* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-07/2008 -08/2008 -09/2008 -10/2008 -11/2008 -11/2008
-12/2008 -01/2009 -02/2009 -03/2009 -04/2009 -05/2009
-06/2009 -07/2009 -08/2009 -09/2009 -10/2009 -11/2009
-12/2009 -01/2010 -03/2010 -04/2010 -05/2010 -06/2010
-07/2010 -08/2010 -09/2010 -10/2010 -11/2010 -12/2010
-01/2011 -02/2011 -03/2011 -04.2011 -05.2011 -06.2011
-07/2011 -08/2011 -09/2011 -10/2011 -11/2011 -12/2011
-05/2012 -06/2012 -12/2012 -01/2013 -12/2013 -03/2014 -09.2014 -10.2014 -12/2014 -03/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2016 -02/2016 -03/2016 -07/2016 -08/2016
-09/2016 -10/2016 -11/2016 -12/2016 -01/2017 -02/2017
-03/2017 -04/2017-05/2017 -06/2017 -07/2017 -08/2017
-09/2017 -10/2017 -11/2017 -12/2017-01/2018 -02/2018
-03/2018 -04/2018 -05/2018 -06/2018 -07/2018 -08/2018
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. Mar/2017.
Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017. Jul/2017. Aug/2017.
Sep/2017. Oct/2017. Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018.
Feb/2018. Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018. Nov/2018.
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT - EPOCH
Thư liên lạc
trinh bui
<trinhbui49@yahoo.com>
14:24, 16 thg 7,
2019 (4 ngày trước)
tới tôi
Bạn hiền thân
mến,
Chỉ qua một đôi
câu trao đổi, tao có cảm nghĩ là mày đang muốn một thứ lịch sử không
phải của các sử gia, bởi vì các sử gia đều viết theo thiên kiến của
chế độ mà họ đang phục vụ.
Vậy thì tao thử
gửi đến cho mày một cách nhìn lịch sử của cá nhân tao mà tao nghĩ nó
đúng như ý của mày.
Tao không phải
là một sử gia cho nên tao không hề sáng tác ra lịch sử.
Mà tao chỉ là một người đọc lịch sử, nhưng mà tao
đọc thiên kinh vạn quyển;
cho nên kinh nào, quyển nào nói mà tao tin được thì
tao cho nó vào kho kiến thức của mình, cái nào không tin thì tao
thẳng tay loại bỏ.
Sau đây là loạt
bài “Biên Khảo Về Nguyễn Tất Thành” mà tao đã đăng trên net. Tao
nghĩ trước là mày coi để hiểu hơn về ý hướng của tao.
Sau nữa là mày có thể giữ nó như một tài liệu lịch
sử để viết bài.
http://quanvan.net/bui-anh-trinh-bien-khao-ve-nguyen-tat-thanh/
Ngoài ra, để mày
hiểu hơn về cái nhìn của tao đối với con người của mày, tao gởi đến
mày 2 bài viết về Bảy Viễn và một bài về Tướng Nguyễn Ngọc Loan,
những con người mà tao cho là hảo hớn. Trong khi những sử gia của
các chế độ thì không khi nào có cái nhìn đúng về những nhân vật hảo
hớn của lịch sử.
https://vietcongonline.wordpress.com/2014/10/27/bui-anh-trinh-luc-luong-viet-minh-binh-xuyen/
https://vietcongonline.wordpress.com/2015/02/05/tuong-nguyen-ngoc-loan-triet-nhan-dieu-doi/
Tao rất vui khi
gặp lại mày và được biết “anh hùng vẫn chưa thấm mệt”. Tao vẫn theo
dõi hoạt động của mày từ ngày tao ra khỏi trại tù và bắt lại được
tin tức của mày.
Giờ đây gặp lại tao thấy mày vẫn là thằng bạn mà tao đã
mến mộ từ hồi nào tới giờ.
BÙI ANH TRINH
BIÊN KHẢO VỀ NGUYỄN TẤT THÀNH
Lịch sử chính trị
của Việt Nam trong gần 80 năm qua quy tụ xung quanh hoạt động của
nhân vật Hồ Chí Minh, do đó chỉ cần dựng lại bối cảnh 50 năm hoạt
động của ông Hồ Chí Minh thì kể như là giải thích toàn bộ mọi biến
chuyển khó hiểu của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20.
Một khi đã nói lên
sự thật trái ngược với
những sách vở trước kia thì không thể nào tránh khỏi đụng chạm tới
những nhân vật từng có nhiệt tâm với lịch sử, nhiệt tâm với đất
nước. Và cũng không
tránh khỏi được chuyện phải phản bác những luận thuyết từng thống
trị diễn đàn chính trị từ trước tới nay, phía bên này cũng như phía
bên kia.
Giờ đây đã tới lúc
phải trả lại sự thật cho lịch sử, nghĩa là phải chỉnh lại các quyển
sách lịch sử chính trị Việt Nam hiện được dùng để giảng dạy tại các
đại học Pháp, Hoa Kỳ cũng như tại Việt Nam.
Bởi vì những sách này hoàn toàn lỗi thời so với những tài
liệu mới đựoc giải mã và các hồi ký của những người trong cuộc mới
được đưa ra công khai trong vòng hai thập niên vừa qua.
BÙI ANH TRINH
(1) LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử chính trị
của Việt Nam trong gần 80 năm qua quy tụ xung quanh hoạt động của
nhân vật Hồ Chí Minh, do đó chỉ cần dựng lại bối cảnh 50 năm hoạt
động của ông Hồ Chí Minh thì kể như là giải thích toàn bộ mọi biến
chuyển khó hiểu của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20.
Nhưng mọi hoạt động
của ông Hồ Chí Minh chỉ trở nên rõ ràng sau khi các quốc gia liên
quan lần lượt cho giải mã các hồ sơ mật :
– Hồ sơ mật của Quốc
Dân Đảng Trung Hoa được sử gia Tưởng Vĩnh Kính phổ biến năm 1972.
Hồ sơ mật của Văn khố Quốc Gia Pháp được các sử gia Nguyễn
Thế Anh, Vũ Ngự Chiêu, Daniel Hémery, Philippe Devillers phổ biến
vào các năm cuối thập niên 80.
– Hồ sơ cảnh sát
Thượng Hải được sử gia William Duiker phổ biến năm 1990. Hồ sơ Bộ
Quốc phòng Hoa Kỳ được Archimedes Patti phổ biến năm 1986.
Hồ sơ mật của Văn khố Quốc gia Trung Quốc do Quang Zhai phổ
biến năm 1993, Chen Jian và Viện nghiên cứu lịch sử ĐCSTQ phổ biến
cùng năm 2.000. Hồ sơ
mật của Cọng sản Quốc tế được sử gia Quinn Judge phổ biến năm 1994.
Và hồ sơ mật của ĐCS Tiệp Khắc được sử gia Christopher Goscha
phổ biến năm 2003.
Trong khoảng thời gian các hồ
sơ mật về Việt Nam lần lượt được giải mã thì tập tài liệu “Chuyện
Nước Non” này cũng lần lượt được biên soạn và gởi về cho thanh niên
ở trong nước, từ năm 1997 cho đến năm 2007.
Các hồ sơ mật cũng đã được đối chiếu cẩn thận với :
–
Tự truyện của ông Hồ Chí Minh dưới bút danh Trần Dân Tiên và
T.Lan; đối chiếu với hồi
ký “Một Cơn Gió Bụi” của Thủ tướng Trần Trọng Kim, hồi ký “Những Kỷ
Niệm Về Bác Hồ” của Hoàng Tùng; hồi ký
“Giọt Nước Trong Biển Cả” của Ủy viên bộ chính trị Hoàng Văn
Hoan; hồi ký “Làm Người Khó” của Phó thủ tướng Đoàn Duy Thành; hồi
ký “Những Kỷ Niệm Về Lê Duẩn” của Phó thủ tướng Trần Quỳnh; hồi ký
“Nói Với Mẹ và Quốc hội” của Nguyễn Văn Trấn;
–
Hồi ký “Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên; các bút ký “Hoa
Xuyên Tuyết”, “Mặt Thật”, Mây Mù Thế Kỷ”
của Đại tá Bùi Tín, hồi ký “Theo Bước Chân Lịch Sử” của Ủy
viên Bộ Chính trị Mai Chí Thọ; các hồi ký “Những Năm Tháng Không
Quên”, “Đường Tới Điện Biên Phủ”, “Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử”,
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; hồi ký “Những Năm Tháng Quyết Định”
của Đại tướng Hoàng Văn Thái;
hồi ký “Đổi Mới, Niềm Vui Chưa Trọn” của Trung tướng Trần Độ;
hồi ức “Từ Đồng Quan đến Điện Biên” của Đại tướng Lê Trọng Tấn;
Người sưu tập cũng
đã tham khảo kỹ càng với :
–
Bộ Việt Sử Tân Biên của Sử gia Phạm Văn Sơn; tài liệu “Quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” của Chính phủ Hà Nội do
Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết;
tài liệu quân sử Trung Quốc do Dương Danh Di dịch;
–
Tài liệu “Việt Nam, Những Sự Kiện Lịch Sử” của Dương Trung
Quốc; tài liệu
“Almanach, Những Sự Kiện Lịch Sử Việt Nam” của Phạm Đình Nhân;
tài liệu biên khảo của Nha Quân sử VNCH; tài liệu của Viện sử
học Hà Nội; tài liệu của
Trung tâm UNESCO tại Hà Nội; tài liệu của Nhà xuất bản Công an Nhân
Dân;
–
Tài liệu biên khảo của sử gia VNCH Vũ Ngự Chiêu; các sử gia
Pháp là Philipper Devillers, Jean Lacouture, Daniel Heimer; các sử
gia Hoa Kỳ là Bernard Fall,
William Duiker, Quinn Judge, Christopher Giebel, Quang Zhai,
King Che Cheang; các sử gia Trung Hoa là Hoàng Tranh, Tưởng Vĩnh
Kính; Sử gia Canada Christopher Goscha; và tài liệu biên khảo của
các nhà nghiên cứu sử Hoàng Xuân Hãn,
Lê Xuân Khoa, Lê Trọng Quát, Minh Võ, v.v…
Bởi vì
viết cho thanh niên trong nước cho nên phải dẫn chứng bằng
các tài liệu hiện có trong nước và dẫn dắt tùy theo trình độ hiểu
biết về chính trị của những người lớn lên trong chế độ CSVN.
Tuy nhiên, vì các tài liệu trong nước đều là giả mạo cho nên
cần phải điều tra lại từng sự kiện bằng cách đối chiếu với những tài
liệu mật mới được bạch hóa trong văn khố quốc gia của nước Pháp, Hoa
Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc, Đài Loan, Tiệp Khắc.
Sau đó lại còn phải điều tra xem CSVN giả mạo ở chỗ nào và vì
sao việc giả mạo vẫn đánh lừa được mọi người.
Do đó vấn đề tìm
hiểu lịch sử trong giai đoạn vừa qua đòi hỏi phải có phương pháp và
thật khoa học, giống như điều tra lại một vụ án đã xảy ra rất lâu
trong quá khứ, căn cứ trên các sự kiện công khai còn ghi lại trên
báo chí, trong các hồ sơ lưu trữ thời đó hay các hồ sơ mật mới được
giải mã sau này.
Rồi tổng hợp và giải đoán các chứng cứ để dựng lại diễn biến thời
cuộc bằng tâm lý của quần chúng hay tâm lý của mỗi nhân vật lãnh đạo
hay một nhóm lãnh đạo, sau đó kiểm chứng lại bằng cách đối chiếu với
những lời thú nhận sau này của các nhân vật trong cuộc để chọn lấy
một kết luận hợp lý nhất.
Ngoài ra, lịch sử
Việt Nam trong thời 100 năm qua là một chuỗi dài chiến đấu cho nên
người nghiên cứu lịch sử chính trị Việt Nam cần phải có trình độ
hiểu biết về “quân sự học” và phải có kinh nghiệm hoạt động cách
mạng, tức là kinh nghiệm hoạt động bí mật trong giai đoạn cứu nước.
Nếu không có kinh
nghiệm về “tham mưu hành quân” và không có kinh nghiệm hoạt động bí
mật thì không thể nào giải đoán nổi các sự kiện khó hiểu trong thời
chiến tranh hoặc trong thời kỳ tranh đấu bí mật.
Do đó muốn viết về lịch sử chính trị Việt Nam thì cần phải có
con mắt nhìn chiến lược.
Nghĩa là nhìn từ tình hình chung của thế giới đã dẫn đưa tới từng
biến động của Việt Nam;
và nhìn từ vị trí lãnh đạo cao nhất nhìn xuống đến vị trí tận cùng
là đa số quần chúng, kể cả người dân ở nông thôn hay miền núi.
Từ trước đến nay
lịch sử chính trị Việt Nam được viết bởi những nhà văn hoặc các giáo
sư dạy sử, tuy nhiên các giáo sư này chỉ căn cứ vào những tài liệu
giảng dạy tại các đại học quốc gia Pháp và Hoa Kỳ.
Nhưng những tài liệu này đã được biến hóa theo đơn đặt hàng
của các thế lực chính trị trong nước của họ.
Do đó người sưu tập
tài liệu này đề cử một lối nhìn hoàn toàn khác về lịch sử chính trị
của Việt Nam, căn cứ trên suy nghĩ của dân chúng, những mong muốn
của dân chúng, những quyết định của dân chúng;
chứ không quan tâm đến những quyết định của các đảng phái hay
các lãnh tụ chính trị.
Bởi vì thực ra các quyết định của các lãnh tụ chính trị chỉ là nhằm
đối phó trước áp lực của các nước lớn trong kế hoạch toàn cầu của
họ. Hay nói cách khác,
các lãnh tụ chính trị Việt Nam chỉ là con cờ trong kế hoạch nhất
thời của các nước lớn.
Người viết tập tài
liệu này rất cám ơn nếu như có ai phản bác những điều không đúng có
trong tập tài liệu; hoặc
bổ sung những thiếu sót có thể đưa tới hiểu sai lịch sử hoặc đưa tới
kết luận oan uổng cho một nhân vật lịch sử,
nhất là những nhân vật lịch sử của phía CSVN.
Chỉ xin một điều là
những chi tiết bổ sung phải là những tài liệu đã được quảng bá, có
thể kiểm chứng. Và không
phải là những chi tiết
“nghe nói rằng”. Ví dụ
như tài liệu về cô Nông Thị Xuân do ông Vũ Thư Hiên và Nguyễn Minh
Cần đã công bố. Dư luận
đánh giá cao uy tín và sự chân thực của hai
ông nhưng không thể kết luận đó là sự thật bởi vì chuyện này
cả hai ông đều “nghe nói rằng”.
Cho nên đành phải chờ đợi những bằng chứng khác.
Còn trong hiện tại thì vẫn coi như là chuyện đó không có.
Một khi đã nói lên
sự thật trái ngược với
những sách vở trước kia thì không thể nào tránh khỏi đụng chạm tới
những nhân vật từng có nhiệt tâm với lịch sử, nhiệt tâm với đất
nước. Và cũng không
tránh khỏi được chuyện phải phản bác những luận thuyết từng thống
trị diễn đàn chính trị từ trước tới nay, phía bên này cũng như phía
bên kia.
Giờ đây đã tới lúc
phải trả lại sự thật cho lịch sử, nghĩa là phải chỉnh lại các quyển
sách lịch sử chính trị Việt Nam hiện được dùng để giảng dạy tại các
đại học Pháp, Hoa Kỳ cũng như tại Việt Nam.
Bởi vì những sách này hoàn toàn lỗi thời so với những tài
liệu mới đựoc giải mã và các hồi ký của những người trong cuộc mới
được đưa ra công khai trong vòng hai thập niên vừa qua.
BÙI ANH TRINH
(2) THUỞ THIẾU THỜI
Trò Nguyễn Sinh Cung
Theo công bố của Phủ
Chủ tịch nước thì ông Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890.
Sở dĩ Phủ Chủ tịch công bố ngày 19 tháng 5 là ngày sinh nhật
của Hồ Chí Minh là vì ngày đó năm 1946 ông Hồ Chí Minh phải rước Cao
uỷ Pháp D’Argenlieu đến Hà Nội theo như hiệp ước mà ông đã ký với
Pháp. Nếu treo cờ đón
phái đoàn Pháp thì sẽ gây phẫn nộ trong dân chúng, ông giả công bố
đó là ngày sinh nhật của Chủ tịch nước .
Một số sử gia ghi
rằng “theo hồ sơ lưu trữ tại Văn Khố Hải ngoại Pháp” thì ngày sinh
của Nguyễn Tất Thành là 15-1-1895.
Đó là ngày sinh ghi trong chiếu khán của nhà cầm quyền Đức
cấp cho Nguyễn Tất Thành để đi Nga.
Hộ chiếu đề ngày 16-6-1923 có dán hình của Nguyễn Tất Thành
nhưng tên là Cheng Vang (Trần Vương).
Tuy nhiên chiếu khán này căn cứ theo giấy tờ do Nguyễn Tất
Thành đệ nạp. Ông đã lấy
tên giả thì dĩ nhiên ngày sinh tháng đẻ cũng là giả.
Theo đơn ông xin
theo học trường Thuộc Địa tại Pháp năm 1911 thì năm sinh là 1892.
Còn theo như tài liệu của Sở Liêm phóng (mật vụ) Pháp sưu tra
tại trường Quốc Học Huế thì hồ sơ xin nhập học ghi trò Nguyễn Sanh
Côn, sinh ngày 24-1-1892.
Tài liệu của mật thám Pháp ghi trò Côn gốc Nghệ An trước đó
đã học trường Pháp Nam Thừa Thiên, được đặc ân vào trường Quốc Học
Huế niên khóa 1908-1909.
Ngoài ra còn có một
tài liệu của mật thám Pháp cho biết năm sinh của Nguyễn
Sanh Côn được ghi trong sổ Đinh bạ của làng Kim Liên là năm
1894. Tuy nhiên so lại
với tự truyện của ông Hồ Chí Minh viết dưới tên Trần Dân Tiên thì
ông đã từ chối lời mời tham gia chính trị của cụ Phan Bội Châu trước
khi cụ xuất ngoại vào năm 1905.
Do đó nếu ông sinh
năm 1894 thì lúc từ chối lời mời của cụ Phan ông mới có 11 tuổi, còn
quá nhỏ để bàn chuyện chính trị với cụ Phan.
Vả lại cũng trong tự truyện này ông có cho biết là sinh năm
1890. Vậy thì năm sinh 1890 được xem là có lý hơn cả.
Năm 1922, khi mật
thám Pháp bắt đầu theo dõi nhân vật tên Nguyễn Ái Quốc trong giới
Việt kiều tại Paris thì họ phăng lần ra Paul Tất Thành hay Nguyễn
Tất Thành là con ông Nghè Nguyễn Sinh Huy.
Họ chỉ thị cho mật thám Pháp tại Trung Kỳ Việt Nam truy lục
lý lịch của Nguyễn Tất Thành tại làng Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh
Nghệ An.
Các viên chức trong
làng đều gọi cha của Tất Thành là ông Nghè Nguyễn Sanh Huy.
Trong chữ Hán thì chữ “sinh” thường được người “Đàng Trong”
(Tức là người Miền Trung hay Miền Nam) đọc là “sanh” cũng như chữ
“chính” thường được người Miền Trung hay Miền Nam đọc là “chánh”,
chữ “tính” đọc là “tánh”, chữ “lĩnh” đọc là “lãnh”…
Ngoài ra hầu hết các
tài liệu của mật thám Pháp thường ghi tên thủa nhỏ của ông Thành là
“Nguyễn Sanh Côn” vì họ ghi theo cách phát âm của các viên chức
chính quyền địa phương thời bấy giờ.
Còn nếu phát âm theo kiểu Hà Nội là Nguyễn Sinh Cung.
Cha của Nguyễn Sinh
Cung tên là Nguyễn Sinh Sắc, tên tự là Nguyễn Sinh Huy, thi đỗ Tiến
sĩ năm 1901. Mãi đến năm
1906 mới được bổ làm Thừa biện bộ Lại cùng một lượt với ông Nghè
Hoàng Đại Bỉnh. Chức
Thừa biện của cụ Sắc chưa phải là một chức quan, nếu lên thêm một
bậc mới là quan. Do đó
mức sống của gia đình cụ trong thời gian này cũng rất thanh bạch.
Tháng 9 năm 1909
Nguyễn Sinh Huy được cử làm tri huyện An Khê tỉnh Bình Định.
Đến tháng giêng năm 1910 vì lỡ tay đánh chết một phạm nhân
trong lúc say rượu, ông bị cách chức ( Hsltr/Quốc gia Pháp, báo cáo
điều tra của cơ quan mật thám Pháp tại Trung Kỳ gởi cho cảnh sát
Paris về cha của NTT ), lúc này bà Sắc đã mất.
Có lẽ lúc làm quan rất thanh liêm nên khi mất chức ông sống
chật vật, ông đem các con vào Huế vừa dạy học, vừa làm nghề thuốc
Bắc.
Nhưng đời sống khó
khăn cho nên cuối cùng ông tìm cách vào Nam mưu sinh, ông gởi con
cho ông nghè Võ Văn Giáp nhờ chăm nom giùm.
Cụ Giáp cho người con cả là Nguyễn Sinh Khiêm, tên tự là
Nguyễn Tất Đạt; và cô
gái thứ là Nguyễn Thị Thanh, tên tự là Nguyễn Thị Kim Liên; cùng học
nghề thuốc bắc. Còn
Nguyễn Sinh Cung, tên tự là Nguyễn Tất Thành, được hội tương tế Nghệ
Tĩnh giúp đỡ học tiếp ở trường Quốc Học ( Hồi ức của ông Võ Như
Nguyện, giáo sư Nguyễn Lý Tưởng ghi ).
Năm 1910, cuối năm,
nhân dịp Toàn quyền Pháp cho xử lại vụ án Phan Chu Trinh, Cung tham
gia biểu tình đòi tha Phan Chu Trinh rồi sau đó trốn luôn vì sợ bị
bắt, ông lên đường vào Nam mong tìm gặp cha của mình.
Ngang Long Hương Phan Thiết ông ghé hỏi thăm cha tại nhà ông
Nghè Trương gia Mô, cụ Mô không biết tin tức về cụ Sắc nhưng khuyên
Cung nên lưu lại Phan Thiết trong khi chờ dò tin của cha mình.
Cung lưu lại Duồng,
Phan Thiết một thời gian rồi xin dạy học ở trường Dục Thanh Phan
Thiết, tại đây ông có dịp làm quen với các thương buôn hải ngoại
thường ghé bến Phan Thiết lấy hàng, từ đó ông có ý xuất dương.
Lúc dạy học ông lấy tên tự của mình làm giấy tờ là Nguyễn Tất
Thành (Tài liệu của báo
Thanh Niên thành phố Hồ Chí Minh, báo này do Trần Bạch Đằng sáng lập
và làm việc trong ban biên tập).
* Chú giải : Ông
nghè Trương Gia Mô là cha của ông Trương Gia Kỳ Sanh và là ông nội
của ông Trương Gia Triều tức Trần Bạch Đằng.
Cụ Mô cùng học trường Quốc tử giám với ông Nghè Nguyễn Sinh
Sắc và hai ông cùng đỗ tiến sĩ với Phan Chu Trinh vào năm 1901.
Năm 1905 Phan Chu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đi thăm các tỉnh Miền Nam.
Đến Phan Thiết các ông ghé lại nhà ông Trương Gia Mô thì Phan
Chu Trinh bị bệnh phải ở lại dưỡng bệnh.
Sau khi hết bệnh Phan Chu Trinh tiếp tục đi thăm Miền Nam và
trở về năm 1906.
Cụ Mô bị Pháp bắt
giam trong vụ nổi dậy chống thuế năm 1908.
Trường Dục Thanh là trường học do cụ Mô cùng Hồ Tá Bang và
Nguyễn Trọng Lôi hưởng ứng lời kêu gọi của Phan Chu Trinh mà lập ra.
Ngoài trường Dục Thanh, các ông còn lập ra hãng nước mắm Liên
Thành tại Phan Thiết.
Chuyện dạy học tại
trường Dục Thanh là do tác phẩm “Bác Hồ” (trang 23) của Hoài Thanh
và Thanh Tịnh viết ra chứ trong 2 tự truyện của ông Nguyễn Tất Thành
không hề nhắc tới. Tuy
nhiên ông Hồ Tá Khanh là con trai của chủ nhân trường Dục Thanh cho
biết thì gia đình ông không nhớ ra nhân vật NTT.
Truy lại hồ sơ các giáo viên tại trường cũng không có, nhưng
em gái của ông Khanh cho biết có nhiều người chỉ dạy thêm trong một
mùa hè nên không nhớ được.
Trước khi tài liệu
của Bộ Hải Ngoại Pháp được giải mã vào năm 1980 thì có hai nhà báo
nổi tiếng của Pháp đã đến Hà Nội phỏng vấn các lãnh tụ CSVN cũng như
phỏng vấn ngay cả Hồ Chí Minh để viết về tiểu sử của Hồ Chí Minh.
Nhà báo Jean Lacouture đến Hà Nội vào tháng 11 năm 1961 và
nhà báo Bernard Fall đến Hà Nội vào tháng 7 năm 1962.
Tuy nhiên các câu trả lời phỏng vấn đều xác nhận lại những gì
do Viện nghiên cứu lịch sử Đảng đã từng công bố.
Theo đó thì cụ
Nguyễn Sinh Sắc đã từ quan vào năm 1908 để phản đối chính sách cai
trị của Pháp. Và NTT bỏ
học vào năm 1908 vì tham gia biểu tình chống thuế do Phan Chu Trinh
phát động. Ông Phạm Văn
Đồng có cho Bernard Fall biết rằng ông Hồ Chí Minh rời trường Quốc
Học Huế vào năm 1910 mà không có bằng cấp gì.
Đến năm 1980 tài
liệu mật của Bộ Hải Ngoại Pháp được giải mã, sử gia Daniel Hémery
của Pháp cho công bố những báo cáo của mật thám Đông Dương về ông
Nguyễn Tất Thành thì mọi người mới biết rằng cụ Sắc bị cách chức vì
lỡ tay đánh chết tội nhân trong lúc say rượu vào năm 1910.
Sau này lãnh tụ Cọng
sản Hoàng Tùng là người thân cận của Hồ Chí Minh cũng xác nhận
chuyện này trong hồi ký của ông.
Hoàng Tùng giải thích tai nạn xảy ra do cụ Sắc ra lệnh đánh
tội nhân bằng roi vì người này can tội trộm cắp;
tuy nhiên không ngờ là tội nhân này đang bị bệnh sẳn nên
không chịu nỗi đòn roi mà chết.
Có lẽ Hoàng Tùng tự ý bào chữa cho cụ Sắc chứ không chắc
Hoàng Tùng biết rõ chuyện này bởi vì nếu đúng là tai nạn thì triều
đình đã không cách chức cụ Sắc.
BÙI ANH TRINH
(3) SINH SỐNG TẠI PHÁP
Ra đi “tìm đường cứu
nước”
Năm 1911, tháng 7,
Nguyễn Tất Thành được một người làm việc trên một tàu buôn hải ngoại
cho biết một hãng buôn ở Sài Gòn đang cần người làm trên tàu và viết
thư giới thiệu đưa cho Nguyễn Tất Thành.
Ông cầm thư giới thiệu vào Sài Gòn xin một chân giúp việc
trên chiếc tàu Pháp mang tên Amiral Latouche Tréville để qua Pháp.
Đến Marseille ông
nộp đơn xin theo học trường thuộc địa của Pháp, trường École
Colonial, đơn đề ngày 15-9-1911 nhưng bị từ chối vì không đủ tiêu
chuẩn.
* Chú giải :
Năm 1983 sử gia Vũ Ngự Chiêu từ Mỹ sang Pháp để nghiên cứu
các tài liệu của mật thám Pháp vừa mới được giải mã.
Ông cùng giáo sư Nguyễn Thế Anh phát hiện ra nguyên bản đơn
xin vào học trường Thuộc Địa đề tên Nguyễn Tất Thành.
Hai ông bèn công bố các tài liệu này trong tác phẩm “Một Ngôi
Trường Khác Của Nguyễn Tất Thành”.
Vũ Ngự Chiêu kết tội
Nguyễn Tất Thành là muốn làm tay sai cho Pháp vì trường Thuộc
Địa là trường chuyên đào tạo những chuyên viên cai trị ở các xứ
thuộc địa. Tuy nhiên có thể ông Thành ghi câu đó hoàn toàn trái
ngược với lòng của ông. Nếu ông có được bất cứ một học bổng nào để
được ở lại nước Pháp thì tốt hơn hết, lá đơn này chỉ là đơn xin cầu
may chứ không phải là một mục đích tối hậu.
Ông Phan Chu Trinh
cũng rơi vào trường hợp tương tự.
Năm 1911 ông sang Pháp và được cấp tiền trong 6 tháng để “tìm
hiểu về nước Pháp”, ai biết ông nghĩ gì trong lòng vào lúc đó.
Nhưng chắc chắn ông không tìm hiểu nước Pháp để phục vụ cho
người Pháp; mà trái lại,
để cứu nước Việt Nam khỏi tay của người Pháp.
Về phần các sử gia
tuyên huấn CSVN thì năm 1999 họ đã gởi cho Cơ quan Văn hóa Liên Hiệp
quốc (UNESCO) một tập tài liệu mang tựa đề là “Bác Hồ, Những Năm
Tháng Ở Nước Ngoài” sau đó in thành sách với tên của người chủ biên
là Đặng Hòa. Trong đó
ông Hòa cho rằng sở dĩ có bức thư xin học trường Thuộc Địa là do ông
Thành mới chân ướt chân ráo bước lên đất Pháp được ông Nguyễn Thế
Truyền bày cho cách xin vào học trường Thuộc Địa để kiếm sống trong
giai đoạn đầu tại Pháp.
Tuy nhiên sự thực
năm 1911 Nguyễn Thế Truyền mới 13 tuổi và mới qua Pháp được một năm,
không đủ hiểu biết để có thể bày xúi cho một người lạ đã 21 tuổi.
Ông Truyền chỉ làm quen với ông Thành vào năm 1917, lúc đó
ông Truyền đã 19 tuổi, đang là một sinh viên hoạt động chính trị và
đã gia nhập Đảng Xã Hội Pháp.
Năm 1912, ngày 15
tháng 12, sau khi đơn xin học bị từ chối, ông Nguyễn Tất Thành đổi
tên Pháp là Paul Tất Thành, tiếp tục làm việc trên tàu buôn, không
biết ông đi đến bao nhiêu quốc gia nhưng ngày nay người ta lục được
trong Hồ sơ Văn khố Pháp một lá thơ ông gửi cho Khâm sứ Trung Kỳ để
xin một việc làm cho cha của mình, ký tên là Paul Tất Thành, con của
Tiến sĩ Nguyễn Sinh Huy, đề ngày 15-12-1912 gởi đi từ New York, Hoa
Kỳ.
Với lá đơn này cho thấy ông vẫn còn tin
tưởng vào chính quyền thuộc địa, ít ra ông cũng không căm thù gì họ.
Điều này có thể chứng tỏ được rằng
lúc ông ra đi thì chưa có ý nghĩ cứu nước.
Và cũng chứng tỏ cụ Sắc không phải
từ quan vì chống Pháp.
Năm 1914, Paul Tất
Thành gởi cho Phan Chu Trinh lần lượt 2 tấm bưu thiếp và 1 lá thư.
Địa chỉ nơi gửi là Luân Đôn.
Cảnh sát Pháp đã tịch thu được những thư này trong dịp khám
nhà bắt giam Phan Chu Trinh năm 1915. Trong thư Thành gọi Phan Chu
Trinh bằng bác, gọi con của Phan bằng em.
Tài liệu này được
lưu giữ trong hồ sơ của mật thám Pháp theo dõi Phan Chu Trinh.
Lúc đó mật thám Pháp có yêu cầu cảnh sát Anh điều tra về nhân
vật Paul Tất Thành tại Luân Đôn nhưng cảnh sát Anh cho biết không
tìm ra địa chỉ này.
Có thể Thành chỉ ghé
Luân Đôn khi tàu của ông cập bến và gởi bưu thiếp cho PCT với địa
chỉ tạm. Trong một tấm bưu thiếp năm 1914 ông có viết “ …xin bác trả
lời liền cho cháu vì chừng trong tuần lễ cháu sẽ xuống Tàu đi “chưa
biết đi đâu”. Câu này
chứng tỏ có thể ông viết trong thời gian tàu của ông ghé bến Luân
Đôn, rồi sau đó 1 tuần thì tiếp tục đi nhưng ông chỉ là nhân viên
trên tàu nên chưa biết đi đâu .
Sinh sống
tại Paris
Năm 1917 Nguyễn Tất
Thành quay trở lại Pháp và lên Paris tìm gặp Phan Chu Trinh. Thời đó
PCT bắt đầu hoạt động trở lại sau khi bị bắt giam từ năm 1915 đến
1916 vì bị gán cho là hoạt động gián điệp cho Đức.
Phan Chu Trinh giới thiệu Tất Thành vào học việc trong tiệm
chụp hình của ông Khánh Ký mà Phan Chu Trinh đang làm, đồng thời
giới thiệu cho luật sư Phan Văn Trường nhận Thành làm gác dan cho
căn biệt thự của Phan
Văn Trường tại số 6 đường Gobelins, lúc đó luật sư Trường đang làm
việc tại tỉnh Mayence.
Tại nhà của luật sư
Trường, Thành thường gặp Nguyễn Thế Truyền là một sinh viên, đảng
viên đảng Xã Hội Pháp cùng hoạt động cách mạng với Phan Văn Trường.
Sau thời gian 2 năm, Truyền giới thiệu cho Thành vào đảng Xã
Hội.
*Chú
giải :
Ông Phan Văn Trường
là con của một nhân viên Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, du học tại Pháp, đỗ Cử
Nhân Luật năm 1912, lập hội “Đồng Bào Thân Ái”tại Paris.
Năm 1913 làm Luật sư tại Tòa Phá án Paris.
Năm 1913 chính phủ Pháp buộc Trường phải giải tán hội Đồng
Bào Thân Ái.
Năm 1914 cùng Phan
Chu Trinh lập hội “Ái Quốc Đông Dương”, bị mật thám theo dõi rất
gắt. Cũng trong năm này
bị động viên tham gia chiến tranh Thế chiến với cấp bậc Trung sĩ,
sau đó lại bị bắt giam cùng Phan Chu Trinh vì chính quyền nghi hai
ông có thể theo Đức chống Pháp nên bắt phòng ngừa.
Giữa năm 1915 được
thả. Từ năm 1919 cùng
với Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và Tất Thành
hoạt động ngầm, kêu gọi lòng ái quốc trong giới kiều bào tại Pháp.
Năm 1923 về nước hoạt động công khai, cùng với Nguyễn An Ninh
ra tờ “Tiếng Chuông Rè” là tờ báo đối lập với chính quyền Thuộc địa.
Ông Nguyễn Thế
Truyền là một nhân vật thật đặc biệt trong lịch sử cách mạng Việt
Nam, xuất thân là con nhà giàu cự phú ở Hà Nội, được gia đình cho du
học trung học rồi đại học tại Pháp và tốt nghiệp kỹ sư hóa học năm
1920 ( mới 22 tuổi), sau đó tiếp tục học cao học xã hội tại Đại học
Sorbonne, năm 1923 trình luận án tiến sĩ.
Nhưng ông lại có quan điểm cách mạng triệt để, ông luôn luôn
tranh đấu cho công bằng xã hội, đặc biệt là cho giai cấp nông dân
VN, ông gia nhập Đảng Xã hội Pháp
thuở còn là sinh viên tại Toulouse và chính ông giới thiệu
Nguyễn Tất Thành vào đảng (Truyền nhỏ hơn
Thành 8 tuổi).
Năm 1920 đảng Xã hội
chuyển thành đảng Cọng sản Pháp thì ông Truyền rút lui.
Sau này ông tham gia một tổ chức ngoại vi của Đảng Cọng sản
Pháp là Công đoàn Liên Thộc Địa để cùng với Paul Tất Thành điều hành
tờ báo Le Paria. Sau khi
Thành sang Nga ông tiếp tục điều hành tờ Le Paria, cuối cùng ông
được bầu vào chức vụ Bí thư Công Đoàn.
Nhưng lại giả từ Công Đoàn để thành lập một đảng riêng của
người Việt là Việt Nam Độc Lập Đảng và thành lập “Hội Tiếp Đón Những
Du Học Sinh Việt Vừa Tới Pháp”.
Tháng giêng năm 1926
sau khi báo Le Paria chấm dứt phát hành, Nguyễn Thế Truyền lập ra tờ
báo “Việt Nam Hồn” là tờ báo tiếng Việt đầu tiên tại Pháp.
Báo này nổi tiếng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Đến ngày
23-8-1926 tờ báo bị cấm xuất bản, tháng 9-1926 ông lại phát hành tờ
báo “Phục Quốc” nhưng chỉ ra được 2 số thì bị cấm.
Ông dời về Le Havre
xuất bản tờ báo “Hồn Việt Nam”, được 4 số thì bị cấm, ông lại ra tờ
“Việt Nam” nhưng được có một số thì bị cấm.
Khi Nguyễn Thế Truyền trở về Việt Nam hoạt động vào năm 1927
thì một sinh viên trẻ tuổi là Tạ Thu Thâu tiếp tục điều hành cả hai
tổ chức Việt Nam Độc Lập Đảng và Hội Tiếp Đón Những Du Học Sinh Việt
Vừa Tới Pháp .
Nguyễn Tất
Thành bắt đầu hoạt động cách mạng
Năm 1919, ngày 18-6,
báo L’Humanité (Nhân Đạo) của đảng Xã Hội Pháp đăng một bản thỉnh
nguyện thư gồm 8 điểm đòi hỏi Tự do và Nhân quyền cho dân tộc Việt
Nam. Bản thỉnh nguyện
thư ký tên là “Nguyễn Ái Quốc, đại diện cho một nhóm người An Nam
yêu nước”.
Đây là tác phẩm của
Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền hợp soạn và giao
cho Nguyễn Tất Thành đem tới tòa soạn bởi vì cả 3 ông đang bị mật
thám Pháp theo dõi rất gắt. Bài báo gây tiếng vang dữ dội trong giới
Việt Kiều tại Pháp.
Thừa thế xông lên,
hai tuần sau các ông in truyền đơn phổ biến toàn văn bản thỉnh
nguyện thư, hô hào tranh đấu đòi chủ quyền và nhân quyền, ký tên là
Nguyễn Ái Quốc. Lần này
cũng do Nguyễn Tất Thành đi rải truyền đơn.
*Chú giải :
Sau này các nhà viết sử tuyên huấn của
CSVN cố tình gán cho ông Nguyễn Tất Thành là tác giả của bức “Thỉnh
nguyện thư 8 điểm”.
Tuy nhiên chính ông Thành cho biết trong tự truyện
của ông ký tên là Trần Dân Tiên:
“Cũng nên nhắc lại ý kiến đưa yêu cầu (8 điểm) do
ông Nguyễn đề ra nhưng lại do ông Phan
Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng
Pháp”.
Căn cứ vào tự truyện
của Nguyễn Tất Thành, sử gia Quinn Judge cho rằng năm 1919 khả năng
lãnh đạo của ông Thành đã vượt trội luật sư Phan Văn Trường, đến độ
ông Thành đã “khiến” được ông Trường viết Yêu cầu 8 điểm do ông
Thành đưa ra.
Tuy nhiên bất cứ một
người Việt Nam nào đọc đến đoạn văn này cũng đều thừa biết ông Thành
nói xạo. Sự thực ngược
lại; lúc đó tuổi tác ông Trường hơn ông Thành 12 tuổi, hơn về địa vị
xã hội (luật sư Tòa Phá án Paris từ năm 1913), hơn về kiến thức văn
hóa và kinh nghiệm hoạt động chính trị. Do đó ông Trường dư sức sai
ông Thành đi gởi bài và rải truyền đơn, là những việc thích hợp với
trình độ chính trị và tuổi tác của ông Thành vào thời đó .
Năm 1920, ngày 10-2,
báo L’Humanité đăng một bức thư ngỏ gởi Dân Biểu Outrey, ký tên
Nguyễn Ái Quốc. Lần này
thì cảnh sát Paris xác định được Nguyễn Ái Quốc không phải là Phan
Văn Trường mà là Paul Tất Thành, căn cứ theo tường trình của một
điềm chỉ viên người Việt tên là Lâm;
theo người này thì Paul Tất Thành có một thẻ mượn sách tại
thư viện Quốc gia có ghi bí danh là Nguyễn Ái Quốc, ngày sinh là
15-1-1894 (Hsltr/Quốc gia Pháp).
*Chú giải
: Ông Nguyễn
Tất Thành không phải là Nguyễn Ái Quốc
Báo cáo của mật thám
tên Lâm có điều khó hiểu vì không lý Nguyễn Tất Thành ngây thơ đến
độ biết rằng cảnh sát đang đi tìm người viết truyền đơn tên Nguyễn
Ái Quốc mà lại làm một cái thẻ mượn sách có ghi thêm bí danh là
Nguyễn Ái Quốc? Thiếu gì
bí danh để chọn mà lại
chọn một cái tên lạy ông tôi ở bụi này?
Có thể đây chỉ là
một thẻ giả do Paul Tất Thành nộp đơn xin một thẻ thật nhưng trong
mẫu thẻ thật lại để trống mục bí danh, sau đó ông Thành đã điền thêm
bí danh Nguyễn Ái Quốc vào;
rồi chỉ dùng thẻ này để trưng cho những Việt kiều tại Paris
mà ông đang cần tuyên truyền.
Không ngờ trong số những người được ông trưng cho xem tên
tuổi lại là mật thám Lâm.
Từ đó mật thám Pháp “đặt tên” cho ông là Nguyễn Ái Quốc để
lập hồ sơ theo dõi.
Trong khi trên thực tế thì tên của ông vẫn là Paul Tất Thành.
Sau này các nhà viết
sự tuyên huấn CSVN đánh lận con đen bằng cách luôn luôn gọi Nguyễn
Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc.
Trong khi theo tự truyện của ông Nguyễn Tất Thành dưới tên
Trần Dân Tiên thì năm 1919, khi báo L’Humanité đăng bản thỉnh nguyện
thư 8 điểm, ký tên Nguyễn Ái Quốc thì lúc đó anh Nguyễn ( NTT ) chưa
viết được tiếng Pháp. Trần Dân Tiên cũng xác nhận bản tỉnh nguyện
thư do ông Phan Văn Trường viết.
Vậy Nguyễn Ái Quốc
chính là luật sư Phan Văn Trường.
Và sau đó, vào năm
1920 báo H’Umanité lại đăng một bức thư ngõ gởi cho Dân biểu Outrey,
cũng ký tên là Nguyễn Ái Quốc. Nếu so lại tự truyện của ông Nguyễn
Tất Thành dưới tên Trần Dân Tiên thì năm 1920 ( Năm đảng Xã hội Pháp
chuyển thành Đảng Cọng sản ) ông Thành chưa biết ABC về chính trị.
Nguyên văn :
“Ông Nguyễn lắng
nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc lại những
tiếng những câu : “Chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ
nghĩa xã hội, cách mạng, không tưởng khoa học, Xi-mông, Phu-ri-ê,
Mác , chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương, sản xuất, luận
đề, phản luận đề, giải phóng, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cọng sản,
khách quan, chủ quan v.v…”… “ Ngoài những ý kiến trên, còn có những
lời tranh luận khác, ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu…”…
Chứng tỏ ông Nguyễn Tất Thành
không phải là Nguyễn Ái Quốc.
Còn người ký tên Nguyễn Ái Quốc trong bức thư nổi tiếng năm 1920
cũng chính là luật sư Phan Văn Trường.
BÙI ANH TRINH
(4) BẮT ĐẦU HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ
Trở thành
đảng viên Cọng sản
Năm 1920, tháng 12,
đảng Xã hội Pháp quyết định chuyển thành Đảng Cọng sản Pháp, ông
Nguyễn Thế Truyền rút lui ( Sau này một số cựu đảng viên Xã Hội
thành lập lại một Đảng Xã Hội khác tồn tại tới ngày nay ).
Paul Tất Thành ở lại và trở thành đảng viên
Đảng Cọng sản Pháp .
Lúc này quan điểm
của Thành chưa có gì xuất sắc, chính ông kể lại khi đại hội đảng Xã
hội Pháp bỏ phiếu nên chuyển thành Cọng sản Đệ Tam (Bolshevik) hay
Cọng sản Đệ Nhị thì ông
bỏ cho Đệ Tam, một nữ đồng chí là cô thợ khâu Rose đã tò mò hỏi ông
vì sao ông chọn Đệ Tam?
Ông trả lời vì trong đề cương của Đệ Nhị không có mục đấu tranh cho
các dân tộc thuộc địa mà Đệ Tam thì có, (Tự truyện của HCM dưới tên
Trần Dân Tiên).
Điều này chứng tỏ
khi chính thức trở thành đảng viên Cọng sản (1921) ông chưa biết
Cọng sản là gì.
Năm 1921, ngày 14-7,
Tất Thành rời khỏi địa chỉ số 6 Gobelins đến cư ngụ tại một trụ sở
của ĐCS Pháp, ông vẫn tiếp tục sinh sống bằng nghề rửa hình.
Năm 1922, nơi cư ngụ
của Tất Thành được biến thành trụ sở của Công Đoàn Liên Thuộc Địa là
một nhánh ngoại vi của ĐCS Pháp.
Ông Thành cũng có chân trong tổ chức này.
Năm 1922, ngày 1-4,
Công Đoàn Liên Thuộc Địa cho ra đời số báo Le Paria đầu tiên với
1.000 ấn bản, tòa soạn tờ báo cũng là trụ sở của Công đoàn, nơi cư
ngụ của Thành. Thành
không tham dự trong ban biên soạn nhưng có tham gia in ấn.
Việc biên soạn và in
ấn gặp nhiều khó khăn vì không có người biết điều hành, Tất Thành kể
chuyện này cho Nguyễn Thế Truyền và Phan Văn Trường, hai ông xúi
Thành đứng ra nhận trách nhiệm ấn hành tờ Le Paria rồi ông Truyền sẽ
gia nhập Công Đoàn Liên Thuộc Địa để giúp Thành làm báo.
Lúc này Phan Chu
Trinh đang sinh sống tại Pons.
Từ số báo thứ 2 thì Nguyễn Thế Truyền gia nhập Công Đoàn Liên
Thuộc Địa để điều hành tờ Le Paria.
Sau này, khi Thành sang Nga thì Truyền vẫn tiếp tục điều hành
tờ báo và dần dần trở thành người đứng đầu của Công Đoàn Liên Thuộc
Địa.
Năm 1922, tháng 5,
số báo Le Paria số 2 với 2.000 ấn bản có tên một người chuyên viết
chính luận là Nguyễn Ái Quốc.
Từ đó các bài viết của Nguyễn Ái Quốc luôn luôn xuất hiện
trên tờ Le Paria. Thực
ra đây là các bài viết do 4 người Việt thay nhau viết là Phan Văn
Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, và Paul Tất Thành.
Nguyễn An Ninh chỉ viết trong vài số báo đầu, sau đó trở về
Việt Nam trong năm 1922.
Đến giữa năm 1923
thì Paul Tất Thành sang Nga.
Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh cũng về nước năm 1923.
Chỉ còn Nguyễn Thế Truyền vẫn tiếp tục viết trên báo Le Paria
với tên Nguyễn Ái Quốc cho tới năm 1925 là năm chấm dứt phát hành tờ
Le Paria.
Năm 1922, mùa hè,
vua Khải Định sang thăm nước Pháp.
Trong suốt thời gian Khải Định lưu lại Pháp thì sở mật thám
tại Paris phải cắt người theo dõi Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền
và Nguyễn Ái Quốc ( Paul Tất Thành) từng ngày một.
Cho tới khi Khải Định sắp về nước, ngày 2-8-1922 cảnh sát
Pháp mới cho lệnh thôi theo dõi các ông
(Hsltr/Quốc gia Pháp).
Lúc này mật thám
Pháp không chú ý tới ông Phan Chu Trinh mặc dầu ông đang có mặt tại
Paris. Bởi vì kể từ năm
1920 ông Phan Chu Trinh có vẻ như không còn hoạt động chính trị sau
khi bị bệnh phổi và về sinh sống tại tỉnh Pons.
Nhưng thực ra ông Trinh vẫn cùng các ông Trường, Truyền và
Thành tiếp tục hoạt động bí mật.
Đến khi Khải Định sang Pháp thì ông mới ra mặt bằng một bức
thư gửi cho Khải Định, trong đó nêu rõ 7 điểm sai trái quan trọng
của Khải Định. Cũng vì
bức thư này mà mật thám Pháp mới chú ý tới ông trở lại (Hsltr/Quốc
gia Pháp).
Năm 1922, tháng 10,
đại hội ĐCS Pháp lần 2.
Đoàn cán bộ CSQT tham dự có D.Manuilsky, Ủy viên Ban chấp hành Trung
ương của CSQT. Trong
thời gian diễn ra hội nghị, Manuilsky nghiên cứu tình hình chính trị
thế giới qua báo chí Pháp và ông
chú ý tới nhân vật Nguyễn Ái Quốc với những bài báo tiếng
Pháp tại Paris.
Năm 1922, tháng 11,
nhờ thành công trong việc điều hành tờ Le Paria, Thành được bầu làm
phó bí thư Công Đoàn Liên thuộc địa.
Thực ra số báo đầu tiên thì Thành không có điều hành, còn từ
số báo thứ hai thì do Nguyễn Thế Truyền điều hành.
Nói cho đúng ra thì thuở đó ông Thành chỉ là một người hầu
bàn trên tàu buôn, rồi làm nghề rửa ảnh trong một tiệm chụp ảnh thì
làm sao điều hành một tờ báo tiếng Pháp cho nổi.
Năm 1923, ngày 30
-5, cảnh sát Paris ghi nhận có một tờ báo tiếng Việt mới phát hành
lén tại tòa soạn của Le Paria.
Số đầu tiên chỉ có 100 tờ.
Tờ báo mang tên Việt Nam Hồn.
Cảnh sát cho là Nguyễn Ái Quốc làm việc trong Le Paria đã lén
tự phát hành báo này (Hsltr/Quốc gia Pháp).
Căn cứ vào nơi in ấn
và căn cứ vào giọng văn, cảnh sát Pháp cho rằng Nguyễn Ái Quốc là
tác giả duy nhất của tờ Việt Nam Hồn.
Nhưng họ không ngờ rằng giọng văn đó là của ông Nguyễn Thế
Truyền. Và sau này chính
ông Truyền xin phép ra một tờ báo hợp pháp do ông làm chủ, lấy tên
là Việt Nam Hồn. Riêng
HCM khi viết “Cuộc Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” thì không
đá động tới tờ “Việt Nam Hồn”.
Nếu như ông có liên quan đến số báo đó thì ông không tội gì
mà không khoe trong tự truyện của ông.
Nguyễn Tất
Thành sang Nga
Năm 1923, ngày 30
tháng 6, tại cửa khẩu Hải quan Đức, Paul Tất Thành lên đường đi Mạc
Tư Khoa với thông hành mang tên Cheng Vang (Trần Vương).
Theo như một thư khiếu nại của ông Nguyễn Tất Thành gởi cho
Đông Phương bộ của CSQT thì theo sự sắp xếp của CSQT, ông chỉ ghé
chân tại Mạc Tư Khoa trong vòng 3 tháng, sau đó ông sẽ được đưa về
Trung Hoa để bắt liên lạc với Việt Nam.
Tại trụ sở của Cọng
sản Quốc tế 3, Nguyễn Tất Thành thiết lập hồ sơ mới của ông với giấy
tờ mang tên là Nguyễn Ái Kvak ( Nguyễn Ái Quấc). Theo lối viết chính
tả thời đó thì viết Quốc cũng được mà viết Quấc cũng được, nhưng ông
Thành ưa viết là Quấc cho nên trong các tài liệu lưu cho thấy tên
ông là Quấc. Ngoài ra
trong các báo cáo gởi về Mạc Tư Khoa ông thường ký tên Nguyễn A.K
cho nên có nhiều người cho rằng bí danh của ông là A.K, nhưng thực
ra là ông viết tắt chữ Ái Kvak.
Năm 1923, ngày 10-10, Quấc
tham dự Đại Hội Nông dân Quốc tế.
Ngày 13-10 Quấc lên phát biểu với tên là Miguel-Al-Kvak
(Nguyễn Ái Quốc). Bài
phát biểu của ông tập họp các bài viết trước đây của nhân vật Nguyễn
Ái Quốc trên các báo Pháp, lên án sự cai trị hà khắc của chính sách
thuộc địa và tình cảnh của giai cấp nông dân Đông Dương.
Ông được bầu vào ban chấp hành Hiệp Hội Nông Dân Quốc Tế.
Năm 1924, tháng 3,
Nguyễn Ái Kvak gởi thư cho Petrov là Trưởng Đông Phương Bộ : “Đã có
một quyết định khi tôi bước chân tới Mạc Tư Khoa là lưu lại đây 3
tháng, sau đó tôi sẽ đi Trung Hoa để bắt liên lạc với xứ sở của tôi.
Nhưng bây giờ là đã 9 tháng tôi lưu lại đây và đã chờ đợi
trong 6 tháng, quyết định về chuyến đi của tôi vẫn không được thực
hiện” (Hsltr/MTK).
Ngoài ra ông cũng
khiếu nại về việc ông ở trong phòng 176 của khách sạn Lux, phải ở
chung tới 4,5 người, ban ngày thì ồn ào, không làm việc được, ban
đêm thì rệp cắn, (
Hsltr/MTK. Cũng theo
Hsltr/MTK thì lúc này tại khách sạn Lux cũng có mặt Borodin là người
sau này sẽ sang Trung Hoa làm trưởng Đông Phương Bộ, núp dưới hình
thức cố vấn cho Tưởng giới Thạch tại Trường Võ Bị Hoàng Phố).
Sau khi khiếu nại thì NAK được chuyển ra ở một căn nhà riêng
có đầy đủ tiện nghi.
Năm 1924, tháng 4,
NAK bắt đầu đi làm, công việc của ông là soạn các báo cáo về Việt
Nam hoặc viết những bài báo ngắn cho báo chí Cọng sản tại Văn Phòng
CSQT (Hsltr/MTK).
Công việc này ông đã quen làm khi phụ trách ấn hành tờ Le
Paria.
Năm 1924, tháng 6, Đại hội
5/CSQT diễn ra tại Mạc Tư Khoa, Nguyễn Ái Kvak
tham dự với tư cách là đảng viên ĐCS Pháp.
Ông vẫn dùng các bài bản trong đại hội Nông Dân Quốc Tế,
thuyết trình về chính sách cai trị tại các nước thuộc địa.
Năm 1924, tháng 10,
sau một năm lưu lại Nga, CSQT cử Nguyễn Ái Kvak sang Trung Hoa.
Mới đầu thì người ta chỉ định ông về hoạt động trong Quốc Dân
Đảng của Tôn Dật Tiên nhưng ông khiếu nại.
Sau đó thì người ta cho ông về hoạt động trong phái bộ Nga
tại trường Võ Bị Hoàng Phố
(Hslt,MTK).
BÙI ANH TRINH
(5) TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN
Trình độ học
vấn của ông Nguyễn Tất Thành
Theo tài liệu của
mật thám Pháp thì ông Thành từ trường tiểu học Pháp Nam ở Huế chuyển
sang trường trung học Quốc Học ở Huế vào năm 1908-1909 và giữa niên
học năm 1910 thì ông nghỉ học, như vậy ông chưa học hết lớp 7.
Tháng 2 năm 1924, sau 8 tháng học tập tại Nga, Nguyễn Tất
Thành viết và gởi về Paris một bản kêu gọi giới thiệu tổ chức Quốc
tế Cọng sản, nguyên văn như sau:
“Quốc tế lao nông hội kỉnh cáo, nhời hô
của hội “International Communiste.
“Vừa 5 năm nay, ở kinh đô nước Ngha
(Russie) là một nước thật là dân chủ, ( ở trần gian chưa bao giờ có
nước thế), có họp một hội để họp tất cả bao nhiêu người ăn làm.
Hội ấy gọi là
“International Communiste”.
“Nhờ mấy người đứng đầu can đảm anh hùng
mở dựng thì hội ấy bây giờ mạnh lắm để giúp hàng triệu hàng muôn
người làm ăn ngũ phương nhất là mấy dân khốn khổ thuộc về thuộc địa,
như dân An Nam ta vậy, khốn khổ vì tại mấy quân dã man Tây cướp giết
người An Nam lấy tiền…” (Tạp chí lịch sử Đảng số 6-1984,
trang 59-63).
Văn chương thời đó
có khác với văn chương thời nay nhưng người ta có thể thấy thời đó
Nguyễn Tất Thành chưa biết lý luận và quan điểm của ông về cách mạng
vô sản hầu như là chưa được vỡ lòng mặc dầu ông
gia nhập tổ chức Cọng sản đã 2 năm, đã có 8 tháng nghiên cứu
và huấn luyện tại Mạc Tư Khoa.
Người dân Việt Nam đọc được lời hô hào của ông khó mà chấp
nhận chuyện dân Việt khốn khổ chỉ vì “tại mấy quân dã man Tây cướp
giết người An Nam lấy tiền”.
Tài liệu của CSVN
cho rằng ông đã nghiên cứu các luận thuyết của Karl Max ngay khi ông
mới bước chân tới Pháp nhưng bản kêu gọi trên đây chứng tỏ cho tới
năm 1924 ông chưa lãnh hội được trình độ sơ đẳng của học thuyết
Marxist.
Vì văn chương thời
đó khác với ngày nay cho nên người ta thử đọc các bài chính luận của
ông Nguyễn Thế Truyền để so sánh và đánh giá trình độ văn hóa của
ông Nguyễn Tất Thành.
Tháng giêng năm 1926 ông Nguyễn Thế Truyền lập ra một tờ báo riêng
lấy tên là Việt Nam Hồn, trong số báo ra mắt ông viết:
“Mấy nhời kính
cáo cùng các bạn độc giả,
Ở đời phàm làm
việc gì cũng phải có mục đích; mục đích có định thì sau sự nghiệp
mới thành.
Nay bổn báo ra đời cũng muốn phô bày cùng các độc giả
biết cái mục đích của bổn báo với các chương trình của bổn báo đã dự
định.
… …
Chương trình của bản báo:
Bênh vực lợi
quyền, thu phục tự do, khai hóa tinh thần, đồng tâm hiệp lực; bốn
điều đó là tóm cả cái chương trình
của bản báo.
Bênh vực phường
học sinh, người lao động Nam Việt ở bên ta hay tại bên Pháp, bị
cường quyền áp chế.
Thu phục lấy
những quyền tự do về đường chính trị và tự do được hiệp công hội, tự
do du lịch, tự do ngôn luận, tự do giáo dục, tự do lập hội.
Trao đổi tư
tưởng, hy vọng cùng sự trường trải lịch duyệt cho nhau hay để giúp
sự khai hóa tinh thần.
Trực tiếp bọn
thượng lưu với hạng bình dân không phân biệt chi đến cái xu hướng,
tôn giáo hay nghề nghiệp…”
Bài văn của Nguyễn
Thế Truyền cho thấy rạch ròi từng chi tiết của chủ trương và lập
trường về các quyền tự do và cách thức tranh đấu cho Tự Do.
Còn bài văn của Nguyễn Tất Thành giới thiệu về tổ chức Cọng
sản Quốc tế mà không có được một câu về chủ trương của Cọng sản.
.
Sau này sử gia Quinn
Judge đọc lại các báo cáo do chính Nguyễn Tất Thành viết vào năm
1930, tức là 7 năm sau khi ông Thành viết các bài báo, đã có nhận
xét như sau: “Ông có
thể giao thiệp dễ dàng bằng tiếng Pháp ( dù khi viết, nhiều khi ông
không chia động từ)”.
Một người viết văn
Pháp mà không chia động từ thì không thể nào viết báo được.
Đọc các bài viết bằng tiếng Pháp của người ký tên là Nguyễn
Ái Quốc người ta có thể dễ dàng nhận ra ai là người viết bài đó
trong số các ông Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh
và Paul Tất Thành.
Hồi ký của Hoàng
Tùng đã đưa ra nhận xét của ông về tài biện thuyết của Nguyễn Tất
Thành :
“Bác hết sức sâu sắc
nhưng người không nói ra.
Những bài viết, những bài phát biểu của Bác từ năm
1920 đến năm 1925 có phân tích sâu sắc, lý luận sắc bén.
Sau này, từ Cách mạng Tháng 8 trở đi, người viết
ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề, không phân tích dài dòng để cho dân
chúng dễ hiểu … Nói bác lý luận kém là hoàn toàn sai”.
Hoàng Tùng là tổng
biên tập của tờ báo lớn nhất của ĐCSVN, tờ Nhân Dân.
Hoàng Tùng rất rành về kỹ thuật lý luận nhưng ông chưa hề
thấy HCM lý luận, ông tự giải thích rằng HCM không lý luận là để cho
dân chúng dễ hiểu.
Nhằm chứng minh cho tài biện
thuyết của HCM, Hoàng Tùng viện dẫn các bài viết của Nguyễn Ái Quốc
từ thời 1920-1925. Căn
cứ vào đó Hoàng Tùng kết luận HCM rất giỏi lý luận.
Tuy nhiên Hoàng Tùng đã hoàn toàn bị hố bởi vì hầu hết các
bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920 đến năm 1925 là của các
ông Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh.
Từ tháng 6 năm 1923
ông Nguyễn Tất Thành đã sang Nga, trong khi đó ông Nguyễn Thế Truyền
vẫn tiếp tục làm chủ nhiệm và chủ bút của tờ Le Paria cho tới năm
1925 là năm mà Nguyễn An Ninh và Phan Chu Trinh về nước.
Nếu một người đã
giỏi lý luận thì có đánh chết anh ta vẫn không từ bỏ cái nết sử dụng
lý luận của mình, đàng này ông HCM lại từ bỏ lý luận suốt từ năm
1925 cho tới ngày ông ta qua đời.
Như vậy viện dẫn của Hoàng
Tùng đã chứng minh ngược lại rằng những bài viết ký tên Nguyễn Ái
Quốc trước năm 1925 không phải là của Nguyễn Tất Thành.
Tuy Hoàng Tùng cho
rằng ai nói Bác lý luận kém là sai, nhưng ông cũng thành thật cho
biết :
“Khoảng năm 1935, ở tù cùng với Phi Vân,
tôi hỏi Phi Vân nhận xét về Nguyễn Ái Quốc. Vân nói ông già này
không có gì đâu, ở nhà cứ tưởng là nhân vật quan trọng lắm, chứ ông
ta dân tộc chủ nghĩa, trình độ lý luận kém. Đó là cách nhận định về
Bác của mấy người đi Liên Xô về” (Hoàng Tùng,
Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ).
Những người du học
tại Viện Đại học Chính trị Stalin, Liên Xô, đều là những tay tổ về
lý luận, nhưng tất cả đều có cùng chung một đánh giá về Nguyễn Tất
Thành thì chắc chắn sự đánh giá của họ không sai.
Ngoài ra, trong tự truyện ký
tên Tần Dân Tiên, ông Nguyễn Tất Thành cho biết :
“Ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ
lắm, vì người ta thường nhắc lại những tiếng những câu : “Chủ nghĩa
tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghĩa xã hội, cách mạng, không
tưởng khoa học, Xi-mông, Phu-ri-ê, Mác , chủ nghĩa vô chính phủ, chủ
nghĩa cải lương, sản xuất, luận đề, phản luận đề, giải phóng, chủ
nghĩa tập thể, chủ nghĩa cọng sản, khách quan, chủ quan v.v…”…
“ Ngoài những ý kiến trên, còn có những
lời tranh luận khác, ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu…”… “Một hôm ông
Nguyễn đứng lên phát biểu: “…Như thế dù thứ 2, thứ 2 rưỡi hay Quốc
tế thứ 3 phải chăng cũng thế cả…Tại sao tranh luận nhiều thế, trong
khi các bạn đang tranh luận ở đây, thì đồng bào chúng tôi đang rên
siết ở Việt Nam…”.
Đoạn văn này chứng
tỏ vào tháng 12 năm 1920 ông như một người nhà quê lạc vào giữa đô
thị, trình độ kiến thức của ông chỉ khiến cho mọi người phì cười chứ
không hơi đâu mà giải thích hay đối đáp lại.
Đây là do ông tự thú nhận chứ không có ai nói oan cho ông.
Năm 1924 ông Nguyễn
Tất Thành đã 34 tuổi nhưng bài viết của ông tại Nga cho thấy trình
độ văn hóa của ông không có gì tiến bộ so với khi ông bỏ học năm lớp
7. Mãi đến năm 1947 ông
viết quyển “Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” nhưng sách này càng để lộ
trình độ văn hóa yếu kém của ông vào năm ông 57 tuổi.
Và bài viết về Cải cách ruộng đất của ông vào năm 1953 lại
càng chứng minh rằng ông không được thông minh, ông chẳng học hỏi
được bao nhiêu mặc dầu ông đã trải qua rất nhiều năm kinh nghiệm.
BÙI ANH TRINH
(6) PHAN CHU TRINH CHO
MỘT BÀI HỌC
Phan Chu
Trinh cho Nguyễn Tất Thành một bài học:
Năm 1992 lần lượt
các hồ sơ mật của Cảnh sát Pháp, Cảnh sát Hoa Kỳ và hồ sơ mật của
CSQT được đưa ra trước công chúng.
Lúc đó các nhà trí thức Việt Nam tại Pháp và tại Nga là những
người đầu tiên tìm đọc những văn kiện liên quan tới ông Hồ Chí Minh.
Nhiều thông tin rất tai hại về HCM
đã được gởi về Hà Nội.
Các nhà Tuyên huấn
CSVN họp nhau lại để soạn ra một cuốn sách ngõ hầu ngăn chận trước
những bàn tán về những thông tin mới phát hiện.
Trong đó họ lý giải, bào chữa cho những tin tức không hay,
hướng dẫn trước cho quần chúng Việt Nam nên suy nghĩ như thế nào nếu
bắt gặp những thông tin mới của các sử gia quốc tế.
Quyển sách mang tựa
đề “Bác Hồ, Những Năm Tháng Ở Nước Ngoài”,
tên tác giả là Đặng Hòa.
Cơ quan phát hành là Trung tâm UNESCO bảo tồn và phát triển
văn hóa Việt Nam, phát hành tại Hà Nội năm 2001. Trong sách đó Đặng
Hòa đã trích một đoạn trong bức thư mà Phan Chu Trinh gởi cho Paul
Tat Nguyen , đề ngày 18-2-1922:
“Bấy lâu nay tôi
cùng anh và Phan ( Luật sư Phan Văn Trường) đàm đạo nhiều việc; mãi
tới bây giờ anh cũng không ưa gì cái phương pháp “Khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh” ( Mở mang dân trí, thúc đẩy khí thế cách mạng
xã hội, cải tổ cuộc sống kinh tế của dân được hậu hỉ ) của tôi.
Còn tôi lại không thích cái phương
pháp “Ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội”
( Ngồi ở nước ngoài kêu gọi những người yêu nước, đợi cơ hội
thuận tiện thì nhanh chân trở về ) của anh, và cả cái dụng
lý “Thâu nhân tâm” ( Thu phục lòng người ) của Phan.
“Bởi vì phương
pháp bất hòa mà anh nói với Phan rằng tôi là hạng hủ nho thủ cựu.
Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí
nào cả, bởi vì suy ra thì tôi thấy rằng:
tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường hết sách
vở ở cái xứ văn minh này.
Cái đó tôi tự thấy còn thua anh xa lắm, đừng nói gì
đọ với anh Phan”
“… Từ xưa tới
nay, từ Á sang Âu, chưa có một người nào làm cái việc như anh.
Anh lấy cái lý do ở nước mình lưới giăng tứ bề, mà
về nước ắt là sa cơ, gia dĩ sĩ khí dân tình tan tác, bởi cái chính
sách cường quyền nên sự hấp thụ lý thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ
khư khư cái phương pháp “Ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội”;
cứ như cái phương pháp ấy thời anh viết bài đăng
trên báo chí tại đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà
đem tinh thần nghị lực ra mà làm việc nước.
Tôi coi lối ấy phí công mà thôi…”.
( Đặng
Hòa; Bác Hồ, Những Năm Tháng Ở Nước Ngoài; trang 51-53.
Trích từ hồ sơ lưu trữ Quốc Gia
Pháp.
Nguyên bản bằng chữ Hán, được
Gaspard công bố trong sách “Ho Chi Minh à Paris”.
Đoạn trên đây được Viện Bảo tàng Hồ
Chí Minh dịch ra tiếng Việt ).
Rõ ràng ngay từ năm
1922 Nguyễn Tất Thành đã chủ trương ngồi ở nước ngoài, xúi người
trong nước nổi lên chống Pháp.
Đến khi trong nước lật đổ được người Pháp rồi thì ông sẽ
nhanh chân trở về làm cha thiên hạ (sic).
Còn nếu như ông về nước hoạt động như Phan Chu Trinh, Phan
Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Hữu Cần, Trần Phú, Lê Hồng
Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai v.v…thì chỉ có chết uổng
mạng …!
Dưới con mắt nhìn
của Phan Chu Trinh thì Nguyễn Tất Thành đã hiện nguyên hình là một
tay láu cá hạng nặng :
Ông Phan Chu Trinh là bạn của Nguyễn Sinh Sắc.
Lúc mới bước chân định cư tại Pháp vào năm 1917 thì Nguyễn
Tất Thành một tiếng kêu “bác”, hai tiếng xưng “cháu” để nhờ ông Phan
Chu Trinh kiếm cho chỗ ở, kiếm cho công ăn việc làm.
Thế mà 5 năm sau,
khi đã đủ lông đủ cánh trong Đảng Cọng sản Pháp, ông quay trở lại
nói xấu cụ Phan là hạng hủ nho thủ cựu;
mà lại nói lén sau lưng chứ không dám nói thẳng trước mặt.
Tiếng Việt có thành ngữ “ăn cháo đá bát” là dành cho hạng
người này.
Tội nghiệp cho cụ
Phan, ông không hề giận thằng cháu bất lương, cụ vẫn gửi thư phân
tích cho thằng cháu hiểu rằng làm như vậy chỉ phí công mà thôi .
Nhưng cụ không ngờ rằng thằng cháu cười trong lòng và nghĩ
rằng có bỏ công ra đâu mà phí, ngồi chờ thời thì có gì đâu mà phí.
Còn nếu như thời không tới thì thôi.
Quả nhiên kể từ năm
đó cho đến 19 năm sau ông chớ hề bước chân vào trong nước, nhường
nơi gian khổ những người thực tâm yêu nước, kể cả những người Cọng
sản như Trần Phú, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Bùi Lâm, Nguyễn Thế
Rục, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn
Tạo, Dương Bạch Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Hữu Cần…
Mãi đến 1941 ông mới
mom men về Pác Bó là ngay biên giới Việt Trung, trong bụng ông tính
hễ đụng chuyện là ông biến sang Tàu.
Nhưng cũng chỉ được hơn 1 năm thì ông lại nhường cái hang Pác
Bó cho Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp để đi tìm đường
cứu nước một lần nữa.
Trong khi
theo hồi ký của Võ Nguyên Giáp thì thời đó các ông phải ăn bẹ
chuối hằng tháng ròng;
bởi vì một phần bị quân Pháp truy quét, một phần thời đó dân chưa
biết các ông làm cách mạng cho nên không tiếp tế.
Lần này ông Nguyễn
Tất Thành ra đi tưởng cũng sẽ tìm đường cứu nước lần nữa, nhưng
không ngờ ông lại tìm đường đi định cư tại Mỹ, ông quên béng luôn
cái mộng “đãi thời đột nội của ông”.
Quả là ông nhìn xa trông rộng, mãi đến hơn 30 năm sau, năm
1975, dân Việt Nam mới đi theo con đường mà ông đã tìm ra từ năm
1944.
Phải chi ông Trời
sắp đặt cho ông được đi Mỹ năm đó thì dân tộc Việt Nam hạnh phúc huy
hoàng rồi. Không ngờ
chuyến vượt biên của ông thất bại.
Thế là cả nước Việt Nam rơi vào thảm họa (sic).
(7) TỪ NGA ĐẾN TRUNG HOA
Nguyễn Tất
Thành từ Nga đếnTrung Hoa
Năm 1924, tháng 9,
tại Mạc Tư Khoa Nguyễn Tất Thành được CSQT chỉ định về Trung Hoa
hoạt động trong đảng Quốc Dân của ông Tôn Dật Tiên.
Nhưng ông gởi thư khiếu nại, nêu 3 lý do:
(1) Ngoài tiền chi
phí đi đường ông không có trợ cấp lương bổng. (2) Ông hoạt động với
tư cách cá nhân, không
phải là một cán bộ của CSQT.
(3) Ông bị chấm dứt liên lạc với đảng của ông là ĐCS Pháp.
Ngoài ra, ngày 19-9,
Thành lại gởi thư cho ông Albert Treint của ĐCS Pháp ( Cũng là ủy
viên trung ương của CSQT ), yêu cầu can thiệp với CSQT cho ông được
giữ một nhiệm vụ khác tại Trung Hoa thay vì phải làm việc trong Quốc
Dân Đảng Trung Hoa
(Hsltr/MTK).
Năm 1924, tháng 10,
Nguyễn Tất Thành được chỉ định về làm việc tại phái bộ Borodin trong
trường võ bị Hoàng Phố tại thành phố Quảng Châu tỉnh Quảng Đông.
Ngày 11-11, ông đến Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, giữ nhiệm vụ làm
phiên dịch cho cơ quan dịch vụ viễn thông Nga tại Trung Hoa (tiền
thân của Thông tấn xã Tass), làm việc dưới quyền của Trưởng Chi
nhánh Viễn thông là Votinsky.
*Chú giải :
Công việc của Nguyễn Tất Thành tại Trung Hoa
Sau này có nhiều sử
gia viết rằng NTT làm phụ tá cho trưởng phái bộ tên là Borodin.
Lại có người viết rằng ông làm bí thư kiêm thông dịch cho
Borodin. Nhưng những
thông tin này không đúng vì phụ tá cho Borodin là Galan, một cán bộ
cao cấp của CSQT. Bí thư
kiêm thông dịch là ông Trương Thái Lôi, Ủy viên Trung ương ĐCS Trung
Hoa, ngoài ra còn có các cán bộ Cọng sản Trung Hoa cao cấp khác làm
việc trong phái bộ như Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, Bào
La Đình…, những người này đã từng du học tại Nga, thừa sức làm thông
ngôn tiếng Tàu cho Borodin, không đợi tới ông Thành.
Ngoài ra, hiện nay
hồ sơ lưu trữ CSQT có một bức thư của ông Nguyễn Tất Thành gửi cho
Albert Trient, đề ngày 19-9-1924, cho biết ông chỉ biết viết tiếng
Tàu chứ không nói được tiếng Tàu.
Sự thực là lúc đó
nước Trung Hoa có hai chính quyền:
Tại Bắc Kinh có một chính quyền do Tào Côn lãnh đạo và tại
Quảng Châu có một chính quyền do Tôn Dật Tiên lãnh đạo.
Stalin có một đại sứ chính thức tại Bắc Kinh, nhưng bên trong
Stalin muốn yểm trợ ông Tôn Dật Tiên tại Hoa Nam tiến hành thống
nhất đất nước cho nên cử Borodin cầm đầu một phái đoàn cố vấn cao
cấp sang Hoa Nam núp dưới danh nghĩa là cố vấn cho trường võ bị
Hoàng Phố. Trường này do Tưởng Giới Thạch làm chỉ huy trưởng, ông
Thạch từng sang Nga nghiên cứu chế độ của Lénin từ năm 1921, ông
cũng là em cột chèo của Tôn Dật Tiên.
Chức vụ chỉ huy
trưởng trường võ bị Hoàng Phố chỉ là cái vỏ bên ngoài nhưng bên
trong Tưởng Giới Thạch là đại diện của chính phủ Tôn Dật Tiên làm
việc với phái bộ Borodin.
Phái bộ Borodin hoạt động như là một lãnh sự quán của Nga đối
với chính phủ Miền Nam, trong đó có một bộ phận là Chi nhánh viễn
thông, tiền thân của Thông tấn xã Tass bây giờ.
Trưởng chi nhánh
viễn thông là Votinsky, ông Nguyễn Tất Thành làm việc dưới quyền của
ông này, chuyên dịch các bản tin bằng tiếng Hoa sang tiếng Anh và
tiếng Pháp. Tuy nhiên vì
trình độ văn chương Anh, Pháp của ông là do tự học nên người ta chỉ
cần lấy cái ý của bản tin mà thôi, sau đó họ viết lại bằng Nga văn
hoặc muốn chuyển đi Tây Âu thì những người ở Mạc Tư Khoa viết lại
bằng Anh hay Pháp văn.
Ngày nay nhiều sử
gia đọc lại các báo cáo bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh của Nguyễn Tất
Thành thời đó đều công nhận là lối viết Anh văn và Pháp văn của ông
rất “khó chịu”. Sử gia
Quinn Judge là người Tây Phương đầu tiên được xem bút tích những báo
cáo của HCM trong hồ sơ lưu trữ của CSQT tại MTK đã nhận xét về văn
hóa của ông HCM vào năm 1930, trong Website của đại Học Yale năm
1994, như sau :
“Sở trường về ngôn
ngữ của ông Hồ đã biến ông thành sợi dây liên lạc hữu ích giữa người
Âu và người Á. Ông có
thể giao thiệp dễ dàng bằng tiếng Pháp
(dù khi viết, nhiều khi ông không chia động từ ), bằng tiếng
Anh bập bẹ nhưng hiểu được, bằng tiếng Nga tàm tạm, tiếng Quan Hỏa
hay tiếng Quảng Đông”.
Bỏ qua tiếng Anh và
tiếng Trung Hoa là hai thứ tiếng ông chỉ cần học để đủ giao tiếp
trong sinh hoạt hằng ngày tại địa phương mà ông tạm trú.
Nhưng một người chuyên viết văn bằng tiếng Pháp mà lại nhiều
khi không chia động từ thì chứng tỏ Nguyễn Tất Thành không phải là
tác giả những bài viết nổi tiếng ký tên Nguyễn Ái Quốc trên tờ
L’Humanité và Le Paria.
Từ đó có thể khẳng
định rằng Manuilsky đã lầm khi chọn Nguyễn Tất Thành đem về Nga vào
năm 1923. Sau đó
Manuilsky đưa ông sang Trung Hoa chỉ vì
muốn tống ông đi cho rảnh nợ,
mới đầu họ tống ông về cho Quốc Dân Đảng Trung Hoa để người
Trung Hoa muốn sử dụng ông như thế nào thì tùy chứ họ không cần để ý
tới; nhưng vì hai lá đơn
khiếu nại của ông cho nên mới có chuyện sắp xếp cho ông về làm việc
trong chi nhánh viễn thông Nga.
Chính trong tự
truyện của ông với bút hiệu Trần Dân Tiên, HCM cũng nói rõ: “Đọc
quảng cáo trên tờ Quảng Châu Nhật báo, ông tìm đến làm phiên dịch
cho ông Bô-rô-Din, cố vấn chính trị của bác sĩ Tôn Dật Tiên và của
chính phủ Quảng Châu. Ông dịch những tờ báo Trung Quốc ra tiếng
Anh…”.
Rõ ràng là ông có
làm việc trong cơ quan của Borodin nhưng công việc của ông chỉ là
dịch các bản tin từ báo chí tiếng Tàu ra tiếng Anh, tức là công việc
của một nhân viên thuộc cơ quan thông tấn Nga.
Sở dĩ công việc này thích hợp với ông vì thuở thiếu thời ông
có học tiếng Hán và đọc được chữ Hán, sau đó ông có một thời gian
sinh sống tại nước Anh cho nên đọc một bài báo bằng tiếng Hán rồi
dịch ra tiếng Anh thì rất thích hợp với sở trường của ông.
Trong khi đó công việc của
Borodin thực sự là Đại sứ của Nga đối với chính phủ Miền Nam Trung
Hoa của Tôn Dật Tiên.
Nguyễn Tất Thành không đủ trình độ cũng như không đủ sự tin cậy của
Staline hay chính phủ Nga để làm bí thư hay phụ tá cho Borodin trong
công tác tiếp xúc mật với chính quyền Quảng Châu của ông Tôn Dật
Tiên.
Đối với họ ông chỉ
là một người thợ chụp hình ở Paris mới ghé chân sang Nga được 1 năm,
có mấy tháng tham gia viết các bài báo ngắn cho các tờ báo của CSQT
tại Mạc Tư Khoa thì ông không đủ tín nhiệm để tham dự vào các việc
bí mật trọng đại giữa hai quốc gia cũng như giữa CSQT và ĐCS Trung
Hoa.
Sở dĩ có chuyện ông
làm phụ tá hay bí thư của Borodin là do các nhà tuyên huấn của CSVN,
họ căn cứ vào chi tiết do ông HCM đưa ra trong tự truyện “Vừa Đi
Đường Vừa Kể Chuyện” của ông với tên T.Lan: “Ở Quảng Châu, Bác vừa
làm phiên dịch cho đồng chí Borodin, cố vấn Liên Xô bên cạnh chính
phủ cách mạng Quốc dân Đảng, vừa phụ trách mục tuyên truyền trong tờ
báo Canton Gazette”.
Khi ông Nguyễn Tất
Thành viết lên điều này vào năm 1961 thì nhiều người trong cuộc vẫn
còn sống, nhất là Chu Ân Lai và vợ là Đặng Dĩnh Siêu.
Cho nên ông viết là ông làm phiên dịch cho Borodin, nhưng nếu
có ai biết chuyện mà hỏi lại ông thì ông sẽ nói rằng ông làm một
công việc phiên dịch trong phái bộ Borodin, chuyên dịch các báo
Trung Hoa ra tiếng Anh và tiếng Pháp. Do đó câu văn ông viết ra vẫn
đúng sự thực, chẳng qua là người đọc hiểu lầm mà thôi.
Các nhà tuyên huấn
CSVN căn cứ vào câu văn trên mà phong cho ông Nguyễn Tất Thành chức
vụ phiên dịch cao nhất trong phái bộ là bí thư kiêm thông dịch.
Sau thấy không ổn vì ông Trương Thái Lôi, bà Đặng Dĩnh Siêu
và ông Chu Ân Lai phiên dịch tiếng Tàu giỏi hơn cho nên các nhà
tuyên huấn mới đổi thành chức phụ tá của Borodin.
Tuy nhiên khi hồ sơ mật của CSQT được công bố thì phụ tá của
Borodin là Galan, một cán bộ thân cận của Stalin.
Đặc biệt, nhà tuyên
huấn Hồng Hà viết trong tác phẩm Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin, trang
148, lại phong cho Nguyễn Tất Thành:
“anh là cố vấn riêng và là người phiên dịch của đồng chí
Borodin, đồng thời là phóng viên của hãng Roxta”.
Trong khi Trần Dân Tiên cho biết Borodin là “Cố vấn chính trị
của bác sĩ Tôn Dật Tiên” thì Hồng Hà lại phong cho anh Quốc làm cố
vấn cho cố vấn của Tổng thống Trung Hoa.
Một ông “siêu cố vấn” mà thực tài chỉ là một anh thợ rửa hình
tại Paris xuất thân từ một anh hầu bàn dưới tàu buôn của Pháp và phụ
bếp tại Luân Đôn.
Năm 1924, ngày
12-11, Nguyễn Ái Kvak gởi thư cho CSQT báo cáo rằng ông đã đến Quảng
Châu ngày hôm trước. Đồng thời ông cũng gởi thư cho Hiệp Hội Nông
Dân Quốc tế (một nhánh ngoại vi của CSQT) yêu cầu đừng cho ai biết
ông đã rời Mạc Tư Khoa bởi vì ông đang là “Cư dân bất hợp pháp” tại
Trung Hoa.
Cũng trong ngày 12,
ông giả danh một nữ đảng viên QDĐ Trung Hoa tên là Loo Shing Yang,
gởi thư cho một tập san phụ nữ của CSQT tại Mạc Tư Khoa, đề nghị
viết bài cho tạp chí với tên tác giả là một người nữ để lấy tiền
nhuận bút (Hsltr/MTK).
Ngoài việc xin viết
báo để kiếm thêm tiền mà không thấy trả lời.
Ông cũng tìm đến xin việc làm thêm tại một tiệm chụp hình của
người Việt Nam. Người
chủ tiệm là Lâm Đức Thụ từ chối nhận thêm người nhưng biết ông là
người Nghệ An bèn giới thiệu ông với một người Nghệ An là Hồ Tùng
Mậu.
Một lần nữa số phận
đưa đẩy cho Nguyễn Tất Thành dễ dàng tham gia hoạt động chính trị vì
Hồ Tùng Mậu và Lâm Đức Thụ đều là cọng sự viên tâm huyết của ông
Phan Bội Châu. Lúc này
Phan Bội Châu đang xúc tiến thành lập một Đảng tập họp những người
Việt Nam lưu vong tại Trung Hoa cũng như tại Việt Nam.
Chiến dịch thành lập Đảng được phát động rầm rộ vì được sự
giúp đỡ của nhà cầm quyền Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
Vì vậy chỉ sau một thời gian ngắn thì Thụ và Mậu rủ Thụy gia
nhập tổ chức.
BÙI ANH TRINH
S
(8) HOẠT ĐỘNG TẠI TRUNG HOA
Làm quen với
những nhà cách mạng Việt Nam
Năm 1924, một tháng
sau khi đến Quảng Châu, ngày 18-12, Nguyễn Tất Thành gởi thư báo cho
CSQT rằng ông lấy tên Trung Hoa là Lý Thụy, đã gặp một số người Việt
Nam lưu vong tại Quảng Châu.
Trong số đó ông làm quen và chiêu dụ được một nhân vật lãnh
đạo một nhóm ái quốc, nhân vật này có gia đình bị Pháp tàn sát và
ông ta phải rời đất nước cách đây 30 năm, ông ta chẳng biết gì về
chính trị.(Hsltr/MTK)
* Chú giải:
Sử gia Qiunn Judge đoán rằng nếu chấp nhận hoặc là nhân vật
đó nói thêm hoặc là NTT nói thêm thì trừ đi 10 năm, có 3 người đã
lưu vong 20 năm, thích hợp cho nhân vật này, đó là Phan Bội Châu, Hồ
Học Lãm và Nguyễn Hải Thần.
Nhưng Quinn Judge
cho rằng ông Châu và ông Lãm lúc đó ở Hàng Châu cho nên nhân vật đó
phải là Nguyễn Hải Thần (Ho Chi Minh, the missing years, trang 78).
Tuy nhiên sử gia
Quinn Judge không biết rằng thời đó ông Nguyễn Hải Thần đang phục vụ
trong quân đội Trung Hoa tại Vân Nam, gia đình chẳng bị tàn sát, ông
sang Nhật năm 1906 theo học trường võ bị Nhật đợt đầu tiên.
Sau khi bị Nhật trục xuất ông về lại Việt Nam, bị bắt vì liên
can tới vụ đầu độc lính Pháp năm 1908 nhưng được tha vì không đủ
chứng cớ.
Năm 1912 mới sang
Tàu và năm 1915 còn dẫn quân kháng chiến đánh vào Hà Khẩu tỉnh Lạng
Sơn. Coi như ông mới rời
đất nước có 10 năm. Vậy
thì Nguyễn Hải Thần hoàn toàn không phù hợp với nhân vật mà NTT nêu
trong thư .
Nếu như những điều
NTT nêu trong thư là có thật thì có lẽ đó là ông Nguyễn Thiện Thuật.
Lúc đó ông Nguyễn Thiện Thuật đang sống tại Quảng Đông, rời
đất nước khoảng 30 năm, có em trai bị tử hình cùng bản án với Phan
Bội Châu và đã bị hành quyết;
có con trai cũng bị án tử hình khiếm diện cùng bản án với
Phan Bội Châu, sau bị chết trong trận tấn công vào ba tỉnh biên giới
năm 1915.
Phan Bội
Châu cho Nguyễn Tất Thành một bài học
Năm 1925, đầu năm,
Nguyễn Tất Thành gởi một bức thư làm quen với cụ Phan Bội Châu.
Không biết trong thư
nói gì nhưng mật thám Pháp còn lưu lại một bức thư trả lời của cụ
Phan, trong đó ông bảo rằng ông rất khâm phục Lý Thụy.
Ông tự cho mình là một người hủ lậu, không bỏ được cái đầu óc
suy nghĩ mà ông học được trước khi rời đất nước với tuổi đời trên
40. Ông thấy rằng chỉ có
Lý Thụy mới là người thay thế ông trong vai trò cứu dân cứu nước.
Ông đánh giá cái biết của Lý Thụy vượt xa ông gấp trăm lần.
Cuối cùng ông mong được gặp mặt để nghe một đôi lời chỉ bảo
(Hslt/Quốc gia Pháp).
* Chú giải:
Sử gia Quinn Judge căn cứ vào lá thư này để khẳng định
rằng tuy NTT mới đến Trung Hoa hơn một tháng nhưng vị thế chính trị
của NTT đối với người Việt yêu nước tại Quảng Đông vượt trội Phan
Bội Châu mà ngay chính cụ cũng đã “Tâm phục khẩu phục”.
Do đó có những cáo buộc cho rằng Thành mưu triệt cụ
Phan để tranh giành uy thế chính trị là không đúng
(Ho Chi Minh, The Missing Years , trang 76).
Đó là Quinn Judge
suy luận theo tâm lý của người Tây Phương, nhưng nếu theo tâm lý của
người Việt Nam thì có lẽ ông NTT không dám đưa cho ai coi lá thư này
vì rõ ràng đây là một cách nói khiêm tốn của người Việt Nam dành cho
một người thiếu khiêm tốn.
Cụ Phan muốn sửa lưng Lý Thụy.
Cũng như cụ Phan Chu
Trinh trong một bức thư gởi cho Nguyễn Tất Thành vào năm 1922 đã tự
cho rằng mình là một người hủ lậu, kém xa Nguyễn Tất Thành về hiểu
biết thời sự; nhưng sau
đó là một tràng dạy cho Nguyễn Tất Thành về các ý tưởng ích kỷ của
NTT. Vậy nên nếu đúng
theo tâm lý Việt Nam qua lá thư này thì dưới con mắt của Phan Bội
Châu, NTT chưa thể là một lãnh tụ, ông nhắc khéo cho Thành là cần
phải học hỏi thêm về đức khiêm tốn .
Có lẽ bà Quinn Judge
không hiểu cách nói năng giao tiếp của người Á Đông thời trước.
Một khuôn cách ngoại giao sang trọng dành cho người có học là
đức khiêm tốn. Câu cuối
của bức thư được bà Quinn Judge dịch ra tiếng Anh là : “Will you
share one or two task with me?”, thực ra trong tiếng Việt thì câu
này là “Mong được nghe một đôi lời chỉ giáo”.
Câu này sẽ có ý nghĩa chân thành nếu như đó là câu của một
người nhỏ tuổi nói với một người lớn tuổi nhưng nếu một người lớn
tuổi mà nói câu này với một người nhỏ tuổi thì đó là một câu mĩa
mai.
Có lẽ người cố vấn
dịch thuật đã cẩn thận nhắc cho bà Quinn Judge rằng ý nghĩa câu này
không phải là ý nghĩa thật mà nó có tính cách mĩa mai cho nên sau
khi dịch câu này thì bà Quinn Judge viết tiếp theo:
“He asked, perhaps with a touch of
irony”, ( Có lẽ ông viết câu này với đôi chút mĩa mai ).
Mở cơ sở
hoạt động chính trị
Năm 1925, ngày 5-1,
NTT báo cáo về Mạc Tư Khoa rằng ông mới thành lập Đông Dương Quốc
Dân Đảng vào ngày 3-1 gồm 3 hội viên ban đầu.
Một hội viên sẽ về Trung Kỳ và Lào ( Vương Thúc Oánh ), một
hội viên khác ( Lê Duy Điếm ) sẽ về Bắc Kỳ để đưa học viên sang
Quảng Đông cho ông huấn luyện.
Ông yêu cầu MTK chỉ thị cho những người trong phái bộ Borodin
hỗ trợ tài chánh cho ông (Hsltr/MTK).
Năm 1925, ngày 19-2,
NTT gởi thư cho CSQT báo cáo ông đã phát triển đảng của ông được 9
người, có 5 người là dự tuyển Đảng viên của ĐCS Trung Hoa ( Lâm Đức
Thụ, Lê Tán Anh, Hồ tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lê Quang Đạt ), 2 người
trở về Việt Nam và 3 đang ở trong quân đội của Tưởng Giới Thạch.
Ông cho biết ông tính ra cần phải có 5.000 dollar để hoàn
thành công việc. Ông
cũng vẽ ra hướng phát triển của ông là tổ chức cơ sở tại Quảng Đông,
Quảng Tây và Thái Lan (
Hslt/Mạc Tư Khoa ).
*Chú giải:
Mới bước chân tới Trung Hoa có hai tháng và mới kết nạp được
9 người mà ông đã vòi tiền CSQT thì hơi sớm.
Người ta sẽ không chi tiền vì
chưa có gì chứng tỏ tầm cỡ hoạt động của ông so với 5.000 dollar là
số tiền trả 10 năm lương cho một thầy giáo tại Hoa Kỳ lúc bấy giờ.
Một điều đáng lưu ý
khác, là bắt đầu từ lúc mới bước chân đến Trung Hoa cho tới khi ông
rời Trung Hoa vào năm 1927 thì mọi báo cáo của NTT gửi về CSQT tại
Mạc Tư Khoa hoàn toàn không theo hệ thống của phái bộ Borodin, chứng
tỏ mọi hoạt động của ông đối với người Việt Nam không dính dáng đến
công việc của ông tại phái bộ Borodin.
Vì vậy những nguồn tin nói rằng NTT theo phái bộ Borodin về
Trung Hoa để hoạt động cho phong trào CSVN là không đúng.
Năm 1925, ngày 2-3,
NTT gởi cho Hiệp Hội Nông Dân Quốc Tế tại mạc Tư Khoa một báo cáo
dài về phong trào Nông dân nổi dậy ở vùng Hoa Nam do lãnh tụ
Bành Bái cầm đầu.
Phong trào này bùng phát vào giữa năm 1924 và đến đầu năm 1925 thì
phát triển mạnh, khống chế chính quyền tại nhiều nơi trên khắp vùng
Hoa Nam.
Hiệp hội Nông Dân
Quốc Tế của CSQT tại Mạc Tư Khoa đang muốn theo dõi và yểm trợ cho
cuộc nổi đậy này nhưng họ không có cán bộ chuyên về nông dân tại Hoa
Nam. Nhận được báo cáo
của NTT thì họ mừng lắm và nhờ ông theo dõi cũng như báo cho họ các
diễn tiến (Hsltr/MTK).
Năm 1925, Từ tháng
1-1925 đến tháng 9 năm 1925, Trung tâm Huấn luyện Chính trị của Bành
Bái mở 3 khóa huấn luyện tuyên truyền, gồm khóa 3, khóa 4 và khóa 5.
Khóa nào cũng có một số học viên Việt Nam tham dự.
Trong số này có Nguyễn Sơn, Nguyễn Hữu Cần (Phi Vân), Mai
Ngọc Thiệu, Nguyễn Phong Sắc, Trịnh Đình Cửu, Lê Văn Lương, Nguyễn
Văn Tuấn, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Nọn, Hoàng
Văn Thụ, Nguyễn Văn Cừ, Mạch Văn Liệu (Phùng Chí Kiên) v.v…
Sau khi Lénin lên
nắm chính quyền nước Nga vào năm 1918 thì năm 1919 ông giải tán QTCS
2 và thành lập QTCS 3.
Đến năm 1921, nhân danh Chủ tịch nước Nga, Lénin tuyên bố hủy bỏ các
hiệp ước bất công mà trước đây nước Trung Hoa bị ép buộc phải ký với
nước Nga. Cử chỉ đẹp này
đã khiến cho lãnh tụ cách mạng Trung Hoa Tôn Dật Tiên rất hài lòng,
ông cử người em cột chèo của mình là Tưởng Giới Thạch sang Nga để
vận động QTCS 3 ủng hộ nhân dân Trung Hoa làm cách mạng.
Cũng cùng lúc này,
tại Trung Hoa có rất nhiều lãnh tụ chính trị hưởng ứng tư tưởng
Léninist, ngã theo khuynh hướng Cọng sản.
Trong số đó có những nhân vật có nhiều uy thế như Trần Độc
Tú, Trương Thái Lôi, Lý Đại Chiêu…
Tháng 7 năm 1921 Tú
và Chiêu thành lập Đảng Cọng sản Trung Hoa, số đảng viên ban đầu là
57 người. Năm 1923 Tôn
Dật Tiên nhận viện trợ và cố vấn quân sự của Nga để tổ chức lại quân
đội Trung Hoa. Đích thân
Tôn Dật Tiên giới thiệu 13 cán bộ của Đảng Cọng sản Trung Hoa gia
nhập Quốc dân Đảng Trung Hoa, coi như là hợp lực cùng nhau làm cách
mạng. Trong số 13 cán bộ này có Bành Bái và Mao Trạch Đông.
Bành Bái xuất thân
là con nhà đại điền chủ nhưng lại theo chủ nghĩa Cọng sản của Marx,
tranh đấu cho quyền lợi cho nông dân nghèo nên được nông dân miền
Hoa Nam ngưỡng mộ. Sau
khi được Tôn Dật Tiên đề cử gia nhập vào Quốc Dân Đảng, ông được
giao chức vụ Bí thư Ban Nông Hội của Đảng.
Từ vị trí này Bành Bái lập ra Trung tâm Huấn luyện Chính trị
cho nông dân, đào tạo cán bộ cốt cán cho Hiệp Hội Nông Dân, một
nhánh ngoại vi của QDĐTH.
Nhưng rồi các cán bộ
được đào luyện đã trở thành cán bộ Cọng sản bởi vì các bài huấn
luyện đều tuyên truyền cho chủ nghĩa Marx-Lénin, trong đó nhấn mạnh
về phương pháp “Vận động thổ ti cải cách”, mà sau này CSVN gọi là
“Cách Mạng Cải Cách Ruộng Đất”.
Sau khi Phong trào “Nông dân nổi dậy” của Bành Bái bị Tưởng
Giới Thạch dẹp tan thì Mao Trạch Đông thay Bành Bái tiếp tục lãnh
đạo Phong trào Nông Dân.
BÙI ANH TRINH
(9) MỞ LỚP DẠY VỀ CỌNG SẢN
Việt Nam
Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội
Năm 1925, ngày 4-3,
theo như đã bàn bạc trước với Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần chuẩn
bị thành lập một tổ chức chính trị tranh đấu cho Việt Nam tại Quảng
Đông. Ngân quỹ ban đầu
của tổ chức là đóng góp hàng tháng của các vị lãnh đạo:
Nguyễn Hải Thần 300 đồng, Lý Thụy 200 đồng, Đinh Tế Dân 100
đồng và Lâm Đức Thụ 50 đồng ( Hslt/Quốc gia Pháp.
Đồng quan Trung Hoa.
Báo cáo của mật báo viên tên Pinot ).
Cũng theo báo cáo
của điệp viên Pinot thì lương hằng tháng của Lý Thụy là 400 đồng.
Mặc dầu mới đến Trung Hoa có 4 tháng nhưng ông đã tỏ ra rất
sốt sắng trong công việc chung, tức là việc tham gia tổ chức một
đảng chính trị lớn của người Việt tại Hoa Nam.
Tổ chức này sắp sửa được thành lập do sự vận động của các ông
Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hải Thần, Đinh Tế Dân, Hồ
Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ v.v… Tổ chức này rất quy mô và được sự hỗ trợ
của Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
Chuyện Lý Thụy dám bỏ ra nửa phần lương
của mình để đóng góp chứng tỏ rằng ông là người rất biết đầu tư, ông
lao vào tham gia chứ không phải là góp phần tham gia.
Kết quả là với số tiền đóng góp
như vậy ông đã thực sự có uy thế trong nhóm tổ chức thành lập đảng
và cũng chính nhờ vậy mà sau này mặc dầu mới xuất hiện tại Trung Hoa
ông đã được nhiều người tin cậy bầu làm thư ký của tổ chức lấy tên
là Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội.
Ông được bầu làm thư ký là vì đóng
góp tài chánh của ông chỉ thua có Nguyễn Hải Thần.
Năm 1925, tháng 6,
Tỉnh Quảng Đông xảy ra một cuộc chính biến.
Phó giám đốc trường Hoàng Phố là Liêu Trọng Khải lên làm Chủ
tịch Thành phố Quảng Châu. Ông Khải là một cán bộ của Trung Hoa Quốc
Dân Đảng, chủ trương tán trợ phong trào nổi dậy đòi độc lập của các
dân tộc bị áp bức, ông vận động với các chi hội “Các Dân Tộc Bị Áp
Bức” của Ấn Độ, Việt Nam và Đại Hàn dự trù thành lập một “Liên đoàn
các dân tộc bị áp bức”.
Giấy mời về phía Việt Nam được gởi cho Phan Bội Châu nhưng đến tay
Lâm Đức Thụ tại Quảng Châu .
Năm 1925, ngày 30-6,
Phan Bội Châu từ Hàng Châu đến Thượng Hải để về Quảng Châu thì bị
mật thám Pháp băt cóc chở về tô giới Pháp tại Thượng Hải rồi bí mật
đưa lên tàu chở về VN.
Cũng trong ngày này thì Nguyễn Tất Thành và Lâm Đức Thụ thay thế cụ
Phan ngồi họp với Liêu Trọng Khải và phái đoàn Ấn Độ, Đại Hàn.
Hội nghị thành lập Liên Đoàn Các dân tộc bị áp bức bầu Liêu
Trọng Khải làm chủ tịch.
Lâm Đức Thụ và một lãnh tụ Đại Hàn làm phó chủ tịch.
NTT làm Tổng thư ký của Chi hội Việt Nam.
*Chú giải :
Về ngày tháng cụ Phan bị bắt
Hồi ký của Phan Bội
Châu ghi rằng ông bị bắt là giữa trưa ngày 11-5 Âm lịch.
Cho nên các sử gia
Việt Nam so với “Bảng đối chiếu Âm Dương từ 1802 đến 2010” của Việt
Nam ( Do Geor Cordier và Lê Đức Hoạt soạn ), mà tính ra đó là ngày
30-6-1925.
Trong khi đó sử gia
Quinn Judge đã tìm thấy một báo cáo của điệp viên Pinot báo cho Mật
thám Pháp biết cụ Phan sẽ về Quảng Châu vào cuối tháng 7; do đó
Quinn Judge cho rằng cụ Phan đã nhớ lầm.
Tuy nhiên cụ Phan
không lầm. Bởi vì nếu so
lại với sách “Nhị Bách Niên Biểu 1820-2020” ( của Trung Quốc ) thì
ngày 11 tháng 5 Âm lịch Trung Hoa lại thuộc vào 25-7 Dương lịch.
Sở dĩ có chuyện khác
nhau vì trong thế kỷ 20 có hai lần lịch của Việt Nam và lịch của
Trung Hoa chênh nhau 1 tháng, đó là năm Ất Sửu 1925 và năm Ất Sửu
1985. Trong hai năm này lịch Trung Hoa nhuần hai tháng 4, trong khi
đó lịch Việt Nam qua năm sau mới nhuần.
Thời đó đám giỗ của
Phạm Hồng Thái được cử hành tại Trung Hoa, người ta dùng lịch Trung
Hoa nên rơi vào cuối tháng 7 Dương lịch.
Do đó báo cáo của Pinot hoàn toàn khớp với hồi ký của cụ Phan
( Ngày 11- 5 Âm lịch Trung Hoa ).
Rốt cuộc ngày cụ
Phan bị bắt tại Thượng Hải là ngày 25 -7-1925 chứ không phải là ngày
30 tháng 6 như các sử gia Việt Nam vẫn lầm tưởng.
Năm 1925, tháng 8,
vì chưa biết tin Phan Bội Châu bị bắt cho nên Nguyễn Hải Thần, Lâm
Đức Thụ, Nguyễn Tất Thành, Đinh Tế Dân vẫn tiếp tục kỷ niệm giỗ đầu
của Phạm Hồng Thái và nhân ngày đó triệu tập đại hội thành lập đảng
mới theo như đã dự trù trước với Phan Bội Châu.
Mở đầu phần thảo luận NTT đứng lên đề nghị lập một đảng cách
mạng có chủ nghĩa và đường lối rõ rệt, kết luận Thành đề nghị lập
đảng Cọng sản, theo Đệ Tam quốc tế.
Đề nghị này bị Nguyễn Hải Thần cực lực phản đối .
Sau khi bàn thảo, hội nghị đi đến quyết định:
“Việt Nam là một nước sống về nông
nghiệp, các giai cấp chưa có sự phân biệt rõ rệt, không thể so sánh
với các quốc gia tân tiến có kỹ nghệ phát triển và có công nhân tập
trung” .
Có nghĩa là tranh đấu vô sản cho
ai và lấy ai làm nòng cốt vô sản để hết lòng tranh đấu ?
Lấy một cái không có để tranh đấu
cho một cái chưa có ?
Cuối cùng tất cả quyết định thành
lập một đảng cách mạng lấy tên là “Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng
Đồng Chí Hội”.
Ban chỉ đạo trung ương gồm có :
Hội chủ Phan Bội Châu,
( Bầu khiếm diện, vì vào giờ chót
mọi người vẫn nghĩ có lẽ vì một trục trặc nào đó trên đường đi nên
cụ Phan không đến kịp); – Cố vấn Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hải Thần
– Tổng thư ký Nguyễn Tất Thành –
Ủy viên ngoại giao Lâm Đức Thụ – Ủy viên huấn luyện Hồ Tùng Mậu –
Ủy viên tuyên truyền Lê Quốc Đạt –
Ủy viên tài chánh Trương Văn Lệnh – Ủy viên nghiên cứu Lê Hồng Phong
– Ủy viên kiểm soát Lê Tán Anh.
Riêng Đinh Tế Dân chủ trương thành
lập Việt Nam Quốc dân Đảng không được bèn rút lui, trở về tiếp tục
làm việc tại trường Hoàng Phố.
Ăn chặn tiền
của Quốc tế Cọng sản
Năm 1925, tháng 8,
Hiệp hội Nông dân Quốc tế tại Mạc Tư Khoa gởi cho Nguyễn Tất Thành
5.000 Rúp (khoảng 2.500 dollar).
Yêu cầu ông : (1)
– Thực hiện các biểu ngữ tuyên truyền cho phong trào nông dân.
(2) – Gởi người tới các tỉnh khác để khởi động phong trào.
(3) – Gởi cán bộ nông dân tham dự các khóa huấn luyện tại Mạc Tư
Khoa. (4) – Đúc kết các
hồ sơ, tài liệu về cuộc nổi dậy và gởi về Mạc Tư Khoa (Hslt/MTK).
Năm 1925, tháng 9,
NTT đi thăm Phong trào Nông Dân Nổi Dậy của Bành Bái, ông ghé Trung
tâm huấn luyện cán bộ tuyên truyền
và có chụp một tấm hình với cán bộ huấn luyện và học viên
trước cổng trường để làm bằng chứng gởi về cho Mạc Tư Khoa. Không
ngờ tấm hình này lại rơi vào tay cơ quan mật thám của Pháp tại Quảng
Đông, do đó mật thám Pháp bắt đầu ghi nhận sự xuất hiện của nhân vật
Nguyễn Ái Quốc tại Trung Hoa.
Năm 1925, cuối tháng
9, Nguyễn Hải Thần về Bắc Kỳ thành lập một chi nhánh VNTNCMĐCH như
tổng bộ ở Quảng Châu, Hồ Tùng Mậu được phân công phát triển cơ sở
tại vùng Quảng Tây để bắt đầu cầu đưa đón các học viên từ trong nước
ra. Vương Thúc Oánh, con rễ của Phan Bội Châu trách nhiệm đường dây
đưa rước.
Năm 1925, ngày
14-10, Lý Thụy gởi thư cho Hiệp Hội Nông Dân hứa sẽ thực hiện các
yêu cầu của Mạc Tư Khoa nhưng từ chối việc gởi cán bộ về Mạc Tư Khoa
vì địa phương đang cần họ cho phong trào, vả lại không có ai biết
tiếng ngoại quốc. Ông
cũng yêu cầu họ đừng gởi tài liệu bằng tiếng Đức vì không ai dịch
được (Hslt/MTK).
NTT biết rõ là những
người ở Mạc Tư Khoa đang cần theo dõi để yểm trợ cho phong trào nông
dân Trung Hoa nổi dậy. Vì không có ai khác nên họ phải gởi tiền để
nhờ ông. Cho nên ông lợi
dụng cơ hội khai thác số tiền đó để chi cho việc tổ chức các lớp học
tuyên truyền của ông.
Nếu bây giờ ông gởi
cán bộ là nông dân Trung Hoa sang Mạc Tư Khoa thì người ta đâu còn
cần ông nữa. Và hẳn
nhiên là người ta sẽ phát hiện ra là ông chẳng chi đồng nào hay chi
rất ít cho phong trào nổi dậy của nông dân Trung Hoa.
Quả là Hiệp hội Nông dân Quốc tế đã lầm khi nhờ NTT làm việc
đó.
Năm 1926, ngày 8-3,
NTT gởi thư cho Hiệp Hội Nông Dân Quốc Tế cho biết ông đã gửi rất
nhiều thư cho Hiệp Hội nhưng không được trả lời, và tại sao họ không
gởi các tài liệu tuyên truyền?
Hiệp Hội trả lời là họ đã nhận được thư của ông nhưng họ đã
có người của phong trào nông dân trong Ủy ban thường trực, đó là
đồng chí Hồ Hán Dân. (Hslt/MTK).
Với thái độ tìm
người khác và không trả lời thư chứng tỏ Hiệp Hội đã phát hiện ra
hành động không tốt của NTT.
Vì vậy họ quyết định không chơi với ông nữa.
Ông mất đi một nguồn lợi có thể xoay sở tài chính cho công
việc đại sự của ông.
Năm 1926, tháng 6,
NTT báo cáo cho CSQT là đã hoàn tất khóa huấn luyện đầu tiên dành
cho thanh niên từ trong nước gồm có 10 người, ( Nguyễn Công Thụ, Lê
Hữu Lập, Lê Duy Đúng, Nguyễn Ngọc Ba… Nguyễn Công Thụ là em ruột của
Lâm Đức Thụ, tên thật của Lâm Đức Thụ là Nguyễn Công Viễn ) và ông
đang chờ toán thứ hai khoảng 30 thanh niên sẽ đến vào tháng 7 hoặc
tháng 8 (Hslt/MTK).
Tuy nhiên trên thực
tế NTT khó có thể thực hiện khóa thứ 2 vì ông lâm vào tình trạng
thiếu hụt tài chánh. Lê
Tán Anh phục vụ trong quân đội Trung Hoa tại đảo Hải Nam.
Hồ Tùng Mậu về Thái Lan.
Lê Hồng Phong, Hàn Rue và Đặng Tư Mỹ được trường Hoàng Phố
chọn đi học tiếp tại các học viện quân sự của Nga.
Sự cọng tác giữa NTT và Nguyễn Hải Thần gần đi đến đổ vỡ.
Lại thêm chuyện Lâm Đức Thụ bị tai tiếng vì thâm lạm tiền bạc
của Liên Đoàn Các Dân Tộc Bị Áp Bức.
Năm 1926, tháng 6 ,
NTT gặp một đảng viên Tân Việt là Lê Duy Điếm, người Nghệ An, được
lãnh đạo Tân Việt ( Lúc này còn mang tên “Phục Quốc Đảng”) cử sang
Thái Lan và sang Tàu để tìm cách liên lạc lại với những đồng chí cũ
trong Quang Phục hội.
Tháng 6 năm 1926
Điếm gặp Lý Thụy và Lâm Đức Thụ tại Quảng Châu.
Các ông thuyết phục Điếm theo Cọng sản dưới cái vỏ VNTNCMĐCH
và bảo Điếm trở về Việt Nam thuyết phục lãnh đạo đảng Tân Việt theo
đảng của NTT. Đồng thời
đưa tiền nhờ Điếm tuyển một số thanh niên yêu nước đem về Quảng Châu
cho Thành huấn luyện .
(10) NGUYỄN TẤT THÀNH CƯỚI VỢ
Năm 1926, cuối tháng
6, Tổng thư ký đảng Tân Việt là Trần Mộng Bạch họp đại hội bàn về đề
nghị của Lý Thụy. Sau đó
cử một phái đoàn gồm Trần Phú, Hoàng Đức Thi, Tôn Quang Phiệt, Đào
Xuân Mai theo Điếm sang Tàu để bàn chuyện hợp nhất 2 đảng vì đều
cùng một gốc Quang Phục hội của Phan Bội Châu mà ra.
Tháng 7 các ông khởi
hành, dọc đường Điếm rước thêm Vương Thúc Oánh, Nguyễn Văn Lợi, Phan
Trọng Bình, Phan Trọng Quảng, Nguyễn Ngọc Ba.
Đến biên giới thì Tôn Quang Phiệt và Đào Xuân Mai bị bắt,
những người còn lại thoát được sang Tàu.
Sau khi gặp Lý Thụy và Lâm Đức Thụ, Trần Phú quyết định theo
cọng sản và hứa quay trở về thuyết phục lãnh đạo Tân Việt cùng theo.
Trong thời gian lưu
lại, Trần Phú và Hoàng Đức Thi tiếp xúc với các lãnh tụ cách mạng
khác và biết được chuyện Lý Thụy và Lâm Đức Thụ bán cụ Phan Bội
Châu. Tuy nhiên Trần Phú
vẫn không thay đổi ý định, ông cùng Hoàng Đức Thi trở về vào tháng
8.
Năm 1926, tháng 8,
Trần Phú thuyết phục Lê Huân và Trần Mộng Bạch không được bèn cho
biết rằng mình đã quyết định theo Cọng sản và trở lại Trung Hoa,
mang theo hai người học trò của Trần Mộng Bạch là Trần Văn Cung và
Nguyễn Từ để theo học khóa huấn luyện thứ hai của Lý Thụy.
Chuyến đi này có
thêm Lê Mạnh Trinh, Trần Văn Đắc, Nguyễn Văn Khang, Phạm Văn Đồng,
Đỗ Ngọc Du, Ngô Gia Tự, Nguyễn Tuân, Lê Duy Điếm.
Tất cả khóa thứ hai khoảng 20 người, Phạm Văn Đồng bị bệnh
nên tham dự khóa sau
(Hồi ký của Phan Trọng Quảng).
Năm 1926, tháng 10,
Nguyễn Tất Thành cưới vợ là Tăng Tuyết Minh, một y tá làm việc chung
với Lương Huệ Quần là vợ của Lâm Đức Thụ.
Lúc đó Tăng Tuyết Minh 21 tuổi. Đám cưới tổ chức tại nhà hàng
Thái Bình trước trung tâm Tài chánh thành phố Quảng Châu.
Khách tham dự có bà
Đặng Dĩnh Siêu là vợ của ông Chu Ân Lai, cùng với bà Thái Sướng,
Bào La Đình là các cán bộ CSTH làm việc tại trường Hoàng Phố.
Ngoài ra còn có rất nhiều học viên và cán bộ của trường tham
dự ( Hoàng Tranh/Viện
nghiên cứu lịch sử tỉnh Quảng Tây).
* Chú giải:
Ngày nay tại văn khố quốc gia Pháp còn lưu một báo cáo của
nhân viên mật thám Pháp tên Pinot cho biết Lê Tán Anh và Nguyễn Hải
Thần phản đối cuộc hôn nhân này thì Lý Thụy nói rằng ông cần người
chăm sóc nhà cửa và cần học tiếng Tàu.
Điều này chứng tỏ NTT không thể làm thông dịch viên tiếng Tàu
cho Borodin từ năm 1924 được.
Lâm Đức Thụ tên thật
là Nguyễn Công Viễn, còn nổi tiếng với tên khác là Hoàng Chấn Đông.
Trước khi Lý Thụy đến Trung Hoa thì Lâm Đức Thụ là cánh tay
phải của ông Phan Bội Châu.
Nhưng sau khi gặp Lý Thụy và được Lý Thụy giác ngộ thì ông
theo Cọng sản.
Sau khi Nguyễn Hải
Thần chán nản về Quảng Tây thì Lý Thụy và Lâm Đức Thụ cùng điều
khiển VNTNCMĐCH như là một cặp bài trùng.
Thụ cũng là người mai mối cho Lý Thụy cưới cô Tăng Tuyết Minh
là một người bạn đồng nghiệp của vợ ông.
Sau khi cưới nhau được nửa năm thì NTT phải theo phái đoàn
của Borodin rút về Nga và mất liên lạc với vợ từ đó.
Riêng bà Minh sau
khi chia tay với Thụy thì sống với mẹ, sinh một người con gái đặt
tên là Tăng Ái Thụy.
Hiện nay có một bức thư của NTT gởi cho Tăng Tuyết Minh bị mật vụ
của Pháp chận lấy, ghi ngày chuyển về cục lưu trữ hồ sơ những người
can án là ngày 14-8-1928.
Bức thư này hiện được tàng trữ tại C.A.O.M (Cục lưc trữ hồ sơ
Quốc gia Pháp).
Năm 1990 sử gia
người Pháp tên Daniel Hémery cho đăng bản copy bức thư trong tác
phẩm Ho Chi Minh De L’Indochine au Vietnam.
Ngoài ra cục lưu trữ hồ sơ Quốc gia Pháp cũng còn lưu trữ báo
cáo của một mật báo viên cho biết sau khi Tưởng Giới Thạch đuổi phái
bộ Borodin về Nga thì NTT mất tăm, người đàn bà chung sống với ông
từ tháng 10 năm 1926 cũng không biết ông ta đi về đâu .
Ngoài phát hiện của
Daniel Hémery, năm 1990 Viện trưởng viện Sử học Quảng Tây Hoàng
Tranh xuất bản tác phẩm “Hồ Chí Minh và Trung Quốc” có nói rõ về
nhân vật Tăng Tuyết Minh.
Có đăng hình của Lý Thụy và Tăng Tuyết Minh thời đó, hình do
chính bà Tăng Tuyết Minh gởi cho ông để làm tài liệu in sách.
Hoàng Tranh là một
nhà sử học lại là một nhà hoạt động cách mạng kỳ cựu, ông có rất
nhiều dịp phỏng vấn bà Đặng Dĩnh Siêu (Vợ của ông Chu Ân Lai), cũng
như bà Thái Sướng (vợ của lãnh tụ Cọng sản Lý Phú Xuân), hai bà đều
xác nhận có tham dự hôn lễ của NTT và Tăng Tuyết Minh.
Riêng bà Thái Sướng
năm 1950 có làm một tờ chứng Tăng Tuyết Minh là vợ của Hồ Chí Minh.
Tờ chứng này làm theo yêu cầu của Đảng ủy tại Hàng Châu, bà tưởng
đâu tờ chứng này sẽ giúp hai người được trùng phùng nhưng không ngờ
sau khi biết chắc, đảng của Mao Trạch Đông đã đến gặp Tăng Tuyết
Minh và ra lệnh cho bà đừng tìm cách liên lạc với Hồ Chí Minh.
Tại sao cấm thì ông
Hoàng Tranh không nói rõ, ông chỉ viết “Điều này vào thời ấy không
có gì lạ”.
Năm 1927, sau tết ,
toán huấn luyện thứ 3 đến Trung Hoa, khoảng 20 người, có những tên
như Hoàng Văn Hoan, Lê Văn Phát, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Danh Đới,
Nguyễn Hội, Dương Hạc Đính, Phạm Văn Đồng… (Hồi ký Hoàng Văn
Hoan). Mạc Tư Khoa yêu
cầu Lý Thụy cử một người mới vừa rời Việt Nam mà có trình độ cũng
như có khả năng. Lý Thụy
đề cử Trần Phú. Phú đến
Mạc Tư Khoa vào tháng 2 .
Năm 1927, ngày 3-3,
NTT gởi cho CSQT một biên bản chiết tính nhu cầu cần thiết cho hoạt
động của cách mạng vô sản Đông Dương gồm 40 ngàn quan tiền Trung
Hoa. Trong số này có
20.000 quan để làm chi phí đi đường cũng như ăn ở cho 100 thanh niên
Đông Dương tham dự các khóa huấn luyện tuyên truyền, 1.500 quan để
hỗ trợ lương một năm cho 10 cán bộ cọng sản hoạt động nằm vùng tại
Đông Dương. 8.500 quan để gầy dựng và tổ chức cơ sở, 5.000 quan chi
phí đi đường cho 100 thanh niên theo học trường võ bị Hoàng Phố và
5.000 quan cho trường hợp đau yếu hay khẩn cấp.
Biên bản ký tên “Lee
(Nguyễn Ái Kvak)” và chữ ký của ông Jacques Doriot là một đảng viên
CSQT người Pháp thuộc Phân bộ Thuộc địa của CSQT đang công tác tại
Quảng Châu (Hồ sơ lưu trữ/ Mạc Tư Khoa).
Năm 1927, tháng 3,
Tưởng Giới Thạch mang quân từ Hoa Nam (Quảng Châu) tiến về Bắc Kinh
để thống nhất đất nước.
Ngày 21 và 22 tháng 3, tại Thượng Hải quân của Bắc Kinh bỏ chạy,
Liên Đoàn Công nhân Thượng Hải do các cán bộ Cọng Sản Trung Hoa lãnh
đạo đã lợi dụng tình thế hỗn loạn nổi lên cướp chính quyền Thượng
Hải trước khi quân Tưởng Giới Thạch đến nơi.
Ngày 26-3 Tưởng Giới
Thạch dẫn quân vào đến Thượng Hải, Liên Đoàn Công nhân và nhân dân
đón tiếp Tưởng Giới Thạch như là một vị khách anh hùng, còn
họ là chính quyền mới của ĐCSTQ.
Nguyễn Tất
Thành chạy về Nga lần 1
Năm 1927, mờ sáng
ngày 12-4, theo lệnh của Tưởng Giới Thạch, tướng Bạch Sùng Hy tổng
tấn công trấn áp chính quyền Thượng Hải do Cọng sản lãnh đạo và mở
chiến dịch thanh toán các tổ chức Cọng sản trên toàn quốc.
Tại Quảng Châu chiến dịch do Đại Tá Lý Tế Thâm chỉ huy.
Phái bộ Borodin chạy
lên Vũ Hán rồi Hán Khẩu
và rút về Nga theo ngã Vladivostok.
Trương Thái Lôi, Mao Trạch Đông, Chu Đức chạy về thôn quê
vùng Giang Tây lập chiến khu.
NTT ở ngoài phố nghe tin
phái bộ Borodin tại trường Hoàng Phố đã rút trong đêm nên
chạy trốn về Lục Hải Phong, rồi sau đó lại chạy lên Thượng Hải và
gặp lại đoàn của Borodin tại Hán Khẩu.
*Chú giải:
Mùa xuân năm 1927
Tưởng Giới Thạch tiến quân từ vùng Hoa Nam lên phía bắc để tiến
chiếm Bắc Kinh thì quân của ông phải qua Thượng Hải rồi Nam Kinh rồi
mới đến Bắc Kinh. Lúc
quân đội của Tưởng Giới Thạch đến gần Thượng Hải thì quân của Bắc
Kinh đã bỏ chạy cho nên chính quyền lọt vào tay các cán bộ Cọng sản
Trung Quốc. Họ đã thừa
cơ mà hớt tay trên của Tưởng Giới Thạch.
Toan tính này chắc
chắn phải có sự chỉ đạo của Phái bộ Borodin đang nằm vùng trong căn
cứ của Tưởng Giới Thạch là trường võ bị Hoàng Phố.
Nếu cứ cái đà này thì trước khi quân của Quốc dân Đảng tiến
đến đâu thì Cọng sản đã chiếm chính quyền tại nơi đó và nếu Tưởng
Giới Thạch không hành động thì hóa ra công lao xương máu của Quốc
dân Đảng Trung Hoa hằng chục năm trời sẽ bị Cọng sản chiếm đoạt hết.
Vì vậy ông phải
quyết định tức khắc chứ nếu còn chần chừ nể nang Mạc Tư Khoa thì ông
sẽ mất tất cả bởi vì nếu ông bận đánh nhau với quân Bắc Kinh lên tới
tận biên giới phía bắc nước Trung Hoa thì tại miền Nam quân của
Trương Thái Lôi, Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài, Chu Đức…sẽ cướp
chính quyền dưới sự chỉ đạo và yểm trợ của Mạc Tư Khoa và thế là
quân Tưởng sẽ không còn đường trở về.
Lịch sử phía Cọng
sản kết án Tưởng Giới Thạch đã bất thần phản bội Mạc Tư Khoa nhưng
thực ra ông đã sáng suốt lật ngược tình thế cứu nguy cho Quốc Dân
Đảng để tiếp tục thực hiện lý tưởng của Tôn Dật Tiên cũng như để bảo
vệ công lao tâm huyết của các ông.
Năm 1927, tháng 6,
quân Tưởng Giới Thạch
tiến vào Bắc Kinh, thống nhất đất nước Trung Hoa và tiếp tục truy
lùng những ai theo Cọng sản.
Đến cuối năm 1927 thì số cán bộ Cọng sản bị tàn sát trên toàn
Trung Hoa là 40 ngàn người!
Năm 1927, tháng 6,
Nguyễn Tất Thành về tới Mạc Tư Khoa.
Người chỉ huy của ông là Voitinsky thuyết phục ông trở lại
Thượng Hải để hoạt động bí mật cùng với một số đồng chí người Việt
cũng như người Pháp tại đó nhưng ông không chịu ( Hslt/MTK).
Nếu trở về Thượng
Hải thì ông sẽ là một nhân viên thông tấn xã quèn, trong khi ông
đang nắm trong tay một thành tích mà ông cho rằng có thể làm nên
nghiệp lớn. Ngoài ra môi trường hoạt động bí mật với nhiều nguy hiểm
không thích hợp với con người của ông.
Ông luôn luôn tránh xa các nơi nguy hiểm.
Năm 1927, tháng 6,
tại MạcTư Khoa, Nguyễn Tất Thành viết báo cáo cho CSQT, tường trình
các thành quả mà ông đã đạt được trong thời gian ông làm việc tại
Quảng Châu. Ông đã tổ
chức được 3 khóa huấn luyện chính trị cho tổng cộng 75 học viên.
Thành lập một nông hội, một hội phụ nữ, một toán thiếu niên
mầm non, một toán điệp báo… Kế hoạch của ông đang có cơ hội phát
triển thuận lợi thì bị Tưởng Giới Thạch ngắt ngang.
Mọi chuyện sẽ trở
lại tốt đẹp nếu CSQT cho phép ông trở về Thái Lan và tiếp tục công
việc bị bỏ lở tại địa bàn Thái Lan.
Các tổ chức yêu nước tại Đông Dương sẽ gởi thanh niên sang
Thái cho ông huấn luyện chính trị.
Sau đó họ sẽ về Việt Nam gầy dựng cơ sở, hoạt động tuyên
truyền cách mạng.
Để tính toán cho kế
hoạch này, ông đòi CSQT phải chi cho ông tổng cộng 9.500 USD gồm có
tiền lương trong 2 năm của ông, tiền đưa rước học viên và tiền tổ
chức liên lạc (Hslt/MTK, số tiền này bằng 20 năm lương của một giáo
viên tại Hoa Kỳ thời đó ).
BÙI ANH TRINH
(11) BÁN PHAN BỘI CHÂU
Lật lại vụ
án bán Phan Bội Châu
Ngay sau khi cụ Phan
bị bắt (1925) thì đã có dư luận bàn tán trong giới người Việt lưu
vong tại Thượng Hải và Quảng Châu, một số người trong “Thanh niên
cách mạng Đồng chí hội” có tham dự một buổi họp quyết định bán cụ
Phan để lấy tiền gây quỷ đã bất bình và quyết định ra khỏi tổ chức.
Đến năm 1928 có ký
giả Nhượng Tống, là người cùng với Nguyễn Thái Học lập ra Việt Nam
Quốc dân Đảng, đã cho phát hành tài liệu “Ai bán đứng cụ Phan Bội
Châu”. Nhượng Tống nêu
đích danh nhóm Lý Thụy ( NTT ) và Lâm Đức Thụ bán cụ Phan, ông nói
rằng dựa theo nguồn tin của những người xung quanh cụ Phan tại Trung
Hoa.
Đến năm 1945 các
chính trị gia Việt Nam lại có thêm một bằng chứng khác, đó là tập
sách gồm 5 tập, nhan đề là “Góp Vào Lịch Sử Chính Trị
Vận Động Ở Đông Pháp” do Louis Marty, giám đốc sở Mật
thám chính trị Đông Dương sưu tầm và xuất bản hạn chế.
Trong tập sách có 60
trang giấy ghi lại các lời khai của Hoàng Đức Thi khi Thi bị Pháp
bắt, có đoạn nói về hội nghị bán Phan Bội Châu.
Rất tiếc vì là lời cung với tòa án nên Thi không giải thích
chi tiết khó hiểu nhất là trong hội nghị đó cũng có những người
không theo Cọng sản lại cũng không phản đối.
Đến năm 1955, để trả
lời các cáo buộc của phía Sài Gòn, ông Phạm Văn Đồng chỉ thị cho ông
Chương Thâu dịch quyển hồi ký của cụ Phan Bội Châu, trong đó cụ Phan
có viết:
“Ai dè cái lúc tôi
ra đi, thì cái thời giờ hành động của tôi có kẻ nhất nhất báo cho
người Pháp, mà cái người mật báo đó lại chính là người ở chung với
tôi, từng nhờ tôi nuôi nấng.
Người ấy nghe nói tên là Nguyễn Thượng Huyền gọi cụ Hiền bằng
ông chú”
Sau khi sách của
Chương Thâu xuất bản thì dư luận bàn tán xôn xao, phe tố cáo ông Hồ
Chí Minh đành phải im tiếng.
Chuyện này tới tai ông Nguyễn Thượng Huyền đang sinh sống ở
Hồng Kông. Ông này một
mực cho rằng mình bị oan.
Năm 1956, nhân dịp ký giả Lê Tâm Việt ghé thăm Hồng Kông,
Huyền nhờ Lê Tâm Việt thanh minh giùm ông và tố cáo đích danh Lý
Thụy ( NTT ) trên báo Tự Do số 548 ngày 19-11-1956.
Tới năm 1965 Nguyễn
Thượng Huyền về Sài Gòn họp báo để cải chính và viết bài đăng trên
tạp chí Bách Khoa số 73.
Tuy nhiên ông Huyền chỉ thề bán sống bán chết để kêu oan chứ không
đưa ra được bằng chứng nào có thể buộc tội ông HCM hầu giải oan cho
mình.
Rồi tới năm 1968,
hồi ký của Cường Để xuất bản tại Sài Gòn kể lại năm đó Lâm Đức Thụ
gởi thơ và tiền cho cụ Phan tại Hàng Châu và hẹn cụ Phan về Quảng
Châu làm lễ kỷ niệm ngày Phạm Hồng Thái hy sinh.
Nhưng sau đó thì có tin cụ Phan đã bị bắt đưa về Việt Nam:
“Lâm Đức Thụ ở
Quảng Châu, lúc đầu cố phao vu cho người này người khác để che lấp
tội ác của mình nhưng về sau thấy ông Phan bị bắt về đến trong nước,
thành ra một cuộc tuyên truyền có hiệu lực cho cách mệnh, Lâm Đức
Thụ mới khoe rằng đó là công hắn, vì chính hắn bắt ông Phan”
( Hồi ký của Cường Để ).
Dân chúng Việt Nam
đọc hồi ký của Cường Để lại nghĩ rằng Nguyễn Tất Thành không có bán
Phan Bội Châu mà là một người nào đó tên Lâm Đức Thụ.
Mãi đến năm 1990,
trong tác phẩm “Ho Chi Minh, de Indochina au Viet Nam”,
sử gia Pháp Daniel Hémery cho phổ biến một số thư của mật báo viên
có mật danh là Pinot gởi cho chánh mật thám Tô giới Pháp tại Quảng
Châu Loan.
Căn cứ vào các chi
tiết trong báo cáo người ta xác nhận được Pinot chính là Lâm Đức
Thụ, một lãnh tụ Cọng sản cùng với NTT điều khiển tổ chức Việt Nam
Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, là người cùng Thành đóng góp tiền
lương hằng tháng để thành lập VNTNCMĐCH, là người được Thành giới
thiệu gia nhập ĐCS Trung Quốc, là một trong 5 người đầu tiên nằm
trong tổ chức Đông Dương Quốc Dân Đảng của NTT.
Ngoài ra trong thân
tình thì Lâm Đức Thụ đã làm mai Thành với Tăng Tuyết Minh là một nữ
y tá bạn thân của vợ Thụ.
Trong tinh thần phục vụ cho đất nước thì Thụ đã đưa em ruột
của mình là Nguyễn Công Thụ tham gia khóa đào tạo cán bộ tuyên
truyền đầu tiên do NTT tổ chức.
Đến lúc này thì dư
luận mới thấy tội nghiệp cho ông Nguyễn Thượng Huyền vì rõ ràng là
ông ta bị hàm oan mà không làm sao nói cho thiên hạ tin.
Gẫm lại câu nói của cụ Phan Bội Châu:
“Người ấy nghe nói tên là Nguyễn Thượng Huyền” thì rõ ràng là
có người nào đó rỉ tai cụ cái tên này chứ không phải là do cụ có
bằng cớ hay do cụ suy đoán ra.
Cho đến khi tài liệu
của sử gia Hémery được phát hành thì đã rõ là Lâm Đức Thụ phản bội
lại dân tộc. Nhưng Lâm
Đức Thụ là người thế nào ?
Người ta không rõ
Lâm Đức Thụ bắt đầu làm ăn với mật thám Pháp từ lúc nào nhưng báo
cáo đầu tiên của ông ta còn lưu trong hồ sơ lưu trữ là ngày 4-3-1925
báo cáo về việc ông ta cùng với Nguyễn Hải Thần, NTT, Đinh Tế Dân
cùng nhau đóng góp tiền lương để chuẩn bị thành lập một đảng chính
trị mới. Sau đó là báo
cáo về chuyến đi từ Hàng Châu về Quảng Châu của Phan Bội Châu.
Đến tháng 10-1926 là
báo cáo của Thụ về việc đám cưới của NTT, nói rõ vợ của Thành là một
người nữ hộ sinh, bạn đồng nghiệp của vợ ông ta.
Báo cáo cũng cho biết là Lê Tán Anh, Nguyễn Hải Thần phản đối
cuộc hôn nhân này.
Qua các báo cáo này
người ta có thể thấy mặc dầu Lâm Đức Thụ hoạt động giữa tập thể các
lãnh tụ Cọng sản Việt Nam nhưng cho tới ngày ông ta bị lộ diện năm
1931 thì không có một lãnh tụ Cọng sản Việt Nam nào trong địa bàn
hoạt động của ông bị bắt.
Đặc biệt là ngay cả Nguyễn Tất Thành, một nhân vật được mật
thám Pháp đặt tên là Nguyễn Ái Quốc, cũng không hề bị bắt cho dầu
ông Thành ăn ở trong nhà của Thụ
Ngoài tài liệu trong
Văn khố Pháp được công bố năm 1980, năm 1992 các tài liệu mật của
CSQT cũng được đưa ra công chúng, người ta tìm thấy một báo cáo của
Hà Huy Tập vào tháng 4 -1935, nói rằng Nguyễn Tất Thành biết Lâm Đức
Thụ là một tay chỉ điểm của Pháp nhưng vẫn giao du liên lạc.
Đối chiếu với tài
liệu của mật thám Pháp thì năm 1930 Lâm Đức Thụ đã bị Hồ Tùng Mậu,
Lê Quang Đạt phát hiện là mật thám, Thụ phải bán nhà tại Hồng Kông
và trốn vào một nơi bí mật;
thế mà năm 1931 ông Nguyễn Tất Thành từ trong nhà giam vẫn
liên lạc với Thụ, nhờ
Thụ coi sóc tổ chức của mình cũng như giúp đỡ vợ của mình ( Lý Ứng
Thuận ).
Ngày nay, khi mà mọi
hành động làm việc cho mật thám Pháp của Lâm Đức Thụ đã được đưa ra
ánh sáng thì rõ ràng Lâm Đức Thụ là một điệp viên hai mang.
Nhưng một dấu hỏi lớn được đặt ra là trong thâm tâm của ông
thì mang bên nào mới là mang thực sự của ông?
Ông giả vờ cọng tác với Nguyễn Tất Thành hay là ông chỉ giả
vờ cọng tác với Pháp?
Câu trả lời dễ dàng
là nếu ông thực sự cộng tác với Pháp thì năm 1931 ông đã nộp Nguyễn
Tất Thành cho Pháp vì ông Thành và ông cùng sinh sống tại khu vực
Tam Khẩu của Hồng Kông trong khi mật thám Pháp đang truy lùng ráo
riết Hồ Tùng Mậu và Nguyễn Tất Thành.
Hơn nữa, sau khi bị
lộ diện vào năm 1931 Lâm Đức Thụ đã dời về Cam Bốt sinh sống, vậy mà
năm 1945 ông ta lại ngang nhiên về Hà Nội tìm gặp Hồ Chí Minh?
Cái gì bảo đảm an toàn cho ông khi ông trở lại đối diện với
những lãnh tụ Việt Minh ?
Và cái gì bảo đảm an toàn cho ông khi ông quyết định trở về
Thái Bình hoạt động chính trị trở lại
trong khi Thái Bình đang thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh.
Đặc biệt tại sao ông
Thành không hô người bắt Lâm Đức Thụ mặc dù cũng vì Lâm Đức Thụ mà
ông suýt bị Quốc tế Cọng sản lên án tử hình sau khi nhận được báo
cáo của Hà Huy Tập ? Vấn
đề còn lại thuộc về phía ông Nguyễn Tất Thành, ông ta có thực sự
đồng mưu với Lâm Đức Thụ trong việc bán Phan Bội Châu hay không?
Câu trả lời đã được
người thân cận của ông nêu ra :
“Nhân nói về chính
sách dùng người của Bác, tôi muốn kể chuyện này.
Có lần trong một hội nghị về công tác tổ chức, Lý Ban nói :
Đối với con cán bộ, khi kết nạp vào Đảng, không cần phải có
thời gian dự bị mà được chính thức ngay.
Bác nói ngay :
Chú nói như thế không đúng, đối với cách mạng phải xem người
ấy cụ thể như thế nào. Vì có chuyện hổ phụ sinh khuyển tử, tức là hổ
đẻ ra con là chó. Phan
Bá Ngọc là con của Phan Đình Phùng đã đưa mật thám bắt Phan Bội
Châu” ( Hoàng Tùng, Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ ).
Khi Hoàng Tùng nhắc
lại câu này thì hầu hết các nhân vật từng nghe câu nói của HCM đều
còn sống. Và một số bài
tùy bút của các nhân vật thân cận HCM cũng có nhắc đến câu này;
chứng tỏ HCM đã nói nhiều lần
với nhiều người.
Nhưng trời sui đất
khiến, ông quên rằng mọi tài liệu, báo chí còn lưu lại đều ghi rõ là
Phan Bá Ngọc bị Lê Tán Anh giết vào ngày rằm tháng giêng năm 1922
trong khi Phan Bội Châu bị bắt là ngày 11 tháng 5 năm 1925 (Âm
lịch). Làm sao mà Phan
Bá Ngọc có thể đội mồ sống dậy để bán cụ Phan cho được.
Lúc cụ Phan bị bán thì Nguyễn Tất Thành đang ở tại Quảng Châu
tất ông phải biết rõ hơn ai hết và ông không thể nhớ lộn được bởi vì
đối với ông thì chuyện Phan Bội Châu bị bắt đâu phải là chuyện nhỏ!
Ngày 13-12 năm 2008,
nhà văn Dương Thu Hương họp báo ra mắt sách tại Paris.
Trong buổi họp báo bà phát biểu rằng bà không chấp nhận
chuyện bôi nhọ ông Hồ Chí Minh, các chứng cứ cáo buộc ông Hồ Chí
Minh bán ông Phan Bội Châu là không có cơ sở.
Bà nói rằng “nhà báo Olivier Tood phải trưng ra bằng cớ ông
Hồ bán cụ Phan, nếu không ông ta là kẻ xuyên tạc lịch sử”.
Sở dĩ bà Dương Thu
Hương mạnh miệng như vậy vì tại Pháp bà đã đọc được sách của Daniel
Hémery và trong đó Hemery đã chứng minh được rằng Lâm Đức Thụ mới là
kẻ bán cụ Phan, không có bằng chứng nào cho thấy NTT đồng lõa với
Thụ trong vụ này, ngược lại NTT là người cũng đang bị Lâm Đức Thụ
theo dõi.
Rủi cho bà Dương Thu
Hương, bởi vì Daniel Hémery viết sách đó vào năm 1990, thuở đó tài
liệu của CSQT tại Mạc Tư Khoa chưa được bạch hóa.
Nhưng đến năm 1994 sử gia Quinn Judge đã công bố các chứng cớ
cho thấy Lý Thụy và Lâm Đức Thụ cùng một ruột
Bằng chứng là năm
1931 sau khi mọi người phát hiện Thụ là mật thám thì ông Nguyễn Tất
Thành vẫn gởi thư liên lạc và gởi gắm người thân của mình cho Thụ.
Và rồi đến năm 1994 hồi ký của Hoàng Tùng xác nhận ông Hồ Chí Minh
đổ tội bán cụ Phan cho Phan Bá Ngọc là người đã chết trước đó 3 năm.
Nếu Olivier Tood đọc
được những chứng minh trong tập tài liệu này thì ông ta có thể cáo
buộc ngược trở lại rằng “bà Dương Thu Hương là kẻ xuyên tạc lịch
sử”. Rõ ràng là ông Nguyễn
Tất Thành đã tự thú mình có đồng lõa với Lâm Đức Thụ trong vụ bán
Phan Bội Châu.
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *