán đứt Việt Nam cho Mao Trạch Đông để đổi lấy trang bị cho 10 sư
đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo, vũ khí đạn dược, quân trang, quân
dụng, gạo, thuốc tây, hàng hóa, xăng dầu, và phụ tùng ô tô.
Theo Mao Trạch Đông để làm gì ?
Cũng có người đặt câu hỏi là bác cần 10 sư đoàn với vũ khí,
đạn dược để làm gì ?
Phải chăng là để giành lại độc lập từ trong tay Pháp ?
Hoàn toàn không phải, hồi ký của Võ Nguyên Giáp cho thấy sự
thực :
“Với sự thúc ép của Mỹ, hai tháng sau, ngày 3 tháng 8 năm
1949, Hiệp ước Êlydê (Elysée) giữa Tổng thống Pháp Vanhxăng Oâriôn
(Vincent Auriol), Bộ trưởng Bộ Pháp quốc Hải ngoại Cốt Phơlôrê (Cost
Floret) và Bảo Đại mới ra đời.
Pháp công nhận Việt Nam Độc lập, có một quân đội 50,000 người,
với những sĩ quan người Việt nhưng do người Pháp huấn luyện và điều
khiển…” (Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang
124).
Rõ ràng là năm 1949 nước Việt Nam đã được độc lập, chính phủ
Việt Nam do Bảo Đại làm quốc trưởng kiêm thủ tướng ( Quốc Kỳ là cờ
Vàng ba sọc đỏ ). Vậy
thì tháng 1 năm 1950 ông Hồ Chí Minh bán Việt Nam cho Mao Trạch Đông
để đổi lấy súng đạn chỉ nhằm mục đích đánh chiếm lại nước Việt Nam
đang do Quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo.
Hồi ký của Hoàng Tùng:
“Mùa thu năm 1950, Trung Quốc phái hai phái đoàn cố vấn sang
Việt Nam. Một đoàn do La
Quý Ba làm cố vấn. La
Quý Ba trước là bí thư của Mao, Bí thư Sơn Tây.
Ông này là người
nghiêm chỉnh, phục Mao như ông thánh.
Ông là người tin cẩn của Mao.
Còn tổng cố vấn quân sự là Vi Quốc Thanh.
Đoàn cố vấn quân sự đông hơn vì có đủ bộ máy của quân sự”.
Như vậy cái ngày 18-1-1950 là ngày Hồ Chí Minh bán nước, nhưng
tại sao ĐCSVN lại làm lễ kỷ niệm để làm gì ?
Tại sao trước đây không kỷ niệm vào những năm tròn như 2010,
2000, hay 1990…?
Câu trả lời rất đơn giản là vì năm nay CSVN gõ trống khua
chiêng kỷ niệm tròn 20
năm bang giao Mỹ & CSVN.
Nhưng làm rầm beng kỷ niệm 20 năm với Mỹ thì coi kỳ quá cho
nên mới kèm thêm kỷ niệm 65 năm với TQ để cân bằng, xem như thắt
chặt thêm quan hệ với Mỹ, nhưng cũng không vì vậy mà lơ là với TQ.
Con số 65 năm với TQ là con số lẻ cho nên được hiểu ngầm là kỷ
niệm phụ, còn kỷ niệm chính là tròn 20 năm với Mỹ.
Chứng tỏ giờ đây bang giao với TQ chỉ là xã giao, còn bang
giao với Mỹ mới là “hợp tác toàn diện”.
BÙI ANH TRINH
*Chú thích của người viết :
Những tài liệu trích dẫn trên đây hoàn toàn lấy từ phía CSVN,
và từ những nhân vật uy tín hàng đầu của CSVN chứ không ai bịa đặt
ra. Có thể kiểm chứng
lại dễ dàng trên net.
BIÊN KHẢO VỀ NGUYỄN TẤT THÀNH, (1) LỜI MỞ ĐẦU
Chú thích về nhân vật Hồ Tập Chương
Năm 2008, tại Đài Loan có một giáo sử sử học tên Hồ Tuấn Hùng
cho xuất bản quyển sách “Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo”.
Giáo sư đưa ra giả thuyết rằng Nguyễn Tất Thành đã chết trong
tù Hồng Kong vào năm 1932, và tình báo Trung Cộng đưa người khác vào
thế. Người giả Nguyễn
Tất Thành tên là Hồ Tập Chương, một người sắc tộc Miêu ở Đài Loan,
có bà con với giáo sư Hùng.
Quyển sách được phát hành vài tháng thì các sử gia VN và Quốc
tế đều kết luận đây chỉ là một chuyện tưởng tượng của Hồ Tuấn Hùng.
Nhân vật Hồ Chí Minh có phải là Nguyễn Tất Thành hay không thì chỉ
cần so sánh chữ viết trong đơn xin học Trường Thuộc địa vào năm 1911
với di chúc của Hồ Chí Minh năm 1968 thì cũng đủ xác định được
Nguyễn Tất Thành và Hồ Chí Minh chỉ là một người ( Thủ bút của
Nguyễn Tất Thành còn lưu lại trong hồ sơ lưu trữ Quốc gia Pháp, Hồ
sơ lưu trữ Mạc Tư Khoa, và hồ sơ lưu trữ Quốc gia Mỹ ).
Đặc biệt năm 1931, trước khi NTT bị bắt, có tới 21 thủ bút của
NTT còn lưu tại Văn khố Quốc gia Mỹ, được sử gia William Duiker phổ
biến năm 2.000. Và năm
1934, sau khi Nguyễn Tất Thành được thả, thủ bút của NTT còn lưu lại
trong bản khai lý lịch khi ông mới chạy về Mạc Tư Khoa.
Sau đó là thủ bút của ông trong thời gian theo học trường
Stalin. So sánh tự dạng
các thủ bút này thì NTT trước khi bị bắt và NTT sau khi được thả chỉ
là một người.
Năm 1945 thực dân Pháp đã nhận ra nhân vật Hồ Chí Minh do tình
báo Mỹ đưa từ Trung Hoa về nước lập chính quyền đúng là Nguyễn Tất
Thành. Họ đã lục lại tất
cả giấy tờ, hình ảnh và bút tích của nhân vật Nguyễn Tất Thành… và
rồi cuối cùng họ kết luận Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Tất Thành, con
trai út của cụ nghè Nguyễn Sinh Huy.
Kỹ thuật nhận dạng và điều tra căn cước của cảnh sát Pháp cho
tới nay vẫn thuộc vào hạng nhất thế giới.
(66) SỰ THỰC VỀ NHÂN VẬT HỒ TẬP
CHƯƠNG
( Trích trong bài viết “Lật lại vụ án Nguyễn Tất Thành bán
nước”, đã đăng trên Báo Tổ Quốc.
Nhắm giúp cho những người trẻ tuổi như Santhonytran hiểu thêm
về cách làm việc của các sử gia quốc tế ).
Nguyễn Tất Thành ra khỏi tù và chạy về Nga
lần 2
Năm 1932, ngày 20-4, báo L’Opinion tại Hồng Kông loan tin có
một người Việt Nam nhỏ bé có tâm hồn của một lãnh tụ đang bị suy
nhược vì lao lực trong nhà tù Hồng Kông.
Viên Lãnh sự Pháp tại Hông Kông là Soulange Teissier gởi thư
cho bộ Ngoại giao Pháp báo cáo rằng Nguyễn Ái Quốc ( Biệt danh mà
mật thám Pháp đặt cho Nguyễn Tất Thành từ năm 1922 ) đang bị bệnh
lao trong tù, tuy nhiên tình trạng bệnh có thể cứu chữa được.
*( Hồ sơ lưu trữ / Văn Khố Pháp; Hồ sơ mang số AOM,SPCE 368,
báo cáo của Chánh mật thám Pháp tại Sài Gòn ngày 19-11-1939
).
Năm 1932, ngày 16-5, Lâm Đức Thụ ( Điệp viên của Pháp, bạn
thân của Ngyễn Tất Thành ) gởi báo cáo cho mật thám Pháp, cho biết
ông ta vẫn nhận được tin tức về Nguyễn Tất Thành qua văn phòng của
luật sư Loseby là người đang nhận bào chữa cho Thành ( Hsltr/Quốc
gia Pháp; Hồ sơ mang số AOM,SPCE 368,).
Năm 1932, ngày 11-8, báo Daily Worker tại London loan tin
Nguyễn Ái Quốc ( Nguyễn Tất Thành ) đã chết trong trại tù Hồng Kông
vì bệnh lao phổi. Tuy
nhiên Lãnh sự Pháp tại Hồng Kong báo cho mật thám Pháp tại Hà Nội
rằng đó chỉ là tin đồn thất thiệt ( Tài liệu của Dennis J.Duncanson,
“Ho Chi Minh in Hong Kong, 1931-1932; trang 96 ).
Năm 1932, ngày 27-8, luật sư của Sung Man Cho (Tống Văn Sơ hay
là Nguyễn Tất Thành) và luật sư của nhà cầm quyền Hồng Kông đã thỏa
thuận với nhau về nơi đến của Sung Man Cho sau khi ông ta bị trục
xuất mà không cho tòa lãnh sự Đông Dương tại Hồng Kông biết (
Hsltr/Quốc gia Pháp; hồ sơ mang số AOM, SPCE 639 ).
Năm 1933, ngày 6-1, Nguyễn Tất Thành đến Singapore nhưng bị
chính quyền Singapore bắt vào ngày 11-1 vì tội di dân lậu rồi buộc
ông phải lên tàu trở lại Hồng Kông.
Tàu Thủy Ho Sang đưa ông đến bến Hồng Kông vào ngày 19-11;
cảnh sát đón ông tại bến tàu và lại tiếp tục giam ông về tội
di dân bất hợp pháp.
Năm 1933, ngày 20-1, để trả lời công điện của Mật thám Pháp
tại Đông Dương, Toàn quyền Hồng Kông gửi công điện cho biết Nguyễn
Tất Thành đã chết trong tù vì bệnh lao và nghiện thuốc phiện ( Hsltr
/Quốc gia Pháp; hồ sơ AOM,SPCE 639 ).
Năm 1933, ngày 15-2, báo Cahiers du Bolchévisme tại Mạc Tư
Khoa đăng tin đồng chí Nguyễn Ái Kvak ( NTT ) đã hy sinh trong nhà
tù Hồng Kong vào ngày 26-6-1932.
Sự thật về nhân vật Hồ Tập Chương
Sau khi được Toàn quyền Hồng Kong thông báo rằng Nguyễn Ái
Quốc ( Nguyễn Tất Thành ) đã chết thì mật thám Pháp khóa hồ sơ theo
dõi NAQ. Quả nhiên sau
đó hơn 10 năm họ hoàn
toàn không nhận được tin tức nào chứng tỏ NAQ còn sống.
Nhưng cho tới năm 1945 thì hồ sơ về NAQ ( Nguyễn Tất Thành )
được mở trở lại và mọi hình ảnh cũng như bút tích cho thấy Hồ Chí
Minh chính là nhân vật Nguyễn Tất Thành trước đây. Rồi đến năm 1948,
sau khi cuốn tự truyện của ông Hồ Chí Minh dưới tên Trần Dân Tiên
được phát hành thì rộ lên tin Nguyễn Tất Thành thật đã chết trong tù
từ năm 1932, còn Hồ Chí Minh chỉ là Nguyễn Tất Thành giả.
Vì vậy năm 1949, một thiếu tá tình báo Pháp tại Sở Cảnh sát
Sài Gòn đã tổng hợp các chứng liệu về Hồ Chí Minh thời 1932 và kết
luận rằng Chính quyền Hồng Kông tung tin NTT chết là để sử dụng NTT
làm điệp báo nhằm theo dõi hoạt động của CSQT tại Viễn Đông, bản
thân ông Thành muốn hoạt động bí mật tại Thái Lan với một tên khác (
Hsltr/Quốc gia Pháp ).
Cuối cùng vào năm 1969;
4 ngày sau khi ông Hồ Chí Minh chết , báo New York Time ngày
6-9-1969 đã đăng bài phỏng vấn bà vợ của luật sư Loseby ( Lúc này
ông Loseby đã chết ). Bà
Loseby xác nhận rằng tin Nguyễn Tất Thành bị chết trong tù là do
chính luật sư Loseby tung ra để đánh lạc hướng theo dõi của mật thám
Pháp, nhằm giúp cho NTT không bị mật vụ của Pháp theo dõi để bắt sau
khi ông ta được thả ra khỏi nhà giam. Trước đó mật thám Pháp cũng đã
làm như vậy đối với Hồ Tùng Mậu và Phan Đức, hai ông bị bắt và bị
dẫn độ về VN.
Sau xác nhận của bà Loseby, những khúc mắc về tin Nguyễn Tất
Thành chết năm 1933 đã được giải tỏa.
Nhưng đến năm 2008, tại Đài Loan có một giáo sử sử học tên Hồ
Tuấn Hùng cho xuất bản quyển sách “Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo”.
Theo giáo sư Hùng thì ông đọc trong sách của sử gia Quinn
Judge có ghi rằng báo Daily Worker ngày 11-8 loan tin Nguyễn Tất
Thành ( NAQ ) đã chết trong tù
Hồng Kông. Và sách của
sử gia William Duiker cho biết trong Văn khố quốc gia Pháp một công
điện của Toàn quyền Hồng Kông báo cho Mật thám Pháp tại Đông Dương
rằng NTT đã chết trong tù vì bệnh lao và nghiện thuốc phiện.
Căn cứ vào những điều trên, giáo sư Hồ Tuấn Hùng viết ra quyển
sách Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo với giả thuyết riêng của ông :
Đó là Nguyễn Tất Thành đã chết trong tù Hồng Kong, và tình
báo Trung Cộng đưa người khác vào thế vị trí của Nguyễn Tất Thành
hầu tiếp tục chỉ huy Đảng Cọng sản Đông Dương.
Người giả Nguyễn Tất Thành tên là Hồ Tập Chương, một người
sắc tộc Miêu ở Đài Loan, có bà con với giáo sư Hồ Tuấn Hùng.
Quyển sách được phát hành vài tháng thì
các sử gia VN và Quốc tế kết luận đây chỉ là một chuyện tưởng
tượng của Hồ Tuấn Hùng.
Nhân vật Hồ Chí Minh có phải là Nguyễn Tất Thành hay không thì
chỉ cần so sánh chữ viết trong đơn xin học Trường Thuộc địa vào năm
1911 với di chúc của Hồ Chủ tịch thì cũng đủ xác định được Nguyễn
Tất Thành, Paul Tất Thành, Nguyễn Ái Kvak, Trần Vương, Lý Thụy, Mai
Pín Thầu, Tống Văn Sơ, Hồ Quang, Hồ Chí Minh…cũng chỉ là một người (
Thủ bút của Nguyễn Tất Thành còn lưu lại trong hồ sơ lưu trữ Quốc
gia Pháp, Hồ sơ lưu trữ Mạc Tư Khoa, và hồ sơ lưu trữ Quốc gia Hoa
Kỳ ). *[ Xin xem ảnh BAT so sánh tuồng chữ của HCM ở cuối bài viết ]
Riêng năm 1931, trước khi NTT bị bắt, có tới 21 thủ bút của
NTT còn lưu tại Văn khố Quốc gia HK, được sử gia William Duiker phổ
biến năm 2.000. Và năm
1934, sau khi Nguyễn Tất Thành được thả, thủ bút của NTT còn lưu lại
trong bản khai lý lịch của NTT khi ông mới chạy về Mạc Tư Khoa.
BÙI ANH TRINH
Đôi lời của Bùi Anh Trinh:
Từ năm 2009 rất nhiều người hỏi tôi về chuyện “Hồ Chí Minh
giả”của giáo sư Hồ Tuấn Hùng.
Tôi chỉ biết trả lời rằng ông Bùi Tín đã vừa cười vừa nói
trên đài phát thanh BBC rằng : “Chuyện ông Hồ Chí Minh giả thì không
nên bàn đến nữa, các sử gia quốc tế họ đã nói rằng đây là chuyện
bịa”.
Lâu nay tôi ( BAT ) không muốn dính dáng đến chuyện này bởi vì
ngay từ đầu tôi đã biết đây chỉ là chuyện tầm phào.
Tuy nhiên giờ đây tôi phải lên tiếng bởi vì tôi thấy hình như
có ai đó muốn lợi dụng chuyện Hồ Tập Chương để nhằm vào một mục đích
đen tối khác :
Đó là phong trào tung tin “HCM là Hồ Tập Chương” trở lại,
nhưng không như là sách khảo cứu, mà như là một thứ tin vịt, tin vĩa
hè, tin tầm phào ( Hễ ai tin thì là có thật, còn ai không tin thì là
chuyện bịa ). Tuy là tin
bịa nhưng vẫn có kết quả là dần dần người ta kêu tên Hồ Tập Chương
thay thế tên HCM; rồi
người ta chửi Hồ Tập Chương và chửi người Tàu thay vì chửi Hồ Chí
Minh hay chửi ĐCSVN.
Cái lối chửi người Tàu thay vì chửi Trung Cọng khiến cho người
Hoa Đài Loan, người Hoa Pháp Luân Công, người Hoa Tây Tạng, người
Hoa Tân Cương, người Hoa Singapore, người Hoa Hồng Kong, người Hoa
Chợ lớn, người Hoa Indonesia, người Hoa tại Mỹ và khắp nơi trên thế
giới rất khó chịu. Họ là
những người chống cộng mà bị cố tình gom vào một rổ với Trung Cọng
thì họ không tội gì mà không quay ra thù nghịch với những người chửi
bới họ. Vô tình tự mình
“gây thù chuốc oán” một cách vô lối.
Dùng chữ “ba Tàu” để mạ lỵ Trung Cọng thì chỉ làm cho danh dự
của cộng đồng người Việt Quốc gia bị tổn thương mà thôi.
Ngày xưa người Việt Quốc gia luôn dùng chữ “Tàu Cọng” đê nói
về chính quyền Trung Cọng, nhằm tránh gây tổn thương cho người Hoa
tại TQ hay tại các nơi khác trên thế giới.
Còn ngày nay trong nước dùng chữ “Tàu chệt”, “Tàu khựa” thì
vô tình gom tất cả người Hoa vào một rổ với Tàu Cọng.
Sở dĩ người trong nước không dám gọi là Tàu Cọng bởi vì nó kỵ
húy đối với chính quyền Việt Cọng.
Vậy mà giờ đây người Việt chống cộng tại hải ngoại hình như
cũng có khuynh hướng muốn bắt chước người trong nước gọi là Tàu
chệt, Tàu khựa. Gọi như
vậy chỉ gây ác cảm với người Hoa chống cộng trên khắp thế giới và
gây mất thiện cảm của các dân tộc khác.
Rốt cuộc tự mình làm cho mất bạn và thêm thù.
Việt Cọng và Trung Cọng sẽ rất vui nếu người Việt chống cộng
trên khắp thế giới tự gây thù chốc oán với người Hoa chống cộng trên
khắp thế giới; điều này
cũng làm mất đi thiện cảm của quốc tế đối với công cuộc chống cộng
của người Việt.
BÙI ANH TRINH
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *